Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

suy nghĩ của vinh về hệ thống chính trị

I. những vấn đề chung.

1. Định nghĩa hệ thống chính trị.

            Chính trị là lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các mối quan hệ liên quan đến các công việc và giải quyết các vấn đề chung của toàn xã hội. Đây là biểu hiện bề ngoài của chính trị. Chính trị thực chât là mối quan hệ, sự tương tác giữa chủ thể xã hội với toàn bộ các tổ chức và thành viên trong xã hội với quyền lực chi phối chứa đựng bên trong đó. Quyền lực đó còn được gọi là quyền lực chính trị, nó được sinh ra trong quá trình đấu tranh giành, giữ và bảo vệ nhà nước.

Khái niệm theo nghĩa hẹp: hệ thống chính trị là khái niệm dùng để chỉ hệ thống các tổ chức, các cơ quan thực hiện chức năng chính trị và xã hội bao gồm các đảng chính trị, cơ quan nhà nứơc, các tổ chức chính trị xã hôị liên quan,…liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền lực chính trị hay còn gọi là quyền lực nhà nước.

Khái niệm theo nghĩa rộng: hệ thống chính trị chỉ toàn bộ các lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội với tư cách là một hệ thống, bao gồm các tổ chức, chủ thế chính trị, quan điểm chính trị, quan hệ chính trị, hệ tư tuởng và các chuẩn mực chính trị khác.

2. Cấu trúc của hệ thống chính trị

Hệ thống chính trị bao gồm toàn bộ các tổ chức chính trị, được lập ra để thực hiện quyền lực chung của xã hội quyền lực chính trị.

Trong xã hội có giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định.

Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.

Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, nhà nước nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Do đó, hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp. Trong các nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực chính trị, tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị.

ví dụ: Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 đoàn thể chính trị xã hội: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

4. Cấu trúc hệ thống chính trị nước ta. (45’)

a) Tổ chức bộ máy.

            Như trên đã nói thì tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị bao gồm có: các tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội và các cơ quan thuộc bộ máy quyền lực nhà nước.

            Trong đó Đảng Hệ thống tổ chức của Ðảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Ðảng là Ðại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Ðảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy). Cấp ủy mỗi cấp thành lập Ban thường vụ. Riêng Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị, thành lập Ban Bí thư. Mỗi cấp cũng thành lập Ủy ban kiểm tra.

Các tổ chức chính trị xã hội như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 đoàn thể chính trị xã hội: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

            Các tổ chức quyền lực nhà nước: bao gồm chính phủ, các cơ quan xét xử, kiểm tra kiểm soát.

b) Các quan hệ chính trị.

            - Trong hệ thống chính trị thì Đảng cộng sản Việt Nam luôn đảm nhiệm vai trò lãnh đạo, với vai trò là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. được trang bị lí luận tiên tiến của chủ nghĩa Mác – Lê nin chính những ưu thế này đã quy định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.

Sở dĩ Đảng cộng sản Việt Nam luôn giữ vai trò lãnh đạo trong hệ thống chính trị là bởi một số những nguyên nhân cơ bản như:

+ Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng tiên tiến được trang bị bởi thế giới quan và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có khả năng đề ra được những đường lối chủ trương đúng đắn nhất phù hợp với sự phát triển của đất nước trong thời kì mới.

+ Đảng cộng sản Việt Nam có khả năng tập hợp to lớn. bằng uy tín của mình Đảng có khả năng kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham gia vào các hoạt động chính trị, việc thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng,…

+ Đảng cộng sản Việt Nam phấn đấu suốt đời vì độc lập dân tộc và lợi ích của nhân dân hoà bình thế giới. Được sự ủng hộ của nhân dân trong nước và quốc tế.

Và Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện vai trò lãnh đạo qua hình thức và phương pháp sau:

+ Đảng hoạch định ra các chủ trương đường lối mang tính chiến lược định hướng cho các hoạt động của nhà nước và xã hội trong các lĩnh vực. Hiện nay Đảng ta đang dành sự quan tâm cho việc xác định các nguyên tắc, phương hướng lãnh đạo nhằm xây dựng thành công nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

+ Đảng phát hiện và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất năng lực để giới thiệu vào các cơ quan nhà nước và hệ thống chính trị - xã hội thong qua con đường dân chủ

+ Đảng tiến hành kiểm tra các hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội trong công tác thực hiện các đường lối của Đảng.

            - Bên cạnh đó còn có mối quan hệ phức tạp khác của các tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội ở nước ta hiện nay rất phong phú và ngày càng có nhiều tổ chức mới được thành lập. Đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội là: Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổng liên đoàn lao động Việt Nam, hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các đoàn thể nhân dân…

                                                                                                                                                            + Mặt trận tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận tổ quốc có tính chất yêu nước, có nhiệm vụ củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội. Mặt trận đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành bộ máy nhà nước, trên cơ sở nguyên tắc hiệp thương trong bầu cử.

            + Tổng liên đoàn lao động Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị. Là tổ chức chính trị- xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, cán bộ, viên chức và trường học thực tế, là trường quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước của giai cấp công nhân, nhân dân lao động Việt Nam. Tổng liên đoàn lao động có quan hệ chặt chẽ với Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

            + Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức đoàn kết rộng rãi của các tầng lớp phụ nữ nước ta. Hội có trách nhiệm giáo giục các thành viên của hội hiểu rõ trách nhiệm đối với đất nước. Hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, tạo sự bình đẳng giới.

            + Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức đoàn kết rộng rãi của thanh niên. Đoàn là lực lượng nhiệt tình, năng động luôn đi đầu trong công tác bảo vệ tổ quốc.

            + Hội nông dân Việt Nam là tổ chức đại diện cho nông dân nước ta. Hội có nhiệm vụ giáo dục, nâng cao ý thức và năng lực tự chủ của giai cấp nông dân, động viên nông dân tham gia tích cực vào hoạt động kinh tế, tham gia quản lý nhà nước và xã hội.

c) Nguyên tắc và cơ chế vận hành.

            Nguyên tắc trong hoạt động của hệ thống chính trị:

Một là, việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị phải xuất phát từ đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong thời kỳ mới, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.

Hai là, hoạt động của hệ thống chính trị là một nhiệm vụ lớn, nặng nề và phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Vì vậy, phải tiến hành vừa kiên quyết, vừa thận trọng, có bước đi thích hợp, phải bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng và sự quản lý điều hành của Nhà nước. Phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của hệ thống chính trị, đồng thời bảo đảm  cho tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Ba là, hoạt động của tổ chức đảng gắn với cải cách, đổi mới của các cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội.

Công tác của Đảng phải phù hợp với điều kiện của một đảng cầm quyền, giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội; tổ chức bộ máy chuyên trách phải tinh gọn, có chất lượng. Phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, các cấp uỷ viên và cán bộ chủ chốt hoạt động trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể vừa là hạt nhân lãnh đạo chính trị của các tổ chức đó, vừa làm tham mưu cho Đảng về chủ trương, chính sách đối với những lĩnh vực có liên quan. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng theo chức danh, tiêu chuẩn quy định.

- Hoạt động của hệ thống chính trị phải hướng đến xây dựng nhà nước pháp  quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm được nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

- Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội để thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.

- Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ. 

- Cải cách tổ chức và nâng cao chất lương hoạt động của các cơ quan tư pháp để thực hiện tốt chức năng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra oan sai.

- Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội phải bảo đảm từng bước khắc phục tình trạng hành chính hoá, phô trương, hình thức, quan liêu, xa dân; phát huy tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Bốn là, chỉ đạo và tổ chức thực hiện hoạt động của hệ thống chính trị phải kết hợp chặt chẽ cả ba mặt: Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; 

- Có chế độ, chính sách đúng đắn, hợp lý và đồng bộ để bảo đảm thực hiện tốt chủ trương của Đảng về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh giản biên chế, không gây xáo trộn và ảnh hưởng lớn tới tư tưởng và đời sống của cán bộ, công chức.

- Đề cao kỷ cương, kỷ luật, chấp hành nghiêm túc chủ trương, nghị quyết của Đảng về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Có chính sách động viên khen thưởng những nơi tổ chức thực hiện tốt, phê bình xử lý nghiêm túc những nơi không chấp hành hoặc hiệu quả tổ chức thực hiện kém.

Hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; trong đó, Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị, vừa là “hạt nhân” lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có chức năng thể chế hoá và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện phản biện, giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là người làm chủ xã hội, làm chủ thông qua Nhà nước và các cơ quan đại diện, đồng thời làm chủ trực tiếp thông qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; làm chủ thông qua hình thức tự quản.

5)khái quát thực trạng hoạt động của hệ thống chính trị nước ta( 30’)

             Hơn hai mươi năm qua, cùng với việc lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành, tổ chức thực hiện nhiều nghị quyết về đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên chế, cải cách tiền lương và thu được những kết quả quan trọng. Tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước được sắp xếp, kiện toàn; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn; góp phần bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của đất nước.

Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại những ưu khuyết điểm cơ bản như sau:

- Ưu điểm: mặc dù vẫn chưa tinh giản gọn nhẹ hoàn toàn biên chế nhưng với sự cố gắng nhiều năm bộ máy nhà nước ngày càng được tinh giản và kiện toàn; hiệu lực hiệu quả của nhà nước ngày càng được nâng cao qua các thời kì; chất lượng và năng lực của đội ngũ cán bộ công chức ngày càng được đảm bảo đáp ứng được nhưng nhu cầu cấp bách trong thời kì mới; đời sống vật chất của cán bộ công chức ngày càng được nâng cao đáp ứng được những nhu cầu của cuộc sống hiện đại; các văn bản pháp lý làm cơ sở cho hoạt động của các cơ quan tổ chức trong hệ thống chính trị ngày càng đầy đủ.

            Ví dụ: Ông Phạm Minh Huân, Vụ trưởng Vụ Tiền lương tiền công (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) cho biết: Theo lộ trình cải cách tiền lương được Quốc hội thông qua, năm nay, Nhà nước dự định điều chỉnh về chính sách tiền lương vào tháng 10. Mức lương trung bình sẽ tăng khoảng 31,5%.Những đối tượng được hưởng chế độ điều chỉnh này là những người hưởng lương trong hệ thống bảng lương của Nhà nước như cán bộ, công nhân viên chức, đối tượng nghỉ hưu, hưởng trợ cấp ưu đãi người có công.

- Hạn chế: Tổ chức bộ máy vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian;chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức trên một số lĩnh vực còn chồng chéo; thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu chưa rõ.Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chậm đổi mới. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước ở nhiều nơi còn hạn chế. Chưa đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công. Chưa phân định rạch ròi tổ chức chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Việc đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động, vận động quần chúng của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chưa đáp ứng được yêu cầu. Đổi mới tổ chức bộ máy chưa gắn với việc tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức. Số lượng cán bộ, công chức, nhất là viên chức ở các đơn vị sự nghiệp công lập và cán bộ công chức xã, phường, thị trấn tăng nhanh. Một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

Ví dụ: tại buổi khai mạc Hội nghị trung ương 7 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có phát biểu: “các cơ quan cấp tỉnh cấp huyện sau khi sắp xếp lại, tuy có giảm đầu mối trực thuộc uỷ ban nhân dân nhưng lại tăng các đơn vị bên trong các sở, ngành. Vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về vị trí, vai trò hiệu quả hoạt động của hội đồng nhân dân quận, huyện, phường”. Đã từ lâu, trong cơ chế của ta, từ Đảng đến chính quyền các cơ quan, các bộ, ngành từ cấp tỉnh đến cấp trung ương đã hình thành nên một hệ thống các phòng ban cơ quan đầy đủ. Nhưng vì vẫn muốn phình to biên chế và đưa người vào them nên vẫn lấy lý do này hay khác để xin them biên chế hang năm.

II. Hệ thống chính trị cấp cơ sở.

1.Cấp cơ sở trong hệ thống chính trị 4 cấp của nước ta và những đặc điểm của hệ thống chính trị cấp cơ sở.

            Hệ thống chính trị cấp cơ sở bao gồm có chính quyền cơ sở và các tổ chức chính trị- xã hội cấp cơ sở. khác với các hệ thống chính trị ở cấp khác hệ thống hành chính cấp cơ sỏ không có sự phân chia thành các đơn vị nhỏ hơn. Có nhiều cách gọi khác nhau đối với hệ thống hành chính cấp cơ sở tuỳ thuộc vào sự phân chia của các quốc gia. Nhưng nói chung hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước ta cũng như các quốc gia khác đều có một đặc điểm chung là gắn liền với đơn vị lãnh thổ nhỏ nhất của một quốc gia. Hệ thống hành chính cấp cơ sở là bộ máy quản lý nhằm đưa pháp luật vào đời sống. Chính quyền cơ sở chính là bộ máy thực thi quyền hành pháp ở cấp cơ sở. Là nơi trực tiếp xảy ra sự tương tác của các mối quan hệ chính trị giữa nhà nước và công dân. Nó trực tiếp tác động đến đời sống xã hội và công dân trên địa bàn lãnh thổ.

2. Cấu trúc hệ thống chính trị cấp cơ sở.( 45’)

a) tổ chức bộ máy.

            Tổ chức bộ máy của cấp cơ sở cũng bao gồm có các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội như: Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn; uỷ ban nhân dân xã. phường, thị trấn; mặt trận tổ quốc Việt Nam; công đoàn; đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Hội nông dân và hội cựu chiến binh.

            Trong đó Hội đồng nhân dân được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính cấp cơ sở. Theo quy định chung: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”.

            Theo luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thì Hội đồng nhân dân xã có nhiệm vụ và quyền hạn trên các lĩnh vực: kinh tế, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng, xã hội và pháp luật. Riêng đối với Hội đồng nhân dân phường, do tính đặc thù của chính quyền cơ sở đô thị nên được pháp luật trao them một số nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể hơn trên các lĩnh vực: quyết định biện pháp thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch đô thị; quyết định biện pháp xây dựng nếp sống văn minh đô thị; quyết định biện pháp quản lý dân cư và tổ chức đời song nhân dân trên địa bàn phường.           

            Bên cạnh đó, Uỷ ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân xã và là cơ quan hành chính nhà nước ở cấp xã. Nhiệm vụ, quyền hạn đã được pháp luật quy định trên một số lĩnh vực sau: kinh tế,văn hoá, giáo dục, y tế, quốc phòng an ninh, nông lâm ngư nghiệp,… Đối với Uỷ ban nhân dân phường, ngoài những quy định chung, còn một số nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể gần với quản lý đô thị: Tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường về việc đảm bảo thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch đô thị; Thanh tra việc sử dụng đất đai của tổ chức, cá nhân trên địa bàn phường theo quy định pháp luật; Quản lý và bảo vệ cơ sở hạ tầng kỹ thuật trên địa ban phường theo phân cấp; Kiểm tra giấy phép xây dựng của các cá nhân, tổ chức trên địa bàn phường và xử lý những vi phạm.

b) Các quan hệ chính trị.

            Nói một cách khác thì có thể hiểu quan hệ chính trị của hệ thống chính trị cơ sở chính là mối quan hệ giữa chính quyền cơ sở với các tổ chức khác trong hệ thống chính quyền cơ sở.

            Thứ nhất là Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Đây  là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước, tạo điều kiện để Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả. Mặt trận đóng vai trò quan trọng trong hiệp thương bầu cử ở địa phương nói riêng cũng như cả nước nói chung.

            Thứ hai là Công đoàn, đây là một tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân và người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ công chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công đoàn là thành viên của Mặt trận và do đó cùng với Mặt trận tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương.

            Thứ ba là Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh.

            Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh là thành viên của mặt trận và được mời tham gia vào quá trình hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương.                                      

            Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định cụ thể về sự tham gia của mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội trong hoạt động quản lý nhà nước tại cơ sở: “Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương được mời dự các phiên họp của Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan.

            Uỷ ban nhân dân tạo điều kiện thuận lợi để Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân tổ chức động viên nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; tổ chức, thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước cán bộ, công chức; Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thong báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân; Uỷ ban nhân dân và các thành viên của Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm giải quyết và trả lời các kiến nghị của Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cá đoàn thể nhân dân”.

c) Nguyên tắc và cơ chế vận hành.  

Nguyên tắc trong hoạt động của hệ thống chính trị:

Một là, việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị phải xuất phát từ đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong thời kỳ mới, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.

Hai là, hoạt động của hệ thống chính trị là một nhiệm vụ lớn, nặng nề và phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Vì vậy, phải tiến hành vừa kiên quyết, vừa thận trọng, có bước đi thích hợp, phải bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng và sự quản lý điều hành của Nhà nước. Phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của hệ thống chính trị, đồng thời bảo đảm  cho tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Ba là, hoạt động của tổ chức đảng gắn với cải cách, đổi mới của các cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội.

Công tác của Đảng phải phù hợp với điều kiện của một đảng cầm quyền, giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội; tổ chức bộ máy chuyên trách phải tinh gọn, có chất lượng. Phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, các cấp uỷ viên và cán bộ chủ chốt hoạt động trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể vừa là hạt nhân lãnh đạo chính trị của các tổ chức đó, vừa làm tham mưu cho Đảng về chủ trương, chính sách đối với những lĩnh vực có liên quan. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng theo chức danh, tiêu chuẩn quy định.

- Hoạt động của hệ thống chính trị phải hướng đến xây dựng nhà nước pháp  quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm được nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

- Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội để thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.

- Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ. 

- Cải cách tổ chức và nâng cao chất lương hoạt động của các cơ quan tư pháp để thực hiện tốt chức năng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra oan sai.

- Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội phải bảo đảm từng bước khắc phục tình trạng hành chính hoá, phô trương, hình thức, quan liêu, xa dân; phát huy tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Bốn là, chỉ đạo và tổ chức thực hiện hoạt động của hệ thống chính trị phải kết hợp chặt chẽ cả ba mặt: Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; 

- Có chế độ, chính sách đúng đắn, hợp lý và đồng bộ để bảo đảm thực hiện tốt chủ trương của Đảng về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh giản biên chế, không gây xáo trộn và ảnh hưởng lớn tới tư tưởng và đời sống của cán bộ, công chức.

- Đề cao kỷ cương, kỷ luật, chấp hành nghiêm túc chủ trương, nghị quyết của Đảng về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Có chính sách động viên khen thưởng những nơi tổ chức thực hiện tốt, phê bình xử lý nghiêm túc những nơi không chấp hành hoặc hiệu quả tổ chức thực hiện kém.

Hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; trong đó, Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị, vừa là “hạt nhân” lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có chức năng thể chế hoá và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện phản biện, giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là người làm chủ xã hội, làm chủ thông qua Nhà nước và các cơ quan đại diện, đồng thời làm chủ trực tiếp thông qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; làm chủ thông qua hình thức tự quản.

3. Thực trạng hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở(25’)                  

            Hệ thống chính trị cấp cơ sở từ lâu đã được xây dựng và hoàn thiện đầy đủ với các tổ chức, từ tổ chức Đảng đến chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Tuy trải qua những thời kì phát triển hệ thống chính trị cấp cơ sở ngày càng được hoàn thiện nhưng vẫn tồn tại những mặt ưu điểm và hạn chế như sau:

- Ưu điểm:

+ Hệ thống đã được xây dựng hoàn thiện từ xã, thị trấn đến khối xóm.

+ Chức năng nhiệm vụ của tổ chức cũng được phân định ngày càng rạch ròi hơn.

+ Các văn bản làm cơ sở chính trị, pháp lý cho hoạt động của các tổ chức cũng được hoàn thiện.

+ Đội ngũ công chức, nhân viên được bổ sung ngày càng đông đảo, được phân định chức năng rõ rang từ xóm xã, phường, thị trấn đến các quận huyện.

-         Hạn chế:

            + Tuy đã có sự phân định chức năng nhiệm vụ và cơ chế phối hợp giữa các tổ chức nhưng thực tế hoạt động vẫn có sự trùng lặp.

            +  Bộ máy chính trị cơ sở còn quá cồng kềnh, có xu hướng quan lieu, rời xa nhân dân ngay tại cơ sở.

            + Cơ sở vật chất và điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn chế cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công việc.

            + Đối với Đảng uỷ tình trang làm thay chính quyền vẫn còn phổ biến. Đảng uỷ cơ sở chưa phát huy vai trò của mình trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo còn phổ biến.

            + Các tổ chức xã hội và đoàn thể chưa lôi kéo được đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động chính trị,…

4. Những nội dung đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở.

a) Về tổ chức và vận hành bộ máy.

            Đổi mới hệ thống nói chung và hệ thống chính trị cấp cơ sở nói riêng cần tuân thủ những định hướng có tính giải pháp lớn được đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ IX nêu rõ và được khẳng định trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X như sau:

            - Xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.           

            - Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước.

            - Tiếp tục thay đổi phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nói chung và cơ sở nói riêng.

            - Cần phải xác định lại vị trí của Hội đồng nhân dân cấp xã, phường, thị trấn.

b) Về đội ngũ cán bộ công chức

            Ở lĩnh vực nào cũng vậy nhân lực luôn luôn là vấn đề có tính quan trong bậc nhất, và ở cơ quan nhà nước nhân tố này cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng, nhất là trong tình hình với bối cảnh trong nước và quốc tế phức tạp như hiện nay thì việc thay đổi và nâng cao về mọi mặt đối với cán bộ, công chức để đáp ứng nhu cầu luôn là việc làm cần thiết cụ thể như:

            - Xây dựng chỉnh đốn Đảng và năng lực của đội ngũ đảng viên nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng.

            - Cần sớm hiện thực hoá chủ trương nhất thể hoá chức danh bí thư Đảng uỷ xã và chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã. Đây là một chủ trương đúng đắn hiện nay. Song khi thực hiện thí điểm cần tổng kết kinh nghiệm để sớm nhân ra diện rộng. Trước mắt, cần phải sớm khảo sát đánh giá đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp xã, khả năng thực hiện nghĩa vụ quyền hạn của người này.

            - Cần thực hiện chủ trương để toàn thể cử tri trực tiếp bầu chủ tịch xã, phường, thị trấn trong phạm vi cả nước, đồng thời giao nhiều quyền năng cho chức danh chủ tịch xã. Đây là một chủ trương đã được nêu lên trong nghị quyết V của ban Chấp hành trung ương khoá IX về hệ thống chính trị cơ sở, nhưng trên thực tế theo đề án của bộ nội vụ mới thí điểm được 39 tỉnh thành trên cả nước.

            - Điều chỉnh, tổ chức lại xóm cũng như khu phố; xây dựng nội dung, biên soạn trương trình bồi dưỡng thôn trưởng, xóm trưởng và xây dựng danh hiệu Xóm trưởng giỏi.

c) Về quan hệ với nhân dân.

            Tăng cường sự tham gia của nhân dân vào các công việc nhà nước và hệ thống chính trị luôn là nguyên tắc cơ bản nhất mọi cuộc cải cách hướng tới nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng.

            - Cần phải quy trình hoá cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ.

            - Cần thực hiện nguyên tắc dân chủ công khai trong các hoạt động của cơ quan nhà nước, nhằm nâng cao vai trò làm chủ của nhân dân.

            - Cán bộ gần dân tránh tình trạng cửa quyền sách nhiễu, xa rời quần chúng nhân dân.

d) Những phương châm, nguyên tắc cơ bản trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị.

            - Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.  

- Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản, làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động năng động và có hiệu quả hơn. 

- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

 I. những vấn đề chung.

1. Định nghĩa hệ thống chính trị.

            Chính trị là lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các mối quan hệ liên quan đến các công việc và giải quyết các vấn đề chung của toàn xã hội. Đây là biểu hiện bề ngoài của chính trị. Chính trị thực chât là mối quan hệ, sự tương tác giữa chủ thể xã hội với toàn bộ các tổ chức và thành viên trong xã hội với quyền lực chi phối chứa đựng bên trong đó. Quyền lực đó còn được gọi là quyền lực chính trị, nó được sinh ra trong quá trình đấu tranh giành, giữ và bảo vệ nhà nước.

Khái niệm theo nghĩa hẹp: hệ thống chính trị là khái niệm dùng để chỉ hệ thống các tổ chức, các cơ quan thực hiện chức năng chính trị và xã hội bao gồm các đảng chính trị, cơ quan nhà nứơc, các tổ chức chính trị xã hôị liên quan,…liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền lực chính trị hay còn gọi là quyền lực nhà nước.

Khái niệm theo nghĩa rộng: hệ thống chính trị chỉ toàn bộ các lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội với tư cách là một hệ thống, bao gồm các tổ chức, chủ thế chính trị, quan điểm chính trị, quan hệ chính trị, hệ tư tuởng và các chuẩn mực chính trị khác.

2. Cấu trúc của hệ thống chính trị

Hệ thống chính trị bao gồm toàn bộ các tổ chức chính trị, được lập ra để thực hiện quyền lực chung của xã hội quyền lực chính trị.

Trong xã hội có giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định.

Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.

Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, nhà nước nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Do đó, hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp. Trong các nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực chính trị, tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị.

ví dụ: Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 đoàn thể chính trị xã hội: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

4. Cấu trúc hệ thống chính trị nước ta. (45’)

a) Tổ chức bộ máy.

            Như trên đã nói thì tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị bao gồm có: các tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội và các cơ quan thuộc bộ máy quyền lực nhà nước.

            Trong đó Đảng Hệ thống tổ chức của Ðảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Ðảng là Ðại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Ðảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy). Cấp ủy mỗi cấp thành lập Ban thường vụ. Riêng Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị, thành lập Ban Bí thư. Mỗi cấp cũng thành lập Ủy ban kiểm tra.

Các tổ chức chính trị xã hội như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 đoàn thể chính trị xã hội: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Mình, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

            Các tổ chức quyền lực nhà nước: bao gồm chính phủ, các cơ quan xét xử, kiểm tra kiểm soát.

b) Các quan hệ chính trị.

            - Trong hệ thống chính trị thì Đảng cộng sản Việt Nam luôn đảm nhiệm vai trò lãnh đạo, với vai trò là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. được trang bị lí luận tiên tiến của chủ nghĩa Mác – Lê nin chính những ưu thế này đã quy định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.

Sở dĩ Đảng cộng sản Việt Nam luôn giữ vai trò lãnh đạo trong hệ thống chính trị là bởi một số những nguyên nhân cơ bản như:

+ Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng tiên tiến được trang bị bởi thế giới quan và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có khả năng đề ra được những đường lối chủ trương đúng đắn nhất phù hợp với sự phát triển của đất nước trong thời kì mới.

+ Đảng cộng sản Việt Nam có khả năng tập hợp to lớn. bằng uy tín của mình Đảng có khả năng kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham gia vào các hoạt động chính trị, việc thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng,…

+ Đảng cộng sản Việt Nam phấn đấu suốt đời vì độc lập dân tộc và lợi ích của nhân dân hoà bình thế giới. Được sự ủng hộ của nhân dân trong nước và quốc tế.

Và Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện vai trò lãnh đạo qua hình thức và phương pháp sau:

+ Đảng hoạch định ra các chủ trương đường lối mang tính chiến lược định hướng cho các hoạt động của nhà nước và xã hội trong các lĩnh vực. Hiện nay Đảng ta đang dành sự quan tâm cho việc xác định các nguyên tắc, phương hướng lãnh đạo nhằm xây dựng thành công nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

+ Đảng phát hiện và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất năng lực để giới thiệu vào các cơ quan nhà nước và hệ thống chính trị - xã hội thong qua con đường dân chủ

+ Đảng tiến hành kiểm tra các hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội trong công tác thực hiện các đường lối của Đảng.

            - Bên cạnh đó còn có mối quan hệ phức tạp khác của các tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội ở nước ta hiện nay rất phong phú và ngày càng có nhiều tổ chức mới được thành lập. Đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội là: Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổng liên đoàn lao động Việt Nam, hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các đoàn thể nhân dân…

                                                                                                                                                            + Mặt trận tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận tổ quốc có tính chất yêu nước, có nhiệm vụ củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội. Mặt trận đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành bộ máy nhà nước, trên cơ sở nguyên tắc hiệp thương trong bầu cử.

            + Tổng liên đoàn lao động Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị. Là tổ chức chính trị- xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, cán bộ, viên chức và trường học thực tế, là trường quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước của giai cấp công nhân, nhân dân lao động Việt Nam. Tổng liên đoàn lao động có quan hệ chặt chẽ với Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

            + Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức đoàn kết rộng rãi của các tầng lớp phụ nữ nước ta. Hội có trách nhiệm giáo giục các thành viên của hội hiểu rõ trách nhiệm đối với đất nước. Hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, tạo sự bình đẳng giới.

            + Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức đoàn kết rộng rãi của thanh niên. Đoàn là lực lượng nhiệt tình, năng động luôn đi đầu trong công tác bảo vệ tổ quốc.

            + Hội nông dân Việt Nam là tổ chức đại diện cho nông dân nước ta. Hội có nhiệm vụ giáo dục, nâng cao ý thức và năng lực tự chủ của giai cấp nông dân, động viên nông dân tham gia tích cực vào hoạt động kinh tế, tham gia quản lý nhà nước và xã hội.

c) Nguyên tắc và cơ chế vận hành.

            Nguyên tắc trong hoạt động của hệ thống chính trị:

Một là, việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị phải xuất phát từ đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong thời kỳ mới, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.

Hai là, hoạt động của hệ thống chính trị là một nhiệm vụ lớn, nặng nề và phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Vì vậy, phải tiến hành vừa kiên quyết, vừa thận trọng, có bước đi thích hợp, phải bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng và sự quản lý điều hành của Nhà nước. Phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của hệ thống chính trị, đồng thời bảo đảm  cho tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Ba là, hoạt động của tổ chức đảng gắn với cải cách, đổi mới của các cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội.

Công tác của Đảng phải phù hợp với điều kiện của một đảng cầm quyền, giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội; tổ chức bộ máy chuyên trách phải tinh gọn, có chất lượng. Phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, các cấp uỷ viên và cán bộ chủ chốt hoạt động trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể vừa là hạt nhân lãnh đạo chính trị của các tổ chức đó, vừa làm tham mưu cho Đảng về chủ trương, chính sách đối với những lĩnh vực có liên quan. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng theo chức danh, tiêu chuẩn quy định.

- Hoạt động của hệ thống chính trị phải hướng đến xây dựng nhà nước pháp  quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm được nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

- Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội để thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.

- Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ. 

- Cải cách tổ chức và nâng cao chất lương hoạt động của các cơ quan tư pháp để thực hiện tốt chức năng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra oan sai.

- Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội phải bảo đảm từng bước khắc phục tình trạng hành chính hoá, phô trương, hình thức, quan liêu, xa dân; phát huy tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Bốn là, chỉ đạo và tổ chức thực hiện hoạt động của hệ thống chính trị phải kết hợp chặt chẽ cả ba mặt: Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; 

- Có chế độ, chính sách đúng đắn, hợp lý và đồng bộ để bảo đảm thực hiện tốt chủ trương của Đảng về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh giản biên chế, không gây xáo trộn và ảnh hưởng lớn tới tư tưởng và đời sống của cán bộ, công chức.

- Đề cao kỷ cương, kỷ luật, chấp hành nghiêm túc chủ trương, nghị quyết của Đảng về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Có chính sách động viên khen thưởng những nơi tổ chức thực hiện tốt, phê bình xử lý nghiêm túc những nơi không chấp hành hoặc hiệu quả tổ chức thực hiện kém.

Hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; trong đó, Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị, vừa là “hạt nhân” lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có chức năng thể chế hoá và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện phản biện, giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là người làm chủ xã hội, làm chủ thông qua Nhà nước và các cơ quan đại diện, đồng thời làm chủ trực tiếp thông qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; làm chủ thông qua hình thức tự quản.

5)khái quát thực trạng hoạt động của hệ thống chính trị nước ta( 30’)

             Hơn hai mươi năm qua, cùng với việc lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành, tổ chức thực hiện nhiều nghị quyết về đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên chế, cải cách tiền lương và thu được những kết quả quan trọng. Tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước được sắp xếp, kiện toàn; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn; góp phần bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của đất nước.

Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại những ưu khuyết điểm cơ bản như sau:

- Ưu điểm: mặc dù vẫn chưa tinh giản gọn nhẹ hoàn toàn biên chế nhưng với sự cố gắng nhiều năm bộ máy nhà nước ngày càng được tinh giản và kiện toàn; hiệu lực hiệu quả của nhà nước ngày càng được nâng cao qua các thời kì; chất lượng và năng lực của đội ngũ cán bộ công chức ngày càng được đảm bảo đáp ứng được nhưng nhu cầu cấp bách trong thời kì mới; đời sống vật chất của cán bộ công chức ngày càng được nâng cao đáp ứng được những nhu cầu của cuộc sống hiện đại; các văn bản pháp lý làm cơ sở cho hoạt động của các cơ quan tổ chức trong hệ thống chính trị ngày càng đầy đủ.

            Ví dụ: Ông Phạm Minh Huân, Vụ trưởng Vụ Tiền lương tiền công (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) cho biết: Theo lộ trình cải cách tiền lương được Quốc hội thông qua, năm nay, Nhà nước dự định điều chỉnh về chính sách tiền lương vào tháng 10. Mức lương trung bình sẽ tăng khoảng 31,5%.Những đối tượng được hưởng chế độ điều chỉnh này là những người hưởng lương trong hệ thống bảng lương của Nhà nước như cán bộ, công nhân viên chức, đối tượng nghỉ hưu, hưởng trợ cấp ưu đãi người có công.

- Hạn chế: Tổ chức bộ máy vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian;chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức trên một số lĩnh vực còn chồng chéo; thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu chưa rõ.Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chậm đổi mới. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước ở nhiều nơi còn hạn chế. Chưa đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công. Chưa phân định rạch ròi tổ chức chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Việc đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động, vận động quần chúng của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chưa đáp ứng được yêu cầu. Đổi mới tổ chức bộ máy chưa gắn với việc tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức. Số lượng cán bộ, công chức, nhất là viên chức ở các đơn vị sự nghiệp công lập và cán bộ công chức xã, phường, thị trấn tăng nhanh. Một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

Ví dụ: tại buổi khai mạc Hội nghị trung ương 7 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có phát biểu: “các cơ quan cấp tỉnh cấp huyện sau khi sắp xếp lại, tuy có giảm đầu mối trực thuộc uỷ ban nhân dân nhưng lại tăng các đơn vị bên trong các sở, ngành. Vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về vị trí, vai trò hiệu quả hoạt động của hội đồng nhân dân quận, huyện, phường”. Đã từ lâu, trong cơ chế của ta, từ Đảng đến chính quyền các cơ quan, các bộ, ngành từ cấp tỉnh đến cấp trung ương đã hình thành nên một hệ thống các phòng ban cơ quan đầy đủ. Nhưng vì vẫn muốn phình to biên chế và đưa người vào them nên vẫn lấy lý do này hay khác để xin them biên chế hang năm.

II. Hệ thống chính trị cấp cơ sở.

1.Cấp cơ sở trong hệ thống chính trị 4 cấp của nước ta và những đặc điểm của hệ thống chính trị cấp cơ sở.

            Hệ thống chính trị cấp cơ sở bao gồm có chính quyền cơ sở và các tổ chức chính trị- xã hội cấp cơ sở. khác với các hệ thống chính trị ở cấp khác hệ thống hành chính cấp cơ sỏ không có sự phân chia thành các đơn vị nhỏ hơn. Có nhiều cách gọi khác nhau đối với hệ thống hành chính cấp cơ sở tuỳ thuộc vào sự phân chia của các quốc gia. Nhưng nói chung hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước ta cũng như các quốc gia khác đều có một đặc điểm chung là gắn liền với đơn vị lãnh thổ nhỏ nhất của một quốc gia. Hệ thống hành chính cấp cơ sở là bộ máy quản lý nhằm đưa pháp luật vào đời sống. Chính quyền cơ sở chính là bộ máy thực thi quyền hành pháp ở cấp cơ sở. Là nơi trực tiếp xảy ra sự tương tác của các mối quan hệ chính trị giữa nhà nước và công dân. Nó trực tiếp tác động đến đời sống xã hội và công dân trên địa bàn lãnh thổ.

2. Cấu trúc hệ thống chính trị cấp cơ sở.( 45’)

a) tổ chức bộ máy.

            Tổ chức bộ máy của cấp cơ sở cũng bao gồm có các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội như: Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn; uỷ ban nhân dân xã. phường, thị trấn; mặt trận tổ quốc Việt Nam; công đoàn; đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Hội nông dân và hội cựu chiến binh.

            Trong đó Hội đồng nhân dân được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính cấp cơ sở. Theo quy định chung: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”.

            Theo luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thì Hội đồng nhân dân xã có nhiệm vụ và quyền hạn trên các lĩnh vực: kinh tế, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng, xã hội và pháp luật. Riêng đối với Hội đồng nhân dân phường, do tính đặc thù của chính quyền cơ sở đô thị nên được pháp luật trao them một số nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể hơn trên các lĩnh vực: quyết định biện pháp thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch đô thị; quyết định biện pháp xây dựng nếp sống văn minh đô thị; quyết định biện pháp quản lý dân cư và tổ chức đời song nhân dân trên địa bàn phường.           

            Bên cạnh đó, Uỷ ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân xã và là cơ quan hành chính nhà nước ở cấp xã. Nhiệm vụ, quyền hạn đã được pháp luật quy định trên một số lĩnh vực sau: kinh tế,văn hoá, giáo dục, y tế, quốc phòng an ninh, nông lâm ngư nghiệp,… Đối với Uỷ ban nhân dân phường, ngoài những quy định chung, còn một số nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể gần với quản lý đô thị: Tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường về việc đảm bảo thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch đô thị; Thanh tra việc sử dụng đất đai của tổ chức, cá nhân trên địa bàn phường theo quy định pháp luật; Quản lý và bảo vệ cơ sở hạ tầng kỹ thuật trên địa ban phường theo phân cấp; Kiểm tra giấy phép xây dựng của các cá nhân, tổ chức trên địa bàn phường và xử lý những vi phạm.

b) Các quan hệ chính trị.

            Nói một cách khác thì có thể hiểu quan hệ chính trị của hệ thống chính trị cơ sở chính là mối quan hệ giữa chính quyền cơ sở với các tổ chức khác trong hệ thống chính quyền cơ sở.

            Thứ nhất là Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Đây  là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước, tạo điều kiện để Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả. Mặt trận đóng vai trò quan trọng trong hiệp thương bầu cử ở địa phương nói riêng cũng như cả nước nói chung.

            Thứ hai là Công đoàn, đây là một tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân và người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ công chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công đoàn là thành viên của Mặt trận và do đó cùng với Mặt trận tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương.

            Thứ ba là Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh.

            Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh là thành viên của mặt trận và được mời tham gia vào quá trình hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương.                                      

            Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định cụ thể về sự tham gia của mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội trong hoạt động quản lý nhà nước tại cơ sở: “Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương được mời dự các phiên họp của Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan.

            Uỷ ban nhân dân tạo điều kiện thuận lợi để Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân tổ chức động viên nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; tổ chức, thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước cán bộ, công chức; Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thong báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân; Uỷ ban nhân dân và các thành viên của Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm giải quyết và trả lời các kiến nghị của Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cá đoàn thể nhân dân”.

c) Nguyên tắc và cơ chế vận hành.  

Nguyên tắc trong hoạt động của hệ thống chính trị:

Một là, việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị phải xuất phát từ đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong thời kỳ mới, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.

Hai là, hoạt động của hệ thống chính trị là một nhiệm vụ lớn, nặng nề và phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Vì vậy, phải tiến hành vừa kiên quyết, vừa thận trọng, có bước đi thích hợp, phải bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng và sự quản lý điều hành của Nhà nước. Phải bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của hệ thống chính trị, đồng thời bảo đảm  cho tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Ba là, hoạt động của tổ chức đảng gắn với cải cách, đổi mới của các cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội.

Công tác của Đảng phải phù hợp với điều kiện của một đảng cầm quyền, giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội; tổ chức bộ máy chuyên trách phải tinh gọn, có chất lượng. Phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, các cấp uỷ viên và cán bộ chủ chốt hoạt động trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể vừa là hạt nhân lãnh đạo chính trị của các tổ chức đó, vừa làm tham mưu cho Đảng về chủ trương, chính sách đối với những lĩnh vực có liên quan. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng theo chức danh, tiêu chuẩn quy định.

- Hoạt động của hệ thống chính trị phải hướng đến xây dựng nhà nước pháp  quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm được nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

- Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội để thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.

- Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ. 

- Cải cách tổ chức và nâng cao chất lương hoạt động của các cơ quan tư pháp để thực hiện tốt chức năng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra oan sai.

- Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội phải bảo đảm từng bước khắc phục tình trạng hành chính hoá, phô trương, hình thức, quan liêu, xa dân; phát huy tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Bốn là, chỉ đạo và tổ chức thực hiện hoạt động của hệ thống chính trị phải kết hợp chặt chẽ cả ba mặt: Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; 

- Có chế độ, chính sách đúng đắn, hợp lý và đồng bộ để bảo đảm thực hiện tốt chủ trương của Đảng về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh giản biên chế, không gây xáo trộn và ảnh hưởng lớn tới tư tưởng và đời sống của cán bộ, công chức.

- Đề cao kỷ cương, kỷ luật, chấp hành nghiêm túc chủ trương, nghị quyết của Đảng về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Có chính sách động viên khen thưởng những nơi tổ chức thực hiện tốt, phê bình xử lý nghiêm túc những nơi không chấp hành hoặc hiệu quả tổ chức thực hiện kém.

Hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; trong đó, Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị, vừa là “hạt nhân” lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có chức năng thể chế hoá và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện phản biện, giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là người làm chủ xã hội, làm chủ thông qua Nhà nước và các cơ quan đại diện, đồng thời làm chủ trực tiếp thông qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; làm chủ thông qua hình thức tự quản.

3. Thực trạng hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở(25’)                  

            Hệ thống chính trị cấp cơ sở từ lâu đã được xây dựng và hoàn thiện đầy đủ với các tổ chức, từ tổ chức Đảng đến chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Tuy trải qua những thời kì phát triển hệ thống chính trị cấp cơ sở ngày càng được hoàn thiện nhưng vẫn tồn tại những mặt ưu điểm và hạn chế như sau:

- Ưu điểm:

+ Hệ thống đã được xây dựng hoàn thiện từ xã, thị trấn đến khối xóm.

+ Chức năng nhiệm vụ của tổ chức cũng được phân định ngày càng rạch ròi hơn.

+ Các văn bản làm cơ sở chính trị, pháp lý cho hoạt động của các tổ chức cũng được hoàn thiện.

+ Đội ngũ công chức, nhân viên được bổ sung ngày càng đông đảo, được phân định chức năng rõ rang từ xóm xã, phường, thị trấn đến các quận huyện.

-         Hạn chế:

            + Tuy đã có sự phân định chức năng nhiệm vụ và cơ chế phối hợp giữa các tổ chức nhưng thực tế hoạt động vẫn có sự trùng lặp.

            +  Bộ máy chính trị cơ sở còn quá cồng kềnh, có xu hướng quan lieu, rời xa nhân dân ngay tại cơ sở.

            + Cơ sở vật chất và điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn chế cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công việc.

            + Đối với Đảng uỷ tình trang làm thay chính quyền vẫn còn phổ biến. Đảng uỷ cơ sở chưa phát huy vai trò của mình trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo còn phổ biến.

            + Các tổ chức xã hội và đoàn thể chưa lôi kéo được đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động chính trị,…

4. Những nội dung đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở.

a) Về tổ chức và vận hành bộ máy.

            Đổi mới hệ thống nói chung và hệ thống chính trị cấp cơ sở nói riêng cần tuân thủ những định hướng có tính giải pháp lớn được đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ IX nêu rõ và được khẳng định trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X như sau:

            - Xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.           

            - Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước.

            - Tiếp tục thay đổi phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nói chung và cơ sở nói riêng.

            - Cần phải xác định lại vị trí của Hội đồng nhân dân cấp xã, phường, thị trấn.

b) Về đội ngũ cán bộ công chức

            Ở lĩnh vực nào cũng vậy nhân lực luôn luôn là vấn đề có tính quan trong bậc nhất, và ở cơ quan nhà nước nhân tố này cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng, nhất là trong tình hình với bối cảnh trong nước và quốc tế phức tạp như hiện nay thì việc thay đổi và nâng cao về mọi mặt đối với cán bộ, công chức để đáp ứng nhu cầu luôn là việc làm cần thiết cụ thể như:

            - Xây dựng chỉnh đốn Đảng và năng lực của đội ngũ đảng viên nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng.

            - Cần sớm hiện thực hoá chủ trương nhất thể hoá chức danh bí thư Đảng uỷ xã và chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã. Đây là một chủ trương đúng đắn hiện nay. Song khi thực hiện thí điểm cần tổng kết kinh nghiệm để sớm nhân ra diện rộng. Trước mắt, cần phải sớm khảo sát đánh giá đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp xã, khả năng thực hiện nghĩa vụ quyền hạn của người này.

            - Cần thực hiện chủ trương để toàn thể cử tri trực tiếp bầu chủ tịch xã, phường, thị trấn trong phạm vi cả nước, đồng thời giao nhiều quyền năng cho chức danh chủ tịch xã. Đây là một chủ trương đã được nêu lên trong nghị quyết V của ban Chấp hành trung ương khoá IX về hệ thống chính trị cơ sở, nhưng trên thực tế theo đề án của bộ nội vụ mới thí điểm được 39 tỉnh thành trên cả nước.

            - Điều chỉnh, tổ chức lại xóm cũng như khu phố; xây dựng nội dung, biên soạn trương trình bồi dưỡng thôn trưởng, xóm trưởng và xây dựng danh hiệu Xóm trưởng giỏi.

c) Về quan hệ với nhân dân.

            Tăng cường sự tham gia của nhân dân vào các công việc nhà nước và hệ thống chính trị luôn là nguyên tắc cơ bản nhất mọi cuộc cải cách hướng tới nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng.

            - Cần phải quy trình hoá cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ.

            - Cần thực hiện nguyên tắc dân chủ công khai trong các hoạt động của cơ quan nhà nước, nhằm nâng cao vai trò làm chủ của nhân dân.

            - Cán bộ gần dân tránh tình trạng cửa quyền sách nhiễu, xa rời quần chúng nhân dân.

d) Những phương châm, nguyên tắc cơ bản trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị.

            - Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.  

- Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản, làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động năng động và có hiệu quả hơn. 

- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

 Bài 5: KỸ NĂNG SOẠN THẢO VĂN BẢN CỦA CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ

I. Tổng quan về hệ thống văn bản quản lý hành chính nhà nước (30’)

1. Hệ thống văn bản quản lý nhà nước.

a) Khái niệm về văn bản quản lý nhà nước.

            Là những quyết định thong tin quản lý thành văn do các cơ quan nhà nước ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức nhất định. Được nhà nước đảm bảo thi hành bằng những biện pháp khác nhau. Nhằm điều chỉnh các quan hệ quản lý nội bộ nhà nước hoặc giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức và công dân.

            như vậy, văn bản quản lý nhà nước là phương tiện để xác định và vận dụng các

chuẩn mực pháp lý vào quá trình quản lý nhà nước. Văn bản quản lý nhà nước là

những quyết định quản lý thành văn, do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền

ban hành theo quy định của pháp luật.

            Văn bản quản lý nhà nước có chức năng chủ yếu sau:

- Chức năng thông tin

- Chức năng quản lý

- Chức năng pháp lý

- Chức năng văn hóa – xã hội và các chức năng khác như: chức năng thống kê,

chức năng sử liệu.

            Văn bản quản lý nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc giúp cho công tác

lãnh đạo, điều hành và quản lý bộ máy nhà nước một cách hữu hiệu. Nó phản ánh đầy

đủ tình hình, kết quả hoạt động quản lý của cơ quan, tổ chức.Làm tốt công tác văn bản sẽ góp phần thực hiện tốt ba mục tiêu quản lý: năng

suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan. Ngược lại, nếu làm không tốt

công tác văn bản sẽ hạn chế kết quả hoạt động quản lý, làm giảm hiệu lực chỉ đạo điều

hành của cơ quan, tổ chức, đơn vị nói riêng và ảnh hưởng đến chất lượng cũng như

hiệu quả công tác của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung.

b) Khái niệm về văn bản quản lý hành chính nhà nước.

            Văn bản quản lý hành chính nhà nước là một hệ thống văn bản được hình thành trong quá trình quản lý xã hội của cơ quan hành chính nhà nước và sự tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước của các tổ chức chính trị xã hội mà bản chất của nó là chứa đựng ý chí chung hoặc những thong tin mang tính hành chính nhà nước được ban hành trong việc thực hiện các thẩm quyền của từng cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước.

            Cũng giống như văn bản quản lý nhà nước thì văn bản quản lý hành chính nhà nước cũng có các chức năng như: chức năng thong tin; Chức năng quản lý; Chức năng pháp lý; Chức năng văn hoá – xã hội.

c) Phân loại hệ thống văn bản quản lý hành chính nhà nước. 45’

- Hệ thống văn bản quản lý hành chính nhà nước có thể phân loại theo các tiêu chuẩn: theo tính chất pháp lý, theo cơ quan ban hành, theo trình tự ban hành, theo hình thức quyết định,…(10’)

            + Theo tính chất pháp lý, quyết định hành chính được phân thành: quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm và quyết định cá biệt.

            + Theo cơ quan ban hành quyết định hành chính được xếp theo thứ bậc hiệu lực pháp lý từ cao xuống thấp, phản ánh chính xác vai trò, vị trí của cơ quan ban hành trong hệ thống hành chính nhà nước.

            + theo trình tự ban hành, quyết định hành chính nhà nước gồm: quyết định hành chính ban hành theo trình tự tập thể, tức là thong qua đa số; quyết định hành chính do cá nhân có thẩm quyền ban hành (chế độ thủ trưởng)

            + theo hình thức của quyết định hành chính, có thể phân chúng thành hai nhóm: theo hình thức thể hiện có quyết định hành chính thể hiện dưới hình thức văn bản và quyết định hành chính thể hiện bằng văn nói, bằng tín hiệu, ám hiệu và theo hình thức pháp lý tức là theo tên gọi của quyết định hành chính.

Đương nhiên trong xây dựng, ban hành và quản lý văn bản ít khi áp dụng thuần nhất một cách phân loại nào đó, mà thông thường tuỳ theo mục đích và nội dung công việc mà áp dụng kết hợp, xen kẽ các cách phân loại với một cách được coi là cách chính. Trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước cách phân loại theo hiệu lực pháp lý kết hợp với tên loại văn bản hoặc loại hình quản lý chuyên môn được áp dụng thường xuyên và hữu hiệu hơn cả.

- Hệ thống văn bản quản lý hành chính của chính quyền cơ sở bao gồm: (35’)    

             Quyết định quản lý hành chính nhà nước do chính quyền cấp xã (Hội đồng nhân dân,Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn) ban hành cũng bao gồm các loại quyết định: quyết định chung, quyết định quy phạm, quyết định cá biệt. Thẩm quyền, thủ tục ban hành mỗi loại quyết định này đều được pháp luật quy định chặt chẽ.

+ Quyết định của Hội đồng nhân dân cấp xã. quyết định của Hội đồng nhân dân được thể hiện dưới hình thức là nghị quyết. Xét về tính chất pháp lý, nghị quyết mang tính quy phạm hoặc là loại nghị quyết mang tính chất cá biệt. Đối với quyết định chung, quyết định quy phạm thì thẩm quyền, thủ tục ban hành được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân ngày 3-12-2004.

Phạm vi ban hành của nghị quyết (mang tính quy phạm) của Hội đồng nhân dân:

Quyết định chủ trương chính sách biện pháp đảm bảo thực thi hiến pháp, pháp luật;

Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương;

Quyết định biện pháp nhằm ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho;

Quyết định trong phạm vi thẩm quyền được giao những chủ trương, biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của địa phương nhằm phát huy tiềm năng của địa phương, nhưng không được trái với các văn bản quy phạm pháp luật.

            Nội dung nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã chứa đựng các quyết định của Hội đồng nhân dân về chủ trương, biện pháp trong các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, xã hội đời sống, văn hoá thong tin, thể dục thể thao, bảo vệ tài nguyên môi trường, quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, thi hành pháp luật, xây dựng chính quyền địa phương trên địa bàn xã, phường, thị trấn.

            Ngoài ra, nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường còn đề cập đến các quyết định chủ trương, biện pháp của Hội đồng nhân dân phường về xây dựng, phát triển đô thị trên địa bàn phường.

            + Quyết định chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã là quyết định quản lý hành chính nhà nước của Uỷ ban nhân dân, xét về tính chất pháp lý cũng bao gồm các loại quyết định chung, quyết định quy phạm, quyết định định cá biệt. Đối với quyết định chung, quyết định quy phạm thì thẩm quyền, thủ tục ban hành được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 3-2-2004.

            Các quyết định này được thể hiện dưới hình thức là quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cũng có thẩm quyền ban hành hai loại văn bản có tên là: Quyết định, chỉ thị. Tuy nhiên, quyết định, chỉ thị mang tính cá biệt. Còn quyết định chỉ thị của Uỷ ban nhân dân, thì tuỳ từng trường hợp mà chúng có thể là những quyết định, chỉ thị mang tính quy phạm hoặc mang tính cá biệt. Khi ban hành phải theo quy định của thể thức ban hành và phải cụ thể: Quyết định của Uỷ ban nhân dân xã hay quyết định của chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã.

            Nội dung quyết định của uỷ ban nhân dân cấp xã, thị trấn được ban hanh để thực hiện chủ trương, biện pháp trong các lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thể dục thể thao, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, thi hành pháp luật trên địa bàn xã, thị trấn theo thẩm quyền đã được quy định tại Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan của cơ quan nhà nước cấp trên.

d) Đặc điểm hệ thống văn bản quản lý hành chính nhà nước của chính quyền cơ sở.(35’)

Quyết định quản lý hành chính nhà nước có các đặc điểm sau:

            - Quyết định quản lý hành chính nhà nước mang tính dưới luật; nó được ban hành  trên cơ sở và để thực hiện luật các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.

- Quyết định quản lý hành chính nhà nước được ban hành để thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành, không thể ban hành quyết định quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực xét xử, lập pháp.

            - Quyết định quản lý hành chính nhà nước có tính đơn phương và tính bắt buộc phải thực hiện ngay. Đây là một trong những vấn đề cần chú ý. Khi xây dựng quyết định, đòi hỏi các bên có liên quan tham gia. Nhưng khi quyết định được ban hành, cần phải nghiêm chỉnh thực hiện.

            Tóm lại, quyết định quản lý hành chính nhà nước là kết quả của sự thể hiện ý chí quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thảm quyền, được ban hành trên cơ sở và để thi hành luật theo thủ tục do pháp luật quy định, nhằm định ra chủ trương, chính sách, nhiệm vụ có tính định hướng trong quản lý nhà nước; hoặc đặt ra, sửa đổi, bãi bỏ quy phạm pháp luật hiện hành, làm thay đổi hiệu lực của chúng; hoặc làm phát sinh, thay đổi chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể, để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng quản lý nhà nước.

            Cần phân biệt quyết định hành chính và quyết định quản lý nhà nước. Quyết định quản lý là sự lựa chọn mang tính tư duy – ý chí của các chủ thể quản lý nhà nước. Nhưng phải thong qua trình tự và hình thức thể hiện ý chí quyền lực nhà nước trong hoạt động chấp hành và điều hành thì quyết định quản lý mới trở thành quyết định hành chính. Có thể nói quyết định quản lý là nội dung, còn quyết định hành chính là thể hiện pháp lý của nó. Văn bản hành chính là một trong những hình thức (quyết định mang nội dung chủ trương, chính sách, nhiệm vụ lớn của các cơ quan hành chính và các cơ quan được uỷ quyền quản lý hành chính) được ban hành bằng văn bản. Phần lớn các quyết định cá biệt quan trọng cũng ban hành bằng văn bản.

            Nói cách khác quyết định hành chính là hành vi do các cơ quan hành chính nhà nước (hoặc cá nhân, tổ chức được uỷ quyền) đưa ra quy định chung hoặc tình trạng pháp lý cho công dân hoặc tập thể công dân. Đó là sự cho phép, cấm đoán, bắt buộc hành động, quy định điều kiện vv.. Nó thể hiện các đặc tính đơn phương quyết định và bắt buộc phải thi hành.

2. Quy trình soạn thảo văn bản quản lý hành chính nhà nước của chính quyền cơ sở.

a) Các quy định pháp lý.

            Một số căn cứ pháp lý và văn bản pháp luật về ban hành văn bản quản lý hành chính của chính quyền cơ sở như:

            Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân 3-12-2004

Thông tư số 01/2011/TT-BNV của Bộ Nội vụ hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính.

Thông tư này hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính và bản sao văn bản (các loại văn bản quy định rõ tại Phụ lục 01); được áp dụng đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế và đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân. Thông tư mới bổ sung rất nhiều mẫu văn bản mà ở thông tư 55/2005/TTLT-BNV-VPCP chưa có.

Kỹ thuật trình bày văn bản quy định trong Thông tư này bao gồm: khổ giấy, kiểu trình bày, định lề trang văn bản, vị trí trình bày, các thành phần thể thức, phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ và các chi tiết trình bày khác, áp dụng đối với văn bản soạn thảo trên máy tính và in ra giấy.

Thông tư số 01/2011/TT-BNV có hiệu lực từ ngày 05/3/2011, những quy định tại Thông tư số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP 06 tháng 5 năm 2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng

Chính phủ trái với Thông tư này sẽ bị bãi bỏ. Như vậy, Thông tư 01/2011/TT-BNV chỉ bãi bỏ 1 phần Thông tư 55, Thông tư 55 vẫn còn hiệu lực đối với thể thức và kỹ thuật trình bày của các văn bản quy phạm pháp luật như: Nghị quyết của Chính phủ, Nghị định của Chính phủ (ban hành điều lệ, quy chế) Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng, Thông tư liên tịch, Quyết định (ban hành quy chế, quy định)….

b) Quy trình soạn thảo (15’)

Quy trình soạn thảo chung của văn bản quản lý hành chính cấp cơ sở nói chung đều có 5 bước cơ bản là:

Bước 1: Soạn thảo, dự thảo các nghị quyết,quyết định, chỉ thị;

Bước 2: lấy ý kiến của nhân dân địa phương hoặc cơ quan co liên quan;

Bước 3: công chức tư pháp - hộ tịch có ý kiến về dự thảo;

Bước 4: trình cơ quan có thẩm quyền xem xét và thong qua nghị quyết, quyết định, chỉ thị;

Bước 5: công bố nghị quyết, quyết định, chỉ thị;

c) phân tích các bước trong quy trình. 35’

            - Quy trình ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã

            + Giai đoạn 1: soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã. Dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã do Uỷ ban nhân dân cùng cấp soạn thảo và trình Hội đồng nhân dân ( do chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã phân công và chỉ đạo việc soạn thảo).

            + Giai đoạn 2: Lấy ý kiến nhân dân địa phương. Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo nghị quyết, chủ tịch Uỷ ban nhân dân tổ chức việc lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan, của nhân dân tại các thôn, làng, ấp, bản, phum, sớc, tổ dân phố về dự thảo nghị quyết bằng các hình thức thích hợp.

            Trong những trường hợp sau thì việc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân tại các thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố là bắt buộc: quy định mức đóng góp của dân cư địa phương; Có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; Liên quan đến vấn đề quản lý đất đai, quy hoạch, xây dựng các công trình công cộng quan trọng thuộc địa bàn quản lý; Các vấn đề có ảnh hưởng lớn đến đời sống sinh hoạt của dân cư địa phương và những trường hợp cần thiết khác

            Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã lựa chọn, quyết định phương thức lấy ý kiến, vấn đề cần lấy ý kiến về đự thảo và giao cho cơ quan tổ chức, cá nhân thực hiện việc lấy ý kiến bằng nhiều các hình thức khác nhau,…

            + Giai đoạn 3: Công chức tư pháp - hộ tịch có ý kiến và dự thảo. công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã có trách nhiệm phát biểu ý kiến đối với dự thảo nghị quyết, quyết định, chỉ thị về những vấn đề sau đây: Sự cần thiết ban hành văn bản; Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật; Nông ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản.

            + Giai đoạn 4: Trình Hội đồng nhân dân xem xét, thong qua dự thảo nghị quyết. Chậm nhất là ba ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân gửi tờ trình, dự thảo nghị quyết và các tài liệu có liên quan đến các đại biểu Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm nghiên cứu dự thảo, chuẩn bị các ý kiến đóng góp vào dự thảo nghị quyết.

            Tại kỳ họp Hội đồng nhân dân, việc xem xét, thong qua dự thảo nghị quyết được tiến hành theo trình tự: Đại diện Uỷ ban nhân dân trình bày dự thảo nghị quyết; Hội đồng nhân dân thảo luận và biết quyết thông qua dự thảo nghị quyết.

            Hình thức để Hội đồng nhân dân thông qua nghị quyết có thể là: giơ tay, bỏ phiếu kín hoặc cách khác theo đề nghị của chủ toạ kỳ họp.

            Hội đồng nhân dân thông qua nghị quyết có thể bằng cách: Hội đồng nhân dân biểu quyết từng vấn đề, sau đó biểu quyết toàn bộ; Hội đồng nhân dân nghe đọc toàn văn rồi biểu quyết toàn bộ một lần; Hội đồng nhân dân biểu quyết những vấn đề còn có ý kiến khác nhau rồi biểu quyết toàn bộ. Dự thảo nghị quyết được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân biểu quyết tán thành. Riêng trường hợp bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân biểu quyết tán thành.

            + Giai đoạn 5: Ký, công bố quyết định. Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực nghị quyết.

            Nếu nghị quyết của hội đồng nhân dân cấp xã là văn bản quy phạm pháp luật thì nó có hiệu lực sau năm ngày và phải được niêm yết chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.

            - Quy trình ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Các quyết định, chỉ thị (mang tính quy phạm) của Uỷ ban nhân dân cấp xã được ban hành theo quy trình sau:

            + Giai đoạn 1: soạn thảo dự thảo quyết định, chỉ thị. Dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã do chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã phân công và chỉ đạo việc soạn thảo.

            + Giai đoạn 2: Tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức liên quan và nhân dân địa phương. Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo quyết định, chỉ thị, chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã tổ chức việc lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan, của nhân dân tại các thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố về dự thảo quyết định, chỉ thị.

            Những vấn đề quan trọng, liên quan trực tiếp đến nhân dân địa phương thì phải lấy ý kiến nhân dân địa phương trước khi quyết định (giống như những dự thảo nghị quyết Hội đồng nhân dân về các vấn đề phải lấy ý kiến nhân dân địa phương trước khi trình Hội đồng nhân dân)       

            + Giai đoạn 3: Công chức tư pháp - hộ tịch có ý kiến về dự thảo (tương tự như phần quy trình ban hành nghị quyết Hội đồng nhân dân)

            + Giai đoạn 4: Trình Uỷ ban tư pháp thông qua quyết định, chỉ thị. Tổ chức cá nhân được phân công soạn thảo gửi tờ trình, dự thảo quyệt định, chỉ thị, bản tổng hợp ý kiến và các tài liệu có liên quan đến các thành viên Uỷ ban nhân dân chậm nhất là 3 ngày trước ngày Uỷ ban nhân dân họp.

            Việc xem xét, thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị tại phiên họp Uỷ ban nhân dân được tiến hành theo trình tự sau đây:

            Đại diện tổ chức, cá nhân được phân công soạn thảo trình bày dự thảo quyết định, chỉ thị;

            Uỷ ban nhân dân thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị;

            Dự thảo quyết định, chỉ thị được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành

            Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành quyết định, chỉ thị.

            + Giai đoạn 5: công bố quyết định.

            Quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp xã là văn bản quy phạm pháp luật thì có hiệu lực sau 5 ngày và phải được niêm yết  chậm nhất là 2 ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua, trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật quy định ngày có hiệu lực chậm hơn.

            Đối với việc ban hành các quyết định, chỉ thị mang tính cá biệt của Uỷ ban nhân dân (như quyết định thành lập các nhiệm vụ trong một thời gian xác định; Quyết định về chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân; quyết định, chỉ thị của chủ tịch Uỷ ban nhân dân thì theo từng nội dung cụ thể mà Uỷ ban nhân dân, chủ tịch Uỷ ban nhân dân quyết ddinhhj quy trình ban hành. Quy trình này phải được thể hiện trong quy chế làm việc của Uỷ ban nhân dân cấp xã và tuân theo các quy định của pháp luật.

II. Kỹ thuật soạn thảo văn bản(45’)

Trong quá trình soạn thảo nội dung của văn bản cần đảm bảo thực hiện các yêu cầu sau đây:

1. Tính mục đích

Trước khi bắt tay vào soạn thảo, cần xác định mục tiêu và giới hạn điều chỉnh của văn bản, tức là cần phải trả lời được các vấn đề: văn bản này ban hành để làm gì? Giải quyết công việc gì? Mức độ giải quyết đến đâu? Kết quả của việc thực hiện văn bản là gì? Do đó, cần nắm vững nội dung văn bản cần soạn thảo, phương thức giải quyết công việc đưa ra phải rõ ràng, phù hợp. Nội dung văn bản phải thiết thực, đáp ứng các nhu cầu thực tế đặt ra, phù hợp với pháp luật hiện hành, không trái với các văn bản của cấp trên, có tính khả thi. Không những thế, văn bản được ban hành phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi hoạt động của cơ quan, tức là phải giải đáp được các vấn đề: văn bản sắp ban hành thuộc thẩm quyền pháp lý của ai và thuộc loại nào? Phạm vi tác động của văn bản đến đâu? Trật tự pháp lý được xác định như thế nào? Văn bản dự định ban hành có gì mâu thuẫn với các văn bản khác của cơ quan hoặc của cơ quan khác? Như vậy, người soạn thảo văn bản cần nắm vững nghiệp vụ và kỹ thuật soạn thảo văn bản dựa trên kiến thức cơ bản và hiểu biết về quản lý hành chính và pháp luật.

Tính mục đích của văn bản còn thể hiện ở phương diện mức độ phản ánh các mục tiêu trong đường lối, chính sách các cấp uỷ Đảng, nghị quyết của các cơ quan quyền lực cùng cấp và các văn bản của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, áp dụng vào giải quyết những công việc cụ thể ở một ngành, một cấp nhất định. Vì vậy, cần nắm vững đường lối chính trị của Đảng để có thể quy phạm hoá chính sách thành pháp luật. Công tác này đòi hỏi giải quyết hợp lý các quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, giữa tập thể và cá nhân, giữa cấp trên với cấp dưới, phải đảm bảo công tác bảo mật.

2. Tính khoa học

Một văn bản có tính khoa học phải đảm bảo:

a) Có đủ lượng thông tin quy phạm và thông tin thực tế cần thiết. Chức năng thông tin là chức năng tổng quát nhất của văn bản. Thông tin quản lý chuyển đạt qua văn bản được xem là đáng tin cậy nhất.

"Truyền đạt quyết định là một khâu tất yếu của quá trình quản lý. Đây cũng là một khoa học và một nghệ thuật như bản thân khoa học quản lý. Thông tin văn bản không những phải nhanh chóng, mà còn phải chính xác và đúng đối tượng. (...) Một yêu cầu cần thiết là làm thế nào cho việc sử dụng các hệ thống văn bản vào mục đích truyền đạt quyết định quản lý ở các cơ quan nhà nước không dẫn đến tình trạng có quá nhiều công văn giấy tờ vô dụng. Không nên làm cho các văn bản trở nên bề bộn và các văn bản dễ dàng bị bỏ quên. Đồng thời phải làm sao để các văn bản của một cơ quan không quay trở lại cản trở hoạt động của người quản lý như thực tế đang gặp ở nhiều cơ quan. Cần chống lại bệnh hình thức trong quá trình truyền đạt quyết định quản lý bằng văn bản vì nó rất dễ gây ra ấn tượng thiếu tin tưởng khi tiếp nhận văn bản". ( Nguyễn Văn Thâm. Soạn thảo và xử lý văn bản quản lý nhà nước. - H.: CTQG,1997, tr. 51-52)

b) Các thông tin được sử dụng để đưa vào văn bản phải được xử lý và đảm bảo chính xác: sự kiện và số liệu chính xác, đúng thực tế và còn hiện thời, không được sử dụng sự kiện và số liệu đã quá cũ, các thông tin chung chung và lặp lại từ văn bản khác.

c) Bảo đảm sự lô gích về nội dung: sự nhất quán về chủ đề, bố cục chặt chẽ. Trong một văn bản cần khai triển những sự việc có quan hệ mật thiết với nhau. Như vậy vừa tránh được tình trạng trùng lặp, chồng chéo trong các quy định, sự tản mạn, vụn vặt của pháp luật và các mệnh lệnh, vừa giúp cho cơ quan ban hành không phải ban hành nhiều văn bản để giải quyết một công việc nhất định. Nội dung các mệnh lệnh và các ý tưởng phải rõ ràng, không làm cho người đọc hiểu theo nhiều cách khác nhau.

d) Sử dụng tốt ngôn ngữ hành chính-công vụ chuẩn mực. Ngôn ngữ và cách hành văn phải đảm bảo sự nghiêm túc, chuẩn xác, khách quan, chuẩn mực và phổ thông.

e) Đảm bảo tính hệ thống của văn bản (tính thống nhất). Nội dung của văn bản phải là một bộ phận cấu thành hữu cơ của hệ thống văn bản quản lý nhà nước nói chung

g) Nội dung của văn bản phải có tính dự báo cao.

h) Nội dung và cách thức trình bày cần được hướng tới quốc tế hóa ở mức độ thích hợp.

3. Tính đại chúng

Đối tượng thi hành chủ yếu của văn bản là các tầng lớp nhân dân có các trình độ học vấn khác nhau, trong đó phần lớn là có trình độ văn hoá thấp, do đó văn bản phải có nội dung dễ hiểu và dễ nhớ, phù hợp với trình độ dân trí, đảm bảo đến mức tối đa tính phổ cập, song không ảnh hưởng đến nội dung nghiêm túc, chặt chẽ và khoa học của văn bản. Phải xác định rõ là các văn bản quản lý hành chính nhà nước luôn luôn gắn chặt với đời sống xã hội liên quan trực tiếp tới nhân dân lao động, là đối tượng để nhân dân tìm hiểu và thực hiện.

Tính phổ thông, đại chúng của văn bản giúp cho nhân dân dễ dàng, nhanh chóng nắm bắt chính xác ý đồ của cơ quan ban hành, để từ đó có hành vi đúng đắn thực hiện pháp luật. Tính đại chúng cũng chính là tính nhân dân của văn bản, vì nhà nước ta là của dân, do dân và vì dân do đó nội dung của văn bản quản lý hành chính nhà nước còn phải phản ánh nguyện vọng chính đáng của đông đảo nhân dân lao động. Tính nhân dân của văn bản bảo đảm cho nhà nước thực sự là công cụ sắc bén để nhân dân lao động làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Cũng có thể coi tính nhân dân của văn bản là biểu hiện tính dân chủ của các quyết định quản lý.

Tính dân chủ của văn bản có được khi:

a) Phản ánh được nguyện vọng nhân dân, do đó vừa có tính thuyết phục, vừa động viên gây bầu không khí lành mạnh trong việc tuân thủ pháp luật và xây dựng đạo đức xã hội chủ nghĩa trong nhân dân.

b) Các quy định cụ thể trong văn bản không trái với các quy định trong Hiến pháp về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân. Khi quy định về nghĩa vụ phải quan tâm đến quyền lợi; khi quy định quyền lợi phải quan tâm đến biện pháp, thủ tục để đảm bảo quyền lợi đó được thực hiện. Tránh tình trạng chỉ quy định bắt buộc người dân phải làm thế này, thế kia, mà không quan tâm đến các điều kiện vật chất - kinh tế, chính trị-xã hội, tinh thần để người dân có thể nghiêm chỉnh chấp hành các quy định đó.

Để đảm bảo cho văn bản có tính đại chúng cần tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng xã hội liên quan đến nội dung chính của dự thảo; lắng nghe ý kiến của quần chúng để nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của họ; tổ chức thảo luận đóng góp ý kiến rộng rãi tham gia xây dựng dự thảo văn bản; sử dụng ngôn ngữ phổ thông đại chúng trong trình bày nội dung văn bản, tránh lạm dụng các thuật ngữ hành chính-công vụ chuyên môn sâu.

4. Tính công quyền

Như đã trình bày ở trên, văn bản quản lý hành chính có chức năng pháp lý và quản lý, tức là tuỳ theo tính chất và nội dung, ở các mức độ khác nhau văn bản phản ánh và thể hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cơ sở pháp lý để nhà nước giữ vững quyền lực của mình, truyền đạt ý chí của các cơ quan nhà nước tới nhân dân và các chủ thể pháp luật khác. ý chí đó thường là những mệnh lệnh, những yêu cầu, những cấm đoán và cả những hướng dẫn hành vi xử sự của con người được nêu lên thông qua các hình thức quy phạm pháp luật. Tính công quyền cho thấy tính cưỡng chế, bắt buộc thực hiện ở những mức độ khác nhau của văn bản, tức là văn bản thể hiện quyền lực nhà nước, đòi hỏi mọi người phải tuân theo, đồng thời phản ánh địa vị pháp lý của các chủ thể pháp luật. Để đảm bảo có tính công quyền, văn bản còn phải được ban hành đúng thẩm quyền, tức là chỉ được sử dụng văn bản giải quyết các công việc trong phạm vi thẩm quyền được pháp luật quy định. Trường hợp chủ thể nào đó ban hành văn bản trái thẩm quyền thì văn bản đó được coi là bất hợp pháp. Chính vì vậy, văn bản còn cần phải có nội dung hợp pháp, được ban hành theo đúng hình thức và trình tự do pháp luật quy định.

Một biểu hiện khác của tính công quyền là nội dung của văn bản quy phạm pháp luật phải được trình bày dưới dạng các quy phạm pháp luật. Nội dung của mỗi quy phạm pháp luật đều thể hiện hai mặt: cho phép và bắt buộc, nghĩa là quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự, trong đó chỉ ra quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Ngoài ra, nội dung của quy phạm pháp luật phải chặt chẽ, rõ ràng, chính xác và luôn được hiểu thống nhất. Quy phạm pháp luật có cơ cấu nhất định và có thể phân chia theo những tiêu chí nhất định thành nhiều loại khác nhau mà người soạn thảo văn bản cần nắm vững để có thể diễn đạt chúng một cách thích hợp. Diễn đạt quy phạm pháp luật là một bộ phận quan trọng của khoa học pháp lý, đòi hỏi người soạn thảo văn bản phải có một trình độ pháp lý nhất định, kiến thức tổng hợp nhiều mặt và kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ hành chính-công vụ tương ứng.

5. Tính khả thi

Tính khả thi là một yêu cầu đối với văn bản, đồng thời là hiệu quả của sự kết hợp đúng đắn và hợp lý các yêu cầu vừa nêu trên: không đảm bảo được tính Đảng (tính mục đính), tính nhân dân (tính phổ thông đại chúng), tính khoa học, tính quy phạm (tính pháp lý-quản lý) thì văn bản khó có khả năng thực thi. Ngoài ra, để các nội dung của văn bản được thi hành đầy đủ và nhanh chóng, văn bản còn phải hội đủ các điều kiện sau đây:

a) Nội dung văn bản phải đưa ra những yêu cầu về trách nhiệm thi hành hợp lý, nghĩa là phù hợp với trình độ, năng lực, khả năng vật chất của chủ thể thi hành. Được biết, việc xác định đúng những nội dung cần thiết của văn bản sẽ góp phần thúc đẩy phát triển của xã hội, của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, pháp luật không được cao hơn thực trạng nền kinh tế. Pháp luật chỉ được thực hiện có hiệu quả khi nó không vượt quá khả năng kinh tế. Nếu đặt ra các quy định, mệnh lệnh vượt quá khả năng kinh tế thì không có cơ sở, điều kiện vật chất để thực hiện, tức là văn bản "không có tính khả thi", làm tổn hại tới uy tín của Nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho việc vi phạm pháp luật. Ngược lại, nếu văn bản chứa đựng các quy phạm hay mệnh lệnh quá lạc hậu sẽ không kích thích sự năng động, sáng tạo của các chủ thể và làm lãng phí thời gian và tài sản của Nhà nước.

Chính vì thế nội dung của văn bản phải phản ánh được các quy luật kinh tế nhằm đưa ra các quy định, mệnh lệnh hướng nền kinh tế, cũng như toàn bộ xã hội vận động theo đúng các quy luật khách quan.

b) Từ yêu cầu trên ta thấy, khi quy định các quyền cho chủ thể được hưởng phải kèm theo các điều kiện bảo đảm thực hiện các quyền đó;

c) Đồng thời, phải nắm vững điều kiện, khả năng mọi mặt của đối tượng thực hiện văn bản nhằm xác lập trách nhiệm của họ trong các văn bản cụ thể.

2. Những yêu cầu về thể thức và kỹ thuật trình bày. (45’)

            Tại Công văn số 1053/VP ngày 12-8-1976, Thường vụ Hội đồng Chính phủ quy định việc sử dụng tiêu đề chỉ quốc hiệu và tiêu ngữ của văn bản như sau:

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Quốc hiệu được trình bày ở trên đầu trang giấy. Quốc hiệu có giá trị xác nhận tính pháp lý của văn bản.

Theo quy định của TCVN-5700-1992, dòng "cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam" viết bằng chữ in hoa, dòng "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" bằng chữ thường có các gạch nối ở giữa, phía dưới có gạch ngang.

(2) Tên cơ quan ban hành văn bản

Tên cơ quan ban hành văn bản cho biết vị trí của cơ quan ban hành trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Tên cơ quan được đặt ở góc trái tờ đầu văn bản, được trình bày đậm nét, rõ ràng, chính xác đúng như trong quyết định thành lập cơ quan, không viết tắt, sai chính tả tiếng Việt, phía dưới có một gạch dài.

Trong trường hợp có đề tên cơ quan chủ quản của cơ quan ban hành văn bản thì chỉ đề tên cơ quan cấp trên trực tiếp bằng chữ thường ở dòng trên, còn tên cơ quan ban hành viết bằng chữ in hoa ở dòng dưới.

(3) Số và ký hiệu

a) Đặc điểm:

Số và ký hiệu văn bản giúp cho việc vào sổ, tìm kiếm văn bản được dễ dàng.

Tuỳ theo tính chất của văn bản và khối lượng ban hành của mỗi cơ quan, tổ chức mà có thể đánh số cho thích hợp: riêng cho từng loại hoặc tổng hợp theo từng cụm văn bản.

Số văn bản được viết bằng chữ số Arập và được đánh từ 01 và bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 đến 31 tháng 12 mỗi năm; các số dưới 10 phải viết thêm số 0 ở đằng trước. Số văn bản được viết trước ký hiệu, ngăn cách với ký hiệu bởi một dấu gạch chéo (/).

Ký hiệu là chữ viết tắt tên loại văn bản và tên cơ quan ban hành văn bản. Giữa chúng có dấu gạch nối. Viết tắt tên loại văn bản để ký hiệu như sau:

BC    -        báo cáo                 NQ    -        nghị quyết

BB    -        biên bản               NQLT -       nghị quyết liên tịch

CT     -        chỉ thị                   PA     -        phương án

CTr   -        chương trình                  PB     -        phiếu báo

DV    -        diễn văn               PG     -        phiếu gửi

ĐA    -        đề án                    PL     -        pháp lệnh

GĐĐ -        giấy đi đường                 PT     -        phiếu trình

GGT  -        giấy giới thiệu       QĐ -  quyết định

GM   -        giấy mời               TB     -        thông báo

GUN -        giấy uỷ nhiệm       TC     -        thông cáo

KH    -        kế hoạch               TT     -        thông tư

L       -        lệnh                                -        thông tri

Lt      -        luật                       TTLT          -        thông tư liên tịch

NĐ    -        nghị định              TTr   -        tờ trình

Cần lưu ý, trong hệ thống văn bản quản lý nhà nước công văn là văn bản không có tên loại cho nên trong ký hiệu không có ký hiệu CV. Tuy nhiên, đối với hệ thống văn bản của Đảng thì công văn trong số và ký hiệu lại có ký hiệu này.

Cần lập bảng danh mục tên các cơ quan để xác định ký hiệu chuẩn cho các cơ quan đó. Tên cơ quan dù có dài cũng phải được ký hiệu đầy đủ. Chữ "và" trong tên cơ quan không cần phải thể hiện trong ký hiệu, thí dụ: Bộ Kế hoạch và Đầu tư - BKHĐT, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - BNNPTNT. Không nên ký hiệu kiểu HQ - Tổng cục Hải quan (nên dùng - TCHQ); GDĐT - Bộ Giáo dục và Đào tạo (BGDĐT). Ký hiệu viết tắt tên đơn vị soạn thảo cần được viết ngắn gọn: TCCB - tổ chức cán bộ; TC -tài chính; hc - hành chính, v.v... Cũng có thể ký hiệu tên các đơn vị bằng một chữ cái nhất định kèm theo với chữ số Arập: A12; B4; C5, v.v...

Ký hiệu văn bản được viết bằng chữ in hoa.

Số và ký hiệu của văn bản được ghi bên dưới tên cơ quan ban hành văn bản, ví dụ:

b) Cơ cấu của số và ký hiệu:

- Văn bản quy phạm pháp luật:

Số.../năm ban hành/viết tắt tên loại văn bản-viết tắt tên cơ quan ban hành

Năm ban hành phải viết đầy đủ các con số: 1999, 2000, 2001, ...

Ví dụ:

Số 154/2000/NĐ-CP

Số 238/2000/QĐ-BTC

- Văn bản cá biệt:

Số.../ viết tắt tên loại văn bản-viết tắt tên cơ quan ban hành(-viết tắt tên đơn vị soạn thảo)

Trong đó yếu tố “viết tắt tên đơn vị soạn thảo” không phải là nhất thiết (nếu có thì không đặt ngoặc đơn),ví dụ:

Số 52/QĐ-HVHCQG-TCCB

Số 136/QĐ-BNG

Số 42/CT-UB

- Văn bản hành chính thông thường:

+ Văn bản có tên loại:

Số.../ viết tắt tên loại văn bản-viết tắt tên cơ quan ban hành (-viết tắt tên đơn vị soạn thảo)

Trong đó yếu tố “viết tắt tên đơn vị soạn thảo” không phải là nhất thiết (nếu có thì không đặt ngoặc đơn).

Ví dụ:

Số 252/TB-HVHCQG-VP

Số 83/BC-BNG-LT

Số 14/BB-UB

+ Văn bản không có tên loại (công văn):

Số.../ viết tắt tên cơ quan ban hành-viết tắt tên đơn vị soạn thảo

Ví dụ:

Số 357/HVHCQG-VB

Số 975/BTC-HC

Số 1374/BTP-PC

(4) Địa danh, ngày tháng

a) Địa danh

Địa danh là địa điểm đặt trụ sở cơ quan ban hành, giúp cho nơi nhận văn bản theo dõi được địa điểm cơ quan ban hành nhằm liên hệ giao dịch công tác thuận lợi và theo dõi được thời gian ban hành.

Thông thường, văn bản của cơ quan, tổ chức đóng trên địa bàn đô thị thì ghi tên đô thị đó; văn bản ở huyện, xã được ghi địa danh là tên huyện, tên xã theo sự phân chia địa giới hiện hành.

b) Ngày tháng

Ngày tháng là ngày văn bản được thông qua (đối với văn bản của tập thể) hoặc thời điểm ký ban hành, do người ký điền vào. Ngày tháng được viết ngay dưới quốc hiệu, đầy đủ các chữ "..., ngày ...tháng . .. năm ...", những số chỉ ngày dưới 10 và chỉ tháng dưới 3 phải viết thêm số 0 ở đằng trước, không dùng các dấu chấm (.), dấu ngang nối (-) hoặc dấu gạch chéo (/), v.v... để thay thế cho các từ “ngày... tháng ... năm ... “.    

(5) Tên loại văn bản hoặc Nơi đề gửi

a) Tên loại

Trừ công văn, tất cả các văn bản đều có tên loại.

Không dùng những tên loại văn bản mà pháp luật không quy định (như: sắc lệnh, bố cáo, thông tri...). Tên loại văn bản được trình bày ở giữa trang giấy bên dưới yếu tố địa danh, ngày tháng. Đối với một số loại văn bản tên loại còn thông thường đi kèm với thẩm quyền ban hành (ví dụ: quyết định của uỷ ban nhân dân; chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, v.v...)

b) Nơi đề gửi

Đây là yêu tố đặc thù của công văn. Tuy nhiên, một số văn bản khác như tờ trình, phiếu trình, phiếu gửi, giấy mời, giấy giới thiệu, v.v... cũng có yếu tố này. Yếu tố này được bắt đầu bằng chữ “Kính gửi: ... “.

(6) Trích yếu văn bản

Là một câu ngắn gọn thể hiện tổng quát, chính xác nội dung chủ yếu của văn bản, giúp cho xác định nhanh chóng nội dung chủ yếu của văn bản, thuận tiện vào sổ và theo dõi giải quyết công việc, tra tìm khi cần thiết. Đó cũng chính là chủ đề nội dung của văn bản.

Yếu tố này được ghi phía dưới tên loại văn bản, bằng chữ in thường (có thể in chữ đậm).

Đối với công văn trích yếu được ghi bên dưới số và ký hiệu (không in đậm).

(7) Căn cứ ban hành văn bản

Đây là yếu tố thường có đối với văn bản đưa ra quyết định quản lý. Chỉ nêu những căn cứ trực tiếp liên quan đến nội dung của văn bản. Đó là những căn cứ pháp lý (theo quy định của văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn nào), căn cứ thẩm quyền (chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan ban hành văn bản), lý do ban hành (nhằm giải quyết vấn đề gì, theo đề nghị của cấp nào, cơ quan nào. .. Đối với văn bản được diễn đạt theo lối văn "điều khoản" phần này được trình bày tách biệt, sau hết mỗi căn cứ là dấu chấm phảy (;), hết căn cứ cuối cùng là dấu phảy (,). Đối với những văn bản được viết theo kiểu "văn xuôi pháp luật" thì phần căn cứ, thông thường, có thể được viết liền mạch vào phần nội dung, hoặc cũng có thể để viết tương tự như đối với các loại văn bản viết theo văn điều khoản.

(8) Loại hình quyết định

Loại hình quyết định phù hợp với tên loại văn bản, có thể được trình bày tách biệt (nghị quyết, nghị định, quyết định, ...) hoặc liền vào yếu tố căn cứ ban hành.

(9) Nội dung điều chỉnh

Đây là phần trọng tâm của văn bản. Tuỳ theo nội dung của từng loại văn bản mà phần này có thể được trình bày theo "văn điều khoản" hoặc "văn xuôi pháp luật". Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật phải được trình bày dưới dạng các quy phạm pháp luật.

Nội dung của văn bản phải được trình bày ngắn gọn, đủ ý, đảm bảo các yêu cầu về nội dung, cũng như các yêu cầu khác của kỹ thuật soạn thảo văn bản.

Trong việc áp dụng văn điều khoản nếu số lượng các điều khoản lớn thì phần nội dung được chia thành:

Phần (đánh số thứ tự bằng chữ số La Mã: I, II, III, IV,... )

Chương ( - chữ số La Mã)

Mục ( - chữ cái in hoa: A, B, C, ... )

Điều ( - chữ số ảrập: 1, 2, 3, ...)

Khoản ( - chữ số ảrập: 1, 2, 3, ...)

          Điểm ( - chữ cái thường: a, b, c, ...)

                   Tiết ( - )

Thông thường bố cục này được áp dụng để viết những văn bản như nghị định, quyết định.

(10) Điều khoản thi hành

Thông thường, các văn bản đưa ra quyết định quản lý đều có những điều khoản cuối cùng hay còn gọi là điều khoản thi hành, trong đó nêu rõ:

a) Hiệu lực của văn bản: Nêu thời điểm bắt đầu hoặc giới hạn thời gian văn bản có hiệu lực thi hành.

b) Xử lý văn bản cũ: Cần nêu rõ, cụ thể những văn bản hoặc quy định nào bị bãi bỏ toàn bộ hay một phần; trong trường hợp cần thiết có thể ban hành kèm theo danh mục các văn bản hay điều khoản bị bãi bỏ.

c) Các chủ thể có liên quan: Nêu những đối tượng chịu trách nhiệm chính trong việc triển khai, thực hiện, phối hợp, v.v... đối với văn bản được ban hành.

Phần điều khoản thi hành có thể trình bày bằng các điều khoản riêng.

(11) Thẩm quyền ký

Thẩm quyền ký bao gồm: hình thức đề ký, chức vụ, chữ ký và họ tên đầy đủ của người có thẩm quyền ký. Trong trường hợp văn bản do tập thể thông qua thì ghi trước chức vụ người ký T.M (thay mặt). Trong trường hợp cấp phó được ký về những việc đã phân công thì trước chức vụ đề K.T (ký thay). Ngoài ra tuỳ theo trường hợp văn bản có thể được ký T.L (thừa lệnh), T.U.Q (thừa uỷ quyền), Q. (quyền).

Phải ký đúng thẩm quyền, kiểm tra kỹ nội dung trước khi ký; ký một lần ở bản duy nhất; không ký trên giấy nến để in thành nhiều bản, không dùng bút chì, mực đỏ hay mực dễ phai nhạt để ký. Khoảng cách từ yếu tố chức vụ người ký đến họ và tên đầy đủ là 30mm. Nếu văn bản có nhiều trang toàn bộ mục thẩm quyền ký này phải được trình bày thống nhất tại trang cuối cùng.

(12) Con dấu hợp pháp

Dấu của cơ quan ban hành văn bản được đóng ngay ngắn, rõ ràng trùm lên 1/3 đến 1/4 về bên trái chữ ký. Dấu được đóng bằng màu đỏ tươi, màu quốc kỳ. Không đóng dấu không chỉ. Dấu phải đúng với tên cơ quan ban hành văn bản. Cụm chữ ký và dấu được trình bày ở dưới phần điều khoản thi hành, tại góc bên phải đối với văn bản một chữ ký; hoặc được dàn đều sang cả hai góc đối với văn bản liên tịch, trong đó vị trí của cơ quan chủ trì soạn thảo ở góc trên bên phải.

(13) Nơi nhận

Trong mục này ghi tên các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm thi hành công việc nói đến trong văn bản.

Nơi nhận ghi ngang hàng phần chữ ký, ở góc trái văn bản, nội dung bao gồm các nhóm đối tượng như sau:

a) Để báo cáo: là các cơ quan có quyền giám sát hoạt động của cơ quan ban hành văn bản mà cơ quan này phải gửi tới để báo cáo công tác.

b) Để thi hành: các cơ quan, tổ chức và cá nhân là đối tượng quản lý trực tiếp.

c) Để phối hợp: các đối tượng cần nhận văn bản để có sự phối hợp hoạt động, thông thường là các cơ quan kiểm sát, xét xử cùng cấp.

d) Lưu: bộ phận có trách nhiệm theo dõi và lưu trữ văn bản của cơ quan ban hành.

Nơi nhận cần được ghi rõ ràng, đúng đối tượng, ngắn gọn và hợp lý. Không viết vào văn bản mục đích của việc ghi (để báo cáo, để thi hành... ).

Khi cần thiết có thể ghi rõ số lượng văn bản cho mỗi nhóm để tiện việc sao, gửi cho đầy đủ.

(14) Dấu độ mật hoặc/và mức độ khẩn

Trong trường hợp cần thiết văn bản có thể có dấu hiệu chỉ mức độ mật ("Mật", "Tối mật", Tuyệt mật") hoặc/và mức độ khẩn ("Khẩn", "Thượng khẩn", "Hoả tốc", “Hỏa tốc hẹn giờ”). Việc đóng dấu này do người ký văn bản quy định. Văn thư đóng dấu này bằng mực dấu đỏ vào khoảng trống dưới số và ký hiệu theo đúng quy định của pháp luật.

(15) Tên viết tắt người đánh máy và số lượng bản phát hành

Yếu tố này được trình bày tại lề góc phải trang nhất ngang yếu tố địa danh, ngày tháng.

(16) Các yếu tố chỉ dẫn phạm vi phổ biến, dự thảo và tài liệu hội nghị

, như: “thu hồi”, "xem tại chỗ", "xem xong xin trả lại", “không phổ biến”, “lưu hành nội bộ”, “không đăng tin trên báo, đài”, v.v...

Cần lưu ý các văn bản phụ chỉ bao gồm các yếu tố (1), (2), (5), (6), (9), (10) (nếu như tại văn bản chính chưa trình bày), (11) và (12). Các phụ lục chỉ có yếu tố nội dung của mình và được đóng dấu treo. Các phụ lục được đánh số thứ tự bằng chữ số La Mã. Số trang của văn bản chính và số trang của các văn bản phụ và phụ lục được đánh chung số thứ tự và được ghi tại chính giữa lề trên và cách mép trên trang giấy 10mm.

Các yếu tố thuộc bố cục của văn bản được trình bày theo quy định nhất định và do đó cũng là những yêu tố thể thức của những văn bản đó, như: việc đặt lề để vùng trình bày, vị trí các yếu tố thể thức, phông, cỡ và kiểu chữ, độ giãn dòng, v.v... Thể thức của văn bản đảm bảo cho văn bản có tính pháp lý, tính khuôn mẫu và tạo điều kiện sử dụng thuận tiện văn bản trong thực tiễn quản lý nhà nước.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: