Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

mật mã tây tạng tập 6(chưa finish)

Chương 39

BÍ MẬT CỦA HITLER



Không có gì bất ngờ khi một kẻ cuồng tín năng lực siêu nhiên như Hitler và những kẻ ủng hộ quan điểm của ông ta trong giới chức Đức đương thời, đã tổ chức hàng loạt các hoạt động bí mật, họ huy động lực lượng đặc chủng SS, thành lập Ủy ban nghiên cứu về di sản tổ tiên để tìm kiếm chén thánh, rương thánh, nghiên cứu các văn tự cổ đại… và đặc biệt là những sự kiện ở Tây Tạng...

39.1

Tiết lộ về Mật tu giả



Cường Ba thiếu gia khôi phục chí khí khiến mọi người vui mừng khôn xiết, không khỏi có chút ồn ào, chẳng bao lâu một y tá liền xuất hiện nhắc nhở bọn họ rằng bệnh nhân cần được yên tĩnh nghỉ ngơi, không nên tập trung đông người ở đây như vậy, một hai người ở lại thì có thể được, còn những người khác phải đi ra ngoài.

Lúc này Trác Mộc Cường Ba đã tỉnh táo lại sau cơn say và sự kích động, trong lòng chất chứa bao nghi vấn, muốn hỏi cho rõ nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu. Ở một chỗ khác, giáo sư Phương Tân đang ngồi trước máy tính dường như hiểu được tâm trạng của gã. Vì vậy, khi mọi người chuẩn bị rời phòng, định để Đường Mẫn ở lại với Trác Mộc Cường Ba thì nghe tiếng ông vang lên qua thiết bị liên lạc: “Cánh Nam, cả đại sư nữa, hai người từ từ hãy đi, xin chuyển giúp tôi tài liệu này, tôi còn có chút việc muốn trao đổi với các vị.”

Trương Lập liền đề nghị, gần đấy có một siêu thị bán đồ ăn nhanh, hay là mọi người qua đó mua sắm một chút.

Vì vậy, Lữ Cánh Nam và Lạt ma Á La ở lại, những người khác rời khỏi phòng đi mua đồ ăn, trong khi y tá tiến hành đo huyết áp và nhiệt độ cho Trác Mộc Cường Ba, Lữ Cánh Nam và giáo sư Phương Tân bắt đầu thảo luận qua máy tính. Sau đó thì y tá rời khỏi phòng, Trác Mộc Cường Ba khẽ nhìn bóng lưng Lữ Cánh Nam, thấp giọng hỏi: “Đại sư, có chuyện tôi không hiểu.” Gã ngập ngừng một chút, rồi nói thẳng: “Trương Lập, Nhạc Dương quay lại trợ giúp tôi, tôi có thể hiểu được; với Ba Tang và đội trưởng Hồ Dương, tôi cũng không bất ngờ; nhưng khi ngài và Cánh Nam xuất hiện, tôi cảm thấy rất đột ngột, với bản lĩnh của hai người, khả năng tìm được một đội tốt hơn là hoàn toàn có thể, hơn nữa gia nhập đội của nhà nước cũng không có vấn đề gì? Vậy tại sao các vị lại chọn tôi?

Lạt ma Á La đứng lên, đi ra khép cửa phòng lại, lông mày của Lữ Cánh Nam chỉ hơi động đậy, có vẻ sớm lường trước Trác Mộc Cường Ba sẽ hỏi vấn đề này. Lạt ma Á la trở lại bên giường của Trác Mộc Cường Ba, chậm rãi nói: “Đúng vậy, Cường Ba thiếu gia, có một số việc chúng tôi chưa nói hết với cậu, tôi nghĩ giờ là lúc thích hợp rồi.”

Trác Mộc Cường Ba mở to mắt, im lặng lắng nghe, Lạt ma Á la nói: "Năm ấy Đạo quân ánh sáng tất cả biến mất trong một đêm, chuyện này tuy rằng bí ẩn nhưng dù sao hoàng gia và các đại gia tộc đều đã biết, nhưng có một chuyện mà ngay cả hoàng gia thời ấy cũng không biết. Đó là không phải toàn bộ Đạo quân Ánh sáng đều rời đi, mà họ đã lưu lại một chi đội, chi đội đó gồm toàn các thiếu niên mười hai, mười ba tuổi, chưa hoàn thành chương trình huấn luyện của Đạo quân Ánh sáng, nói cách khác, những thiếu niên này chưa phải là binh sĩ chính thức của Đạo quân Ánh sáng, chỉ là lực lượng dự bị để bổ sung trong tương lai, nhiều người trong đó thậm chí chỉ vừa được tuyển vào doanh trại huấn luyện của đạo quân này. Những... những cậu bé ấy, do hoàn toàn không hiểu về công việc của các binh sĩ chính thức trong Đạo quân Ánh sáng hoặc do chưa trưởng thành, có lẽ nguyên nhân chính đại loại như vậy, nên bị lưu lại ở một địa điểm bí mật. Nghe đâu tại nơi cư trú bí mật ấy, những em còn bé sẽ được các thiếu niên nhiều tuổi hơn một chút trong số họ tiếp tục huấn luyện, còn phải nhận lệnh không được rời khỏi nơi cư trú, chờ sau này Đạo quân Ánh sáng sẽ cử người về đón họ. Nhưng những thiếu niên ấy, mãi cho tới khi trưởng thành vẫn không nhận được bất cứ tin tức gì về Đạo quân Ánh sáng, họ đã bị bỏ rơi. Sau này, khi họ ra khỏi sơn cốc nơi ẩn thân thì bốn bề cao nguyên đã xảy ra phân tranh, chiến loạn liên miên. Những thành viên bị Đạo quân ánh sáng ruồng bỏ ấy, sau những biến cố thăng trầm của lịch sử cuối cùng phát triển thành một tổ chức đặc biệt mà người ta gọi là Mật tu giả, tức là những người như... chúng tôi!”

Tuy bề ngoài Trác Mộc Cường Ba vẫn duy trì được thái độ bình thường, nhưng thực tế thì trong lòng đang diễn ra những rung động lớn. Mặc dù gã cũng lờ mờ nhận ra Lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam có lẽ có liên quan đến Đạo quân Ánh sáng, thậm chí đã từng nghĩ tới bọn họ có thể là hậu nhân của tộc Qua Ba, nhưng khi đại sư chính thức thừa nhận, nhất thời gã khó mà tiếp thu ngay được. Bọn họ chính xác là Đạo quân Ánh sáng! Bị Đạo quân Ánh sáng bỏ rơi! Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn về phía màn hình máy tính, nơi có hình ảnh giáo sư Phương Tân đang trao đổi với Lữ Cánh Nam, gã và Lạt ma Á la thảo luận hẳn giáo sư cũng đã nghe thấy nhưng chẳng thấy ông phản ứng gì, hiển nhiên là đã biết chuyện này rồi.

Trác Mộc Cường Ba kinh hoàng nghĩ kỹ lại, với thân thủ như vậy, việc đại sư có liên quan với tộc Qua Ba và Đạo quân Ánh sáng là hoàn toàn có khả năng, thực ra mình từng đã nghĩ tới, chỉ là chưa được rõ ràng mà thôi. Đạo quân Ánh sáng vì sao lại bỏ rơi họ? Là bởi vì đối với sự tình xảy ra lúc đó họ hoàn toàn không hiểu? Hay là do không muốn những cậu bé ấy bị lôi cuốn vào vòng phân tranh? Vì sao lại không đưa những... cậu bé này trở về nơi tộc Qua Ba cư ngụ? Sự thực có lẽ rất hiển nhiên, lúc Đạo quân Ánh sáng ra đi có thể cũng giữ bí mật với chính bộ tộc của mình, như vậy việc không đưa những thiếu niên ấy trở về hoàn toàn có thể giải thích được. Thế nhưng hiện tại, Lạt ma Á La, bọn họ đi tìm Đạo quân Ánh sáng nhằm mục đích gì? Muốn tranh luận về việc ngày ấy đã bị bỏ rơi chăng? Trong lúc nhất thời hàng loạt vấn đề hiện lên trong óc.

Dường như Lạt ma Á La đã nhìn thấu tâm tư Trác Mộc Cường Ba, ông liền nói tiếp: "Năm ấy Đạo quân Ánh sáng ra đi không những chỉ mang theo toàn bộ châu báu có trong Tứ phương miếu mà còn cả toàn bộ điển tịch ở đó, nếu trong Tứ phương miếu chỉ cất giữ điển tịch của Phật giáo và Bản giáo thì cũng có thể bỏ qua, đằng này lại gồm cả giáo lý và điển lễ duy nhất của dân tộc Qua Ba chúng tôi. Việc truyền thụ và tiếp thu tín ngưỡng trong Qua Ba tộc đều là do Đại Bản Ba và các tế sư thuộc hạ của ngài đảm nhận, việc thực hiện nghi lễ và chăm sóc đời sống tinh thần của người trong tộc cũng là do bọn họ phụ trách. Nhưng họ đã biến mất cùng lúc với sự ra đi của Đạo quân Ánh sáng. Cậu biết đấy, dân tộc Qua Ba không có chữ viết, phần lớn binh sĩ trong Đạo quân Ánh sáng không biết chữ.

Trác Mộc Cường Ba gật đầu, việc này thì gã hiểu, hơn nữa trong thời cổ đại, đối với quân vương mà nói, chỉ cần binh sĩ trong các đạo quân hùng mạnh nghe, hiểu và phục tùng mệnh lệnh là được rồi, không hề đòi hỏi ở họ trí thông minh và kiến thức uyên bác.

Lạt ma Á La tiếp tục: "Trong Đạo quân Ánh sáng duy chỉ có những binh sĩ chịu trách nhiệm trông coi Tứ phương miếu, do việc phải tiếp xúc và bảo quản điển tịch mà vài người trong số họ có thể biết chữ, đồng thời, Đại Bản Ba cũng đem giáo lý mà mọi người tôn thờ ghi chép lại thành thánh điển, bảo tồn trong Tứ phương miếu. Bộ thánh điển này chứa đựng tất cả tín ngưỡng và đời sống tinh thần của tộc Qua Ba chúng tôi, và đó cũng là bộ thánh điển duy nhất."

Trác Mộc Cường Ba chợt bừng tỉnh, hiểu ra, nói: "Đại sư, vậy thứ mà các vị muốn tìm chính là..."

Lạt ma Á La nói: "Vốn dĩ tôn giáo của chúng tôi cũng đã từng có thời kỳ phồn vinh, nhưng không hề được lịch sử hiện tại đề cập đến một chút nào, giờ đây không thể phân biệt được nó trong các tôn giáo khác. Sau sự kiện diệt Phật là thời kỳ hơn một trăm năm hỗn loạn(*), tôn giáo của của chúng tôi cùng với Bạc Ba La thần miếu đều bị lịch sử triệt để lãng quên. Từ đó tới giờ, tôn giáo của chúng tôi, cũng giống như các tôn giáo đã bị lãng quên khác, thỉnh thoảng lại xuất hiện khi người ta khai quật các phế tích chiến tranh hay khảo cứu những ngôi làng cổ, nhưng chỉ như những mảnh vỡ nhỏ nhoi, rời rạc không chắp nối với nhau được. Chúng tôi không biết tên tôn giáo của mình, không hiểu giáo lý, chỉ dựa theo cách thức của các vị tiền bối đi trước và tham khảo vài mảnh kinh nhỏ nhặt còn sót lại mà lặng lẽ tu hành, nên chỉ đạt được những cảnh giới thấp. Ngày nay, tôn giáo của chúng tôi tựa như Phật giáo không có Phật hiệu, Cơ đốc giáo không có Kinh thánh; có những khoảng thời gian, người tu hành thậm chí không hiểu vì sao mình lại tiến hành tu luyện theo cách thức như vậy. Có không ít vị đại sư tiền bối, trong suốt quãng đời tu hành đã ghi lại những nghi vấn chất cao ngang với chiều cao của chính mình. Hơn một nghìn năm qua, chúng tôi đã không ngừng đi tìm lại tôn giáo của mình.
___________________
(*)Trừ những phần liên quan đến Bạc Ba La, Đạo quân Ánh sáng, Mật tu giả; việc Tùng Tán Can Bố tôn Phật, Lãng Đạt Mã diệt Phật, thời kỳ hỗn loạn hơn 100 năm sau sự kiện diệt Phật, cùng hầu hết các biến cố lịch sử khác của vương triều Thổ Phồn được đề cập trong truyện là khớp với lịch sử Thổ Phồn và lịch sử Phật giáo Tây Tạng.
Cũng cần phân biệt rõ, sự kiện diệt Phật ở trên là pháp nạn của Phật giáo Tây Tạng, không nằm trong bốn pháp nạn của Phật giáo Trung Quốc.
__________________

Trác Mộc Cường Ba thận trọng liếc nhìn Lữ Cánh Nam, hỏi nhỏ: "Như vậy, Cánh Nam cũng là người Qua Ba sao?"

"Không, Lữ Cánh Nam tuy là Mật tu giả nhưng không phải người Qua Ba, cô ấy thuộc về ngoại tịch, sự thực việc Mật tu giả chúng tôi là hậu nhân của Qua Ba tộc và Đạo quân Ánh sáng, lúc ban đầu ngay bản thân tôi cũng không biết, từ những phát hiện ở thôn Công Bố cùng các sự kiện tiếp sau đó, tôi mới dần dần hiểu rõ. Bởi vì Mật tu giả không hề có điện phủ riêng của mình, ngay từ đầu tổ tiên chúng tôi luôn có khuynh hướng dung nạp các tôn giáo khác, đồng thời cũng dựa vào các tôn giáo khác mà phát triển, nên hiện nay trong các hệ phái Phật giáo đều có Mật tu giả, ở Ấn Độ, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á cũng có Mật tu giả, bởi vậy có không ít Mật tu giả ngoại tịch. Có điều bọn họ đối với sự việc là hậu nhân của Đạo quân Ánh sáng thì không biết chút nào." Ánh mắt Lạt ma Á La lấp lánh nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói tiếp: “Chúng tôi không nói chuyện này với các cậu chính là bởi vì từ chuyến thám hiểm đầu tiên của Stanley cho tới nay, thực sự đã có rất nhiều đoàn thể và tổ chức đi tìm Bạc Ba La thần miếu, nếu bọn họ biết được thân phận đích thực của chúng tôi thì... Vì vậy, chuyện này, trừ cậu và giáo sư Phương Tân ra, những người còn lại chúng tôi đều không nói.”

“Tôi biết rồi.” Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn hiểu rõ ý tứ của đại sư, hứa sẽ giữ kín, lại hỏi: “Thưa đại sư, vậy khi nãy ngài nói mình không hiểu rõ về tôn giáo thần bí kia, nguyên do chỉ là không muốn chúng tôi sáng tỏ thân phận thực sự?”

“Không", Lạt ma Á La đính chính: "Những người Mật tu bị bỏ rơi như chúng tôi, đã hoàn toàn mất đi các quan niệm cơ bản về giáo lý, vì vậy, cũng có thể nói, chúng tôi không hề biết tôn giáo của mình hình thành khi nào, hưng thịnh ra sao, giáo lý như thế nào, đã xảy ra những sự kiện gì trong suốt quá trình hoạt động. Một kỳ quan huy hoàng mà chúng ta từng chứng kiến như Đảo Huyền Không tự chẳng hạn, chúng tôi hoàn toàn không biết gì về sự tồn tại của nó ngoài việc được nhắc đến ở một vài mảnh kinh, vẽ trên một hai bức họa; cánh cửa sinh mệnh ở thôn Công Bố theo giáo lý hẳn là một thánh đàn, người ở đó cũng là giáo hữu đồng bào, nhưng gần một nghìn năm qua chúng tôi không có quan hệ qua lại. Còn cổ độc thì hãn hữu có một vài quyển kinh ghi chép nhưng đại bộ phận đã bị thất lạc. Đối với gân sinh vật, trùng tử vong, bể a xít vân vân..., chúng tôi cũng giống như các bạn, chưa hề được nghe nói qua."

Trác Mộc Cường Ba khẽ thở dài, hỏi tiếp: "Đại sư, thế nhưng ngài vẫn chưa cho tôi biết, vì sao các vị quay lại giúp đỡ tôi, điều kiện hiện tại của chúng tôi so với đội của nhà nước, xác suất thất bại cao hơn rất nhiều đấy?"

"Bởi vì cậu là thánh sứ!" Lạt ma Á La nhìn Trác Mộc Cường Ba đang bó mình trong lớp băng vải, quả quyết: "Thực ra, những người Mật tu chúng tôi, dù ở nơi nào cũng đều có chung một loại truyền thuyết là chỉ thánh sứ mới đủ khả năng mở ra cánh cửa Bạc Ba La thần miếu, vì vậy dù trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào chúng tôi cũng sẽ đem toàn lực phò trợ cậu, trừ khi cậu bỏ cuộc."

Trác Mộng Cường Ba ngay tức khắc nhớ lại việc các trưởng lão thôn Công Bố vốn dĩ không gặp người ngoài, chỉ sau khi cùng Lạt ma Á La thảo luận mới đồng ý tiếp mình, liền hỏi: "Được rồi, thưa đại sư, các vị và người ở thôn Công Bố hẳn là cùng chung tôn giáo, vậy bọn họ căn cứ vào đâu để nhận biết tôi là thánh sứ? Còn Merkin nữa, vì sao hắn cũng là thánh sứ?"

"Không biết." Lạt ma Á La cười khổ: "Cường Ba thiếu gia còn không hiểu sao, đã hơn một nghìn năm qua chúng tôi không liên hệ với nhau, họ không biết rằng có chúng tôi, chúng tôi cũng không biết đến sự tồn tại của họ. Bọn họ nghiêm ngặt tuần thủ lời thề do tổ tiên truyền lại, trung thành với lời thề, chứ không trung thành với bất cứ con người cụ thể nào, vì thế, bí mật của họ bất cứ kẻ nào cũng không thể tìm hiểu được. Chẳng qua tôi phỏng đoán, vị thánh sứ chắc hẳn phải có điểm đặc biệt so với mọi người, tương tự trường hợp trong mười vạn người mới có một người mang nhóm máu AB âm tính, nhưng chắc không nhất định chỉ có một, hai đặc điểm nhận dạng, nếu không thì không thể giải thích vì sao tại người ngoại quốc cũng là thánh sứ."

Cuối cùng, Lạt ma Á La nói: "Bây giờ Cường Ba thiếu gia chắc không còn thắc mắc gì nữa, mặc dù chúng ta không có cùng mục đích nhưng lại cùng chung một con đường, chúng tôi cần sự giúp đỡ của cậu, Cường Ba thiếu gia ạ."

"Không, đại sư, xin ngài đừng nói như vậy." Trác Mộc Cường Ba vội đáp: "Là các vị giúp đỡ tôi, ngài, cả giáo quan nữa, không có các vị, đâu có tôi ngày hôm nay..."

Lúc này, giáo sư Phương Tân và Lữ Cánh Nam cũng đã trao đổi xong, ông hướng về phía Trác Mộc Cường Ba nói: "Được rồi, Cường Ba, cậu đã sáng tỏ về thân phận thực sự của đại sư và Cánh Nam, tôi nghĩ hiện giờ những thắc mắc trong lòng cậu cũng đã được giải đáp. Tôi phải bàn với cậu về kế hoạch tiếp theo của chúng ta."

Lữ Cánh Nam hướng máy tính quay về phía Trác Mộc Cường Ba để gã nghe được rõ ràng hơn. Giáo sư Phương Tân nói: “Vài ngày nữa Lạt ma Á La sẽ trở về gặp các giáo hữu để qua họ thu thập thêm tư liệu; Cánh Nam cũng cần quay lại Tây Tạng; đội trưởng Hồ Dương và Trương Lập có nhiệm vụ đi mua nhu yếu phẩm, vũ khí và trang bị; Nhạc Dương và Ba Tang thì lần theo một... đầu mối khác; còn Mẫn Mẫn sẽ ở lại chăm sóc cậu trong lúc cậu dưỡng thương.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Giáo sư, thầy nhắc tới đầu mối? Chẳng phải các đầu mối chúng ta có đều đã đứt cả rồi sao? Còn đầu mối nào nữa chứ?”

Ở đầu bên kia của máy tính, giáo sư Phương Tân nở một nụ cười, nói: "Có điều cậu chưa rõ, Cường Ba ạ, tuy những đầu mối đó của chúng ta đều đã bị đứt, nhưng các đầu mối khác vẫn thông suốt, hơn nữa, lúc này chúng ta lại có thêm những đầu mối mới."

Thấy điệu bộ Trác Mộc Cường Ba như muốn ngồi bật dậy, giáo sư Phương Tân nói: "Lúc ấy đội chúng ta bị giải tán quá đột ngột, có nhiều đầu mối không kịp chỉnh lý lại, sau đó cậu và chúng tôi lại mất liên lạc, cậu nhớ lại mà xem, khi ở địa cung Ahert Nam Mỹ, chúng ta ghi lại được rất nhiều bản chữ khắc, chẳng phải còn chưa được dịch hết sao? Còn nữa, bản dịch Cổ Cách kim thư các chuyên gia chuyển cho chúng ta mới chỉ có phần đầu, đúng không? Lúc chúng ta hành động họ đâu có đi theo, chẳng lẽ ở nhà vẫn dậm chân tại chỗ không dịch thêm được chút gì à, vừa nãy tôi và Cánh Nam thảo luận là về bản dịch mới đấy. Với lại, chúng ta không chỉ có bấy nhiêu đầu mối đó thôi...

Đang nói thì mấy người bọn Trương Lập trở về, mang theo gói lớn gói nhỏ đồ dinh dưỡng và hoa quả chất đầy cạnh giường, mọi người hết sức phấn khởi, liền nhỏ giọng vui đùa vài câu, bỗng nghe Trác Mộc Cường Ba dò hỏi: “Nhạc Dương, chúng ta phát hiện thêm đầu mối mới sao? Còn đầu mối nào nữa, tôi nghĩ mãi không ra.”

Nhạc Dương kéo chiếc ghế xoay ngược lại, ngồi xuống, một tay gác lên thành ghế, tay kia dùng để gối đầu, tiện thể nhặt một quả ô mai trong hộp mà Mẫn Mẫn vừa đưa qua, nhét vào miệng, rồi nói: “Cường Ba thiếu gia, anh còn nhớ cái thi thể của tên Đức Quốc xã gần thủy tinh cung không, ở cái thi thể đó chúng ta đã tìm thấy bao thuốc lá, trên có một ghi dòng chữ, anh nhớ ra chưa?”

Trác Mộc Cường Ba suy nghĩ một chút, rồi “À” lên một tiếng gật đầu. Nhạc Dương nói: “Những chữ đó giáo sư Phương Tân đã tìm được người dịch. Đầu mối này ngay tổ chuyên gia cũng không biết.”

Trác Mộc Cường Ba sững sờ: “Không... Không giao nộp cấp trên à.”

Chỉ thấy Nhạc Dương vò đầu bứt tai: “Cái này... lúc đó ra đi vội vàng quá, nói giải tán là giải tán ngay, nên quên.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Trong thời gian cậu suy sụp tinh thần, cũng là lúc tôi đi tìm chuyên gia dịch những văn tự này. Trong chiến tranh thế giới thứ II người Đức thường sử dụng mật mã để ghi chép nên dịch chúng cũng có chút trắc trở. Lúc này thì ta đã biết những chữ ấy đại ý nói: ‘Quay về căn cứ số 3, tìm kiếm, phá giải’ tựa như một câu nói, một mệnh lệnh. Mặt khác, bên trong hộp thuốc cũng có chút manh mối, trên điếu thuốc lá ghi năm sản xuất là 1945, chỉ mấy tháng sau thì người Đức thua trận, nói cách khác, bọn họ không còn khả năng để quay lại căn cứ; còn về phần muốn tìm kiếm và phá giải cái gì, chúng tôi cho rằng cần phải tiến hành nghiên cứu thêm. Thực ra, chúng tôi đã tìm được một vài thông tin là lúc đó nước Đức Quốc xã thiết lập ở Tây Tạng một số căn cứ, được đánh dấu trên bản đồ, hẳn hiện đang được lưu trữ tại Nga, xác đinh vị trí và tìm được căn cứ số 3, không chừng chúng ta sẽ có thêm những phát hiện mới. À, còn một đầu mối trọng yếu khác nữa, Trương Lập, đưa cho cậu ấy xem đi!"

Trác Mộc Cường Ba nhìn Trương Lập, chỉ thấy anh ta đưa ra mội quyển nhật ký bìa đen khá dày, nhưng Trác Mộc Cường Ba bỗng cảm thấy trong lòng bồi hồi, sửng sốt, rồi đột nhiên nhớ ra, thốt lên: "Nhật ký Đường Thọ!". Thấy Đường Mẫn ở bên cạnh khẽ gật đầu, Trác Mộc Cường Ba mừng đến mức ngồi phắt dậy, suýt nữa làm các vết thương trên người vỡ ra, chảy máu.

“Các cậu tìm thấy ở đâu thế?”

Trương Lập và Nhạc Dương nhìn nhau cười, nói: "Biết nói thế nào nhỉ, tóm lại có lẽ là do trời ban cho chúng ta, lần trước, khi quay về thì lập tức nhập viện, rồi sau đó đội bất ngờ bị giải tán, nên chúng tôi chưa kịp kể lại cho rõ ràng." Thế rồi hai người họ đem chuyện khi trở về gặp Tử vong Tây phong đới lâm nạn ra sao, bị gió cuốn đi rồi rơi vào lều bạt như thế nào nhất loạt nói lại, Trác Mộc Cường Ba nghe xong mới hiểu rõ việc tìm lại được nhật ký Đường Thọ quả thật ly kỳ. Gã cười, nói: “Các cậu không đem giao nộp à?”

Trương Lập hạ giọng nói: “Khi đó đâu có ai bết.”

Nhạc Dương thanh minh: “Cái này chẳng phải di sản thuộc sở hữu cá nhân của Mẫn Mẫn sao?”

Trác Mộc Cường Ba cầm quyển nhật ký, nôn nóng tìm kiếm những đoạn ghi chép có liên quan đến Bạc Ba La thần miếu, nhưng giở lật tới vài chục trang vẫn không có chút thu hoạch nào. Trương Lập đứng bên cạnh nói: "Không cần tìm nữa đâu, Cường Ba thiếu gia, có vài tờ đã bị người ta xé đi rồi. Ly khai trạm bảo hộ ở Khả Khả Tây Lý vốn là có ba người, chắc bọn họ lần theo các ghi chép trong nhật ký mà tìm đến được rừng tháp băng, nhưng tại nơi chúng tôi nhặt được quyển nhật ký chỉ phát hiện thấy có hai cái xác. Như vậy tức là có một người đã thoát khỏi cuộc tập kích của bầy rắn trắng, do còn lại có một mình nên hắn chỉ dám mang theo những trang bị tối cần thiết, ngay quyển nhật ký hắn cũng sợ cồng kềnh mà chỉ xé mang đi vài tờ quan trọng nhất. Chúng tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần rồi, trong đó chỉ còn lại những ghi chép của Đường Thọ về các chuyến thám hiểm khác, không có bất cứ nội dung nào liên quan đến Bạc Ba La thần miếu cả."

Trác Mộc Cường Ba cụt hứng gấp quyển nhật ký lại, nói: “Nguyên do là như vậy.”

Nhạc Dương khích lệ: “Thế nhưng Cường Ba thiếu gia đừng nản chí, anh còn chưa đọc kỹ quyển nhật ký mà, các ghi chép trong đó giúp ích cho chúng ta rất nhiều đấy. Đường Thọ đã mua vũ khí ở đâu, thông qua giao dịch chợ đen như thế nào, đều được ghi lại tỉ mỉ, điều này rất cần thiết đối với chúng ta trong hoàn cảnh hiện nay; trong nhật ký anh ta còn nhắc đến các trang bị, trong số đó, có cái ta đã từng sử dụng qua, có cái còn tiên tiến hơn, hữu dụng hơn. Đặc biệt là các thiết bị tự chế tạo, tôi và cả Trương Lập nữa, đều phải thừa nhận, anh trai của Mẫn Mẫn đúng là một thiên tài, thật không thể ngờ, anh ta lại chế được ra những trang bị hoàn hảo đến thế.”

Nhắc tới Đường Thọ, ánh mắt Đường Mẫn liền trùng xuống, không biết hiện giờ anh trai cô đang ở nơi đâu.

Trương Lập bổ sung: “Đúng như vậy, có quyển nhật ký này, coi như chúng ta được trang bị một cuốn bách khoa toàn thư về thám hiểm, giúp chúng ta tìm mua được những vũ khí và trang bị cần thiết một cách nhanh nhất và tiết kiệm nhất, mặt khác, Đường Thọ còn có thói quen giản kết; sau các ghi chép về mỗi chuyến thám hiểm, anh ta đều có một câu kết luận ngắn gọn. Anh xem đi, ở đoạn đầu, khi xâm nhập động băng xuyên so với rừng tháp băng mà chúng ta đã chứng kiến nguy hiểm có ít hơn, nhưng anh ta lại kết luận một câu: 'Dễ hơn tưởng tượng!'. Anh ta miêu tả hành trình thám hiểm rừng nguyên sinh châu Phi, so với thử thách của chúng ta ở rừng Amazon thì có phần hung hiểm hơn, chỉ bằng bốn chữ: 'Coi như có thể!'. Trong việc khám phá lăng mộ chưa bị khai quật của một Pharaoh, với kiến thức của người Ai Cập cổ về sử dụng thực vật mục để tạo thành khí độc, lợi dụng dòng chảy của cát để khởi động các loại bẫy rập, vận dụng chuỗi thức ăn tuần hoàn trong môi trường sa mạc để duy trì các loại độc vật, thì ở đó so với nguy hiểm chúng ta từng chứng kiến ở Đảo Huyền Không tự cũng chẳng kém chút nào, anh ta kết luận: 'Khá là hấp dẫn!', chỉ với bốn chữ đơn giản thế thôi. Nhưng anh hãy giở trang cuối cùng, trang này sót lại sau phần bị tên kia xé mất, xem anh ta viết gì trước khi rời bỏ quyển nhật ký...”

39.2

Đội trưởng Trác Mộc Cường Ba



Trác Mộc Cường Ba lật giở đến trang cuối, quả nhiên phía trước có dấu vết vài tờ đã bị xé rách, rốt cuộc câu kết luận ấy chỉ có mười chữ "Thật là đáng sợ! Không thể vượt qua... Xảy ra..." Mấy chữ này viết ngoáy rất khó đọc, đặc biệt là chữ "ra" sau cùng bị kéo vặn vẹo, xiên ngang tờ giấy, so với nét chữ rắn rỏi cương nghị của Đường Thọ ở phần đầu thì khác hẳn, như thể được viết bởi hai người khác nhau, có thể hình dung Đường Thọ đang âm thầm ghi nhật ký hành trình thì đột nhiên run tay, vậy rốt cuộc anh ta đã trông thấy cái gì? Trác Mộc Cường Ba nhớ lại trường hợp của Ba Tang và người điên đã gặp ở Mông Hà, các hành vi quái đản điên cuồng của họ tái hiện trong đầu gã.

Trương Lập cảm khái nói: "Qua các ghi chép ở phần đầu cuốn nhật ký cho thấy, năng lực của Đường Thọ hẳn là cao hơn mặt bằng chung của chúng ta hiện nay, thậm chí tôi còn có cảm giác, thân thủ của anh ấy, xét về độ nhanh nhạy có lẽ còn vượt qua cả Lạt ma Á La nữa, kiến thức thì thật phong phú, không gì là không biết. Thật không tưởng tượng nổi, tuổi tác anh ta so với tôi đâu có hơn kém nhau bao nhiêu."

Nhạc Dương liếc nhìn Đường Mẫn, rồi nói với Trương Lập: "Đừng có mà nói chuyện giật gân ở đây nhé, anh tính dọa mọi người sợ đến thần hồn nát thần tính chắc, còn đi đứng gì nữa?"

Đường Mẫn nói: "Không… Mọi người còn chưa hiểu hết về anh trai tôi, khả năng của anh ấy không chỉ có thế thôi đâu, tôi nhớ có lần đã từng được xem anh ấy tập luyện, trước đây thì không hiểu là gì, bây giờ nghĩ lại mới biết thì ra anh tôi tập leo núi bằng một tay với năm mươi kilogram hành lý mang theo."

"Nói khoác." Nhạc Dương ngó Đường Mẫn, tỏ ý không tin một chút nào, Đường Mẫn cũng bĩu môi trợn mắt nhìn lại cậu ta.

Trương Lập nói: "Chuyện đó không quan trọng, tôi thừa nhận năng lực của mình kém anh ấy, nhưng chỗ khác biệt là anh ta luôn đơn độc, một mình thực hiện các cuộc thám hiểm, còn chúng ta có cả một nhóm người, đây là ưu thế."

Giáo sư Phương Tân nói: "Ngoài điểm đó ra, còn có thân phận thánh sứ của cậu nữa chứ, lúc này các đầu mối đang lần lượt ló ra, chúng ta cần phải tiến hành tìm tòi phân tích, hiện tại cậu đã nắm rõ toàn bộ tình hình rồi, vậy thì cứ theo kế hoạch đã phân công mà tiến hành. Tư liệu về Thế chiến thứ hai giờ chắc không còn được xếp vào diện phải bảo mật nữa, trước mắt chúng tôi đang cố gắng liên hệ về phía nước Nga, Nhạc Dương và Ba Tang đang phụ trách đầu mối này, bọn họ sẽ đi Moscow để tìm cách thu thập, sao chép bản đồ của quân Đức nếu chúng được lưu trữ ở đó."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Vậy sau khi tôi bình phục, thì làm công việc gì?"

Giáo sư Phương Tân cười, nói: "Cậu ấy à, khỏi cần phải chờ đến khi bình phục, tôi sẽ tổng hợp các tài liệu hiện có và những tài liệu thu thập được sau này, chuyển qua internet cho cậu để cậu nghiên cứu. Chúng tôi phối hợp giải quyết các đầu mối, rồi xem cậu có lãnh đạo mọi người tìm được Bạc Ba La thần miếu hay không nhé, đội trưởng."

"Đội trưởng?" Trác Mộc Cường Ba sửng sốt, chỉ vào mình nói: "Tôi? Tôi làm đội trưởng sao?" Chỉ thấy mọi người xung quanh đều mỉm cười gật đầu.

Giáo sư Phương Tân nói: "Trong một đội ngũ, phải có người chỉ huy, nếu không thì không thể xuất hành, đây cũng là do mọi người cùng nhau thảo luận và đi đến thống nhất, cậu tương đối thích hợp với vị trí này, hãy phát huy tốt khả năng lãnh đạo của cậu, Cường Ba ạ."

Trương Lập nói: "Cường Ba thiếu gia, anh làm đội trưởng là đúng rồi, còn có gì không ổn sao?"

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: "Không thể được, nói thật, nếu như tôi tự mình đứng ra tổ chức đi tìm Bạc Ba La thần miếu thì có thể sẽ đảm nhận trọng trách này, nhưng cùng mọi người kề vai sát cánh mấy năm nay, đã hiểu rõ về nhau; luận về thân thủ, tôi thua Lạt ma Á La và giáo quan Lữ Cánh Nam; nói về cơ biến, tôi không bằng Trương Lập, Nhạc Dương; so về kiến thức, tôi không thể sánh được với thầy giáo và đội trưởng Hồ Dương, tôi không có bất kỳ ưu điểm nào hơn mọi người, lãnh đạo làm sao được. Trước nay vẫn là giáo quan chỉ huy chúng ta, vị trí đội trưởng phải do cô ấy tiếp tục đảm nhận mới đúng.

Lữ Cánh Nam nói: "Đã chấm dứt thời kỳ huấn luyện từ lâu nên tôi đã không còn là giáo quan của mọi người nữa rồi, hiện giờ tôi cũng chẳng có gì mới để có thể tiếp tục huấn luyện mọi người, tôi chỉ là một thành viên trong đội thôi. Hiệu quả hành động và xác suất thành công của một đội ngũ phụ thuộc vào năng lực chỉ huy của người lãnh đạo và sự phục tùng mệnh lệnh một cách tuyệt đối của các đội viên, trên chiến trường, dù cấp trên ra lệnh hy sinh cũng không được đắn đo, nếu là tôi đảm nhận trọng trách này thì..." Cô nhìn về phía Trương Lập và Nhạc Dương một chút, rồi nói tiếp: "Trước hết là hai sĩ quan kia sẽ luôn nghi ngờ. Chắc anh còn nhớ, trong những lần hành động vừa qua, họ thắc mắc còn ít lắm hay sao? Đội ngũ cũ do tôi phụ trách vốn đã lủng củng, giờ tiếp tục thì chỉ rệu rã thêm thôi. Còn anh, Cường Ba thiếu gia, chẳng rõ anh có chú ý không, hễ anh đưa ra kiến nghị hoặc yêu cầu gì, họ đều lập tức làm theo mà không hề hỏi tại sao. Hình thể và tướng mạo là một trong những tố chất cần thiết người lãnh đạo, anh lại có ưu thế về điểm này, khiến cho mọi người có thể toàn tâm nguyện ý đi theo. Hơn nữa, nếu xét về năng lực một cách tổng quát, anh cũng không thua kém bất cứ ai trong nhóm. Chỉ là thời gian trước đây, khi mới gặp nhau tính anh vốn lãnh đạm, hơn nữa, trong quá trình học tập và hành động lại không phát biểu ý kiến một cách tùy tiện, nên mọi người không chú ý. Bây giờ cùng nhau bàn bạc, các ưu điểm của anh mới đột nhiên hiện ra. Chúng tôi đều tin tưởng, nếu anh chỉ huy, đội ngũ sẽ đi theo đúng hướng."

Nói xong, cô khẽ nhìn Đường Mẫn, có điều gì đó không cam tâm hiện ra trong ánh mắt. Trác Mộc Cường Ba lại nói: " Vậy thì để đội trưởng Hồ Dương lãnh đạo mọi người đi, đội trưởng Hồ Dương kinh nghiệm về thám hiểm, khảo sát rất phong phú, vốn đã làm đội trưởng nhiều năm, anh ấy còn..."

Đội trưởng Hồ Dương lập tức ngắt lời: "Thôi, đừng có thếp vàng lên mặt tôi nữa, cậu nói tốt xấu gì tôi cũng mặc kệ. Tôi chỉ có chút kinh nghiệm về khảo sát khoa học ở miền địa cực, mấy thứ rừng nguyên sinh gì gì đó tôi chưa từng đặt chân, mặt khác tôi lại là người mãi về sau mới tham gia vào chuyện này, chỉ huy không tốt, hẳn kết cục sẽ rất thảm đấy." Anh tiến đến vỗ vỗ vào vai Trác Mộc Cường Ba qua lớp băng vải, nói tiếp: "Cậu làm đội trưởng rất có tiền đồ đấy, cứ yên tâm mà nhận đi, đừng... đừng có chối quanh nữa, tôi nghĩ rồi, ngoại trừ làm đội trưởng, cậu đâu có làm được việc gì khác."

Giáo sư Phương Tân nói: "Đã nghe rõ chưa, lần hành động này là do cậu người khởi xướng, tất cả mấy người chúng tôi đều bị cậu kéo xuống nước ngồi chung một thuyền rồi, cậu không gách vác việc này là không được đâu, sinh mạng mọi người giao cả vào tay cậu đấy."

Ngay tức khắc, Trương Lập là người đầu tiên hưởng ứng, vỗ vào cánh tay Trác Mộc Cường Ba, rồi nói: "Giao cho anh, đội trưởng."

Nhạc Dương cười, cũng vỗ Trác Mộc Cường Ba một cái, nói: "Mạng của tôi cũng giao cho anh, Cường Ba thiếu gia."

Đường Mẫn dịu dàng đặt nhẹ tay lên lớp băng vải, ánh mắt cô dường như muốn nói với gã: "Sống là người của anh, chết cũng là ma theo anh."

Lữ Cánh Nam đập mạnh vào cánh tay Trác Mộc Cường Ba khiến gã hơi đau, ánh mắt cô... Ánh mắt ấy hình như chẳng khác gì Mẫn Mẫn, Trác Mộc Cường Ba choáng váng, đâu phải là hình như, đấy chắc chắn là nguyện cùng sống chết, ôi, nguyện cùng sống chết...

Ba Tang cũng xích lại gần, vẫn lạnh lùng cố hữu: "Tôi đáp ứng nguyện vọng của anh trai tôi, sẽ đem tính mạng mình để bảo vệ thiếu gia."

Nhìn sự tín nhiệm mình tràn ngập trong ánh mắt mọi người, Trác Mộc Cường Ba cảm xúc dâng trào, đồng thời cũng thấy trách nhiệm và áp lực đè nặng lên vai.

Tất cả ở lại bệnh viện, cùng Trác Mộc Cường Ba hàn huyên suốt cả buổi, đều nói giải thể là chuyện vặt không đáng quan tâm, Trác Mộc Cường Ba cũng đem những sự việc xảy ra trong thời gian qua khắc cốt ghi tâm chôn sâu dưới đáy lòng, mọi người cũng giữ ý, không nhắc tới nữa. Cho đến buổi tối, bác sĩ một lần nữa nhắc nhở rằng người bệnh cần được yên tĩnh nghỉ ngơi, phải đi ngủ sớm, lúc đó mọi người mới ra về, còn hẹn sáng mai sẽ đến, riêng Đường Mẫn thì ở lại chăm sóc Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba phát hiện, từ lúc chia tay lần trước, lần này trở về Đường Mẫn dường như càng thêm gắn bó với gã, nguyện sinh ly tử biệt cùng nhau. Gã thầm nghĩ: cô bé này bản tính vẫn không hề thay đổi. Nhân khi mình bị thương, Đường Mẫn đang mềm lòng, Trác Mộc Cường Ba tranh thủ tìm hiểu rốt cuộc trên núi tuyết mình đã làm sai chuyện gì khiến cô tức giận đến mức phải bỏ đi như vậy.

Không ngờ, khi Trác Mộc Cường Ba hỏi chuyện này, khác với bình thường, Đường Mẫn nghiêm mặt mà hỏi lại: "Cường Ba, anh phải nói thật với em, rốt cuộc anh có tình cảm với giáo quan hay không? Em biết, giáo quan rất tốt đối với anh, em đâu có mù, tất nhiên phải nhận ra."

Trác Mộc Cường Ba trả lời kiên quyết: "Không có, cho đến bây giờ anh cũng không hề nghĩ tới chuyện này, em vốn hiểu anh cơ mà, anh là kẻ ăn ở hai lòng sao? Em là vì, vì cái chuyện kia... mà tức giận à?"

Đường Mẫn nói: "Anh... lúc đó anh nói: nên làm như vậy từ sớm hơn mới phải... Anh... Có đúng là anh đã sớm tưởng tượng đến chuyện đó không?"

Tim Trác Mộc Cường Ba đập thình thịch, câu này vốn dĩ là nói sai rồi, song cũng âm thầm suy tư, lẽ nào chính trong tiềm thức mình đã thực sự nghĩ như vậy? Không, mình đang nghĩ gì thế này, mình đối với Mẫn Mẫn luôn toàn tâm toàn ý, từ lúc cô ấy xuất hiện đã làm thay đổi cả sinh hoạt của mình, cũng là người hiểu ý mình nhất, hai người quấn quýt bên nhau, cô ấy vì mình mà không quản khó khăn vất vả, bất chấp sống chết, mình sao có thể nghĩ đến cô gái khác được cơ chứ.

Trác Mộc Cường Ba đã sáng tỏ sự tình, liền nói: "Em là người tri kỷ của anh đâu phải chỉ mới một ngày, sao bây giờ lại nảy sinh suy nghĩ đó? Mẫn Mẫn, em không còn là một cô bé nữa, em đã trưởng thành..., cơ sở của tình yêu là sự tin tưởng lẫn nhau. Chúng ta đem cả sinh mạng mà trao cho nhau, phải giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn để đi tới đích, em, em không nên nghi ngờ anh!"

Đường Mẫn dịu dàng úp mặt vào ngực Trác Mộc Cường Ba, đau xót thổn thức: "Cường Ba, anh có biết không, em sợ! Em sợ một ngày nào đó anh sẽ rời bỏ em! Em xin anh, đừng rời bỏ em, đừng bỏ em lại một mình! Em biết, em chỉ giỏi khóc, chẳng giúp anh được chuyện gì, em. . . Em không xứng đôi với anh được như giáo quan, cũng không có được bản lĩnh như là chị ấy, em chỉ còn có mỗi anh... Em sợ sẽ mất anh..." Nói rồi khóc òa lên.

Trác Mộc Cường Ba vuốt ve mái tóc huyền, thì thầm: "Em xem mình kìa, làm sao vậy? Sao lại mất tự tin thế chứ? Anh nghĩ, tình cảm giữa chúng ta như vậy mà vẫn chưa đủ chứng tỏ rõ ràng sao? Hay là ngày mai chúng ta đi đăng ký kết hôn luôn, em thấy thế nào?"

Đường Mẫn ngẩng đầu lên, tựa như một diễn viên hí kịch, ngưng khóc mỉm cười ngay, rồi chợt lắc đầu: "Không, em không muốn thế đâu, cứ như là em ép buộc anh ấy. Nhưng sau khi đã tìm được Bạc Ba La thần miếu rồi, em yêu cầu anh... Anh phải đường đường chính chính cầu hôn em, rồi tổ chức một lễ cưới thật long trọng! Anh có đồng ý không?"

Trác Mộc Cường Ba khẽ nâng khuôn mặt nhỏ nhắn xinh xắn của Đường Mẫn lên, nhìn vào đôi mắt tha thiết của cô, thần thái này, đôi mắt ấy chứa đựng một sự thỉnh cầu mà gã không thể nào từ chối được. "Ừm, tất nhiên là anh đồng ý. Vì em thích du hành trên biển, chúng mình sẽ mua một hòn đảo nhỏ ngoài khơi Croatia, mỗi khi đẹp trời hai ta sẽ căng buồm ra khơi, trên đảo còn nuôi cả một bầy chó chăn cừu nữa, đấy là thế giới chỉ thuộc về em và anh, mình sẽ cùng nhau xây dựng nó, em có chịu không?"

Khóe mắt Đường Mẫn bừng sáng, những giọt nước mắt hạnh phúc cứ ào ạt tuôn rơi, lúng túng gật đầu. Nhìn người yêu đã cởi bỏ được những khúc mắc trong lòng, Trác Mộc Cường Ba không khỏi vui mừng, nhưng đồng thời nỗi lo lắng cũng ập đến, Bạc Ba La thần miếu, Bạc Ba La thần miếu dễ tìm như vậy sao? Những ngày có thời tiết tốt nhất đã qua rồi, trở lại đỉnh núi tuyết bằng cách nào đây? Nơi ấy, căn bản là không thể chinh phục được! Nghĩ tới đây, gã chỉ muốn ngay lập tức liên lạc với giáo sư Phương Tân, ngay cả khi có đầy đủ trang thiết bị, cũng làm sao mà vượt qua được Tây phong đới lần nữa? Lại còn màn sương mù dày đặc phủ kín đỉnh núi nữa chứ, hay là thày giáo có biện pháp khác?

An ủi Đường Mẫn vừa xong, lại nghe thấy bên ngoài có tiếng gõ cửa, thì ra là Lữ Cánh Nam quay lại, Đường Mẫn vội đứng dậy rót mời cô một cốc nước nóng, Lữ Cánh Nam nhận cốc nước rồi hướng về Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi có chuyện này muốn trao đổi riêng với anh."

Đường Mẫn hiểu ý nói: "Được rồi, Cường Ba, chẳng phải anh muốn ăn khuya sao? Em ra ngoài đi mua cho anh, hai người cứ ở đây trò chuyện nhé!" Đi tới cửa, cô còn quay lại tặng cho Trác Mộc Cường Ba một cái nhìn cảnh cáo, nếu không có băng vải quấn quanh người gã, Lữ Cánh Nam nhất định sẽ nhìn thấy Trác Mộc Cường Ba vừa... đổ mồ hôi. Cho đến khi bước chân của Mẫn Mẫn xa dần, Trác Mộc Cường Ba mới khôi phục được bình tĩnh, gã hiểu, giáo quan đột nhiên một mình quay lại, chắc hẳn phải có việc gì đặc biệt quan trọng, liền nói: "Giáo quan ngồi đi."

Lữ Cánh Nam nói: "Mẫn Mẫn không sao chứ? Hình như vừa mới khóc."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Không, không có gì đâu. Có chuyện gì vậy, giáo quan?"

Lữ Cánh Nam nói: "Lần này, bởi vì anh là đội trưởng nên có hai việc tôi phải trao đổi với anh, việc thứ nhất, trước đây tôi đã nói với anh rồi: trong nhóm của chúng ta, có lẽ có không dưới một người là do tổ chức tìm kiếm Bạc Ba La khác cử tới nằm vùng; giờ đây anh là người phụ trách cả nhóm, tôi và Lạt ma Á La đều hy vọng, các thông tin quan trọng mà chúng ta thu được, chỉ nên giới hạn giữa anh và giáo sư Phương Tân, không nên tiết lộ cho người thứ ba..."

Đây là việc mà Trác Mộc Cường Ba vốn khó chịu nhất, gã lạnh lùng nói: "Giống như chúng ta trước đây sao? Bắt mọi người đi theo một cách hồ đồ, không biết mình đang đi đâu, cũng không biết đang tìm kiếm cái gì? Xin lỗi, việc này tôi không làm được, Lữ giáo quan, cô có nghĩ tới điều này hay không, trong đội ngũ của chúng ta, mọi người đều đem sinh mạng mình mà trao vào tay Trác Mộc Cường Ba tôi, chúng ta đều nguyện sinh tử cùng nhau vượt qua khó khăn nhằm hướng tới đích. Họ có lý do gì để mà lừa dối tôi chứ? Họ bán đứng mọi người thì có lợi gì? Dựa vào đâu mà tôi phải giấu họ những đầu mối chúng ta đang nắm giữ? Tại sao lại không cho họ biết họ sắp phải đối mặt với những tình huống nào, họ sắp đi đâu? Lữ giáo quan, nói thật với cô, tôi rất có thành kiến với cách làm này, lần thất bại ở núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc vừa rồi, cũng một phần nguyên nhân là do thiếu minh bạch về mục tiêu đang được tìm kiếm."

Lữ Cánh Nam nói: "Anh biết không? Lần trước tại Đảo Huyền Không tự, Lạt ma Á La đã xác nhận cái gã đàn ông mà các anh nhìn thấy khi đang chuẩn bị mở Cánh cửa cấm kị ở địa cung Aherz, khi ấy đang có mặt trong đội ngũ Merkin, mọi thứ không phải vừa khớp sao, Merkin rõ ràng có thông tin về hành động của chúng ta."

Trác Mộc Cường Ba vẫn kiên quyết: "Biết đâu không phải là do bị người khác nghe trộm, sao giáo quan cứ nhất quyết là do người trong nhóm chúng ta tiết lộ tin tức? Còn nữa, không phải các vị nghi ngờ có một ai đó trong chúng tôi sao? Sao lần này lại tin tưởng ở tôi như vậy?"

Lữ Cánh Nam khẽ cắn môi, dường như muốn nói với gã điều gì đó, nhưng cuối cùng kìm được, khẽ nói: "Không, thật ra đối với anh và giáo sư Phương Tân, chúng tôi không hề nghi ngờ, kẻ mà chúng tôi muốn nói, là những người khác…"

Trác Mộc Cường Ba cười lạnh, nói: "Ừm, nhưng tôi vẫn không hiểu, tất cả mọi người là bạn bè đồng sinh cộng tử nhưng lại có sự nghi ngờ lẫn nhau, như thế khi hiệp tác còn có ý nghĩa gì nữa chứ? Lữ Cánh Nam, tôi hỏi cô, nếu tôi và cô cùng góp vốn làm ăn, tôi muốn cô đưa tiền cho tôi, mà chỉ nói rằng nhất định có cơ hội kiếm tiền, nhưng không hề nói kiếm tiền theo cách nào, kiếm được bao nhiêu, lúc ấy cô sẽ nghĩ sao? Liệu cô có chẳng mảy may do dự mà đưa tiền ngay cho tôi không? Đấy chỉ là nói đơn thuần về mặt kinh doanh thôi, còn những thứ mà chúng ta đang sắp phải đối mặt ở đây, bất cứ lúc nào cũng có thể nguy hiểm tới tính mạng, tôi có thể có giấu diếm các thành viên trong đội không? Xem ra cô đã làm công tác bí mật trong nhà nước quá lâu rồi, phải không?


Lữ Cánh Nam suy nghĩ một chút, rồi đành thỏa hiệp: "Tốt lắm, anh đã kiên trì với phương pháp của mình, tôi cũng chỉ có thể nói thật với anh, anh sẽ nhận được những tin tức từ phía tôn giáo của chúng tôi, nhưng không phải toàn bộ, mà có lựa chọn, đồng thời, cũng như trước đây tôi hy vọng anh giữ kín giùm, có được không?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Ồ, về những khía cạnh liên quan đến tôn giáo của các bạn, tôi cam đoan với cô, sẽ chỉ có tôi và giáo sư Phương Tân biết, nhưng mọi thông tin có liên quan đến Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta đang nắm giữ và sẽ phát hiện từ các đầu mối hiện có, tôi nhất định phải phổ biến cho toàn thể các đội viên."

Lữ Cánh Nam lẩm nhẩm: "Vậy thì, việc thứ hai..." Cô cau mày, có vẻ hết sức băn khoăn, Trác Mộc Cường Ba chỉ biết ngây ra nhìn.

Rốt cuộc, sau hồi lâu do dự, Lữ Cánh Nam khẽ cắn môi, dường như đã hạ quyết tâm, nói: "Cường Ba thiếu gia, tuy rằng cơ thể anh bên ngoài chưa có chuyển biến xấu, nhưng về thể chất lại đang có sự thay đổi, vi sinh vật kia gây tác động làm giảm tính năng vận chuyển oxy của hồng cầu trong máu anh, tình trạng này không thể ngăn chặn được. Muốn giữ nguyên thể trạng của anh như trước đây, cần phải có phương pháp khắc phục khác.

Trác Mộc Cường Ba vốn không nghĩ tới việc thứ hai này lại là liên quan đến vấn đề sức khỏe của gã, vội hỏi: "Làm cách nào? Uống thuốc à?"

"Không." Lữ Cánh Nam nói: "Đây mới là việc chủ yếu khiến đêm nay tôi quay lại gặp anh, từ hôm nay trở đi, tôi sẽ dạy anh cách... Hô hấp!"

"Hô hấp?" Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc nói, không khỏi nhớ tới việc Lạt ma Á La đã kiểm tra việc hô hấp của mình.

"Đúng thế." Lữ Cánh Nam khẳng định nói: "Hô hấp, đó là việc mà ai cũng phải làm, đó là bản năng sinh tồn đầu tiên của con người khi chào đời, chính bởi vì... đó là một loại bản năng, nên trong con mắt mọi người hô hấp vốn là hành vi vô thức, không có gì đáng nói, trên thực tế, cách hô hấp là nhân tố quan trọng trong việc biến đổi thể chất của con người. Y học cổ truyền có môn khí công nghiên cứu và giảng dạy người ta cách hít thở, trong y học hiện đại có các hội chứng suy hô hấp, suy hô hấp do nhiễm kiềm (bazơ), suy hô hấp do nhiễm toan (axit)(*), trong thời gian huấn luyện, chúng tôi cũng đã từng hướng dẫn các anh cách hô hấp đặc biệt khi ở vùng núi cao...., nói tóm lại hô hấp có liên quan mật thiết đến thể trạng con người. Thông qua điều chỉnh hô hấp, anh có thể rèn luyện và phát huy tối đa khả năng của cơ thể, khắc phục sự thay đổi của ngoại cảnh, giúp tinh thần luôn luôn tỉnh táo và gia tăng khả năng ứng biến nhanh nhạy."
_______________________________
(*)Đây là các thuật ngữ chuyên môn của ngành y. Mình không hiểu nên dịch tạm như vậy.
________________________________

Nói rồi, Lữ Cánh Nam lấy ra một chiếc hộp vuông đặt trên đầu giường của Trác Mộc Cường Ba, rồi mở ra, bên trong có một vật trông giống như chiếc áo chẽn của vận động viên thể thao và một xấp giấy viết tay, Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Đấy là cái gì thế?"

39.3

Hô hấp



Lữ Cánh Nam nói: "Đây là áo điện tử, có khả năng tự động co rút đàn hồi, anh đợi sau khi hồi phục chấn thương thì mặc vào, nó có thể giúp anh khống chế tần suất và mức độ hô hấp nông sâu, trong giai đoạn đầu sự hỗ trợ đó rất quan trọng, sau này, khi phương pháp hô hấp của anh đã trở thành bản năng, lúc ấy sẽ không cần dùng tới nữa. Còn đây là tài liệu ghi chép những kinh nghiệm tôi đúc kết được khi nghên cứu cách thổ nạp của Mật tu giả, anh phải học thuộc nó, tôi muốn truyền thụ cho anh cái này... Ừm... Đây là những lĩnh hội riêng của tôi về một phương pháp rèn luyện thân thể, không có liên quan gì tới tôn giáo của chúng tôi hết, anh cứ yên tâm mà tập luyện.

Tuy Lữ Cánh Nam nói vậy, nhưng Trác Mộc Cường Ba hiểu rất rõ, chẳng qua là cô dấu đầu hở đuôi, lĩnh hội riêng cái gì chứ, đây nhất định là một bộ môn cơ sở của mật tu, liên quan đến việc khảo nghiệm năng lực cực hạn của con người. Còn về bản ghi chép, rõ ràng Lạt ma Á La sau khi từ Đảo Huyền Không tự trở về, hàng ngày thường suy nghĩ và ghi lại những điều gì đó, hiển nhiên đó chính là thứ mà lúc này, ông đang nhờ Lữ Cánh Nam thay mình truyền thụ cho gã, nhưng lại nói là do tự cô lĩnh hội được. Chẳng biết tôn giáo thần bí này có quy định gì về việc truyền thụ pháp môn cơ bản cho người ngoài hay không, nhưng bình thường thì Lữ Cánh Nam và Lạt ma Á La vốn rất cẩn trọng, gã hiểu lần này, vì gã, hai người họ nhất định đã phải mạo hiểm rất lớn.

Lữ Cánh Nam bắt đầu giảng giải: "Phương pháp này thuộc về một nhánh của Mật tông, cũng là cách nắm bắt bảy tra khắc lạp chính, nên gọi tắt là tra khắc lạp, còn có tên khác là kháp khắc lạp, hay tra khắc thụy, ý là chỉ sự tuần hoàn, tức là thất đại mạch luân trong cơ thể. Dựa theo kiến giải của Mật tu giả chúng tôi, cơ thể con người gồm có thất đại mạch luân và tam đại kinh mạch, đây cũng là quan điểm độc đáo của Tây Tạng chúng ta về kinh mạch, cũng tựa như kỳ kinh bát mạch, bẩy trăm linh hai huyệt vị trong khí công của người Trung nguyên, nhưng lại khác về hệ thống. Được chia làm khí, mạch, luân, điểm; khí chia làm hai loại lớn, là bản khí và phân khí, rồi lại chia ra thành năm loại. Khí là động năng của sinh mệnh, nếu có tác nhân cản trở, sẽ sinh ra bệnh tật. Quỹ đạo vận hành tuần hoàn của khí gọi là mạch, căn cứ vào tính năng mà chia làm ba loại. Thủy mạch: từ đầu xuống chân dọc theo tủy sống, là mạch màu trắng. Mạch màu trắng có hai vạn bốn nghìn đường. Huyết mạch: luồn trong thân thể tựa như một cây cột hồng mã não dựng đứng, hướng về phía trước, bao gồm các loại tĩnh mạch, màu trắng và màu đen. Các loại tĩnh mạch đen trắng cũng có hai vạn 4 nghìn đường. Khí mạch: là quỹ đạo vận chuyển ô xy trong máu, cũng song hành theo các đường tĩnh mạch, là các mạch màu đỏ, gồm các loại động mạch. Hệ thống động mạch màu đỏ cũng đều có hai vạn bốn nghìn đường..."(*)
________________________
(*) Đoạn này gồm toàn thuật ngữ chuyên môn, lại theo quan điểm của Mật tông nên rất khó hiểu. Thêm nữa, dường như Lữ Cánh Nam đang chỉ vào đồ hình mà giảng giải, khó có thể hình dung để dịch được. Tạm như vậy đã, khi tìm được tài liệu thích hợp mình sẽ tra cứu và sửa lại.
________________________

Lữ Cánh Nam giảng đi giảng lại mấy lần, yêu cầu Trác Mộc Cường Ba phải nhớ kỹ những chỗ mấu chốt về khí, mạch, luân, điểm, Trác Mộc Cường Ba nói nhất thời mình không có cách nào tiếp thu ngay được một lượng lớn kiến thức như thế. Lữ Cánh Nam bảo không quan hệ gì, sau này cô sẽ tiếp tục giảng thêm cho gã, nhưng đêm nay, Trác Mộc Cường Ba phải nhớ được mấy điểm chủ yếu về cách thức vận hành của huyết mạch và hướng đi của mạch luân, đồng thời cũng nhấn mạnh về tầm quan trọng của thiền định và ý thức. Cô kết luận: "Vì mạch do khí áp chế, nói cách khác mạch dựa vào hô hấp để duy trì, mà hô hấp thì ta có thể khống chế được, tức là có thể thông qua hô hấp để dùng ý thức điều phối và khống chế kinh mạch. Vì vậy, trước hết anh phải kiên trì thực hiện điều này mỗi ngày, bắt đầu từ mạch luân, theo chiều ngược kim đồng hồ mà từ từ vận động, chỉ thiền định trong một khoảng thời gian hạn chế, nhưng nhất định phải tới khi cảm giác được chỗ đó hơi nóng lên mới thôi. Có điều anh nhất định phải nhớ kỹ là mỗi ngày phải thiền định ba lần, vào các thời điểm trọng yếu: buổi sáng sau khi ngủ dậy, trước bữa cơm trưa và trước khi đi ngủ. Còn những lúc khác, nếu anh muốn thì có thể tập luyện thêm, cũng theo phương pháp tôi đã nói, nhưng giãn cách giữa hai lần không nên xa quá cũng không nên gần quá. Hôm nay nói thế là quá nhiều rồi, tôi phải đi đây."

Trác Mộc Cường Ba thấy Lữ Cánh Nam đứng dậy, cũng biết thời gian không còn sớm nữa, liền nói: "Cảm ơn giáo quan, tôi... tôi thực sự thực sự mang ơn cô, cũng xin nhờ cô chuyển lời cảm ơn của tôi tới Lạt ma Á La. Tôi ở trong tình trạng này, không thể đứng lên tiễn cô được."

Trong lòng Lữ Cánh Nam bỗng dâng lên một nỗi buồn vô cớ, cố kìm nén tâm trạng chán nản, lạnh nhạt nói: "Không cần khách khí như vậy." Cô xoay người bước đi, ra tới cửa, thấy Đường Mẫn còn chưa trở về, liền nói thêm: "Những chuyện liên quan tới việc cải biến hô hấp, Cường Ba thiếu gia, tôi mong anh... Tốt nhất là đừng nói cho bất kỳ ai biết."

Trác Mộc Cường Ba lập tức minh bạch, tự tiện truyền thụ phương pháp mật tu cho người ngoài, đối với Mật tu giả bọn họ mà nói, chắc chắn là điều tối kỵ, vì thế ngay cả Lạt ma Á La cũng không dám tự mình thực hiện, mà phải để cho Lữ Cánh Nam ra mặt, như vậy chứng tỏ Lữ Cánh Nam đối với mình hết lòng đến cỡ nào... Thôi cố quên đi, không nghĩ tới chuyện ấy nữa, Lữ Cánh Nam đã truyền thụ toàn bộ khẩu quyết cho gã rồi, tức là cô cũng không còn đường lui nữa, giờ thì có thể làm được gì nữa chứ. Trác Mộc Cường Ba vội đáp: "Tôi hiểu, tôi xin hứa với cô."

Lữ Cánh Nam quay đầu lại, có chút hoài nghi, nói: "Tôi nói là bất kỳ ai! Kể cả thầy giáo anh và…"

Trác Mộc Cường Ba hứa: "Tôi biết, tôi nhất định giữ kín."

Vẻ mặt Lữ Cánh Nam liền vui tươi trở lại, mỉm cười, mở cửa đi ra. Nhìn theo bóng lưng Lữ Cánh Nam, Trác Mộc Cường Ba chợt lo lắng, nghĩ thầm: "Cánh Nam với Mẫn Mẫn tựa như hai thái cực đối nghịch, làm việc gì cũng thẳng thắn dứt khoát, chẳng mảy may có chút do dự xấu hổ, thế nhưng, cô ấy làm chuyện này... có đáng không...”

Từ đó về sau, Lữ Cánh Nam thường xuyên âm thầm chỉ điểm Trác Mộc Cường Ba phương pháp hô hấp bí truyền, cho tới khi gã hoàn toàn làm chủ được cách thức thổ nạp đặc biệt ấy. Đây là những việc về sau, tạm thời không đề cập tới nữa.

Lữ Cánh Nam đi rồi, Mẫn Mẫn còn chưa thấy trở về, không hiểu là có phải đã gặp và cùng Lữ Cánh Nam nói chuyện phiếm hay không, Trác Mộc Cường Ba cũng chẳng buồn suy nghĩ nữa; gã dùng băng vải quấn quanh bàn tay, điều khiển chuột máy tính, trực tiếp tìm giáo sư Phương Tân để trao đổi về những điều mình vừa thắc mắc.

Mạng kết nối xong, hai người thảo luận qua internet. Ở đầu bên kia, giáo sư đeo cặp kính lão, đang ngồi ở đầu giường sắp xếp một chồng tài liệu, nghe Trác Mộc Cường Ba trình bày xong vấn đề của gã, ông cười nói: "Cơn gió ấy đúng là không thể dùng sức người mà vượt qua được, thế nhưng, ai nói với cậu, chúng ta sẽ lại đi qua Tây phong đới?”

"Nhưng không đi qua Tây phong đới thì đi đâu, chúng ta tìm lối vào bằng cách nào? Chẳng lẽ còn có con đường khác?"

Giáo sư nói: "Bởi vì cậu chưa hồi phục, vốn là định vài ngày nữa mới nói, nhưng cậu đã nóng lòng như thế, tôi nói luôn cho cậu yên tâm. Cường Ba, cậu có biết mình đã quên mất điều gì không?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Sao cơ?"

Giáo sư nói: "Cậu suy nghĩ chút đi, Lữ Cánh Nam đã nói với chúng ta thế nào về thời tiết ở vùng núi Tư Tất Kiệt Mạc? Ở đấy, hàng năm, từ đầu tháng Năm đến trung tuần tháng Chín là mùa mưa, gió mùa Đông Nam rất mãnh liệt, từ trung tuần tháng Mười một tới giữa tháng Hai năm sau là do luồng khí lưu lạnh lẽo Tây Bắc khống chế, thế nhưng, cậu nghĩ lại xem, rồi nói tôi biết Đường Thọ, Ba Tang họ vào được khe núi ấy ở thời điểm nào?"

Trác Mộc Cường Ba ngây ngẩn cả người, hình như đúng là Ba Tang bọn họ đến đấy trong khoảng thời gian đó, việc xảy ra quá lâu, gã không thể nhớ chính xác, nhưng có một điều không thể nghi ngờ là Ba Tang và đồng đội của anh ta đã nhiều lần đến ngọn núi tuyết ấy, hơn nữa Ba Tang còn nói dải gió Tây mà bọn họ gặp không mãnh liệt như ở núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc lần trước, nếu lần đó mà phải đi trong gió Tây những mười lăm ngày thì ngay cả siêu nhân cũng không chịu đựng nổi.

Giáo sư Phương Tân nhắc nhở: "Quên rồi hả? Tôi nhắc lại cho cậu vậy, căn cứ vào các tài liệu đã ghi chép và hồi ức của Mẫn Mẫn, Ba Tang, thì người ta tìm thấy Đường Thọ vào tháng Sáu, còn nhóm người của Ba Tang đã đến đấy nhiều lần, những lần trước toàn bộ đều quay về bình yên, chỉ riêng lần cuối mới bị thiệt hại. Lần cuối cùng ấy, họ phát hiện được lối vào một cách ngẫu nhiên khi một đồng đội bị trượt chân rơi từ đỉnh núi tuyết xuống đó, họ có thể dùng bộ đàm liên lạc với nhau, còn nơi chúng ta đến thì sao? Cơ bản không có cách nào sử dụng thiết bị điện tử, điều đó cho thấy cái gì?"

Trác Mộc Cường Ba suy tư nói: "Lẽ nào bọn họ không phải đã đến cùng một chỗ?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Cũng có khả năng này, có điều, còn có cách lý giải khác, đó chính là, Ba Tang và Đường Thọ đã cùng đến một địa điểm, nhưng nơi chúng ta tới lần trước thì không phải."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Thế nhưng, còn bản đồ... tấm bản đồ mà chúng ta tìm được trong Đảo Huyền Không tự! Chẳng lẽ các chuyên gia phán đoán sai? Hay là, nơi chúng ta đã đến mới chính là nơi có lối vào Bạc Ba La thần miếu, còn Ba Tang và Đường Thọ, họ đã đến một chỗ khác? Thầy giáo, tôi rối trí rồi, vậy sự việc rốt cuộc là sao?"

Giáo sư lấy tay chỉ chỉ vào webcam, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy như ông gõ lên trán mình, liền giật mình hơi lùi lại, chỉ thấy giáo sư cười nói: "Cái cậu này! Cậu cứ truy vấn cho đến cùng! Đây! Chính là tôi đã quên mất phương diện này, tất cả chúng ta đều quên!" Giáo sư Phương Tân buồn bã nói: "Ở Đảo Huyền Không tự, chúng ta lấy được bản đồ, sau đó lại được các chuyên gia kiểm chứng, nên không hề hoài nghi nó là thực hay giả, rồi lập tức hành động một cách máy móc, đến khi tới khe băng nứt thấy những thi thể tôi mới chợt nghĩ, nếu như tấm bản đồ này là giả... ?"

Trác Mộc Cường Ba ngắt lời ông: "Nhưng các chuyên gia đã giám định và kết luận tấm bản đồ được làm ra từ hơn một nghìn năm trước cơ mà!"

Giáo sư Phương Tân nói: "Đúng vậy, tấm bản đồ được làm ra hơn một nghìn năm trước, điều này không phải là giả, nhưng nghĩ kỹ lại, ở Cánh cửa sinh mệnh, ở Đảo Huyền Không chúng ta đã gặp bao nhiêu cơ quan bẫy rập, đã hiểu rõ trí tuệ của cổ nhân, ai dám khẳng định tấm bản đồ này không phải do người Qua Ba coi giữ Bạc Ba La thần miếu chủ trương làm giả, hơn nữa, tấm bản đồ này do đâu mà có?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Là do Lạt ma Á La đoạt từ tay của Merkin..." Gã liền lập tức hiểu ra: "A, là Merkin..."

Giáo sư Phương Tân gật đầu nói: "Rất có khả năng này, phải biết rằng, khi ấy chúng tôi đến tế đàn Mạn Đà La trước, lúc đó đã xem xét khắp nơi mà không có phát hiện gì, vậy Merkin lấy được bản đồ ở chỗ nào? Sau đó lại cùng các chuyên gia nghiên cứu, tấm bản đồ này và tấm bản đồ được tìm thấy trong mật thất Cổ Cách được làm từ cùng một tấm da sói, khi ấy tôi và già Hồ(*) tranh luận không ngừng, nhưng không có cách nào lý giải được. Giờ nghĩ lại, nếu tấm bản đồ của chúng ta có cùng nguồn gốc với tấm bản đồ Stanley đã lấy trong mật thất Cổ Cách, nó đã khiến rất nhiều thế lực, tổ chức không ngừng tranh đoạt, cuối cùng chẳng biết thất lạc về đâu. Như vậy cũng chẳng khó khăn gì khi giải thích vì sao dọc đường chúng ta phát hiện nhiều thi thể đến vậy, đó là thi thể của các nhà thám hiểm, bởi vì chúng ta cũng như họ, đi cùng một con đường!"
________________________
(*) Nguyên văn “lão Hồ”, không hiểu có phải là Hồ Dương hay không.
________________________

Nghe giáo sư Phương Tân trình bày một loạt vấn đề, Trác Mộc Cường Ba thấy đầu mình ong ong, có quá nhiều mắt xích đan xen, lúc thì về bản đồ của nhóm gã, lúc thì bản đồ của bọn Merkin, rồi chuyển sang việc các tổ chức săn lùng kho báu tranh đoạt bản đồ, cuối cùng chúng có chung nguồn gốc sao? Trác Mộc Cường Ba nói: "Chờ. . . Chờ một chút, thầy giáo." Gã cố tập trung tư tưởng, rồi tiếp tục: "Thầy giáo, xin thầy nhắc lại lần nữa, có phải ý thầy là, tấm bản đồ mà chúng ta lấy được từ tay Merkin ở Đảo Huyền Không tự, được các chuyên gia giám định là được làm ra từ một miếng da sói, miếng da đó cũng được dùng để chế tạo tấm bản đồ đã bị Stanley lấy đi, cái mà sau này các đội thám hiểm khác đã căn cứ vào nó để đi tìm Bạc Ba La thần miếu. Tấm bản đồ mà chúng ta đã có được, phải chăng là cái bẫy của Merkin(*)?
_______________________
(*)Trác Mộc Cường Ba kém minh mẫn, có lẽ là do cổ độc gây ra.
_______________________

Giáo sư Phương Tân khẳng định: "Đúng thế, như vậy mới giải thích được kết luận của các chuyên gia về việc hai tấm bản đồ được làm từ cùng một miếng da sói, chúng vốn được vẽ cùng lúc ở một nơi, chứ không phải tại hai địa điểm cách xa nhau, cách nhau hàng mấy trăm năm; cũng giải thích luôn trường hợp những thi thể chúng ta gặp dọc đường, bởi vì cùng dựa theo bản đồ đó để tìm kiếm và cùng thất bại."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nhưng tại sao hắn lại làm thế?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Rất đơn giản, nếu dựa trên phương diện Merkin cố ý chuyển cho ta tấm bản đồ mà xét, thì có thể khẳng định bọn hắn đã từng đến núi tuyết này rồi, đồng thời, hắn cũng biết nơi đó đáng sợ như thế nào, và hắn biết không thể tìm được lối vào Bạc Ba La thần miếu ở đó, hắn làm như vậy chỉ với một mục đích đơn giản là muốn chúng ta thất bại! Cậu nghĩ lại mà xem, chúng ta điều tra hắn, hắn cũng điều tra chúng ta, đến địa cung Aherz tìm thấy đầu mối mới, chỉ có chúng ta và bọn hắn, ở Đảo Huyền Không tự, các phát hiện mang tính đột phá chỉ có đội của ta và nhóm của hắn thu hoạch được, cả các chuyến đi khác cũng vậy. Tóm lại, những tổ chức đi tìm Bạc Ba La lần này, chỉ duy nhất có đội của chúng ta và nhóm của hắn. Tôi đoán, hắn nắm rất rõ về nội tình của chúng ta, biết rằng nếu lần đó thất bại, chúng ta sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị giải tán, chúng ta bị giải tán, chỉ còn nhóm của hắn là có thực lực nhất, cơ hội trở thành người đầu tiên tìm ra Bạc Ba La thần miếu của hắn tăng lên rất nhiều. Cậu nghĩ mà xem, có khả năng này hay không nào?"

Trác Mộc Cường Ba bần thần, những vấn đề phức tạp thày giáo vừa nói đúng như một gáo nước lạnh dội lên đầu gã, nhưng vẫn còn điều gì đó còn chưa được hợp lý lắm, nhưng rốt cuộc là điều gì, thì hắn không hình dung được. Nhưng đồng thời, giáo sư Phương Tân cũng sửng sốt, nghĩ thầm: “Vậy việc Merkin theo dõi bọn mình ở núi tuyết thì có ý tức gì? Chẳng lẽ đơn thuần chỉ là để chứng kiến tất cả mọi người táng thân ở đó hết mới cam tâm sao? Cần gì phải như thế?”

Giáo sư Phương Tân suy nghĩ một chút, rồi nói tiếp: "Còn nữa, từ tấm bản đồ này, chúng ta có thể suy đoán lý do của việc giải tán đội."

"A!" Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc kêu lên.

Giáo sư Phương Tân giải thích: "Cậu còn nhớ chuyện Ngải Lực Khắc bỏ đi không? Lúc đó tôi đã nói với cậu đấy là tín hiệu cấp trên chuẩn bị giải tán đội huấn luyện đặc biệt của chúng ta. Bởi vì đội chúng ta được thành lập chỉ mang mục đích thử nghiệm, suốt năm trăm năm qua không ai tìm được Bạc Ba La thần miếu, há một đám thường dân như chúng ta có thể dễ dàng phát hiện. Chẳng qua lúc đó đột nhiên có các thông tin đến từ nước ngoài, họ cử một nhóm người đi trước dò đường xem sao. Cho chúng ta thời gian hơn một năm, không có bất luận một chút tiến triển nào, như vậy, cái đội thám hiểm nghiệp dư này cũng nên bị giải thể, trong khi cái tấm bản đồ chúng ta tìm đươc thì...”

Giáo sư gỡ cặp kính lão xuống, lau chùi, rồi nói tiếp: “Cậu còn nhớ đội trưởng Hồ Dương đã nhắc tới chuyện gì không? Người đồng đội của anh ta vài chục năm trước cũng đã đi núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc, điều đó chứng tỏ trước đây nhà nước đã tổ chức một đội khảo sát khoa học lần theo hướng này, chỉ là lần đó, họ cũng thất bại. Trên đường đi, qua các dấu vết để lại, chứng tỏ không chỉ có một đội như thế, vì vậy, khi các chuyên gia nghiên cứu tấm bản đồ, xác định được vị trí thì họ sẽ nghĩ gì nhỉ? Vất vả hai năm, cuối cùng lại vẫn dẫn tới nơi đó."

Trác Mộc Cường Ba chăm chú quan sát vẻ mặt giáo sư đang hiện trên màn hình một hồi lâu, việc này, gã chưa từng nghĩ tới, giờ nghĩ lại mới biết là rất hợp lý, đội ngũ của họ trong hai năm hoạt động chỉ lần theo một con đường duy nhất, mà con đường đó thì hơn mười năm trước, thậm chí mấy thập kỷ trước, người ta đã phát hiện ra rồi, ngoài ra chẳng còn chút cống hiến nào khác nữa, chỉ tiêu tốn tài nguyên và nhân lực của quốc gia một cách vô ích, sao không bị giản thể sớm hơn cơ chứ? Việc này nhất định là do nỗ lực cố gắng duy trì của Cánh Nam, vừa nghĩ tới Lữ Cánh Nam, Trác Mộc Cường Ba liền ngay lập tức ngắt bỏ dòng suy nghĩ, lẩm bẩm nói với giáo sư Phương Tân: "Tôi vốn không nghĩ tới những chuyện này..."

Giáo sư Phương Tân nói: "Tôi biết, khuyết điểm của cậu là luôn nhìn nhận vấn đề một cách đơn giản, xét sự việc qua vẻ bề ngoài, là con người của hành động. Nếu muốn trở thành một trí giả như cha mình, cậu nhất định phải có cách nhìn xuyên suốt bề ngoài của sự vật để phát hiện những đạo lý tinh diệu ở bên trong, có nhiều chuyện thoạt nhìn tưởng như không có quan hệ, nhưng thật ra lại có mối quan hệ qua lại chằng chịt. Một con bướm vỗ cánh ở châu Mỹ có thể dẫn tới việc hình thành một cơn lốc trên Thái Bình Dương. Cậu biết không, ngay trước khi đội huấn luyện đặc biệt hình thành, Đức Nhân lão gia đã biết việc này sẽ thất bại, cha cậu nói với tôi, nếu không tự thân làm việc ắt sẽ chẳng thành công. Cho tới bây giờ, tôi mới hiểu hàm ý của ông.

Những lời giáo sư Phương Tân vừa nói, tựa như tia chớp trong đêm đen, Trác Mộc Cường Ba như người ngủ mơ giật mình tỉnh giấc, hai năm nay bôn ba cùng đội khảo sát đặc biệt, gần như việc làm theo mệnh lệnh đã trở thành thói quen, mà quên mất cách suy nghĩ độc lập, giờ đây xét lại các tình tiết, sở dĩ lần này thất bại là do rất nhiều nguyên nhân như thế. Đồng thời, gã cũng giật mình phản ứng, quay lại chủ đề chính, vội hỏi: "Thầy giáo, nếu như tấm bản đồ kia là giả, vậy thì những đồ hình chúng ta tìm được trong mật thất Cổ Cách chẳng phải là...

Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: "À, hiện nay còn đang nghiên cứu, tôi đã đã tham khảo ý kiến rất nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực đồ hình học, giải mã, thám hiểm, tôn giáo học..., thế nhưng không ai có khả năng khám phá tấm đồ hình phức tạp đó, mọi người chỉ thống nhất được với nhau, ngoại trừ việc nó hơi giống mạng lưới giao thông đô thị hiện đại, bức tranh không thể tạo thành bất kỳ thứ gì tựa như tấm bản đồ, càng không phải là tấm bản đồ chỉ đường. Cậu đang bị thương như vậy, hôm nay nên đi ngủ sớm một chút, những vấn đề khác, lần trao đổi sau tôi và cậu sẽ thảo luận tiếp, phương diện này còn nhiều khúc mắc lắm, nhất thời không thể gải đáp ngay được đâu, hiện tại một lần nữa chúng ta đang nắm quyền chủ động, cần phải phát huy tối đa trí tuệ để giải đáp những bí ẩn mà cổ nhân lưu lại. Khuya rồi, như vậy đã nhé..."

Đêm đó, Trác Mộc Cường Ba trằn trọc không ngủ được, cứ suy nghĩ mãi về những điều giáo sư đã nói, sự tình này, hình như có một lúc nào đó gã đã dự cảm có chuyện không ổn, cảm giác ấy xảy ra rất lâu rồi, là lúc nào nhỉ? À, nhớ rồi, là lúc Babatou nói về kẻ thù vô hình, nhưng rốt cuộc có chỗ nào không ổn? Kẻ thù vô hình? Là Merkin chăng? Giờ hắn đang ở đâu? Đang mưu đồ chuyện gì?

39.4

Những nghi vấn xung quanh Cổ Cách kim thư



"Ắt xì, ắt xì..." Merkin liên tiếp hắt hơi mấy cái liền, Soares đứng bên cạnh cười khẩy: "Thân thể anh như vậy mà cũng bị cảm lạnh được sao?"

Merkin nói: "Không phải đâu, chỉ là trời khô hanh, xoang mũi hơi ngứa thôi. Được rồi, công việc nghiên cứu khoa học của anh thế nào?"

Soares nói: “Thà không nhắc tới còn hơn, cái loại sinh vật này không giống như tôi đã tưởng tượng, bận rộn mất hơn nửa năm trời, còn anh? Anh vẫn nhất định chờ tin tức từ đám người kia sao?”

Merkin nói: “Đúng thế. Còn việc gì khác để làm nữa đâu.”

Soares thản nhiên hỏi: "Nghe nói anh đang rao bán hai bất động sản ở Mỹ, có chuyện gì vậy?"

Merkin nói: "Không có gì, hai lần nhầm lẫn gần đây khiến tôi tổn thất khá nhiều, nên cần gấp tiền mặt để bù vào."

Soares nói: "Sao, thiệt hại khoảng bao nhiêu?"

Merkin nói: "Chừng ba trăm triệu"

Soares nói: "Thật không thể tưởng tượng một chuyên gia giám định như anh mà cũng có lúc nhầm lẫn."

Merkin cười khổ: "Kinh doanh cái món đồ cổ này, người lợi hại tới đâu cũng không dám khẳng định mình luôn chuẩn xác một trăm phần trăm, hơn nữa, trong lịch sử phát triển của nhân loại, làm hàng giả cũng là một loại nghề, nhưng không sao cả, chỉ cần tìm được Bạc Ba La thần miếu, cho dù táng gia bại sản, tôi cũng không ngại."

Soares cười, đột nhiên nói: "Được rồi, vậy còn tấm bản đồ... Đúng là anh nhặt được nó ở đấy chứ?"

Merkin nói: "Đúng thế, tôi nói dối anh để làm gì, hơn nữa chỗ ấy bẫy rập chằng chịt, sau khi cơ quan khởi động thì dù là người lợi hại đến cỡ nào cũng không có cách đi qua, đó có phải nơi muốn vào thì vào muốn ra thì ra đâu? Theo lý thuyết thì tấm bản đồ đó không phải là giả, nhưng sao bọn chúng trước sau vẫn không tìm được khe núi ấy, hơn nửa năm nay lại không hề có động tĩnh gì, Trác Mộc Cường Ba còn đột nhiên biến mất, chính bọn chúng cũng không tìm được hắn, khiến tôi cảm thấy rất kỳ lạ."

Soares nở một nụ cười khó hiểu, vươn vai đứng dậy, tiến tới cửa sổ, vừa đi vừa nói: "Anh làm như vậy với mục đích gì? Trăm phương nghìn kế nhường bản đồ cho bọn chúng, kết quả là ngay việc chúng ở đâu cũng không biết. Chẳng lẽ một chút tin tức cũng không có hay sao?"

"Không," Merkin nói: "tôi nói thật đấy, không hề có chút tin tức gì. Tôi thực sự đang cố tìm hiểu..."

Đúng lúc đó, Max chạy vào, dáng vẻ hào hứng, nói: "Ông chủ, tìm thấy rồi, giờ hắn đang nằm viện."

Merkin nói: "Cụ thể là thế nào?"

Max nói: "Theo những tin tức mới nhất từ Trung Quốc chuyển đến, công ty của hắn bị phá sản, tổ huấn luyện đặc biệt cũng bị gải thể, hơn nữa, hắn còn mắc một chứng bệnh rất lạ, tựa như trong cơ thể có một quả bom hẹn giờ, một năm sau mới nổ, hiện thời không cách nào gỡ bỏ được, bởi vậy, hắn đã bị kích động lớn, tinh thần sa sút, chán nản suy đồi trong một thời gian, cả ngày lẫn đêm la cà trong các quán bar, tiệm nhảy, vì thế nên chúng ta không tìm được hắn. Ngoài ra, người ấy còn cho biết hắn đã cùng một bọn lưu manh đánh nhau đến nỗi bị thương, phải vào nằm viện, tôi thấy không thể trông cậy vào hắn được đâu."

Merkin cũng rất xúc động, thầm nghĩ: Tại sao lại như thế? Lẽ nào hắn thực sự không gượng dậy nổi?

Soares nói: "Đấy, anh xem, rốt cuộc câu nói của tôi ứng nghiệm rồi nhé, nếu chúng mà tìm được Bạc Ba La, tôi sẽ lập tức hôn mông chúng."

Merkin nói: "Vậy cho tới bây giờ, hắn vẫn chưa trấn tĩnh?"

Max nói: "Cũng không hẳn là như vậy, hình như sau khi đồng đội tìm được hắn, tình trạng của hắn đã có chuyển biến tốt đẹp, chẳng qua tôi nghĩ, bọn họ lần này đi tìm Bạc Ba La thần miếu khả năng thành công là không lớn, tình hình đã như vậy mà muốn tiếp tục, tôi sợ chỉ có đi mà không có về, nếu mà là tôi, tôi tuyệt đối sẽ không đi nữa."

Merkin khẽ cau mày, rồi cười nói: "Đáng tiếc, mày không phải Trác Mộc Cường Ba. Tao hiểu rõ hắn, hắn không dễ dàng bỏ cuộc như vậy đâu, nếu hắn mà bỏ cuộc, thì đâu còn là Trác Mộc Cường Ba nữa. Ngoài ra, chẳng phải đồng đội đã tìm thấy hắn sao? Nhất định là để khích lệ hắn tiếp tục tìm kiếm Bạc Ba La, bọn người này chắc chắn sẽ không bỏ cuộc đâu, mỗi người trong bọn chúng đều có mục đích của riêng minh, nói không chừng, sự việc đã trở nên rất thú vị. Nhớ kỹ, lần sau nếu liên lạc lại thì nói với người của chúng ta, trước khi tìm thấy Bạc Ba La thần miếu, thì đừng ... thì chấm dứt mọi liên hệ, giờ không phải do chính phủ Trung Quốc đứng ra hành động nữa mà là do tự bọn chúng tiến hành, chắc chắn sẽ cảnh giác hơn rất nhiều, nếu không chú ý, rất dễ bị vạch trần thân phận."

Max cung kính nói: "Vâng, thưa ông chủ." Hắn thoáng do dự, rồi nói tiếp: "Ông chủ, hình như chúng ta có sơ suất, một tổ chức lớn có lẽ đã nắm được những thông tin như của ta, họ biết nhóm người bọn Trác Mộc Cường Ba đang kiếm Bạc Ba La và từng được chính phủ Trung Quốc đứng ra trợ giúp."

"Cái gì!" Merkin hốt hoảng: "Cuối cùng đã xảy ra chuyện gì? Tin tức này lộ ra từ đâu?"

"Điều này thì tôi không rõ lắm..." Max khẽ nhìn ông chủ, cúi mặt xuống, thận trọng nói.

"Điều tra! Cần phải điều tra rõ cho tao!"

***


Sáng sớm hôm sau, người đến bệnh viện đầu tiên lại là Lạt ma Á La, đại sư không hề nhắc đến những việc liên quan đến chuyện hô hấp của gã, coi như ông không có liên quan gì tới vấn đề này, Trác Mộc Cường Ba cũng không tiện đề cập. Sau giây lát đắn đo, Trác Mộc Cường Ba bàn với đại sư rằng tôn giáo của họ có vấn đề, nó mang tư tưởng tà ác, hay là không nên tìm kiếm nữa thì tốt hơn.

Lạt ma Á La nghe Trác Mộc Cường Ba thuật lại những lời Đức Nhân lão gia phỏng đoán về tôn giáo của mình, mỉm cười nói: "Mặc dù tôi vẫn luôn kính nể trí tuệ của Đức Nhân lão gia, nhưng đối với vấn đề này tôi không tán thành quan điểm của ngài. Phật bình đẳng với chúng sinh là tư tưởng chủ đạo của tôn giáo chúng tôi, một số tôn giáo khác cũng có tư tưởng như vậy, nó mang ý nghĩa đại đồng xã hội, thần, Phật và chúng sinh đều bình đẳng với nhau, chúng tôi cho rằng chỉ cần bản thân nỗ lực tu luyện, từ quân vương, tướng lĩnh cho tới con kiến, con côn trùng cũng đều có thể trở thành Phật, Cường Ba thiếu gia, cậu không thể nói rằng như thế là mang tư tưởng tà ác, phải không?"

Trác Mộc Cường Ba gãi gãi hai gò má qua lớp băng vải, Lạt ma Á La tiếp tục: "Phật vốn khuyến khích con người ta có lòng từ tâm, phổ độ chúng sinh, cứu người cứu mình, nhưng Cường Ba thiếu gia, cậu suy nghĩ xem, nếu nói đến khát vọng trường sinh bất lão thì đã trở thành phản tác dụng rồi, như vậy không thể gọi là Phật được, mà nên gọi là ma mới đúng."

Trác Mộc Cường Ba ngẩn ra, giải thích như vậy cũng kể là hợp lý, vì thế nên gã đối với những chuyện liên quan đến tôn giáo rất là chán ngán, các giáo lý đều được diễn đạt một cách trung tính, nói tốt thì là tốt, nói xấu thì là xấu, cách giải thích nào nghe cũng xuôi cả, xấu tốt đều tùy thuộc vào nhận thức của người ta. Những lời Lạt ma Á La nói không phải là vô lý, nhưng khi nghĩ tới huyết trì và những sự việc mình đã gặp ở Cánh cửa sinh mệnh, Đảo huyền không tự, gã thấy tôn giáo này rất tà ác, chí ít cũng chưa hề có sự từ bi. Lạt ma Á La nói: "Tôi biết Cường Ba thiếu gia trong lòng đang nghĩ gì, nếu căn cứ vào huyết trì và các tượng hung thần, hung Phật mà đánh giá tôn giáo chúng tôi là tà giáo thì không được thích đáng lắm, huyết trì vốn là lấy máu người làm nguyên liệu, còn những nơi chứa các bộ phận cơ thể người thì... Điều này chắc Cường Ba thiếu gia chắc cũng hiểu, trong xã hội cũ ở Tây Tạng có sự phân biệt giai cấp rất rõ ràng, tầng lớp dưới cùng là nông nô, hầu như không có bất cứ địa vị xã hội nào, từ khi chào đời, tính mạng họ, cũng giống như tính mạng của cha mẹ, tổ tông của họ, đều thuộc về sở hữu của chủ nô, thân thể họ thường bị dùng làm cống vật để hiến tế trong các nghi thức tinh thần. Tôi nghĩ, điều này Cường Ba thiếu gia không phải là không hiểu.

Trác Mộc Cường Ba im lặng, từ nhỏ, nhiều lần gã đã được nghe chú La Ba kể, trước khi giải phóng, những nông nô ở Tây Tạng đúng là không hề có bất cứ địa vị xã hội nào.

Lạt ma Á La tiếp tục: "Loại nghi thức hiến tế này thật ra là một tập tục xấu do xã hội nguyên thủy lưu lại, hơn một vạn năm trước, con người vốn sùng bái đại tự nhiên và các sức mạnh hủy diệt của thiên nhiên, đồng thời họ không có được các kiến thức khoa học về chu kỳ sinh lý của bản thân như ngày nay, nên thường chọn máu tanh làm nguyên liệu để tế lế với hy vọng có được những năng lực mạnh mẽ từ thiên nhiên, mặt khác, cùng là để phát tiết hết những tiêu cực trong tiềm thức đã bị dồn nén lâu ngày. Đâu phải chỉ riêng ở Tây Tạng chúng ta, mà toàn bộ thế giới nguyên thủy đều cùng tiến hành những nghi thức tương tự, ở châu Mỹ, chính cậu đã được chứng kiến ở địa cung Maya, ở Trung Nguyên, châu Âu, châu Phi thời cổ đại đều có những nghi thức sử dụng máu người với mức độ không thua gì huyết trì; chỉ là theo sự phát triển của nền văn minh nhân loại mà chúng dần dần biết mất, không được lịch sử ghi lại mà thôi. Do địa hình Tây Tạng chúng ta tương đối bị ngăn cách với thế giới bên ngoài, nên thời gian tập quán xấu này tồn tại có lâu hơn, không thể khẳng định rằng nó tà ác, mà chỉ là di sản để lại của tổ tiên. Còn về các tượng hung thần, hung Phật, Cường Ba thiếu gia có thể tới quan sát ở bất kỳ chùa chiền nào, có chùa nào mà không có gian khắc vẽ hung Phật để trấn trừ yêu ma, người ta thường gọi đó là tượng Kim cương nộ hay tượng Bồ tát nộ. Trong Mật tông và Thiền tông cũng không thiếu các tượng Phật cầm trong tay những bộ phận trên cơ thể con người, nhiều nhất đầu lâu, tiếp đó là tim người, da người. Vì sao người ta lại điêu khắc ra những tượng Phật ấy? Không phải là nói Phật muốn ăn thịt người, mà là để biểu đạt sự trừng ác, đối với những kẻ làm điều ác, không cần chờ đến khi xuống địa ngục, ngay tức khắc có thể bị các Kim cương nộ hoặc Bồ tát nộ cắt đầu, móc tim lột da. Mà tôn giáo của chúng tôi trước đây cũng như sau này lại đều lấy trừng ác làm nhiệm vụ cơ bản của mình, vì thế nên mới khắc tạc tượng thần, tượng Phật đặc biệt hung ác một chút, vậy thì mới đủ để trấn áp ác ma." Lạt ma Á La hạ giọng, nói: "Tôi tin chắc rằng, giáo lý của tôn giáo chúng tôi không hề tà ác!"

Trác Mộc Cường Ba vội nói: "Tôi cho rằng, lời a ba nói rất có đạo lý, nhưng những điều đại sư vừa nói cũng không hề sai, chúng ta không nên hồ đồ phán xét tư tưởng của cổ nhân, tư tưởng của cổ nhân luôn có những điểm trung dung, những người có lập trường khác nhau sẽ không thể có nhận thức giống nhau, dù cho giáo lý vốn hướng thiện, nhưng tới tay kẻ ác, cũng sẽ bị hướng theo tư tưởng tà ác."

Lạt ma Á La liền tươi nét mặt, cười nói: "Tôi biết Cường Ba thiếu gia vốn là người cơ trí mà."

Một lát sau, Trương Lập cũng tới, bước vào cửa là làm ngay một động tác chào theo kiểu quân sự, rồi cười nói: "Đội trưởng, hôm nay có sắp xếp gì không?"

Trác Mộc Cường Ba mỉm cười bất lực: "Cậu xem người ngợm tôi thế này, muốn cử động cũng còn khó, cái gì cũng không biết, thì sắp xếp được việc gì cơ chứ, chờ chút nữa, xem thầy giáo bố trí ra sao. Mọi người không đến cùng nhau à?"

Trương Lập nói: "Cách sinh hoạt thì mỗi người một kiểu, Lạt ma Á La dậy trước tôi, còn tên nhóc Nhạc Dương thì cắm đầu vào ngủ, chẳng hiểu cậu ta đã được huấn luyện nghiệp vụ trinh sát theo kiểu gì nữa. E rằng hôm nay, giáo sư sẽ cử chúng tôi ra ngoài thu thập tài liệu."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Thầy giáo là bộ não của chúng ta, tôi nghĩ, ông phân phó mọi người hẳn sẽ không có ý kiến gì. Chỉ có điều, nói thật nhé, tôi không hề muốn phải hành động sớm như vậy, chỉ hy vọng khi tôi dưỡng thương luôn có mọi người bên cạnh để hàn huyên, cậu cũng biết đấy, chỗ bị thương nặng nhất của tôi là ở đây." Vừa nói, gã vừa gõ gõ vào chỗ băng vải quấn trên ngực.

Trương Lập vỗ vỗ lên ngực Trác Mộc Cường Ba, nói: "Quá đơn giản, hai năm nữa, anh và tiểu thư Mẫn Mẫn sinh thêm ba bốn người, thương tích kiểu gì cũng đều khỏi hết!"

Đúng lúc đó thì Đường Mẫn bước vào, nghe được câu cuối cùng, lập tức liền giận dữ: "Anh nói cái gì, Trương Lập! Anh bảo đem tôi ra làm cái gì!" Rồi cô vung quyền lên. Trương Lập cười ha hả, nghiêng mình tránh đòn công kích của Đường Mẫn.

Trác Mộc Cường Ba và Lạt ma Á La mỉm cười nhìn hai người đuổi nhau, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên cảm thấy trong lòng đau xót, cái cảm giác này... vì sao cảnh nô đùa này lại khiến gã thấy thương tâm, đúng rồi, hồi nhỏ cũng có một cô bé thường truy đuổi gã, bám theo gã suốt ngày không buông tha, rồi lại còn tức giận làm nũng nữa, em gái à...

Đường Mẫn không đuổi được Trương Lập, hướng về Trác Mộc Cường Ba phụng phịu: "Cường Ba, anh xem đội viên của anh, giờ hắn bắt nạt em anh cũng không giúp, nếu như... Nếu như sau này còn tiếp tục thì anh tính sao?"

Trương Lập nói: " Ê? Tiểu thư Mẫn Mẫn còn chưa có nói hết, ý cô ấy là, sau này kết hôn thì anh tính bồi thường ra sao."

"Anh..." Đường Mẫn lại nhảy lên đuổi đánh Trương Lập, Trác Mộc Cường Ba hắng giọng nói: "Được rồi, Trương Lập, trên cơ sở xem xét khuyết điểm của cậu, với tư cách đội trưởng, tôi phạt cậu đi chuẩn bị bữa sáng cho mọi người, đồ ăn ở cantina bệnh viện quả thật rất khó nuốt."

Đường Mẫn nói: "Đối diện là phố Vĩnh Hòa Vương, ở đấy có một hiệu bán cháo quẩy đậu nành ăn khá ngon, chỗ hôm qua chúng ta chúng ta vào ấy.

Mọi người dần dần đến đông đủ, phòng bệnh lại náo nhiệt một hồi nữa, giáo sư Phương Tân nói với Trác Mộc Cường Ba tất cả đều đã có phân công công tác cả rồi. Vì thế nên cứ theo kế hoạch đã định mà tiến hành, mọi người lại một lần nữa tản ra, nhưng khác với lần ly biệt mấy tháng trước, trong lòng ai cũng ngập tràn niềm tin.

Mấy ngày sau đó, Trác Mộc Cường Ba liên tiếp nhận được nhiều thông tin phong phú từ chỗ giáo sư Phương Tân chuyển đến, bao gồm quá trình giải mã dòng chữ trên bao thuốc lá, kết quả phân tích nhật ký Đường Thọ và những tiến triển mới nhất trong việc dịch các bản điêu khắc ở địa cung Maya, Cổ Cách kim thư, buổi tối gã lại theo khẩu quyết mật tu thử dùng ý thức cảm nhận hướng đi của mạch máu, sự vận động của mạch luân. Trác Mộc Cường Ba nghĩ, đây cũng là một cách dùng ý thức bản thân để phát động năng lực cực hạn của cơ thể.

Trước khi Trác Mộc Cường Ba khỏi bệnh, Đường Mẫn vẫn phụ trách việc chăm sóc ăn uống và sinh hoạt hàng ngày cho gã, qua mấy ngày chung sống ngắn ngủi, tình cảm hai người càng thêm thắm thiết, gắn bó keo sơn.

Trong tất cả nhưng đầu mối hiện có, cái nào cũng đều liên quan mật thiết đến công việc, Trác Mộc Cường Ba trước hết chú ý đến bản dịch mới nhất của Cổ Cách kim thư, bản dịch này do Lữ Cánh Nam nỗ lực kiếm được theo một con đường phức tạp, thêm nữa các chuyên gia lại dịch theo kiểu phân đoạn, nên khi chuyển tới tay nhóm của Trác Mộc Cường Ba thì chỉ là những đoạn vụn vặt và rời rạc.

Có điều, thông qua qua những đoạn rời rạc ngắt quãng này, họ lờ mờ nhận định rằng, trong lịch sử Cổ Cách, sứ giả tổng cộng đã xuất hiện ba lần, vị sứ giả đầu tiên giáng lâm tại một tòa thành, khi vị thánh sứ thứ hai xuất hiện, trong lời nói cũng biểu lộ cũng đã từng đến Cổ Cách. Hơn nữa còn nói, ông ta vốn định khai sáng tòa thành kia nhưng vị Tây thánh sứ cầu xin nên thôi, như vậy chí ít ông ta biết vị Tây thánh sứ kia là ở Cổ Cách. Còn vị thánh sứ thứ ba, khi mang tín vật đi xa đã cùng quốc vương ước định, nếu như còn sống, nhất định trở về gặp lại quốc vương, tiếc rằng, những sự kiện liên quan đến việc vị sứ giả kia có trở về hay không lại nằm trong phần cuối của quyển kim thư, đến nay đã bị thất lạc.

Nhưng giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba cũng không tùy tiện phân tích kim thư chỉ dựa vào lời vị Tây sứ giả kia, các trưởng lão thôn Công Bố đã chỉ ra và xác định Trác Mộc Cường Ba và Merkin hai người cùng là thánh sứ, dựa theo cách diễn giải ngôn ngữ cổ, thánh sứ được hiểu là người có đại trí tuệ hoặc là người có dòng máu cao quý, thuần khiết. Mặt khác, những điều này không được ghi trong Cổ Cách kim thư, cũng không tìm thấy trong các tài liệu lịch sử khác, nên chỉ có thể nhận định, nếu đặt những vị sứ giả đó và trường hợp của Trác Mộc Cường Ba, Merkin vào cùng một chỗ, là không có căn cứ lịch sử.

Điều làm cho Trác Mộc Cường Ba cảm thấy kinh ngạc chính là, vị Cổ Cách vương Y Tây Ốc Bá ấy không chỉ giúp đỡ vị sứ giả kia đi khai sáng tòa thành ở nơi góc biển chân trời, mà còn để ông ta mang theo thánh vật có liên quan. Trong đoạn dịch ngắn ngủi không đưa ra được được kết luận chính xác, chỉ biết lúc ấy thánh sứ và quốc vương giao ước rằng, một mặt vị sứ giả ấy mang theo một trong ba món tín vật cùng với công văn tới nơi chân trời góc biển, mặt khác quốc vương cũng bí mật cử một sứ giả mang theo tín vật tới một nơi cùng trời cuối đất khác. Việc vị quốc vương ấy có thực hiện giao ước hay không, trong bản dịch chỉ đề cập đến một cách mơ hồ, nói rằng quốc vương đã cử hai mươi thiếu niên Cổ Cách ưu tú nhất đi sang phương Tây. Bên dưới câu dịch tối nghĩa này, giáo sư Phương Tân đã dùng bút đỏ đánh dấu và ghi chú thêm: khoảng năm 975 - 981, Cổ Cách vương Tùng Ngạch đã cử hai mươi mốt thiếu niên nổi danh trí tuệ sang Thiên Trúc nghiên cứu Phật pháp. Tức là so với lịch sử thì cũng có phần nào ăn khớp.

Về việc hai mươi thiếu niên ưu tú kia có mang theo thứ gì đi hay không, trong Cổ Cách kim thư không đề cập đến, nhưng giáo sư Phương Tân đã cẩn thận tra cứu các tư liệu liên quan đến việc hai mươi thiếu niên đi nghiên cứu Phật pháp có trong lịch sử, rồi chỉnh lý và ghi lại: Hai mươi thiếu niên ưu tú này xuất hành rất bí mật, không thể khẳng định chính xác thời gian xuất hành cụ thể của họ, cũng không rõ họ đã đến nơi nào, chỉ biết rằng có hơn hai mươi người ra đi, cuối cùng chỉ có hai người còn sống trở về, họ theo sự dẫn dắt của A Để Hạp đại sư, về sau đều nổi danh trong lĩnh vực dịch truyền Phật pháp. Hành trình họ ra ngoài cầu Phật kéo dài hơn một thập kỷ, không kém thời gian vị sứ giả kia vượt qua Thái Bình Dương đi về phía Đông.

Còn về món tín vật thứ ba, không tìm thấy bất cứ manh mối nào liên quan đến nó trong các đoạn dịch này, cuối cùng thì nó được giao cho người khác, đã bị hủy đi, hay vẫn còn lưu lại Tây Tạng, tất cả đều không xác định được, chỉ biết vị sứ giả đã từng nhắc đến ba món tín vật.

Tóm lại, trong các đoạn dịch xuất hiện ba vấn đề, thứ nhất là thái độ của vị sứ giả đối với ba món tín vật, một vài đoạn ghi, mục đích của vị sứ giả kia là muốn ba tín vật được giao cho ba người khác nhau, đoạn khác lại nói ngược lại, mục đích lại là đem cất giấu hai món tín vật ở nơi chân trời góc biển, mỗi món một phương, vĩnh viễn không tái hợp, tình tiết đột ngột trở nên phức tạp và kỳ lạ, đồng thời, trong các đoạn dịch hiện có không tìm thấy bất cứ điều gì có thể giải thích về nguyên nhân và hoành cảnh dẫn đến việc đột ngột thay đổi thái độ đó, thật là khiến người ta cảm thấy như sa vào một đám sương mù. Giáo sư Phương Tân nói với Trác Mộc Cường Ba, giống như Nhạc Dương đã nói đùa, chỉ với những tài liệu mà họ đang nắm giữ, thì điều duy nhất có thể kết luận, là vị sứ giả kia đã mắc chứng tâm thần phân liệt.

Điểm thứ hai là thái độ của Cổ Cách vương đối với món tín vật, một đoạn dịch cho thấy, quốc vương đối với sứ giả rất mực tôn kính, ra lệnh chấp hành mọi yêu cầu của sứ giả; nhưng một đoạn khác lại nói, quốc vương bí mật cử người cản trở sứ giả, cũng khó trách Lữ Cánh Nam trước đây đã nói với họ, sứ giả muốn đem tín vật trao cho người khác, còn quốc vương thì lại nhất định muốn giữ tín vật lại, đối với điểm này thì các chuyên gia cũng bối rối, không dám kết luận cuối cùng đã xảy ra chuyện gì.

Điểm nghi vấn thứ ba, cũng liên quan đến các tín vật, những điều rút ra từ các đoạn dịch cho thấy, ngoại trừ tín vật được sứ giả đem theo khi đi khai sáng tòa thành ở nơi hải ngoại, một tín vật khác là do quốc vương sai người bí mật đem đi, trong đó còn có một hai dòng nói một tín vật là họa đồ, bị quốc vương dùng sức mạnh mà cưỡng bức lưu lại, đem hai việc mà so sánh với nhau thì thấy rối bời, không biết đâu là thật, đâu là giả nữa, đành phải đợi các chuyên gia dịch xong toàn bộ kim thư mới có thể phân tích tiếp.

Ngoại trừ Cổ Cách kim thư, Trác Mộc Cường Ba cũng rất hiếu kỳ và hứng thú khi đọc những thông tin mà giáo sư Phương Tân có được khi giải mật mã của quân Đức và tra cứu tư liệu về chiến tranh thế giới thứ hai, vốn trước đây Lữ Cánh Nam đã từng đề cập tới việc người Anh có được những tài liệu của Stanley, trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã bị thất lạc, không biết nguyên nhân là thế nào, cuối cùng lại rơi vào tay người Đức, nhưng lúc đó Lữ Cánh Nam chỉ nói lướt qua, không giải thích rõ ràng, trong các tài liệu cung cấp cho mọi người sau này, cũng không được đề cập và phân tích cụ thể. Lần này giáo sư Phương Tân đã hướng theo các tư liệu về Hitler và các thủ lĩnh phát xít khác mà điều tra tỉ mỉ, phân tích kỹ càng, cũng ghi thêm các nhận xét mà cá nhân ông đúc kết được, vì thế, một lần nữa Trác Mộc Cường Ba lại có thêm những kiến thức phong phú.

39.5

Bí mật của Hitler



Giáo sư Phương Tân đã ghi trong tài liệu này: "Không có gì bất ngờ, khi một kẻ cuồng tín năng lực siêu nhiên như Hitler, với sự ủng hộ của những người có cùng quan điểm trong giới chức Đức thời đó, đã tổ chức hàng loạt các hoạt động bí mật, huy động lực lượng đặc chủng SS, thành lập Ủy ban nghiên cứu về di sản tổ tiên để tiến hành tìm kiếm rương thánh, chén thánh, nghiên cứu các văn tự cổ đại, đặc biệt là những sự kiện diễn ra ở Tây Tạng..."

Khi còn nhỏ Adolf Hitler không hề có chí hướng to lớn gì, ông(*) mơ ước trở thành một nghệ sĩ, vì vậy đã nảy sinh những thiên lệch lớn trong tư tưởng, khi ở trường trung học, do kém về toán học và các môn tự nhiên mà phải lưu ban, sau này lại vì trượt môn tiếng Pháp mà phải bỏ dở, chỉ học có bốn năm trung học thay vì sáu năm theo như chương trình. Sau khi cha ông mất, Hitler không muốn tiếp tục học lên bậc cao trung mà muốn hướng tới con đường nghệ thuật, nên đã tới Wien, nơi được hun đúc bởi bầu không khí của nghệ thuật.

Ban đầu, Hitler dự định thi vào Học viện nghệ thuật Wien, nhưng do thiếu điểm nên không được tiếp nhận. Sau đó thì mẹ ông qua đời vì mắc bệnh ung thư vú, tài sản của cha để lại đã tiêu hết. Hitler không hề thiết tha học lấy một nghề chuyên môn nào, mà thường chỉ nhận làm các công việc lặt vặt, rốt cuộc trở thành một kẻ lang thang ở Wien.

_______________________________
(*)Đại từ nguyên văn là "gã" hoặc "hắn", mình tạm chuyển là "ông". Tốt xấu gì thì Hitler cũng là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử, nên có chút tôn trọng và khách quan.
_______________________________

Năm 1909, cuộc sống của Hitler lần đầu tiên có biến chuyển, một người bạn khuyên ông nên vẽ các bưu thiếp để bán và tình nguyện thay ông đi chào hàng, nghe đâu tiêu thụ cũng rất khá, kẻ lang thang không nghề nghiệp trọ trong một căn hộ rẻ tiền ấy giờ đây không phải lo buồn vì chuyện ăn uống nữa. Năm ấy Hitler hai mươi tuổi, đó cũng là lúc ông ta bất đắc chí nhất, không phải lo đến cơm ăn áo mặc nữa, liền giành tất cả thời gian và tranh thủ cơ hội để đọc các loại sách, có thể do được di truyền từ cha, một công chức nhà nước, nên từ nhỏ Hitler đã đặc biệt mẫn cảm với chính trị, ông tìm đọc rất nhiều sách báo chính trị, nghiên cứu các loại chủ nghĩa, không thể tin được, ông ta đã từng nghiên cứu rất sâu về chủ nghĩa Marx.

Nhưng trong tài liệu, giáo sư Phương Tân lại nhấn mạnh đến một cuốn sách khác, đó là cuốn "Hòn ngọc phương Đông", một tạp chí về phiêu lưu và khoa học viễn tưởng do một tín đồ Thiên chúa giáo La Mã biên soạn, nó ngập tràn màu sắc văn học lãng mạn và những tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, được phát hành ở một vài khu vực thuộc nước Áo, nhưng được rất nhiều thanh niên thời ấy hưởng ứng cuồng nhiệt. Hitler là một người trong số đó, ông ta yêu thích nó đến mức không rời tay, số nào ra cũng đặt mua. Trong tạp chí đề cập đến người Arian thuần chủng, với đặc điểm tóc vàng mắt xanh, cho rằng đó là chủng tộc cao quý, bài xích những "dân tộc tạp giao thấp kém" khác, đặc biệt là dân tộc Do Thái "biến chất hạ đẳng". Ngoài ra tạp chí còn cóp nhặt các sự kiện ly kỳ, huyền bí ở các nơi, sưu tầm những câu chuyện hư cấu phát sinh trong hành trình của các nhà thám hiểm, các nhà nghiên cứu khoa học, đối với các loại vu thuật và năng lực siêu nhiên cũng được trình bày đầy đủ. Giáo sư Phương Tân đánh giá: "Vốn đấy chỉ là những thủ đoạn để hấp dẫn độc giả, nhưng Hitler lại tin là thật, bắt đầu ảo tưởng chính mình thừa hưởng dòng máu Arian thuần chủng và có các năng lực ngoài sức tưởng tượng. Sau này, khi ra trận, trong vai trò một hạ sĩ truyền tin, mấy lần thoát chết, ông ta càng thêm tin tưởng vững chắc vào thân phận của mình."

"Hòn ngọc phương Đông" tác động đến tư tưởng của Hitler hơn bất cứ loại sách báo nào mà ông ta đã đọc, những năm sau này, dưới ảnh hưởng của nó, trong Hitler đã hình thành một thế giới quan chính trị rất đặc biệt. Giáo sư Phương Tân nhận xét, tạp chí này là "Khởi nguồn cho những tư tưởng điên cuồng của Hitler". Thậm chí Trác Mộc Cường Ba còn liên tưởng, không biết tạp chí này có nhắc đến chuyện Stanley tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu hay không. Giáo sư Phương Tân phúc đáp rằng, ông đã nghĩ đến việc tìm đọc các ấn bản của tờ tạp chí này, nhưng hình như nó được phát hành với số lượng không lớn, tra trong Bảo tàng quốc gia Anh thì có một kỳ, có nhắc đến các văn tự cổ đại, các lực lượng thần bí, nhưng không có bài về chuyến đi của Stanley. Bởi nó có tựa đề là tạp chí "Hòn ngọc phương Đông", nên nhất định nội dung chủ yếu là nói về những sự kiện thần bí ở phương Đông, đặc biệt là ở Trung Quốc và Ấn Độ, giáo sư Phương Tân cũng tìm thấy trong một kỳ có thuật lại chuyến đi của Marco Polo.

Theo tài liệu, biến chuyển thứ hai trong cuộc đời Hitler là không lâu sau khi Đức thất bại trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, cuộc “cách mạng tháng Mười một” như một cơn lốc quét qua cả nước, nước Cộng hòa Xô viết Bavaria được thành lập ở Munich, năm sau, ông tham gia vào tổ chức "tư duy quốc gia" do Sở Giáo dục và tuyên truyền tiểu bang tổ chức, thuộc về nhóm 4 dưới sự chỉ huy của đại úy Karl Mayr, chính vì chuyện này, Hitler đã được chính phủ Đức chú ý. Năm 1919, chính phủ Đức bị ép ký hòa ước Versailles, trong đó có điều khoản quy định rằng nước Đức chỉ được duy trì một đội quân tối đa là 10 vạn người. Để bảo đảm sự trung thành và đáng tin cậy của quân đội, chính phủ Đức đã thành lập một ủy ban giám sát, có nhiệm vụ điều tra các xu hướng chính trị trong nội bộ binh lính và công nhân, để từ đó kịp thời phát hiện và phá vỡ các âm mưu chính trị. Hitler trở thành một nhân viên của ủy ban giám sát này, được họ tiếp nhận và huấn luyện, rồi bí mật cử đi điều tra các đoàn thể xã hội, đặt viên đá dẫn đường cho Hitler âm thầm tiếp xúc với các thế lực và các tư tưởng chính trị, mà nổi danh nhất trong thời kỳ này là tổ chức xã hội cực đoan mang tên "Nhóm cực Bắc".

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nước Đức lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội rất nghiêm trọng, một số cựu chiến binh và thanh niên Đức vẫn coi việc nước Đức thất bại trong chiến tranh là một điều nhục nhã, nên đã hết sức giận dữ và phẫn nộ, các tổ chức mang tư tưởng cực đoan mọc lên như nấm, họ tôn sùng sức mạnh siêu nhiên, cổ vũ tinh thần dân tộc Germany và khuếch trương ý chí phục hưng Đế quốc Đức. Trong đó, "Nhóm cực Bắc" là một trong những tổ chức nổi bật nhất.

Các thành viên của "Nhóm cực Bắc" tuyên bố "cực Bắc" là nơi được che phủ bởi băng tuyết, ở đấy có tồn tại một quốc gia, người ở đấy vẫn giữ được những sinh hoạt thuần túy của chủng tộc Arian, họ có những khả năng siêu nhiên, nhưng do thiên tai và nhân họa nên đã bị ngăn cách với thế giới hiện đại, không có ai biết đến. Còn cho rằng, những người đó cư trú trong một khe núi ngầm thần bí, chỉ có một lối vào thông lên mặt đất, muốn đi tới đó phải vượt qua sông băng vĩnh cửu, trong bóng tối của một đường hầm...(*)
_____________________
(*)Đây là quan điểm tiếp cận Bạc Ba La nhất (T7).
_____________________

Tất nhiên, những quan điểm này hoàn toàn được Hitler chấp nhận, lợi dụng thân phận đặc biệt của mình, ông ta tích cực tham dự vào "Nhóm cực Bắc", đồng thời cũng có nhiều bài diễn thuyết...

Trong đoạn tư liệu này, thấy chữ giáo sư Phương Tân nhận xét dày đặc hai bên trái phải: "Nhóm cực Bắc” tôn sùng chủng tộc Arian, đã tác động rất mạnh tới Hitler và các thanh niên Đức thời bấy giờ, thúc đẩy quan điểm về chủng tộc Arian siêu việt trong Hitler thêm sâu sắc hơn..."; "Theo vị trí địa lý mà xét thì Tây Tạng có đặc điểm vừa khớp, có thể đoán định đây là nền tảng cho việc sau này Hitler phái nhóm thám hiểm đi Tây Tạng..."; "Nghi ngờ sau này Himmler đã đón ý Hitler tạo ra câu chuyện về hậu duệ của người Atlantis ..."

Các thông tin ở phần sau là các mô tả về lục địa Atlantique qua huyền thoại của Plato. Năm 580 TCN, nhà lập pháp, nhà cải cách nổi danh của thành bang Athens là Solon đã du hành tới thủ phủ Heliopolis của Ai Cập cổ, thảo luận về triết học với các học giả và nhà hiền triết địa phương. Ở đó, Solon đã gặp Psenophis, rồi tiếp nhận từ Psenophis các huyền thoại sử thi về Atlantique. Sau đó Solon đã đem những vấn đề thu lượm được trong các chuyến du hành ghi chép lại thành tác phẩm, rốt cuộc truyền tới tay Plato. Dựa trên tài liệu ấy, Plato đã nghiên cứu và xây dựng nên truyền thuyết về Atlantique, được đông đảo mọi người truyền tụng.

Theo truyền thuyết này, Atlantique là một lục địa, nằm đối diện với "Cột trụ Heccules" xa tít ngoài đại dương cuộn sóng phía Tây; ngày nay ta đã biết, phía Tây eo biển Gibraltar là Đại Tây Dương rộng lớn, diện tích 2.072.000 kilometre vuông; nơi ấy sản vật phong phú, khoa học kỹ thuật phát triển. Một vạn năm trước công nguyên, cổ nhân tại Atlantique đã lập ra các thành bang của mình, đó là một xã hội gần như không tưởng, đô thành to lớn đồ sộ, cung điện và miếu thờ nguy nga tráng lệ, đều là dùng vàng, bạc, đồng thau và ngà voi xây dựng nên, trên đảo có hệ thống kênh đào thông suốt bốn phía, kiến trúc cầu cống hoàn mỹ, hải cảng tấp nập ngày đêm, ở đó người người đều an cư lạc nghiệp, sản vật phong phú dùng mãi cũng không hết, tuy trên đảo có 12 quốc gia, nhưng lại chúng chung một bộ luật duy nhất và thống nhất tôn sùng vị thần biển Poseidon(*) làm chúa tể hòn đảo. Đáng tiếc ngày vui ngắn chẳng tầy gang, sinh hoạt của cư dân trên Alantique ngày càng suy đồi, cuối cùng đã khiến Poseidon tức giận, do đó, đảo quốc xinh đẹp, giàu có và văn minh nổi tiếng thời cổ đại này, chỉ trong một đêm đã bị chôn vùi dưới đáy biển sâu.
_______________________
(*)Poseidon (thần thoại Hy Lạp): Một trong 12 vị thần Olympia, cai quản biển khơi, là anh trai thần Jeus. (Xem thêm hình trên nhãn chai dầu ăn Neptune).
_______________________

Vậy Atlantique có thực sự tồn tại hay không, từ khi Plato khởi xướng giả thuyết này, nó đã không ngừng được bàn cãi suốt hai nghìn năm qua, hiện tại cũng có không ít học giả đang nghiên cứu tìm kiếm vị trí chính xác, vấn đề này đã tìm được không ít tài liệu. Tới giữa thế kỷ XIX, người được coi là "cha đẻ của Atlantis" - nhà khảo cổ học người Mỹ Donnelly đã viết cuốn "Atlantis: thế giới người xưa"(*), trong đó ông đã đưa ra và cố gắng chứng minh 13 giả thuyết khác nhau: Sách Khải huyền mô tả "vườn Địa đàng", coi đó là nơi khởi nguồn của người xưa; theo thần thoại Ai cập và Maya, họ tôn tôn thờ thần Mặt trời, đó là tôn giáo gốc của người Atlantis; "thời đại đồ đồng" của châu Âu bắt nguồn từ Atlantis, đồ sắt cũng là do người Alantis phát minh ra trước tiên; bảng chữ cái "Phoenician" - cha đẻ của tất cả các bảng chữ cái châu Âu bắt nguồn từ Atlantis; Atlantis cũng là nơi khởi nguyên của chủng tộc Aryan, của các dân tộc Ấn - Âu; hơn một vạn năm trước Atlantis bị biển khơi nhấn chìm, nhưng có một số ít cư dân đã dùng thuyền thoát nạn, để lại truyền thuyết về cơn đại hồng thủy ở thời thượng cổ.
________________________
(*)Nguyên bản tiếng Anh "Alantis: The Antediluvian World" (rất hay); Ở đây Hà Mã chỉ đề cập giản lược tới 6 trong 13 giả thuyết của Donnelly lần lượt là các giả thuyết số 5, 7, 9, 10, 11 và 13.
Hình như Hà Mã đã dùng 2 loại danh từ riêng: "châu Đại Tây" và "Á đặc lan đế tư" để chỉ lục địa và con người (tựa như England và English nhưng không hoàn toàn), mình tạm phân biệt bằng "Alantique" và "Atlantis".
________________________

Trở lại việc Heinrich Himmler, một trong những trợ thủ được Hitler tín nhiệm nhất, vị thống chế thủ lĩnh SS này đã đón ý Quốc trưởng mà cải biên lịch sử của người Arian, trong câu chuyện về Atlantis, địa điểm và môi trường thay đổi, Plato vốn chỉ đơn thuần đề cập đến người Atlantis, nhưng Himmler căn cứ vào đấy mà khẳng định họ là tổ tiên của người Arian, là Arian thần tộc. Những người người thuộc thần tộc ấy thân cao tới... 3 mét, tóc vàng óng ánh, màu mắt xanh biếc, da trắng nõn nà, mũi cao mảnh dẻ, khuôn mặt thon dài, phản ứng nhanh nhạy, sức mạnh vô tận - cũng na ná như cách nghĩ về năng lực siêu nhiên. Theo cách giải thích của Himmler, khi Alantique bị nhấn chìm, những người thuộc thần tộc Arian này buộc phải bỏ đi lánh nạn, trong quá trình lánh nạn họ đã tách làm hai chi, một chi đổ bộ lên bờ biển Ấn Độ, còn chi kia đổ bộ lên duyên hải Caucasus rồi sau đó trở thành tổ tiên của người Arian hiện nay. Cũng theo Himmler, vì chỉ có một số ít người Alantis chạy thoát trong cơn đại hồng thủy, nên để sinh sôi nẩy nở, họ buộc phải "tạp giao" cùng các dân tộc hạ đẳng, nên đã mất đi thần lực, vì thế ông ta cho rằng, chỉ cần cùng với người Arian thuần chủng giao phối, thêm các nỗ lực tác động khác, có thể khôi phục được thần lực vốn có, để rồi tạo ra những thế hệ binh sĩ Arian vô địch(*).
_____________________________
(*)Theo cuốn "Lịch sử Gestapo" của Jacques Delarue, thuở "hàn vi” Himmler đã từng nuôi và lai tạo gà giò (nhưng thất bại), nên về sau, khi nắm được quyền lực, ông ta luôn mang nặng tư tưởng thanh lọc nòi giống và muốn đem áp dụng nó trong lực lượng SS.
Thêm một chi tiết điển hình nữa: W.Selenberg - một Cục trưởng SD, trong hồi ký đã viết về việc trước khi lấy vợ, ông ta phải trình Himmler để thẩm tra hồ sơ lý lịch của vợ, sau đó ký lệnh đồng ý, thì mới được kết hôn.
_____________________________

Câu chuyện của Himmler cũng xác định rõ khu vực cư trú của chi người Atlantis thứ hai: sau khi đổ bộ lên bờ biển Ấn Độ, họ tiếp tục di chuyển và cuối cùng dừng chân tại khu vực giáp ranh giữa Tây Tạng và Ấn Độ ngày nay, cũng tức là dãy Himalaya và phụ cận, ông ta còn giải thích, vì trải qua sự kiện đại hồng thủy nhấn chìm quốc đảo, nên để phòng ngừa sự kiện này lại phát sinh lần nữa, họ đã lựa chọn khu vực cao nhất thế giới ấy làm nơi định cư mới. Ngoài ra, Himmler còn bổ sung thêm vào giả thuyết của nhóm "cực Bắc", cái nơi "cực Bắc" gây chấn động một thời ấy chính là dãy Himalaya ngày nay, "cực Bắc" thật ra không phải dùng để nói vùng địa cực ở phương Bắc mà là để chỉ một xứ sở bị băng tuyết bao trùm, vô cùng lạnh lẽo.

Cuối cùng, giáo sư Phương Tân cho biết: "Chính vì chịu ảnh hưởng của tạp chí Hòn ngọc phương Đông và những luận điệu trong câu chuyện của Himmler, năm 1938, Hitler đã chấp thuận để Himmler cử một đội khảo sát đến Tây Tạng để tìm kiếm tổ tiên của người Arian." Nhưng giáo sư Phương Tân cũng đưa ra rất nhiều nghi vấn như: "Himmler có trình độ văn hóa không cao, nhưng những luận điệu ông ta đưa ra lại tổng hợp được rất nhiều lập luận thịnh hành ở Đức thời đó, cách giải thích lại mạch lạc rõ ràng, trước sau rất là hợp lý, những người hiểu biết đều có thể dễ dàng cảm nhận, vậy ai mới là tác giả thực sự?"; "Việc người Đức hai lần tiến hành khảo sát Tây Tạng có chính xác không?"; Hai bên trái phải chú thích thêm: "Tài liệu của phát xít Đức, sau chiến tranh được Liên Xô và Mỹ chia nhau lưu trữ, thuộc diện hồ sơ mật, một phần đến năm 2045 mới được gỡ bỏ lệnh cấm, một phần thì giữ bí mật vĩnh viễn. Theo nguồn tin chính thức, đại bộ phận tư liệu về lần khảo sát Tây Tạng lần thứ nhất của người Đức đã bị thiêu hủy trong một trận hỏa hoạn vào năm 1945, tính xác thực của thông tin này còn phải điều tra tiếp."

Kết thúc phần nói về Hitler, phần sau của tài liệu đề cập tới việc mấy thủ lĩnh Quốc xã khác như Himmler và Goering cũng đều sùng bái năng lực siêu nhiên, Himmler hứng thú với các loại thí nghiệm ma pháp, còn Goering thì say mê thuật chiêm tinh, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy buồn cười, trước đây vốn không hề nghĩ rằng Thế chiến thứ hai là do những người như thế phát động, cái này có thể gọi là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã.

***


Ba ngày sau, Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa thể đi lại được, đọc hết lượng tài liệu to lớn do giáo sư Phương Tân chuyển tới, gã nghĩ đấy đều là kết quả mấy tháng vất vả cực nhọc của thầy giáo, còn thời gian đó mình đã làm được những việc gì? Đột nhiên gã không khỏi có chút dằn vặt, tự trách. Mẫn Mẫn ngồi ở đầu giường, mắt không rời gã, sao lại không nhận ra, cô liền âu yếm dụi đầu vào ngực gã, dịu dàng nói: "Anh làm sao vậy, có chuyện gì không vui à?"

Trác Mộc Cường Ba cười khổ nói: "Nói ra thật xấu hổ, anh thật không xứng đáng với em, giữa lúc mọi người kiên trì không bỏ cuộc, sao trong đầu anh tự nhiên lại nảy sinh tư tưởng đầu hàng, anh..."

Đường Mẫn đặt một ngón tay lên môi Trác Mộc Cường Ba, thì thầm: "Không, trong mắt em, anh vẫn là người đàn ông kiên cường nhất, đều do em không tốt, trong lúc anh cần được giúp đỡ nhất thì em lại bỏ đi, em không nghĩ rằng anh lại phải chịu khổ như thế, lại suy sụp đến thế. Theo em nghĩ, khi một người đàn ông bị thương cắn răng chịu đau không hề kêu la, đấy là việc bình thường, không có gì đáng nói, nhưng khi một người đàn ông phải chịu oan uổng, bị già trẻ gái trai chửi bới, thậm chí còn bắt nạt, mà vẫn im lặng nhẫn nhịn, chấp nhận gánh chịu một phần hậu quả vốn không thuộc trách nhiệm của mình, đấy mới thực sự là người bền gan vững chí, đấy mới là anh, Trác Mộc Cường Ba. May mắn thay, những việc đó đã trở thành quá khứ..." Thấy khóe mắt Trác Mộc Cường Ba ánh lên vẻ tang thương, cô liền ôm cổ gã, nhẹ nhàng nói: "Kể cho anh nghe một câu chuyện."
---------------------------------------
Đầu óc và miệng lưỡi "mợ" này gớm thật đấy, đến đá cũng phải nẩy mầm, “ xơi” cả cân arsenic cũng khen thơm khen ngon. Chỉ đẹp thôi vẫn chưa ăn thua, đây mới là mỹ nhân chính hiệu!?.
---------------------------------------
"Ừ?" Trác Mộc Cường Ba úp mặt vào bộ ngực mềm mại ấm áp của Đường Mẫn, trong lòng dĩ nhiên xuất hiện cảm giác rất an toàn, giống như khi còn bé.

Đường Mẫn nói: "Anh biết đại hoàng phong(*) không? Cơ thể chúng to hơn ong mật, nhưng cánh lại rất nhỏ, còn tỷ lệ giữa bụng và ngực thì rất không thích hợp. Căn cứ vào nghiên cứu của các nhà khoa học, theo bất cứ giả thiết nào và làm thí nghiệm gì, đại hoàng phong nhất định là không thể bay, nhưng trong thực tế, đại hoàng phong vẫn đang bay lượn. Đối với hiện tượng này, các nhà khoa học cũng đành chịu bất lực, không thể giải thích được, chỉ có thể thốt lên... Đó là bởi vì chúng muốn bay... thì bay.”
______________________
(*)Là phân loài châu Á của ong bắp cày (hornet), cơ thể to lớn hơn các các phân loài ong bắp cày khác.
______________________

Giọng kể của Đường Mẫn dịu dàng, mượt mà như người mẹ hằng đêm bên giường kể chuyện cổ tích cho các con, trên môi Trác Mộc Cường Ba không thể không nở nụ cười, nỗi buồn vô cớ trong lòng lập tức tan thành mây khói, tâm tình như được ánh mặt trời đang xuyên suốt các tầng mây ở bên ngoài cửa sổ chiếu rọi. "Câu chuyện em vừa kể rất giống một câu ngạn ngữ người ta thường nói." Trác Mộc Cường Ba nói: "Đó là, đại bàng có bay cao, đâu chỉ nhờ đôi cánh, mà còn nhờ ý chí. Cảm ơn em, giờ anh mới biết, Mẫn Mẫn của chúng ta còn giỏi cả môn kể chuyện nữa."

Ánh mắt Đường Mẫn chợt ảm đạm, lẩm bẩm nói: "Đấy là do trước đây thường được nghe anh trai em kể chuyện." Trác Mộc Cường Ba trong lòng trầm xuống, đang định nói vài lời an ủi, thì Mẫn Mẫn đột nhiên nói: "A! Em còn phải cho anh uống thuốc nữa, em ra ngoài một chút, sẽ quay lại ngay."

Mẫn Mẫn vừa ra khỏi cửa, phòng bệnh đã đón chào một vị khách không mời, đó là một người béo ục ịch, trên khuôn mặt tròn nở nụ cười hòa nhã, tay xách giỏ hoa quả, Trác Mộc Cường Ba còn tưởng là ông ta đi nhầm phòng.

Không ngờ, người mập này lại mỉm cười, nói: "Chào tiên sinh Trác Mộc Cường Ba, ông còn nhớ tôi không? Một tháng trước chúng ta đã gặp nhau rồi, lúc đó là do tôi sai, không hiểu cảnh ngộ của ông, chắc ông tưởng tôi cũng giống đám người kia, ôi, cũng tại tôi quá lỗ mãng, tìm gặp ông vào lúc đó, tại nơi đó, thể nào mà ông đã trách cứ tôi."

Trác Mộc Cường Ba nghe thấy người này nói ra tên mình, liền cố lục lọi trong ký ức, nhưng nghĩ mãi không ra người mập này là ai, còn tên mập thì cứ như bạn bè lâu ngày, tiến tới bên giường, lấy hoa quả ra xếp lên bàn, lại nói: "Thật ra, Trác Mộc Cường Ba cũng đâu cần ngã lòng đến như vậy, chỉ cần tìm được thần miếu, còn sợ không có tiền sao...”

Vừa nhắc đến Bạc Ba La thần miếu, Trác Mộc Cường Ba liền nghĩ ra ngay, đây là tên mập trong thời gian mình khó khăn nhất đã tìm đến nói về chuyện thần miếu, lần đó đã bị mình đuổi đi, không ngờ còn quay trở lại, Trác Mộc Cường Ba chán ghét nói: "Tôi đã nói rồi, tôi không biết chùa chiên miếu mạo gì cả, ông hà tất đeo đuổi mãi không buông tha?

Tên mập cười, nói: "Tiên sinh Trác Mộc Cường Ba tự mình đã rõ, cần gì phải giấu diếm những kẻ trọc đầu bình dân bách tính chúng tôi như thế, tôi biết, công ty của Trác Mộc Cường Ba tiên sinh bị phá sản cho nên mới ông mới lâm vào cảnh khó khăn như thế này, vốn tìm được một vài manh mối lại cũng bị gián đoạn nốt..."

Trác Mộc Cường Ba đã cau mày, chuẩn bị tiễn khách, tên mập vội cười nói: " Tiên sinh Trác Mộc Cường Ba, ông đừng ác cảm như thế, đợi tôi cho ông xem vài thứ, sau khi xem xong tôi lại kể với ông một câu chuyện, nói không chừng, đến lúc đó ông sẽ thay đổi cách nhìn đối với chúng tôi.”

39.6

Vị khách không mời



Gã mập lấy từ trong giỏ hoa quả ra một vật trông giống chiếc máy quay cameras, sau đó kéo rèm cửa sổ lại, hướng ống kính vào tường rồi bật công tắc, hóa ra đó là một chiếc máy chiếu cỡ nhỏ. Lập tức trên tường liền xuất hiện một hình ảnh, đó là một sợi dây chuyền, do tơ vàng sợi bạc đan kết mà thành, trên mặt khảm đầy đá quý, ngọc châu lấp lánh, lộng lẫy mà tôn quý, căn cứ hoa văn và kiểu dáng của nó, Trác Mộc Cường Ba chỉ cần thoáng nhìn cũng nhận ngay ra đây là một món trang sức rất đặc trưng của dân tộc Tạng mà các phụ nữ quý tộc thường đeo, tiếng Tạng gọi là cách kim. Gã mập bắt đầu giới thiệu: “Món đồ này nặng tổng cộng 1.646 gram, được khảm 108 viên ngọc bích thượng hạng, hai mươi tám viên lam ngọc mỗi viên nặng trên 8 carat, theo các chuyên gia nghiên cứu, thì đây là một món trang sức mỹ nghệ kiệt tác thuộc hoàng gia Tây Tạng vào thế kỷ thứ VIII. Năm 2000, tại một phiên đấu giá ngầm ở Detroit, nó đã được thỏa thuận với giá 200 triệu USD.

Bức ảnh thứ hai là một cây quyền trượng bằng vàng, phía trên chạm khắc nhiều hình quỷ quái khiến người ta thấy rất lạ, đỉnh quyền trượng khảm một viên đá quý đỏ rực như lửa, to bằng quả trứng gà, gã mập lộ vẻ xúc động, nói: "Đây là cây Phục ma quyền trượng, gồm bẩy khúc, thân trượng đúc bằng vàng, ở giữa có khe rỗng, khi có chùm tia sáng chiếu vào đáy trượng thì viên hồng ngọc trên đỉnh sẽ hiện ra các hoa văn, phân rõ tướng mạo. Cái món này, đá quý rực rỡ, thuộc loại hiếm thấy, cấu tạo tinh vi, chế tác khéo léo, khiến người ta càng xem càng thán phục. Năm 1993, tại một phiên đấu giá ngầm ở Tokyo, đã được một người bỏ ra 137 triệu USD để mang đi.

Bức ảnh thứ ba là một bức tượng bằng vàng tạc hình nữ Phật, gã mập nói: "Đây là tượng Vajrasattva(*), khoanh chân tọa trên đài sen, tay trái bắt quyết, tay phải giữ chuông, cao 56 centimetre, nặng 28 kilogram, viên đá quý cẩn trên trán được các chuyên gia giám định là loại hồng ngọc màu máu bồ câu siêu đỏ, nặng chừng 15 carat, cực kỳ hiếm thấy, cho tới nay chưa phát hiện được bất cứ một tỳ vết nào. Năm 1996, trong một phiên đấu giá ngầm ở California, nó được mua với giá 207.630.000.
________________________
(*)Chưa tra được tên vị nữ Phật thích hợp, chi tiết này không quan trọng nên tạm coi là Vajrasattva (vị nữ Phật này nổi tiếng).
Tra tên riêng người nước ngoài (trừ Việt Nam, Triều Tiên) được viết bằng chữ Hán rất mất thời gian.
________________________

Từng bức ảnh, mà mỗi bức là một món mỹ nghệ quý giá, tinh xảo vô song, lần lượt xuất hiện trước mắt Trác Mộc Cường Ba, món nào cũng khiến cho gã phải kinh sợ thán phục, qua kiểu dáng và nghệ thuật điêu khắc, gã nhận ra những thứ này đều là báu vật xuất xứ từ Tây Tạng, chỉ là không hiểu tên mập kia cho mình xem nhằm mục đích gì. Sau khi chiếu lên 21 tấm ảnh, tên mập dừng lại, quan sát xem Trác Mộc Cường Ba có sáng mắt ra hay không.

Trác Mộc Cường Ba vẫn không thay đổi sắc mặt, nói: Tôi thừa nhận chúng đều là những báu vật vào loại thượng hạng, thế nhưng, ông cho tôi xem những thứ này để làm gì?

Tên mập tươi cười nói: “Tôi tin Trác Mộc Cường Ba tiên sinh đối với cái tên Stanley đặc biệt có ấn tượng. Những báu vật này đều do nhà thám hiểm vĩ đại nhất cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là Stanley tiên sinh tìm thấy ở Tây Tạng. Những thứ tôi vừa cho ông xem chỉ là một phần rất nhỏ, phần lớn các báu vật trong kho tàng đó lâu nay không hề hiện hữu, chúng nằm trong bộ sưu tập của nhiều người, được cất giữ cẩn thận tại những nơi bí mật, có lực lượng bảo vệ trông giữ. Phải biết rằng, kho báu mà hồi đó Stanley tiên sinh phát hiện ở Tây Tạng chỉ có thể dùng trọng lượng mà tính toán, ông ta còn tuyên bố hùng hồn, những báu vật mà ông phát hiện được, giá trị của nó đủ để mua toàn bộ Đế quốc Anh (Great British). Xin lưu ý, tuy lúc đó nhiều nơi đã giành được độc lập, nhưng cái mà Stanley tiên sinh nói, là chỉ Đế quốc Anh, tức là bao gồm cả Mỹ(*), Australia và các thuộc địa khác nằm trong Đế quốc mặt trời không bao giờ lặn ấy.
______________________
(*)Không rõ Stanley tuyên bố trước hay sau năm 1783, nhưng có lẽ Canada thì chính xác hơn, tuy vậy mình xin theo nguyên bản.
______________________

Trác Mộc Cường Ba nhìn vẻ mặt say mê của tên mập mà tim như có ai đang dùng dao cắt, những thứ này vốn đều thuộc về Tây Tạng, thuộc về Trung Quốc, cái tên mập này là người Trung Quốc nhưng đối với chuyện người khác lấy đi báu vật của nước mình sao lại có thể tỏ ra hết sức hăng hái như thế được nhỉ.

Tên mập lại một lần nữa nhấn mạnh: “Song, Stanley tiên sinh đã từng tiếc nuối mà nói rằng, những báu vật ông đã tìm thấy chỉ như một hạt cát trên bãi biển thôi, viên minh châu thực sự, ông ấy còn chưa tìm được, chỉ thiếu chút nữa thôi, thiếu một manh mối nữa thôi! Cái mà anh vừa xem lúc nãy, chỉ là hạt cát, cái mà chúng ta đang muốn tìm, mới thực sự là minh châu! Là minh châu, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh ạ!

Trác Mộc Cường Ba quyết định từ chối bất cứ đề nghị gì của cái tên mập này, đơn giản là gã rất phản cảm với cái bộ mặt dữ tợn méo mó ấy, đôi mắt đỏ lên vì tham lam ấy. Trác Mộc Cường Ba liền giả vờ vui mừng nói: “Thật sao? Các ông đang muốn đi tìm những báu vật còn tốt hơn những thứ vừa rồi sao? Tôi ước mình được như các ông! Vậy nhất định các ông đã có được manh mối gì rồi? Có thể cho tôi biết một chút không? Nếu không phải quá gian nan, tôi cũng muốn được đi theo các ông.”

Tên mập cười nhạt, vẻ như muốn nói, ông diễn xuất vụng lắm Cường Ba tiên sinh ạ, hắn đảo tròng mắt, nói: “Đương nhiên, nếu Trác Mộc Cường Ba muốn hợp tác, chúng tôi sẽ cung cấp rất nhiều đầu mối. Trước hết mời xem cái này...” Nói rồi hắn chiếu bức ảnh tiếp theo, dù Trác Mộc Cường Ba đã cố trấn tĩnh, nhưng vẫn không kìm được, bật mình ngồi dậy, hai tay khẽ run lên.

Bức ảnh này, không phải là thứ gì khác, mà chính là tấm bản đồ chỉ đường tới Bạc Ba La thần miếu mà bọn họ đã lao tâm khổ tứ lấy được ở Đảo Huyền Không tự, xem ra về chất liệu tuy có chút không phù hợp, nhưng nội dung thì gần như giống nhau hoàn toàn. Trác Mộc Cường Ba lập tức minh bạch, đây là một bản phục chế, nói cách khác, tấm bản đồ mà bọn họ có được ở Đảo Huyền Không tự, cũng chính là tấm bản đồ mà năm ấy Stanley đã lấy trong Cổ Cách mật thất, Merkin đã cố tình lừa bọn gã... Đây là bản đồ giả!

Tên mập mỉm cười, tỏ ra việc này nằm trong dự liệu của gã, thân mật nói: “Xem ra, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh đã rất kinh ngạc khi thấy tấm bản đồ này. Tôi biết, lần trước các ông tới núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc, chẳng phải theo sự chỉ dẫn của tấm bản đồ này hay sao? Năm ấy Stanley tiên sinh cũng là vì đi theo tấm bản đồ này mà chết bất đắc kỳ tử trong núi tuyết, sau này, còn có rất nhiều đội thám hiểm bí mật khác đi theo và cũng chết tại nơi ấy. Có thể đây là lần đầu tiên Chính phủ Trung Quốc chúng ta có được tấm bản đồ này, trên thực tế, đối với một số tổ chức phi chính phủ ở nước ngoài, nó không còn là một bí mật lớn nữa, chí ít cũng có bẩy tám bản sao đang được lưu truyền trong các đội thám hiểm, chỉ là bản gốc, từ sau Thế chiến thứ hai tới nay chưa có người nào trông thấy, vì vậy không có cách nào phán đoán tính thật giả của chúng. Tôi đoán Trác Mộc Cường Ba tiên sinh cũng đã bị tấm bản đồ ấy lừa dối, nên mới gặp thất bại lớn như vậy.

“Quả thật tên mập này hiểu rất rõ về nội tình của bọn mình.” Trác Mộc Cường Ba thầm nghĩ, và tự nhủ bản thân càng phải thận trọng hơn, gã hỏi: “Rốt cuộc thì các ông là ai?”

Tên mập đắc ý nói: “Cuối cùng cũng đi vào đúng chủ đề chính. Thực không dám giấu, tôi chỉ là một người đưa tin, đại biểu cho một đoàn thể tuyệt đối có đủ thực lực để hợp tác với tiên sinh, chúng tôi nắm được không ít thông tin về Bạc Ba La thần miếu, bao gồm một số bức thư ông ấy tự tay viết, các bản hồi ký có liên quan của bạn bè ông ấy, có một ít báu vật mà ông ấy đã mang về, đối với việc tấm bản đồ dẫn đường sau thế chiến thứ hai bị sao chép, bị sửa bí mật sửa chữa, chúng tôi cũng đã có kiến giải. Tôi muốn nói với tiên sinh rằng, trong tổng cộng bảy mươi ba tổ chức lớn đi tìm thần miếu, chúng tôi là nhóm rất có thực lực, có thể xếp vào hạng Top ten.

Trác Mộc Cường Ba lại một lần nữa kinh hoàng, tựa như một đứa trẻ sơ sinh mới chào đời lần đầu tiên nhìn thấy thế giới rộng lớn xung quanh vậy. Đi tìm thần miếu tổng cộng có bẩy mươi ba tổ chức lớn, vậy còn những tổ chức nhỏ, chẳng phải là nhiều không đếm xuể sao? Hơn nữa, trong những tổ chức hàng đầu, họ cũng không hề kiến giải về hướng tìm Bạc Ba La thần miếu như bọn gã, so với những đoàn thể tìm kiếm thần miếu trên thế giới, xét về thực lực và khả năng, có lẽ đội của gã không những chỉ là tân binh mà thậm chí còn là con số không!

Tên mập xoa cằm nói: “Thế nào, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, theo những tư liệu hôm nay tôi mang đến cho ông, ông chắc cũng đã hiểu rằng tôi không hề lừa dối ông. Chúng tôi biết, các ông đã tìm được một số thứ mà chúng tôi chưa có được, chỉ mong ông đưa ra những tư liệu ấy, chúng ta cùng chia xẻ, nói không chừng, như vậy có thể sẽ sớm tìm ra thần miếu, đến lúc đó...”

Mắt tên mập sáng lên, tựa như đã nhìn thấy vô số báu vật ở ngay trước mắt, nghe cái giọng hắn diễn thuyết say sưa, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy vô cùng chán ghét, nhưng lại nghĩ, cần phải moi thêm thông tin, liền cắt lời: “Tôi không hiểu, tại sao các ông lại tìm tôi? Hay là các ông đã bị thông tin sai rồi?”

Tên mập nói: “Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, ông khỏi cần đóng kịch trước mặt tôi nữa, tin tức mà chúng tôi có được là rất đáng tin cậy. Về phần tại sao lại tìm ông, đó là bởi vì... Ông là người Trung Quốc đầu tiên đi tìm Bạc Ba La thần miếu với tư cách cá nhân! Tổ chức mà tôi là đại biểu không dám có hy vọng xa vời là hợp tác cùng Chính phủ nước ta, nhưng ông thì lại khác, ông là một công dân tự do, hơn nữa, trước đây lại đã từng phục vụ cho nhà nước trong một thời gian giài, với ưu thế đó của ông hiện nay, nếu tham gia vào bất cứ tổ chức tìm kiếm thần miếu nào, cũng đều mang lại sự trợ giúp quyết định, chúng tôi không tìm ông thì tìm ai? Mặt khác, với tình trạng hiện nay của Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, ông cũng phải có người để hợp tác, ông không có tiền, các yếu tố nhân lực vật lực khác cũng đều không có. Mà những thứ này chúng tôi đều có thể thỏa mãn ông, chỉ cần ông cung cấp cho chúng tôi lộ trình và một số điều ông nghe được, thấy được, thậm chí ông có thể không cần phải trực tiếp đi đến cái nơi ấy, tìm được kho báu, chúng tôi giữ lại bảy phần rồi đem ba phần mà chia cho ông, ba phần của cải ở thần miếu! Cho dù là mười đời, một trăm đời cũng không tiêu hết được đâu!”

Trác Mộc Cường Ba không thèm quan tâm đến cái tên mập khó chịu ấy nữa, gã mải suy tư, những thế lực người nước ngoài này, thật đúng là vượt xa sức tưởng tượng của bản thân gã, rốt cuộc là tin tức đã lộ ra từ đâu? Còn tên Merkin kia nữa, ở nước ngoài, hắn được xếp vào hạng nào nhỉ?

Tên mập lại tiếp tục cổ vũ: “Phải biết rằng, hiện nay mọi người đều cho là thần miếu có lẽ nằm trong vùng biên giới không minh định, đối với những vùng đó, chính phủ không thể can thiệp được, giống như hiện nay Công ty thăm dò hải dương Odyssey đang tiến hành tìm kiếm và trục vớt các tàu đắm của đế quốc Tây Ban Nha, những của cải thu được đều thuộc sở hữu của người đã phát hiện, cộng đồng quốc tế cũng không hề phản đối. Công ty thăm dò hải dương Odyssey mới chỉ tìm thấy một vài kho tàng, giá trị không lớn, cái mà chúng ta sắp tìm thấy thì trị giá không biết là bao nhiêu Mỹ kim nữa, hàng tỷ, hàng nghìn tỷ, trăm nghìn tỷ đô la..." Tên mập càng nói càng hăng, tới mức nước bọt bắn tung, chân tay múa loạn, có muốn giữ lịch sự cũng không làm chủ được mình nữa.

Ba hoa cả nửa ngày, tên mập mới chợt nhận thấy Trác Mộc Cường Ba vẫn im lặng bất động, rốt cuộc cũng ngừng hoa chân múa tay, thu lại bộ mặt đắc chí, lặng lẽ nói: “Tôi biết, việc thất bại lần này, đối với Trác Mộc Cường Ba là một sự đả kích lớn, không cần vội vàng, chúng tôi sẽ cho ông thời gian để suy nghĩ, đây là số điện thoại của tôi, nếu như ông nhớ được hoặc nghĩ được chuyện gì, hãy gọi cho tôi, đương nhiên là tôi mong ông sớm có câu trả lời quyết định. Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, đây là cơ hội nghìn năm có một, hy vọng ông hãy lưu ý cân nhắc, đừng có bỏ lỡ!”

Trác Mộc Cường Ba vẫn còn bàng hoàng, tên mập xếp lại giỏ trái cây, nhặt lên một quá táo cắn luôn một miếng, nói một cách mập mờ: “Nói thật, trong chuyện này, nếu tôi mà là người cầm đầu, thì nhất định...” Lúc này thì Đường Mẫn đã đi lấy thuốc trở về, tên mập liền đứng dậy, đổi giọng: “Nhất định nên cân nhắc cho kỹ. Ồ, được rồi, chúc ông mau chóng bình phục.” Ra tới cửa hắn còn hướng về Trác Mộc Cường Ba làm một động tác biểu thị hãy gọi điện thoại.

Đường Mẫn lấy làm lạ, hỏi: “Ông ta là ai vậy?”

Trác Mộc Cường Ba như người đang nằm trong mộng tỉnh giấc, thở hắt ra: “Ôi..., sự tình... Càng ngày càng phức tạp!”

Trác Mộc Cường Ba lập tức liên hệ với giáo sư Phương Tân, và đem sự việc vừa rồi nói lại với ông. Giáo sư Phương Tân thì ngược lại, không ngạc nhiên lắm, chỉ nói: “Đúng vậy, căn cứ vào tài liệu Lữ Cánh Nam đã cung cấp và những thông tin tôi thu lượm được khi trao đổi với các chuyên gia nghiên cứu về thần miếu, thì hiện tại trên thế giới, rốt cuộc có bao nhiêu tổ chức đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, ngay nhà nước có thể cũng không đưa ra được con số chính xác, nhưng khẳng định là có rất nhiều. Đây cũng là điều Lữ Cánh Nam vẫn luôn nhấn mạnh, nguyên tắc chủ đạo trong việc điều tra tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu là phải bí mật, lần này, bọn họ đã tìm tới cậu, rõ ràng hành động của chúng ta đã bị rò rỉ. Hiện tại, có hai vấn đề đang đặt ra trước mắt chúng ta, thứ nhất, phải điều tra và phát hiện bí mật đã bị rò rỉ từ nơi nào, nếu không, chúng ta không thể thực hiện những hành động tiếp theo. Thứ hai, phải nghĩ ra phương pháp đối phó thật chu toàn đối với những tổ chức này, đa số họ là các thế lực ngoại quốc, khả năng hợp tác với chúng ta là không lớn, vấn đề mấu chốt là, đã có một tổ chức tìm đến cậu, sau này sẽ còn nhiều tổ chức khác ùn ùn đến gõ cửa, cậu nên ứng phó ra sao? Bây giờ họ còn trang trọng lịch sự, mong chính cậu tự nói ra thông tin, sau này, nói không chừng bọn họ sẽ bất chấp mọi thủ đoạn, không ngại bất cứ hành động nào, đối với họ, cái thần miếu này có sự hấp dẫn đầy ma lực.”

Trác Mộc Cường Ba đau đầu không ngớt, cái vấn đề thứ hai này thật sự khiến gã hao tâm tổn trí, Đường Mẫn phân tích giúp gã: “Liệu có khả năng là từ chỗ cấp trên tiết lộ hay không?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Không, không có khả năng này, công tác bảo mật ở nước ta được thực hiện tốt hơn bất cứ nước nào trên thế giới, nếu họ lấy được tin tức ở chỗ cấp trên, tuyệt đối sẽ không cần tìm đến chúng ta."
Trác Mộc Cường Ba nói: “A, là Merkin chăng? Hay lại là âm mưu nữa của hắn?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Không giống, qua mấy lần giao phong trước đây mà xét, thì hắn vẫn luôn giấu mình, dường như so với chúng ta, hắn còn sợ bị người khác phát hiện hơn là đằng khác. Hơn nữa, trong việc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, ai cũng biết là, càng giữ được bí mật thì càng tốt, Merkin đâu có ngu ngốc bộc lộ mình như thế, còn nữa, cái tên mập kia đã từng nói rõ bọn họ không phải chỉ có một người.”

Trác Mộc Cường Ba quả quyết: “Chắc không phải trong nội bộ chúng ta."

Giáo sư Phương Tân nói: "Ừm, tôi cũng cho là như vậy, họ chỉ biết công ty của cậu bị phá sản, đây là tin tức bên ngoài, mà không biết trong người cậu đang có một căn bệnh khác thường, tin này phải là từ một người nào đó trước đây chúng ta đã tiếp xúc, ai nhỉ? Lẽ nào...”

Trác Mộc Cường Ba vội hỏi: “Sao cơ? Thầy đang nghĩ tới việc gì vậy, thầy giáo?"

Giáo sư Phương Tân nói: “Thôi, tạm gác lại đã, hiện tại việc hồi phục của cậu còn quan trọng hơn, chuyện này tôi sẽ tìm cách điều tra rõ ràng. Giờ còn một vấn đề then chốt, là làm cách nào để bọn chúng thôi không tìm đến nữa."

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi lập tức tiến hành làm thủ tục xuất viện, để chúng tìm không ra.”

“Không, không, không.” Giáo sư Phương Tân liền nói: “Ngàn vạn lần không được, như thế chỉ khiến bọn họ càng cho rằng cậu đang nắm giữ các đầu mối quan trọng, những thế lực đó không nơi nào là không tới được, cậu muốn trốn cũng đâu có thoát. Hiện tại điều mà cậu nên làm là tỏ ra tiếp tục chán chường, suy sụp, trong bệnh viện cũng không được làm bất cứ việc gì, nếu cái tên mập kia lại tới tìm, thì cậu đừng có ngại, sau đó cứ tùy theo tình hình mà tiết lộ cho họ những chuyện đã trải qua trên núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc, để họ nhận định cậu không còn quyết tâm, hy vọng rằng như thế sẽ làm họ giảm bớt sự hiếu kỳ. Chỉ là sau này, nếu đội chúng ta muốn gặp gỡ bàn bạc thì phải thận trọng hơn rồi. À, giờ tôi chuyển cho cậu một ít tài liệu nữa, đây là một đoạn kết luận của chuyên gia khi nghiên cứu về chữ khắc của người Maya, ồ, còn thứ này nữa, nguyên mẫu tượng Phật và xuất xứ của nghệ thuật tạo hình tượng Phật ở Cánh cửa sinh mệnh, chắc cậu sẽ thích.

Nhắc tới Cánh cửa sinh mệnh, Trác Mộc Cường Ba không khỏi nhớ tới Đa Cát, gã lấy ra ba món đồ vật mà Đa Cát đã để lại, một viên hồng ngọc, một viên thiên châu, còn có một cái kèn ngọc, lúc nào thì đưa nó cho Ca Ca được đây, rồi biết nói với cô ấy thế nào?

Hai ngày sau, tên mập kia vẫn chưa trở lại, nhưng Trác Mộc Cường Ba tin rằng hắn tuyệt đối sẽ không yên tâm ngồi nhà mà chờ gã gọi điện. Các vết thương do đao chém trên người gã dần dần kín miệng, đã có thể bước xuống đất đi lại được rồi, gã nóng lòng muốn vận động cho thư giãn gân cốt. Tập luyện hô hấp theo phương pháp mà Lữ Cánh Nam đã truyền dạy, tuy chưa thấy được trong người có cái mạch luân gì đó chuyển động, nhưng cũng cảm giác tinh thần có vẻ thư thái hơn trước.

Hôm nay Đường Mẫn vừa thay băng giúp gã, nói với gã vết thương đã lên da non. Trác Mộc Cường Ba không nhịn được nữa, thừa dịp Đường Mẫn ra ngoài, gã xoay người bước xuống giường, không nhanh không chậm, đạp năm sáu bước lên bức tường trắng, nhún mình nhảy vọt lên, đầu gần sát tới trần, rồi xoay người một cái nhẹ nhàng rơi xuống, gã đi tới giữa phòng, dừng lại một chút, sau đó thử vận động chân tay, mình mẩy, điều hòa chân khí, cảm thấy bình ổn, không có chút khó chịu nào. Đối với việc thân thể phục hồi như cũ, Cường Ba rất hài lòng, nhìn khoảng cách giữa điều hòa trung tâm trên trần và tường phòng không quá 3 mét, tính trẻ con đột nhiên nổi lên, thân thể vọt lên bám vào trần nhà, nhằm chuẩn hướng mặt tường cố sức bật mạnh, cả người như mũi tên rời dây cung nhằm hướng bức tường vọt tới, khi đầu ngón tay chạm vào mặt tường thì cơ thể mềm oặt, xung lực trên cánh tay triệt tiêu, đem cả người dán sát vào mặt tường giống như con thằn lằn, chậm rãi bò xuống, quay đầu nhìn lên, thấy cửa gió điều hòa đã bị gã làm cho biến dạng. Trác Mộc Cường Ba hít sâu một hơi, thân thể hợp với mặt tường một góc 30 độ, đột nhiên tăng tốc, bò men mặt tường, ở độ cao 3 mét mà di chuyển, được chừng 10 thước, khi hai chân gần như không cố định được nữa thì gã khẽ đổi trọng tâm, hai chân hai tay đồng thời khai triển, cố định vững vàng thân thể giữa ban công và khung trên của cửa sổ phòng bệnh.

Bên ngoài ban công, ánh nắng tươi sáng, cây xanh bóng mát, thỉnh thoảng vang lên những tiếng chim hót líu lo, Trác Mộc Cường Ba nới lỏng hai tay, cố định hai chân, xoay người hướng ra ban công, thân thể lơ lưng, gã đưa tay trái ra, rồi đổi tay đáp xuống ban công, cả người nhô hẳn ra bên ngoài ban công tầng 20 của tòa nhà. Ở tư thế này mà ngắm phong cảnh thật là độc đáo, Trác Mộc Cường Ba phấn khởi thầm nghĩ, sau đó gã di dọc theo ban công, cảnh vật xung quanh bệnh viện cũng rất là tao nhã, nếu có thể xuống dưới kia vận động thì tốt biết mấy, nghĩ vậy hai tay liền buông ra, thân thể từ độ cao của tầng hai mươi vùn vụt rơi xuống, tâm niệm máy động, đột nhiên sực nhớ: “Không tốt rồi, Mẫn Mẫn sẽ trở sớm trở lại.”

Đang trong trạng thái rơi tự do, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên xoay người giữa khoảng không, hai tay liền vững vàng bám vào ban công của phòng gần nhất, trong phòng không có bệnh nhân, Trác Mộc Cường Ba nghĩ thầm: “May quá, không làm kinh động người khác.” Gã bám hai tay vào lan can, xoay người chổng ngược lên, với chiều cao cơ thể, hai chân vừa đúng móc vào ban công tầng trên, hắn xoạc chân, cơ thể cố định giữa lan can tầng dưới và tầng trên, buông hai tay ra, co người đu lên tầng trên, rồi cứ theo cách đó mà trở về phòng mình, nhanh nhẹn dẻo dai như một con khỉ thông minh.

Chương 40.

TÀI LIỆU BÍ MẬT CỦA ĐỨC QUỐC XÃ



Hiện nay, theo một số nguồn tin không chính thức cho biết, năm 1938, theo mệnh lệnh của Hitler, Himmler đã trực tiếp vạch một kế hoạch có tên là “Kế hoạch Cực Bắc”. Theo kế hoạch này, một đoàn thám hiểm Đức Quốc xã được phân thành các nhóm nhỏ, bí mật xâm nhập vào đất Tạng, họ dừng chân một năm ở Tây Tạng để tiến hành đo vẽ một lượng lớn bản đồ, thu lại các đoạn phim, chụp các bức ảnh tư liệu. Hitler tin rằng tổ tiên người Arian thuần chủng đang ở một nơi nào đó trên đất Tạng, những người Atlantis cũng ở đấy, và nơi ấy cũng là nơi trục của trái đất đi qua, khống chế trục tâm đó sẽ khống chế được sự vận động của trái đất và nắm giữ được vận mệnh quốc gia.

40.1

Tòa thành điêu khắc



Trác Mộc Cường Ba vừa quay về giường nằm thì Đường Mẫn đẩy cửa bước vào, thoạt nhìn phòng bệnh, thấy cửa gió điều hòa trung tâm biến dạng, trên tường đầy những vết chân, liền lập tức hiểu ngay Trác Mộc Cường Ba đã làm gì, cô oán trách nói: “Xem anh kìa, cứ như trẻ con vậy, em đã nói bao nhiêu lần rồi, thương thế của anh vừa mới lành, vẫn còn vài chỗ chưa cắt chỉ, anh quậy phá như vậy, vết thương lại vỡ ra thì sao."

Trác Mộc Cường Ba cười ha hả, trở mình đứng dậy, ôm lấy Đường Mẫn nói: “Em xem, anh nằm bất động trên giường đã mấy ngày nay rồi, đúng là hết sức khó chịu, cần hoạt động cho giãn gân giãn cốt, em nói đi, có đúng sức lực anh đang dư thừa không nào? Nếu sớm biết như vậy, anh đã cùng mấy người nhóm Ba Tang đi Moscow rồi, tự nhiên anh rất muốn đi Moscow, đã nhiều năm rồi anh chưa trở lại đấy.

Đường Mẫn nhéo tai Trác Mộc Cường Ba, nói: “Cái anh này, vì anh không tự trông nom nổi mình như thế, nên mới cần em phải quản lý!”

Trác Mộc Cường Ba khẽ xoay mặt Đường Mẫn lại phía mình, thì thầm: “Hiện giờ sức khỏe của anh đã gần như hồi phục, em xem, có phải không nào...” Đường Mẫn ư hử một tiếng, tưởng chừng như muốn dứt ra khỏi tay hắn, nhưng lại không hề có bất cứ một hành động nào.

“Cốc, cốc, cốc... Có ai trong phòng không?” Âm thanh quen thuộc của tên mập vang lên. Đường Mẫn vội vàng sửa lại mái tóc rối, Trác Mộc Cường Ba đành bấm bụng trở về giường, theo lời giáo sư Phương Tân đã chỉ đạo, lập tức thay đổi bộ dạng, trở thành một người do liên tiếp gặp thất bại mà suy sụp tinh thần, lộ vẻ chán nản đến cực điểm.

Sau khi bước vào, tên mập cười nói: “A, có đây rồi, vừa nhìn đã biết Trác Mộc Cường Ba tiên sinh chắc đã bình phục”. Tuy bề ngoài tỏ ra bình tĩnh, nhưng sự lắng hiện rõ trong đôi mắt hắn đã không dấu nổi Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba uể oải nói: “Từ lúc gặp ông, tôi đã suy nghĩ rất nhiều, tuy những báu vật đó đối với tôi vô cùng hấp dẫn, nhưng qua những sự việc vừa xảy ra, tôi nhận ra rằng, cái quý giá nhất của con người chính là tính mạng, nói thực với ông, tôi đã không còn hứng thú nữa rồi, chỉ muốn hưởng thụ cuộc sống thôi, này tiên sinh, nếu như ông vẫn cứ khăng khăng tìm kiếm kho báu ấy, tôi xin tặng ông một câu... Không nên vì tơ tưởng kho báu mà đánh mất chính sinh mạng của mình!"

Vừa nghe rõ ý của Trác Mộc Cường Ba, tên mập vội vàng té nước theo mưa, nói: “Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, ông chưa hiểu hết ý tứ của tôi rồi. Chúng tôi chỉ cần một ít tin tức và tài liệu, nếu ông có thể cung cấp, chúng tôi sẽ tặng ông một số tiền đáng kể, đảm bảo ông có thể sống sung túc không cần lo nghĩ cho tới tận những năm cuối đời, ngày ngày chỉ việc ra bãi biển ngả lưng trên ghế bành mà ngắm người đẹp, ung dung tự tại xiết bao. Ông không cần phải đi đâu cả, chỉ cần nói cho chúng tôi biết những thông tin chuẩn xác và đáng tin cậy, chúng tôi sẽ có thù lao trọng hậu, thế nào? Nếu ông đồng ý, hãy ra một cái giá, rồi xem chúng tôi có thể làm ông thỏa mãn hay không.”

Trác Mộc Cường Ba định báo một cái giá để bọn họ thấy khó mà rút lui, thuận miệng nói: “Năm tỷ.” Nói xong liền quan sát sắc mặt đối phương, nếu như tên mập ấy có chút do dự, sẽ lập tức bổ sung một câu, năm ấy tổng tài sản công ty của gã đã đạt con số này rồi, thực ra, con số năm tỷ đã vượt qúa tài sản của công ty hắn rất nhiều.

“Được, thống nhất ở con số này.” Không ngờ, tên mập chẳng thèm nghĩ ngợi gì, đáp ứng luôn, Trác Mộc Cường Ba nói thêm: “Tôi muốn nói là đô la Mỹ.”

Tên mập cười, trả lời: “Đương nhiên là đô la Mỹ, nếu là nhân dân tệ, chúng tôi khó mà quy đổi được một số lượng lớn như vậy. Thế nhưng...” Tên mập nói: “Trước hết tôi muốn xác định xem thông tin mà Trác Mộc Cường Ba tiên sinh cung cấp có đáng giá như vậy hay không, yêu cầu này hẳn không quá đáng chứ?”

Trác Mộc Cường Ba tùy tiện kể lại một phần những việc gã đã từng trải qua, ở châu Mỹ chủ yếu nói về rừng nhiệt đới, ở Tây Tạng thì nhấn mạnh đặc điểm địa lý của Mặc Thoát, những nơi quan trọng gã chỉ sơ sài lướt qua, hình dáng các tượng Phật thì toàn chắp vá lung tung, đến mức chính gã cũng chưa từng chứng kiến cái tượng Phật nào có hình thù như đang mô tả, về các cơ quan bẫy rập, Trác Mộc Cường Ba cố sức tìm trong các cuốn tiểu thuyết thám hiểm và các bộ phim khoa học viễn tưởng mà mình đã đọc, đã xem, mà thuận miệng kể lể, thao thao bất tuyệt, ào ạt tuôn ra như hỏa tiễn Kachiusa, có điều, ngoài chuyến đi Tư Tất Kiệt Mạc thì may ra còn có nửa phần chân thực, còn lại thì giả giả thật thật lẫn lộn, khó mà phân biệt được.

Trác Mộc Cường Ba kể lể trong suốt ba tiếng đồng hồ, tất cả đều được tên mập dùng máy ghi âm điện tử lưu lại, Trác Mộc Cường Ba nói: “Như vậy đã đủ chưa?”

Ánh mắt tên mập lộ vẻ hoài nghi, nói: “Không thể nào, nghe nói Trác Mộc Cường Ba tiên sinh tham gia đội thám hiểm đặc biệt của nhà nước trong hơn hai năm, chẳng lẽ chỉ có chút kinh nghiệm đó thôi sao?”

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên nhớ tới trường hợp của Ba Tang, vẻ mặt liền tỏ ra đau khổ, nói: “Tất nhiên, tôi còn biết một số việc nữa, nhưng mà, những chuyện này, tôi không muốn nhớ về nó nữa, không biết nên nói như thế nào, vừa nghĩ tới những chuyện ấy, tôi... Tôi... A, đau đầu quá, cái đầu của tôi! Đầu của tôi sao đau quá!”

Đường Mẫn lập tức phối hợp ngay, vội vàng kéo tay gã, lo lắng hỏi: “Sao vậy? Anh không sao chứ? Có cần em gọi bác sĩ không?”

Tên mập ra vẻ ân cần, hỏi: “Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, ông nên bình tĩnh lại, nhất định phải nhớ được những nội dung ấy, đó là những vấn đề then chốt!”

Trác Mộc Cường Ba lúc thì lấy tay ôm đầu, lúc thì vầy vò khăn chăn đệm, sau đó lại lăn lộn trên giường, luôn miệng kêu la: “Không được, đau đầu quá! A!...” Tên mập đưa máy ghi âm tới sát tận miệng Trác Mộc Cường Ba, thúc ép: “Một chút tin tức nữa, một chút thôi cũng được!”

Đường Mẫn đột nhiên vơ lấy chiếc gối trên đầu giường ném vào tên mập, vừa vung vẩy tay chân vừa khóc lóc kể lể: “Anh ấy đã như vậy rồi! Các ông còn muốn thúc ép anh ấy nữa! Các ông có còn là con người nữa hay không! Đi! Đi ra! Ông đi ra ngoài ngay đi!”

Tên mập lúc ấy mới lững thững rời đi, nhưng vẫn không cam lòng, vớt vát: “Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, xin hãy tĩnh dưỡng cho tốt, hai ngày nữa tôi sẽ quay lại tìm ông, nhất định ông phải nhớ được...”

“Đi đi!” Lại một cái gối nữa quăng ra, trúng vào cánh cửa làm nó đóng lại. Trác Mộc Cường Ba thở phào nhẹ nhõm, nói: “Đi gọi bác sĩ, nhân tiện xem hắn đã đi chưa.”

Đường Mẫn ngẩng đầu lên, hai mắt đẫm lệ, tinh tế mà quyến rũ, Trác Mộc Cường Ba nhẹ nhàng lau mấy giọt nước mắt, kinh ngạc nói: “Không thể nào, là khóc thật hả? Công chúa nhỏ bé của anh không nên mau nước mắt như vậy chứ? Đúng như cái cậu Trương Lập đã nói...”

Đường Mẫn mím môi, véo vào mũi Trác Mộc Cường Ba, rồi nói: “Anh còn nói hả, đều là do anh! Em cứ tưởng anh thực sự... Anh... Anh đúng là giỏi pha trò...” Nói rồi, lại ra vẻ nũng nịu muốn khóc.

Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Được rồi, được rồi, là tại anh diễn giống thật quá . Nhưng mà nói đi cũng phải nói lại, Mẫn Mẫn của chúng ta mới là có năng khiếu diễn xuất bẩm sinh, nếu theo con đường nghệ thuật, nói không chừng sẽ giành được vinh quang tột đỉnh đấy.” Đến lúc này Đường Mẫn mới nín khóc mỉm cười.

Khi chắc chắn tên mập đã bỏ đi, Trác Mộc Cường Ba liền liên lạc với giáo sư, nghe Trác Mộc Cường Ba kể xong, giáo sư Phương Tân nói: “Cậu nói cái tên mập đó có vẻ lo lắng bất an à?” Trác Mộc Cường Ba há mồm muốn trả lời, giáo sư cắt ngang: “Nên nhớ, phải suy xét những vấn đề ẩn giấu sau vẻ bề ngoài.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi hiểu, hắn đang bị người trong tổ chức thúc giục, nhất định nóng ruột muốn có những thông tin của tôi trước khi các tổ chức khác nhúng tay vào, vì vậy nên hắn lo lắng.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Đúng thế, hoàn toàn có khả năng này, các tổ chức khác cũng đang chú ý tới cậu, giữa họ đâu chỉ có va chạm thông thường, chỉ sợ là chúng ta không nhìn thấy đó thôi, có lẽ các thế lực này sắp đến mức nước lửa khó dung, chuẩn bị xuống tay với nhau cũng nên.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Còn một chuyện nữa, tôi đã đưa ra cái giá năm tỷ kia với tên mập, tôi nghĩ dù hắn có muốn cũng không thể đáp ứng được, về lý về tình đều không thể chấp nhận, lần này thì họ đã lộ ra sơ hở.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Ồ, ý cậu là gì?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi đưa ra con số 5 tỷ, là đã có cân nhắc. Thầy giáo, thầy nghĩ thử xem, năm tỷ đô la Mỹ, có số tiền này thì cái gì mà chẳng làm được, tại sao cứ phải hết lần này tới lần khác đi tìm cái thần miếu hư vô mờ mịt kia, ngoài người ngốc, thì chỉ còn người điên mới làm những việc như thế. Hơn nữa cái tên mập ấy cũng nói rằng, hắn chỉ là một người đưa tin, hắn làm gì có quyền quyết định, thế mà lại dám đơn giản mở miệng hứa hẹn một món thù lao lớn như vậy. Vì vậy, tôi cho rằng, bọn họ có lẽ đang tính, bất cứ tôi đưa ra yêu cầu hoặc điều kiện gì, đều lập tức chấp nhận, mục đích chỉ là lấy được từ tôi bất cứ thông tin nào có ích, nhưng cái tên mập kia lại hành động quá lộ liễu, nên đã lộ ra sơ hở.”

Giáo sư Phương Tân cười nói: “Xem ra mấy ngày nằm viện nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cũng không uổng, rốt cuộc cậu đã dần dần khôi phục khả năng tư duy trước đây của mình, nhưng thế vẫn còn chưa đủ, muốn trở thành người vạch ra sách lược, cậu cần phải suy nghĩ sâu hơn, xa hơn mới được. Vài ngày nữa, nhóm Trương Lập sẽ ghé qua Thượng Hải rồi trở về Lhasa, khi đó chắc thương thế của cậu cũng gần như hoàn toàn hồi phục rồi, có thể cùng nhau trở về. Nhớ kỹ, tranh thủ thời gian, đừng để dây dưa.”

Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, giáo sư muốn nói là hắn đừng để những tổ chức nước ngoài đi tìm thần miếu ấy bám theo về Tây Tạng, liền gật đầu. Buổi tối, giáo sư Phương Tân lại liên lạc với Trác Mộc Cường Ba, nói có một số tư liệu cần được chỉnh lý, Trác Mộc Cường Ba mở internet, giáo sư chuyển cho gã bản photocopy của một cuộn giấy, vừa nhìn vào văn tự, Trác Mộc Cường Ba lập tức nhận ra, đây là những đoạn Cổ Cách kim thư vừa được dịch.

Giáo sư Phương Tân nói: “Đúng thế, hôm nay tôi mới được biết, nguyên là khi chúng ta tham gia đội huấn luyện đặc biệt của nhà nước, thì cũng chính lúc ấy, một phần nội dung của cuộn sách(*) cũng vừa trở về tổ quốc, bên trong có nhắc tới chuyện quốc vương và sứ giả. Trước khi chúng ta đi châu Mỹ, các chuyên gia đã dịch được rằng trong đó viết chuyện sứ giả đi khai sáng tòa thành tận nơi chân trời góc biển. Từ những tư liệu mà chúng ta có hiện nay thì có thể suy luận, cuốn sách này, có thể là do Stanley đã lấy đi từ vương triều Cổ Cách. Hiện tại, chúng ta chỉ có thể thông qua việc suy đoán hành trình hơn một trăm năm trước của Stanley để đưa ra một kết luận cơ bản là thế này, trước tiên Stanley đến Cánh cửa sinh mệnh, rồi phát hiện trong Cánh cửa sinh mệnh những đầu mối trọng yếu, để ngăn cản người khác phát hiện đầu mối này, cướp mất báu vật, ông ta bèn phóng hỏa đốt cháy hết những dấu vết còn lại. Đầu mối này hẳn là chỉ tới Đảo Huyền Không tự, nhưng do không không có kiến thức về lịch sử của mật giáo cổ Tây Tạng, nên Stanley đã nhầm đó chính là vương triều Cổ Cách, trong thực tế, Đảo Huyền Không tự quả thật nằm sâu trong lòng đất, bên dưới các di chỉ Cổ Cách. Bởi vậy, Stanley lần theo đầu mối đó đi tới Cổ Cách, rồi lấy đi toàn bộ báu vật của vương triều, bao gồm cả cuộn sách này cùng tấm bản đồ da sói, những chuyện xảy ra về sau thì chúng ta đã biết.
______________________
(*)Nguyên văn: “quyển trục” – sách được gấp lại theo kiểu cuộn.
______________________

Trác Mộc Cường Ba nghe giáo sư Phương Tân phân tích xong, trong lòng lập tức sáng tỏ thông suốt, gật đầu nói: “Thì ra là vậy, vì Cánh cửa sinh mệnh và Cổ Cách vương triều đều thờ phụng Đảo Huyền Không tự và Bạc Ba La thần miếu, vì thế, Stanley mới có căn cứ vững chắc để tin rằng, những thứ ông ta tìm được chẳng qua chỉ là một sợi lông trên lưng con trâu, còn kho báu chân chính thì vẫn được cất giấu ở một nơi nào đó trên đất Tạng.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Mặt trước có ghi, nơi vương triều Cổ Cách dựng nước cũng nguyên là lãnh địa cũ của Tượng Hùng. Căn cứ các văn thư để lại của Tượng Hùng mà ước đoán, Tượng Hùng vương phát hiện ra thần tích tại nơi này, vì thế mới đặt làm thủ đô để lập quốc. Mà cái gọi là thần tích, có lẽ chính là cái khe mà sau này Đảo Huyền Không tự được xây dựng ở đó. Thần tích được mô tả là nằm dưới một hẻm núi vô cùng sâu, có các hang động và bích họa. Các bức tranh vẽ bằng than chì mà mọi người phát hiện lần trước hẳn là do cư dân cư trú trong các nham động hai bên khe sâu lưu lại, không còn nghi ngờ gì, đối với người Tượng Hùng mà nói, đó nhất định là thần tích. Mặt khác, chắc chắn tín ngưỡng của vương triều Tượng Hùng phải là Bản giáo, vậy thì không khó tưởng tượng, có thể chính trong thời kỳ vương triều Tượng Hùng, tôn giáo bí mật kia của Lạt ma Á La đã thi công xây dựng Đảo Huyền Không tự trong hẻm núi nơi các nham nhân trú ngụ.”

Trác Mộc Cường Ba không nén nổi, khẽ thở dài, nhất định điều này hoàn toàn có khả năng.

Giáo sư Phương Tân nói tiếp: “Người Cổ Cách biết rõ vào thời Tượng Hùng ở đây có một tòa cung điện thần kỳ, nhưng bọn họ không tìm được lối vào khe núi nơi có Đảo Huyền Không tự. Cậu có nhớ lần chúng ta phát hiện ra lối vào đó tại tế đàn Mạn Đà La không? Chính là di chỉ Cổ Cách và Đảo Huyền Không tự cùng nằm ở một địa phương. Tôi tin Cổ Cách vương vẫn cho rằng, nơi có thần miếu tọa lạc nằm ở bên dưới mặt đất, các triều đại Cổ Cách đều cho đào các mật thất hướng xuống lòng đất để tìm kiếm, thật là đáng tiếc, họ chỉ cách lối vào Đảo Huyền Không tự chưa đầy nửa mét nữa thôi. Như vậy là các đầu mối lịch sử mà ta có đều đã chắp nối liền mạch với nhau. Ôi, lịch sử những bí ẩn đã bị lịch sử lãng quên...” Giáo sư Phương Tân không khỏi bùi ngùi cảm xúc.

Trác Mộc Cường Ba nín thở, không thốt được lời nào.

Giáo sư Phương Tân thở dài, nói: “Được rồi, hiện nay đại khái những đầu mối kia là như vậy, những nhận định vừa rồi quá nửa là do tôi phân tích và phỏng đoán, nếu muốn chứng minh thì còn thiếu rất nhiều căn cứ lịch sử, chẳng qua những thứ này tuyệt đối không quan trọng, chỉ cần giải thích liền mạch là được rồi, thứ chủ yếu mà tối nay tôi muốn cho cậu xem là cái này cơ, quan sát nhé”. Nói rồi, trên màn hình xuất hiện một đoạn văn đã được phóng to lên, có vết bút đỏ đánh dấu, “Lữ Cánh Nam đã từng kể với chúng ta câu chuyện về quốc vương và sứ giả, cậu xem đoạn này, quốc vương triệu tập thợ lành nghề, vào lúc từ sáu đến bảy giờ sáng hàng ngày, phục chế tòa thành được khai sáng, còn đoạn này, khi việc điêu khắc hoàn thành, quốc vương rất không hài lòng, từng nói với những người thợ như thế này: cái cục đá thối tha ấy quá xa tòa thành vĩnh cửu. Hai đoạn này có hàm ý gì.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Vì sao phải tiến hành chạm khắc trong khoảng từ sáu đến bảy giờ sáng mỗi ngày?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Tốt lắm, vì sao lại là từ sáu đến bảy giờ? Vấn đề này đáng để chúng ta phải suy nghĩ, khoảng thời gian này cũng là lúc mặt trời nhô lên từ đường chân trời. Còn nữa, tòa thành được khắc trên một khối nham thạch hình vuông, nói cách khác, có thể nhận định tòa thành vĩnh cửu ấy có hình vuông, thật ra, chỗ này phiên dịch chính xác ra, không hẳn chỉ mang nghĩa tòa thành được khai sáng, mà cũng có thể là cung điện phát ra ánh sáng, hoặc là phản xạ nơi ở của thần thánh, tất cả đều có khả năng. Bởi vậy, chúng ta có thể sơ bộ suy đoán, cái mà cổ nhân muốn vận dụng chính là kỹ thuật phản xạ và khúc xạ, chắc cũng giống như điều chúng ta đã gặp tại thạch trận Cổ Cách lần trước. Mà theo như lời của vị Cổ Cách vương kia, cục đá thối tha này quá xa tòa thành vĩnh cửu, là muốn nói cái gì? Phải chăng muốn nói, nếu ánh sáng chiếu lên tòa thành thì có khả năng bảo tồn lâu hơn nham thạch?”(*)
_____________________
(*)Có mấy thứ ngôn ngữ chồng chéo nhau trong đoạn này nên có chút khó hiểu. Mình dịch tạm như vậy.
_____________________

Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy ở các chỗ khác có thêm manh mối gì hay không?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Còn một vài chỗ nữa, nhưng nội dung cũng là chỉ là hàm ý hoặc rất tối nghĩa, nhưng giờ chúng ta tạm thời chưa thảo luận việc ấy vội, cậu biết khi vừa đọc đoạn dịch mô tả thời gian điêu khắc tảng nham thạch đó, tôi đã nhớ tới cái gì không?

“Gì cơ ạ?”

“Cậu xem đoạn video này, đây là những hình vẽ chúng ta thu được trên nền mật thất Cổ Cách.”

Những phù điêu, mũ miện trong mật thất Cổ Cách chập chờn hiện ra trên màn hình, tựa được soi sáng bằng ánh sáng hôn ám của ngọn nến, sau đó thì các hình ảnh khác tắt lịm, duy nhất chỉ lưu lại hai thứ đồ đạc, đó là một thạch bàn hình vuông được chạm khắc trên mặt đất và một khối thạch điêu to lớn đã bị phong hóa nghiêm trọng, nhìn không ra hình thù gì nữa. Khi vào đấy, Trác Mộc Cường Ba đang mải chiếu cố Đường Mẫn, hoàn toàn chẳng quan tâm đến mấy thứ đó, sau này, gã cũng từng xem lại ba lần đoạn video về các hình vẽ, phù điêu của hoàng gia mà giáo sư đã quay trong mật thất Cổ Cách, nhưng hình ảnh đó cũng không làm gã chú ý. Hôm nay, sau khi đã nghe giáo sư Phương Tân giải thích, rồi một lần nữa xem lại khối thạch bàn đã bị sa hóa (cát hóa), gã không khỏi ngạc nhiên, hỏi: “Chẳng lẽ thầy giáo muốn nói khối đá to này là...”

Giáo sư Phương Tân trả lời: “Nếu như nói Stanley đã lấy đi từ trong mật thất toàn bộ báu vật, sách cuộn và một tấm bản đồ, thì cái mà chúng ta vừa phát hiện là một tấm bản đồ khác, hai bản đồ một thật một giả, đều liên quan đến Bạc Ba La thần miếu, như vậy, cái thứ hình vuông đã bị sa hóa kia không phải chỉ là một đống đá, rất có khả năng đó là tòa thành được chiếu sáng mà Cổ Cách vương lưu lại.”

Trác Mộc Cường Ba nửa ngạc nhiên vui mừng, nửa nuối tiếc hối hận, nói: “Nếu đúng là tòa thành được chiếu sáng thì nó đã bị mất đi hình tượng vốn có rồi, chúng ta không còn cách nào thu được thông tin từ nó nữa.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Không, tuy rằng đã bị sa hóa một phần, nhưng hình thái cơ bản của nó vẫn còn, cậu nhìn khối đá xem, xét về bình diện chung, căn cứ độ cao, độ nghiêng chưa bị sa hóa hoàn toàn của nó, tất nhiên là không phải khắc họa địa hình gò đồi, mà hẳn là khắc họa vùng núi, nếu không thì khe nứt này…,” đoạn video bị tạm dừng ở một hình ảnh, được phóng to dần theo những cú nhấp chuột của giáo sư , chỉ thấy trên một chỗ cao của khối đá, lộ ra một rãnh lõm được điêu khắc rất tinh tế, “…tôi đã hỏi qua các chuyên gia hữu quan, cái này hoàn toàn không phải một vết nứt do bị sa hóa, mà là trên một chỗ cao của nó hiển nhiên đã có một khe nứt lõm xuống, chuyên gia đã phân tích tỉ mỉ và đưa ra kết luận, chí ít cũng có ba khe nứt, nếu mà xuất phát từ sườn núi, thì thuộc về loại hình địa lý vùng cao nguyên, có thể hình thành ba cấp mà không xảy ra gãy nứt, chí ít chỉ có xảy ra ở khu vực núi đá hoa cương, cũng không loại trừ trường hợp tương tự khe sâu hình thành nên do nham thạch mà chúng ta đã từng chứng kiến. Nửa còn lại của khối đá này, toàn bộ đã bị gọt bằng, nhìn không ra bất cứ một dấu vết tạo hình kiến trúc nào, cấu trúc địa hình này, có khuynh hướng là một khe nứt, nhưng rất khó hiểu, tôi còn phải tiếp tục tham khảo ý kiến của các nhà địa lý, xem họ có cung cấp thêm thông tin gì không. Giờ cậu đã rõ ràng cả chưa? Tuy nhìn bề ngoài không phát hiện được manh mối gì, nhưng chúng ta đang ở trong thời đại bùng nổ thông tin, những manh mối mà chúng ta không có khả năng nhận thức, khi vận dụng kiến thức chuyên môn của các chuyên gia, đều có thể cung cấp những thông tin mà chúng ta chưa biết.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tốt quá rồi, nếu chúng ta có thêm nhiều thông tin, đầu mối sẽ càng nhiều hơn.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Đúng vậy, còn có chút manh mối nữa, theo các chuyên gia nghiên cứu về Maya, họ đối với bức bản đồ địa cung Maya mà chúng ta không thể minh bạch kia, đã có những phát hiện mang tính đột phá, vài ngày nữa tôi sẽ chuyển cho cậu những kết quả vừa mới nghiên cứu được, may mà tôi còn có mấy người bạn già đấy. Được rồi, hôm nay thế là đủ rồi, tạm biệt, vui vẻ đọc cuộn sách nhé, xem có thêm phát hiện manh mối gì nữa không.”

Tối ấy, Trác Mộc Cường Ba thức thâu đêm đọc hết bản dịch cuộn sách, những nội dung có liên quan đến Cổ Cách vương và sứ giả đưa tin tuy không quá nhiều, nhưng một số chỗ thì rất quan trọng, có điều gã trước sau vẫn không hiểu, tại sao vị sứ giả lại đột ngột thay đổi thái độ, phải đem các tín vật chia ra để giấu ở các nơi, thậm chí còn cố ý để chúng vĩnh viễn không xuất hiện dưới ánh nắng mặt trời, nhưng lại không hủy chúng đi, điều này chẳng phải nhằm mục đích lừa gạt người ta sao?

40.2

Bất ngờ gặp lại người quen



Cứ như thế, hai ngày nữa tiếp tục trôi đi. Thân thể Trác Mộc Cường Ba hầu như đã hoàn toàn bình phục, gã vốn dự tính sẽ xuất viện ngay lập tức, nhưng bác sĩ cũng rất kiên quyết, nhất định giữ gã lại một ngày đêm nữa để theo dõi thêm, mặt khác Nhạc Dương và Trương Lập mãi còn chưa thấy trở lại, Trác Mộc Cường Ba liền đồng ý ở lại theo yêu cầu của bác sĩ.

Rảnh rỗi chẳng có việc gì, gã và Mẫn Mẫn đi dạo hai vòng trên sân cỏ, vốn định ôn lại vài động tác chuyên môn, nhưng Mẫn Mẫn cảnh báo gã không nên công khai làm như thế ở đây, những động tác ấy dễ làm mọi người chú ý, kéo xem kín xung quanh thì rất rầy rà. Trác Mộc Cường Ba chỉ có thể tùy tiện làm mấy động tác đá chân, vung tay đơn giản, gã thấy sinh lực cơ thể dồi dào vô hạn, chỉ muốn tìm một chỗ để phát tiết, đột nhiên có cảm giác, lẽ nào tất cả chuyện này đều là kết quả tập luyện phương pháp hô hấp ấy sao?

Nhân lúc buổi trưa vắng người, Trác Mộc Cường Ba một mình đi tới Trung tâm dưỡng lão của bệnh viện, gã ngạc nhiên phát hiện, nguyên trước đây tối đa chỉ có thể kéo xà tổng cộng được 1 nghìn lần, nhưng hiện tại có thể kéo được tới 1 nghìn ba trăm cái, hơn nữa trong người cũng không cảm thấy quá sức. Gã ngạc nhiên nhìn bắp tay, cơ thể vẫn chưa khôi phục lại sự tráng kiện trước đây, lẽ nào chính việc cải biến tần suất và mức độ hô hấp đã khiến cơ thể có sự biến chuyển to lớn như vậy sao? Trác Mộc Cường Ba biết rõ, thời gian gã tập luyện rất ít, còn xa mới đạt yêu cầu mà Lữ Cánh Nam đã đặt ra, gã vẫn còn chưa cảm giác được về mạch luân. Mà theo như lời của Lữ Cánh Nam thì, khi trong cơ thể có một mạch luân bắt đầu chậm rãi chuyển động, mới chính thức tiến nhập tới một giai đoạn khác, đó là một thứ mà dùng ngôn ngữ phổ thông về rèn luyện thân thể mà mô tả thì không thể biểu đạt được hết ý nghĩa. Trác Mộc Cường Ba càng thêm kiên định với niềm tin, nếu muốn kiếm tìm bất cứ thứ gì, muốn bảo vệ bản thân gã, bảo vệ những người xung quanh gã, thì nhất định gã phải có sức mạnh, có nhiều sức mạnh hơn nữa!

Khi trở lại bệnh viện, Trác Mộc Cường Ba đang rảo bước về phòng của mình thì tại cầu thang tầng 3 gần cửa phòng CT, một bác sĩ, tay cầm một bản chụp cắt lớp, đang nói gì đó với một bệnh nhân, lúc đó ở lối đi chỉ có ba người bọn họ. Trác Mộc Cường Ba vốn đã định rời đi, chân đã tiếp tục bước lên cầu thang, đột nhiên gã có cảm giác tất cả đều chững lại! Trác Mộc Cường Ba chưa bao giờ gặp cảm giác này, dường như bản thân đang tách ra khỏi thế giới bên ngoài, dường như thời gian đã ngừng lại, vây quanh gã là một cảm giác nguy hiểm trước nay chưa từng gặp, cảm giác này đúng là rất mạnh mẽ, dĩ nhiên đang làm cho chân cứng lại không thể bước thêm một bước nào nữa, cứ giống như tử thần đang bò lên lưng vậy, cảm giác tử vong đã dâng lên tới cổ. Trác Mộc Cường Ba không hiểu, rốt cuộc xảy ra chuyện gì, sao tự nhiên lại xuất hiện cái cảm giác sợ hãi ấy, chính lúc gã đang thỏa mãn với sức khỏe, thì lại đột nhiên thấy như không còn sức lực phản kháng nữa, đành mặc cho người ta xâu xé, linh hồn không ngừng đấu tranh, tựa như muốn chạy trốn khỏi cơ thể, ý thức không còn có thể khống chế được bất cứ tế bào nào. Đầu gã vội vã ra mệnh lệnh: “Cử động, cử động một chút, dù cử động một đầu ngón tay thôi cũng được!” Thế nhưng đáp lại vẫn là toàn thân cứng ngắc, như bị người ta bỏ bùa, đến muốn chớp mắt cũng không chớp được, trong một khoảnh khắc, linh hồn và cơ thể gã như đã tách rời nhau.

Trác Mộc Cường Ba có thể nhìn thấy bệnh nhân kia đang quay lưng về phía mình, bác sĩ thì mang khẩu trang, đeo kính và đội mũ, hai người đang thảo luận, gã vẫn có thể nghe được nói của họ, nhưng bản thân gã lại như một ở nơi nào đó xa xăm, dường như không thuộc về chính mình. Không, vị bác sĩ kia đang nhìn mình! Cái ánh mắt ấy! Ánh mắt ấy muốn nói gì nhỉ? Đùa cợt? Châm chọc? Thương hại? Không, nhất định đây là ảo giác! Rốt cuộc thì gã bị sao vậy? Cơ thể gã? Cử động nào!

Toàn bộ quá trình sợ hãi giằng co chỉ tồn tại trong khoảng một hai giây, nhưng một hai giây ấy khiến Trác Mộc Cường Ba cảm thấy rất mực kinh hãi, chấn động sâu sắc, hô hấp cũng rối loạn, tim đập liên hồi như trống trận, đến khi vị bác sĩ kia quay người bước vào trong phòng CT, cả người gã nhũn ra, phải dựa vào lan can, may quá, cuối cùng cũng không bị hôn mê.

Lúc này, bệnh nhân kia cũng quay người lại, Trác Mộc Cường Ba có cảm giác nhất định đã từng gặp qua người này, là đã gặp ở nơi nào? Tên là gì nhỉ? Nhưng lúc này tim hắn vẫn đang đập loạn, máu dường như lại không lên tới não, nghĩ cách nào cũng không ra.

Gã bệnh nhân kia hiển nhiên cũng trông thấy Trác Mộc Cường Ba, nở một nụ cười miễn cưỡng, hướng về phía gã bước tới.

Rốt cuộc, khi người kia chỉ còn cách Trác Mộc Cường Ba hai bước chân thì gã cũng chợt nhớ ra tên của người đàn ông này, thốt lên: “Vương Hựu?”

Đó chính là người đã được nhóm Trác Mộc Cường Ba cứu ra từ mật thất tại địa cung Aherz, ngày ấy, sau khi đi cùng nhau một hôm, Vương Hựu liền trở về nước, từ đó về sau không hề có liên lạc, không hề nghĩ rằng sẽ gặp lại ở bệnh viện này. Vương Hựu cười khổ, nói: “Rốt cuộc thì anh cũng tìm đến đây rồi, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh.”

Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên, những lời này có ý tứ gì vậy? Chỉ nghe Vương Hữu nói tiếp: “Tôi biết, sớm muộn gì các anh cũng tìm đến tôi, chỉ là không nghĩ mình phải đợi lâu như vậy.”

Trác Mộc Cường Ba dần dần khôi phục bình tĩnh, tim thôi không đập loạn nữa, gã bám theo lời Vương Hữu nói một cách chung chung: “Thì ra anh cũng biết.”

Vương Hựu vẫn để mái tóc cắt ngắn như hồi đó, chỉ là đã cạo đi chòm râu, xem ra thân hình gầy hơn lúc trước khá nhiều, anh ta nói: “Khi ấy tôi đã đoán, các anh vốn không phải những du khách bình thường, đến địa cung tuyệt đối không chỉ là thám hiểm. Sau này nghĩ lại, thân thủ các anh như vậy, còn kỹ thuật, kiến thức, trang bị của các anh nữa chứ, không hề giống người bình thường chút nào. Vì vậy tôi đã nghĩ, các anh đi vào trong đó, hẳn là muốn tìm kiếm một vật gì đấy, nhưng... chính các anh cũng không biết mình rốt cuộc mình cần tìm thứ gì, đúng không?

Với kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ tên mập, Trác Mộc Cường Ba không khỏi thận trọng suy nghĩ: “Cái tên Vương Hựu này rốt cuộc là ai? Sao anh ta lại biết những chuyện này?” Gã bắt đầu hồi ức lại từng chi tiết xảy ra trong cuộc gặp gỡ lần trước, rốt cuộc, gã cũng đột nhiên nhớ tới cái gương đồng! Mặt sau gương đồng khắc đầy Tạng văn, Vương Hựu nói là mua được tại Bogota, lẽ nào anh ta nói dối...

Vương Hựu thấy Trác Mộc Cường Ba cúi đầu không nói năng gì, cho là trong lòng gã đang khó chịu, nhân tiện nói: “Lúc đó tôi cũng không phải có ý lừa anh, chỉ là khi ấy do vội vàng nên đối đáp qua loa, tôi cũng không hiểu, tại sao lại có một cái gương đồng cổ đại của người Trung Quốc chúng ta trong địa cung của người Maya.”

Tuy vẻ mặt Trác Mộc Cường Ba không tỏ ra có thay đổi gì, nhưng tim gã bắt đầu nhảy thình thịch, quả nhiên là cái gương đồng, ngày đó mình không hề nhìn lầm, trên mặt gương có khắc Tạng văn, vậy thì, nó và tòa thành được khai sáng kia nhất định có mối liên hệ nào đó.

Vương Hựu vẫn tiếp tục lẩm bẩm một mình: “Tôi biết, các anh đã cứu mạng tôi, nhưng tôi thì... Tôi đã lừa dối các anh, nhưng cũng không biết lúc đó tại sao mình lại làm như vậy, hình như, như có một âm thanh nào đó xui khiến tôi rằng, nhất định phải mang đem cái gương về. Sau khi về nước, tôi lập tức đi tìm rất nhiều chuyên gia, nhưng sau khi giám định tất cả đều nói, đó chỉ là một chiếc gương đồng loại phổ thông từ thời nhà Đường, chế tác tinh tế, được bảo tồn tương đối hoàn hảo, giá thị trường cũng không cao, nếu như có một chiếc gương đồng được bảo tồn hoàn hảo như vậy từ thời Chiến quốc, thì sẽ rất có giá trên thị trường. Chỉ duy nhất một người sưu tập già cho rằng nó là thứ tốt...” Nói đến đây, Vương Hựu lại cũng giống như Trác Mộc Cường Ba, lâm vào hồi ức và trầm tư.

Anh ta không thể nào quên được sự việc xảy ra vào ngày hôm ấy, cái vị sưu tập gia họ Trần kia, trong lĩnh vực giám định và thưởng thức các loại gương đồng, có thể nói là đứng đầu cả nước, có người còn nói, khi Bảo tàng Cố cung không có khả năng giám định gương đồng cũng phải nhờ đến tay vị tiên sinh già ấy. Vị tiên sinh già sau khi nghe xong hắn thuật lại đầu đuôi sự việc, nét mặt cũng chẳng có biểu hiện gì tỏ ra hứng thú, thế nhưng khi hắn lấy ra chiếc gương đồng thì vị tiên sinh già vội vã đứng bật dậy, thay đổi kính mắt, tay cầm gương còn miệng thì lắp bắp: “Tốt... tốt... tốt...” nghẹn ngào mà nói, rồi sau đó tuyệt khí luôn, nếu bác sĩ không giám định rằng ông ta chết vì suy tim, thì anh ta cũng không khỏi gặp rắc rối lớn. Nhưng ngoại trừ việc người chuyên gia có uy tín ấy nói chiếc gương là tốt, còn các chuyên gia khác đều cho rằng nó chỉ là một chiếc gương phổ thông, có cả ngàn cả vạn chiếc cùng loại, họ nói trên thị trường, giá cao nhất cũng không quá năm vạn tệ. Mà cái vị tiên sinh già ấy chỉ nói được có 3 từ “Tốt, tốt, tốt!”, rồi rời bỏ nhân gian, cũng không đề cập đến là nó tốt ở chỗ nào. Từ đó trở về sau, chiếc gương đồng đã trở thành thứ tâm bệnh lớn nhất của anh ta.

Nghĩ tới đây, Vương Hựu không kìm được, mở miệng hỏi: “Có thể cho tôi biết được không, chiếc gương đồng rốt cuộc là cái thứ gì vậy?”

Lúc này Trác Mộc Cường Ba đang suy tư: “Tòa thành khai sáng, tòa thành được chiếu sáng? Cái tên này bản thân nó muốn chỉ cái gì vậy nhỉ? Vương Hựu lấy đi một tấm gương đồng, chiếu sáng, cái gương? Lẽ nào sẽ có tòa thành xuất hiện? Chẳng lẽ là... kỹ thuật lasser lập thể? Giống như trong Cực Nam miếu, không không, cổ nhân không có khả năng sở hữu loại kỹ thuật này. Thế nhưng nếu như nói, tại mật thất Cổ Cách thu được hình ảnh một khối đá, đó chính là bức điêu khắc phục chế của tòa thành được chiếu sáng, như vậy, tòa thành này thực là lớn quá, chỉ với sức của một vị sứ giả thì mang nó đến châu Mỹ xa xôi bằng cách nào? Ngoại trừ dùng kỹ thuật chiếu hình, chẳng lẽ còn có đạo lý huyền diệu nào khác?”

Vương Hựu gọi: “Trác Mộc Cường Ba tiên sinh? Trác Mộc Cường Ba tiên sinh?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “À, sao cơ? Đi! Trước hết dẫn tôi đi xem chiếc gương đã.”

Vương Hựu nhún vai, nói: "E rằng không được, chiếc gương không có ở đây, mà đang trong két bảo hiểm của tôi tại một ngân hàng ở Thâm Quyến, hay là, anh hãy trở về Thâm Quyến cùng tôi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đợi tôi, tôi sẽ lập tức làm thủ tục xuất viện.”

“Lần này anh do đâu mà bị thương vậy? Có thể cho tôi biết được không?”

“Trên phố, đánh nhau với người ta. Còn anh? Đến Thượng Hải để điều trị bệnh gì vậy?”

“Không có gì, chỉ là kiểm tra sức khỏe định kỳ thôi, tôi thực ra là người luôn chú trọng quan tâm đến sức khỏe của cá nhân, cứ một thời gian lại đến khám tại bệnh viện này, trước đây trụ sở Công ty vốn đặt ở Thượng Hải nên có làm một thẻ bảo hiểm y tế."

“Vừa rồi tôi thấy anh đã cùng vị bác sĩ kia thảo luận.”

“Cái vị bác sĩ kia tạo cho tôi một cảm giác giống như một người bạn cũ, vậy nên có hàn huyên vài câu.”

Trác Mộc Cường Ba lập tức để Đường Mẫn làm thủ tục xuất viện, còn gã thì âm thầm liên hệ với giáo sư.

“Sao cơ? Chiếc gương? Phát hiện trong địa cung Aherz?”

“Đúng vậy, tôi sẽ đi Thâm Quyết một chuyến, thử xem cuối cùng là chuyện gì xảy ra, hiện nay không những anh ta tỏ vẻ cảm kích tôi, ngược lại, còn hỏi tôi đó là một cái vật gì vậy. Được rồi, thầy giáo, thầy có thể điều tra anh chàng Vương Hựu này một chút được không, tôi muốn hiểu thêm về anh ta.”

“Cậu nói Mẫn Mẫn cứ chờ chút, tạm thời chưa nên làm thủ tục xuất viện, bảo cô ấy cứ ở lại bệnh viện, còn cậu thì đi Thâm Quyến một mình, có hiểu ý tôi không?”

Trác Mộc Cường Ba chợt tỉnh ngộ, sau khi biểu thị đồng ý, rồi tiếp tục kể cho giáo sư tình hình khi gã nhìn thấy Vương Hựu và các cảm giác đặc biệt của bản thân, và nói thêm: “Hiện giờ khi suy nghĩ lại chuyện ấy, tôi vẫn cảm thấy lạnh cả người, hình thể sinh mạng và linh hồn đều bị người khác nắm trong tay vậy.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Trước kia cậu từng có cảm giác này không?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không, trước đây mỗi khi cảm giác thấy nguy cơ thì chỉ tựa như có một con cá chạch bám vào sống lưng thôi, lần này thì khác hẳn, đáng sợ hơn nhiều.”

Giáo sư nói: “Thân thể không cử động được, dĩ nhiên sẽ sinh ra loại cảm giác này, thế này vậy, tạm thời không nên suy nghĩ đến nó nữa, cậu phải thả lỏng tâm tư một chút, tôi nghĩ tự cậu cảm thấy bản thân bị áp lực quá lớn, cơ thể lại chưa hoàn toàn hồi phục nên mới có những loại tình huống này, tuy rằng tôi muốn cậu tập trung suy nghĩ, nhưng cũng không nên lao tâm khổ tứ quá, tệ thật, cậu phải tự biết sắp xếp, phải có cái nhìn toàn cục chứ. Tạm thời bỏ qua chuyện này đã, cứ coi như chưa có gì xảy ra cả, có nghi vấn gì, chờ cậu từ Thâm Quyến trở về, sau đó chúng ta trao đổi tiếp.”

***


Trong khu kho ngầm tại một ngân hàng ở Thâm Quyến, khi chiếc gương đồng cổ xưa đã đặt trên tay Trác Mộc Cường Ba, trong lại gã xuất hiện một cảm giác quen thuộc, như lâu ngày không gặp lại, những đường cong, những hoa văn được điêu khắc ở mặt sau chiếc gương, đối với gã, tựa như người thân đã nhiều năm không gặp, như có chung một liên hệ huyết thống, vẫn như xưa, chỉ cần liếc mắt là nhận ra. Khi trong lòng Trác Mộc Cường Ba xuất hiện cái cảm giác như vậy thì chính gã cũng hiểu được đó là việc khó tin, ngày ấy trong địa cung Maya mình hoàn toàn không chú ý, hôm nay chăm chú nhìn kỹ, dĩ nhiên gặp phải những cảm giác như vậy. Nhất định gã đã từng nhìn thấy chiếc gương này rồi, cũng là kiểu hoa văn này, cũng hình dáng như thế này, thế nhưng, là gã đã nhìn thấy ở nơi nào? Chẳng lẽ là gặp trong mơ? Gã chẳng quan tâm việc Vương Hựu ngăn cản, cởi bỏ găng tay, khi dùng đầu ngón tay trực tiếp xoa lên những đường vân, khi có cái cảm giác mặt gương trơn mềm như xoa lên gấm lụa, cái cảm giác quen thuộc ấy càng dâng lên mãnh liệt. Đây là một chiếc gương mặt tròn, khung tròn, mặt gương như mới, ánh lên sắng trắng, đế gương trang trí các hoa văn rồng, viền ngoài bốn phía khắc lõm các hàng nhũ đinh cách nhau, bốn phía là các cuống lá hướng về mặt kính, phân làm bốn góc, mỗi góc có một thụy thú, trong đó có một con giống như loài chim, còn lại đều không nhìn ra cuối cùng là loại thú gì, bên ngoài lại được bao bọc bởi một đường viền, bên ngoài đường viền lại có thêm mười hai con thú, có cùng cách khắc họa trừu tượng, khó mà phân biệt, chèn giữa là các hoa văn hình hoa sen, bên ngoài lại có một đường viền nữa, đường viền điểm tô càng phức tạp, ào ạt mạnh mẽ như đại dương, giống như vô số hình mãnh thú, tiếp theo lại một hoa văn khác, bên ngoài là một vòng dày đặc các trang trí dạng hà lạc(*), tiếp đó lại có một đường viền nữa, càng ra phía ngoài hoa văn càng phức tạp. Cuối cùng, viền quanh mặt sau gương đồng là các văn tự tương tự như Tạng văn, hôm nay cầm trong tay nhìn kỹ lại, các văn tự này cũng không hoàn toàn giống, văn tự đó và Tạng văn có sự khác nhau, cũng không giống với chữ Tây Hạ của người Đảng Hạng và chữ Hán, đều là dạng chữ kiểu khối vuông, cơ cấu bộ thủ và bút pháp đều không giống, bất cứ ai cũng không nhận ra những chữ này có ý nghĩa gì, Trác Mộc Cường Ba cũng hoàn toàn không nhận ra hàm nghĩa của các phù hiệu. Thế nhưng, những phù hiệu và văn tự này cùng nhau khiến Trác Mộc Cường Ba cảm thấy quen thuộc, vậy tóm lại gã đã gặp những thứ tương tự ở nơi nào, chỉ là có cố thế nào cũng không dựng hồi ức dậy được.
______________________
(*)Hà lạc: Hà đồ và Lạc thư, một môn thuộc Kinh dịch.
Đoạn này tả chiếc gương đọc đau cả đầu, chịu không hình dung nổi. Mình tạm dịch như vậy, đang đợi bản dịch chính ra để kiểm tra lại.
______________________

Vương Hựu nói: “Thế nào? Bây giờ có thể cho tôi biết cái gương có tác dụng gì không?”

Trác Mộc Cường Ba cất gương vào bao, đã quan sát tỉ mỉ như thế rồi, nhưng khi hỏi tấm gương có điểm gì đặc biệt, thì gã cũng chẳng khác gì Vương Hựu, hoàn toàn không có manh mối.

Trác Mộc Cường Ba khẽ nhìn ngọn đèn chập chờn trong kho ngầm, trả lời: “Cần tìm một nơi có ánh sáng mặt trời để chiếu thử xem.”

Vương Hựu nói: “Anh muốn nói dưới ánh mặt trời, nó sẽ chiếu ra một dạng hình thù gì sao? Không có đâu, tôi đã nhiều lần thử qua rồi.”

Trác Mộc Cường Ba cứ khăng khăng giữ ý kiến, Vương Hựu đành đem chiếc gương ra khỏi kho bảo hiểm.

Gia tư Vương Hựu khá sung túc, anh ta sở hữu một biệt thư hai tầng có khuôn viên, phía sau khuôn viên còn có bể bơi rộng một trăm hai mươi mét vuông, gara rất rộng, có thể chứa được đồng thời ba xe các loại, kể cả loại xe tải lớn.

Tại ban công tầng 2, Trác Mộc Cường Ba bắt đầu nghiên cứu chiếc gương đồng, gã đón ánh sáng mặt trời, chiếc gương phản chiếu vào tường một hình ảnh tròn, kính cỡ như một chiếc đĩa CD, chiếc đĩa CD ấy vô cùng rõ ràng, không những hình dáng trọn vẹn, mà một quầng ảnh méo cũng không có. Trác Mộc Cường Ba dựng gương cố định trên bàn, đi tới chân tường, tỉ mỉ xem xét cái đĩa CD kia, chiếc đĩa CD hay cái hình ảnh tựa chiếc đĩa CD đó, có sáng chói mắt. Vương Hựu cầm hai chai nước tăng lực Redbull đặt trên mặt kính bàn trà, nói: “Vô dụng thôi, tôi đã nói rồi, tôi đã nghiên cứ rất kỹ chiếc gương rất nhiều lần, cũng đã tiến hành scan larser mặt sau của nó, nhưng chẳng có phát hiện gì đặc biệt. Tôi cứ tưởng anh có chút lý giải, hóa ra ngay các anh cũng không biết.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi muốn đem nó đến chỗ các chuyên gia để nghiên cứu.”

“Không được.” Vương Hựu đứng dậy nói: “Mặc dù tại địa cung Aherz các anh đã cứu tôi, nhưng về chuyện này, tôi đã mất rất nhiều công sức mới mang được chiếc gương về nước, coi nó như vật bảo hộ sản nghiệp của tổ tiên, hiện nay theo pháp luật thì cái này thuộc về di sản của tổ tiên tôi, không thể giao nó cho người khác mang đi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Điều kiện của anh là gì?”

Vương Hựu cười cười, khoát tay chỉ xung quanh phòng khách : “Anh xem, tôi cái gì cũng không thiếu...” anh ta dừng lại một chút để quan sát vẻ mặt Trác Mộc Cường Ba, rồi nói tiếp: “…Tôi chỉ có một yêu cầu. Tôi muốn các anh cho tôi đi cùng.”

“Anh nói cái gì!” Trác Mộc Cường Ba kinh hãi, yêu cầu này nằm ngoài sự tưởng tượng của gã.”Không thể được!”

“Vì sao lại không được! Anh đi được, sao tôi lại không?” Vương Hựu nói: “Khi về nước, tôi đã tìm kiếm thông tin về anh, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, thật không nghĩ ra, anh cũng là tổng giám đốc của một doanh nghiệp lớn, anh biết lúc đó tôi đã nghĩ gì không? Sở hữu một cơ ngơi hơn trăm triệu như vậy, không chịu ở nhà an nhàn hưởng thụ cuộc sống, lại lần mò tới tận rừng nhiệt đới châu Mỹ để làm cái gì nhỉ? Anh ta rốt cuộc muốn tìm kiếm cái gì? Khi minh bạch thân phận của anh, tôi đã hiểu, rằng chúng ta cùng thuộc về một loại người.”

Vương Hựu nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba nói: “Những người khác mong mỏi được giàu có như chúng ta để thỏa mãn đời sống vật chất mà họ mơ ước, nhưng đó lại không phải là điều mà chúng ta muốn, khi các nhu cầu thiết yếu đã được đáp ứng, chúng ta cần khẳng định giá trị của bản thân mình. Khi thị trường bất động sản nóng lên, Công ty Bất động sản của tôi ăn nên làm ra, nâng tài sản của tôi lên hàng ngũ những doanh nhân một trăm triệu, nhưng lúc đó tôi lại không cảm thấy đặc biệt vui mừng và xúc động, tôi chỉ nghĩ, những thứ ấy không thỏa mãn được nhu cầu thực sự của mình. Niềm vui khi những chữ số đó tăng lên thua xa lúc tôi bước chân lên đỉnh núi tuyết, dang rộng hai tay tự do thoải mái mà hét lớn lên niềm đam mê của mình. Cuộc sống không phải là sự chiếm đoạn, mà là sự phấn đấu, sự hưởng thụ của con người không nằm ở kết cuộc, mà là ở quá trình. Hơn mười năm nay, trước sau tôi đã đã leo núi Kilimanjaro, núi Phú Sĩ, Cáp Ba tuyết sơn(*), Everest, anh biết đấy, leo núi cũng có nghĩa là hướng tới một cái đích cao hơn, ngọn núi sau cao hơn, nguy hiểm hơn ngọn trước. Vì thế, khi tôi đọc trên bìa một tờ tạp chí thấy hình ảnh của anh, thì tôi lập tức có ngay một cảm giác thân thiết, chúng ta cùng thuộc về một hạng người.”
_____________________
(*)Kilimanjaro: một núi lửa đã tắt ở Đông Bắc Tanzania, là núi cao nhất châu Phi (5.895m); về độ cao tương đối, nó đứng đầu thế giới (4.600m).
Cáp Ba tuyết sơn (5.396m): nằm ở tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Độ cao tương đối vào khoảng 3500m so với con sông Kim Sa uốn lượn dưới chân.
_____________________

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không, chúng ta không giống nhau.”

Vương Hựu nói: “Không giống ở chỗ nào? Để tôi phân tích một chút nhé, quý ngài chủ tịch kiêm tổng giám đốc Tập đoàn Nuôi luyện ngao Thiên Sư, không quản ngại gian khổ khó nhọc, vạn dặm xa xôi đến rừng nhiệt đới châu Mỹ, lại còn thâm nhập địa cung Maya dày đặc cơ quan bẫy rập, tôi nghĩ, các anh muốn tìm thứ gì đó, khẳng định thứ đó không hề đơn giản. Phải biết rằng, ngày nọ ở địa cung Maya, tôi đã gặp phải hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm, từ lúc các anh cứu tôi thoát khỏi hiểm nguy, tôi vẫn đều quan tâm tới anh, nhưng hành tung của các anh quá bí ẩn, điều đó lại càng kích thích tôi. Sau đó, trên internet tôi thấy các anh xuất hiện tại Trát Đạt Tây Tạng, mọi người đều bị thương rất nặng, phóng viên vốn định làm một cuộc phỏng vấn, nhưng chẳng hiểu sao lại đột nhiên bị đình chỉ. Tôi biết, các anh một mực ngược xuôi tìm kiếm, nhưng vẫn không tìm được thứ mình muốn. Lúc đó tôi vốn định chuẩn bị liên hệ với các anh, nhưng khi tới được bệnh viện Lahsa thì các anh đều đã biến mất một cách thần bí, mỗi khi bỏ lỡ một dịp may, tôi đều giậm chân hối hận. Lần này, dù nói cái gì thì nói, tôi vẫn giữ nguyên quan điểm, nếu như không để tôi đi cùng thì việc nghiên cứu chiếc gương đồng của các anh cũng nên dừng lại ở đây thôi.”

40.3

Sự kiên trì của Vương Hựu



Trác Mộc Cường Ba dở khóc dở cười, không biết rốt cuộc việc này là sao, Vương Hựu chỉ thuần túy muốn cùng theo họ mạo hiểm, hay còn có mục đích khác. Gã chỉ còn biết nỗ lực tìm cách thuyết phục Vương Hựu bỏ cái ý định hoang đường ấy đi, nghiêm túc nói: “Anh có biết chúng tôi muốn đến những nơi như thế nào không?”

“Thập tử nhất sinh.” Vẻ mặt Vương Hựu như muốn nói tôi sớm đã biết anh sẽ đưa ra câu hỏi này, và nói tiếp: “Những nơi tôi đã từng đi cũng là những nơi rất nguy hiểm, hơn nữa, tôi đã từng tham gia nhóm phượt do các thành viên tự nguyện tổ chức, lần nào cũng vậy, trước xuất phát, điều đầu tiên chúng tôi làm là viết di chúc và tuyên bố miễn trừ mọi trách nhiệm, lần này cũng như vậy, sau này nếu tôi có gặp chuyện gì bất trắc, tuyệt đối sẽ không làm liên lụy các anh. Sao lại nhìn tôi với ánh mắt như thế? Lẽ nào so với anh, tôi là ngươi điên chăng? Trác Mộc Cường Ba tiên sinh? Chẳng phải anh đã tham gia đội thám hiểm hơn hai năm rồi sao? Trong khoảng thời gian ấy, đối đầu với tử thần chắc không chỉ có một hai lần đâu nhỉ? Vậy sao anh vẫn còn tiếp tục cuộc hành trình?

Nhìn Trác Mộc Cường Ba đang á khẩu không trả lời được, Vương Hựu cười nói: “Thật vậy, bên ngoài có rất nhiều người không hiểu chúng ta, cho rằng chúng ta là người điên, tiền mặt đầy túi mà không biết hưởng thụ cuộc sống xa hoa, lại đem sinh mạng ra mà đùa giỡn, có nhiều người còn cho rằng, chúng ta bỏ tiền mà lao vào chỗ chết. Thật ra, những người này không có khả năng cảm nhận lối sống của chúng ta, bọn họ suốt ngày mải mê lo lắng mấy vấn đề mắm muối dưa cà, bận tối tăm mặt mũi, không có thời gian rảnh rỗi mà tự hỏi cuộc sống này có ý nghĩa gì, chúng ta và họ khác nhau, chúng ta đã nỗ lực và cố gắng để cuối cùng thoát khỏi cái vòng rau cháo luẩn quẩn đó. Chúng ta có nghị lực lớn, có nhiều thời gian và cũng có đủ cơ sở vật chất, để suy ngẫm về vấn đề nhân sinh, rốt cuộc, sống trên đời nhằm theo đuổi điều gì. Tôi nghĩ, vấn đề này, anh đã từng bỏ không ít thời gian ra suy ngẫm, tôi chẳng lẽ lại ít hơn anh sao? Thành thật mà nói, cái mà tôi tìm kiếm không chỉ là sự kích thích, trong vô số những chuyện đã trải qua trong các cuộc thám hiểm, khi phải vận dụng trí óc để duy trì sinh mệnh, tôi đã lĩnh hội được không ít kiến thức triết học về nhân sinh quan, tôi còn đem những vấn đề nhân sinh quan đã lĩnh hội được ấy trở lại vận dụng trong công tác điều hành và quản lý doanh nghiệp, công ty tôi ngày nay đang có tốc độ phát triển chưa từng có, cũng có phần là nhờ vào việc ấy. Anh xem, tôi đã nói rồi mà, chúng ta thuộc cùng một loại người, cái mà anh tìm kiếm đó chính là phương hướng, tôi cũng có mục đích riêng, không phải tôi rẻ rúng tính mạng bản thân, chỉ là là làm những điều mình muốn. Cái mà tôi đã muốn thì nhất định phải làm, không cần quan tâm đến kết quả thành hay bại, cũng không tính toán sự được mất, khi làm sẽ tuyệt đối không hối hận, đây là triết lý cuộc sống của tôi, tôi nghĩ, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh cũng đâu có khác.”

Trác Mộc Cường Ba đành phải thừa nhận, trong những vấn đề tràng giang đại hải mà Vương Hựu vừa nói, nhiều điểm cũng trùng với suy nghĩ của bản thân gã, nhưng còn chuyện đi tìm Bạc Ba La thần miếu, Vương Hựu cần gì phải cố chấp như thế, anh ta căn bản không biết gì về chuyện này, sao cứ nhất định phải mạo hiểm tham gia, anh ta hoàn toàn coi chuyện hiểm nguy như một lạc thú của cuộc sống, anh ta hưởng thụ cuộc sống thông qua quá trình mạo hiểm, thuần túy chỉ với mục đích mạo hiểm và hành vi mạo hiểm, Trác Mộc Cường Ba tự thừa nhận, bản thân gã còn chưa đạt được đến cảnh giới này. Thế nhưng, xét lại các hành vi của gã trước đây, hình như cũng không kém những điều Vương Hựu vừa nói là mấy, chỉ có duy nhất một chuyện gã không làm đó là để lại di chúc trước khi lên đường.

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Nếu tôi vẫn kiên quyết thì sao?”

Vương Hựu ngán ngẩm nhìn chiếc gương đồng trong tay Trác Mộc Cường Ba, nói: “Tôi cũng không từ bỏ ý định.”

Trác Mộc Cường Ba hốt hoảng nắm chặt chiếc gương đồng: “Chuyện này là sao?”

Khóe miệng Vương Hựu nở một nụ cười, rồi đột nhiên tiến phắt lại, bàn tay vung ra như lưỡi đao, cuối cùng dừng ngay tại yết hầu Trác Mộc Cường Ba, sau đó thu tay lại, cười nói: “Không nên xem thường tôi nhé, tôi đã từng tập qua không thủ đạo.”

Trác Mộc Cường Ba thì lại nghĩ: chậm quá, nếu như vừa rồi không phải gã thấy anh ta có vẻ muốn dừng tay thì lúc này thân thể anh ta đã bay ra ít nhất là mười thước rồi.

Trác Mộc Cường Ba trả lời Vương Hựu bằng cách chớp động cánh tay, nhấc bổng anh ta lên, Vương Hựu chỉ cảm thấy hơi hoa mắt, thì hai chân đã rời mặt đất rồi, Trác Mộc Cường Ba buông Vương Hựu ra, thu tay trái về, nói: “Cái món đó của anh, phân lượng cũng không nặng lắm đâu.”

Vương Hựu sửa lại cổ áo, nói: “Tôi biết, thân thủ của các anh rất cao, khi ở địa cung Maya tôi đã từng chứng kiến rồi, nhưng nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Nếu anh tính dùng vũ lực để lấy đi chiếc gương, tôi sẽ lập tức báo cảnh sát, trừ khi anh ra tay giết tôi.” Nói rồi, anh ta bình chân như vại ngồi xuống ghế sô-pha, tiếp tục: “Cứ yên tâm mà suy tính đi nhé.”

Trác Mộc Cường Ba không ngờ Vương Hựu lại có thái độ như vậy, nhất thời cũng cảm thấy đau đầu, gã nói: “Vậy là anh không hiểu công việc của chúng tôi rồi.”

Câu trả lời của Vương Hựu khiến Trác Mộc Cường Ba giật mình. “Tôi biết.” Anh ta gằn từng chữ: “Theo truyền thuyết, có một nơi so với vườn địa đàng còn thuần khiết hơn, so với thế giới Tây Thiên cực lạc còn cao quý hơn, có không biết bao nhiêu tín đồ suốt đời đi tìm kiếm nơi ấy, đó là chốn cực lạc cuối cùng trên thế gian - Hương Ba La.”

Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, Vương Hựu sao lại biết được chuyện này cơ chứ, gã hỏi: “Anh biết được bao nhiêu?”

Vương Hựu chỉ chỉ vào chiếc gương đồng, nói: “Tôi đã nói rồi mà, tôi đã nghiên cứu rất tỉ mỉ cái đó, đầu tiên tôi chỉ biết đây là một vật có mối liên quan nào đó với Tây Tạng, hoa văn và hình dáng đều mang những đặc điểm truyền thống của người Tạng, còn anh, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, anh cũng là người Tạng, tập đoàn nuôi luyện ngao của anh cũng là dựa vào kinh nghiệm nuôi ngao của đất Tạng mà phát tích. Vì thế tôi đã điều tra nghiên cứu, trước sau anh đã bảy lần đơn độc một mình ra ngoài, tiếp xúc với đủ loại nguy hiểm, đều chỉ là vì tìm kiếm những giống danh khuyển trên thế giới, đầu tiên tôi cũng cho rằng, lần này anh chỉ là đi tìm một giống chó đặc biệt thôi, gần đây mới biết được, hóa ra các anh không chỉ đơn giản đi tìm danh khuyển, cái mà anh tìm kiếm chính là nơi thần bí nhất Tây Tạng từ trước tới nay, thánh địa Hương Ba La.

Một lần nữa Trác Mộc Cường Ba có ý định ra tay với Vương Hựu, nhưng rốt cuộc cũng kìm được mà không xuất thủ, chỉ bình tĩnh nói: “Anh biết được đến đâu rồi?”

Vương Hựu nửa cười nửa không, nói: “Cái này thì tôi tự có phương pháp riêng của tôi. Tôi một mực suy nghĩ, cái gương này bằng cách nào có thể từ Tây Tạng đến tận Nam Mỹ xa xôi? Phải chăng nó là một đầu mối trọng yếu mà các anh đang tìm kiếm? Ngày hôm nay anh đã giải đáp giúp tôi vấn đề này rồi.” Nói rồi, Vương Hựu không nhìn Trác Mộc Cường Ba, như đang tự mình độc thoại: “Trong cả cuộc đời mình, tôi đã từng đến rất nhiều nơi, leo núi tuyết, qua thảo nguyên, thế nhưng thánh địa trong truyền thuyết là như thế nào, tôi chưa từng được biết. Tôi đã tới cung điện Potala(*), chỗ ấy gây cho tôi cảm giác hấn động, tiếp đó là Bạch thành Maya, tôi có cảm giác như đang chiêm ngưỡng tuyệt tác kiến trúc hàng đầu thế giới, nhưng căn cứ theo hành động của các anh, so với Hương Ba La, những nơi đó hẳn chẳng có nghĩa lý gì, Hương Ba La là nơi mà tôi vốn không hề tưởng tượng là có tồn tại. Giờ đã biết đến sự tồn tại của nó, nên tôi nhất định phải đến thưởng thức xem sao, không được để cái gì lọt qua tầm mắt của mình khi còn sống, đấy là phương châm của tôi.”
____________________
(*)Cung điện Potala: nằm ở Lhasa, Tây Tạng, bắt đầu được xây dựng vào năm 1645, vốn là nơi ở của các Đại Lai Lạt Ma cho tới năm 1959. Ngày nay trở thành một trong những viện bảo tàng nổi tiếng của Trung Quốc.
____________________

Trác Mộc Cường Ba vốn không nghĩ tới, Vương Hựu đã bằng một con đường khác biết được nơi gã và đồng đội đang tìm kiếm có thể là Hương Ba La trong truyền thuyết, gã kiên trì nói: “Lẽ nào anh đã quên những chuyện anh đã gặp trong địa cung Maya? Bài học ấy vẫn chưa đủ để làm anh tỉnh ngộ à? Lúc đó tình trạng của anh ra sao, người ngợm thế nào...”

“Xin đừng có quên, phải đối mặt với bất cứ tình huống nào có thể sẽ xảy ra trong môi trường đen tối như vậy, tôi đã chịu đựng được hơn bốn mươi tám tiếng đồng hồ, bất kể người nào khác khi phải đối mặt với tình trạng như thế chắc chắn sẽ không chịu đựng được mà gục ngã lâu rồi."

“Không được, tuyệt đối không được, tôi nói thế chỉ vì lợi ích của bản thân anh thôi.”

“Không nên nói dứt khoát như thế chứ, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, tôi không cần thứ gì cả, chỉ là muốn đi cho mở rộng tầm mắt, còn nữa, tôi cũng biết công ty của anh hiện nay đã phá sản, nếu anh muốn tiếp tục thực hiện hành trình thì không có tài chính là không xong, việc này tôi có thể giúp anh...”

Trác Mộc Cường Ba kiên quyết từ chối: “Không... Anh vẫn không biết, anh vẫn ý thức được chúng tôi phải đối mặt với những vấn đề gì, anh cho là chúng tôi đi du lịch chắc, hay là thăm dò, thám hiểm? Chỉ đơn giản như vậy thôi sao? Tôi chỉ có thể nói như thế này với anh thôi, hành trình của chúng tôi không giống với bất kỳ nhóm phượt nào mà anh đã tham gia. Bất kể thế nào, tôi cũng không chấp nhận yêu cầu của anh.” Trác Mộc Cường Ba tiến sát Vương Hựu, cùng anh ta mặt đối mặt, nói tiếp: “Nếu muốn đi chết, anh tìm lên nóc một tòa nhà sáu mươi tầng mà nhảy xuống, như vậy có lẽ thoải mái hơn.”

Vương Hựu chỉ cười cười chẳng hề để ý, đang chuẩn bị nói tiếp, thì điện thoại di động của Trác Mộc Cường Ba vang lên, Trác Mộc Cường Ba rút điện thoại nghe, thấy tiếng Đường Mẫn nói: “Mấy người Ba Tang, Nhạc Dương đã từ Nga trở về, công việc không được thuận lợi, bao giờ thì anh quay lại Thượng Hải?”

Trác Mộc Cường Ba liếc nhìn Vương Hựu, nói: “Ở đây anh cũng vậy, anh sẽ về ngay, chắc vẫn còn lịch bay, về tới nơi sẽ nói chuyện tiếp."

Đường Mẫn nói: “Chú ý an toàn, đó là lịch bay đỏ đấy.”

Trác Mộc Cường Ba ngắt cuộc gọi, liếc nhìn Vương Hựu, cái tên thương nhân xảo quyệt này đang nhìn chằm chằm chiếc gương đồng trong tay gã không hề chớp mắt, dường như muốn nói: “Định mang vật này đi à? Vậy thì cũng phải mang tôi đi theo.”

Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ nếu tiếp tục thảo luận cũng sẽ chẳng đạt được kết quả nào, không hiểu Vương Hựu đã có được những thông tin từ đâu, hiện tại cứ nhất quyết đem bản thân anh ta ra làm điều kiện trao đổi, gã tính ra về rồi cùng mọi người thương lượng, tìm cách đối phó. Gã lấy điện thoại lưu toàn bộ các chi tiết của chiếc gương vào đó, Vương Hựu cũng không ngăn cản, chỉ không cho gã mang gương đồng đi, trước khi chia tay, theo thói quen Trác Mộc Cường Ba dùng thuật ngữ của giới doanh nhân nói với Vương Hựu: “Cho tôi thời gian ba ngày, tôi còn phải thương lượng một chút với những đội viên còn lại.” Ra tới cửa gã nói tiếp: “Anh làm như vậy là đem tính mạng ra mà đùa với lửa.”

Vương Hựu cười, nói: “Tính tôi vốn thích nghịch lửa từ khi còn nhỏ cơ.” Anh ta biết, trong cuộc đàm phán này, anh ta đang có được ưu thế tuyệt đối.

***


Tại bệnh viên, Nhạc Dương tức giận nói: “Cái thằng cha ấy thật là, rõ ràng đã thống nhất xong rồi, bất thình lình đến lúc ấy lại tăng giá, lại còn nói tạm thời tăng giá lên ba mươi phần trăm nữa chứ, chẳng phải lão muốn đùa giỡn chúng ta sao? May mà chúng tôi chưa đưa tiền đặt cọc cho hắn."

Những tình huống liên quan đến bản đồ Trác Mộc Cường Ba đã được giáo sư Phương Tân giải thích rõ, từ lúc giải mã xong nhưng dòng chữ trên vỏ bao thuốc lá, giáo sư đã thông qua nhiều phương thức phát hiện được năm ấy Đức Quốc xã đã tiến hành ở Tây Tạng một loạt các kế hoạch. Hiện nay, theo một số nguồn tin không chính thức cho biết, năm 1938, theo mệnh lệnh của Hitler, Himmler đã trực tiếp vạch một kế hoạch có tên là “Kế hoạch Cực Bắc”. Theo kế hoạch này, một đoàn thám hiểm Đức Quốc xã được phân thành các nhóm nhỏ, bí mật xâm nhập vào đất Tạng, họ dừng chân một năm ở Tây Tạng để tiến hành đo vẽ một lượng lớn bản đồ, thu lại các đoạn phim, chụp các bức ảnh tư liệu. Hitler tin rằng tổ tiên người Arian thuần chủng đang ở một nơi nào đó trên đất Tạng, những người Atlantis cũng ở đấy và nơi ấy cũng là nơi trục của trái đất đi qua, khống chế trục tâm đó sẽ khống chế được sự vận động của trái đất và nắm giữ được vận mệnh quốc gia. Nghe nói, họ một mực tìm kiếm cái nơi mà họ gọi là lối vào Sa Ba La, căn cứ vào tư liệu bản đồ đo vẽ được năm 1938, năm 1943, một lần nữa người Đức lại tiến hành khảo sát Tây Tạng, nhưng cả hai lần về hành trình, nhân số, địa chỉ đều không có những số liệu chi tiết. Dựa theo nguồn tin chính thức, khi quân Đức thất bại năm 1945 thì các bức ảnh, các cuộn phim có liên quan đến lối vào Sa Ba La đều đã bị thiêu hủy.

Trác Mộc Cường Ba cũng như mọi người trong đội đều hiểu rõ, Sa Ba La chính là Hương Ba La, sự khác biệt đó là do phiên âm giữa tiếng Anh và tiếng Đức mà ra, chúng chỉ đến cùng một nơi, tức là có cùng một chỗ, cuối cùng nơi ấy ra sao mà làm cho biết bao nhiêu người điên cuồng tranh đoạt.

Qua các tài liệu mà giáo sư Phương Tân điều tra và thu thập được cho thấy, tư liệu về hành động của Đức Quốc xã ở Tây Tạng, sau khi chiến tranh kết thúc được Liên Xô và Mỹ chia nhau lưu trữ, có nguồn tin nói, đến năm 2045 lệnh cấm truy cập mới hết hiệu lực. Nguyên là giáo sư Phương Tân đã thông qua một số quan hệ, tìm cách thỏa thuận với các nhân viên làm công tác lưu trữ hồ sơ, tiến hành liên hệ với ba kho tư liệu có liên quan, thật bất ngờ, sau khi nói chuyện với một viên quản lý kho lữu trữ ở nước Nga, ba ngày sau ông ta phúc đáp, nói rằng một phần những tư liệu này đã được hủy bỏ lệnh cấm, hiện đã mở cửa cho các chuyên gia Nga nghiên cứu, nếu như giá cả hợp lý, ông ta có thể sao chụp lại những tư liệu đó mà cung cấp cho. Mấy người bọn giáo sư Phương Tân tất nhiên là rất vui mừng. Vốn giá cả đã thỏa thuận xong, nhưng lần này khi Nhạc Dương, Ba Tang sang Nga, viên quản lý kia lại đột nhiên thay đổi, nâng giá lên cao tới mức họ không đủ khả năng để mua, hộ chiếu của Nhạc Dương, Ba Tang chẳng mấy chốc đã hết hạn, đành phải trở về tay không.

Nghe Nhạc Dương thuật lại xong, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Giáo sư đã biết chưa?”

Nhạc Dương nói: “Đã biết, nhưng ông ấy dặn chúng tôi hỏi ý kiến anh.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ý kiến của tôi là... Không quan tâm tới người đó nữa, nếu như ông ta gọi điện thoại lại thì tỏ ý với ông ta rằng chúng ta đã không còn cần bản đồ này nữa rồi, cảm ơn ý tốt của ông ta, nếu như ông ta tỏ ra bực bội oán trách, thì hạ giá xuống một nửa, nếu vẫn không hài lòng, lại tiếp tục hạ giá, cho đến khi ông ta đồng ý mới thôi.”

Nhạc Dương nói: “Ái chà, không thể nào, hạ giá xuống còn một nửa, cách ấy có thể khiến hắn đồng ý sao?”

Trác Mộc Cường Ba tỏ vẻ tự tin, vỗ vỗ vào vai Nhạc Dương, nói: “Cứ thế mà làm. Đi ngủ thôi, trời sắp sáng rồi.”

Ngủ đến lúc mắt trời đứng bóng mới trở dậy, Trác Mộc Cường Ba liền liên hệ với giáo sư, đem các sự việc về chiếc gương đồng mà kể lại một lần, giáo sư xem qua hình ảnh lưu trong điện thoại di động, nhíu mày nói: “Tuy chưa dám khẳng định có đúng là chiếu sáng tòa thành hay không, nhưng nhất định có mối liên hệ rất mật thiết, chính bản thân xuất xứ Tây Tạng của nó đã chứng minh điểm này, chỉ là mặt sau có một vòng các ký hiệu, trông cũng hơi giống chữ Tạng hiện đại và chữ Tạng cổ, nhưng chính xác là chúng tôi chưa từng gặp qua, có thể phải xin ý kiến của các chuyên gia. Anh ta thực sự không thay đổi ý kiến sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đúng vậy, anh ta cứ nhất định khăng khăng chúng ta phải cho anh ta đi cùng, như vậy mới bằng lòng giao gương đồng ra.”

Giáo sư nói: “Giờ tôi sẽ chuyển cho cậu các tài liệu có liên quan đến Vương Hựu... Vương Hựu, sinh năm 1962, người Mai Châu tỉnh Quảng Đông, tốt nghiệp đại học Phục Đán, chuyên ngành Kinh tế - xã hội , hai mươi lăm năm trước đã làm đủ các loại nghề, chủ yếu là cán bộ bậc trung trong các xí nghiệp lớn, năm 1987, hùn vốn mở Công ty bất động sản Kiến Hưng, đảm nhiệm chức giám đốc điều hành kiêm ủy viên hội đồng quản trị, năm 1989 đổi tên là Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển bất động sản Vạn Hưng Thâm Quyến gia nhập thị trường chứng khoán, năm 1997 mua và sáp nhập mấy công ty bất động sản khác như Đông Hoàn, Thành Hưng, Hưng Thịnh, trở thành công ty kinh doanh bất động sản hàng đầu Thâm Quyến. Năm 1998 anh ta leo núi Everest và trở thành chủ doanh nghiệp đầu tiên chinh phục đỉnh Everest, từ đó về sau anh ta đã được mọi người biết đến, nhưng trước đó, anh ta đã chinh phục khá nhiều ngọn núi tên tuổi trên thế giới, nên trong giới leo núi trong nước cũng có chút tiếng tăm. Qua việc điều tra các thông tin về anh ta, cho thấy anh ta chủ yếu dốc sức vào việc quản lý doanh nghiệp và môn thể thao leo núi, chắc không có mục đích và mưu đồ đặc biệt gì đối với Bạc Ba La thần miếu đâu, anh ta giống như những chủ doanh nghiệp và những người đam mê mạo hiểm bình thường khác. Hiện tại cậu có dự định gì chưa?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tương đối vướng tay vướng chân, anh ta mang chiếc gương về nước, xoay xở biến nó thành di sản tổ tiên để lại, hiện nay quy định của pháp luật về bảo vệ tài sản của công dân là rất chi tiết, theo luật mà nói, nó thuộc về sở hữu của cá nhân anh ta, có lấy danh nghĩa nhà nước mà trưng dụng, cũng phải được anh ta đồng ý. Còn nữa, thông qua lời nói của anh ta thì không khó để khẳng định, anh ta quyết tâm đi cùng chúng ta cho kỳ được mới thôi.”

Đường Mẫn nói: “Tại sao lại không thể cho anh ta đi cùng?”

Nhạc Dương cũng sáng mắt lên, nói: “Đúng vậy, anh ta còn đồng ý hỗ trợ chúng ta về mặt tài chính nữa.”

Trác Mộc Cường Ba trầm ngầm, liếc nhìn hai người, nói: “Không được, anh ta chưa trải qua một khóa huấn luyện chính quy nào, chấp thuận cho anh ta đi chẳng khác nào đưa anh ta vào chỗ chết, chúng ta có thể làm thế được sao?”

Nhạc Dương lập tức suy nghĩ miên man, nói: “Có thể huấn luyện đặc biệt cho anh ta! Dù sao thì chúng ta...”

“Khụ!” trên màn hình máy tính giáo sư Phương Tân ho khan một tiếng, Nhạc Dương liền lập tức im bặt, giáo sư Phương Tân nói: “Như vậy được rồi, chuyện này, để chúng tôi tự xử lý, tạm thời anh không cần quan tâm.”

Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc nhìn mấy người xung quanh, thấy hành động của Mẫn Mẫn và Nhạc Dương có chút gì đó không bình thường, họ hình như có điều gì muốn giấu diếm gã.

Lúc này, Ba Tang lạnh lùng nói: “Nếu mà không được, thì giết chết hắn đi.”

“Không được!” Trác Mộc Cường Ba lập tức ngăn chặn suy nghĩ cực đoan của Ba Tang, nói: “Mặc dù khi ở rừng nhiệt đới Nam Mỹ và Đảo Huyền Không tự, chúng ta sử dụng vũ khí để chống lại kẻ địch, nhưng đó chỉ là bất đắc dĩ mới phải tự vệ, chúng ta đâu phải những phần tử khủng bố, sao lại có thể làm những chuyện vi phạm pháp luật được. Chúng ta không phải đang tham gia chiến tranh, Ba Tang, không thể hơi một tý là đem bạo lực ra để giải quyết vấn đề.”

Ba Tang dang tay ra, biểu hiện sự bất lực.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Hiện giờ cái cần quan tâm nhất không phải chuyện chiếc gương đồng, mà là rốt cuộc thì tin tức từ đâu đã tiết lộ ra ngoài? Ngay cả người như Vương Hựu cũng biết chúng ta đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, nếu cứ tiếp tục như vậy, sợ rằng phiền phức đến với chúng ta càng ngày càng nhiều.”

Nhạc Dương nói: “Cường Ba thiếu gia, theo anh thì tên người Nga ấy phải chăng đã biết việc chúng ta đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, nên mới cố tình lên giá?”

Đường Mẫn sợ hãi thốt lên: “Không lan truyền xa đến vậy đâu!”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Đúng hay không, đợi đến khi ông ta gọi điện là biết ngay.”

Ngày thứ hai, quả nhiên người Nga kia gọi điện hỏi xem họ đã chuẩn bị được đến đâu rồi, Nhạc Dương làm như Trác Mộc Cường Ba đã dặn, khéo léo cự tuyệt đối phương, Ba Tang thì phiên dịch, tỏ ra họ đã không còn cần đến những tấm bản đồ ấy nữa rồi, kết quả là người kia vừa mới nghe đã lập tức nóng nảy, chất vấn họ sao lại lật lọng như thế, Nhạc Dương tỏ ra rất khéo léo mà lịch sự trả lời rằng, là do ông ta lật lọng trước đấy chứ, bất quá chúng tôi làm thế là có đi có lại. Đối phương không cam lòng mà tiếp tục dò hỏi, liệu họ có thể tiếp tục thương lượng giá cả được không, Nhạc Dương bèn lợi dụng ngay cơ hội đó để ép giá, sau một hồi thương lượng, cuối cùng cũng ngã ngũ, so với giá trước đây đã thống nhất, giờ chỉ còn sáu mươi phần trăm.

Khi Ba Tang kết thúc cuộc gọi, Nhạc Dương mừng đến mức không chịu nổi, hỏi ngay: “Cường Ba thiếu gia, anh nói thật đi, làm sao anh biết hắn sẽ chấp nhận giá rẻ?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Động não chút đi, anh lính điều tra, cậu còn nhớ khi chúng ta gặp nhau lần đầu không, trên xe lửa ấy, chẳng phải lúc đó cậu đã vận dụng trí óc sắc sảo và sự quan sát hơn người để bắt tên ăn trộm kia sao? Đúng là chuyện này nói trắng ra thì rất đơn giản, các cậu lần trước gấp rút đến nước Nga, mà người quản lý hồ sơ kia thì vẫn còn chưa tin hẳn, ông ta cơ bản còn chưa ra tay sao chụp tài liệu, cho đến khi gặp mặt các cậu thấy được tài chính, mới khẳng định được là các cậu thực sự cần. Sau khi gặp các cậu, ông ta mới chính thức bắt đầu nghĩ cách sao chụp tài liệu, tuy nói rằng một phần tài liệu đã được dỡ bỏ lệnh cấm, nhưng muốn sao chép nó để mang ra ngoài thì đâu có phải chuyện đơn giản. Vì vậy, đối với các anh ông ta đưa ra giá cao hơn, làm vậy là có hai mục đích, thứ nhất, kéo dài thời gian, khiến các cậu phải loay hoay gặp khó khăn thì ông ta mới tranh thủ được thời gian để sao chép tài liệu được chứ; thứ hai, đánh giá tầm quan trọng của tài liệu đối với các cậu ra sao, nếu như các cậu quá nhiệt tình, thì ông ta sẽ dựa vào đó mà nâng giá lên. Hiện giờ ông ta gọi lại, tức là ông ta đã nắm trong tay tài liệu ấy rồi, nếu các cậu tỏ ra chẳng hề quan tâm đến nó, ông ta sẽ vô cùng sốt ruột, cái mớ tài liệu ấy nếu như các cậu không mua, thì chẳng khác nào một đống giấy vụn, không đáng một xu, vì thế, bất cứ chúng ta đưa giá bao nhiêu, chỉ cần đáng giá hơn giấy vụn, ông ta cũng vui vẻ mà chấp nhận.”

Nhạc Dương chợt hiểu ra, nói: “Nguyên do là như vậy, tôi vốn không nghĩ sự việc lại sâu xa như thế.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhìn sự việc, không thể chỉ dừng ở vẻ bề ngoài, mà phải đánh giá được những gì ẩn dấu sau vẻ bề ngoài ấy, hiểu không?” Thấy ánh mắt Nhạc Dương nhìn mình với vẻ sùng bái, Trác Mộc Cường Ba khẽ nhìn cái nút khởi động của máy vi tính, rồi thổ lộ chân tướng: “Đấy là lời thầy giáo nói.”

Nhạc Dương nói: “Xem ra, chúng tôi lại phải đi một chuyến nữa rồi...”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không, lần này thì cậu ở lại, tôi và Ba Tang sẽ đi.” Gã có cảm giác lúc này cả thể xác và tinh thần đều rất hưng phấn, nên muốn hoạt động cho giãn gân cốt. “Thương tích của tôi đã hồi phục, tôi muốn đích thân đi thu hồi những tấm bản đồ và tư liệu ấy.”

Nhạc Dương nói: “Còn tôi thì làm gì?”

Trác Mộc Cường Ba xoay người nói: “Tôi đi làm thủ tục xuất cảnh đây, cậu lo việc nghĩ cách đối phó với Vương Hựu!”

Nhạc Dương giật mình nói: “Đối phó bằng cách nào? Anh ta là đàn ông cơ mà! Cường Ba thiếu gia, tôi không đối phó nổi đâu! Chờ chút đi...”

Đường Mẫn thấy Trác Mộc Cường Ba đã hạ quyết tâm, biết là không thể ngăn cản, nhỏ giọng nói: “Em và Nhạc Dương về Lhasa trước chờ mọi người, anh phải cẩn thận đấy, chú ý an toàn nhé.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, anh đi vài ngày sẽ trở lại, tự chăm sóc mình tốt nhé, ngoan ngoãn vâng lời, đừng có chạy lung tung, biết không.”

40.4

Đêm Moscow



Mùa đông ở nước Nga vô cùng lạnh lẽo, nhưng khi quan sát những hàng bạch dương thẳng tắp đứng chỉnh tề bên cạnh sân bay quốc tế Sheremetyevo trong lòng Trác Mộc Cường Ba lại dâng lên một cảm giác bất khuất cảm hoài. Rảo bước trên đại lộ Smolenskaya, Trác Mộc Cường Ba thấy mình như đang bước chân trên núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc, tuy lâu rồi gã không hề ho khan và nhịp hô hấp vẫn đều đặn như mọi khi, nhưng hít thở trong môi trường không khí lạnh giá ở nơi đây dù sao vẫn cảm thấy có chút gì đó khác thường, như thể trong phổi đã mất đi một bộ phận nào đó. Trác Mộc Cường Ba không khỏi tự nhủ: “Lẽ nào là do cổ độc, là do nó gặp phải môi trường lạ nên phát tác?” Nhẩm tính thời gian, sinh mệnh gã chỉ còn chưa đầy mười tháng nữa.

Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang trú trong một khách sạn nhỏ, cùng người Nga kia ước định gặp mặt vào buổi chiều ngày hôm sau, do không quen thuộc địa hình, nên địa điểm gặp mặt sẽ do hai người bọn gã lựa chọn. Theo yêu cầu của đối phương, hai người chuẩn bị tìm một tòa nhà cao tầng để làm nơi giao dịch, ông ta nói như vậy sẽ tránh được bị người khác theo dõi, cũng không sợ bị mai phục. Tuy rằng Trác Mộc Cường Ba có chút chê cười đối phương quá đa nghi, nhưng cũng làm theo. Ba Tang thuật lại, người Nga ấy tên là Akhmentov(*), nhân viên của Cục Lưu trữ Tư liệu lịch sử quân sự Quốc gia Nga, rất đam mê cá cược môn đua ngựa, trước đây từng có người tố cáo ông ta do cá cược đua ngựa bị thua đã bán hồ sơ mật quốc gia, nhưng các cơ quan hữu quan của Nga không tìm thấy chứng cứ, chỉ kết luận là bị người khác cố ý hãm hại, nên vẫn được công tác trong cương vị người quản lý hồ sơ của Cục Lưu trữ Tư liệu lịch sử quân sự.
_________________
(*)Do hạn chế về phiên âm song ngữ Hán – Nga của người dịch, nên tất cả các tên người và địa danh trong mục này và các mục tương tự đều là tạm ước định, có thể sẽ không giống với bản dịch chính thức.
_________________

Trên đường đi, chẳng hiểu sao Trác Mộc Cường Ba lại nghĩ đến những lời cảnh báo của Lữ Cánh Nam nên gã dành thời gian chú ý quan sát nhất cử nhất động của Ba Tang, nhưng dường như Ba Tang hoàn toàn bình thường, cơ bản nhìn không ra bất cứ điều gì khả nghi. Mặc dù đôi mắt không không ngừng quan sát nhưng trong lòng Trác Mộc Cường Ba vẫn luôn xác định, tính Ba Tang chỉ là ít nói mình không nên vô cớ nghi ngờ người ta.

Sau một hồi tìm kiếm và hỏi thăm, họ chọn nóc một tòa nhà hai mươi tầng dựng ngay sát Quảng trường Đỏ gần một khu phố thương mại sầm uất. Tòa nhà được xây dựng theo kiểu truyền thống với kiến trúc hình khối chữ nhật. Sở dĩ hai người chọn nơi này là bởi vì nó nằm trong khu thương mại, hành lang và thang máy luôn có người ra vào, có thể thoải mái lên tầng thượng tòa nhà mà không làm người ta chú ý. Tầng dưới là một loạt các gian cửa hàng nhỏ, năm tầng trên là các văn phòng, bên ngoài cửa sổ chi chít từng dãy các dàn nóng điều hòa nhiệt độ xếp hàng từ dưới lên trên, ở giữa có một cầu thang thoát hiểm bằng sắt sơn xanh.

Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang dễ dàng thoải mái đi lên sân thượng, bốn góc sân thượng neo cột các quả bóng bơm khí hidro thật to trên dán đầy các biểu ngữ quảng cáo. Hai người đi lại trên đó quan sát mọi ngóc ngách, thấy các kiến trúc xung quanh cơ bản là thấp hơn, không ai có thể đứng ở các tòa nhà bên cạnh mà nhìn trộm. Nóc nhà hình chữ nhật, có cạnh dài theo hướng Đông Tây, phía Đông tiếp giáp với đại lộ, phía Tây là khu dân cư, hai mặt Bắc Nam đều có các tòa nhà cao tầng cùng loại, cách xa hơn hai mươi mét, ở giữa khoảng cách đó là cửa hàng thương mại một tầng, cầu thang thoát hiểm phòng cháy ở ngay hướng chính Nam. Nhìn xa xa về hướng Nam tòa nhà thấy tầm nhìn trống trải, không khí trong lành, Trác Mộc Cường Ba thấy rất hài lòng với địa điểm giao dịch này. Gã cúi người xuống phía dưới, nhìn dãy điều hòa nhiệt độ chi chít bên ngoài cửa sổ các tầng đột nhiên trong lòng nảy sinh một cảm giác rung động rất mạnh mẽ, chỉ muốn nhảy xuống dưới, gã hiểu, chí ít cũng có năm cách có thể nhanh chóng xuống phía dưới mà không cần dùng cầu thang chính, thế nhưng tại sao bản thân gã lại có cảm giác xung động này thì Trác Mộc Cường Ba lại không rõ. Ngay lúc này, trong lòng gã lại nảy sinh cảm giác bị người ta nhìn trộm, mà trên sân thượng tòa nhà ngoại trừ gã và Ba Tang thì đâu có người thứ ba nào khác. Gã cố trấn tĩnh lại đôi chút, ánh mắt lóe lên nhìn về phía Ba Tang, chỉ thấy Ba Tang cũng đang từ sân thượng cúi người ngó xuống, không có cử động nào bất thường, cảm giác bị nhìn trộm trong lòng Trác Mộc Cường Ba liền tiêu tan, thầm nghĩ: “Chẳng lẽ là ảo giác?”

Hai người quan sát toàn bộ cảnh vật xung quanh, rồi quyết định chọn nơi này làm địa điểm giao dịch với Akhmentov. Sau đó hai người đi xuống, nhân tiện rẽ qua đại lộ Kalinin tìm mua một số đồ dùng thiết yếu. Ba Tang chọn mua cho mình và Trác Mộc Cường Ba mỗi người một con dao găm phỏng theo dao quân dụng của quân đội Nga, nói là để đề phòng bất trắc. Trác Mộc Cường Ba vốn định nhắc nhở Ba Tang, cái này trước sau không có khả năng mang về nước, mua cũng vô dụng nhưng xem nét mặt Ba Tang thấy không thể ngăn cản được nên đành chấp nhận. Gã cảm thấy, với Ba Tang thì ở đâu cũng là chiến trường, lúc nào cũng như chiến tranh.

Từ đại lộ Kalinin đi ra, hai người đã phủ lên mình một màu đen kịt của chiếc áo da lót lông lưng thắt chiếc thắt lưng chế theo kiểu quân dụng. Gương mặt lạnh lùng và dáng vẻ coi khinh cái chết biểu lộ trong ánh mắt họ khiến nhiều người đi đường phải lấm lét nhìn ngó. Trên đường về, họ thấy một đám thanh niên xúm quanh một chiếc cột đèn, ở giữa có một người hai tay nắm chặt cột đèn, thân thể dang ra song song với mặt đất tựa như một lá cờ tung bay trước gió khiến mọi người qua đường đều vây quanh để xem. Những người đi đường đều mặc đủ loại áo rét dầy cộm, đám thanh niên kia lại chỉ mặc một một lớp quần áo thể thao mỏng manh, độ tuổi ước chừng mười bảy mười tám, xỏ khoen mũi khuyên tai, tóc xanh đỏ đủ các màu. “Họ đang làm cái gì ở đây thế? Biểu diễn trên phố à?” Ba Tang không nhịn được, dò hỏi.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không, có thể đấy là một môn thể thao phong trào kiểu mới giờ đang là mốt của đám thanh thiếu niên. Nghe nói có một môn thể thao kiểu parkour vốn bắt nguồn từ Pháp, có tác dụng tăng cường sức mạnh và rèn luyện sự thăng bằng của cơ thể, chẳng phải cũng tương tự một hạng mục chúng ta từng được huấn luyện hay sao?” Trác Mộc Cường Ba lơ đãng nhìn cơ thể đang nằm ngang giữa không trung của tên thanh niên, gã phát hiện tên ấy cũng đang nhìn gã chằm chằm, gặp ánh mắt của gã nhìn lại cậu nhóc liền vội lảng đi nhìn ra chỗ khác.

Lại thấy một cậu thiếu niên khác đạp hai bước chân chạy trên tấm cửa cuốn bằng thép đã kéo xuống của một cửa hàng bên cạnh đường, rồi xoay mình một cái trên không, vững vàng hạ xuống đất, mấy cậu thiếu niên hai bên trái phải cười to vỗ tay cổ vũ. Ba Tang nói: “Thực sự rất giống chúng ta.” Rồi anh ta quay đầu thoáng nhìn cánh cửa cuốn, thầm đánh giá bản thân mình có thể đạp được năm bước qua tầng thứ hai tới tận tầng thứ ba mới hết đà.

Trở lại khách sạn, hai người bàn bạc, để đề phòng bất trắc, khi có được tài liệu sẽ trực tiếp scan vào máy tính rồi đính kèm thư điện tử gửi qua mạng internet cho giáo sư sau đó đem thiêu hủy bản sao ngay tại chỗ. Một lát sau giáo sư Phương Tân gọi điện, báo cho họ biết Mẫn Mẫn, Nhạc Dương đã đến Lhasa, Lạt ma Á La sau khi biết chuyện về chiếc gương đồng cũng đang trên đường tới đó, chỉ là ngôi chùa nơi có tôn giáo của ông nằm ở nơi đường xá xa xôi, tàu xe bất tiện, có lẽ không thể tới được trong ngày một ngày hai. Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân nói chuyện một lúc về tình hình ở nước Nga, Mẫn Mẫn báo cho gã biết cô bình an... Tối đó tâm tư Trác Mộc Cường Ba mang nặng một bầu nhớ nhung mơ màng ngủ thiếp đi, đến nửa đêm, gã trằn trọc trên giường, mơ thấy Ba Tang tay cầm cây đao thép, hung dữ nhằm vào gã bổ tới, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên giật mình tỉnh giấc ngồi bật dậy, không thấy Ba Tang trong phòng, gã không khỏi có cảm giác sợ hãi.

Trác Mộc Cường Ba đứng dậy rời khỏi giường, không nhìn thấy quần áo của Ba Tang liền thầm nghĩ mình đã nghi ngờ vô cớ. Nhìn ra ngoài ban công thấy có một bóng người đang đứng, không phải Ba Tang thì còn ai vào đây nữa. Gã mặc quần áo vào rồi cũng đi ra theo, thấy Ba Tang ngẩng đang ngẩng đầu nhìn trăng, dáng vẻ cô đơn của anh ta như bị ánh trăng tạc thành một pho tượng. Anh mắt cao ngạo mà lạnh lùng ấy sao lại có vẻ rất quen thuộc, trong một khoảnh khắc, tựa như hình ảnh của vua sói già tái hiện, một lần nữa những ký ức lại trở về với Trác Mộc Cường Ba.

Cũng với ánh mắt đau buồn và thê lương ấy, nó lặng lẽ nhìn lại gia tộc bầy đàn mà bản thân nó đã từng thống lĩnh rồi cô độc mà rời đi, lê bước tập tễnh trên con đường gập ghềnh trên triền núi dốc đứng, bốn chân vua sói già run lên, nhưng với một quyết tâm mãnh liệt, nó vẫn cứ bước được một bước, lại trượt một bước gian khổ leo lên, bởi vì... nơi ấy là nơi kết thúc. Bất kỳ mỗi thế hệ nào của loài sói cũng đều cao ngạo mà lựa chọn mỏm núi kia, đấy là nơi cao nhất và hiểm trở nhất, có thể tiếp cận gần nhất với ánh trăng đang treo trên đỉnh núi.

Rốt cuộc, khi nó leo lên tới đỉnh núi thì cũng đúng vào lúc trăng tròn, nhìn ánh trăng trong bóng tối, nó phát ra một tiếng hú dài âm thanh vang dội. Âm thanh ấy vang vọng qua các mỏm núi, thê lương mà buồn đau. Vua sói già đang kiệt sức cố gắng dùng chút sức lực cuối cùng trụ bám trên nham thạch cứng như sắt thép, thân thể đứng dựng lên như một pho tượng điêu khắc, ánh trăng bao bọc hoàn toàn quanh người nó tựa như nó là một bộ phận của ngọn núi, là một bộ phận của ánh trăng kia. Ngẩng đầu nhìn vào mặt trăng mà than khóc khi hấp hối, đó là tập tục đã truyền lại hàng nghìn hàng vạn năm của loài sói, mỗi thế hệ chó sói đều lựa chọn phương thức ra đi này, đứng ở nơi trước kia nó đã từng gào thét vang vọng cả núi rừng, đứng ở nơi nó đã từng thống lĩnh bầy đàn. Khi ánh trăng lụi tàn, nó chậm rãi phủ phục mà nằm xuống, ngoảnh đầu hướng về phía bầy đàn, chậm rãi rồi khép hai mắt lại.

Ba Tang cắt đứt luồng hồi ức của Trác Mộc Cường Ba, giọng anh ta lạnh như băng tuyết đang phủ trắng khắp thành Moscow: “Sao thế, ngủ không được à?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, nửa đêm chợt tỉnh giấc.”

Ba Tang bỗng nhiên hỏi: “Cường Ba thiếu gia, theo cậu thì thế nào gọi là hạnh phúc?”

Trác Mộc Cường Ba cười nói: “Anh chọn nhầm người để hỏi rồi, với kinh nghiệm của bản thân tôi chỉ có thể nói với anh thế nào là bất hạnh thôi, hạnh phúc là cái gì..." Trác Mộc Cường Ba nhìn lên vầng trăng khuyết đang tỏa sáng, xa xa dưới ánh trăng bàng bạc mơ hồ là rừng cây bạch dương, cảm thán nói: “Có thể... xua đi những điều bất hạnh, như thế chẳng phải là hạnh phúc sao.”

“Sao, vứt bỏ những điều bất hạnh à.” Ba Tang vừa nhếch miệng cười cười, vừa quay đầu nhìn về phía vầng trăng khuyết, hình như ở một nơi nào đó, anh ta từng đã cảm nhận được niềm hạnh phúc. Hai tay Trác Mộc Cường Ba chống vào lan can ban công, cũng nhìn mông lung về phía ánh trăng một hồi lâu. Hai người vai kề vai cùng nhau trầm mặc, chỉ mãi nhìn sâu vào bầu trời đêm dưới ánh trăng suông bàng bạc.

Một lúc sau, Trác Mộc Cường Ba phá vỡ sự yên lặng, đột nhiên hỏi: “Ngày mai trời xuống tuyết sao?”

Ba Tang lắc đầu nói: “Không, ngày mai sẽ có ánh mặt trời.”

Mắt Trác Mộc Cường Ba hơi nhắm lại, mơ màng tưởng tượng sự ấm áp mà ánh mặt trời sẽ mang lại, nghĩ thầm: “Có thể đó cũng là một niềm hạnh phúc.”

Lại im lặng một hồi lâu, Trác Mộc Cường Ba tiếp tục một lần nữa phá tan sự im lặng ấy: “Ba Tang...”

“Ừm?”

“Anh..., có thật là anh tới giúp đỡ tôi chỉ là để báo đáp ân tình của gia đình tôi với anh trai của anh? Hay còn có nguyên nhân nào khác nữa?”

“Nguyên nhân khác là nguyên nhân gì?”

“Chẳng hạn như có người nào đó trả thù lao cho anh để anh đi theo tôi rồi đem tình hình của chúng tôi mà báo lại cho hắn.”

“Nếu như tôi trả lời rằng có thì cậu tính thế nào?” Tiếng Ba Tang xơ xác tiêu điều như cơn gió lạnh đang ve vuốt hai người, anh ta quay đầu lại, nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt rực lên như mắt sói.

Trác Mộc Cường Ba cũng điềm tĩnh hướng ánh mắt lạnh lùng của mình về phía Ba Tang, hai người tựa như hai con sói đang nhìn nhau vậy. Gã nhẹ nhàng nói: “Tôi không biết.” Rồi ngoảnh mặt về phía vầng trăng, thở dài: “Nói thật, nếu thực sự có chuyện đó tôi còn chưa nghĩ ra nên giải quyết như thế nào. Chỉ là vấn đề này cứ dày vò mãi trong lòng tôi bấy lâu nay, nên mới tôi phải hỏi anh, tôi không hy vọng trong đội ngũ của chúng ta lại có người nào đó bán đứng bạn bè. Số phận đã đưa chúng ta lại với nhau, nên phải giúp đỡ lẫn nhau, dựa vào nhau mà sinh tồn để đi tới đích. Nếu người nào đó sinh lòng bội phản, tất nhiên vận mệnh của tất cả mọi người sẽ vô cùng đen tối. Tôi phải hoàn toàn tin tưởng vào các đội viên, các đội viên cũng nên hoàn toàn tin cậy tôi, chỉ như vậy đội của chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn, đạp bằng nguy hiểm, để đạt được mục đích.”

Gã lại quay đầu nhìn vào Ba Tang, âm điệu tĩnh lặng như nước mùa thu: “Thật ra từ lúc giáo quan Lữ Cánh Nam nghi ngờ trong số chúng ta có người nằm vùng mật báo tin tức cho đối phương thì tôi liền nghĩ ngay tới anh, thân phận của anh khá đặc biệt, hơn nữa, lần đầu tiên chúng tôi tìm đến anh, anh cũng không hề muốn hợp tác với tôi. Bình thường tính anh trầm mặc ít nói, luôn luôn lặng lẽ một mình, người duy nhất có thể trao đổi với anh là đội trưởng Hồ Dương. Tôi nghĩ, giáo quan chỉ coi trọng việc huấn luyện anh phương pháp nhìn trời mà đánh giá thời tiết chứ không huấn luyện hạng mục nào khác, cũng là do cân nhắc đến những nguyên nhân này. Nhưng đội ngũ không thể không có anh, nhớ lại khi ở Đảo Huyền Không tự, nếu không có sự phản ứng kịp thời của anh, sự sống chết của thầy giáo và Mẫn Mẫn thật khó mà biết được, chúng tôi rất cần sự hỗ trợ của anh. Vì vậy tôi hy vọng anh có thể thành thật trả lời tôi, rốt cuộc là có hay không làm chuyện có lỗi với mọi người?”

Nghe Trác Mộc Cường Ba nói, trên khuôn mặt vốn đang lạnh lùng của Ba Tang nở ra một nụ cười khẩy, khóe miệng mấp máy như đang chuẩn bị nói ra một điều gì đó, nhưng lại cố kiềm chế được, anh ta trầm mặc, cắn chặt răng, như đang đấu tranh tư tưởng rất mãnh liệt. Cuối cùng sự hung ác như lang sói trong ánh mắt anh ta chạm phải ánh mắt trong suốt như nước suối của Trác Mộc Cường Ba đã dần dần bị tiêu tan như tuyết gặp ánh nắng mùa hè.

“Tôi không có!” Ba Tang thốt lên, rồi nói tiếp: “Thật ra lần kia tôi...”

Trác Mộc Cường Ba ngắt lời: “Thế là đủ rồi!” Gã đặt hai cánh tay rắn chắc và mạnh mẽ của mình lên vai Ba Tang, kiên định nói: “Tôi tin tưởng anh.”

Ba Tang mang một bầu tâm sự ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy trong đôi con ngươi đen láy của Trác Mộc Cường Ba đang phản chiếu một vầng trăng sáng, trong lòng xuất hiện một cảm giác không thể giải thích nổi. Khi Cường Ba thiếu gia nói ra bốn chữ này, tức là bản thân anh ta đã từng làm việc gì, có thể bao gồm luôn cả việc trước đây anh ta đã từng nghĩ tới cái gì, đều không quan trọng. Đây là bao dung, là tín nhiệm, tuyệt đối tín nhiệm, khi anh ta chưa tìm được anh trai của mình, sự tín nhiệm ấy chỉ tồn tại trong đội Nhện xanh khi xưa, anh ta gọi những đồng đội ấy là... chiến hữu. Mọi người vì có cùng cảnh ngộ mà tập hợp lại với nhau, chỉ có ở những nơi chiến trường, trải qua những cuộc chiến đấu sinh tử, mới có thể hình thành nên sự tín nhiệm ấy. Anh ta vốn đã nghĩ, sự hỗ trợ cứu giúp nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn giữa chiến hữu với nhau đã không còn nữa, nó đã tiêu tan khi những đồng đội thực sự của anh ta đã toàn bộ tử vong ở nơi ấy. Mà nay, với một câu nói của Trác Mộc Cường Ba, lần thứ hai anh ta cảm thấy mình đã tìm lại được một đội ngũ mới... có được những chiến hữu mới, kề vai sát cánh bên cạnh mình, khi mình bị thương sẽ có người không quản ngại sống chết hy sinh bản thân ngăn cản tên bay đạn lạc, khi mệt mỏi, sẽ có người chăm sóc xua đuổi dã thú độc trùng, không còn phải lo sợ nguy hiểm có thể xảy ra, có thể an lòng mà ngủ say mỗi khi đêm về. Hóa ra, được người khác tin tưởng, được tin tưởng người khác cũng là một niềm hạnh phúc.

Trác Mộc Cường Ba cũng như trút bỏ được gánh nặng. Trong mắt gã, trong giọng nói của gã không còn bất cứ một chút ngờ vực nào nữa: “Không cần giải thích gì cả, câu trả lời vừa rồi của anh là quá đủ rồi. À, đã biết anh không phải kẻ nằm vùng của đối phương, tâm trạng tôi cũng thấy tốt hơn. Ồ, còn lâu mới hừng đông, chúng ta đi ngủ thêm một lúc nữa, ngày mai nếu lấy được tài liệu thì về nước luôn.”

Nhìn bộ dạng vô tư thoải mái của Trác Mộc Cường Ba , Ba Tang không khỏi mỉm cười nói: “...Tựa như bò Yak trên núi tuyết.”

“Sao cơ?”

“Tôi muốn nói rằng, sao cậu lại trực tiếp hỏi thẳng tôi những vấn đề ấy nhỉ, nếu tôi thực sự là kẻ nằm vùng của đối phương, chẳng nhẽ tôi thành thật mà trả lời cậu sao? Nói không chừng, khi nghe những lời của cậu tôi còn nổi lên ý định muốn giết người nữa đấy.”

“Ha ha, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình mười phần thông minh, có lẽ sẽ làm hỏng bét mọi chuyện, nhưng trước nay tính tôi vốn kiên trì, cũng luôn luôn vững niềm tin.” Trác Mộc Cường Ba đã bước tới cửa phòng, quay đầu lại nói: “Anh cũng phải tin tưởng mọi người, bất cứ lúc nào chúng ta cũng là một đội ngũ. Biết Bộc Tồn Hân không? Ông ấy từng nói, tâm hồn mỗi con người đều như khung cửa sổ, phải mở cánh cửa đó ra ánh mặt trời mới chiếu vào sưởi ấm được.”

Nhìn bóng lưng to lớn của Trác Mộc Cường Ba khuất sau khung cửa, hai bàn tay đang nắm chặt của Ba Tang mới từ từ giãn ra, rồi bàn tay trái lại ôm lấy bàn tay phải, một âm thanh từ tận đáy lòng vang lên, sau đó dần dần xâm chiếm toàn bộ tâm tư “Tôi tin tưởng anh! Tôi tin tưởng anh! Tôi tin tưởng anh!...” Ba Tang thì thầm: “Cường Ba thiếu gia...”

Buổi chiều ngày hôm sau, họ đến sân thượng tòa cao ốc trung tâm thương mại chờ Akhmentov. Ông ta đến rất đúng hẹn, đó là một người Nga cao 1 mét 9, tóc vàng đã lốm đốm những sợ bạc, có bộ mặt dài như cú vọ được bảo dưỡng khá chu đáo, trắng trẻo hồng hào như làn da của một vị phu nhân, cũng rất giống những vị tiên hạc phát đồng nhan trong thần thoại Trung Quốc.

Nách Akhmentov kẹp một chồng báo, tay cầm gói công văn, vừa lên đến nóc tòa nhà đã nhìn chằm chằm vào cái gói bọc giấy trong tay Ba Tang, ông ta hiểu đó là một tập tiền lớn. Trác Mộc Cường Ba nói: “Ngài Akhmentov quả thật rất đúng hẹn.” Ba Tang phiên dịch lại.

Akhmentov đảo mắt nhìn bốn phía xung quanh, khi đã chắc chắn rằng không có mai phục mới nhìn hai người đối diện cuộn mình trong bộ áo da màu đen, khẳng định đúng là người cần gặp, rồi nói nửa đùa nửa thật: “Nếu như không nhận ra mặt hai vị, tôi còn tưởng rằng mình đang giao dịch với mafia.” Nhưng Ba Tang lại không giận cũng không cười, thái độ đó khiến Akhmentov lạnh người nghĩ thầm, có chắc họ không phải mafia không nhỉ.

Ba Tang mở gói giấy ra, bên trong đặt ngăn nắp những tập giấy bạc, rồi nói: “Tiền đây rồi, còn hàng đâu?”

Akhmentov giơ gói công văn ra. Ngay lúc đó, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang liền cùng lúc tỏ thái độ cảnh giác. Rồi có ai đó ở phía sau họ dùng tiếng Nga kêu lên: “Đừng nhúc nhích!” Akhmentov biến sắc, hai tay từ từ giơ lên, người nọ lặp lại một tiếng: “Đứng yên, tôi nói là không được cử động!” Akhmentov quay về phía hai người bọn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Các người bán đứng tôi!”

Ba Tang nói: “Thằng khốn, chúng tao đến đây mới được một ngày đêm, rõ ràng mày đã bị người ta theo dõi! Cái thằng đần độn này!”

Trác Mộc Cường Ba thì đang suy nghĩ, sân thượng tòa nhà vốn là không có ai cả, khi đến đây họ đã kiểm tra rất kỹ càng, người nọ chắc hẳn đã trèo tường lên đây. Không đúng rồi, người nọ bỏ qua gã, hình như là muốn đi tới đoạt lấy vật trong tay của Akhmentov, như vậy là sao? Ồ, cái mái tóc đỏ này, hôm qua mình đã gặp trên phố! Là một tên trong bọn thiếu niên chơi môn parkour!”

Ba Tang vẫn quan sát nhất cử nhất động của tên thiếu niên tóc đỏ. Tên nhóc tay lăm lăm một khẩu súng ngắn cỡ nòng rất lớn, từng bước từng bước tiến tới chỗ Akhmentov, miệng không ngừng ra lệnh Akhmentov không được nhúc nhích, còn nói thêm những câu uy hiếp dọa dẫm. Ba Tang nghĩ, xem động tác của tên nhóc này chắc là một tay mới, là lần đầu tiên tập tọe dùng súng uy hiếp người khác sao? Hắn đang cầm khẩu súng loại gì nhỉ? Là súng tự lắp ráp à? Trông nó còn to hơn loại Desert Eagle của Bỉ, chắc là rất nặng, thế nhưng hắn...

“Khẩu súng là giả! Là súng đồ chơi!" Ba Tang dùng tiếng Nga cảnh báo Akhmentov, nhưng lúc này tên thiếu niên đã tới sát chỗ Akhmentov, giật gói công văn, quay người bỏ chạy, cùng lúc vứt khẩu súng đồ chơi về phía hai người bọn Trác Mộc Cường Ba, sau đó không hướng về hành lang mà lại nhằm hướng lan can chạy tới. Ba Tang chợt giật mình hoảng hốt: “Thằng khốn, lẽ nào nó định nhảy xuống dưới sao? Nhưng đây là sân thượng tòa nhà hai mươi tầng cơ mà!”

Trác Mộc Cường Ba tỉnh táo hơn, gã có chút kiến thức về môn parkour, nguyên nó là một môn chạy vượt chướng ngại vật bắt nguồn từ Pháp, không sử dụng bất kỳ một công cụ nào, chỉ sử dụng khả năng tự có của bản thân để vượt qua các vật cản, sau đó được phát triển thành môn thể thao cực hạn được rất nhiều thanh thiếu niên ưa thích, rất giống với môn khinh công bích hổ du tường của người Trung Quốc, có thể chạy trên bức tường của các hành lang trong đô thị nhanh như giẫm trên đất bằng. Gã lớn tiếng hô: “Đuổi theo nó! Là vận động viên chạy vượt chướng ngại vật, chúng rất giỏi leo tường và thoát khỏi nhà cao tầng.”

[Thuộc mục 40.5]
Cậu bé tóc đỏ kia sau khi cướp được túi tài liệu, thoạt nhìn thì có vẻ như đang chuẩn bị lấy đà để nhảy ra khỏi lan can sân thượng, nhưng trong thực tế cậu ta lại hết sức khéo léo xoay người bám một tay vào lan can, tay kia đưa bao công văn lên miệng ngậm chặt lại, nhìn chính xác phương hướng rồi nhẹ nhàng thả tay rơi xuống tầng dưới. Lúc này Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang chỉ vừa cất bước.

Hai người chạy tới mép sân thượng nhìn xuống chỉ thấy cậu bé tóc đỏ đã xuống được năm tầng, hai tay bám vào rìa cửa sổ, hai chân ép sát trên tường, thân thể đung đưa khe khẽ như một con khỉ đang bám trên cành cây, rồi nhẹ nhàng buông tay khiến cả cơ thể rơi xuống, đoạn lại chộp một cái, cả người đã bám sát vào bệ cửa sổ của tầng dưới, Ba Tang nói: “Nhanh thật!”

40.5

Đuổi bắt trong thành phố


[Do mục này dài quá nên một đoạn ngắn ở phần đầu bị dời lên cuối mục 40.4 - phiền các bạn cuộn lên một chút]
Trác Mộc Cường Ba nói: “Giờ đang là mùa đông, các cửa sổ đều đóng kín, nó không có khả năng đào thoát theo lối ấy, chẳng lẽ chúng ta lại không đuổi kịp được nó hay sao?”

Ba Tang “Hừ” một tiếng trong cổ họng, quăng bọc tiền xuống đất rồi chống tay vào lan can sân thượng tung mình nhảy xuống, chỉ nghe “keng” một tiếng đã đặt chân chính xác trên dàn nóng của một trong những chiếc điều hòa chi chít ở tầng dưới, rồi hướng về bên trái men theo dãy điều hòa mà nhảy xuống.

Trác Mộc Cường Ba đứng ở trên quan sát, thấy rằng so với thiếu niên kia tuy Ba Tang có nhanh hơn song cũng không được bao nhiêu, cứ với tốc độ như vậy thì sẽ để cậu bé tóc đỏ kia chạy thoát. Gã ngẩng đầu nhìn lên, thấy hai bên sân thượng có các quả bóng hydro trên có đính băng rôn quảng cáo rủ xuống, liền không chút nghĩ ngợi quấn băng rôn quảng cáo vào một tay còn tay kia rút dao ra, đạp lên mặt tường mà chạy thẳng xuống.

Akhmentov vốn đã bị dọa cho sợ đến mức thở hổn hển như trâu, ngẩn ra nhìn ba người nối tiếp nhau nhảy ra khỏi lan can. Sau đó ông ta bình tĩnh lại, mắt sáng lên, “A, bọn họ vứt lại bọc tiền ở đây”. Rồi cầm bọc tiền lên và lom khom nhặt nhạnh những tờ giấy bạc đang tung bay lả tả trên sân thượng, hướng về cửa thang máy mà đi xuống.

Trác Mộc Cường Ba lợi dụng sức kéo của quả bóng hydro lớn để giảm bớt trọng lực bản thân, cơ thể cứ theo phương vuông góc với mặt tường dựng đứng mà chạy, nhanh chóng vượt qua Ba Tang đang nhảy trên các dàn điều hòa, lao thẳng xuống phía dưới.

Cậu nhóc tóc đỏ nhảy xuống nóc khu nhà cửa hàng một tầng gần đó rồi cắm đầu chạy. Cậu ta chạy chưa được mười mét thì Trác Mộc Cường Ba cũng đã đáp xuống ngay tại chỗ của cậu ta vừa rồi. Gã buông tay thả quả bóng hydro ra, dùng toàn lực đuổi theo. Nghe âm thanh vang lên ở đằng sau, cậu nhóc tóc đỏ dĩ nhiên không ngờ người ta lại nhanh chóng đuổi đến như vậy nên không khỏi giật mình kinh sợ, bất giác quay đầu nhìn lại. Khi cậu ta nhìn xuống dưới chân Trác Mộc Cường Ba, ngay lập tức trên môi nở một nụ cười nhạt, giày da! Thời tiết ở Moscow vốn rất lạnh nên Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đều đi dày da cao cổ bên trong có lót lông cho ấm, thứ giày này dùng để đá người thì còn được, chứ dùng để chạy thì thực sự không ổn cho lắm.

Tại nóc tòa nhà mái bằng, với thân thể cao lớn của Trác Mộc Cường Ba, gã nhanh chóng thu hẹp cự ly, thế nhưng khi gã sắp tóm được cậu nhóc tóc đỏ thì cậu ta đột nhiên ném gói tài liệu về phía Đông còn bản thân thì chạy ngược sang hướng Bắc. Ở phía Đông đã sớm có một cậu nhóc tóc xanh tiếp ứng, cậu ta nhét gói tài liệu vào chiếc túi vải đang khoác trên lưng rồi chạy rẽ sang hướng khác so với cậu nhóc tóc đỏ. Trác Mộc Cường Ba đành phải buông bỏ cậu nhóc tóc đỏ mà chuyển sang đuổi theo cậu nhóc tóc xanh khoác ba lô.

So với cậu nhóc tóc đỏ, vóc người của cậu nhóc tóc xanh này gày gò bé nhỏ hơn, quần áo mỏng manh hơn nhưng động tác lại cực kỳ nhanh nhẹn. Cậu ta nhanh chóng vượt qua chiều dài của khu cửa hàng một tầng. Nằm giữa khu cửa hàng này và tòa cao ốc hai mươi tầng trước mặt là một ngõ nhỏ rộng độ năm mét, cậu nhóc tóc xanh kia không hề ngừng lại, từ rìa nóc nhà nhảy qua khoảng cách năm mét của con hẻm, đáp xuống một bồn hoa vươn ra trên mái tầng một của tòa cao ốc, rồi dọc theo cái hành lang bồn hoa đó mà tiếp tục chạy trốn. Trác Mộc Cường Ba cũng nhảy qua con hẻm đuổi theo. Ba Tang bám sát phía sau.

Phía trước hành lang có một bức tường vây cao khoảng ba mét chia dãy bồn hoa thành hai khu vực, chân cậu nhóc tóc xanh đạp đạp hai bước lên mặt tường, tay trái quờ quạng vịn được vào đầu tường rồi tay phải theo đó bám vào nốt, cơ thể trầm xuống, hai tay ra sức kéo cùng lúc hai chân đẩy mạnh, toàn bộ cơ thể liền vọt sang phần bên kia của bồn hoa, nhẹ nhàng như không. Trác Mộc Cường Ba đuổi đến chỗ bức tường, cũng đạp đạp hai bước lên mặt tường định học theo cách đó mà vượt qua, nhưng “xoẹt” một cái, cơ thể không khống chế được liền trượt dài, đầu va một cái vào tường, nhất thời kêu lên một tiếng, lúc này gã mới nhận thấy mình đang đi dày da cao cổ, khả năng bám và tính đàn hồi của nó rất kém. Ba Tang chạy tới, cũng không hề dừng lại, chỉ khi băng qua chỗ Trác Mộc Cường Ba mới nói một câu “Cẩn thận một chút.” Anh ta chạy trên mặt tường dọc theo tòa nhà, đạp hai chân một cái, một tay chống lên mặt tường, mượn đà đẩy mạnh, thân thể lộn một vòng như con quay theo phương tiếp tuyến với mặt tường, thoáng chốc đã đứng vững ở nửa bồn hoa bên kia.

Trác Mộc Cường Ba cau mày gõ lên trán một cái, tự mắng mình: “Ngu ngốc.” Rồi cũng theo cách của Ba Tang chạy dọc theo tường cao ốc mượn đà mà vượt qua bức tường vây chắn ngang.

Bên ngoài nóc tầng một của các tòa cao ốc thương mại ở khu này đều có xây dựng một dãy các bồn hoa rộng chừng một mét theo như quy hoạch kiến trúc. Trên đó gắn các biển quảng cáo, bố trí đèn chiếu cùng các vật trang trí và các thứ dụng cụ linh tinh khác. Cậu nhóc tóc xanh kia luồn lách giữa các chướng ngại vật, thân thể trơn tuột như người cá khiến Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang phải truy đuổi hết sức khó khăn, chạy, nhảy, xê dịch liên tục, giở hết các thủ đoạn và khả năng ứng biến ra mới có thể vượt các chướng ngại vật đó mà không làm ảnh hưởng tới tốc độ đuổi bắt.

Phía trước dãy bồn hoa xuất hiện một đoạn hụt vào khá rộng kích thước cỡ một biển quảng cáo thật lớn. Chắc đây là nơi trước kia đã từng có một biển quảng cáo khổng lồ được gắn vào nên bồn hoa đã bị xây thụt vào một khoảng lớn, chỉ còn chừa lại một rìa mỏng rộng chưa tới mười phân ở sát mép tường. Chỗ hụt vào đó rộng chừng sáu đến bảy mét, chạy nước rút trên đường bằng lấy đà để nhảy qua cơ hồ rất miễn cưỡng, khó có thể qua được. Theo sát cậu nhóc kia, Ba Tang không khỏi tò mò muốn xem cậu ta làm cách nào để vượt qua thử thách này, chỉ thấy cậu nhóc ấy tiến tới chỗ hổng mà không hề giảm tốc độ, chỉ có trọng tâm cơ thể đột nhiên hạ thấp, cuối cùng sử dụng cả hai chân hai tay bò ngang trên mặt đất, thoạt nhìn có chút giống một con khỉ đột đang chạy trốn. Ngay sau đó, trước tiên là tay trái chân phải, rồi tiếp đó là tay phải chân trái, một trước một sau bước lên, men theo mép rìa chưa đầy mười phân của bồn hoa mà di chuyển, tựa như một chú mèo linh hoạt nhảy tót sang phần kia của bồn hoa.

Miêu bộ! Ba Tang ngẩn người, cũng men theo mép bồn hoa chưa đầy mười phân mà chạy sang, nhưng anh ta không thể thực hiện các động tác như cậu nhóc vốn dùng miêu bộ được, chạy được bảy tám bước, chưa được một nửa khoảng cách, cơ thể liền mất thăng bằng rơi xuống. May mà hai tay ôm vững được vào gờ mép rìa, đành phải dùng tay đu bám mà leo sang, tốc độ không khỏi có phần chậm chạm.

Lúc này Trác Mộc Cường Ba đang ở phía sau hai người, ngay khi cậu nhóc kia bắt đầu dùng miêu bộ vượt qua mép bồn hoa thì gã cũng đang phân vân tự hỏi bản thân làm cách nào có thể vượt qua lỗ hổng. Chân đi dày da khiến sức bật giảm sút, hơn nữa trên đất bằng không có cần bật thì chạy lấy đà để nhảy cũng không vượt qua khoảng cách đó được, theo mép bồn hoa mà sang thì bản thân không thuần thục kỹ năng miêu bộ như cậu nhóc kia. Sau đó ánh mắt gã bắt gặp hộp quảng cáo đang treo trên đỉnh đầu, các xà đỡ hộp quảng cáo đó cũng tương đối thấp, từ mép khoảng hổng mượn đà mà nhảy chắc hẳn có thể với tới. Trác Mộc Cường Ba vừa chạy vừa tính toán thật chuẩn xác, cuối cùng, khi chạy tới đúng chỗ hổng thì đạp chân thật mạnh cả người vọt lên cao, hai tay nắm được xà thép đỡ biển quảng cáo, cơ thể theo quán tính chúi về phía trước, lúc này eo lưng và hai tay song song phát lực tựa như môn kéo xà đơn, đẩy mạnh thân thể về phía trước, đồng thời buông tay ra, toàn bộ người gã như bị nhổ bật về phía trước một cái thật mạnh, trên không trung lộn nhào hai vòng bảy trăm hai mươi độ; vững vàng lướt qua khoảng cách bảy mét của lỗ hổng. Trác Mộc Cường Ba đáp xuống, vừa tiếp tục chạy vừa nói với Ba Tang lúc này vẫn còn đang đu bám mép rìa mà leo sang ở phía sau: “Ba Tang, cố gắng lên nhé, chẳng lẽ hai người chúng ta rốt cuộc lại kém cỏi đến mức đuổi không kịp một thằng nhóc hay sao.”

Cậu nhóc tóc xanh cũng không ngờ tới sự thể lại diễn biến như vậy, vừa bỏ qua được một người liền có ngay một người khác bám theo, trong lòng không khỏi có phần e ngại thầm nghĩ hai người đàn ông áo đen kia rốt cuộc là ai, quý ngài đã thuê bọn mình làm cái việc cướp đoạt này không hề cho biết hai người kia cũng là cao thủ môn về môn chạy nhảy vượt chướng ngại vật.

Lại nhảy qua một con hẻm rộng năm mét, phía trước thông thoáng không còn dãy bồn hoa nữa. Nếu phải nhảy xuống đường, rượt đuổi trên đại lộ bằng phẳng thì Trác Mộc Cường Ba chiếm ưu thế tuyệt đối. Cậu nhóc tóc xanh cũng chẳng tỏ ra lo lắng gì, tay tháo ba lô xuống quăng ra, liền đó trong tòa cao ốc đối diện bên kia đại lộ có một người mở cửa sổ vươn người ra tiếp nhận, cậu nhóc tóc xanh kêu to: “Ratko, đến lượt mày đấy!” Rồi nó nhảy xuống mặt đường sải chân bỏ chạy, nó biết, thể lực của nó đã tiêu hao khá nhiều trong hơn mười phút rượt đuổi vừa rồi, bây giờ là lúc để cho Ratko Carlins – đứa lợi hại nhất trong bọn trổ tài.

“Thằng khốn!” Ba Tang mắng to một tiếng, con đường này quá rộng, nhất thời không thể nhảy qua. Anh ta đang suy nghĩ đối sách thì thấy Trác Mộc Cường Ba ở phía trước đã không hề có chút đắn đo suy nghĩ nhảy sang một cái thật mạnh qua đoạn vỉa hè bên này, tay nắm được một thành xà ngang của một cây cột đèn, cong người lấy đà một cái, cơ thể lộn nhào trong không trung sáu bẩy vòng vượt qua sáu bảy mét khoảng không, sau đó vươn tay ra chộp được xà ngang của cột đèn bên kia đường, lại cong người lấy đà một cái nữa, cả người phá tung cửa sổ mà lao vào. Ba Tang trong lòng bừng tỉnh rồi cũng theo cách đó mà nhảy sang.

Cậu nhóc tóc xanh sợ hãi quay đầu nhìn lại vốn là định xem mình có bị đuổi theo hay không, nhưng khi thấy Trác Mộc Cường Ba hết lần này đến lần khác lộn nhào trên không trung, băng qua khoảng cách mà bản thân cậu ta không thể nhảy qua đó, trong lòng đột nhiên chấn động, tự hỏi đó là kỹ thuật gì vậy? Rồi lại thấy Ba Tang cũng theo cách đó mà nhảy sang, trong lòng cậu nhóc tóc xanh thậm chí dâng lên một cảm giác sùng bái: “Trời ạ, lẽ nào hai ông chú kia là người sáng lập môn chạy vượt chướng ngại vật này hay sao?" Cậu ta không biết rằng trên thực tế môn lăng không bắt vật rồi liên tục nhảy lên vốn là một môn hết sức nguy hiểm, chỉ cần sơ xuất một chút là sẽ rơi xuống, nếu không trải qua cả ngàn cả vạn lần luyện tập thì tuyệt đối không làm được. Sở dĩ hai người bọn Trác Mộc Cường Ba có thể vận dụng được như thế là do Lữ Cánh Nam đã theo phương pháp của các vận động viên thể thao mà huấn luyện kỹ xảo cho họ.

Cậu nhóc giữ ba lô kia đã nhanh chóng tiến tới cầu thang bộ và chạy lên trên, vẫn giữ được khoảng cách một tầng rưỡi cao độ so với Trác Mộc Cường Ba. Cậu ta đang tính toán, mười tầng cầu thang đầu tiên mình sẽ chiếm ưu thế, chắc hẳn có thể nhanh chóng kéo dãn khoảng cách; mười tầng cầu thang tiếp theo, hai bên tốc độ ngang nhau; mười tầng cầu thang cuối cùng, có lẽ hai người kia sẽ lợi thế, bất quá chỉ cần có thể duy trì tới khi lên được sân thượng, đó chính là môi trường thuận lợi của mình rồi.

Không ngờ, mới chạy được có năm tầng cầu thang, Trác Mộc Cường Ba đã chỉ cách cậu ta có một tầng thôi. Tiếp tục leo thêm chưa đầy năm tầng nữa bản thân ngoảnh đầu nhìn lại đã có thể trông thấy Trác Mộc Cường Ba toàn thân khoác bộ áo da đen kịt toát ra vẻ lạnh lùng và rắn chắc như được đúc bằng thép đang đuổi theo phía sau khiến cậu ta run lên vì sợ. Rồi tiếp đó không xa còn nghe thấy âm thanh của một người nữa đang bịch bịch bịch đạp chân trên các bậc cầu thang. Cậu nhóc giữ ba lô không khỏi luống cuống thầm nghĩ: “Thể lực của hai ông chú này tốt đến thế sao? Rốt cuộc gói tài liệu đang chứa vật gì nhỉ? Nếu sớm biết như thế này mình đã không chấp thuận đề nghị của ông kia với chỉ bấy nhiêu tiền.”

Trong lúc ấy Trác Mộc Cường Ba cũng đang quan sát cậu nhóc giữ ba lô, cậu nhóc cũng nhuộm tóc màu xanh, nhưng không phải xanh lá cây như cậu nhóc lúc nãy mà là xanh lam. Trác Mộc Cường Ba nhớ ra đây chính là thằng nhóc đã biểu diễn khả năng giữ thăng bằng trên cột đèn, hôm qua trên sân thượng đột nhiên gã có cảm giác bị người ta nhìn trộm... Lẽ nào bọn gã đã bị người ta theo dõi?

Leo thêm hai tầng cầu thang nữa, Ratko Carlins thấy tình thế không ổn liền bỏ không tiếp tục chạy theo cầu thang mà chuyển hướng về phía hành lang, tầng này vốn là khu chung cư. Cậu ta nhìn chính xác một căn hộ có bố trí cửa thông gió phía trên cao, rồi đột ngột đạp chân vào bức tường bên trái của hành lang, mượn lực nhảy sang tường bên phải, rồi đạp mạnh vào tường bên phải, nhảy sang tường bên trái, cứ như vậy ba lần độ cao được nâng dần lên. Hai chân cậu ta hướng về phía trước thuận thế nhảy trúng vào cửa sổ thông gió, cả người nhanh chóng lọt vào, động tác lưu loát tinh xảo như linh xà nhập động, khiến Trác Mộc Cường Ba không khỏi khen thầm.

Cửa sổ thông gió ấy quá nhỏ, Trác Mộc Cường Ba không thể chui lọt, nhưng gã tự có biện pháp, cửa phòng do gỗ ván ghép lại, đã sử dụng đã lâu ngày nên không rắn chắc lắm, gã xoay lưng lại nhằm thẳng cửa gỗ xô vào. Chỉ nghe “ầm” một tiếng, Trác Mộc Cường Ba đã có mặt trong phòng, lưu lại trên cánh cửa một lỗ thủng có hình dạng cỡ bản thân gã.

Trong phòng không có ai, cửa sổ mở toang, Trác Mộc Cường Ba thò đầu nhìn ra, thấy Ratko Carlins đã theo lối cửa sổ thoát ra bên ngoài, hiện đang leo lên trên. Trác Mộc Cường Ba leo ra đuổi theo.

Bên ngoài cửa sổ một căn hộ tại tầng thứ hai mươi hai của tòa nhà, Ratko Carlins treo mình trên khung cửa, vừa cặm cụi leo lên trên vừa nghĩ thầm: “Không thể đuổi kịp tôi đâu hai ông chú thân mến ạ, leo trèo vốn là sở trường và cũng là nghề nghiệp của tôi mà.” Nhưng khi quay đầu nhìn lại, cậu ta sợ đến nỗi suýt tuột tay ngã khỏi cửa sổ, hai ông chú kia, vẫn cứ không nhanh không chậm bám sát phía sau mà leo lên, tốc độ thậm chí còn nhanh hơn cả cậu ta, nhất là cái ông chú có vóc người cao lớn. Thật không tưởng tượng được, ông ta đang vận dụng lợi thế về độ dài của cánh tay, về chiều cao của cơ thể để nắm giữ các vật định vị nho nhỏ mà cậu ta vốn không ngờ tới, leo lên một cách rất nhẹ nhàng và linh hoạt tựa như một chú khỉ.

Lúc này những người đi đường ở bên dưới cũng đã chú ý tới ba người hai đen một trắng đang hối hả leo bám trên bức tường trơn tuột phẳng lỳ như gương của tòa cao ốc trông như những con nhện đang bò lên trên một cách vội vã. Rất nhiều người đứng lại để xem, có không ít người sợ hãi hô lên, có người còn rút điện thoại di động ra để chuẩn bị báo động. Một cậu bé sáu tuổi kéo tay mẹ chỉ lên tòa cao ốc nói: “Mẹ ơi! Nhìn này, người nhện, người nhện.”

Mẹ cậu bé tranh thủ hù dọa để giáo huấn: “Không, đấy không phải là người nhện. Đấy là những cậu bé không biết nghe lời cha mẹ, con không nên học tập bọn chúng, là do đọc những quyển truyện xấu mới chúng trở nên như vậy, mọi người không thích và không yêu quý những đứa trẻ hư hỏng ấy đâu con ạ.”

Ratko Carlins dĩ nhiên rất quen thuộc phương pháp leo trèo các tòa nhà cao tầng, đã có lúc Trác Mộc Cường Ba tới gần được cậu ta. Nhưng những lần như thế cậu ta đều nhanh nhẹn và khéo léo tách ra xa, lúc lên cao lúc xuống thấp, sau vài lần như vậy, cậu nhóc đã leo tới nóc nhà trước, Trác Mộc Cường Ba cũng theo lên. Ratko Carlin cấp tốc chạy trên mái nhà, kéo dãn khoảng cách với Trác Mộc Cường Ba rồi mượn đà nhảy sang nóc một tòa nhà khác. Cứ như vậy ba thân ảnh nhanh như tia chớp, mượn các tòa nhà cao thấp chằng chịt trong thành phố mà chơi trò cút bắt. Họ băng qua mái nhà này sang mái nhà khác, nhảy từ mái nhà vào cửa sổ, theo cầu thang hoặc leo tường mà lên mái nhà, rồi chạy từ mái nhà xuống hàng hiên, từ hàng hiên thoát ra cửa sổ hoặc ban công, rồi từ cửa sổ lên mái nhà, bất cứ trở ngại nào cũng đều không ngăn chặn được ba người bọn họ. Những nơi trong mắt người bình thường là chỗ hiểm yếu không thể vượt qua thì họ thấy nơi đó chẳng khác gì đất bằng. Đèn chùm, ống khói, xà thép, thang máy, hành lang, tất cả đều là công cụ của bọn họ, là điểm tựa hoàn hảo, để họ thể hiện khả năng chạy vượt chướng ngại vật cực hạn của mình. Cậu nhóc Ratko Carlins này quả là thông minh, dẻo dai và có kỹ xảo chạy nhảy vượt trội hơn hẳn so với hai cậu nhóc lúc trước. Mấy lần tưởng như chỉ cần với tay là tóm được cậu ta, nhưng đều bị cậu nhóc lần lượt dùng các kỹ xảo bất ngờ mà khéo léo thoát ra, khiến ngay cả người trầm tĩnh như Trác Mộc Cường Ba cũng phải điên tiết.

Sau một thời gian rượt đuổi, trước mặt họ là một khối nhà hình chữ “U”. Tòa nhà lớn ở giữa cao chừng bẩy mươi tầng, hai bên trái phải là hai tòa cao ốc như hai cánh tay đang vươn ra. Tòa nhà bên trái cao chừng bốn mươi tầng, tòa nhà bên phải cao khoảng ba mươi tầng, giữa hai “cánh tay” là khoảng không gian rộng cỡ trên ba mươi mét. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba đuổi theo Ratko Carlins từ hành lang bên phải của tòa cao ốc sáu mươi tầng bên cạnh rồi leo xuống nóc tòa nhà bên trái của khối nhà chữ “U”. Vẫn chưa thấy Ratko Carlin dừng lại, cậu ta còn ra vẻ chuẩn bị nhảy sang tòa nhà bên phải, Trác Mộc Cường Ba khi leo xuống cũng đã ước lượng được độ cao và cự ly giữa hai tòa nhà, trong lòng không khỏi nghi hoặc, lẽ nào cậu nhóc kia đang tính nhảy qua khoảng cách giữa hai tòa nhà? Chỉ có mười mét lợi thế về độ cao, nhưng lại phải vượt qua khoảng cách hơn ba mươi mét chiều rộng. Với cự ly đó, ngay cả Lạt ma Á La cũng đành bó tay thúc thủ không thực hiện nổi, cậu nhóc này làm được hay sao?

Thân thể cậu nhóc kia như một con phi ngư lao thẳng ra giữa khoảng không, ước chừng vượt ra xa được chưa đầy mười mét thì cơ thể đã rơi xuống thấp hơn nóc của tòa nhà đối diện rồi. Đột nhiên cậu ta nhanh chóng rút từ thắt lưng ra một mỏ neo được gắn với một cuộn dây cáp rồi ném mạnh mỏ neo một cái khiến sợi dây gắn vào nó tạo thành một hình vòng cung trong không gian, rồi mỏ neo móc một cách chính xác vào mép tòa nhà đối diện. Thân hình cậu nhóc đang lơ lửng rơi trên không trung đột ngột chững lại rồi theo đà chuyển hướng vọt ngang về phía tòa nhà bên phải. Trác Mộc Cường Ba không còn cách nào khác đành cấp tốc dừng lại ngay sát mép tòa nhà, ngẩn người nhìn tình huống phát sinh trước mắt mình. Lúc này Ba Tang cũng theo tới, căm tức nói: “Thắng khốn kia cũng biết làm thế cơ à, đấy vốn là kỹ năng ném dây móc của chúng ta mà...”

Một cách thuần thục, cậu nhóc kia đã leo lên được sân thượng tòa nhà đối diện ở bên phải tòa nhà chính, rồi quay về phía bọn Trác Mộc Cường Ba cười ha hả một cách càn rỡ, nói mấy câu tiếng Nga mà Trác Mộc Cường Ba nghe không hiểu. Phương pháp ném dây móc giữa không trung để vượt qua không gian có dạng vực sâu như thế vốn là tuyệt kỹ đã thành danh của cậu nhóc này, cậu ta học nó từ người vốn được mệnh danh là người nhện - Alan Robert. Với cự ly ngăn cách giữa hai tòa nhà trái phải, giờ đây bọn Trác Mộc Cường Ba muốn đuổi theo cậu nhóc thì trước hết phải xuống tầng dưới bằng cầu thang, sau đó theo tòa nhà chính ở giữa mà đi sang, vượt qua đoạn đường đó có nhanh cũng không dưới hai mươi phút, mà trong hai mươi phút thì cậu ta đã biến mất như bóng chim tăm cá. Nhìn vẻ mặt nhăn nhở của cậu nhóc trên sân thượng tòa nhà đối diện, Ba Tang bừng bừng lửa giận, còn Trác Mộc Cường Ba thì có vẻ tương đối bình tĩnh. Gã đang suy nghĩ, hiện giờ không có giầy hỗ trợ để tăng cường lực đàn hồi, không có điểm tựa để mượn lực, trong người cũng không mang theo dây móc, với khoảng cách xa như thế trực tiếp nhảy qua là không thể được. Theo cầu thang mà đi xuống phía dưới là hạ sách, tuyệt đối không thể thực hiện; tòa nhà hai bên đều có các cửa sổ khung kính, tuy có thể phá cửa chui vào song vẫn phải vượt qua hành lang, rồi tiếp theo phải xuống mười tầng cầu thang, chỉ cần cậu nhóc thoát khỏi tầm nhìn, tại thành phố đông đúc như thế này muốn tìm lại tung tích cậu ta đúng là việc cực kỳ xa vời. Tòa nhà chính ở giữa có hai biển quảng cáo treo rủ xuống từ mái nhà cách hai tòa nhà trái phải khoảng sáu, bảy mét, ở chính giữa có một huy hiệu bằng đồng lớn hình như là logo của công ty nằm ở độ cao của tầng ba mươi lăm, tuy nó có dạng hình tròn nhưng đường kính rộng tới hai mét độ cong không quá lớn hoàn toàn có khả năng đặt chân lên được, giờ vấn đề duy nhất là đôi giày của gã, không thể dùng nó đạp tường mà đi! Những biện pháp lần lượt hiện ra trong đầu Trác Mộc Cường Ba rồi lại bị chính gã phủ quyết, tuy chỉ trong nháy mắt, nhưng chí ít gã đã vạch ra năm sáu phương án khác nhau, hết lần này tới lần khác đều được điểm này thì lại mất điểm khác. Trác Mộc Cường Ba bực quá, muốn phát động tay chân để trút giận, gã nhằm vào cửa kính của một căn phòng trên tòa nhà chính nằm sát ngay tòa nhà bên trái, đá cho một nhát vỡ toang.

Cơ duyên xảo hợp, khi cửa kính bị đạp vỡ, Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên khi nhìn thấy trong phòng xếp chỉnh tề các chồng hộp giấy, tuy không đọc được chữ viết trên hộp nhưng nhìn hình vẽ và các kỹ hiệu thì gã có thể đoán được thứ gì đang chứa ở bên trong, hơn nữa Ba Tang ngay lập tức thốt lên: “Giày chuyên dùng cho vận động viên bóng rổ! Nhãn hiệu Adidas....” Dĩ nhiên đây là một kho hàng chứa giày, Trác Mộc Cường Ba tiện tay nhặt một hộp có cỡ giày phù hợp lên, lúc này Ratko Carlins đã giơ tay tỏ vẻ chào và hẹn gặp lại, sau đó xoay người chậm rãi rời đi, thực sự cậu ta cũng cảm thấy mệt mỏi sau cuộc rượt đuổi vừa rồi.

“Đợi đấy!” Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng thay vào đôi giày thể thao của vận động viên bóng rổ vốn có tính năng đàn hồi vô cùng tốt, hai chân chạy chạy khởi động, lúc này Ba Tang cũng đã thay giày xong, hỏi: “Liệu có thể nhảy qua được không?”

“Nhảy thì không qua được.” Trác Mộc Cường Ba thoáng quan sát lại một lần nữa hai tòa nhà hai bên và tòa nhà chính, sau đó xoay người chạy thử bốn năm bước, nhìn về phía cậu nhóc tóc xanh lam, rồi nói một cách tự tin: “Nhưng chạy thì hoàn toàn có thể.”

Lùi về phía sau hai mươi mét để chạy lấy đà và đạt gia tốc cần thiết trong chớp mắt, gã men theo mép tường mà khởi hành, thân thể nghiêng nghiêng trên mặt tường toàn lực chạy tới, xoẹt xoẹt xoẹt xoẹt, sau khi nhanh chóng vượt qua được khoảng cách bảy mét chiều ngang thì thân thể bắt đầu hết đà và sắp rơi xuống. Nhưng cánh tay dài của Trác Mộc Cường Ba đã kịp vươn ra nắm được vào một biểu ngữ quảng cáo treo thả trên tòa nhà chính, chân vẫn không ngừng chạy, tiếp tục đạp trên mặt tường dựng đứng mà di chuyển như một con ngựa đang phi nước đại nhanh chóng vượt qua đoạn đường hơn mười mét nhắm chuẩn vị trí chiếc logo bằng đồng treo giữa tòa nhà mà chạy chếch xuống. Khi đặt chân được lên tấm logo bằng đồng ấy, Trác Mộc Cường Ba cũng không hề dừng lại, không coi đó là điểm dừng chân mà chỉ dùng nó làm điểm tựa để mượn lực và ngăn cản sức rơi của cơ thể, rồi lại nhắm hướng bên phải đạp lên mặt tường mà tiếp tục chạy chếch xuống, khi cơ thể lại bắt đầu rơi thì tay đã nắm giữ được biểu ngữ quảng cáo lớn ở bên phải để chống lại trọng lực và lấy đà tiếp tục chạy trên mặt tường nhằm thẳng sân thượng tòa nhà bên phải trước mặt mà lao đi...

Những động tác của Trác Mộc Cường Ba liên tiếp đập vào mắt Ba Tang đang đứng quan sát khiến anh ta ngây người ra như kẻ si ngốc, tuy nói những động tác đó cơ bản là mình cũng được học qua và cũng thực hiện được nhưng với địa hình và hoàn cảnh như thế này, không có bất cứ điểm tựa nào có thể dừng chân thì... Ba Tang thoáng do dự rồi đành thở dài mà làm theo cách của Trác Mộc Cường Ba, đạp chân lên khung cửa sổ kính của tòa nhà chính để chạy sang.

Ratko Carlins một lần nữa quay đầu lại, cậu ta chợt ngẩn người ra. Vốn là trên nóc tòa cao ốc đối diện không còn thấy hình bóng hai ông chú đang đứng vò đầu bứt tai vô kế khả thi, mà chính tại lan can sân thượng tòa nhà cậu ta đang đứng có một ông chú đột nhiên xuất hiện như thể hồn ma bóng quế đang nhô đầu nhảy vào. Ông ta tới đây bằng cách nào? Ratko Carlins không thể tưởng tượng nổi và cũng không thể giải thích được, một cảm giác lạnh toát phát sinh từ xương sống rồi sau tỏa ra khắp toàn thân. Nhưng cậu ta không còn thời gian để suy nghĩ nữa, chỉ biết xoay người cắm đầu chạy trốn. Hai người lại tiếp tục “trò chơi” đuổi bắt trong thành phố với cự ly cách biệt là năm mươi mét, nhưng lần này tình thế đã hoàn toàn thay đổi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #linhpro