Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

hoa tulip den

HoaTuyLipDen

by Unknown

MỘT DÂN TỘC BIẾT ƠN

L

a Hay, một thành phố náo nhiệt, trắng toát, đỏm dáng đến mức người ta

ph ải nói rằng tất cả các ngày ởđây đều là ngày chủ nhật. Thành phố La Hay, với công viên râm mát, với những cây to nghiêng mình xuống các mái nhà kiểu gôtich, với những con kênh tựa những tấm gương lớn, trong đó phản chiếu những tháp chuông lớn kiểu đặc phương Đông. Thành phố La Hay, thủđô của Liên Bang bảy tỉnh, còn gọi là Hòa Lan, hômấy, ngày 20 tháng tám 1672, đường phố chật ních những người vội vã, hổn hển và lo âu: họ chạy; dao giắt thắt lưng, súng trên vai hoặc gậy cầm tay,đổ về Buyten­hôp, một nhà tù khiếp đảm, trong đó đang gi­am giữ ông Cooc­nây đơ Vit, là anh của người “được hưởng ân huệ bổng lộc lớn” của Hòa Lan. Về thời đó, nhất là vào cái năm chúng tôi bắt đầu kể câu chuyện dưới đây,lịch sử của nó gắn liền mật thiết với hai tên gọi chúng tôi vừa nêu; do đó, chúng tôi thấy cần phải viết thêm một vài dòng giải thích sau đây chỉ có thể coi như một câu chuyện ngoài lề mà thôi. Nhưng chúng tôi xin báo trước bạn đọc rằng cái điều cảnh báo ấy cũng cần thiết để hiểu rõ câu chuyện chúng tôi kể chẳng khác gì để hiểu biết sự kiện lịch sử to lớn xảy ra trong đó chuyện của chúng tôi đã được lồng vào. Cooc­nây hay Coonêli­uyt đơ Vit là thanh tra đê điều, cựu thị trưởng ở Đoocđret (thành phố quê hương của ông) và là nghị sĩ của nhà nước Hòa Lan, Ông 49 tuổi, khi nhân dân Hòa Lan đã thấy chán nản nền cộng Hòa theo kiểu Jăng đơ Vit là người được “hưởng ân huệ bổng lộc lớn của Hòa Lan”đã nhận thấy, tụi toàn quyền vĩđại của Hòa Lan. Họ rất thích chếđộ quốc trưởng, một vai trò mà sau một sắc lệnh do ông Jăng đơ Vit baon hành, buộc phải bãi bỏ vĩnh viễn trên đất Hòa Lan. Đằng sau nền Cộng Hòa, dân chúng chỉ nhìn thấy hai bộ mặt khắc nghiệt của anh em dòng họđơ Vit là những người khinh miệt nguyện vọng của quốc dân. Hai ông là cha sinh không khoan nhượng của một nền tự do có khuôn phép và một nền thịnh vượng không thừa thãi xa hoa. Cũng vậy, đằng sau vai trò quốc trưởng, dân chúng chỉ nhìn thấy cái vầng trán nghiêng nghiêng nghiêm nghị, trang trọng và suy tư của người thanh niên Guyôm đ’Orăng mà được những người đương thời gọi là ông Lầm Lì, sau này ông cũng được hậu thế gọi y như thế. Hai anh em nhà đơ Vit là những người đã từng trông nom dạy dỗ Luy XIV. Hai ông thấy ở vị vua này có tính chất của bậc tiền bối về tinh thần của toàn Châu Âu, đồng thời cũng là bậc tiền bối về vật chất cho đất Hòa Lan do ông vừa thắng trận trong chiến dịch kỳ diệu sông Ranh: sau ba tháng gi­ao tranh ông đã chế ngựđược sức mạnh của người hùng mà trong tiểu thuyết người ta gọi là bá tước đơ Ghít và ông được Boalô ca tụng, một trận thắng đã đè bẹp các lực lượng của Hòa Lan. Đã từ lâu, Luy XIV là kẻ thù của nhân dân Hòa Lan, họ chửi rủa và phỉ báng ông hết mức, mà bao giờ cũng vậy, phần lớn là từ mồm mép những Pháp kiều trốn sang sống trên đất Hòa Lan. Chống lại hai anh emđơ Vit có một cuộc hoạt động kép, là kết quả từ sự phản ứng mãnh liệt của mọi thế lực chống lại ?sở thích của quốc gia và do kết quả của một sự mệt mỏi tự nhiên ở tất cả các dân tộc bại trận, họ mong muốn có một vị lãnh tụ khác có thể cứu vãn họ ra khỏi sự tan hoang và xấu hổ. Vị lãnh tụ khác đó đã sẵn sàng xuất hiện, sẵn sàng đương đầu và có đủ khả năng để chống lại Luy XIV, dù cho sự nghiệp tương lai có vẻ kếch sù. Đó là Guyômđ’Orăng, con trai vua Guyôm II và cháu vua Saclơ I, cậu bé lầm lì mà chúng tôi đã nói trên, người ta thấy bóng dáng của cậu thấp thoáng đằng sau chếđộ quốc trưởng. Người thanh niên đó năm 1672, cậu hai mươi hai tuổi. Jăng đơ Vit đã từng là thái phó của cậu và ông muốn dạy cậu sau này trở thành một công dân tốt. Đặt quyền lợi của tổ quốc lên trên quyền lợi của trò mình, ông đã ban bố sắc lệnh bãi bỏ vĩnh viễn chếđộ quốc trưởng, làm tắt hy vọng khôi phục chếđộ này. Nhưng Trời đã nhạo báng ý định ấy của con người đã không chịu tham khảo ý kiến Trời; do thói bất thường của những người dân Hòa Lan và ghê sợ vua Luy XIV, Trời đã làm thay đổi chính sách của ông đơ Vit và thiết lập lại chức quốc trưởng do Guyômđ’Orăng với những mục đích còn giấu kín trong tương lai. Jăng đơ Vit phải đành chiều theo ý muốn của toàn dân; nhưng Cooc­nây đơ Vit bướng bỉnh hơn, mặc dù bị bọn Orăng­git đe doạ giết chết, vẫn từ chối không chịu ký vào bản thiết lập lại ghế quốc trưởng. Sau cùng chiều ý do bà vợ khóc lóc van xin, ông đành ký, có điều ông ghi thêm vào dưới chữ ký của mình hai chữ “do bắt buộc”. Cũng là một điều lạ khi ông thoát khỏi trận trả thù của đồng bào ngày hômđó. Còn ông Jăng, mặc dù đã nhanh chóng và ưng thuận ý của đồng bào, cũng không có gì được thuận lợi. Cách đó mấy ngày, ông vừa bị mấy nhát dao, nhưng may không chết. Nhưng những người theo phái Orăng­git không cần biết điều ấy. Chính hai anh emđơ Vit mới là vật cản chính của họ. Đểđạt được mục đích của mình, họ dùng mưu vu khống và trong Hòan cảnh đó họđã tìmđược một tên khốn nạn sẵn sàng vào cuộc chơi với họ. Tên này, chúng tôi hình nhưđã có lần nói rồi, gọi là Ty­ck­elaer, làm nghề phẫu thuật. Hắn đến khai láo rằng vì Cooc­nây đơ Vit thất vọng khi thấy sắc lệnh bãi bỏ chếđộ cũ do em mình ký không còn hiệu lực nữa và vì sôi sục căm thù chống Guyôm d’ Or­ange nên đã ngầm sai một tên sát nhân đi giết ông này hòng cứu vãn nền cộng Hòa; tên sát nhân ấy không ai khác là hắn; vậy là Ty­ck­elaer hối hận đã đi tố cáo hơn là để mình phạm tội.

Bây gi ờ ta hãy thử xem những người theo phái Orăng­git tức giận đến chừng nào khi nghe tin ấy. Ông kiểm soát trưởng ký lệnh bắt Cooc­nây tại nhà.

Ngày 16 tháng tám n ăm 1672, Cooc­nây đơ Vit, người anh cao thượng của Jăng đơ Vit bịđánh đòn phủđầu ngay trong buồng gi­am của nhà tù Buyten­hôp nhằm bắt ông thú nhận là chủ mưu sát hại Guyôm..Nhưng Cooc­nây chẳng những là một con người cao thượng mà còn là một con người đầy dũng khí.

Ông không thú nhận điều gì. Không những ông làm mệt sức các tên đao phủ

mà còn làm nhụt cả tính cuồng tín của chúng.

Không khai thác được gì các quan toà vẫn tuyên phạt: Cooc­nây bị mất mọi

chức vụ và phẩm tước, bị phạt tiền hầu toà và bịđi đày chung thân biệt xứ.

Quy ết định đ�an c� không những xử oan một người vô tội mà còn xúc phạm danh dự một người có tên tuổi ắt phải làm vừa lòng dân chúng lắm đây. Tuy nhiên không phải thế là đã đủ như chúng ta sẽ thấy sau đây. Ngay sau khi nghe tin anh mình bị xử oan, Jăng đơ Vit xin từ chức toàn quyền. Đến lượt ông cũng thế, ông không được người ta đối xử như người có công với Tổ quốc. ông mang về trong cuộc sống riêng tư những ưu phiền và đau thương. Đó là hai món lợi duy nhất mà những con người trung thực như ông thường nhận được sau khi đã quên mình phục vụđất nước. Trong thời gi­anđó, Guyôm d’ Or­ange bí mật hoạt động bằng mọi cách để đạt được mục đích. Ông hy vọng quần chúng đã coi mình là thần tượng sẽ lấy thi thể hai anh emđơ Vit làm chiếc cầu cho ông nhảy chiếm vị trí đứng đầu chế độ quốc trưởng cũ. Ngày 20 tháng tám năm 1672, như chúng tôi đã nói ởđầu chương, tất cả thành phốđổ xô về nhà gi­am Buyten­hôp để chứng kiến cảnh Cooc­nây đơ Vit rời nhà gi­am đểđưa đi phát vãng và để xem những vết tra tấn trên thân thể con người đã thuộc nhiều thơ Horát bắt đầu kiếp đi đày. Chúng tôi phải nói ngay rằng những người chạy vội về Buyten­hôp không phải chỉ gồm những người tới đó với mục đích duy nhất vô tội là để chứng kiến một cảnh lạ mắt; trái lại nhiều người trong số họ còn muốn đóng một vai trò, hay đúng hơn muốn làm thêm một công việc mà họ cho là còn chưa làm đủ. Chúng tôi muốn nói là công việc của đao phủ. Người ta hỏi rằng ông Cooc­nây đơ Vit, con người không biết sợấy có bị gi­am không, có bị yếu đi vì những đòn tra tấn không? Người ta có trông thấy ông xanh xao, máu me và xấu hổ không? Phải chăng đó là một sự thắng lợi đẹp đẽ của tầng lớp quý tộc còn tham lam khác hẳn dân chúng, và tất cả quý tộc ở La Hay đều đến dự cả hay không? Còn bọn Orăng­git đã khéo léo trà trộn vào đámđông mà chúng muốn sử dụng như một công cụ sắc bén và đồng thời nghiền nát; chúng có thể tìm được một cơ hội nào đó từ cửa nhà tù đến cửa ô thành phốđể có thể ném bùn và cảđá nữa vào cái tên Cooc­nây ấy, vì nó đã không muốn cho Hoàng tửđ’Orăng lên ghế quốc trưởng, lại còn định ám sát cả Hoàng tử nữa!

B ọn kẻ thù hung bạo của nước Pháp còn nói thêm rằng nếu ở La Hay người ta làm tốt thì sẽ không để cho bọn Cooc­nây được phát vãng vì một khi bọn hắn đã ra nước ngoài thì sẽ bắt được liên lạc với nước Pháp và sẽ sống bằng vàng của hầu tước Lu­voa cùng với thằng emđại nham hiểm của hắn.

Trong những tình huống như vậy, người ta chạy chứ không đi. Đó là nguyên

nhân tại sao dân chúng La Hay chạy nhanh như vậy về phía nhà tù Buyten­hôp.

Có một số dân chúng nguyền rủa các quan toà dốt nát đã xử thế nào lại để

cho tên Cooc­nây, m ột tên tội phạm ghê tởm khốn kiếp kia còn được sống sót. Một vài kẻ nhỏ to xúi bẩy:

- Nó sắp đi rồi! Nó sắp thoát khỏi tay chúng ta rồi.

- Có một thuyền Pháp chờ hắn ở Schevenin­gen rồi. Một người khác nói:

- Không kể trong lúc Cooc­nây chuồn, lão Jăng tội chẳng kém cũng sẽ chuồn

theo.

- Và hai th ằng xỏ lá ấy sẽ sang sinh sống ở Pháp. Chúng sẽ lấy tiền bạc do bán tàu bè, xưởng đóng tàu, công trường của chúng ta cho Luy XIV ăn ti?êu hết mất thôi!

- Ph ải giữ chúng lại! - Một người khác dứt khoát nói to lên.

- Tống vào tù! Vào tù! - Mọi người đồng thanh hét lên. Cùng với tiếng la thét đó, thì các thị dân càng chạy nhanh hơn, súng vội lên

đạ n, dao vội vung lên và các con mắt trở nên nảy lửa. Tuy nhiên, bạo động không xảy ra; hàng ngũđội kỵ binh canh gác xung quanh Buyten­hôp vẫn đứng im, trơ nhưđá lạnh như tiền, càng đáng sợ hơn đám đông la hét, giơ chân, múa tay, doạ nạt kia. Đứng đầu toán kỵ binh là một viên đại uý cưỡi ngựa, gươm tuốt và tay buông thõng. Toán kỵ binh ấy, bức tường độc nhất để bảo vệ nhà tù, phải trấn áp không những đámđông dân chúng hỗn độn và ầm ĩ, mà còn phải chế ngự cả Chi hội Dân Quân tập hợp trước nhà tù cũng để giữ trật tự phối hợp với toán lính. Bọn dân quân thúc dân chúng hô những khẩu hiệu:

“Orăng muôn năm!Đảđảo bọn phản động!”

H ọ, đội kỵ binh của thành phố La Haye đặt dưới sự chỉ huy của bá tước quan ba De Tyl­ly đúng là một cái phanh để hãm bọn dân quân lại. Vì một lát sau, chúng bị kích thích bởi những tiếng hò reo của chúng và vì chúng không hiểu rằng người ta vẫn có thể dũng cảm mà chẳng cần phải reo hò, chúng tôi quy tội cho sự im lặng của toán kỵ binh là hèn nhát, cho nên chúng tiến lên một bước kéo theo sau cả một đám dân chúng về phía nhà tù.

Nh ưng ngay lập tức, viên chỉ huy Tyl­ly một mình tiến lên trước mặt chúng và chỉ giơ thanh gươm lên, cau mày lại nói:

- Nàu các ông dân quân, tại sao lại bước lên? Các ông muốn gì nào?

B ọn dân quân hoa lên những khẩu súng kíp và nhắc lại tiếng hô:

- Orăng muôn năm! Giết chết tên phản động!

- Orăng muôn năm thì được! – Tyl­ly nói - Mặc dù tôi thích những bộ mặt vui

v ẻ hơn những bộ mặt cau có. Còn giết chết tên phản động thì tha hồ các ông hô, muốn hô bao nhiêu cũng được. Nhưng nếu lại muốn biến hô thành hành động thì có tôi ởđây ngăn cấm việc làm đó và tôi sẽ ngăn cấm.

Nói xong ông quay v ề phía toán lính của ông và hô:

- Giương súng lên, hỡi quân lính! Toán lính của Tyl­ley, tuân thủ theo lời chỉ huy một cách âm thầm, chính xác,

làm cho dân quân và dân chúng phải bật lùi trở lại, không phải là không lộn xộn

khiến viên sĩ quan kỵ binh phải mỉm cười lên tiếng giễu cợt:

- Chỉ thế thôi! Các bạn cứ yên tâm, lính của tôi sẽ không bắn một phát, nếu

bên các bạn không tiến lên một bước nào về phía nhà tù.

- Ông sĩ quan! - Người chỉ huy dân quân cáu kỉnh nói. – Ông biết là chúng là

chúng tôi cũng có súng kíp đấy chứ?

- Bi ết, biết lắm chứ! Nhưng về phía mình các ông cũng phải biết là chúng tôi có những khẩu súng ngắn, súng ngắn bắn rất trúng trong vòng năm mươi bước, mà các ông đứng cách chúng tôi chỉ có hai mươi lăm.

- Gi ết chết bọn phản động! Đám dân chúng quá khích lại hô.

- Chà! – Viên sĩ quan nói - Vẫn cứ thế, thật là mệt! Nói xong ông lại trở vềđứng đầu toán lính, trong khi đó tiếng ồn ào mỗi lúc

m ột tăng xung quanh nhà tù. Nhưng đám dân chúng không biết rằng trong khi họđang đánh hơi tính mạng của một trong hai nạn nhân của họ, thì nạn nhân kia như muốn nhanh chóng đi đến trước số phận của mình, đang tiến ?đến nhà tù Buyten­hôp, đi qua cách chỗ kỵ binh và dân quân đóng chừng một trăm thước.

Thật vậy, Jăng đơ Vit vừa trên xe bước xuống cùng với một người hầu. ông

lặng lẽ qua cái sân trước cổng nhà tù.

Ông xưng tên với người gác cổng, mà không biết chính người này cũng biết

ông. Ông nói:

- Chào Gri­phuyt, tôi đến tìm anh trai tôi là Cooc­nây đơ Vit vừa bị án tù biệt

xứ, chú biết rồi chứ gì?

Và người gác cổng xưa nay chỉ biết mở, đóng cửa theo lệnh của chủ, liền cúi

đầu chào ông, để ông vào xong lại đóng cửa ngay.

Đ i được mươi bước, ông gặp một cô gái quãng mười bảy mười tám tuổi, ăn mặc kiểu quần áo tỉnh Frisonne. Thấy ông, cô nghiêng mình chào một cách duyên dáng. Ông nâng cằm cô lên, nói:

- Chào cháu Rô­da xinh đẹp và tốt bụng, ông anh tôi ra sao rồi hả cháu?

- Thưa ông Jăng vĩđại. - Cô bé trả lời. - Cháu không lo về nỗi thống khổ mà

ng ười ta đã gây ra cho ông ấy đâu ạ, điều ấy đã qua rồi.

- Vậy cháu lo điều gì nào?

- Cháu lo người ta còn làmđiều tệ hơn nữa đối với ông ấy ạ.

- Đúng, - Jăng đơ Vit nói. - Cháu sợ dân chúng có phải không?

- Ông có nghe thấy họ không?

- Quả là họ rất sôi động. Nhưng đến khi họ nhìn thấy chúng tôi, có thể họ sẽ dịu xuống bởi vì chúng tôi chỉ có làm tốt cho họ.

- Khốn khổ thay, đấy không phải là một lý do! Cô bé vừa thì thào vừa đi về phía cha cô đang vẫy gọi.

- Không, không đâu cháu ạ, cháu nói đúng đấy! Nói xong ông Jăng lại tiếp tục đi, vừa đi vừa lẩm bẩm nói một mình: “Đấy là

một cô bé không biết chữ, vậy thì chẳng đọc được gì cả, thế mà vừa tóm tắt

được lịch sử thế giới trong có một câu!”.

Và vẫn cứ bình tĩnh và buồn bã hơn lúc nào, vị cựu quan chức cao cấp ấy

tiếp tục đi về phía phòng gi­am anh trai ông.

HAI ANH EM

N

hư lời tiên đoán của Rô­da xinh đẹp, trong khi ông đơ Vit bước theo

thang đá lên buồng gi­am Cooc­nây thì các thị dân ở ngoài đang cố gắng bằng mọi cách đểđội quân bảo vệ của Tyl­ly lùi ra xa chút nữa vì các khẩu súng ngắn của đội kỵ binh lăm lăm trong tay làm họ e ngại.

Bi ết như vậy, dân chúng tán thành ý định của dân quân nên họđến vỡ óc: “Dân quân muôn năm!” Về phần mình, bá tước De Tyl­ly thận trọng nhưng cương quyết, đang thuyết

ph ục đám dân quân dưới mũi súng của quân lính ông. Ông cố gắng giải thích họ hiểu là nhà nước lệnh cho ông cùng với ba đại đội có nhiệm vụ canh gác nhà tù và các điểm xung quanh. Bọn Orăng gào lên:

- Tại sao lại có lệnh ấy, tại sao lại gác nhà tù?

- À! – Ông Tyl­ly đáp – Các ông hỏi tôi ngay những câu mà tôi không thể trả lời được. Nhưng người ta bảo tôi gác là tôi gác. Các ông thì cũng gần như quân đội rồi, các ông cũng hiểu rằng mệnh lệnh là không có bàn cãi gì cả!

- Canh gác thế là để cho những kẻ phản bội có cách ra khỏi thành phố chứ

gì?

- Có thể như thế, bởi vì họđã bịđày biệt xứ rồi. - Bá tước trả lời.

- Nhưng ai đã ban cho ông cái lệnh ấy?

- Trời ơi! Chính phủ chứ ai nữa?

- Chính phủ phản bội.

- Vềđiều đó, thì tôi không ?biết gì hết.

- Chính ông cũng phản bội?

- Tôi ấy ư?

- Chính ông.

- A! Điều ấy, chúng ta cần phải bàn mới được, các ông dân quân ạ! Tôi phản

bội ai nào? Chính phủư? Tôi không thể làm thếđược, tôi là người được Nhà

nước trả lương, tôi làm theo lệnh Nhà nước.

Viên đại uý nói thế là Hòan toàn có lý, bọn dân quân không còn bàn cãi vào đâu được nữa. Thế là tiếng hét, tiếng đe doạ lại tăng lên gấp bội, càng khiếp đảm hơn nữa làm cho viên đại uý phải hết ức ôn tồn Hòa giải.

- Thế nào các ông dân quân, đề nghị các ông tháo đạn ra chứ? Ngộ nhỡ mà có một phát đạn bắn ra, viên đạn lại chẳng may trúng vào một kỵ binh của tôi, thì chúng tôi phải quật ngay hai trăm người của các ông, đó là một điều rất đáng tiếc cho cả hai bên chúng ta. Chúng tôi không muốn thế và chắc các ông cũng vậy.

- Nếu các ông làm như vậy - Bọn dân quân kêu lên – Chúng tôi sẽ bắn vào

các ông.

- Vâng, bắn vào chúng tôi tức là giết chúng tôi từ người đầu tiên đến người

cuối cùng, còn chúng tôi cũng sẽ giết các ông chẳng kém gì.

- Vậy thì ông hãy nhường chỗ cho chúng tôi đi; ông sẽ làm trọn nhiệm vụ

của một công dân tốt đấy.

- Th ứ nhất, - De Tyl­ly nói. - tôi không phải là công dân bình thường, tôi là sĩ quan, đó là hai điều khác nhau. Thứ hai, tôi không phải là người Hòa Lan, tôi là người Pháp, đó là điều khác nhau nữa. Vậy tôi chỉ biết có mỗi Chính phủđã trả lương cho tôi thôi. Các ông hãy mang lệnh của Chính phủ rađây, tôi sẽ giải tán ngay lập tức, với lại tôi cũng chán ởđây mãi rồi.

Lập tức, một trăm tiếng nói được nhân thành năm trăm tiếng:

- Được, được. - Một trăm tiếng cùng lúc kêu lên, một trăm tiếng khác hoạ theo. - Chúng ta hãy đến toà Thị chính. Chúng ta sẽ tìm các ngài nghị viên. Nào, chúng ta đi, đi thôi.

Ông De Tyl­ly nhìn những kẻđiên cuồng nhất bỏđi, lẩm bẩm:

- Thếđấy, cứđi mà đề nghị một điều đốn mạt như thế xem có được chấp

nhận không; có giỏi thì cứđi đi, đi đi!

Người sĩ quan tin cậy vào danh dự của vị pháp quan, còn các vị thì lại tin

vào danh dự người lính của vị sĩ quan ấy.

Trong khi đó ông Jăng đơ Vit đã tới cửa buồng gi­am ông anh Cooc­nây. Như chúng tôi đã nói, anh ông, Cooc­nây, đang nằm bẹp dí trên chiếc nệm; viên thanh tra thuế khoá đã đánh ông một trận đòn phủđầu như chúng tôi đã nói ở trên. Cooc­nây nằm trên giường, các ngón tay và cổ tay giập nát, tuy nhiên ông không khai một lời về một tội ác mà ông không làm. Sau cùng, sau ba ngày đau đớn, ông vừa được tin các quan toà, tưởng xử ông với mức án nặng nhất hoá ra chỉ cho ông đi tù chung thân biệt xứ. Thể xác cương nghị, tâm hồn bất khuất, ông sẽ làm cho kẻ thù phải nhụt chí nếu chúng vào đây, nơi sâu thẳm tăm tối của ngục tù Buyten­hôp này, chúng sẽ nhìn thấy nụ cười sáng ngời trên bộ mặt tái mét của người tuẫn tiết, người này đã quên cả bùn nhơ của trái đất từ khi trông thấy ánh rực rỡ của chân trời. Do sức mạnh của ý chí hơn là sự cứu chữa thực tế, Cooc­nây đã lấy lại sức khoẻ và ông đang tính xem thủ tục của toà án còn giữ ông bao lâu nữa trong nhà tù. Chính vào lúc đó những tiếng ồn ào của đám dân quân trộ?n lẫn với dân chúng nổi lên chống lại hai anh em ông và doạ nạt đại uý Tyl­ly. Tiếng ồn ào đó vẳng đến như nước thuỷ triều dâng lên đập vào những bước tường đá của nhà tù, vang đến tận chỗ tù nhân. Nhưng dù chúng có đe doạđến đâu, ông Cooc­nây cũng chả buồn để ý đến, cũng chả buồn mất công đứng lên để nhìn ra qua cái cửa sổ hẹp chằng lưới sắt cho ánh sáng và những tiếng động bên ngoài dễ tràn vào trong buồng. Ông bị tê cứng trong cơn đau liên tục đến mức đã trở thành quen. Cuối cùng ông cảm thấy khoan khoái là linh hồn và lý trí ông gần như tách rời khỏi những khó chịu của thân thể như ngọn lửa thoát khỏi lò để bay lên trời. Ông cũng nghĩđến em ông. Đúng vào lúc ông đang lẩm bẩm tên em ông thì cánh cửa mở ra, Jăng bước vào và vội vã đi lại giường tù nhân. Cooc­nây giơ cánh tay bầm tím quấn đầy vải về phía người em vinh quang, không phải vì những thành tích phục vụđất nước, mà vì đã vượt qua được hận thù của những người Hòa Lan.

Jăng dịu dàng hôn lên trán anh và nhẹ nhàng đặt đôi bàn tay đau đớn của

ng ười anh lên nệm, rồi nói:

- Cooc­nây, anh đau lắm phải không?.

- Được trông thấy em, anh cảm thấy không đau đớn nữa.

- Ôi, anh Cooc­nây thân yêu, vậy thì chính em lại đau đớn vì thấy anh trong

tình trạng này.

- C ũng như vậy, trong lúc chúng tra tấn anh, anh đã nghĩđến em nhiều hơn đến anh, chỉ có một lần anh rên là “khổ thân em tôi!” Nhưng emđã đến đây rồi, chúng ta quên hết. Em đến tìm anh phải không?

- Vâng.

- Anh khỏi rồi, em đỡ anh dậy, anh đi được cho em xem.

- Anh chỉ cần đi dăm bước thôi là tới xe của em đợi ở ao cá đằng sau những tên lính mang súng ngắn của ông Tyl­ly ấy.

- Lính súng ngắn của Tyl­ly ư? Tại sao chúng lại bố trí ở chỗ ao cá? Ông Jăng buồn rầu nói:

- À, vì người ta cho là dân chúng La Hay muốn nhìn thấy anh ra đi, và người ta sợồn ào quá.

- Ồn ào à? – Cooc­nây nhìn thẳng vào vẻ lúng túng của em, nói:

- Thưa anh vâng.

- Vậy là lúc nãy ta đã nghe thấy cái ấy. Có nhiều người đến Buyten­hôp xem lắm phải không em?

- Nhiều anh ạ. Nói xong, ông buồn rầu nhìn người anh:

- Thế mà, đểđến được đây… - Người anh nói.

- Anh ạ, anh cũng biết chúng ta không được mến mộ lắm. – Jăng nói với vẻ

buồn rầu; cay đắng . - Nhưng emđi bằng những con đường ngách cũng đến

đượ c.

- Em phải đến lén à?

- Em có ý định đến đây sao cho không mất nhiều thời gi­an nên đã dùng cái kiểu mà người ta thường hay dùng trong chính trị và ở ngoài biển khi đi ngược gió: em đi quanh co theo kiểu dích dắc.

Lúc đó, tiếng ồn ào bên ngoài dâng lên lại càng dữ tợn hơn; đó là lúc Tyl­ly

thảo luận với dân quân. Cooc­nây nói:

- Ôi! Ôi! Em ph ải là một chính trị gia giỏi đồng thời lại là người lái tàu cừ. Nhưng không biết em có cứu nổi anh ra khỏi chốn này giữa đám đông dân chúng cạn tàu ráo máng như em đã từng đưa hạm đội từ Trôm đến Ăngve qua những đoạn nông cạn ở Etcô không?

- Với sự hỗ trợ của Thượng đế, anh Cooc­nây ạ! Nhưng chúng ta cố gắng

xem, may ra.

- Jăng trả lời. - Nhưng hãy để em nói một câu.

- Em nói đi. Tiếng ồn ào bên ngoài lại nổi lên.

- Ồ, ồ! – Cooc­nây n�ào �i tiếp - Họ tức giận làm sao! Chống em hay chống anh!

- Em cho là chống cả hai chúng ta. Anh Cooc­nây ạ, vậy là emđã nói với anh

rằng phái Orăng­git, trong những điều vu khống chúng ta, chúng bảo chúng ta đã

th ương lượng với Pháp.

- Đồ ngu!

- Đúng, nhưng bọn chúng buộc tội chúng ta vì điều đó.

- Nếu những cuộc thương lượng thành công có phải đã tránh được cho bọn

chúng nh ững thất bại ở Ril, Oocxây, Vêx­en, Ren­bec, tránh được cho chúng khỏi phải đi qua sông Ranh. Và nước Hòa Lan chúng ta lại có thể coi mình là vô địch với các bãi lầy, sông đào rồi không?

- Tất cả những điều đó là đúng anh ạ, nhưng còn tìm một sự thật tuyệt đối hơn nữa là nếu lúc này mà người ta tìm thấy được thư từ chúng ta trao đổi với ông M. de Lou­vois thì dù em có là một thuyền trưởng tài tình đến đâu chăng nữa, cũng chẳng thể nào đưa được con tàu mỏng manh mang anh em ta ra khỏi đất nước Hòa Lan này. Tài liệu đó chứng tở với người dân lương thiện là em yêu Tổ quốc em biết bao và emđã phải chịu biết bao hy sinh cho tự do, cho vinh quang của Tổ quốc, nhưng nó mà rơi vào tay bọn Orăng­git - những kẻđã chiến thắng chúng ta - thế thì đó là một tai hoạ cho chúng ta. Chính vì thế, anh Cooc­nây thân yêu, em mong là anh đã đốt nó trước khi anh rời khỏi Đoocđret đểđến La Hay với em.

- Em ạ! - Cooc­nây đáp. - Những thư từ liên lạc giữa em với ngài Lu­voa chứng tỏ vào thời kỳ cuối này em là một công dân vĩđại nhất, độ lượng nhất, tài giỏi nhất, khôn khéo nhất trong bảy Tỉnh Hợp nhất chúng ta. Sự vinh quang của đất nước đối với anh là vô cùng quý báu nhưng anh, anh lại thích nhất sự vinh quang của em kia nên anh không đời nào đốt nó đi.

- Nếu vậy thì nguy mất, anh em chúng ta sẽ chẳng còn được sống trên trái

đất này nữa đâu! – Jăng thản nhiên nói và đi lại gần phía cửa sổ.

- Không trái lại, em Jăng ạ! Chúng ta không những sẽ sống mà sẽ còn phục

h ồi được lòng dân nữa.

- Vậy anh đã làm thế nào những tài liệu đó?

- Anh gi­ao cho Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơ, con đỡđầu của anh ởĐoocđret,

emđã biết nó rồi đấy.

- Ôi, th ằng bé đáng yêu và ngây thơ làm sao! Nó là một ông thông thái biết rất nhiều, thế mà lạ lùng thay, chỉ thích có hoa. Anh đã gửi cháu những tài liệu chết người ấy à? Nếu thế thì nguy hiểm cho cháu lắm, tội nghiệp cháu!

- Nguy hiểm?

- Vâng, vì dù không bi ết gì vấn đềđã xảy ra với chúng ta, dù nó thờơđến đâu, dù nó chôn chân ởĐoocđret, cất giấu ở nhà nó thì rồi một ngày kia, sớm muộn nó cũng sẽ biết. Và, hoặc nó dũng cảm, hoặc nó sẽ hèn nhát. Nếu nó dũng cảm, nó sẽ khoe khoang về chúng ta, nếu nó hèn nhát nó sẽ lo sợ về mối thân thiết với chúng ta. Nếu dũng cảm, nó sẽ rêu rao bí mật của chúng ta; nếu hèn nhát, nó sẽ cho người lấy đi. Trường hợp này hay trường hợp kia đều nguy hiểm cho nó và cho cả chúng ta nữa. Vậy thì, thưa anh, chúng ta đi trốn nhanh lên thôi, nếu còn kịp.

Cooc­nây nắm lấy cánh tay em, cố gắng ngồi lên và nói:

- Anh l ại không hiểu con anh hay sao? Anh lại không đọc được mỗi ý nghĩ, mỗi tình cảm trong đầu óc nó hay sao? Em hỏi anh, nó có hèn nhát không? Nó có dũng cảm không? Nó không dũng cảm, cũng không hèn nhát. Nhưng nó ra sao ?thì có quan trọng gì? Chủ yếu là nó giữđược bí mật bởi vì điều bí mật đó nó cũng không biết nữa.

Jăng ngạc nhiên quay người lại, nhưng Cooc­nây mỉm cười nói tiếp:

- Emạ, anh xin nhắc lại để em rõ. Văng Ba­clơ Hòan toàn không biết tính

chất và giá trị tài liệu anh gửi nó giữ hộđâu.

- Thế thì nhanh lên – Jăng nói - anh lệnh cho nó đốt ngay những tài liệu đó

đ i, may ra còn kịp đấy!

- Bằng cách nào bảo nó được hả em?

- Ai mang lệnh đó đi bây giờ?

- Nhờ Craeke giúp. Anh ta là người đánh xe ngựa cho chúng ta, đang đứng ở cửa kia, chờ dìu anh xuống thang.

- Em nên nghĩ cho kỹ trước khi đốt những tài liệu vinh quang đó.

- Em nghĩ rằng điều trước tiên là phải cứu lấy tính mạng cho hai anh em đơ

Vit rồi mới nói đến cứu thanh danh. Nếu chúng ta chết thì ai sẽ bênh vực cho

chúng ta, hở anh Cooc­nây? Ai là người hiểu được chúng ta?

- Vậy em tin là họ sẽ giết chúng ta, nếu họ bắt được những tài liệu ấy, có

phải không, Jăng?

Không trả lời anh, Jăng giơ ngón tay chỉ ra phía ngoài, nơi đang nổi lên

nh ững tiếng ồn ào dữ dội. Cooc­nây nói tiếp:

- Phải, phải, anh nghe thấy những tiếng la hét ầm ĩ, nhưng họ muốn nói gì? Jăng ra mở cửa sổ, tiếng ồn lọt vào nghe rõ: “Giết chết bọn phản động!”

- Bây giờ anh đã nghe thấy gì chưa? – Jăng nói. Tù nhân ngẩng mặt lên trời và nhún vai:

- Và bọn phản động là hai anh em chúng ta?

- Là chúng ta? – Jăng nhắc lại.

- Crak­er đâu?

- Ngoài cửa buồng này.

- Em bảo anh ta vào đây. Jăng ra mở cửa buồng. Quả nhiên, người đày tớ trung thành vẫn đang chờ sẵn trên ngưỡng cửa.

- Craeke lại đây! Anh hãy nhớ lấy điều anh tôi dặn nhé.

- Ồ không, dặn miệng không được em ạ, anh phải viết tay.

- Tại sao vậy?

- Tại vì Văng Ba­clơ nó sẽ không trao lại tập thư hoặc sẽ không đốt nó đi khi không có một cái lệnh rõ ràng.

- Nhưng tay anh đau thế viết làm sao?

- Được em ạ. Có giấy có bút là anh viết được ngay, rồi em sẽ thấy. - Cooc­nây nói.

- Có đây rồi, ít ra là cái bút chì.

- Em có giấy không? Chúng chẳng để gì ởđây cho anh cả.

- Có quyển Kinh Thánh đây. Anh xé lấy tờđầu.

- Được rồi.

- Em sợ anh viết chữ không đọc được.

- Được em ạ, - Cooc­nây nhìn em mình đáp. - Những ngón tay này đã chịu

đượ c lửa do đao phủđốt, cái ý chí này đã nén được đau thì chúng sẽ kết lại thành một sức mạnh mới; em hãy yên tâm, anh sẽ viết thẳng dòng không run một nét chữ nào đâu. Nói rồi Cooc­nây cầm bút và viết. Người ta thấy máu tươi từ những miếng thịt nứt toác ở các ngón tay bị thương bật ra, do kẹp quá chặt cây bút chì nên máu thấm hồng cuộn băng trắng. Mồ hôi vã ra trên trán Jăng.

Cooc­nây viết:

“Con yêu quý, con hãy đốt ngay tập tài liệu mà cha đã gửi con; đốt nó đi, không được mở nó ra, không được đọc nóđể nó giữđược bí mật Hòan toàn cả với chính con nữa. Bí mật của loại tài liệu này làm mất mạng những kẻ giữ nó. Con hãy đốt đi và như vậy là con cứu được cha và chú Jăng nữa.

V ĩnh biệt con và hãy nhớđến cha. COOC­NÂY ĐƠ VIT 20 tháng 8 năm 1672” Mắt đẫm lệ, Jăng lấy tay chùi một giọt máu rơi trên giấy rồi ông trao nó c?ho

Craek­er với những lời dặn cuối cùng. Ông quay vào với Cooc­nây đang tái xanh

hơn và gần như ngất đi vì quá đau đớn. Ông nói:

- Bây giờ, khi nào nghe một tiếng huýt sáo dài của Crak­er là biết hắn đã qua

cái ao nuôi cá, tức là thoát rồi. Lúc đó sẽđến lượt chúng ta ra đi.

Chưa đầy năm phút sau, một hồi huýt sáo dài nổi lên át cả tiếng ồn ào ở

ngoài. Jăng đưa tay lên trời để cám ơn Chúa rồi nói:

- Anh Cooc­nây, bây giờđến lượt chúng ta ra đi.

NGƯỜI HỌC TRÒ CỦA JĂNG ĐƠ VIT

T

rong khi những tiếng la thét dữ dội của đámđông tập trung trên quảng

tr ường nhà tù Buyten­hôp vang đến chỗ hai anh em và làm cho ông Jăng phải quyết định đưa ông anh đi, thì một đoàn đại biểu của dân quân đến toà thị chính xin lệnh cho rút lui toán quân của Tyl­ly. Từ Buyten­hôp đến toà thị chính cũng không xa lắm, do đó người ta thấy một người lạ mặt vẫn chăm chú theo dõi cảnh tượng ấy từđầu, cũng đi theo phái đoàn dân quân để xem diễn biến tình hình sẽ ra sao. Người lạ mặt đó còn rất trẻ, mới chừng 22, 23 tuổi, bề ngoài trông không được khoẻ lắm. Anh ta che giấu bộ mặt tái xanh của mình dưới một chiếc khăn mùi soa bằng vải mịn mà thỉnh thoảng anh sử dụng nó đưa lên trán lau mồ hôi. Hẳn là người thanh niên này phải có một lý do gì đó để không muốn người ta nhận ra mình. Mắt trừng trừng như mắt con chim mồi, cái mũi khoằm và dài, cái miệng nhỏ và thẳng mởđôi ra như những cái môi của vết thương, người thanh niên đó có thể là một đề tài để nghiên cứu về diện mạo… Anh ăn mặc giản dị và hình như không đeo súng; cánh tay gầy gò nhưng gân guốc, bàn tay khô khan nhưng trắng trẻo mịn màng và quý phái. Một tay anh vịn lên vai một người sĩ quan lúc nào cũng để một tay lên chuôi gươm. Đến quảng trường toà thị chính, người trai trẻ có bộ mặt xanh xao đẩy người cùng đi vào dưới một cánh cửa chớp đang mở và chăm chú nhìn lên ban công toà thị chính. Tiếng la hét của dân chúng làm cho một cửa sổ của toà thị chính mở ra rồi xuất hiện một người ra thảo luận với dân chúng. Người thanh niên hỏi viên sĩ quan cùng đi:

- Ai th ế?

- Ngài nghị sĩ Bôven đấy ạ!

- Cái lão nghị sĩ Bôven ấy là người thế nào? Ông có biết không?

- Thưa Hoàng thân, theo tôi biết thì ông ta là một người tốt. Người thanh niên nghe thấy sựđánh giá tình hình một con người chung

chung như thế, tỏ vẻ không hài lòng và bực mình. Viên sĩ quan nhận thấy thế

vội vã nói thêm:

- Tôi th ấy người ta nói như vậy, thưa Hoàng thân. Về phần tôi, tôi không thể xác nhận được thế nào cả vì tôi chỉ biết mặt chứ không được tiếp xúc với ngài đó bao giờ.

- Thôi được - Người thanh niên nói – Ta hãy chờ thực tế trả lời.

Viên s ĩ quan gật đầu tỏ ý tán thành rồi im lặng. Anh thanh niên nói tiếp: - Nếu ông Bôven này là một người dũng cảm thì ông ta sẽ nhận lời thỉnh cầu của bọn điên rồ kia một cách kỳ quặc.

Các ngón tay của người thanh niên đặt trên vai người sĩ quan cùng đi bắt đầu

hoạt động như trên những phímđàn chứng tỏ ngài giận lắm.

Người lạ nghe thấy tiếng chỉ huy dân quân gọi hỏi ông Bôven xem những ông nghị khác đâu. Ông Bôven đáp:

- Th ưa các ông, tôi xin nói với các ông một lần nữa là trong lúc này chỉ có một mình tôi với ông nghị At­pêren, vậy một mình tôi không thể có được một quyết định.

Lập tức hàng ngàn tiếng la lên: “Lệnh! Lệnh!”

Ông Bôven dáng ch ừng muốn nói nhưng người ta không nghe thấy những lời ông nói mà chỉ thấy tay ông giơ lên giơ xuống một cách thất vọng. Rồi thấy nói mãi cùng không ai nghe được, ông bèn quay vào và gọi ông At­pêren ra. Ông At­pêren xuất hiện ở ngoài bao lơn, được đám đông dân chúng hoan hô mạnh mẽ hơn đối với ông Bôven mười phút trước đây. Nhiệm vụ của ông cũng khó khăn chẳng kém gì, nhưng dân chúng đã ép người lính gác, người lính này cũng chẳng muốn chống cự gì việc để cho mọi người vào trong nghe ông At­pêren diễn thuyết.

Trong khi dân chúng ùn ùn kéo vào cổng chính của toà thị chính. Người trai

tr ẻ lạnh lùng nói:

- Có lẽ công việc sẽđược giải quyết ở bên trong. Chúng ta thử vào xem sao.

- Bẩm Hoàng thân, xin Hoàng thân cẩn thận!

- Cẩn thận cái gì?

- Trong số các nghị viên có nhiều người có quan hệ với Hoàng thân, nếu chỉ

cần một người nhận ra Hoàng thân…

- Đúng đấy, họ sẽ buộc tội tôi là kẻ xúi giục đám đông này chăng? Chúng ta ở lại đây vậy. Ởđây chúng ta cũng có thể biết được công chúng trở lại có hay không có lệnh. Và người trẻ tuổi nói, má đỏ lên một lúc vì đã tỏ ra quá vội vã trong mong muốn của mình. Viên sĩ quan ngạc nhiên nhìn người thanh niên mà ông gọi là Hoàng thân.

- Nhưng bẩm Hoàng thân, Hoàng thân không lần nào đặt giả thiết là các ngài

ngh ị viên lệnh cho Tyl­ly giãn quân ra chứạ?

- Tại sao? - Người trẻ tuổi lạnh lùng hỏi.

- Bởi vì họ làm như vậy, đơn giản là họ kết án tử hình hai ông Cooc­nây và

Jăng đơ Vit.

- Rồi ta sẽ thấy. - Hoàng thân lạnh lùng trả lời. - Chỉ có Trời mới biết được

điều gì xảy ra trong lòng mọi người.

Viên s ĩ quan trộm nhìn vẻ mặt lạnh như tiền của người cùng đi, mặt ông ta bỗng nhiên tái mét. Từ chỗđứng của hai người, Hoàng thân và người sĩ quan, nghe thấy tiếng ồn và tiếng bước chân lên cầu thang của dân chúng trong toà thị chính. Rồi người ta nghe thấy những tiếng ồn đó lọt ra ngoài quảng trường qua cái cửa sổ mở rộng của căn phòng có ban công và hai ông nghị viên đã xuất hiện lúc nãy, bây giờ hai ông đã vào trong phòng, có lẽ hai ông sợ dân chúng quá đông sẽ chèn mình bật ra khỏi bao lơn. Rồi người ta trông thấy những cái bóng quay cuồng đi qua cửa sổ. Tiếng ồn ào bỗng ngưng rồi bỗng nhiên lại nổi lên mạnh hơn và đạt đến trình độ của một tiếng nổ làm toà nhà cũ rung chuyển đến tận nóc.

Sau cùng, dòng người xô nhau qua các hành lang, các cầu thang rồi tuôn ào

ra cửa như một cái vòi rồng miệng lớn.

Đi đầu toán thứ nhất là một người, bay chứ không phải chạy, mặt mũi méo

mó đi vì quá sung sướng. Hắn vừa hươ trên đầu một tờ giấy vừa reo lên:

- Giấy đây rồi! Giấy đây rồi!

- Chúng nó có lệnh rồi!

- Họđược lệnh rồi. - Người sĩ quan ngạc nhiên lẩm bẩm.

- Thế là tôi xác định được rồi. - Hoàng thân bình tĩnh nói. - Ông đại tá ạ, ông

không biết ông BÂwelt là? trung hậu hay can đảm. Tôi bảo ông ta chẳng phải

trung h ậu cũng chẳng phải can đảm. Rồi lặng lẽ nhìn đám đông đang chen nhau chạy trước mặt, ông nói:

- Bây giờ chúng ta đến Buyten­hôp; tôi tin rằng chúng ta sẽ chứng kiến một cảnh tượng kỳ lạđây. Viên sĩ quan cúi đầu tuân lệnh cấp trên, không nói một câu. Quảng trường và xung quanh nhà lao người đông như kiến. Nhưng quân của

Tyl­ly v ẫn cương quyết cản họ. Lúc sau, bá tước nghe thấy tiếng xì xào mỗi lúc một to rồi ông trông thấy một tờ giấy khua khua trên những nắm tay giơ lên và những vũ khí sáng loáng.

Ông nh ổm người trên lưng ngựa nói:

- Ta cho rằng đám vô lại kia đã có lệnh rồi đây. Quả nhiên đó là tờ lệnh mà lúc nãy bọn thị dân đã kêu rú lên thích thú khi

đượ c cấp. Họ từ từ tiến thẳng đến toán kỵ binh, vũ khí hạ xuống, miệng reo hò thật to. Nhưng đại úy Tyl­ly không phải là người có thể dễ dàng lại gần được, ông hô:

- Đứng lại!

- L ệnh đây! Lệnh đây! - Trăm tiếng hỗn xược vang lên. Bá tước kinh ngạc cầm lấy, lướt đọc rồi nói to:

- Ai ký lệnh này rõ ràng là đao phủ giết chết ông Cooc­nây đơ Vit. Còn về

phần tôi, tôi không muốn bàn tay tôi phải viết một chữ nào trong cái lệnh bần

tiện này.

Rồi đẩy lùi một người bằng chui gươm, tên này định lấy lại cái lệnh, ông nói

ti ếp:

- Một cái lệnh quan trọng như thế này cần phải được giữ lại. Ông gấp tờ giấy lại và để cẩn thận vào túi áo chẽn quân phục. Rồi quay về phía hàng quân, ông hô to:

- Kỵ binh của Tyl­ly, bên phải, quay! Rồi ông nói nhỏ nhưng cố tình để cho mọi người có thể nghe thấy:

- Còn bây giờ thì: Bọn giết người! Đi mà thực hiện tác phẩm của chúng bây! Đón chào cuộc rút quân ấy là một tiếng thét bừng bừng giận dữđầy hận thù

khát máu và những niềm vui sướng man rợđang rên xiết trên quảng trường nhà

tù.

Đoàn kỵ binh từ từ rút lui, ông Tyl­ly là người cuối cùng. Ngựa của ông bước

đến đâu, toán dân quân sung sướng nhưđiên cuồng chiếm đất đến đấy.

Nh ư vậy là chúng ta thấy, Jăng đơ Vit đã nói đúng về sự nguy hiểm khi ông vực ông anh dậy giục mau mau phải trốn khỏi nơi này. Dựa vào người em, Cooc­nây bước xuống thang. Đến sân, ông thấy cô gái Rô­da xinh đẹp đang đứng run sợ.

- Ôi ngài J ăng, khổ quá đi mất! - Cô nói.

- Có chuyện gì đấy? - Jăng hỏi.

- Họ kéo nhau đi đến tòa thị chính để yêu cầu lệnh cho quân bảo vệ giãn ra.

- Đúng vậy cháu ạ, nếu quân bảo vệđi khỏi chỗ này thì đó làđiều tệ hại cho

chúng ta. - Jăng nói.

- Bẩm ngài Jăng, cháu xin có một ý kiến với các ông… - Cô bé Rô­da run rẩy

đề nghị.

- Cứ nói đi cháu! Có gì lạđâu nếu là Chúa muốn nói qua miệng cháu.

- Thưa ông Jăng, nếu là cháu, cháu sẽ không đi qua đường phố lớn.

- Tại sao như vậy trong khi đoàn kỵ binh của ông Tyl­ly vẫn đứng ở vị trí của

họ?

- Nh ưng chừng nào mà đoàn quân ấy còn chưa bị bãi bỏ thì lệnh là phải canh gác trước nhà tù.

- Tất nhiên là thế?

- Th ế ông có lệnh đưa các ông ra khỏi thành phố này không?

- Không.

- Nếu như vậy thì khi đi khỏi đám kỵ binh, các ông sẽ bị dân chúng chộp ngay.

- Đ� Cô� có đoàn dân quân chứ sao?

- Ôi, dân quân lại càng hung hãn hơn dân chúng.

- Thế làm sao bây giờ hả cháu?

- Thưa ông Jăng – Cô gái bẽn lẽn nói - Nếu ởđịa vị ông, cháu sẽđi ra bằng

cách chui qua c ổng đường ngầm chiến lũy, cổng này mở ra ở cuối phố nhỏ vắng vẻđằng kia, vì ở cửa chính phố lớn bây giờ, người đứng đông nghịt cả rồi. Và sau đó cháu sẽđi đến một cổng thành mà các ông muốn đi ra.

- Nh ưng anh tôi không thể lê đến tận đấy được.

- Anh sẽ cố gắng. - Cooc­nây trả lời.

- Chẳng hay các ngài không có xe hay sao?

- Xe chúng tôi đợi ở thềm cổng chính mất rồi.

- Không phải! - Cô gái trả lời. - Cháu thấy ông đánh xe là người tận tâm nên

cháu đã bảo ông ấy chờ các ngài ởđầu cửa ngầm đằng kia rồi.

Hai anh em cảm động nhìn nhau, và hai cái nhìn ấy là cả một sự biết ơn cô

gái. Rồi viên cựu viên chức cao cấp nói:

- Bây giờ còn cần phải xem ông Gri­phuyt có đồng ý mở cửa ấy cho chúng tôi

không đã chứ?

- Ồ không, việc đó thì ba cháu chẳng muốn đâu.

- Vậy thì làm sao được nữa?

- Vì thế lúc nãy, trong lúc ba cháu mải nói chuyện qua cửa sổ với một kỵ binh, cháu đã lấy trộm cái chìa khóa ở trong chùm ra rồi.

- Chìa khóa đó cháu có đấy không?

- Thưa ông, đây ạ!

- Cháu gái ạ, - Cooc­nây nói. - bác chẳng có gì tặng để cám ơn cháu về những

gì cháu đã làm cho bác ngoài quyển Kinh Thánh bác có đểở buồng bác.

Đó là vật kỷ niệm cuối cùng của một người có phẩm giá; bác mong nó mang

lại hạnh phúc cho cháu.

- Cháu xin cám ơn bác, cháu sẽ không bao giờ rời vật kỷ niệm của bác. - Cô gái nói xong lại thở dài rồi nói thêm – Nhưng khổ thân cho cháu quá, cháu có biết chữđâu!

- Tiếng ồn ào lại tăng lên rồi đó cháu ạ! – Jăng nói – Ta không nên để mất thời gi­an.

- Vậy xin các ông theo cháu.

Nói xong Rôsa d ẫn hai anh em đi qua một hành lang bên trong, ngược chiều với lối đi ra cổng chính. Ba người bước xuống chừng mười hai bậc thang, qua một sân nhỏ có tường đã rạn nứt bao bọc xung quanh, và sau khi đã mởđược cái cửa tò vò,

Như vậy là họđã đến bên kia nhà lao ở một phố vắng nơi có chiếc xe đứng

đợ i. Người đánh xe sợ hãi cuống cuồng kêu lên:

- Xin các ngài mau lên, mau lên; các ngài có nghe thấy họ la hét đấy không? Sau khi đã đẩy được Cooc­nây lên xe trước tiên, ông cựu thủ tướng quay sang

nói với cô gái:

- Từ biệt cháu, chúng ta sẽ cầu nguyện Chúa, kính báo với Ngài rằng cháu là

ng ười đã cứu sống hai mạng người chúng ta, Chúa hãy che chở cho cháu. Rô­da nắm tay vị thủ tướng cũ, trân trọng đưa lên môi hôn.

- Xin các ngài đi ngay cho! - Cô nói. - Hình như họđang phá cửa đấy. Jăng đơ Vit vội nhảy lên xe, ngồi cạnh người anh, rồi kéo cánh cửa xe lại, nói to:

- Đến Tôn Hếch! Tôn Hếch là hàng ghi chắn cửa mở ra cái bến nhỏ Schevenin­gen, ởđấy có

con tàu nhỏđợi sẵn hai anh em cựu thủ tướng.

Hai con tuấn mã kéo vội chiếc xe, chởđi những con người đang tìmđường

tẩu thoát.

Rô­da đứng nhìn theo cỗ xe cho đến khi nó khuất hẳn mới quay vào khóa cửa

lại và vất chìa khóa xuống một cái giếng.

Nghe nh ững tiếng ồn, Rô­da đoán là d�ây �n chúng đang phá cửa. Đúng là như vậy, sau khi kỵ binh đi khỏi, họđã ùa vào cửa nhà tù. Dù cánh cửa có kiên có đến đâu và dù Gri­phuyt nhất định chống đỡ, người ta thấy rõ là sẽ không giữ được lâu. Lão Gri­phuyt, mặt mũi tái mét đang tự hỏi xem có nên mở hay để cánh cửa vỡ ra thì thấy có người kéo áo đằng sau. Lão quay lại và trông thấy con gái:

- Con có nghe th ấy bọn điên rồ không?

- Thưa ba, con nghe rất rõ, cho nên nếu con ởđịa vị ba…

- Con sẽ mở cửa có phải không?

- Không ạ, con để mặc cho họ phá vỡ!

- Như thế thì họ sẽ giết chết hai cha con ta mất!

- Vâng, nếu họ trông thấy chúng ta.

- Làm sao mà họ không trông thấy chúng ta được?

- Ta trốn đi.

- Trốn đâu được?

- Trốn trong hầm ngục ấy! Chúng ta sẽđóng cửa lại. Khi bọn họ chuồn rồi, hai cha con ta lại ra.

- Ừ nhỉ, con nói đúng quá!… Nhưng lạ thật, tại sao đầu óc của con nhóc này

lại có ý nghĩ chí lý ấy!

Rồi trong tiếng reo hò của dân chúng đã phá được cửa, Rô­da mở một cái nắp

h ầm nhỏ ra và gọi:

- Ba ơi, lại đây.

- Nhưng còn tù nhân của chúng ta thì sao? – Gri­phuyt hỏi.

- Chúa sẽ trông nom bọn họ; ba cho phép con được trông nom ba. Gri­phuyt đi theo con gái. Khi nắp hầm vừa đóng xuống đầu hai cha con thì

cách cửa nhà tù cũng vừa mở toang ra và dân chúng ùa vào.

Cái h ầm ngục mà hai cha con đi xuống là một loại hầm bí mật chỉ những nhà chức trách mới biết đểđôi khi gi­am một vài trọng phạm mà người ta lo có cuộc làm phản nào đó.

dân chúng xô vào trong nhà tù hò reo vang dội: “Giết bọn phản động! Treo

cổ Cooc­nây đơ Vit! Giết! Giết!

NHỮNG KẺ SÁT NHÂN

N

gười trẻ tuổi vẫn giấu mặt dưới cái mũ rộng, vẫn tỳ tay lên vai viên sĩ

quan, v ẫn lau mặt và chùi mồ hôi bằng cái khăn mùi xoa. Người trẻ tuổi im lặng đứng dưới mái hiên một cửa hiệu đóng cửa, mắt nhìn về cảnh tượng điên cuồng của quần chúng có vẻ như sắp đến gi­ai đoạn chót.

Người trẻ tuổi nói với viên sĩ quan:

- Ô, có l ẽ là ông đúng. Lệnh mà các ông nghị sĩđã ký, đúng là bản án tử hình ông Cooc­nây. Ông có nghe thấy dân chúng không? Quả là họ căm hờn các ông đơ Vit lắm!

- Sự thật là tôi chưa từng được nghe thấy những tiếng la thét như thế này bao

giờ.

- Chắc là họđã tìm thấy buồng gi­am tù nhân của chúng ta! A! Kia kìa, cái

cửa sổ kia phải chăng là buồng gi­am ông Cooc­nây.

Quả là có một người nắm chắt lấy những chấn song sắt cửa sổ buồng gi­am

ông Cooc­nây r ồi hô hoán lên:

- Nó chuồn mất rồi, bà con ơi! Ở ngoài đường còn ùn lại một số người chưa chen được vào bên trong, họ nghe thấy tiếng hô hoán ấy liền hỏi:

- Thế nào, nó không còn đấy à?

- Không, không! Nó không còn đây. Có lẽ nó trốn mất rồi! Người thanh niên được gọi là Hoàng thân, tái mặt đi, hỏi:

- Người ấy nói gì vậy?

- Ôi tâu Hoàng thân, người ấy vừa báo một cái tin rất sung sướng, nếu nó

đúng sự thật.

- Phải, - người thanh niên nói - Tất nhiên sẽ là một cái tin rất sung sướng nếu

nó là s ự thật. Nhưng khốn thay không thể như thếđược!

- Tuy nhiên, Hoàng t?hân nhìn kìa… Thật vậy, dân chúng thấy buồng nhà lao trống không. Họ nhô mặt ra ngoài

cửa sổ tức giận hét:

- Trốn rồi! Vượt ngục rồi! Bọn chúng đã đánh tráo. Họđã để cho nó thoát

rồi!

Và đám dân chúng còn ở ngoài phố nhắc lại cùng với những lời nguyền rủa

khi ếp đảm:

- Trốn thoát! Vượt ngục! Phải đuổi theo chúng!

- Bẩm ngài, hình như Cooc­nây đơ Vit đã biến thật sự rồi. - Viên sĩ quan nói.

- Đúng, nhưng là biến khỏi nhà tù chứ chưa biến khỏi nổi thành phố. - Người

kia trả lời. - Anh Văng Đêken này, rồi anh sẽ thấy cánh cửa mà con người khổ

s ở kia hy vọng mở hóa ra lại là đóng trước mặt hắn.

- Bẩm ngài, đã có lệnh đóng các cửa thông ra biển rồi chăng?

- Không, tôi không tin; ai là người có thể ra lệnh nào?

- Vậy làm sao ngài giả thiết được như vậy? Hoàng thân hờ hững trả lời:

- Người ta đều có số. Có trường hợp những con người vĩđại nhất vẫn phải

quàng vào mình số mệnh tai ngược.

Viên sĩ quan cảm thấy ớn lạnh suốt sống lưng vì anh hiểu rằng số phận

người tù kia đã cạn bằng cách này hay cách khác.

Vào lúc đó, đám đông gào thét như cuồng vì rõ ràng là Cooc­nây đơ Vit

không còn trong nhà gi­am.

Hai ông J ăng và Cooc­nây, sau khi qua bờ ao cá ra phố lớn đi Tôn Hếch thì Jăng dặn người đánh xe phải cẩn thận cho xe chạy từ từđã để không gây bất cứ sự nghi ngờ nào. Đến giữa phố, khi người đánh xe nhìn thấy từ xa cái cổng thành, khi anh ta cảm thấy đã để lại sau lưng nhà tù và chết chóc, khi anh ta trông thấy trước mặt là sự sống và tự do, anh phấn khởi quá quên mất cả lời dặn và cứ cho xe phóng nước đại.

Nh ưng bỗng nhiên anh ghì cương lại.

- Có chuyện gì thế? - Jăng thò đầu ra ngoài cửa xe hỏi.

- Dạ, bẩm các ngài, có… có… Sự khiếp đảm làm người đánh xe không nói thành lời.

- Thế nào, nói tiếp đi chứ! - ông cựu thủ tướng nói.

- Cửa ra biển đóng rồi ạ.

- Cứđi đi! - Jăng đáp. - Tôi đã có lệnh gi­ao hoán rồi, người gác cổng sẽ mở

cửa.

Xe l ại tiếp tục lăn bánh, nhưng người ta cảm thấy như người đánh xe không còn tin tưởng lắm nữa. Rồi lúc thò đầu ra ngoài cửa xe, ông Jăng đã bị một người dân trông thấy, hắn vội vã đóng cửa nhà lại để chạy đến quảng trường Buyten­hôp báo tin cho các bạn của hắn.

M ột lúc sau đã đến Tôn Hếch.

- Mở cổng ra! - Người đánh xe gọi to.

- Mở cửa, mở bằng cách nào? - Người gác cổng đứng trên bậc cửa nhà mình nói.

- Thế ông không có chìa khóa hay sao? - Người đánh xe hỏi.

- Không.

- Tại sao?

- Trời! Tại vì người ta lấy đi mất rồi.

- Ai lấy?

- Người nào đó không muốn để ai ra khỏi cửa này. Tức thì ông cựu thủ tướng thò đầu ra ngoài nói:

- Này anh bạn ơi! Tôi là Jăng đơ Vit đây, hãy mở cửa cho tôi và cho Cooc­nây anh trai tôi, tôi dẫn anh tôi đi biệt xứđây mà. Người gác cổng vội vã chạy lại trước xe sốt sắng nói:

- ồ thưa ông đơ Vit, tôi rất lấy làm phiền, nhưng tôi xin thề với ông rằng sáng nay có người đã đến lấy chìa khóa của tôi mang đi rồi.

- Bao giờ?

- Sáng hôm nay ạ.

- Ai lấy?

- Một người trai trẻ chừng hai mươi tuổi, xanh xao gầy guộc. - Thế tại sao bác lại đưa cho người ta?

- Vì anh ta có lệnh, phong bì dán kỹ và xi đóng cẩn thận mà.

- Ai ký?

- Các ông ở tòa thị chính ạ! Ông Cooc­nây thản nhiên nói:

- Đúng là chúng ta nguy mất rồi. Nhưng ông Jăng hỏi tiếp người gác cổng:

- Tất cả các cửa khác đều trong tình trạng này hay sao?

- Thưa ông tôi không biết. Jăng bảo người đánh xe:

- Thôiđược, Trời sinh ra con người thì con người phải tìm mọi cách để cứu sống mình; anh đánh xe, chúng ta đi cổng khác vậy. Trong khi người đánh xe quay xe, Jăng nói với người gác cổng:

- Cám ơn thiện chí của bác nhé! Và ra lệnh cho người đánh xe:

- Cho phi nước đại! Rẽ trái, hy vọng duy nhất của chúng ta là ởđó. Nhóm người đó là do người chủ hiệu mà chúng tôiđã nói ở trên chạy đi báo,

tr ước chỉ có vài ba người, nay đã lên đến bảy tám người. Tất nhiên họđứng đấy không phải là không có ác ý. Vì vậy khi thấy cỗ xe phóng về phía họ, họ liền đứng ra cản đường, tay cầm gậy giơ lên quát:

- Đứng lại! Đứng lại!

Về phía người đánh xe, anh ta cúi xuống và dùng roi ngựa quất vào mặt họ.

Rồi xe và người xô vào nhau.

Hai anh em đơ Vit ngồi trong xe cửa đóng kín mít nên chẳng trông thấy gì, nhưng hai ông cảm thấy hai con ngựa chồm lên rồi xe lắc một cái rất mạnh như chẹt qua một vật gì tròn và mềm tựa như một cái thân người bị hất ngã, rồi lại tiến lên giữa những tiến nguyền rủa.

- Ôi chao! – Cooc­nây nói – Hình nh ư ta vừa gây ra một việc gì thất đức lắm!

- Phóng lên! – Jăng thét – Phóng lên. Nhưng bỗng nhiên cỗ xe dừng lại.

- Thế nào? – Jăng hỏi.

- Xin mời ông xem kìa! - Người đánh xe nói. Và ông Jăng nhìn ra ngoài. Tất cảđám đông dân chúng vừa ở Buyten­hôp lúc

này đã hiện ra ởđầu phố mà Jăng sẽđi qua. Họ tiến lại, nhanh và ào ào như một

trận cuồng phong.

- Dừng lại, anh hãy trốn đi! - Jăng nói với người đánh xe. - Chạy nữa là vô

ích. Chúng ta, s ố tận rồi.

- Chúng kia rồi, kia rồi! - Hàng trăm tiếng kêu lên.

- Phải, chúng đây rồi! Bọn phản động, quân giết người đây rồi! Những tiếng đó là của đám dân chúng chạy đằng sau xe, trên tay bế một cái

thay người bầm tím, là người lúc nãy đã nhảy vào đầu xe ngựa và bị cỗ xe cán.

Người đánh xe cho xe dừng lại, nhưng mặc dù bị chủ thúc ép, anh cũng

không muốn bỏ chạy tháo thân.

Trong kho ảnh khắc, chiếc xe ngựa bịđámđông vây quanh, ngựa đứng chững lại. Một tên trong đám đông dân chúng cầm cái gậy sắt giáng ngay xuống đầu một con ngựa làm nó lăn kềnh trong càng xe.

Lúc đó, một cánh cửa sổ hé ra. Người ta nhìn thấy bộ mặt tái mét và đôi mắt

âm u c ủa người trai trẻ chăm chú nhìn cảnh diễn ra. Đứng sau hắn, viên sĩ quan cũng thò đầu ra, mặt cũng tái xanh như mặt hắn.

- Ôi, lạy Chúa! – Viên sĩ quan thì thào - Lạy Chúa! Tâu Hoàng thân, sắp sửa diễn ra việc gì thế kia?

- Một việc ghê gớm chứ còn gì nữa! - Người thanh niên đáp.

- Ôi! Ngài nhìn thấy không, họ lôi viên cựu thủ tướng ra khỏi xe đánh đập túi

bụi. Họ xé ông ấy kìa!

- Bọn họ phải tức giận lắm mới làm thế. -Người trai trẻ vẫn thản nhiên trả lời

nh ư mọi khi.

- Và bây giờđến? lượt Cooc­nây bị lôi ra khỏi xe. Ôi ngài nhìn kìa, nhìn kìa.

- Phải, đúng là ông Cooc­nây rồi! Viên sĩ quan bật ra một tiếng kêu nhỏ: Cooc­nây vừa bị một thanh sắt đập vào

đầu làm vỡ sọ.

Sắc mặt người trẻ tuổi trở nên tím tái hơn, điều đó tưởng không thể có được,

và m ắt anh ta bỗng thoáng nhòe sau cặp mi khép lại. Người sĩ quan nhận ra cửđộng xót thương đó. Nhưng người trẻ tuổi đã mở mắt ra. Guyôm d’ Or­ange, vì chính là ông ta, nhăn trán một cách độc địa và nói:

- Đại tá Văng Đêken, tôi yêu cầu đi tìm quân ta ngay để họ sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xảy ra.

- Tôi để ngài một mình trước những hung thủởđây hay sao?

- Đừng quá lo cho tôi. - Hoàng thân nói sẵng.

- Đi đi! Viên sĩ quan đi ngay. Hắn chưa kịp khép cửa buồng lại thì ở ngoài kia, trên mặt phố, Jăng đã lảo đảo do những đòn đấm đá tới tấp.

- Anh tôi, anh tôi đâu? - ông kêu lên. Một tên điên cuồng đấm ông một quả làm mũ ông rơi. Một tên giơ cho ông

xem đôi bàn tay đẫm máu của hắn, đôi bàn tay ấy đã moi bụng ông Cooc­nây, và hắn không bỏ lỡ cơ hội thịt nốt ông “Hưởng ân huệ bổng lộc lớn”. Ông Jăng rên lên một tiếng thảm thiết và lấy ta che mặt. Một tên dân quân nói:

- A! Mày che mắt hả? Tao sẽ chọc nó ra.

Nói xong hắn phóng một con dao vào mắt ông làm máu phọt ra. Jăng vẫn cố

nhìn qua dòng máu và kêu l ớn:

- Anh tôi! Anh tôi đâu?

- Này, đi mà gặp anh mày! Một tên khác gí súng vào thái dương ông vừa nói vừa bóp cò: nhưng phát

súng không nổ. Lập tức nó quay ngược cây súng lại nắm lấy nòng rồi nổ báng

súng vào đầu ông Jăng đơ Vit.

Jăng ngã gục xuống, nhưng rồi ông lại cố gắng dồn hết sức lực cuối cùng

đứ ng lên và kêu:

- Anh tôi! Tiếng kêu đó thảm thiết đến nổi làm cho người thanh niên phải đóng cánh

c ửa sổ lại. Vả lại cũng chẳng còn gì mấy để mà nhìn, vì một tên sát nhân thứ ba nữa giương thẳng súng bắn một phát. Lần này súng nổ và làm vỡ sọ Jăng đơ Vit.

J ăng đơ Vit ngã xuống, không bao giờđứng dậy lại nữa. Thế là những tên khốn nạn trong đám đông ấy táo tợn hẳn lên, đứa nào cũng muốn trút đạn vào cái xác chết ấy, cũng muốn giáng một thanh sắt, một nhát gươm hoặc một nhát dao, kẻ nào cũng muốn làm cho nó phải chảy máu thêm, muốn rứt một mảnh áo của nó. Khi hai người đã chết hẳn, dân chúng xé từng mẳng thịt, đám đông mới kéo lê thân thể trần truồng và đẫm máu của họđến một cái giá treo cổ mới dựng rồi treo ngược họ lên. Bây giờđến lượt những kẻ hèn nhát nhất, lúc nảy không dám làm gì khi xác chết còn là người sống, bây giờ chúng mới mòđến xẻo từng mảng thịt của Jăng và Cooc­nây đã chết để rồi mang ra ngoài phố bán mỗi mảnh thịt mười xu. Chúng tôi không thể nói người trẻ tuổi có xem hết cảnh chết chóc hãi hùng đó không, nhưng có thể nói vào lúc họ treo ngược hai người thì hắn len qua đám đông đểđi Tôn Hếch; lúc này vẫn thấy cửa đóng.

- A! Thưa ông, - người gác cổng nói. - ông mang chìa khóa lại trả tôi đấy

ch ứ?

- Vâng, của bác đây. - Người trẻ tuổi trả lời.

- ôi, thật không may, ông không mang trả tôi trước đây nửa giờ… - Người gác cổng thở dài nói..- Tạ?i sao thế? - Người trẻ tuổi hỏi.

- Vì như vậy tôi đã có thể mở cổng giúp hai ông đơ Vit rồi.

- Cửa! Cửa! - Một tiếng nói hình như của aiđó rất vội vã cất lên. Hoàng thân quay đầu lại và nhận ra ông đại tá Văng Đêken.

- Ông đại tá đó ư? - ông nói. - ông chưa rời khỏi La Haye sao? Thế là ông thi

hành mệnh lệnh của tôi chậm rồi đấy.

- Bẩm Ngài, - viên đại tá nói. - đây là cánh cửa thứ ba tôi tới. Hai cánh trước

tôi đến đều thấy đóng cả.

- Th ế thì cánh này, anh bạn tử tế của chúng ta kia sẽ mở cho chúng ta thôi. Này anh bạn, mởđi! –Hoàng thân nói với anh gác cổng đang hết sức ngỡ ngàng về cách xưng hô trịnh trọng của viên đại tá đối với người trẻ tuổi da mặt xanh xao mà lúc nãy khi tiếp xúc anh đã vô tình “cậu cậu, tớ tớ”.

Bởi vậy, để chuộc lỗi, anh vội mở cửa thật nhanh làm nó rít lên trên goong

s ắt.

- Bẩm Ngài có cần đến ngựa của tôi không ạ?

- Viên đại tá hỏi Guyôm.

- Cám ơn đại tá, chắc phải có ngựa đợi tôi cách đây vài bước. Đoạn ông rút trong túi ra chiếc còi bằng vàng vào thời đó người ta hay dùng

để gọi người hầu, ông thổi một tiếng sắc và to, một người cưỡi ngựa chạy đến dắt theo sau một con ngựa nữa.

Ông nh ảy phắt lên lưng ngựa, thúc vào bụng nó, thẳng tiến về Leyde. Đến đây, Guyôm quay đầu lại, viên đại tá đang đi sau cách một con ngựa, Guyôm ra hiệu cho ông tiến lên đi ngang hàng với mình.

- Ông có biết là bọn chúng đã giết chết Jăng đơ Vit cũng nhưđã giết

Cooc­nây không?

- Ôi! Tâu Hoàng thân - đại tá buồn rầu nói – Tôi muốn hai cái chướng ngại vật ấy vẫn còn tồn tại để Hoàng thân vượt qua mà leo lên ghế quốc trưởng Hòa Lan thì hay biết bao!

- Tất nhiên là việc vừa xảy ra không nên xảy ra thì vẫn hơn. Nhưng dù sao việc gì xảy ra cũng đã xảy ra rồi, chúng ta không phải là nguyên nhân gây ra nó. Thôi, chúng ta phóng nhanh lên để tới được An­phen trước khi liên lạc của các ban đến tìm tôi.

Đại ta nghiêng mình, để cho Hoàng thân tiến lên, còn ông đi theo sau như

trước.

Đôi lông mày nhíu lại Guyômđ’Orăng thúc gót giày vào bụng ngựa và mím

môi lại lẩm bẩm một cách độc ác:

“ Ta mu ốn thấy được bộ mặt của Luy Mặt Trời sẽ ra sao khi được tin người ta đã đối xử như thế nào với hai ông bạn thân đơ Vit của hắn! Ôi, Mặt trời! Mặt trời! Như ta là tên Guyôm lầm lì. Mặt trời! Hãy coi chừng những tia sáng của mi!” Và vị Hoàng thân trẻ tuổi đó phóng nhanh trên con ngựa tốt, ông là một địch thủ quyết liệt của vua Luy XIV và là một vị quốc trưởng mà mới hôm qua còn chưa được vững chắc với thế lực mới của mình, nhưng vừa mới được dân chúng La Hay làm cho một cái bục bằng hai xác chết của Jăng và Cooc­nây đơ Vit; hai ông này cũng là hai vị Hoàng thân trước loài người và trước đức Chúa Trời.

NGƯỜI CHƠI HOA TUYLIP VÀ ÔNG LÁNG GIỀNG

T

rong khi dân chúng La Hay băm vằm xác hai ông đơ Vit, trong khi

Guyôm đ’Orăng yên trí là hai kẻđối địch với mình đã hồn lìa khỏi xác và đang phóng nhanh trên con đường đi Lâyde cùng viên sĩ quan tùy tùng đại tá Văng Đêken - thì Craek­er, người đày tớ t?rung thành của đơ Vit cũng đang phóng ngựa trên con đường giữa hai hàng cây cho đến khi ra khỏi thành phố và tới những vùng lân cận. Lúc bấy giờ thấy đã được an toàn và để cho mọi người khỏi nghi ngờ, Crak­er bỏ ngựa lại và tiếp tục cuộc hành trình bằng đường thủy từng chặn một đểđến Đoocđret. Từ xa, Craek­er đã nhận ra thành phốđỏ vui tươi nằm dưới chân đồi. Đó đây có vài cái cối xay bột. Anh thấy những nhà mái đỏđẹp đẽ với những bức tường trắng phau. Và sau cùng anh nhận thấy ở dốc đồi thoai thoải có một mái nhà màu trắng và hồng, đó là đích chuyến đi của anh. Nóc nhà lẫn trong tấm màn lá màu vàng của các hàng cây dương và nổi bật trên nền xanh tối của các hàng cây du.Thuyền vừa cập bến, Craek­er đã vội vã đi thẳng đến ngôi nhà đó. Ngôi nhà trắng trẻo sạch sẽ tươi tắn làm cho người ta có cảm giác rằng ông chủ nó phải là một con người sung sướng. Con người sung sướng đó là bác sĩ Văng Ba­clơ, con đỡđầu của Cooc­nây đơ Vit. Văng Ba­clơở ngôi nhà này từ hôig còn thơấu. Cha anh buôn bán với Ấn Độđã kiếm được một món tiền ba bốn trăm ngàn Phlorăng để cho cậu con trai Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơ, và sản nghiệp của ông trong tỉnh mang lại tiền lãi hàng năm là mười ngàn Phlorăng.

Ba tháng sau, khi mẹ anh mất, cha anh cũng nối gót qua đời. Lúc sắp chết,

anh ta bảo cậu con trai:

- Con ơi! Con cứăn đi, uống đi, tiêu pha đi, có như thế mới là sống thực sự, chứ sống đâu có phải chỉ là làm việc suốt ngày trên một chiếc ghế gỗ hoặc ghế bọc da thú trong phòng thí nghiệm hay trong một cửa hiệu. Rồi đến lượt con cũng sẽ chết; và nếu con không có được niềm hạnh phúc là có một đứa con trai, con sẽđể cho tên tuổi con mai một đi và cả những đồng Phlorăng cha để lại cho con cũng sẽ vào tay một người chủ mới xa lạ. Nhất là con không được bắt chước cha đỡđầu Cooc­nêliluyt đơ Vit của con mà lao mình vào con đường chính trị, con đường đó bội bạc nhất và sẽ chỉ kết thúc tàn tệ mà thôi.

R ồi ông Văng Ba­clơ cha chết, để lại người con trai đau thương, yêu cha hơn là yêu tiền.

V ậy là Cooc­nêliluyt còn lạ một mình trong ngôi nhà rộng lớn. Cha đỡđầu kiếm việc làm cho anh ở các công sở nhưng anh từ chối. Cooc­nây muốn cho anh được nếm mùi vinh quang nên bố trí anh vào làm việc với đô đốc hải quân Ruyte. Sau một trận chiến đấu với hải quân Anh, anh không thấy hứng thú gì cả cho nên đã vĩnh biệt đô đốc Ruyte, vĩnh biệt cả người cha đỡđầu Cooc­nây; trở về nơi quê hương Đoocđret. Lúc ấy anh mới hai tám tuổi, giàu có, khỏe mạnh, với số tiền vốn là bốn trăm nghìn Phlorăng và mười lăm nghìn đồng tiền lãi hàng năm. Anh muốn tạo dựng một hạnh phúc theo ý riêng của mình; anh bắt đầu nghiên cứu cây cỏ và côn trùng, thu lượm và xếp loại các hoa lá trên đảo - đề tài này anh viết thành một chuyên đề kèm theo các bản minh họa do chính tay anh vẽ - và sau cùng chẳng biết dùng thì giờ và nhất là tiền bạc để làm gì, anh bắt đầu chọn trong cả mớ những cái điên rồ trong nước và trong thời đại anh lấy cái điên rồ thanh lịch nhất và đắt tiền nhất: Anh yêu hoa tuylíp. Đó là thời kỳ mà những người miền Bắc nước Pháp và những người BồĐào Nha ganh đua nhau khai thác thứ hoa trồng trong vườn đó và ?đã đi tới mức thần thánh hóa hoa tuylip, một thứ hoa có nguồn gốc từ phương Đông. Chẳng bao lâu, từĐoocđret đến Môngxơ, chỉ có mỗi vấn đề hoa tuylíp của Văng Ba­clơ là nổi lên cả. Và những cái hố, cái buồng sấy, nhà ươm, những quyển vở về giống má của anh được khách các nơi đến tham quan như thời xưa các vị khách trứ danh La mã đến tham quan thư viện của Alecxăngđri. Văng Ba­clơ bắt đầu dùng tiền thu nhập năm để làm bộ sưu tập của anh, sau đó phải tiêu cả vào tiền vốn để Hòan thiện nó. Do đó anh thu được một kết quả tuyệt vời; anh tìm ra được năm loại hoa khác nhau, một loại anh gọi là Jan, tên mẹ anh, một loại là Ba­clơ, tên cha anh và một loại là Cooc­nây, tên cha đỡđầu của anh; còn những loại hoa tuylíp khác, chúng tôi không tỏ nhưng nếu các vị yêu quý hoa tuylíp, tra cứu các cat­alo thời đó hẳn là thấy. Mùa xuân năm 1672, Cooc­nây đơ Vit đến Đoocđret và ở lại ba tháng trong ngôi nhà cũ của gia đình ông, vì khồn những ông sinh trưởng ởĐoocđret, mà cả gia đình họđơ Vit có nguồn gốc ởđấy. Nói như Guyômđ’Orăng, Cooc­nây đơ Vit từđó bắt đầu được thưởng thức sự bất bình của lòng dân. Tuy nhiên đối với những đồng hương của ông, những người dân thành phốĐoocđret, ông chưa đến nổi là một tên gi­an hùng phải treo cổ. Họ không lấy làm hài lòng lắm về chếđộ Cộng hòa hơi khắc khổ của Cooc­nây đơ Vit, nhưng cũng lấy làm hãnh diện về giá trị cá nhân ông nên đã vui vẻ mang rượu ra đón ông khi ông vào thành phố. Khi đã cảm ơn các đồng hương, ông Cooc­nây về thăm ngôi nhà cũ của cha mẹ ông. Ông ra lệnh cho sửa chữa một vài nơi khác khi bà đơ Vit, vợ ông đến ở cùng với các con.

R ồi ông Cooc­nây đi đến nhà người con đỡđầu, là người độc nhất trong thành phố chưa biết ông đã về thành phố này.

Cooc­nây đơ Vit khi reo bao nhiêu hạt giống có hại mà người ta gọi là những thú say mê chính trịđã làm nảy sinh bao nhiêu những hằn thù tai hại; còn Văng Ba­clơ khi bỏ qua các hoạt động chính trịđểđi sâu vào việc trồng hoa tuylíp thì thu hút được bấy nhiêu cảm tình chan chứa. Do đó, anh được các người giúp việc và các người thợ làm công rất yêu mến. Cũng bởi thể, anh không thể tin được là ởđời này lại có hạng người muốn làm hại người khác. Tuy nhiên lại phải nói đến sự hổ thẹn của loài người, là Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơ cũng có một kẻ thù mà anh không biết, mối thù của tên này thì kín đáo sâu xa và dai dẳng, khác hẳn cách thù của các Orăng­git dữ dằn nhất đối xử với Cooc­nây và Jăng đơ Vit. Vào lúc Cooc­nêliluyt bắt đầu quan tâmđến hoa tuylíp, anh bỏ tất cả lời lãi trong năm vào đấy lại thêm cả vào vốn nữa. Lúc đó, ởĐoocđret cũng có một người say mê như thế; hắn tên là Isaac Bôcten, một thị dân, nhà ởđối diện ngay với nhà của Cooc­nêliluyt. Bôcten là một người từ khi hắn bắt đầu trưởng thành đã say mê sùng bái một tác phẩm tuyệt vời của tạo hóa mà người ta gọi là hoa Tuylip. Bôcten không có cái may mắn được giàu sang như Văng Ba­clơ. Bởi vậy phải thật vất vả, cố gắng và kiên nhẫn trăm đường hắn mới tạo dựng được cho mình ở quê nhà một mảnh vườn để trồng hoa.

Hắn đã cuốc xới theo hướng dẫn và đã ủ các luống hoa theo mức độ nóng

mát khác nhau như sách của các nhà làm vưỠo l�n căn dặn.

Isaac đo được nhiệt độ trong khung nhà kính của mình đúng sai đến một phần hai mươi của một độ. Do vậy các sản phẩm do hắn tạo ra bắt đầu được ưa chuộng. Nhiều người chơi hoa đến thăm vườn của hắn. Sau cùng Bôcten đã tung ra một loại hoa tuylíp lấy tên hắn. Thứ hoa này là một thành công; nó được xuất sang Pháp, Tây Ban Nha, BồĐào Nha; đến ông vua nước này là Alphonse VI đã bị truất khỏi kinh thành Lis­bonne và vềẩn dật ởđảo Ter­ceire lấy việc trồng hoa tuylíp làm thú vui, khi ngắm thứ hoa của Bôcten nói trên cũng phải khen “không phải là tồi”. Trong khi tiến hành các cuộc nghiên cứu. Bỗng nhiên, một sự say mê tương tự cũng bắt đầu xâm chiếm tâm hồn Văng Ba­clơ. Anh liền tu sửa lại nhà ở Đoocđret, xây thêm một tầng ở nhà cũ trên sân; như vậy nhà lên cao đã giảm nóng được nửa độ và ngược lại cũng tăng từng ấy độ lạnh trong vườn của Bôcten. Ấy là chưa kể nó còn chắn mất gió, vf như vậy là nó làm phiền đến các bài tính về trồng trọt của Bôcten. Tuy nhiên anh láng giềng Isaac không coi điều tai hại trên là quan trọng. Văng Ba­clơ chỉ là một anh họa sĩ, nghĩa là một anh thuộc loại điên rồ cứđịnh tái hiện lên vải bằng cách bóp méo những cái diệu kỳ của thiên nhiên. Chẳng qua anh họa sĩ lên.thêm một tầng để xưởng vẽ của anh được thêm ánh sáng là quyền của anh ta chứ có gì đâu. Ông Văng Ba­clơ là một họa sĩ cũng như ông Bôcten là nhà trồng hoa tuylip, anh ta muốn có thêm ánh sáng để vẽ, anh ta lấy mật một độ nhiệt của hoa tuylip của ông Bôcten. Vả lại, Bôcten nhận ra rằng nhiều nắng quá sẽ có hại cho hoa tuylíp; thứ hoa này mọc khỏe và rực rỡ với nắng ấm buổi sáng hay buổi chiều hơn là với nắng bỏng giữa trưa. Thế là gần như hắn biết ơn Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơđã xây cái lọng che cho vườn hắn mà không tính tiền. Chao ôi! Cái anh chàng Bôcten hẩm hiu ấy cụt hứng khi thấy hiện ra qua cửa kính của tầng mới xây nào củ, nào mầm, nào hoa, hoa trồng trên đất, hoa trồng trong chậu, thôi thìđủ thứ liên quan đến nghề nghiệp của một người trồng hoa tuylíp say mê cuồng tín. Có những bó nhãn, những ngăn kéo, những hộp nhiều ngăn bọc lưới sắt để vẫn giữ thoáng mà ngăn được chuột, bọ, gián, rết không phá hoại các củ giống, trị giá mỗi củ hai nghìn Phlorăng. Bôcten bị choáng khi hắn nhìn thấy tất cả thứđó, nhưng hắn vẫn chưa thấy hết niềm đau khổ của hắn lớn lao biết chừng nào. Người ta biết rằng Văng Ba­clơ rất thích những thứđẹp nhất. Anh nghiên cứu sâu sắc thiên nhiên cho các bản vẽ. Nên có thể chỉđể vẽ cây tuylip mà anh đã thu nhặt vào xưởng vẽđủ các dụng cụđể trang Hoàng! Tuy nhiên, mặc dầu đã được ý nghĩ lừa dối phỉnh phờ, Bôcten vẫn không thể cưỡng lại được một sự tò mò cào xé trong lòng. Buổi tối hômấy, hắn áp một cái thang vào bức tường ở giữa hai nhà rồi nhìn vào nhà anh láng giềng Ba­clơ. Hắn nhìn thấy mảnh vườn to lớn hình vuông trước đây chỉ trồng những cây linh tinh đã được xáo lên, đánh thành luống trộn với bùn sông là một thứ hỗn hợp chủ yếu thích hợp với hoa tuylip. Ngoài ra lại còn có sự tính toán đến mặt trời mọc, mặt trời lặn, bóng râm lọc bớt ánh nắng mặt trời buổi trưa, nước tưới nhiều và thuận tiện; tóm lại, điều kiện đầy đủđể khô?ng những thành công mà còn tiến bộ. Không còn nghi ngờ gì nữa. Văng Ba­clơđã trở thành người trồng hoa tuylip rồi! Bôcten nhớ ra ngay con người thông thái kia có bốn trăm ngàn phlorăng tiền vốn, mười ngàn phlorăng tiền lãi, đã dùng hết khả năng về tinh thần và vật chất của mình để trồng đại trà hoa tuylíp. Hắn nhìn trước sự thành công của người này trong tương lai gần đây. Nỗi đau lòng về cái thắng lợi ấy làm cho đầu gối hắn nhũn ra, hai bàn tay hắn buông rời cai thang và hắn thất vọng ngã lộn xuống đất. Văng Ba­clơđã lấy đi mất của Bôcten nửa độ nhiệt cho hoa tuylíp thật chứ không phải cho hoa tuylip làm mẫu vẽ! Vậy là Văng Ba­clơ sắp sữa có một trong những vườn trưng bày hoa tuylip đẹp nhất, ngoài ra lại còn có một phòng rộng, thoáng, mát để chứa những củ giống. Bôcten không thể nào có được sự giàu sang như thế, để làm việc ấy, buộc hắn phải dùng ngay phòng ngủ của mình và đi ngủở nhà kho.

Nh ư vậy là cửa liền cửa, tường tiền tường, Bôcten sắp có một địch thủ, một kẻ có thể thắng mình, và kẻđịch thủđó không phải là một người làm vườn vô danh mà là con đỡđầu của Cooc­nây đơ Vit, nghĩa là có tiếng tăm. Quả thật là không biết rồi sẽ ra sao, nếu Văng Ba­clơ phát minh ra được một thứ hoa tuylip mới vàđặt tên cho nó là Jăng đơ Vit khi đã có mấy thứ lấy tên là Cooc­nây? Sẽ chết ngạt vì tức giận mất!

Do lòng ghen ghét và đố kỵ, Bôcten tự tiên đoán nỗi thống khổ sắp đến với

mình. Đêm hômđó hắn khốn khổđến không thể nào ngủđược.

MỐI HẬN THÙ CỦA KẺ TRỒNG HOA TUYLIP

B

ắt đầu từ hômđó thần trí Bôcten tập trung tất cả vào một mối lo sợ. Suốt

ngày hắn chỉ nghiền ngẫm về những tổn thất mà hắn nghĩ người láng giềng sẽ

mang lại cho mình, hắn mất hết cả sự hăng say và tinh thần phấn khỏi trước đây.

Ng ười ta có thể biết được rằng Văng Ba­clơ một khi đã tập trung tất cả ý chí và sự thông minh vốn có của mình vào một điểm nào, như hoa tuylíp, thì anh sẽ thành công và có được những bông hoa tuylíp đẹp nhất. Hơn cả những người ở Ha­clem và Lâyde là những thành phố có đất đai và khí hậu tốt. Văng Ba­clơđạt được những thành tích về thay đổi màu sắc, thay đổi hình dáng và tăng lên rất nhiều chủng loại hoa tuylip. Từ thế kỷ thứ Bảy, một trường học “khéo léo và hồn nhiên” câu ngạn ngữ được dùng làm khẩu hiệu phát triển vào năm 1653: “Khinh hoa là ghét Chúa”, câu đó là tiền đề cho một suy luận của trường học tuylip, một trường độc đáo nhất, như sau: “Khinh hoa là ghét Chúa. Khinh hoa đẹp bao nhiêu lại càng tỏ ra ghét Chúa bấy nhiêu. Hoa tuylip là thứ hoa đẹp nhất. Vậy kẻ nào ghét hoa tuylíp là kẻ khinh Chúa nhất”. Người ta thấy rằng triết lý ấy có một dụng ý xấu của bốn hoặc năm nghìn người trồng hoa tuylipở Hòa Lan, Pháp và BồĐào Nha, chúng tôi chưa kểđến ở Xâylăng, Ấn Độ, và Trung Hoa, họ muốn đặt thế giới ra ngoài vòng pháp luật và gây tội ly giáo, tội tà giáo đáng tội chết cho hàng trăm người lạnh nhạt với hoa tuylip. Chúng ta không nên nghi ngờ là chỉ vì một nguyên nhân như vậy mà Bôcten, mặc dù là kẻ tử thù của Văng Ba­clơ, lại không chịu đi cùng dưới lá c?ờ của Ba­clơ. Văng Ba­clơđạt được nhiều thành công, nhiều người nhắc đến tên anh khiến tên tuổi của Bôcten vĩnh viễn biến mất trong danh sách những người trồng hoa tuylíp kỳ cựu nhất của đất nước Hòa Lan. Và nghề trồng hoa tuylip ởĐoocđret được tượng trưng bởi Văng Ba­clơ, một nhà thông thái khiêm tốn và hiền lành. Văng Ba­clơ Hòan toàn lao mình vào những công việc gieo trồng, gặt hái. Anh được toàn Châu Âu mến chuộng và không hề ngờ là mình đã chiếm mất ngôi vua của một người khốn khổở ngay sát vách. Anh tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu được những thắng lợi, và chỉ trong hai năm anh đã phủđầy mép vườn hoa của anh những đề tài mà trừ Sêchx­pia và Ruy­ben, chưa một người nào có được những điều kỳ diệu như vậy.

Do v ậy phải xem xét Bôcten suốt trong thời kỳ này. Trong khi Văng Ba­clơ bón, xới, tưới các luống hoa, trong khi anh quỳ xuống bờ cỏđể phân tích từng gân hoa đang nở, suy ngẫm về sự thay đổi có thể làmđược, về các màu sắc có thể thí nghiệm được thì Bôcten trèo lên núp trên cây thích trắng trồng dọc bờ tường, mắt căng ra, mồm nhúm lại,.theo dõi từng bước đi, từng cử chỉ một của Văng Ba­clơ và khi nhìn người bạn hàng xóm có vẻ vui tươi, hay khi bắt gặp trên môi hay trong mắt anh thoáng một nụ cười, hay một tia hạnh phúc là anh ta văng về phía nhà bạn những lời nguyền rủa hay dọa nạt giận dữ, khiến người ta không hiểu sao những hơi độc sặc mùi ghen tị và căm hờn kia thấm sâu vào các cây hoa lại không để lại ởđấy những nguyên nhân hay mầm mống của sự thoái hóa và cái chết. Một khiđiều ác đã làm chủđược linh hồn con người thì nó tiến triển rất nhanh chóng. Chẳng bao lâu Bôcten không còn hài lòng với việc chỉ nhìn Ba­clơ, hắn còn muốn nhìn thấy cả những bông hoa của anh. Vì trong đáy lòng hắn, hắn cũng là một nghệ sĩ cho nên hắn rất muốn được xem những tác phẩm của địch thủ. Bôcten mua một cái ống nhòm tuyệt vời để theo dõi những tiến triển trong công việc tìm tòi và nghiên cứu của Văng Ba­clơ. Mỗi một sự tiến triển của bông hoa, từ khi nó bắt đầu mọc; năm thứ nhất, cái mầm còn non xanh mới nhú khỏi mặt đất, cho đến khi, sau năm năm, nó xuất hiện cái bầu tròn trĩnh duyên dáng đã hơi có màu và phát triển thành những bông hoa, chỉ lúc bấy giờ mới lộ ra những bí mất quí giá của đài hoa. Ôi đã bao lần con người ghen tị khốn khổ kia trèo lên cây, thấy những bông hoa tuylíp nhà bên kia nở mà vẻđẹp và sự Hòan hảo của chúng làm cho anh ta hoa mắt và nghẹt thở. Thế là sau một thời gi­an chiêm ngưỡng và biết mình không thể thắng được, hắn phát ốm vì ghen tức, cái ghen nó gậm nhấm người hắn, biến trái tim hắn thành muôn vàn con rắn nhỏ xoắn tít vào nhau, cắn xé lẫn nhau, đó là nguồn gốc gớm ghiếc của những đau đớn kinh Hoàng. Biết bao lần trong cơn giày vò cắn rứt ấy, Bôcten đã định nhảy vào trong vườn lúc ban đêm để tàn phá các cây hoa, để dùng răng cắn xé những củ giống và mầm non, sát hại luôn cả chủ nhân, nếu người đó muốn bảo vệ những bông hoa của mình. Nhưng giết hại một bông hoa tuylipđối với con mắt của nhà trồng hoa là một tội ác ghê gớm. Tuy nhiên, trước những tiến bộ Văng Ba­clơđạt được hằng ngày trong khoa học mà hình như anh ta thu lượm được bởi linh tính, Bôcten đi ?tới cao độ của lòng tức giận, hắn suy tính đến cách ném đã và gậy gộc vào vườn hoa tuylip của người láng giềng. Nhưng hắn lại nghĩ rằng ngày hôm sau thấy cảnh tàn phá đó, Văng Ba­clơ có thể sẽđiều tra và người ta sẽ nhận thấy là phố thì xa, đá và gậy gộc không thể tự nhiên từ trên trời rơi xuống được, dù tội ác được tiến hành vào ban đêm cũng sẽ bị phát hiện ra, và không những hắn sẽ bị luật pháp trừng trị mà lại còn mất thể diện với thế giới tuylip ở châu Âu. Bôcten đành phải mài sắc mối hận thù của mình bằng mưu mẹo và quyết định tìm một biện pháp không thể kết tội hắn được. Hắn tìm tòi khá lâu và rồi cuối cùng cũng đã tìm được. Một buổi tối hắn buộc hai chân sau của hai con mèo bằng một sợi dây dài hai thước, rồi tư trên mặt tường hắn thả chúng vào khu vườn bậc thầy, khu vườn Hoàng gia, khu vườn vua chúa, nó chứa đựng không những hoa tuylip Cooc­nây đơ Vit, mà còn Brabăngx­on màu trắng sứa hồng và đỏ, hoa Macbrê màu đào và đỏ chói, hoa Côlông­bin tối và hoa Côlông­bin sáng… Hai con mèo hoảng sợ lao vào giữa vườn, mỗi con định chạy trốn mỗi nơi cho đến khi sợi dây căng ra kéo chúng lại. Thế rồi thấy không thểđi xa hơn được, chúng chạy tứ tung kêu meo meo khủng khiếp, sợi dây căng ra như một lưỡi dao dài phạt đứt hết các cây hoa trong vườn. Rồi mười lăm phút sau sợi dây đứt, mỗi con biến mỗi ngả. Bôcten núp sau bức tường không trông thấy gì vì đêm tối, nhưng chỉ nghe thấy tiếng kêu của mèo, hắn cũng co thểđoán ra được hết. Hắn hồi hộp sung sướng. Ý muốn xác định được mức độ thiệt hại lớn lao đến nỗi Bôcten quyết định không rời vị trí rình mò, đợi đến sáng để tận mắt nhìn thấy cảnh tàn phá di hai con mèo gây ra. Nỗi đau lòng của địch thủ sẽ trả giá cho tất cả nỗi thống khổ của hắn. Ánh mặt trời vừa hé sáng, cửa ngôi nhà trắng mở ra. Văng Ba­clơ xuất hiện và đi đến các luống hoa. Bỗng nhiên anh nhìn thấy những hàng cây hoa đối xứng nhau bị tả tơi rách nát như vừa qua một trận bom. Anh tái người chạy đến. Bôcten run lên vì sung sướng. Mười lăm hai mươi cây tuylip xoắn vào nhau, gãy đôi ra nằm sõng xoài cạnh nhau, hoa đã bắt đầu héo, nhựa hoa còn rỏ giọt ở chỗ bị gẫy như giòng máu quý mà Văng Ba­clơđã đổi bằng máu của mình đang chảy. Nhưng ôi, lạ thay! Ôi, sung sướng thay cho Văng Ba­clơ! Ôi, đau khổ thay cho Bôcten! Còn bốn cây tuylip thoát khỏi sự tàn phá. Chúng hãnh diện ngẩng cao đầu quý phái của chúng lên giữa đám xác các bạn chúng. Như vậy cũng là khá đủđể an ủi Văng Ba­clơ, đủđể làm tức giận đến nổ tung con ngươi kẻ phạm tội lúc ấy đang bứt đầu bức tai khi nhìn thấy tội ác của mình không Hòan thành và không có tác dụng lắm. Văng Ba­clơ than thân trách phận mãi vềđiều bất hạnh vừa xảy ra cho anh mà anh chẳng hiểu nguyên nhân vì đâu. Anh chỉ biết được là suốt đêm qua có tiếng mèo gào khủng khiếp. Vả lại những dấu vết chân và móng mèo còn hằn rõ trên các luống đất. Để tránh một tai họa như vậy có thể tái diễn, Văng Ba­clơ ra lệnh cho một người hầu đêm nào cũng phải ngủ tại vườn trong một túp lều dựng tạm.

Bôcten nghe th ấy lệnh đó, hắn thấy ngay ngày hôm ấy cái lều được dựng lên. Hắn lấy làm sung sướng vì khồn bị nghi ngờ gì cả và s�luỵn sàng chờ một dịp khác tốt hơn. Chính vào thời kỳđó, hội những người trồng hoa tuylíp ở thành phố Harlem đặt một giải thưởng cho ai phát hiện - chúng tôi không dám nói cho ai trồng được - một bông hoa tuylíp màu đen, xin nhấn mạnh màu đen, thật là một vấn đề không dễ giải quyết thậm chí không tài nào giải quyết nổi vì hồi đó chưa có giống tuylíp nào màu nâu sẫm huống hồ màu đen. Thế có nghĩa là các vị treo giải thưởng có thểđặt giải hai triệu hay một trăm nghìn livres cũng thế thôi, vì vấn đề coi như không ai làm nổi, tức không giật được giải. Một số tài tử chơi hoa đề cập đến vấn đềấy nhưng họ không tin ở kết quả của nó. Nhưng điều đó chứng tỏ trí tưởng tượng của người chơi hoa mạnh mẽ biết chừng nào. Dù thấy trước lý thuyết của mình sẽ không thành công, họđã dám nghĩđến bông hoa tuylipđen nổi tiếng huyễn hoặc chẳng khác gì con thiên nga đen của Ho­rat hay con sáo trắng của truyền thuyết nước Pháp. Văng Ba­clơ thuộc hàng ngũ những người trồng hoa tuylíp quan tâm đến việc phát minh đó. Bôcten cũng là một trong số người nghĩđến lý thuyết. Một khi Văng Ba­clơđã in sâu công việc đó vào trong bộ óc thông minh và sáng tạo của anh, anh bắt đầu chọn các hạt giống từ từ, cẩn thận và tiến hành các biện pháp cần thiết để chuyển màu những cánh hoa anh trồng từ trước đến nay, từđỏ sang nâu và từ màu nâu non sang màu nâu sẫm. Tới đầu năm sau, anh đã có được những bông hoa đúng màu nâu đen Hòan hảo trong khi Bôcten mới chỉ tìm thấy một màu nâu nhàn nhạt. Thế là một lần nữa Bôcten chịu thua địch thủ của mình, hắn thấy nản chí trong nghiên cứu và hắn lao nhanh vào việc theo dõi. Bôcten bịđịch thủ của mình bỏ xa liền chán công việc trồng trọt; hắn gần nhưđiên dồn hết sức lực ra dò xét mảnh vườn hàng xómđể củ giống của hắn thối rữa trên luống ủ, để hoa của hắn tàn tạ trên luống ươm, đểđời hắn qua đi khi chỉ nhìn.sang nhà bên không quan tâm gì khác ngoài những gì diễn ra ở bên ấy. Đồng hồđiểm một giờđêm là lúc Văng Ba­clơ lại lên phòng thí nghiệm, một căn phòng toàn cửa kính, do đó qua ống nhòm, Bôcten nhìn thấy rõ từng động tác nghiên cứu của kẻđịch thủ tài giỏi của mình. Hắn nhìn anh chọn hạt giống, tưới bằng những chất làm cho nó thay đổi màu hoặc nhiễm màu. Hắn đoán, khi thấy anh sấy nóng một số hạt, rồi lại thấm cho ẩm, rồi lại tạo hỗn hợp với một số khác bằng cách ghép mầm, một phẩu thuật tỉ mỉ và khéo léo. Anh đặt vào trong bóng tối những củ giống sè cho màu đen, anh phơi ra ánh sáng mặt trời hay ánh sáng đèn những giống sẽ cho màu đỏ, cho soi bóng xuống nước những giống sẽ cho màu trắng. Cái trò ảo thuật hồn nhiên ấy là kết quả của mộng tưởng trẻ con và tài năng người lớn; cái lao động cần cù và vĩnh viễn ấy, Bôcten thấy mình không có khả năng. Thật là lạ lùng, bao nhiêu điều bổ ích ấy và lòng say mê nghệ thuật không dập tắt được trong con người Bôcten đã biến thành lòng ham muốn hung bạo và khao khát trả thù. Đôi khi nhìn Văng Ba­clơ trong ống nhòm hắn tưởng tượng đang ngắm anh trên đầu mũi súng, hắn đưa ngón tay lên bóp cò để bắn anh một phát cho chết.

Thời kỳđó là thời kỳ ông Cooc­nây đơ Vit về thăm thành phố quê hương.

NGƯỜI SUNG SƯỚNG LÀM QUEN VỚI NỖI BẤT HẠNH

S

au khi giải quyết xong việc gia đình, Cooc­nây đơ Vit đến thăm conđỡ

đầ u Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơ vào tháng giêng năm 1672. Đêmđã đến, mặc dù ít hiểu biết về nghề trồng trọt ông Cooc­nây cũng đi

th ăm quan tất cả ngôi nhà, từ xưởng đến nhà trồng cây, từ những bức vẽđến những bông hoa tuylipđẹp. Ông cảm ơn Văng Ba­clơđã lấy tên ông đặt tên cho một bông hoa tuyệt vời. Trong khi ông đi thăm kho tàng quý báu của Ba­clơ, một đámđông dân chúng vì tò mò và vì kính trọng cũng có, tập trung ngoài cổng ngôi nhà của con người sung sướng. Tất cả tiếng động ấy làm cho Bôcten phải chú ý. Hắn bèn leo lên phòng thí nghiệm của hắn, và mặc dù trời lạnh, hắn cũng giương ống nhòm lên. Từ mùa thu năm trước đến nay, cái ống nhòmấy đối với hắn không còn tác dụng nữa. Bông hoa tuylip mỏng manh như cô gái Phương Đông không trồng được ngoài trời vào mùa rét. Nó cần phải được ở trong nhà, cần phải có cái giường ấm trong ngăn kéo, và những cái vuốt ve êm dịu của lò sưởi. Do đó cả mùa đông. Văng Ba­clơở trong phòng thì nghiệm giữa các chồng sách và các bức họa. Rất ít khi anh vào phòng củ giống, nếu có vào cũng chỉ khi nào ngoài trời có ánh nắng, anh vào để mở cửa cho ánh nắng tràn vào.

Buổi tối hôm đó sau khiđã cũng nhau đi thăm các phòng, theo sau có vài

người hầu. Cooc­nây nói nhỏ với Văng Ba­clơ:

- Con ạ! Con cho các người hầu đi xuống, cha muốn nói chuyện với con một

mình. Ba­clơ cúi đầu tuân theo, sau đó nói:

- Thưa cha, cha có muốn đến thăm phòng sấy hoa tuylip của con không? Phòng sấy hoa tuylip, như nhà Đan­phơ xưa kia, là nơi cấm những người

phàm t ục không được lai vãng đến. Do đó, không có một người đầy tớ nào được vào. Văng Ba­clơ chỉ cho phép một bà già, trước đây là vú nuôi anh, được vào để quét tước dọn dẹp mà thôi. Vì vậy khi nghe nói đến phòng sấy, mấy người đầy tớ cầm đuốc đều rút lui cả. Văng Ba­clơ cầm lấy một cây đèn nến rồi dẫn cha đỡ đầu vào trong phòng. Phòng sấy là một phòng kín mà Bôcten thường xuyên chĩa ống nhòm vào. Lúc này hắn cũng đang ở vị trí ấy. Trước tiên Bôcten thấy căn phòng sáng lên rồi hai cái bóng đen xuất hiện. Một trong hai bóng đen đó to lớn, đường bệ, nghiêm nghị ngồi xuống cạnh cái bàn mà Văng Ba­clơ vừa để cây nến lên. Bôcten nhận ra cái bóng đó là Cooc­nây đơ Vit với bộ tóc đen dài rủ xuống đến vai.

Bôcten th ấy Cooc­nây nói mấy câu gì đó với Văng Ba­clơ, vì hắn chỉ trông thấy đôi môi mấp máy nên không hiểu được nghĩa. Rồi hắn thấy Cooc­nây lôi trong áo ngực ra trao cho con đỡđầu một gói đồ, thấy cung cách Văng Ba­clơđỡ lấy và cất vào trong một cái hộc, hắn đoán tập giấy ấy phải là rất quan trọng. Thoạt đầu hắn nghĩ là gói giấy quý báu ấy bọc một số củ giống mới vừa từ Ben­gan hoặc Xâylăng gửi đến. Nhưng hắn nghĩ lại ngay là Cooc­nây không phải là người chơi hoa mà chỉ chuyên trồng “người” và “người” đối với hắn là loại cây xấu, khó chơi, khó nở hoa. Nên hắn quay lại ý nghĩ góiđó chắc hẳn chỉ đựng giấy tờ, mà giấy tờđó chỉ có thể là tài liệu chính trị. Nhưng tại sao lại đem tài liệu chính trị cho Văng Ba­clơ l?à người thường hay khoe khoang là rất xa lạ đối với các vấn đề chính trị? Có lẽ ông Cooc­nây gi­ao tài liệu cho người con đỡđầu cất giấu vì ông đã bắt đầu bị dân chúng phản đối, ông làm như vậy là rất khôn khéo vì Văng Ba­clơ không hiểu biết gì về chính trị, cho nên sau này nếu có xảy ra vấn đề gì cho ông Cooc­nây sẽ chẳng ai nghi ngờđến Văng Ba­clơ là nơi cất giấu tài liệu. Vả lại nếu cái gói ấy đúng là củ giống, Bôcten hiểu đối thủ của hắn lắm, chắc chắn là Văng Ba­clơđã phải vội vàng mở ra ngay để biết giá trị của chúng. Đăng này Văng Ba­clơ lại chỉ kính cẩn đỡ lấy từ tay Cooc­nây để rồi lại kính cẩn đặt nó vào trong ngăn kéo và đẩy nó vào tận cùng bên trong, có lẽđể nó khỏi bị trông thấy và cũng có thể là để nó chiếm ít chỗ còn dành cho những củ giống. Cái gói đã được để vào trong ngăn kéo rồi, ông Cooc­nây này đứng lên nắm chặt bàn tay người con đỡđầu rồi đi ra phía cửa. Văng Ba­clơ vội cầm lấy cây đèn nến và tiến lên phía trước để soi đường. Thế là ánh sáng tắt ngấm trong phòng kính để rồi lại xuất hiện ở cầu thang, rồi ở hành lang và sau cùng ở ngoài đường, lúc đó vẫn còn đông người đứng đợi để xem ông Cooc­nây lên xe. Kẻ ghen ăn không hề nhầm lẫn trong suy đoán của mình. Gói đồ của Cooc­nây trao cho con đỡđầu chính là những bức thư trao đổi giữa ông Jăng đơ Vit và ông De Lou­vois người Pháp. Có điều Cooc­nây không hề lộ cho Ba­clơ biết đó là các tài liệu chính trị quan trọng, đúng như Cooc­nây kể lại với người em trai mình. Ông chỉ căn dặn con là chỉđược trao lại tận tay cho ông hoặc có chữ ký của ông còn tuyệt đối không đưa cho ai dù người đó có yêu cầu. Ông Cooc­nây đi khỏi, đèn đã tắt và cửa đã đóng, Ba­clơ không nghĩđến gói đồ nữa. Trái lại, như một hoa tiêu lành nghề, Bôcten nhìn bọc gửi như một đám mây đen đằng xa đang lớn dần và chứa đựng trong nó sấm sét và bão táp. Cả hai ông Jăng lẫn Cooc­nây đơ Vit không thể nào tìm thấy trong khắp nước Hòa Lan một kẻ thù nào dữ dội như Văng Ba­clơđã có ở người láng giềng Bôcten. Không biết chuyện gì nên Ba­clơ yên tâm tiếp tục đi làm công việc của mình với mong muốn đoạt được giải thưởng của Hội trồng vườn Harlem. Anh đã qua được gi­ai đoạn biến bông hoa tuylíp màu nâu sẫm sang màu cà phê rang; vào chính ngày ở La Haye xảy ra sự kiện khủng khiếp chúng tôiđã kểở chương đầu thì một giờ trưa ở quê anh, Ba­clơ nhấc những mắt mầm của một củ hoa màu cà phê rang lên khỏi lớp đất. Đến một ngày nào đó nhất định nó sẽ cho ra cây tuylíp có hoa màu đen vĩđại. Đúng ngày 20 tháng tám 1672, hồi một giờ trưa, Cooc­nêliluyt ở trong buồng sấy ngây ngất ngắm nhìn ba mắt mầm anh vừa tách ra khỏi củ hoa giống anh ươm. Vừa tách mầm anh vừa tự nhủ:

- Ta sẽ tìm ra giống hoa tuylíp đen. Ta sẽđoạt giải thưởng trăm nghìn

phlorăng của Hội trồng vườn. Ta sẽ phân phát cho dân nghèo Đoocđret.

Người ta sẽđặt tên con gái ta, con gái của những buổi ta thức thâu đêm, của

công lao động miệt mài, của trí tuệ ta là gì nhỉ? Tuylip đen Bae­len­git.

Bar­laen­git, m ột tên đẹp, được đấy! Cả châu Âu của hoa.tuylíp có nghĩa là cả châu âu trí tuệ sẽ giật mình khi tin này được tung ra bốn biển năm châu. Hoa tuylípđen vĩđại! Tên nó l�ột� gì? Những người yêu hoa hỏi. - Tuli­pa ni­gra Bae­len­git - Sao gọi là Bae­len­git? Vì người phát minh ra nó là Văng Ba­clơ, có người trả lời - Văng Ba­clơ là ai? - Đó là tên người đã tìm ra năm loại hoa mới; hoa Jăngne, hoa Jăng đơ Vit, hoa Cooc­nây v. v… Đó mới là tham vọng của ta. Nó không làm ai phải trả giá bằng nước mắt. Và có lẽ người ta còn nói đến hoa Tuli­pa ni­gra Bae­len­git khi cha đỡđầu của ta, nhà chính trị lỗi lạc, còn được biết đến là do ta mượn tên ông đặt cho hoa.

Những mầm giống này mới đẹp làm sao!…

Thế là Cooc­nêliluyt thích thú ngắm nghía những mắt mầm hoa; Cooc­nêliluyt

đắ m mình trong những mộng mơđẹp đẽ. Bỗng nhiên chuông ở buồng anh kêu gấp gáp. Ba­clơ giật mình, úp tay lên mấy mắt hoa rồi ngoái đầu lại hỏi:

- Ai ngoài đó?

- Thưa ông, tôi là Craeke ạ.

- Craeke ở nhà ông Jăng đấy hả? Được! Chờ một tí.

- Thưa, tôi không thể chờđược. Cùng lúc bất chấp tập tục, Craeke nhảy xổ vào buồng sấy.

- Chết chửa! - Cooc­nêliluyt nói. - Có chuyện gì thế Craeke?

- Thưa ông, có chuyện, - Craeke vừa đặt một mảnh giấy lên chiếc bàn rộng

vừa nói. - ông đọc ngay giấy này đi cho.

Vì Craeke cho rằng ởĐoocđret mình cũng thấy những dấu hiệu hỗn loạn

nh ưở La Haye liền chuồn ngay không ngoái cổ lại.

- Được! Được, ta sẽđọc ngay đây. - Cooc­nêliluyt nói. Đúng lúc ấy, cánh cửa buồng sấy lay chuyển rất dữ rồi bật tung, Cooc­nêliluyt đỏ mặt tía tai quát:

- Gì thế nữa! Nhà này điên cả rồi hay sao?

- Thưa ông, thưa ông! - Một gia nhân chạy vội vào, mặt tái mét vì sợ còn hơn cả Craeke lúc nãy.

- Gì thế? - Cooc­nêliluyt hỏi. Lúc này anh cũng cảm thấy một tai họa.

- Dạ, xin ông chạy trốn ngay, chạy trốn mau lên! - Người đày tớ nói.

- Trốn, làm sao phải trốn?

- Thưa ông, quân chính phủđến đầy nhà.

- Họ muốn gì?

- Họ tìm bắt ông..- Bắt ta?

- Thưa ông đúng vậy. Có một viên quan hành chính đi trước.

- Thế nghĩa là gì? - Văng Ba­clơ vừa hỏi vừa nắm chặt hai mắt mầm hoa; anh hốt hoảng nhìn ra cầu thang.

- Họ lên đấy ạ. - Người đày tớ nói to.

- ôi! Cậu ơi! Cậu ơi! - Đến lượt người vú nuôi chạy vào nói. - Xin cậu lấy

tiền vàng, lấy tư trang chạy đi, chạy đi mau lên!

Vừa lúc đó, qua các chắn song cầu thang người ta thấy những mũi nhọn của

giáo mác binh lính nhô lên.

Về phần Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơ, điều quan tâm duy nhất là những mắt

mầm hoa quý giá.

Anh đưa mắt nhìn quanh xem có mảnh giấy nào không để gói chúng nhưng chỉ thấy có tờ giấy từ sách Kinh Thánh xé ra do Craeke để lại; anh cầm lấy song vì tinh thần rối loạn anh không nhớ ra tờ giấy ấy ởđâu ra. Anh lấy ba mắt mầm củ hoa gói lại, giấu trong ngực và đứng đợi. Các binh lính do viên quan hành chính đi đầu cùng lúc bước vào.

- ông có phải là bác sĩ Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơ không?

- Viên quan hỏi mặc dầu biết rõ người mình hỏi là ai, nhưng làm vậy là ông

tiến hành đúng luật định?

- Thưa ngài Van Spen­nen, chính là tôi, ngài thừa biết tôi là ai. - Văng Ba­clơ

nói, rồi cúi chào ông thẩm phán một cách lịch sự.

- Thế thì ông hãy đem nộp ra đây những giấy tờ phản loạn ông cất giấu trong

nhà.

- Thưa ngài Van Spen­nen. - Cooc­nêliluyt trả lời.

? - Tôi cam đoan với ngài tôi Hòan toàn không hiểu ý ngài nói gì. Viên quan nói:

- Thế thì tôi nói ông rõ: ông hãy nộp những giấy tờ của tên phản bội Cooc­nây đơ Vit gửi ở nhà ông tháng giêng năm trước. Cooc­nêliluyt chợt hiểu ra.

- ồ ! ồ ! - Van Spen­nen nói tiếp, - ông nhớ ra rồi có phải không?

- Có lẽ thế, nhưng ngài bảo là giấy phản loạn thì tôi không có thứ giấy ấy.

- à, thế ông chối à?

- Tôi không chối, tôi chỉ không công nhận. Viên quan quay người nhìn khắp gi­an buồng một lượt.

- Buồng nào ở nhà ông gọi là buồng sấy? -Viên quan hỏi.

- Chính buồng này đây, thưa ngài. Viên quan liếc nhìn tờ giấy con cầm trong tay..- Thế thì được. - Ông nói kiểu người hiểu rõ công việc mình làm. Ông quay sang nhìn Cooc­nêliluyt.

- Ông có nộp cho tôi những giấy tờđó không?

- Thưa ngài Van Spen­nen, tôi không thể làm thếđược. Những giấy tờđó

không phải của tôi, đó là giấy tờ người ta gửi màđã là đồ gửi là đồ thiêng liêng.

- Ông Cooc­nêliluyt! - Ông thẩm phán nói. - Lấy danh nghĩa Nhà nước tôi ra

lệnh cho ông mở tủ nộp các giấy tờ cất trong đó.

Ông th ẩm phán chỉ ngăn kéo thứ ba ở chiếc tủ kê gần lò sưởi. Quả nhiên trong ngăn kéo có gói đồ của Ru­art de Pul­ten gửi con đỡđầu giữ hộ, điều đó chứng tỏ cảnh sát đã được báo rõ ràng.

Th ấy Văng Ba­clơ vẫn đứng im, viên thẩm phán nói tiếp:

- Ông không muốn hả? Tôi sẽ tự mở lấy. Nói xong, ông ta rút ngăn kéo ra suốt chiều dài của nó, lúc đầu còn thấy toàn

những củ giống, củ nào cũng có đề nhãn hiệu hẳn hoi, rồi đến bọc giấy vẫn

đúng như trong tình trạng lúc ông Cooc­nây khốn khổ gi­ao cho người đỡđầu.

Viên thẩm phán bóc giấy gắn xi ra, xé phong bì ngoài rồi đưa cặp mắt khao

khát nhìn vào nh ững tờ giấy bên trên và kêu lên:

- A! Tin báo về tòa không sai chút nào!

- Sao! – Văng Ba­clơ nói – Ông nói gì ạ?

- Thôi, đừng có giả vờ thêm mà làm gì, yêu cầu ông Văng Ba­clơđi theo tôi.

- Sao! – Văng Ba­clơ kêu lên - Tôi phải đi theo ông à?

- Phải! Vì nhân danh nhà nước, tôi bắt ông. Người bắt giữ chưa nhân danh Guyômđ’Orăng bởi vì ông ta lên ngôi quốc trưởng chưa được bao lâu.

- Bắt tôi à? – Văng Ba­clơ kêu lên. – Nhưng tôi đã làm gì?

- Vấn đềđó không can gì đến tôi, ông đi mà thanh minh với các vị quan tòa.

Ởđâu?

- Ở La Hay. Văng Ba­clơ thẫn thờ. Anh ôm hôn người vú nuôi đang ngất đi và bắt tay

nh ững người đầy tớđang đứng khóc rưng rức, rồi đi theo viên thẩm phán. Ra đến ngoài đường, viên thẩm phán nhốt anh vào một cổ xe như một tù nhân của nhà nước và cho xe chạy phóng thẳng về La Hay.

MỘT CUỘC XÂM LĂNG

H

ẳn ai cũng đoán biết được sự việc vừa xảy ra là một tác phẩm do bàn tay quỷ quyệt của Bôcten đạo diễn. Ta còn nhớ hắn đã dùng ống nhòm theo dõi được hết những chi tiết về cuộc

g ặp gỡ giữa hai cha con Văng Ba­clơ. Hắn không nghe thấy, nhưng hắn trông thấy hết. Kết quả là, vì Bôcten theo dõi tình hình chính trị sát hơn Ba­clơ, nên khi hay tin Cooc­nây đơ Vit bị bắt vì tội phản quốc, hắn đã thấy ngay rằng chỉ cần nói một câu là cả cha nuôi lẫn con đỡđầu sẽ cùng bị b�

khát n��t một lúc. Tuy vậy, mặc dù mở cờ trong bụng, lúcđầu hắn cũng không khỏi rùng mình khi nghĩ rằng vì lời tố cáo của hắn có thể có người phải lên đoạn đầu đài. Nhưng Bôcten cũng không lạ gì là Văng Ba­clơđã thành công trong việc tìm tòi tạo giống hoa tuylíp mới màu đen. Dù là một người khiêm tốn, Văng Ba­clơ cũng không thể giấu được những người thân nhất là đến năm 1673, anh tin tưởng chắc chắn anh sẽ giật được giải thưởng trăm ngàn Phlorăng của Hội Trồng Hoa Ha­clem. Thế nhưng sự tin tưởng chắc chắn của Văng Ba­clơ lại là cơn sốt đang giày vò Bôcten. Nếu Văng Ba­clơ bị bắt, việc đó sẽ gây nên rối loạn lớn trong gia đình anh, chắc chắn sẽ không người nào còn nghĩđến chuyện chăm sóc hoa tuylíp trong vườn nữa. Vào chính đêm đó, hắn nghĩ sẽ leo tường vào nhà Ba­clơ. Biết trước chỗ củ ươm hoa tuylíp đen nằm ởđâu, hắn sẽđến thẳng chỗấy lấy: thay vì hoa nởở nhà Cooc­nêliluyt, bông hoa màu đen sẽ khoe sắc ở nhà hắn và chính hắn không những sẽđoạt giải thưởng một trăm nghìn phlorăng mà còn được hưởng vinh dự lớn lao đặt tên cho hoa là Tuli­pa ni­gra Box­ten­len­sis. Một mũi tên nhằm hai mục đích: vừa trảđược thù riêng, vừa thỏa được lòng tham nặng túi. Để thực hiện, hắn viết một thư nặc danh chính xác đến từng chi tiết rồi gửi qua bưu điện. Chưa một tờ giấy nào bỏ vào hòm thư lại gây nên một hậu quả ghê gớm và nhanh chóng như vậy. Ngay chiều hôm đó, viên quan thanh tra đầu ngành nhận được thư Bôcten, hắn lập tức triệu tập các đồng sự. Sáng hôm sau họ họp quyết định bắt gi­am và trao lệnh cho thẩm phán Van Spen­nen thi hành; ông này đã làmđúng phận sự như chúng ta thấy. Văng Ba­clơ bị bắt đúng vào lúc bọn Orăng­git đang quay những mảnh thịt của xác hai anh em Cooc­nây và Jăng đơ Vit. Song hoặc vì hổ thẹn hoặc vì yếu bóng vía sợ việc tày đình, Bôcten không dám chĩa ống nhòm sang nhà Văng Ba­clơ ngày hômđó. Hắn thừa biết chuyện gì xảy ra bên nhà Văng Ba­clơ kia rồi nên không cần phải ngó ngàng gì nữa. Hắn không buồn đứng dậy khi người đầy tớđộc nhất của hắn vào buồng hắn, người đầy tớ này cũng thèm khát số phận của các bạn đồng nghiệp bên nhà Văng Ba­clơ chẳng kém gì Bôcten thèm khác số phận người chủ.

Vào khoảng chín giờ sáng, hắn giật mình khi nghe thấy có tiếng ồn ào ngoài

ph ố. Một người hầu chạy vào hí hửng báo tin cho chủ, hắn kêu lên:

- Thưa ông chủ, ông không biết điều gì đang xảy ra sao?

- Làm sao ta biết được. - Bôcten trả lời khẽ nghe không rõ..- ông Ba­clơ bị bắt rồi, người ta tống ông lên xe chởđi La Haye rồi.

- Đi La Haye?

- Vâng, nếu đúng như vậy thì nguy to cho ông ta đấy.

- Thế người ta nói gì? - Bôcten hỏi.

- Trời ơi! Người ta kể rằng vào giờ này có lẽ hai ông Cornéille và Jăng đơ

Vit đang bị các thị dân sát hại.

- ôi! - Bôcten lẩm bẩm, hắn nhắm mắt lại nhưđể không nhìn thấy cái cảnh

hãi hùng đang diễn ra trước mắt hắn. Quả vậy, Isaac Bôcten phát ốm như chính mình đã giết chết một ai. Đúng vậy, hắn đã giết chết người đó nhằm hai mục đích mà mục đích thứ nhất đã đạt, bây giờ tính đến mục đích thứ hai phải thực hiện. Đêm đến, cái đêm mong đợi của Bôcten đã đến. Hắn đã tính toán kỹ: không ai nghĩđến chuyện canh gác khu vư� ngƝn. Nhà cửa,

gia nhân đều bịđảo lộn lung tung. Trong vườn, thảy đều im ắng. Không một

tiếng động có thể phá tan sự im lặng.

H ắn vắt chân qua tường, ngồi nghỉ một lúc trên đó rồi khi tin chắc không có gì đáng sợ, hắn rút chiếc thang bên tường nhà hắn, kéo qua, đặt sang vườn nhà Cooc­nêliluyt rồi nhẹ nhàng tụt xuống từng bậc.

Vì biết rõ luống Ba­clơđặt các mầm giống hoa tuylípđen sau này ởđâu, hắn

ch ạy thẳng đến đó, đến đúng chỗ hắn sục tay vào chỗđất mềm, tìm. Hắn chẳng thấy gì, tưởng mình nhầm lẫn. Mồ hôi vã ra. Suýt nữa hắn phát rồ khi nhận ra chỗđất này đã bị bới đào ngay sáng hôm

nay.

Thật vậy, Cooc­nêliluyt đã bới lấy củ giống lên như chúng ta đã biết và chia

ra làm ba m ầm giống. Bỗng nhiên, một tia hy vọng cuối cùng lóe sáng trong đầu óc tên ăn trộm. Chắc là các mầm được cất trong buồng sấy. Vậy là hắn lại mò vào đấy như lúc nãy vào vườn. ởđấy, chắc sẽ tìm thấy. Thật ra không có gì khó. Các cửa kính ở buồng sấy được nâng lên dễ như

b ỡn. Thang đặt vừa đúng tầm khung cửa sổ. Bôcten nhét chiếc đèn ló vào túi, trèo lên thang và nhảy vào buồng.

Trong nh ật ký ghi chép của Ba­clơ thấy có những dòng chữ sau đây: “Hôm nay là ngày 20 tháng tám 1672, tôi đào củ hoa tuylíp lên và tách được ba mắt hoa Hòan hảo”. Đọc xong Bôcten gầm lên: “Những củ giống, những củ giống ấy nó đểở đâu?” Hắn lục tung tất cả lên, rồi bỗng nhiên hắn đấm vào trán hắn và kêu lên: “Ôi, sao mà ta khốn nạn thế! Có ai người ta bỏ mầm củ của mình lại mà ra đi không? Có ai người ta đi La Hay lại để củ giống ở lại Đoocđret không? Có ai xa củ giống mà sẽ nở ra hoa tuylípđen không? Nó còn thì giờđể! Thằng khốn kiếp ấy đã mang chúng đi La Hay rồi!”

Đó là một tia chớp chỉ cho Bôcten thấy cái vực thẳm của tội ác mà hắn đã gây ra. Như bị sét đánh, hắn gục xuống bàn, đúng cái bàn mà mấy giờ trước đó Văng Ba­clơ tội nghiệp đã say sưa ngắm nghía những củ giống hoa tuylip đen.

Rồi hắn ngẩng đầu lên nghĩ thầm: “Nếu nó giữ trong người, nó chỉ có thể giữ

được khi nó còn sống, và khi…”

Đ oạn cuối của cái ý nghĩ xấu xa ấy chỉ biểu hiện bằng một nụ cười nham hiểm: “Những củ giống ở La Hay vậy ta không còn có thể sống ởĐoocđret này được nữa. Phải đi La Hay! Phải đến La Hay!” Và Bôcten chẳng thèmđể ý đến những đồ vật quý giá trong phòng, vì hắn còn mải nghĩđến cái kho tàng quý báu hơn nhiều. Hắn trèo qua cửa sổ, tụt xuống thang, gầm gừ như con thú dữ.

CĂN PHÒNG GIA ĐÌNH

K

hi Văng Ba­clơ tội nghiệp vào đến ngục Buyten­hôp, trời đã nửa đêm.

Đ iều mà Rô­da đoán trước đã xảy ra. Thấy phòng gi­am ông Cooc­nây trống rỗng, dân chúng tức giận lên đến cực độ. Nếu thấy lão Gri­phuyt ởđó, hẳn là lão phải trả giá cho tù nhân của lão rồi.

Nhưng nhờ có sự phòng xa của Guyôm đã cho đóng cửa thành lại, nỗi tức

giận ấy đã trút lên đầu hai anh em đơ Vit.

V ậy là có một lúc nhà tù không có một người nào và sự im lặng đã kế tiếp cơn sấm sét của những tiếng gầm thét. Lợi dụng cơ hội đó?, hai cha con Rô­da chui từ trong ngục tối ra, và tạm đóng cửa nhà tù lại, nói tạm đóng là vì cánh cửa đã bị vỡ một nửa. Đến bốn giờ chiều người ta nghe thấy tiếng ồn ào trở lại, nhưng không có gì phải lo ngại cho hai cha con Rô­da cả. Đó là người ta kéo hai cái xác chết đến giá treo cổở nơi mọi khi. Lần này Rô­da lại phải trốn để tránh khỏi phải nhìn thấy thảm cảnh ấy.

Đến nửa đêm, người ta đập cửa nhà tù Buyten­hôp. Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơ

được đưa đến đây.

Khi người cai ngục “tiếp đón ông khách mới” và đọc lý lịch trên giấy gi­ao

nhận tù thì hắn mỉm cười rất “cai ngục”.

- Con đỡđầu của Cooc­nây đơ Vit à? Ởđây ta có căn buồng gia đình, tôi sẽ

dành cho anh đấy!

Thích thú v ới lời bông phèng vừa nói, tên orangiste dữ tợn cầm chiếc đèn lồng và chùm chìa khóa dẫn Cooc­nêliluyt vào chính buồng gi­am Cooc­nây đơ Vit vừa rời khỏi sáng nay.

Trên đường đi tới buồng gi­am, anh thanh niên chơi hoa thất vọng chỉ nghe

thấy tiếng sủa của một con chó và chỉ trông thấy mặt của một thiếu nữ.

Con chó t ừ trong chuồng đục trong tường đi ra kéo theo một cái dây to tướng, nó ngửi ngửi làm quen với hơi hướng của Văng Ba­clơđể khi nào có lệnh thì xông vào cào xé anh. Khi Văng Ba­clơ bước vào bậc cầu thang làm nó kêu cọt kẹt, cô thiếu nữ mở cửa sổ một cái buồng ở ngay dưới gầm cầu thang, tay phải cầm một ngọn đèn mà ánh sáng của nó soi sáng khuôn mặt hồng hào và duyên dáng của cô đóng khung trong một bộ tóc hung tết thành từng bím dày. Còn tay trái cô kéo cái áo ngủ trắng lên che ngực vì cô đang say ngủ thì Văng Ba­clơđến đột ngột làm cô phải thức giấc.

Th ật là một bức tranh tuyệt đẹp để nhà họa sĩ vẽ cảnh: một cái cầu thang xoắn ốc đen ngòmđược chiếu sáng bởi ngọn đèn lồng của người cai ngục, trên là bộ mặt sắt đá tàn ác của Gri­phuyt rồi đến bộ mặt sầu thảm của Văng Ba­clơ đang cúi xuống lan can để nhìn, phía dưới anh, trong một khung cửa sổ sáng là bộ mặt ngọt ngào của cô thiếu nữ Rô­da trong một cử chỉ bẽn lẽn và có thể là hơi phật ý vì vị trí đứng trên cao của Văng Ba­clơ có thể nhìn thấy đôi bờ vai tròn trĩnh trắng trẻo của cô. Nhưng vấn đề người họa sĩ không làm nổi lên được trong bức họa là vẻ mặt thương cảm của Rô­da khi cô gái nhìn thấy người thanh niên xanh xao đó chậm rãi bước lên cầu thang, và cô có thể nói với anh câu nói ghê rợn của người bố: “Anh sẽ có căn phòng gia đình”. Cảnh tượng đó tả thì lâu nhưng thực tế chỉ xảy ra một thoáng, rồi lão Gri­phuyt tiếp tục đi và Văng Ba­clơ bắt buộc phải đi theo, năm phút sau hai người đi tới buồng gi­am mà không cần phải tả nữa vì các bạn đọc đã biết cả. Sau khi chỉ cho người tù chiếc giường của anh ta, chính chiếc giường người cha đỡđầu của anh bao lâu đã nằm đau đớn ê chề trước khi trút hơi thở cuối cùng để đi gặp Chúa vào sáng nay, Gri­phuyt cầm lấy cây đèn ra khỏi buồng gi­am. Trơ lại một mình, Cooc­nêliluyt nằm vật xuống giường nhưng anh không ngủ. Anh giương cặp mắt nhìn trừng trừng vào cái cửa sổ có căng lưới sắt trông ra quảng trường Buyten­hôp.

Đó đây trong đêm tối, một vài người cưỡi ngựa phóng qua quảng trường,

thỉnh thoảng lại vang lên những bước chân nặng? nề của đội tuần tra.

Khi tr ời sáng, những tia nắng sớm rọi xuống các mái nhà óng ánh như tráng bạc, Cooc­nêliluyt sốt ruột muốn biết cảnh vật nơi mình sống ra sao, liền tiến lại gần cửa sổ và đưa cặp mắt buồn bã nhìn xung quanh. Phía cuối quảng trường, Cooc­nêliluyt nhìn thấy một mảng đen nhô lên giữa đêm sương sớm và in cái bóng khác thường của nó lên nền nhà xám xịt. Anh nhận ra cái giá treo cổởđằng đầu phố. Trên giá còn lủng lẳng hai thân hình người không còn nguyên vẹn, hai bộ xương còn lằng nhằng thịt và máu..Cooc­nêliluyt thất đảm kêu lên và vô cùng sợ hãi. Dân chúng La Hay đã băm vằm xác của nạn nhân và đã mangđến giá tre cổ một bản yết thị to tướng, trên có hai dòng chữ. Với cặp mắt của chàng trai hai mươi tám tuổi, Cooc­nêliluyt đã đọc như sau:

“Tại đây treo cổ hai tên đại phản động là hai anh em Jăng và Cooc­nây đơ

Vit, hai kẻ thù của dân chúng nhưng lại là hai bạn thân của vua nước Pháp”.

Cooc­nêliluyt kêu lên m ột tiếng khiếp đảm và trong cơn điên cuồng anh đấm tay đá chân vào cánh cửa mạnh đến nỗi lão Gri­phuyt nổi giận xách chùm chìa khóa chạy lên. Hắn vừa mở cửa, vừa chửi bới om sòm anh tù đã quấy rầy hắn vào đúng cái giờ hắn về nghỉ sau khi đã đi tuần kiểm tra xong, lão nói:

- Thế nào, cái thằng đơ Vit này lại hóa dại hay sao đấy? Cái bọn đơ Vit các người bị ma quỷ ám cả rồi hả?

Cooc­nêliluyt ôm chầm lấy cánh tay Gri­phuyt và kéo lão đến phía cửa sổ rồi

nói:

- Thưa ông, thưa ông! - Cooc­nêliluyt bíu chặt lấy tay viên cai tù nói.

- Cái gì đằng kia, thế ông? Anh run sợ chỉ cái giá treo cổ. Gri­phuyt cười lên hô hố:

- à! à! - Hắn trả lời. - Này anh bạn, đó là điểm người ta sẽ tới khi người ta có

những mối liên lạc mật thiết với những kẻ thù của Hoàng tử Guyômđ’Orăng

đấy, anh bạn không biết à?

- Các ông đơ Vit bị ám hại cả rồi! - Cooc­nêliluyt vừa lẩm bẩm, vừa để rơi

người xuống giường.

- Các ông đơ Vit chịu hình phạt công minh của nhân dân chứ! Anh nói thế

mà nghe được à? - Gri­phuyt nói. - Tôi, tôi bảo là phải chém đầu mới đúng.

Bỏ mặc người tù rã rời cả chân tay, hắn bước ra khỏi buồng gi­am, khóa cửa

lại, tiếng kêu loảng xoảng.

Khi tĩnh tâm, Cooc­nêliluyt cảm thấy mình đơn độc và nhận ra nơi mình bị

gi­am giữ làởđâu.

Là ng ười có triết lý sống, nhưng trước nhất là một người ngoan đạo nên việc làmđầu tiên của anh là cầu nguyện cho linh hồn cha đỡđầu và linh hồn vịđứng đầu bảy Tỉnh Hợp nhất vĩđại trước kia được yên nghỉ. Sau khi bước xuống đất và chắc chắn chỉ có mình mình trong buồng gi­am, anh mới lấy trong ngực ra ba mắt mầm hoa tuylíp đen vàđem giấu sau viên đá sành xưa nay vẫn đặt chiếc hũ, cũng là nơi tối nhất trong buồng gi­am. Thế là bao nhiêu năm tháng miệt mài vô ích! Biết bao nhiêu hy vọng êmđềm thế là tan thành mấy khói! Phát minh của anh thế là đi đến cõi hư vô như bản thân anh đang đi đến cõi chết. Trong nhà tù này không có lấy một ngọn cỏ, không có lấy một tấc đất, không có một tia sáng mặt trời.

Nghĩđến đó Cooc­nêliluyt thất vọng vô cùng, một nỗi thất vọng mà anh chỉ

có thể thoát khỏi do một cơ hội lạ kỳ. Cơ hội lạ kỳđó là cơ hội nào? Chúng ta sẽ thấy ở chương sau.

CON GÁI NGƯỜI CAI NGỤC

N

gay buổi tối hôm đó, lúc mang thức ăn vào cho tù nhân, Gri­phuyt mở

cửa phòng gi­am và bị trượt chân vì sàn ẩm. Lão cố gượng để khỏi ngã, nhưng

hụt tay, lão ngã xuống làm gãy xương phía trên cổ tay.

Cooc­nêliluyt định tiến đến giúp; nhưng không ngờđến mức bị thương của

mình, lão nói:

- Không can gì đến anh, anh cứ ngồi đấy! Lão chống tay định đứng lên nhưng xương gập lại, lúc đó lão mới thấy đau

nên kêu lên m ột tiếng. Lão hiểu là tay đã bị gãy, và con người cứng rắn với những kẻ khác lúc này lại ngã xuống và ngất đi trên ngưỡng cửa buồng gi­am như một kẻ chết rồi. Trong lúc này cửa được bỏ ngỏ, Cooc­nêliluyt thấy mình gần nhưđược tự do, nhưng anh không hề có ý nghĩ lợi dụng cơ hội đó. Anh đã trông thấy kiểu ngã gập cánh tay lại, anh biết là có gẫy xương, có đau đớn; anh không nghĩđến việc gì khác ngoài việc cứu giúp nạn nhân, mặc dù anh biết nạn nhân chẳng có chút thiện cảm nào đối với anh. Tiếp theo tiếng động mạnh do lão Gri­phuyt ngã xuống và tiếng kêu của lão

là ti ếng bước chân vội vã lên cầu thang. Tiếp đó là sự xuất hiện làm Cooc­nêliluyt khẽ kêu lên một tiếng rồi có tiếng kêu đáp lại của cô gái Rô­da xinh đẹp. Cô kêu lên vì thấy cha mình nằm sóng soài dưới đất, cô tưởng cha mình đã có cuộc ẩu đả với tù nhân lúc đó đang cúi xuống nạn nhân. Cooc­nêliluyt hiểu ngay những điều đang diễn ra trong tâm hồn cô gái. Nhưng Rô­da chỉ mới nhìn qua cũng đã hiểu ngay được sự thật. Hổ thẹn với ý nghĩ vừa rồi, cô ngước cặp mắt đẹp và ướt lên nhìn người thanh niên rồi nói:

- Thưa ông, xin lỗi ông và cám ơn ông. Xin lỗi vì điều tôi đã nghĩ và cám ơn

vì vi ệc ông đã làm. Cooc­nêliluyt đỏ mặt lên đáp:

- Tôi chỉ làm bổn phận của người thờ Chúa, giúp đỡđồng loại của tôi như

Chúa bảo.

- Vâng, sự giúp đỡ của ông đêm nay chứng tỏ ông đã bỏ qua những lời mắng

nhiếc của cha tôi sáng nay.

Cooc­nêliluyt ngước mắt nhìn cô gái xinh xắn; nhưng anh chưa kịp bày tỏ sự

ngạc nhiên, Gri­phuyt đã mở mắt.

- Thếđấy! Người ta ngã gẫy tay vì vội vã mang thức ăn vào cho tù nhân, thế

mà cứđể người ta nằm nguyên dưới sàn.

- Cha im đi – Cô gái nói – cha chẳng công bằng chút nào với ông thanh niên này, con thấy ông ấy đang còn chữa cho cha đấy.

- Chữa cho cha? – Gri­phuyt nghi ngờ hỏi.

- Th ưa ông – Cooc­nêliluyt nói – Tôi xin sẵn sàng tiếp tục cứu chữa cho ông.

- Ông ấy à? – Gri­phuyt nói – Ông là thầy thuốc chăng?

- Vâng.

- Nghĩa là ông có thểđặt lại cánh tay cho tôi?

- Vâng.

- Vậy thì ông cần phải có những gì? Cooc­nêliluyt bảo Rô­da đi tìm băng, nẹp. Cooc­nêliluyt đặt chiếc tay gãy của

Gri­phuyt lên bàn và so cho thẳng. Rồi với một sự thành thục Hòan hảo, anh nắn

chỗ gãy, đặt hai kẹp gỗ lên rồi băng lại, người cai ngục thì đã ngất xỉu.

- Cô đi kiếm ngay dấm thanh cho tôi! -Cooc­nêliluyt nói. - Để tôi đánh gió

cho ông.

Nhưng Rô­da không làm ngay theo yêu cầu; chắc chắn cha mình chưa tỉnh

ngay nên cô ti ến lại gần Cooc­nêliluyt.

- Thưa ông! - Cô nói. - Tôi? xin lấy ân trả ân.

- Thế nghĩa là thế nào, cô bé? - Cooc­nêliluyt hỏi.

- Thưa ông, nghĩa là viên quan tòa ngày mai hỏi cung ông đã tới đấy chiều

nay. Khi được biết ông ở trong phòng của ngài Cooc­nây đơ Vit ông ta đã cười

m ột cách khủng khiếp làm cho tôi thấy là chẳng tốt lành gì cho ông cả.

- Nhưng người ta làm gì được tôi?

- Ởđây ông cũng nhìn thấy cái giá treo cổđấy chứ?

- Nhưng tôi có tội tình gì?

- Thế hai ông bị treo cổ xé xác kia có tội tình gì?

- Đúng thế! – Cooc­nêliluyt sa sầm mặt xuống nói.

- Vả lại – Rô­da tiếp tục – Dư luận quần chúng muốn là ông có tội. Nhưng rốt

cục dù có tội hay không bản án của ông sẽ bắt đầu vào ngày mai, ngày kia ông

s ẽ bị xử: vấn đềđó rất nhanh theo thời gi­an.

- Vậy thì cô có kết luận tất cả vấn đề này như thế nào?

- Tôi có kết luận rằng: chỉ có một mình tôi, tôi lại yếu đuối, cha tôi thì bị

ngất, con chó thì bị khóa mõm và chẳng có gì ngăn trở ông chạy trốn cả. Vậy tôi

k ết luận là ông nên chạy trốn đi!

- Cô nói gì vậy?

- Có nghĩa là, thưa ông, tôi không thể nào cứu được ông Cooc­nây và ông

J ăng đơ Vit nên chao ôi! Tôi muốn cứu ông. Nhưng ông phải nhanh lên, cha tôi thở lại rồi kia kìa; có lẽ phút chốc nữa ông mở mắt thì muộn mất. Ông còn lưỡng lự sao? Thật thế, Cooc­nêliluyt đứng ngây như phỗng. Anh nhìn Rô­da, nhưng anh

nhìn mà nh ư không nghe thấy nàng nói.

- Ông không hiểu ư? - Cô gái sốt ruột hỏi.

- Có chứ, tôi hiểu. - Cooc­nêliluyt trả lời. - Nhưng…

- Nhưng gì?

- Tôi chịu thôi. Người ta khép tội cô mất.

- Mặc xác người ta. - Rô­da đỏ mặt nói.

- Rất cám ơn cô! - Cooc­nêliluyt nói tiếp. - Nhưng tôi ở lại đây, không trốn.

- Ông ở lại! Trời ơi là trời! ông không biết rồi ông sẽ bị kết án sao?… Kết án tử hình, lên đoạn đầu đài và sẽ bị giết chết, xé ra muôn ngàn mảnh như người ta đã làm với hai ông Cooc­nây và Jăng đó ư? Nhân danh Chúa xin ông đừng quan tâmđến tôi. Ông trốn ngay đi khỏi cái phòng này, nó mang tai họa đến cho họ đơ Vit.

- Gì th ế? - Tên cai ngục tỉnh dậy hỏi. - Đứa nào vừa nói đến hai tên vô lại ấy đấy?

- Xin ông đừng nóng, ông bạn tử tếạ! -Cooc­nêliluyt mỉm cười nói. - Gãy xương mà nổi nóng là không tốt đâu. Rồi anh khẽ nói với Rô­da.

- Cô emạ, tôi là người vô tội, tôi bình tĩnh, sự bình tĩnh và êm ả của người

vô t ội chờ tòa án xét.

- Im lặng, em xin ông! - Rô­da nói nhỏ.

- Tại sao lại phải thế?.- Không nên để cha em biết chúng ta đã nói chuyện

v ới nhau.

- Xấu ở chỗ nào?

- ở chỗ nào ư? Cha em sẽ cấm không cho em lại đây nữa. - Cô gái nói. Cooc­nêliluyt mỉm cười trước sự thổ lộ ngây thơ của cô gái. Hình như có chút ít hạnh phúc vừa vương vấn làm anh mát lòng.

- Th ế nào, hai người thầm thì gì với nhau vậy? Gri­phuyt vừa nói vừa lấy tay trái đỡ tay phải đứng lên.

- Không có gì đâu ạ! Ông đây biên cho con một chếđộ mà cha sẽ phải theo.

- Chếđộ cha phải theo? Còn con nữa, cũng cần phải có một chếđộ cho con.

- Chếđộ nào ạ, thưa cha?

- Là không bao giờđược vào phòng gi­am các tù nhân, và nếu đã trót rồi thì

ph ải ra ngay lập tức. Vậy đi? ra nhanh lên nào! Rô­da và Cooc­nêliluyt nhìn nhau. Cái nhìn của Rô­da muốn nói: “Ông đã thấy chưa!” Cái nhìn của Cooc­nêliluyt muốn nói: “Chúa muốn vậy, phải làm vậy”.

CHÚC THƯ CỦA COOC­NÊLI­UYT VĂNG BA­CLƠ

R

ôda đã không nhầm. Hôm sau quan tòa đến Buyten­hôp để hỏi cung

Cooc­nêliluyt. Nói chung, cu ộc hỏi cung không mất nhiều thời gi­an và xác nhận được ngay là Cooc­nêliluyt đã cất giữở nhà anh tập tài liệu liên lạc giữa hai anh em ông đơ Vit với nước Pháp. Anh không chối điều ấy. Quan tòa chỉ còn nghi ngờ một điều là có phải Cooc­nây đơ Vit, cha đỡđầu của Cooc­nêliluyt, đã trao cho anh tài liệu đó không. Nhưng, từ sau cái chết thê thảm của hai anh emđơ Vit, Cooc­nêliluyt chẳng có gì phải dè dặt cả, chẳng những anh không chối việc Cooc­nây đích thân đến gửi anh tài liệu đó, mà anh còn kể cụ thể như thế nào, trong trường hợp nào, cách thức như thế nào. Sự thú nhận đó chứng tỏ Văng Ba­clơ có dính líu đến tội phạm của người cha đỡđầu. Hiển nhiên là có sựđồng lõa giữa Cooc­nây và Cooc­nêliluyt. Trong sự thú nhận này, Cooc­nêliluyt không hề hà một chút nào, anh còn nói rõ tất cả sự thật về những thiện cảm, những thói quen, những mối quan hệ thân mật của anh. Anh nói anh không quan tâmđến chính trị, anh chỉ say mê nghiên cứu, say mê nghệ thuật, say mê khoa học và say mê các loài hoa. Anh kể rằng từ ngày Cooc­nây đến Đoocđret và gửi anh tập thư, anh không hề ngó ngàng tới tập thư đó. Người ta bác bỏ ý kiến của anh, không cho là anh đã nói đúng sự thật về điểm này, vì rằng tập tài liệu được cất đúng vào trong cái ngăn kéo mà anh hằng ngày vẫn thọc tay và phóng mắt vào. Cooc­nêliluyt đáp là đúng như vậy, nhưng anh chỉ thò tay vào ngăn kéo để xem­củ giống đã thật khô chưa, nhìn xem nó đã bắt đầu mọc mầm chưa mà thôi. Người ta lại bác bẻ anh bảo là anh vô tình với những giấy tờ quan trọng nhường ấy là vô lý, vì một khi cha đỡđầu đã trao tận tay cho anh một bọc giấy như thế thì không thể nói là anh không biết tầm quan trọng của nó được. Anh đáp: Cha nuôi rất yêu anh và nhất là ông là người rất thận trọng nên đã không nói gì với anh về nội dung tờ giấy đó, nói ra chỉ làm anh bị rầy rà mà thôi. Người ta lại bẻ bác anh là nếu ông Cooc­nây đã có ý nghĩ như vậy thì hẳn ông đã đề phòng trường hợp bất trắc: ông ta sẽ kém vào trong tài liệu một tờ giấy chứng nhận là con đỡđầu của ông Hòan toàn xa lạ với tài liệu ấy, hoặc là sau khi việc đã vỡ lở, ông có thể viết một bức thưđể xác nhận điều đó. Cooc­nêliluyt đáp rằng có thể cha đỡđầu của anh đã không nghĩđến vấn đề tài liệu của ông, sẽ trở thành nguy hiểm vì nó được coi như một vật thiêng liêng trong nhà Văng Ba­clơ, không ai dámđộng chạm đến. Còn về bức thư, anh nhớ là trước lúc khi anh bị bắt, khi anh đang mải mê với những củ giống hiếm quý của anh, thì người đầy tớ của Jăng đơ Vit đã đi vào phòng sấy va đưa cho anh một bức thư; nhưng sự việc đó anh chỉ nhớ lại như trong một giấc mơ; người đầy tớấy đã biến mất, có thể là đã ra khỏi đất Hòa Lan rồi. Về bức thư, nếu người ta cố tìm thì có khả năng tìm thấy được. Cooc­nêliluyt không nhấn mạnh về vấn đề này vì không ch�quan�c nó có đem lại lợi ích gì không.

Cuối cùng Cooc­nêliluyt nói với vẻ bình tĩnh của một người vô tội:

- Các ông h ỏi tôi những điều không có gì để phải trả lời, ngoại trừ có mỗi một sự thật phải nói. Đó là gói thưđến nhà tôi bằng con đường tôi đã vừa kể trên; tôi thề trước Chúa tôi không biết nội dung các bức thư, đến tận bây giờ tôi vẫn còn chưa biết nội dung; chỉđến ngày bị bắt tôi mới biết gói đó là thư từ trao đổi giữa ông Jăng đơ Vit và ông hầu tước De Lou­vois. Sau cùng tôi camđoan là tôi không hiểu tại sao người ta biết gói thưđó ở nhà tôi và nhất là làm sao tôi có thể là can phạm được khi tôi nhận thư của cha đỡđầu danh tiếng và khốn khổ của tôi gửi.

Đó là tất cả những điều biện hộ của Cooc­nêliluyt. Còn ý kiến của các ông

quan tòa như sau:

Ông thì cho là m ọi mầm mống của sự chia rẽ nội bộ là nguy hiểm vì nó gây nên một cuộc nội chiến, do đó vì lợi ích của mọi người, cần phải dập tắt nó ngay đi. Ông thì cho rằng anh thanh niên này bề ngoài có vẻ phớt đời lắm, nhưng thực tế lại rất nguy hiểm vìđang nung nấu một ước mong trả thù cho các ông đơ Vit, những người thân của hắn. Một vị khác lại nói rằng lòng yêu hoa tuylip gắn liền với vấn đề chính trị, và lịch sửđã chứng minh rằng nhiều người rất nguy hiểm đã trồng hoa chỉđể che đậy những việc khác mà họ làm… Tòa án kết luận như sau: Hoặc là Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơ rất yêu hoa tuylip hoặc là anh rất yêu vấn đề chính trị. Trong trường hợp này trong trường hợp kia, anh ta đều nói dối. Trước hết tập tài liệu để trong nhà anh chứng tỏ anh ta làm chính trị; sau đó các củ giống chứng tỏ anh ta quan tâm cảđến vấn đề trồng hoa tuylip. Sau cùng, và đây là điểm quan trọng nhất: Cooc­nêliluyt vừa trồng hoa tuylip lại vừa làm chính trị, chứng tỏ bị cáo có một bản chất hỗn tạp, có một tổ chức nửa nọ nửa kia, làm việc hăng say trong vấn đề chính trị cũng như trong vấn đề trồng hoa, điều đó gây ra những tính chất nguy hiểm cho sự an ninh quốc gia. Kết quả không nghi ngờ chút nào là ông Hoàng Stathoud­er có lẽ sẽ biết ơn vô cùng tổ chức quan tòa La Haye đã giúp ông bớt chuyện rắc rối trong việc trị an Bảy tỉnh bằng cách diệt tận gốc mọi mầm mống chống đối uy quyền của ông.

Lý l ẽấy giá trị hơn tất cả các lý do khác và cốt để triệt tận gốc mọi mầm mống chống đối, đã được nhất trí thông qua. Tòa đồng thanh kết tội tử hình Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơ, kẻđã núp dưới hình thức vô tội của một người trồng hoa tuylipđể dễ bề thông đòng với các ông đơ Vit trong âm mưu chống lại quốc gia Hòa Lan và quan hệ bí mật với nước Pháp thù địch. Bản án được kèm theo phụ lục là tên Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơ kể trên sẽ bị dẫn từ nhà tù Buyten­hôp đến đoạn đầu đài dựng ngay ở quảng trường cùng tên để thi hành án. Vì nghị quyết đó là quan trọng nên đã được cân nhắc thảo luận trong nửa giờ, trong lúc đó tù nhân được đưa trả về buồng gi­am cũ. Chính ở nơi đó viên lục sự Nhà nước đến đọc quyết định của tòa án. Cai ngục Gri­phuyt bị nằm liệt giường không dậy được do vết thương. Một nhân viên cấp dưới của hắn được trao cho chùm chìa khóa, dẫn viên lục sựđến buồng gi­am. Rô­da, cô gái xinh ?đẹp tỉnh theo sau. Cô đứng ngoài cửa, tay cầm chiếc mùi soa đưa lên miệng để bịt những tiếng thở dài và thổn thức của cô.

Cooc­nêliluyt nghe đọc phán quyết, anh ngạc nhiên hơn là sầu não. Đọc

xong, viên lục sự hỏi anh có ý kiến gì không, anh đáp:

- Không có ý ki ến gì cả. Tôi chỉ xin thú thật trong tất cả những nguyên nhân để bị kết tội tử hình mà phạm nhân cần phải biết để bào chữa cho mình, tôi không bao giờ ngờđến cái nguyên nhân này cả.

Lúc viên l ục sự sắp sửa rút lui, Văng Ba­clơ hỏi:

- Việc đó, thưa ông lục sự, bao giờđược tiến hành xin ông cho biết.

- Ngay ngày hôm nay. - Viên lục sự trả lời. Hắn hơi lúng túng trước sự bình tĩnh cao độ của người tử tù. Một tiếng nức

nở sau cánh cửa. Cooc­nêliluyt liền ghé đầu ra ngoài để xem là ai, nhưng Rô­da

đ oán được trước nên đã lùi về phía sau.

- Lúc mấy giờ? - Cooc­nêliluyt hỏi tiếp.

- Vào buổi trưa, thưa ông. Cooc­nêliluyt nói:

- Trời ơi! Nghe nhưđã mười giờ cách đây ít nhất hai mươi phút, ta không thể dềnh dàng được nữa.

- Vâng, để ông kịp chuẩn bịđi gặp Thượng đế.

- Viên lục sự vừa nói vừa cúi rạp mình chào Cooc­nêliluyt.

- ông có thể xin mục sư nào ông vừa ý. Nói xong hắn giật lùi đi ra. Người

thay th ế cai ngục theo sau để tiễn hắn. Vừa hay lúc đó, Cooc­nêliluyt nhận ra bộ mặt đầm đìa nước mắt và đôi mắt trong xanh của cô gái xinh đẹp Rô­da. Cô gái hai tay chắp trước ngực tiến lại gần Cooc­nêliluyt.

- Thưa ông, tôi đến xin ông ra ơn cho một điều. - Rô­da ngước mắt lên nhìn Cooc­nêliluyt nói.

- Đừng khóc như vậy, em! - Người tù nói. -Em khóc làm tôi đau lòng hơn việc tôi sắp phải chết. Thôi đi nào, đừng khóc nữa, hãy nói cho tôi biết em muốn gì nào, hỡi em Rô­da xinh đẹp!

- Xin ông tha l ỗi cho cha em! - Cô gái nói.

- Cho cha em? - Cooc­nêliluyt ngạc nhiên hỏi.

- Vâng, cha em đối xử với ông quá tệ! Không thương người là bản chất của ông.

- ông sẽ bị trừng phạt, cô Rô­da ạ, tôi tha thứ cho ông ấy.

- Cámơn ông! - Rô­da nói. - Bây giờđến lượt em, em có thể giúp được gì

cho ông, ông nói đi.

- Cô có thể lau khô nước mắt của cô đi cho tôi được rồi đó, cô bé ạ. Anh

mu ốn sao cho cặp mắt xinh đẹp của em đừng bao giờ có một giọt lệ rơi!

- Không, không phải thế, phải là giúp ông, giúp ông cơ!

- Một người chỉ còn một tiếng đồng hồ sống trên đời mà còn cần có thêm một thứ gì nữa là một người xa hoa đấy, cô Rô­da thân mến ạ!

- Về việc tìm cho ông một mục sư, ông nghĩ sao?

- Suốt đời tôi thờ phụng Chúa, Rô­da ạ. Tôi thờ Chúa qua các sáng tạo của

Ng ười, qua ý chí của Người, Người không ghét bỏ tôi do đó tôi không cần phải có mục sư. Ý nghĩ cuối cùng của tôi là ca ngợi Chúa. Thương tôi, cô hãy giúp tôi làm trọn ý nguyện đó.

- ôi! Thưa ông Cooc­nêliluyt, xin ông nói đi, ông hãy nói đi! - Cô gái nước

mắt đầm đìa, tha thiết nói.

- Emđưa cho anh bàn tay xinh đẹp của em và phải hứa với anh là không

được cười nhé!

- Cười! – Rô­da thất vọng kêu lên - Cười lúc này à! Thế anh không thấy em

sao?

- Có ch ứ, Rô­da! Tôi đã nhìn em, tôi nhìn em với con mắt vốn có của tôi nhưng tôi cũng nhìn em với con mắt c�đủa tâm hồn tôi. Chưa bao giờ có một phụ nữ nhan sắc hơn, một tâm hồn trong trắng hơn đã đến với tôi như thế; và nếu từ lúc này trởđi, tôi không nhìn em nữa thì xin em hãy tha lỗi cho tôi vì sắp phải lìa đời, tôi không muốn có gì để phải thương tiếc trên đời này nữa.

Rô­da giật mình. Cooc­nêliluyt vừa nói tới đó, trên gác canh chuông điểm

mười một giờ.

- Ph ải rồi, phải rồi, chúng ta mau lên! -Cooc­nêliluyt vừa nói vừa chỉ cho cô tờ giấy bọc ba cái mắt mầm giống. Anh nói tiếp:

- Cô b ạn nhỏ bé của tôi ơi - tôi rất yêu quý các loài hoa. Đó là vào cái thuở tôi không biết người ta còn có thể yêu thứ gì khác nữa ngoài yêu hoa. Ôi, em đừng e thẹn, em đừng quay mặt đi, em Rô­da, dù tôi có nói tôi yêu em, điều đó cũng không làm thay đổi được gì, ởđằng kia, trên quảng trường Buyten­hôp, và sáu mươi phút nữa có một lưỡi thép sẽ thắng một thằng liều lĩnh là tôi. Vậy là, em Rô­da ạ, tôi đã yêu hoa, và tôi đã tìm thấy, hay ít ra là tôi cho rằng tôiđã tìm thấy cái bí mật tạo ra hoa tuylíp đen, cái đích của phần thưởng một trăm nghìn phlorăng do Hội trồng vườn Harlem trao cho người trúng giải. Một trăm nghìn phlorăng tôi có trong giấy gói kia. Nó là giá của ba mầm hoa được giải, em có thể cầm lấy, em Rô­da, vì tôi tặng cho em.

- Anh Cooc­nêliluyt!

- Ồ, em có thể cầm lấy, em có làm thiệt ai đâu mà sợ vì tôi chỉ có một mình trên đời này thôi. Cha mẹ anh đều đã chết cả rồi. Anh chẳng có anh chị em nào khác. Anh chưa hề nghĩđến yêu ai, nếu có ai đã yêu anh, anh cũng chưa hề bao giờ biết. Vả lại em cũng thấy đấy, anh bị bỏ mặc một mình ởđây, và trong giờ này, trong phòng này chỉ có một mình em khuyên nhủ anh, an ủi anh…

- Nhưng thưa anh, những một trăm nghìn Phlorăng …

- Em thân m ến, - Cooc­nêliluyt nói. - một trăm nghìn phlorăng là của hồi môn xứng với sắc đẹp của em, chắc chắn em sẽ nhận được số tiền đó vì tôi tin chắc vào các mầm hoa của tôi. Em sẽ có món tiền đó, em Rô­da ạ! Và anh chỉ yêu cầu em, đểđáp lại em phải hứa với anh là hãy lấy một chàng trai chung thủy, trẻđẹp mà em yêu mến và cậu ấy cũng yêu em như anh yêu hoa. Rô­da, đừng ngắt lời anh, anh chỉ còn vài phút nữa. – Cô gái tội nghiệp nghẹn ngào trong tiếng khóc nấc. Cooc­nêliluyt nắm lấy tay cô và nói tiếp - Em hãy nghe lời anh dặn đây. Em sẽ làm theo cách sauđây, em đến Đoocđret hỏi anh Bu-​truysheim làm vườn cho tôi đâu là thứđất mùn ở luống thứ sáu. Em trồng những củ giống này trong một cái hòm sâu, đến tháng năm tới nó ra hoa nghĩa là bảy tháng nữa khi thấy có hoa, ban đêm em che cho hoa khỏi gió, ban ngày cho khỏi nắng. Hoa sẽ nở màu đen, chắc chắn như vậy. Đến lúc đó em sẽ báo cho ông chủ tịch Hội trồng vườn ở Harlem biết. Ông sẽ cho hội đồng đến kiểm tra và em sẽđược nhận thưởng một trăm nghìn phlorăng. Rô­da thốt lên một tiếng thở dài. Cooc­nêliluyt cố chùi một giọt nước mắt lấp lánh trên mi mắt anh, nó chảy ra vì bông hoa tuylipđen mà anh sẽ không được nhìn thấy chứ không phải vì cõi đời mà anh sắp phải từ giã.

Cooc­nêliluyt nói tiếp:

- Bây gi ờ anh không mong gì thêm nữa, ngoại trừ em đặt giùm tên cho hoa là Rô­da Bar­lean­sis, nghĩa là gồm cả tên em và tên anh. Hắn em không biết chữ lat­inh, em có thể quên tên đó nên em hãy? đưa giấy và bút chì, anh ghi lại cho.

Rô­da b ật òa lên khóc và đưa cho anh một quyển sách gáy da có mang dòng chữ “C.V”

- Thế này là thế nào? - Người tù hỏi.

- Chao ôi! - Rô­da đáp. - Đó là quyển Kinh Thánh của cha đỡđầu của anh, ngài Cooc­nây đơ Vit. Em thấy để trong buồng này sau khi ông chết. Em đã giữ gìn nó như một vật thiêng liêng. Hôm nay emđưa nó cho anh vì em thấy hình như nó chứa đựng một sức mạnh diệu kỳ. Anh muốn viết gì, xin anh cứ viết vào đấy. Mặc dầu em chưa biết chữ, em vẫn thực hiện bằng được ý muốn của anh.

Cooc­nêliluyt c ầm lấy quyển sách, kính cẩn đưa lên môi hôn, rồi anh hỏi:

- Anh viết bằng gì bây giờ?

- Trong sách có gài bút chì. - Nó vẫn ởđấy, em giữ nó cẩn thận. Đó là cây bút của ông Jăng đơ Vit cho ông mượn và đã quên không lấy lại.

Cooc­nêliluyt cầm bút và viết lên tờ giấy thứ hai vì tờ thứ nhất chúng ta còn nhớ

là đã bị xé, và cũng như người cha đỡđầu, anh viết trước khi chết.

“Hôm nay là ngày 25 tháng tám 1672, tr ước khi lên đoạn đầu đài mặc dầu tôi vô tội, vì các thứ khác đều đã bị tịch thu. Tôi nhắc lại, tôi để lại cho cô Rô­da Gri­phuyt ba củ giống hoa tuylíp của tôi. Tôi đã nói cho cô Rô­da biết tôi cho cô cả. Tôi tin tưởng sâu sắc đến tháng năm sang năm, ba mầm giống này sẽđơm hoa, một loại hoa mới kỳ lạ nhất, hoa tuylíp đen, đích cuối cùng của giải thưởng một trăm nghìn phlorăng do Hội làm vườn Harlem trao cho người sáng tạo ra nó. Nhưng đến lúc đó tôi không còn trên đời này nữa nên tôi muốn cô Rô­da thay tôi nhận giải thưởng đó với danh nghĩa người thừa kế duy nhất của tôi với điều kiện cô phải lấy một người chồng yêu cô và được cô yêu; cô có bổn phận khác nữa là đặt tên cho loại hoa mới này là Rô­da Bae­len­git, có nghĩa là tên cô và tên tôi hợp lại.

C ầu xin Chúa ban phúc lành cho tôi và sức khoẻ cho Rô­da

COOC­NÊLILUYT V ĂNG BA­CLƠ” Rồi đưa sách cho Rô­da anh nói:

- Emđọc đi.

- Emđã nói với ông rồi, em không biết đọc. Cooc­nêliluyt liền đọc cho Rô­da nghe bản di chúc anh vừa viết. Cô gái càng khóc nức nở. Cooc­nêliluyt hôn nhẹ vào đầu ngón tay run rẩy của cô rồi hỏi:

- Emđồng ý chấp nhận những điều kiện của anh chứ?

- Ôi! Em không biết đâu! – Rô­da lúng búng nói.

- Em không biết! Tại sao vậy?

- Vì có một điều kiện mà em không thể chấp nhận được.

- Điều kiện nào? Anh tưởng rằng anh đã thỏa thuận trước với em rồi!

- Anh cho em trăm nghìn làm của hồi môn phải không?

- Đúng.

- Và để lấy một người mà em sẽ yêu?

- Tất nhiên!

- Thưa anh, nếu vậy số tiền đó sẽ không là của em được. Em sẽ chẳng yêu ai

và em cũng sẽ chẳng lấy chồng.

Nói xong câu đó một cách rất khó nhọc, Rô­da khuỵu xuống như muốn ngất đi. Cooc­nêliluyt hốt hoảng định ôm lấy cô thì vừa hay có tiếng chân nặng nề bước lên cầu thang kèm theo những tiếng ồn ào và tiếng chó sủa. Rô­da xoắn hai tay lại kêu lên:

- Tr ời ơi! Người ta đến tìm anh đấy! Anh còn điều gì nói với em nữa không? Nói xong cô ngã quỵ xuống, vùi đầu vào hai cánh tay và khóc nghẹn ngào.

- Anh còn muốn nói với em là em nhớ phải cất cẩn thận ba mầm giống kia,

chăm sóc nó theo lời anh chỉ dẫn, em hãy làm cho ?anh, vì tình yêu anh! Vĩnh

bi ệt Rô­da. Không ngẩng đầu lên, Rô­da nói:

- Em xin hứa. Vâng, em sẽ làm tất cả những điều anh đã dặn, chỉ trừ có

khoản… lấy chồng, đó là điều không thểđược nữa đối với em.

Nói đoạn, nàng cất ba mầm hoa quý giá của Cooc­nêliluyt vào trong ngực cô. Những tiếng động lúc nãy Cooc­nêliluyt nghe thấy là của viên lục sự, của tên đao phủ, của lính canh gác đoạn đầu đài và của những kẻ tò mòở quanh nhà thờ xưa nay, vẫn quen thói đi theo xem. Cooc­nêliluyt không chút yếu hèn, đón tiếp những người đó như những người bạn. Khi phải xuống theo những người lính, anh đảo mắt tìm cặp mắt thần tiên của Rô­da. Anh chỉ trông thấy đằng sau những lưỡi gươm và mũi súng một thân hình sóng soài bên cạnh chiếc ghế gỗ và một bộ mặt tái ngắt bị che lấp một nửa trong bộ tóc dài. Nhưng khi ngã xuống ngất đi, Rô­da đã vâng lời người bạn trai của cô, cô đặt tay lên ngực giữ lấy cái coocxê bằng nhung, và ngay cả trong lúc tạm rời cuộc sống, cô vẫn theo bản năng giữ lấy vật quý của Cooc­nêliluyt gửi lại. Khi rời khỏi phòng gi­am, Cooc­nêliluyt còn trông thấy qua kẻ những ngón tay co quắp của Rô­da tờ giấy màu vàng của quyển Kinh Thánh mà trên đó ông Cooc­nây đơ Vit đã vất vả viết lên mấy dòng chữ. Nếu Cooc­nêliluyt đã đọc những hàng chữ này thì tất nhiên anh và hoa tuylip của anh đã được cứu thoát.

CUỘC HÀNH TRÌNH

C

ooc­nêliluyt không đi đến ba trăm bước đã đến chân đoạn đầu đài. Người

ta biết rằng đường đi từ cửa nhà tù đến đoạn đầu đài càng ngắn bao nhiêu càng

đông người xem bấy nhiêu.

C ũng là những khán giảấy, ba ngày trước đây đã tham gia vào cuộc tàn sát hai anh em ông đơ Vit, họ còn chưa thỏa mãn, giờđang chờ một nạn nhân mới. Bởi vậy khi Cooc­nêliluyt vừa xuất hiện, thì một tiếng gầm thét dữ dội nổi lên và kéo dài trong phố, vang dậy khắp các ngảđường dày đặc dân chúng. Giữa những lời đe dọa ấy, những tiếng thét ấy, Cooc­nêliluyt, nhưđể khỏi nghe thấy, mải mê suy nghĩ. Anh suy nghĩ gì đến kẻ thù của anh, đến quan tòa, đến những tay đao phủ. Anh suy nghĩđến những bông hoa tuylip xinh tươi mà anh sẽ nhìn thấy từ trên trời cao, hoặc ở Xâylăng, hoặc ở Ben­gan, hoặc ở nơi khác, trong khi anh ngồi ở bên phải Chúa với tất cả những người vô tội. Anh có thể với lòng thương hại nhìn về cái trái đất này, ởđó người ta đã bóp chết các ông Cooc­nây và Jăng đơ Vit vì đã nghĩ quá nhiều đến chính trị, và sắp bóp chết Cooc­nêliluyt vì đã nghĩ quá nhiều đến hoa tuylip. Văng Ba­clơ không nao núng, vững vàng bước từng nấc lên những bậc cuối cùng của đoạn đầu đài. Ạnh bước lên với lòng kiêu hãnh được là bạn của ông Jăng vĩđại và là con đỡđầu của ông Cooc­nây cao thượng ấy. Anh quỳ xuống cầu nguyện và nhận thấy khi đặt đầu nghiêng trên thớt và mở mắt nhìn thì có lẽđến tận phút cuối cùng anh vẫn nhận ra cái cửa sổ có căng lưới thép ở nhà tù Buyten­hôp. Sau cùng, cử chỉ cuối cùng đã đến lúc phải thực hiện: Cooc­nêliluytđặt cằm lên cái thớt đá ướt và lạnh. Nhưng vào lúc ấy, mặc dù anh không muốn, cặp mắt anh cứ nhắm lại để chịu đựng được cương quyết hơn cái lưỡi gươm khi�ai anh em ��p đảm lạnh như băng tuyết sắp sập xuống đầu và nhận chìm sinh mệnh anh. Một tia chớp lóe lên trên đoạn đầu đài. Đao phủ múa đao. Văng Ba­clơ nói câu vĩnh biệt hoa tuylíp đen của mình; anh tin chắc rằng khi mở mắt ra anh sẽ gặp được Chúa ở trên kia, một thế giới khác, đầy ánh sáng và những màu sắc khác.

Ba lần anh cảm thấy gió lạnh của thép đao lướt trên đầu, nhưng lạ thay

không thấy chút gì đau đớn hay choáng váng.

Th ế rồi bỗng nhiên anh cảm thấy có đôi bàn tay nhẹ nhàng kéo mình đứng lên, đứng thẳng lên, hơi loạng choạng. Anh mở mắt ra. Người ta đang đọc cái gì bên cạnh, trên một bản giấy da có xi đỏđóng dấu. Và cũng vẫn mặt trời ấy, xanh xao vàng vọt, hợp với mặt trời của đất Hòa Lan. Cũng vẫn cái cửa sổ chằng lưới sắt ấy đang nhìn anh từ trên nhà tù Buyten­hôp, cũng vẫn đám khán giảấy, không gào thét nữa mà đang ngơ ngác nhìn anh.

Cố gắng mở mắt, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe, Văng Ba­clơ bắt đầu hiểu

điều gì đã xảy ra.

Đứ c Guyôm cao cả tức Hoàng tử d’Or­ange sợ rằng vài lít máu trong người Văng Ba­clơđổ ra sẽ làm tràn cái cốc công lý thiên đàng nên ngài nảy lòng thương nhà trồng hoa tuylíp trẻ tuổi và có lẽ vô tội kia mà tha tội chết cho anh. Văng Ba­clơ hy vọng sẽđược ân xá Hòan toàn, người ta sẽ trả lại cho anh tự do và cả cái vườn hoa của anh ởĐoocđret. Nhưng anh đã lầm. Kết án tội chết cho anh thì quá nặng, trả lại tự do cho anh thì quá nhẹ, vì vậy quốc trưởng Hòa Lan kết tội anh tù chung thân. Khi nghe xong bản án mới, anh nghĩ thầm:

“Chao ôi! Chưa mất hết tất cả. Trong tù chung thân ta còn có Rô­da; cũng còn

ba củ giống hoa tuylípđen vĩđại!”.

Nh ưng Cooc­nêliluyt không tính rằng nước Hòa Lan có đến bảy nhà tù, mỗi tỉnh một cái, và bánh ăn cho tù nhân ở tỉnh thì rẻ hơn ở thủđô La Hay. Hoàng thân Guyôm có vẻ như không có đủ phương tiện để nuôi Văng Ba­clơ vĩnh viễn ở La Hay, đã cho đổi anh đến pháo đài Lôvôt­ten, rất gần Đoocđret nhưng than ôi, lại rất xa nơi đây.

Văng Ba­clơ là người khá am hiểu địa dư, anh than thầm:

“Ôi, cái xứđầy mây và ẩm thấp ấy! Đất như vậy là rất xấu đối với hoa

tuylip. Và còn Rô­da nữa, Rô­da không ở Lôvôt­ten”.

Anh lẩm bẩm như vậy và gục đầu xuống ngực đến mức không thể thấp hơn

được nữa.

TRONG KHI ĐÓ ĐIỀU GÌ ĐÃ XẢY RA TRONG TÂM HỒN MỘTKHÁN GIẢ

T

rong khi Cooc­nêliluyt suy nghĩ như vậy có một chiếc xe chạy đến đoạn

đầ u đài. Cỗ xe đó dành cho tù nhân, người ta bảo anh lên, anh tuân theo. Cái nhìn cuối cùng của anh là dành cho nhà tù Buyten­hôp. Anh hy vọng nhìn

th ấy ở cửa sổ khuôn mặt an ủi của Rô­da. Nhưng chiếc xe với cỗ ngựa kéo khỏe nên chẳng bao lâu anh đã thoát khỏi đám khán giảđang hò hét những lời tán tụng tấm lòng hào hiệp của quốc trưởng. Trong số khán giả không hài lòng về sự thay đổi của bản án, có một thị dân ăn mặc chỉnh tềđã từ sáng đến giờ dùng tay, dùng chân len được vào chỗ chỉ còn cách đoạn đầu đài có một hàng lính gác.

Rất nhiều người thèm khát được xem dòng máu phản động của Cooc­nêliluyt

chảy ra, nhưng không có ai hăng say bằng người dânấy.

Nhữ ng người cuồng xem nhất đã đến quảng trường Buyten­hôp từ sáng sớm

để chiếm chỗ, hắn còn hơn họđến từ nửa đêm chờ sẵn ở cửa nhà tù.

Lúc đao phủ dẫn phạm nhân lên đoạn đầu đài, hắn trèo lên một cái máy nước để nhìn được và để cho người khác nhìn thấy hắn rõ hơn. Hắn ra hiệu với người đao phủ như muốn nói: “Đã thỏa thuận với nhau rồi nhé!” Người đao phủđáp lại bằng một cử chỉ khác như muốn nói: “Cứ yên chí!”.

Người thường dân đó là ai mà thân thiết với người đao phủ như vậy? Và họ

trao đổi dấu hiệu với nhau như vậy nghĩa là sao.

Không gì d ễ hiểu hơn; thị dân đó là Isaac Bôcten đến từ La Haye để tìm cách chiếm đoạt ba mầm giống hoa tuylíp đen của Cooc­nêliluyt. Hắn đến nhà tù Buyten­hôp định mua chuộc Gri­phuyt, nhưng lão già nghi ngờ hắn là người bạn nhiệt thành của tù nhân, âm mưu cho tù nhân vượt ngục nên đã dắt chó ra xua đuổi hắn đi. Nhưng Bôcten đâu chịu nản chí. Hắn trở lại nhà tù lần thứ hai. Lần này hắn gặp phải lúc Gri­phuyt nằm liệt giường vì bị gãy tay. Hắn liền quay ra dụ dỗ Rô­da, hứa hẹn đổi củ giống lấy một cái mũ bằng vàng thật. Mặc dù chưa biết giá trị của vụ trộm mà người ta đề nghị, cô gái đã xử trí với một sự trả giá rất đắt về sau: cô đẩy kẻ dụ dỗđến đao phủ, người khồn những là vị quan toà cuối cùng mà còn là người thừa kế cuối cùng của phạm nhân. Sự giải quyết của Rô­da làm cho hắn nảy ra một sáng kiến. Lúc vụ án vừa được tuyên bố, vậy là Bôcten không còn thì giờđểđi cảm hóa một người nào nữa, hắn đi thực hiện ngay ý kiến của cô gái là tìm người đao phủ. Bôcten không nghi ngờ gì việc Cooc­nêliluyt chết mà không mang theo hoa tuylip trong người. Hắn không đoán trước được hai vấn đề:

1.Rô­da, ấy là tình yêu thương.

2.Guyôm, ấy là sự khoan dung.

Không có Rô­da, không có Guyôm thì tính toán c ủa hắn rất chính xác. Không có Guyôm, Cooc­nêliluyt đã phải chết. Không có Rô­da, Cooc­nêliluyt chết với củ giống bên tim. Hắn đến gặp tên đao phủ, tự giới thiệu là bạn thân của người tử tù; ngoài các tư trang bằng vàng và bằng bạc để lại cho tên đao phủ, hắn còn đặt mua lại các quần áo của tử tù với cái giá thật cao: một trăm phlorăng. Kể ra việc đó vẫn thấy xảy ra: bên cạnh một tên cuồng tín kiểu như Cooc­nêliluyt rất có thể có một tên cuồng tín khác chịu chi một trăm phlorăng ra mua quần áo cũ của hắn.

Do đó, tên đao phủ nhận ngay. Hắn chỉđặt mỗi một điều kiện là hắn được trả

ti ền trước. Bôcten chi trả và yên tâm đợi. Trong lúc chờđợi, Bôcten hồi hộp như thế nào ta chỉa cần biết đến, chỉ nên

bi ết là lúc hăn nom thấy viên lục sự nắm lấy vai kéo nạn nhân đứng lên đồng thời rút trong túi áo ra một tờ giấy. Lúc nghe đọc công khai xong lệnh ân xá của quốac trưởng, Bôcten không còn là người nữa. Cơn cuồng nộ của con báo dữ, của con hổ cái, của con rắn độc nổ ngay ra trong cặp mắt hắn, trong cử chỉ, trong tiếng kêu của hắn, nếu có Văng Ba­clơở tầm tay, hắn đã xé xác anh ta ra rồi. Vậy alf Cooc­nêliluyt còn sống, Cooc­nêliluyt sẽđến ngục Lôvôt­ten. Anh sẽ mang củ giống đến đấy và cơ thểởđấy anh sẽ kiếm được một mảnh vườn để cho hoa tuylip nở.

Có những tình hu?ống ngòi bút nghèo nàn của một nhà văn không thể tả hết

được mà phải để phó mặc cho bạn đọc tưởng tượng.

H ắn không chịu được đã nổi giận ghê gớm. Hắn nhảy xổ lên đấm đá mấy kẻ Orăng­git bực bội như hắn. Tưởng hắn điên cuồng la ó là vui thích với quyết định trên nên bọn này đánh trả lại hắn túi bụi. Hắn chỉ còn biết ôm đầu kêu đau. Mấy quảđấm thêm vào nổi bất hạnh lớn lao của Bôcten thì có nghĩa lý gì! Hắn muốn chạy theo cổ xe chở Văng Ba­clơ và những củ giống của anh. Nhưng trong cơn vội vã hắn không nhìn thấy mép vỉa hè, hắn ngả sóng soài trên mặt đất và chỉ chồm chồm ngồi dậy được khi bị người ta xéo lên lưng. Cũng trong tình huống này, Bôcten bị khổ sởđến cùng cực, hắn lóp ngóp bò dậy, chân sái, mình đau ê ẩm, quần áo lấm be bét và rách toét. Người ta tưởng như thế là đủ cho hắn lắm rồi. Nhưng người ta nhầm đấy.

Khi Bôcten đứng lên được, hắn bứt từng túm tóc mà hắn có thể rồi tung lên như kiểu dùng vật hy sinh để tế vị thần hung ác và tàn nhẫn mà người ta gọi là thần Ghen tỵ.

Có thểđó là những vật hiến tế mà nữ thần Ghen tỵưa thích hơn là những

con rắn cải trang thành mớ tóc theo như câu chuyện thần thoại.

NHỮNG CON CHIM BỒ CÂU ỞĐOOCĐRET

T

hật là một vinh dự lớn lao cho Cooc­nêliluyt, anh được gi­am vào đúng nhà

tù tr ước đây đã gi­am nhà thông thái Grotius. Nhưng khi đến nhà tù, một vinh dự lớn lao hơn nữa đang đợi anh. Buồng gi­am của Cooc­nêliluyt bây giờ cũng là buồng gi­am của Grotius ngày xưa. Căn phòng ấy đã đi vào lịch sử. Đó là một gi­an phòng như các phòng gi­am khác nhưng cao hơn, do đó qua cửa sổ căng lưới sắt, nhìn phong cảnh rất đẹp. Đối với Văng Ba­clơ, cuộc sống khác với bộ máy hô hấp. Ngoài cuộc sống ra, anh chàng tù nhân tội nghiệp ấy chỉ yêu có hai thứ: một loài hoa và một phụ nữ, cả hai đều không bao giờ mất trong anh. May thay Thượng đếđã nhìn anh với cặp mắt hiền từ của người cha lúc anh bước lên đoạn đầu đài, thì nay lại dành cho anh ở ngay trong phòng gi­am này một cuộc sống đầy bất ngờ mà không có một người chơi hoa tuylip nào có thể có được. Một buổi sáng, đứng ở cửa sổ hít thở khí trời mát mẻ từ sông Wa­hal đưa tới và khi nhìn ra xa thấy bóng những cối xay bột ởĐoocđret quê hương anh, anh thấy từng đàn chim bồ câu từ xa xa bay tới và đậu trên các chái nhà Lôvet­ten để sưởi ấm. Cooc­nêliluyt thầm nghĩ: “Những con chim kia đến từĐoocđret và như vậy chúng có thể quay về đấy. Ai gài được thưở cánh chim may ra báo được tin mình cho Đoocđret biết, ởđấy người ta đang mỏi mắt chờ ta. Rồi sau một lúc mơ màng anh lại nói một mình: - “Người đó sẽ là ta”. Người ta kiên nhẫn khi người ta hai mươi tám tuổi, và khi người ta phải ở tù chung thân; nghĩa là sẽ còn sống vào khoảng hia mươi lăm, hai mươi sáu nghìn ngày trong tù. Trong khi suy nghĩđến ba củ giống của mình, ý nghĩđó luôn luôn đập trong đầu óc anh như trái timđập trong lồng ngực vậy. Sau bao nhiêu tháng nhử mãi không được, cuối cùng Cooc­nêliluyt cũng bắt được một chú chim câu mái. Anh mất hai tháng nữa bắt được một con chim đực; anh nhốt hai con với nhau và vào khoảng đầu năm 1673 chú?ng đẻ trứng; khiđến lượt con đực ấp trứng anh thả con mái sau khi đã gài được một mẩu giấy nhỏ nhắn tin vào dưới cánh; con này vững tin con đực, bay thẳng vềĐoocđret.

Đế n chiều nó bay về. Mẩu giấy vẫn còn. Đến ngày thứ mười sáu, nó trở về, cánh không còn giấy. Giấy báo tin anh viết gửi cho người vú già nuôi anh. Trong thư anh yêu cầu

hễ ai bắt được hãy hảo tâm gửi ngay đến địa chỉ trên giúp cho càng sớm càng

tốt.

Trong th ư còn có ít dòng nữa gửi Rô­da..Thượng đế từng có phép nhiệm màu đem những hạt củ cải dại rắc lên các tường thành lâu đài cổ và làm chúng nở hoa chỉ bằng mấy hạt mưa lất phất thì Thượng đế cũng có phép dễ dàng cho người vú già nhận được thư của Văng Ba­clơ.

Vào những ngày đầu tháng hai, ởđầu cầu thang nhỏ có tiếng người nói làm

Cooc­nêliluyt gi ật mình. Đó chính là giọng nói êm ái dịu dàng của Rô­da. Chúng ta phải thú thực với nhau rằng Cooc­nêliluyt không bị choáng váng vì

s ự bất ngờđó; con chim trở về dưới cánh không có thưđã gieo trong lòng anh một mầm hy vọng. Và ngày nào anh cũng mong đợi tin tức người anh yêu và tin tức những mầm giống hoa của anh.

Anh đứng dậy lắng tai nghe.

Đ úng rồi, đúng Rô­da đã vào được nhà gi­am thăm anh không biết bằng cách nào. Trong khi Cooc­nêliluyt còn đặt ra bao giả thuyết, cửa ghi-​sê ở buồng gi­am anh bỗng mở. Rô­da mắt sáng ngời vui sướng ghé sát mặt vào tấm lưới thép.

- ôi! Th ưa anh, thưa anh, em có mặt đây. Cooc­nêliluyt gi­ang tay:

- ôi! Rô­da, Rô­da!

- Xin ông nói khẽ thôi, có cha em đi theo!

- Cha em ư?

- Vâng, cha emđang ở dưới sân nhận chỉ thị của ông giámđốc và sắp lên đây.

- Chỉ thị của giám đốc?

- Em cố nói ngắn gọn anh nghe, ông Hoàng Guyôm có một nhà nghỉ cách

Leyde m ột dặm, đó chỉ là một trại nuôi bò sữa không gì khác; chính cô em là vú nuôi ông Hoàng được gi­ao trông nom trại đó. Khi bà vú nuôi của anh đọc cho em nghe thư anh, em vội chạy ngay đến nhà cô em; em ở chơi đó cho đến khi gặp được ông Hoàng đến thăm trại; em thỉnh cầu ông hãy ban ơn cho cha em được coi ngục Lôvet­ten thay vì gác ngục ở La Haye.

May quá ông không nghi ngờ hỏi em vì sao, thành thử lời thỉnh cầu của em

đượ c chấp nhận ngay.

- Vì thế em có mặt ởđây.

- Như anh thấy đấy!

- Và hàng ngày anh sẽđược nhìn thấy mặt em?

- Luôn luôn, nếu em có thể.

- Ôi, Rô­da, Rô­da xinh đẹp của anh! Vậy là em có yêu anh một chút chứ?

- Một chút… Ôi! Anh Cooc­nêliluyt, anh chẳng biết yêu sách chút nào cả! Cooc­nêliluyt say sưa đưa tay ra, nhưng chỉ những ngón tay của họ là chạm được vào nhau qua lưới sắt.

- Cha em lên kìa! - Cô gái nói. Và Rô­da vội vàng rời cánh cửa chạy đến với lão Gri­phuyt đang đi lên cầu

thang.

CÁI CỬA GHISÊ

G

ri­phuyt dắt chó đi theo! Lão cho nó đi một vòng để nó nhận được tù nhân

khi c ần thiết.

- Cha ơi! – Rô­da nói – Đây là căn phòng gi­am trứ danh của ông Grôti­tuyt đã

vượt ngục. Cha có biết ông Grôti­tuyt không?

- Có ch ứ! Cái thằng khốn kiếp Grôti­tuyt ấy! Hắn là bạn thằng phản động Bac­nêven mà cha đã được xem hành hình hồi còn nhỏ. À, à! Grôti­tuyt đã vượt ng�- Våc từ căn phòng này! Vậy thì ta báo cho mọi người biết: sau hắn sẽ không có một kẻ nào khác còn vượt ngục được nữa, cha bảo đảm như vậy đấy! Lão mở cửa ra và nói chuyện với tù nhân trong bóng tối. Còn con chó ngửi quanh cái bắp chân của tù nhân như muốn hỏi người đó rằng tại sao lại có quyền không bị chết, vì nó đã nhìn thấy tù nhân đi giữa người đao phủ và viên lục sự.

- ái chà chà, ông Văng Ba­clơđó ư? - Gri­phuyt nói. - Sung sướng quá, chúng

ta l ại gặp nhau.

- Vâng, thưa ông Gri­phuyt quý mến, tôi vui mừng được thấy tay ông đã khỏi. Gri­phuyt cau mày nói:

- Anh thấy đấy, về chính trị người ta mới dễ mắc sai lầm làm sao. ông Hoàng đã tha mạng sống cho anh, tôi thì không làm vậy.

- Chà! Tại sao lại thế, thưa ông?- Cooc­nêliluyt hỏi.

- Vì anh là kẻ sẽ tái phạm mưu phản.

- Thưa ông Gri­phuyt cao thượng, - Cooc­nêliluyt nói tiếp. - có lúc tôi đã có ý

định bỏ trốn đi thật nhưng bây giờ chắc chắn là tôi không còn ý nghĩđó nữa.

- Thế là tốt! - Gri­phuyt nói. - Anh hãy coi chừng anh, tôi cũng làm thế. Thế

là công b ằng, công bằng. Rất tiếc Hoàng thân đã phạm một sai lầm lớn.

- Khi ông không y án xử tử tôi ấy ư?

- Có lẽ thế. Anh hãy xem xem có phải hai ông đơ Vit nhà ông bây giờ không được yên tâm lắm không.

- Điều ông nói thật khủng khiếp, ông Gri­phuyt ạ.

- Với lại, tôi nói thế là xuất phát từ lòng thương yêu con người.

- A! Thật thế hả ông? Xin ông hãy nói rõ thêm, tôi không hiểu lắm.

- Đúng vậy. Nếu đầu anh rơi dưới đao của đao phủ Har­bruck thì anh không

còn phải đau đớn nữa đâu. Còn nhưởđây, tôi chẳng giấu gì anh, tôi sẽ làm cuộc

đời anh còn khổ.

Trong khi ng ười tù mỉm cười nhạo báng ông cai ngục thì Rô­da nấp sau cánh cửa nhìn anh và mỉm cười với một nụ cười đầy thông cảm và an ủi. Gri­phuyt đi ra phía cửa sổ.

Khi ấy hai con chim câu nghe tiếng nói lạ liền sợ hãi bay khỏi tổ và biến mất

trong s ương mù.

- ạ, ô! Cái gì thế? - Viên cai ngục hỏi.

- Đấy là chim câu của tôi.

- Của tôi, của tôi! - Gri­phuyt lớn tiếng. - Thử hỏi một tù nhân còn có thứ gì là của riêng mình nữa không?

- úi dà, - người tù nói. - đó là chim của Thượng đế gửi đấy mà.

- Đó là vi phạm kỷ luật! - Gri­phuyt nói. - Nuôi chim bồ câu, to gan thật. Này

tôi báo tr ước cho anh biết nội nhật ngày mai tôi bắt bỏ nồi đấy..Hẹn thế xong, Gri­phuyt thò đầu ra ngoài cửa sổ ngó xem tổ chim thế nào, chớp lấy thời cơ, Cooc­nêliluyt chạy vội ra cửa nắm lấy tay Rô­da. Cô nói với anh:

- Chín giờ tối nay ông nhé!

Còn m ải suy nghĩ về việc sáng mai bắt chim câu thế nào, Gri­phuyt không nói gì, không nghe thấy gì và khi khép cửa sổ lại, hắn kéo tay con gái ra khỏi buồng gi­am, khóa hai lần cửa lại, chốt then vàđến thăm một tù nhân khác cũng với những hứa hẹn như hứa hẹn với Cooc­nêliluyt…

Hắn vừa đi khỏi, Cooc­nêliluyt đã chạy đến cửa sổ phá tan nát tổ chim.

Anh thà đuổi chúng đi không cho ở với mình còn hơn là để chúng chết bởi

tên cai ngục. ôi!

Những con chim đưa thư tận tình đã mang đến cho anh diễm phúc gặp lại

Rô­da. Giờđây, anh nóng lòng sốt ruột đợi đến chín giờ.

Ti ếng chuông cuối cùng điểm trên lầu canh vừa ?dứt, anh đã nghe thấy bước chân nhẹ nhàng của cô gái Frisonne; cánh cửa nhỏ gài lưới thép bỗng nhiên sáng; ghisê được mở từ bên ngoài.

- Em đây rồi! - Rô­da vừa nói vừa thở hổn hển vì lên cầu thang.

- ôi! Em Rô­da yêu quý!

- Anh thích gặp lại em sao?

- Sao em hỏi thế? Nhưng em làm thế nào đểđến được đây, em hãy nói đi.

- Chả là tối nào cha em cũng ngủ ngay sau khi ăn xong và ông uống rượu hơi say. Nhờđó, tối nào em cũng sẽđến đây được một tiếng nói chuyện với anh.

- ôi! Tôi cámơn em, rất cám ơn em Rô­da. Khi nói câu đó Cooc­nêliluyt ghé sát mặt anh lại cửa ghisê làm Rô­da giật ngay người lại.

- Em mang đến cho anh các mầm hoa tuylíp đây. Tim Cooc­nêliluyt nảy thót. Trước anh không dám hỏi Rô­da đã làm gì đối với những mầm hoa quý của anh.

- A! Thế ra em đã bảo quản được chúng ư?

- Thế anh đã không gi­ao nó cho em như một vật báu em phải trân trọng đó sao?

- Có chứ, nhưng khi anh đã hứa cho em thì chúng là của em.

- Chúng chỉ là của em khi anh mất đi nhưng bây giờ anh còn sống, chúng là

c ủa anh. Em quyết định mang chúng trả lại anh; có điều em không biết làm bằng cách nào. Mấy hôm nọ khi bà vú nuôi mang thư của anh đến cho em, em mới quyết định gặp ông Hoàng xin đổi chỗ gác đến đây cho cha.em. Thế là emđến được Leyde. Chuyện tiếp về sau thế nào, anh biết rồi đấy.

- Thế nào, em Rô­da yêu quý, ngay trước khi nhận được thư anh, em đã có ý

nghĩđến gặp anh rồi ư?

- Anh còn hỏi điều đó! - Cô gáiđã thắng được thẹn thò trả lời. - Em chỉ nghĩ

có chuyện đó thôi.

Khi nói v ậy, Rô­da trông rất hấp dẫn khiến lần thứ hai, Cooc­nêliluyt áp vội trán mình, môi mình lên tấm lưới sắt và như thế có lẽđể cámơn cô gái đáng yêu kia.

Như lần thứ nhất, Rô­da lùi lại:

- Nói thật, - cô gái nói. - em thường rất tiếc em không biết đọc nhưng không

lần nào em tiếc bằng lần vú nuôi mang thư của anh đến cho em.

Cô gái đỏ bừng mặt, mắt nhìn xuống, khiến cô không nhận thấy môi của Cooc­nêliluyt đưa gần lại, nhưng than ôi! Nó chỉ chạm lưới sắt; nhưng dù sao vì quá gần, cũng được đến cặp môi người thiếu nữ hơi thở nóng hổi của một cái hôn nồng thắm nhất. Thấy ngọn lửa đốt cháy môi mình, Rô­da tái xanh lại, có thể hơn cả cái hôn hành hình ở Buyten­hôp. Cô khẽ rên lên một tiếng, nhắm cặp mắt đen lại và bỏ chạy với trái tim hồi hộp trong lòng. Cô lấy tay cố nén lại mà không được. Còn lại một mình, Cooc­nêliluyt đành phải hít lấy cái hương thơm từ mái tóc Rô­da để lại ở xung quanh cửa ghisê.

Rô­da bỏ trốn nhanh quá đến nổi quên cả việc trả lại Cooc­nêliluyt ba củ

giống hoa tuylípđen.

THẦY GIÁO VÀ CÔ HỌC TRÒ

L

ão cai ngục Gri­phuyt khác rất xa với con gái mình trong việc đối xử với người con đỡđầu của Cooc­nây đơ Vit. Trong nhà tù Lôvôt­ten chỉ có năm tù nhân, do đó nhiệm vụ của người cai

ng ục không có gì là khó khăn lắm, chỉ như một trò dưỡng lão với Gri­phuyt mà thôi. Nhưng do nhiệt tình với công việc, lão đã tự huyễn hoặc và phóng đại nó lên. Đối với lão Cooc­nêliluyt là một tù nhân vào loại nặng nhất. Lão chie giám sát mỗi một hành động của anh, và lại g?ần anh chỉ với bộ mặt cau có. Hàng ngày, hắn vào buồng gi­am của Văng Ba­clơ ba lần, hy vọng bắt được anh phạm lỗi, nhưng anh khôn ngoan không viết thư, gửi thư từ ngày anh có bên cạnh cô nhận thư cần mẫn.

Thật vậy, Rô­da đã hứa hàng ngày sẽđến nói chuyện với anh và ngay tối đầu

tiên, cô đã giữ lời hứa.

Hôm sau, cũng như hôm trước, cô hết sức thận trọng bước lên cầu thang. Cô

bắt đầu đưa qua lưới thép ba củ mầm hoa vẫn luôn luôn được bọc kỹ trong giấy.

Nhưng điều làm Rô­da hết sức ngạc nhiên là Văng Ba­clơ dùng đầu ngón tay

đẩy bàn tay trắng muốt của cô ra..Chàng trai đã suy nghĩ.

- Em nghe đây, chúng ta liều lắm đấy! - Anh nói. - Chúng ta quá mạo hiểm để cả gia tài của chúng ta vào một gói. Em nghĩ xem, công việc của chúng ta là có được một bông hoa tuylíp đen. Đây, anh tính bằng cách nào ta sẽđi được đến đích đó.

- Em nghe đây.

- Em có thấy trong pháo đài này một mảnh vườn nhỏ hay nếu không, một

góc sân, m ột vạt mái hiên cũng được?

- Có một cái vườn rất đẹp. - Rô­da trả lời.

- Em có thể mang đến cho tôi một ít đất ở mảnh vườn đó không? Em lấy một ít ở chỗ bóng râm, một ít ở chỗ có nắng để anh xem chúng tốt xấu thế nào.

- Anh yên tâm, em sẽ làm được.

- Đất anh chọn nếu cần sẽ thay đổi nó đi một chút cho thích hợp, ta chia làm ba phần cho ba mầm, em lấy một phần đểươm một mầm giống. Nó sẽ ra hoa nếu em làmđúng những điều anh chỉ dẫn.

- Em không lơ là chút nào.

- Emđưa cho anh một mầm anh trồng ngay trong buồng này. Anh ít hy vọng

ở mầm này, anh thú thực như vậy, anh coi nó nhưđã bị hy sinh vì sự ích kỷ của anh. Còn mầm thứ ba em giữ lấy, đề phòng trường hợp cả hai mầm trên thất bại. Bằng cách đó, em Rô­da thân mến, không thể chúng ta không kiếm được một trăm nghìn phlorăng của hồi môn cho em.

- Em hiểu rồi, ngày mai em sẽ mang đất đến đây, anh chia phần cho em và

cho anh.

- ồ chúng ta không vội gì, mầm hoa của chúng ta không được trồng trước đây một tháng trọn. Như vậy chúng ta còn đủ chán thì giờ, có điều muốn trồng mầm giống của phần em, em phải theo những chỉ dẫn của anh một cách thật đầy đủ.

- Em xin h ứa.

- Được, cám ơn em Rô­da! Em sẽ là tất cả nguồn vui của anh. Vì Ba­clơđưa môi đến gần lưới sắt cũng nồng nàn như hôm qua vả lại cũng

đã đến giờ Rô­da phải ra về, cô liền hất đầu ra sau nhưng nhẹ nhàng đưa bàn tay

vào gần lưới sắt.

V ăng Ba­clơ hôn thắm thiết lênđầu các ngón tay Rô­da. Có phải vì trong bàn tay cô gái có ba mầm giống quý giá của anh hay vì bàn tay ấy là của Rô­da, vì Rô­da?

Dù thế nào đi nữa, từ lúc đó trởđi, đời sống của người tù trở nên yên ổn và

tràn đầy niềm vui.

Rô­da đưa cho anh một trong ba củ mầm giống..Mỗi buổi tối, cô mang đến

cho anh một nắm đất lấy ở góc vườn mà anh cho là thích hợp nhất.

Một cái hũ lớn có quai, anh khéo ghè thành một cái chậu lý tưởng, anh đổ

n ước đến nửa. Rồi vào đầu tháng tư, anh đặt vào đó mầm giống thứ nhất. Không có ngày nào Rô­da không đến nói chuyện với anh. Hoa tuylíp luôn là nội dung câu chuyện, nhưng dù cho hay đến mấy người ta

không thể nói mãi một chuyện hoa tuylíp �i t�ược.

Họ nói chuyện khác với nhau và người trồng hoa tuylíp xưa ngạc nhiên biết

mấy khi thấy họ nói chuyện với nhau về rất nhiều vấn đề.

Điều làm anh lo lắng không kém gì các mầm hoa là Rô­da Hòan toàn phụ

thuộc vào người cha của cô.

M ột sáng nào đó con người ấy có thể thấy ở chỗ này buồn, không khí không tốt, cây bách xà chẳng tươi liền có ý bỏ lại pháo đài và mang con gái đi, thế là Cooc­nêliluyt và Rô­da một lần nữa sẽ phải xa nhau.

- Thế thì cần gì phải có chim câu đưa thư nữa, - Cooc­nêliluyt nói với cô gái.

- Bởi vì Rô­da ạ, em không biết đọc thư tôi viết cho em cũng như em không thể viết thư trả lời tôi.

Rô­da trong lòng r ất sợ phải xa Cooc­nêliluyt cũng như Cooc­nêliluyt sợ xa Rô­da, cô liền trả lời:

- Thế thì ông hãy dạy em viết, emđọc đi, bằng cách ấy ông và em chẳng bao giờ xa nhau trừ khi tự ý.

- ồ! Thế thì chúng ta vĩnh viễn có nhau! -Cooc­nêliluyt kêu lên. Rô­da mỉm cười và khe khẽ nhún vai.

- ông sẽở mãi nhà lao ư? - Rô­da hỏi. - Hoàng thân không trả lại tự do cho

ông sao? Một khi được tự do và đã giàu, ông có còn đoái Hòai đến con bé Rô­da,

đứ a con gái viên cai ngục gần như là tên đao phủ này nữa không? Cooc­nêliluyt định phản đối, nhưng cô gái ngăn lại.

- Khi nào chúng ta bắt đầu học?

- Ngay bây giờ.

- Thôi, ngày mai.

- Tại sao lại phải đến mai?

- Vì hôm nay hết giờ rồi, em phải tạm biệt anh đây! – Đã đến giờ rồi kia à?

Nhưng tập đọc bằng gì được?

- Ồ! - Rô­da nói. - Em có một quyển sách mà em tin la nó sẽ mang lại may

mắn cho chúng ta.

Ngày hôm sau, Rô­da mang lại quyển Kinh Thánh của Cooc­nây đơ Vit.

CỦ GIỐNG THỨ NHẤT

H

ôm sau Rô­da mang quyển Thánh kinh đến. Giữa thầy và trò đã diễn ra một cảnh tượng rất đẹp. Ghisê là cánh cửa duy nhất cho dùng để liên lạc giữa hai người. Nếu như chỉ

để nói chuyện vì ngắm nhau không thôi thì còn tạm được, nay lại phải cùng

nhau đọc một quyển sách thì nó hơn cao quá.

Rô­da ph ải tỳ vào ghisê, đầu cúi xuống, giơ quyển sách lên phía ánh sáng của chiếc đèn mà cô cầm ở tay phải, về sau để dễ dàng hơn, Cooc­nêliluyt có sáng kiến lấy mùi soa buộc vào một khung thép. Từđó, Rô­da có thể nhìn rõ được các chữ và vần mà Cooc­nêliluyt, dùng một cọng rơm và chọc qua mắt lưới, chỉ cho Rô­da nhận mặt chữ và đánh vần.

Trí óc của cô gái mở mang rất nhanh nhờ vào sự dạy bảo thông minh của

Cooc­nêliluyt. Tr ở về nhà, cô tự lấy sách ra ôn một mình. Một tối nọ cô đến chậm hơn mọi lần nửa tiếng.

- ôi! ông đừng mắng em! - Cô gái nói. - Lỗi không phải tại em. Gần đây, bố

em mới tiếp một người trước kia ở La Haye vẫn thường đến nhà emđể xin bố

em cho vào th ăm nhà tù Buyten­hôp.

- Em không biết gì thêm về người đó ư? -Cooc­nêliluyt ngạc nhiên hỏi.

- Không, em không biết! - Cô gái trả lời.

- ồ! - Cooc­nêliluyt nói. - Có lẽ là một tên do thám nào đó thuộc loại người ta

vẫn gửi đến các pháo đài để giám sát tù nhân đồng thời giám sát cả cai ngục

nữa.

- Em không tin, - Rô­da mỉm cười nói. - nếu kẻđó đến dò xét ai thì không

ph ải là dò xét c?ha em.

- Vậy dò xét ai?

- Em chẳng hạn.

- Dò xét em.

- ở La Haye người ấy đã nhiều lần đến Buyten-​hof,đúng vào thời kỳ ông bị gi­am. Khi em ra ngoài, hắn không để ý đến, bây giờ em ởđây, hắn lại xuất hiện.

- Trông hắn có trẻ, có đẹp trai không? Văng Ba­clơ nhìn thẳng vào mắt Rô­da, lo lắng chờ cô trả lời.

- Trẻư? Đẹp ư? - Rô­da vừa nói to vừa lớn tiếng cười. - Trông mặt hắn gớm

khiếp, lưng thì gù, tuổi thì xấp xỉ năm mươi. Hắn không dám nhìn thẳng vào

m ặt em, không dám nói to.

- Tên hắn là gì?

- Ja­cob Gisels.

- Dù sao hắn yêu em, Rô­da ạ, điều đó có thể lắm, vì nhìn em tức là yêu em,

em không yêu hắn chứ?

- ồ, không, lẽđương nhiên rồi. à nhân tiện em hỏi anh, mầm hoa của anh ra sao rồi? - Rô­da, emđoán xem anh vui sướng đến nhường nào; sáng nay tôi thấy mầm láđầu tiên nhú lên, bằng mũi kim Rô­da ạ, tim anh muốn vỡ ra vì vui sướng đấy.

- Còn em, bao giờđến lượt em phải trồng?

- Đến ngày nào thích hợp, tôi sẽ nói với em, nhưng em không được để lộ bí

m ật cho bất cứ ai nhé.

- Xin ông đừng lo. Bây giờđến lúc em phải vềđây.

- Về rồi kia à?

- Phải về thôi ạ.

- Emđến thì rất muộn, về lại rất sớm!

- Bố em có thể lo lắng khi thấy em chưa về; kẻ si tình kia có thể nghi ngờ mình có tình địch. Cô bỗng dỏng tai nghe, vẻ lo lắng.

- Chuyện gì thế? - Văng Ba­clơ hỏi.

- Hình như có tiếng động, như tiếng chân lên cầu thang. Rô­da đi xuống. Đúng vậy, người ta nghe thấy tiếng cánh cửa khép vội trước

khi người con gái bước hết khoảng mười bậc thang đầu tiên.

Cooc­nêliluyt hết sức chú ý đến sự việc này, nhưng với anh, đó mới chỉ là

một sự khởi đầu.

M ột buổi sáng nọ, Cooc­nêliluyt mải ngắm mầm câyđã như một lá nhỏ, trong xanh như một bóng đèn tí hon nên không nghe thấy tiếng chân của Gri­phuyt bước lên thang gác - hômấy trời lại gió to - cửa bỗng bật mở, Cooc­nêliluyt bị bắt quả tang, cái hũươm cây vẫn còn đang đặt trên đầu gối.

Gri­phuyt nh ảy xổđến còn nhanh hơn con chim cắt lao xuống quắp mồi.

- Anh có gì đấy? - Hắn kêu to lên. - A! Tôi tómđược anh rồi nhá. Nói đoạn, hắn sục tay vào chỗđất.

- Để củ tuylíp đấy cho tôi! - Văng Ba­clơ kêu lên. Gri­phuyt thọc sâu vào đất, moi lên củ tuylíp đen, vứt lên sàn đá rồi lấy chân

giẫm nát.

V ăng Ba­clơ nhìn củ giống chỉ còn là một nhúm cùi lầy nhầy bê bết đất và cảm thấy vẻ vui thích tàn bạo ở tên cai ngục, anh thốt lên một tiếng kêu tuyệt vọng.

ý định giết tên ôn vật kia đi lóe lên trong đầu người trồng hoa tuylíp. Hai tay nắm chiếc hũ còn.nặng nguyên sốđất không dùng đến nữa, anh nâng lên khỏi đầu. Thiếu chút nữa, anh đập tan nó trên cái đầu hói của tên cai ngục.

Một tiếng kêu làm anh ngừng tay, đó là tiếng kêu của Rô­da đứng sau tấm

lưới sắt ở cửa ghisê.

Cooc­nêliluyt buông tay, chiếc hũ vỡ thành muôn ngàn mảnh. Cooc­nêliluyt

bảo lão cai ngục:

- Ôi! Phải là một người hèn nhát và đê tiện lắm ông mới phá mất củ giống

hoa tuylip, ni ềm anủi độc nhất của tôi, một tù nhân khốn khổ.

- Cha vừa mới phạm vào một tội ác đấy! – Rô­da nói. Lão cai ngục quay lại phía con gái, nổi giận quát:

- A!? Con ranh con này, ai cho mày nói leo vào đây? Về ngay!

- Khốn khổ - Cooc­nêliluyt tiếp tục than vãn - Khốn khổ thân tôi quá!

- Dù sao cũng chỉ là một cái hoa tuylip thôi – Gri­phuyt hơi xấu hổ nói –

Ngoài chợ thiếu quái gì, trong kho của tôi có hàng mấy trăm củ.

- Hoa c ủa ông chỉ có mà cho vào sọt rác! Chúng giá trị bằng ông và ông cũng chỉ có giá trị bằng chúng mà thôi! Mất bạc triệu tôi cũng vui lòng đổi lấy cái mà ông vừa giẫm nát kia kìa.

- Ái chà! Anh thấy chưa! Trong cái củ giống giả tạo ấy chắc là có tà pháp gì mà anh dùng để liên lạc với kẻ thù của quốc trưởng, người đã ân xá cho anh. Tôi đã nói ngay rồi mà, không chặt cổ anh là một điều sai lầm lớn.

- Cha ơi! – Rô­da kêu lên.

- Thôi, càng hay, càng hay! – Gri­phuyt nói l ớn – Tôi đã phá được nó rồi. Tôi sẽ còn phá nữa, nếu anh còn tiếp tục. Tôi sẽ báo trước cho anh biết rồi, tôi sẽ còn làm cho cuộc sống của anh phải khốn đốn mà!

- Thật là đốn mạt, đốn mạt! - Cooc­nêliluyt thất vọng kêu lên, hai tay run run

l ật đi lật lại củ giống đã nát bét. Rô­da hiểu được nỗi đau khổ không bờ bến của Văng Ba­clơ, cô khẽ nói:

- Ngày mai chúng ta sẽ trồng củ kia anh ạ! Giọng nói dịu dàng của cô như một giọt thuốc tiên rỏ lên vết thương lòng

của Cooc­nêliluyt.

GÃ PHẢI LÒNG RÔ­DA

R

ôda vừa nói xong mấy lời an ủi Cooc­nêliluyt thì nghe có tiếng nói ngoài cầu thang hỏi Gri­phuyt có việc gì xảy ra.

- Cha có nghe thấy gì không? Rô­da hỏi.

- Cái gì?

- Ông Jacôp hỏi cha, ông ấy đang lo ngại đấy!

- Làmầm ầm lên như thế mà lại – Gri­phuyt nói – Có thể người ta đã cho là

nhà thông thái này ám sát cha cũng nên. Ôi! Bao nhiêu việc đau đầu với bọn

thông thái! Rồi đưa tay chỉ ra ngoài cầu thang, lão nói tiếp với Rô­da:

- Nào, mới côđi lên trước cho. Gri­phuyt cùng với Rô­da đi ra, khóa cửa lại, để lại một mình Cooc­nêliluyt tội

nghiệp trong phòng gi­am. Anh lẩm bẩm: “Lão già đao phủ kia, lão đã hại ta rồi!

Ta không sống nổi được nữa!”

Quả vậy, nếu không có Rô­da mà Thượng đếđã mang đến đểđền bù cho anh

thì anh đã ốm to rồi.

Đến tối, người con gái trở lại. Câu đầu tiên cô nói là từ nay trởđi cha cô

không c ấm anh trồng hoa nữa.

- Chuyện xảy ra thế nào mà lại thế? - Người tù hỏi.

- Chả là vào bữa ăn tối, người bạn của cha em hỏi, ông kể lại chuyện xảy ra

vì cây tuylíp, nói đúng hơn vì củ mầm hoa, ông kể ông đã giẫm nát nó hùng hổ

đế n thế nào. Cooc­nêliluyt thở dài như một tiếng rên rỉ.

- Giá mà lúc ấy ông thấy ông Ja­cob nhỉ! - Rô­da nói tiếp. - Thực ra khó có ai

c ư xử một cách tồi tệ như vậy đối với cha em. Nhưng về phía ông ta, hình như có điều gì bị thất vọng thực sự, ông luôn mồm kêu: “Xéo nát, củ mầm bị xéo nát. ôi! Trời ơi! Trời ơi, bị xéo nát.” Rồi quay về phía em ông hỏi: “Nhưng đó không phải là củ duy nhất hắn có phải không? Thường là hắn có ba củđấy.

- Ba c ủ! - Cooc­nêliluyt kêu lên. - Hắn nói rằng tôi có ba củ?

- Chính câu hỏi đó cũng làm em sửng sốt.

- Rô­da… - Cooc­nêliluyt tái mặt nói.

- Cái gì kia ạ?

- Không phải là hắn y?êu em đâu.

- Vậy là ai kia ạ?

- Hắn theo sát dấu vết củ mầm giống của tôi, chính củ hoa tuylíp mới là cái hắn say mê.

- A! Điều đó có thể thế lắm. - Rô­da nói to.

- Em có muốn biết chắc không?

- Bằng cách nào?

- Ngày mai em hãy vào vườn; em làm thế nào cho hắn biết việc đó, làm cho

hắn đi theo, em vờ làm như vùi củ giống thực sự, rồi em quay về, nhưng sau đó

em nhìn qua c ửa sổ, em sẽ thấy điều gì xảy ra..- Vâng! Nhưng sau đó ta làm gì?

- Sau đó, chúng ta hành động.

- A! - Rô­da nhún vai nói. - ông chỉ biết yêu hoa của ông thôi, ông Cooc­nêliluyt ạ. Người tù thở dài nói:

- Thực ra từ khi cha em xéo nát củ hoa giống của tôi, hình như một phần

cu ộc sống của tôi đã bị tê liệt. Ngày mai chúng ta sẽ quyết định về củ hoa giống chia cho em; em sẽ trồng theo sự chỉ dẫn của tôi. Còn củ thứ ba, - Cooc­nêliluyt hít mạnh một hơi. - Còn củ thứ ba, em cất vào tủ! Em hãy giữ lấy nó như kẻ hà tiện giữđồng tiền vàng đầu tiên hay cuối cùng của hắn, như người mẹ giữ lấy đứa con, như kẻ bị thương giữ lấy giọt máu cuối cùng trong huyết quản của mình; em hãy giữ lấy nó đến cùng, em Rô­da.

Càng nói càng hăng, anh nói tiếp:

- Ngay c ả trường hợp em cảm thấy em bị theo dõi, công việc em làm bị rình mò thì em Rô­da, em hãy hy sinh ngay bản thân anh đi, anh, người chỉ còn có mình em trên đời, hy sinh anh đi, đừng đến thăm nom anh nữa.

Rô­da cảm thấy lòng mình thắt lại. Cô òa lên khóc:

- Em biết, em biết anh chỉ yêu hoa tuylíp thôi nên trong tim anh không còn

ch ỗ cho một tình yêu khác. Nói rồi cô vụt chạy biến đi. Sau khi Rô­da đã đi rồi, Cooc­nêliluyt phải trải qua một trong những đêm bi

đ át nhất. Rô­da đã hờn dỗi anh và cô có lý do chính đáng. Có thể cô sẽ không đến thăm anh nữa và anh sẽ không còn biết tin tức gì cả về Rô­da, cả về hoa tuylip của anh nữa. Bây giờ ta giải thích thế nào về cái tính kỳ quặc ấy của Văng Ba­clơ? Ta cần phải công nhận với nhau rằng giữa hai mối tình anh luyến tiếc, anh nghiêng về tình yêu Rô­da hơn. Và đến ba giờ sáng, vì quá mệt mỏi, đầy lo âu và hối hận, anh ngủ thiếp đi. Lúc đó hoa tuylip đen vĩđại phải nhường chỗ hàng đầu cho cặp mắt dịu dàng xanh biếc của Rô­da trong những giấc mơ của anh.

NGƯỜI VÀ HOA

N

hưng tội nghiệp cho Rô­da, cô nằm trong buồng, cô không thể nào biết

được Cooc­nêliluyt mơđến ai, đến cái gì. Theo như những điều chàng đã nói thì

rõ ràng là chàng mơ tưởng đến hoa tuylip hơn là đến cô! Tuy nhiên cô đã nhầm.

Nh ưng không ai có ởđây để nói cho cô biết là cô nhầm, vì những câu nói thiếu thận trọng của Cooc­nêliluyt đã rơi vào tâm hồn cô như những giọt thuốc độc, Rô­da không mơ mộng được. Cô khóc. Bản chất Rô­da vốn cao cả, nhận thức của cô thẳn thắng và sâu sắc, cô thấy được vị trí xã hội của mình. Cooc­nêliluyt là một người có học thức lại giàu có, rất có thể chàng chỉ coi Rô­da như một trò tiêu khiển. Nhưng có điều chắc chắn là chàng đã dâng hiến tất cả trái tim của chàng cho hoa tuylip, một loài hoa cao thượng và kiêu kỳ nhất trong các loài hoa, chứ không phải cho Rô­da, một cô gái tầm thường, con gái tên cai ngục. Rô­da th�h3><�y được là Cooc­nêliluyt thích hoa tuylip đen hơn thích mình, cô càng thất vọng hơn, vì cô đã hiểu như thế. Vì vậy trong cái đêm không ngủ, cái đêm khủng khiếp ấy, cô đã có một quyết định. Cái quyết định ấy là không trở lại ghisê nữa. Nhưng cô biết Cooc­nêliluyt rất muốn biết tin tức về mầm hoa tuylíp của cô, và vì cô muốn rằng không phải gặp lại con người mà cô đã vượt quá tình thương, quá cả tình cảm bình thường và đang bước những bước lớn tới tình yêu, nhưng vì cô không muốn để con người đó thất vọng, nên cô quyết chí tập đọc và tập viết một mình, may thay cô học tập có nhiều tiến bộ nên không nhất thiết phải có thầy dạy. Vậy là Rô­da hăng hái đọc trong quyển Thánh kinh của Cooc­nây đơ Vit, và tờ thứ haiđã trở thành tờ thứ nhất bị xé đi; trên tờ thứ hai này Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơđã viết di chúc của mình, Mỗi lần đọc xong bản di chúc đó, cô không khỏi không rỏ một giọt nước mắt

- hạt ngọc của tình yêu, nó rơi từ cặp mắt trong sáng xuống cặp má tái xanh của cô, cô lẩm bẩm:

“Ôi, lúc đó ta đã lầm tưởng là chàng yêu ta!”

T ội nghiệp cho Rô­da! Cô đã lầm, chưa bao giờ tình yêu của Cooc­nêliluyt trở thành sự thật như lúc này, vì trong cuộc đấu tranh giữa hoa tuylip đen và Rô­da, hoa đã bịđánh bại. Xin nhắc lại là Rô­da không biết tình hình đó. Vì thế trong tám ngày tập đọc, tập viết, cô đã có nhiều tiến bộ và đã viết khá rõ ràng những tin tức về hoa tuylípđen cho Cooc­nêliluyt.

Còn về phần Cooc­nêliluyt khi tỉnh dậy thấy mình yêu Rô­da hơn bao giờ hết.

Tuy nhiên, một nỗi lo lắng mơ hồ theo đuổi anh suốt ngày, anh sợđêm nay

Rô­da lại không đến.

Vì th ế tối đến, tim anh đập rất mạnh. Bảy giờ, tám giờ, rồi chín giờ. Anh để tay lên ngực để nén trái timđang đập rộn ràng, anh lắng tai nghe..Đêmấy không có tiếng động nào đến phá sự tĩnh lặng ở dãy hành lang; đồng hồ chỉ chín giờ rưỡi, rồi mười giờ.

Rô­da thường tạm biệt anh vào giờấy. Giờđã quá rồi mà Rô­da vẫn chưa đến.

Như vậy những linh cảm của anh không phải là sai.

- ồ! Mình thật đáng kiếp! - Anh tự nhủ. - Cô ấy không đến, cô ấy có lý; vào

địa vị mình, mình cũng làm như vậy.

Nói th ế thì nói, Cooc­nêliluyt vẫn lắng tai nghe, vẫn chờ, vẫn đợi và vẫn hy vọng. Anh lắng nghe, vẫn chờ cho đến nửa đêm, nhưng qua giờ phút đó, anh hết hy vọng, anh để nguyên quần áo vật mình xuống giường. Đêm thì dài và buồn thảm, rồi ngày đến; nhưng ngày cũng không mang lại tia hy vọng nào cho Cooc­nêliluyt. Tối đến, người tù lại hy vọng trở lại, nhưng cũng nhưđêm qua, giờ phút lặng lẽ trôi đi và Rô­da thì không đến. Ngày thứ ba, sự tuyệt vọng của Cooc­nêliluyt trở thành nỗi u buồn trầm lặng. Sự vắng thiếu Rô­da đè nặng lên tâm trí anh, khiến có lúc anh định chạy hỏi Gri­phuyt tin tức cô gái, nhưng hỏi thế nào cho hắn không nghi ngờđược? Bên cạnh nỗi đau đó còn có một mối lo sợ khác: thời điểm trồng củ giống đã đến. Nếu Rô­da để qua mất thời điểm đó thì thế nào? Bên cạnh nỗi đau không được gặp cô gái còn có nỗi đau thấy củ giống thối hỏng do trồng quá chậm hay do cả quên không trồng nó nữa thì sao?

Khi xét hai nỗi đau ấy gộp lại thì biết người ta sẽ mất ăn mất ngủđến thế

nào. �ắn�ó là việc xảy ra vào ngày thứ tư.

Đến tối, Gri­phuyt bưng bữa ăn trưa và bữa ăn tối của Cooc­nêliluyt đi; anh

ch ỉ nhấm nháp một miếng gọi là. Ngày hôm sau anh không động tới món gì và nằm cả ngày không dậy. Khi xem xét xong lần cuối và đi xuống cầu thang Gri­phuyt lẩm bẩm:

- Thôi được, tốt, chắc là mình sắp được thoát nợ rồi đây. Hắn không ăn, không uống, không ngồi dậy nữa, thế thì được. Rô­da thẫn thờ như sắp chết. Cô nghĩ, anh ấy lo lắng cho cây hoa tuylíp đây. Cô ngồi dậy, lo lắng nặng trĩu trong lòng, cô vào buồng lấy giấy mực tập viết

chữ suốt đêm.

Hôm sau, Cooc­nêliluyt th ấy có tờ giấy đút dưới khe cửa. Anh chạy đến lấy, mở ra và đọc, thấy một.nét chữ khó nhận ra là của Rô­da vì trong bảy ngày qua cô tiến bộ rất nhiều: “Xin ông yên tâm, cây hoa của ông rất khỏe khoắn” Ra thế, Rô­da không ốm. Cô chỉ bị tổn thương lòng tự ái. Cooc­nêliluyt có giấy và bút chì do Rô­da đã mangđến. Anh biết cô gái đang chờ trả lời. Nhưng cô chỉ nhận được trả lời vào ban đêm. Do vậy anh viết trên một mảnh giấy như mảnh giấy anh nhận được:

“Không phải lo lắng đến hoa tuylip mà anh bịốm, mà chính là vì nỗi u sầu

không được nhìn thấy em”.

Bu ổi tối, sau khi Gri­phuyt đã ra đi, anh luồn tờ giấy dưới cánh cửa rồi nghe ngóng. Nhưng dù anh có để hết tâm trí vào đôi tai, anh cũng không nghe thấy được tiếng bước chân cũng như thấy tiếng sột soạt của áo váy.

Anh chỉ nghe thấy một tiếng nói nhẹ nhàng như một hơi thở và êm dịu như

m ột cái vuốt ve qua cửa sổ ghisê vọng vào: “Mai nhé!” Ngày mai tức là ngày thứ tám, tám ngày Cooc­nêliluyt và Rô­da đã xa nhau.

ĐIỀU GÌ ĐÃ XẢY RA TRONG TÁM NGÀY ĐÓ

Q

uả nhiên hôm sau,vào đúng giờ thường lệ, Văng Ba­clơ nghe thấy tiếng

gõ nhẹ vào cửa ghisê như Rô­da vẫn thường làm trong những ngày họ gặp nhau.

Ng ười ta cũng có thểđoán được là Cooc­nêliluyt không đứng xa cánh cửa, mà qua chấn song, anh có thể nhìn thấy bộ mặt thân thương đã bao ngày xa vắng. Rô­da đã cầm đèn đứng đợi. Lúc nhìn thấy anh, cô không khỏi giật mình, vội hỏi:

- Anh b ịđau à, anh Cooc­nêliluyt?

- Vâng thưa cô, tôi bịđau cả về tinh thần lẫn thể xác.

- Emđã thấy anh không ăn được. Cha em nói là anh đau không dậy được

nữa. Do đó emđã viết thưđể báo tin cho anh biết tình hình vật yêu quý của anh

mà anh lo lắng đến.

- Còn tôi, tôi đã trả lời cô rồi đấy. Thấy cô lại đến đây, tôi cho rằng cô đã

nh ận được bức thưđó rồi kia đấy.

- Vâng, em nhận được rồi.

- Lần nay thì cô không thể cáo lỗi vì không đọc được nữa nhé! Không những

cô đã đọc được mà còn viết thạo nữa.

- Vâng, emđã nhận được thư và đọc nó rồi. Chính vì vậy mà emđến đây để

xem có cách nào làm cho anh khỏi bệnh được không.

- Làm cho anh khỏi bệnh? – Cooc­nêliluyt reo lên - Vậy là em mang lại cho

anh tin tức gì tốt đẹp chăng?

Cooc­nêliluyt vừa nói vừa nhìn chằm chằm vào Rô­da với cặp mắt đầy hi

v ọng.

Ho ặc là Rô­da không hiểu cái nhìn ấy, hoặc là cô không muốn hiểu nó, cô trả lời một cách trịnh trọng:

- Em chỉđến để nói với an?h về hoa tuylip là thứ mà em biết anh quan tâm đến nhất. Rô­da nói mấy câu ấy một cách lạnh nhạt khiến Cooc­nêliluyt chột dạ. Anh nói nho nhỏ:

- ôi, em hãy còn giận, hãy còn giận anh ư Rô­da? Trời ơi! Anh không nói với em rằng anh chỉ nghĩđến em, anh chỉ thương

nhớ em thôi ư?

Rô­da m ỉm cười buồn bã:.- Hoa của anh vừa qua một cơn hiểm nghèo làm sao. Cooc­nêliluyt giật mình và thế là anh rơi vào tròng.

- M ột cơn nguy hiểm, trời ơi, nguy hiểm thế nào? Rô­da nhìn anh tỏ vẻ thương hại:

- Vâng, anh đã đoán đúng, cái kẻ rình mò, cái kẻ si tình, cái lão Ja­cob ấy đến không phải vì em, lão đến vì hoa tuylíp.

- ôi! - Cooc­nêliluyt tái mặt kêu lên. Sự việc này không qua được mắt cô gái, một nụ cười buồn bã hiện lên chốc

lát trên đôi môi nàng.

- Con người ấy làm ông hoảng hốt vào cái ngày em đến thăm ông lần cuối

v ừa rồi, và ông nói với em… Anh nói to:

- Rô­da, một lần nữa anh xin lỗi em. Anh thật là có lỗi đã nói với em cái đêm

hômđó. Bây giờ em có tha thứ cho anh không?

- Hôm sau, - Rô­da nói tiếp. - em bẫy Ja­cob nhưđiều ông với emđã thỏa

thu ận.

- Sau thế nào? - Cooc­nêliluyt hỏi.

- Emđi xuống vườn, đúng nhưđiều ông đoán, hắn vừa đi vừa lẩn để theo

em. Đến luống ươm em ngồi xuống vờ như trồng củ rồi em núp sau cánh cửa để

theo dõi h ắn.

- Tên khốn nạn làm gì? - Cooc­nêliluyt thở gấp hỏi.

- Hắn đứng nghe ngóng một lúc có lẽđể biết chắc là em không quay lại nữa; hắn nhẹ nhàng bước khỏi chỗ nấp, đi loanh quanh mãi rồi mới đến luống ươm; đến trước chỗđất mới xới, hắn dừng lại làm ra vẻ thản nhiên như không, nhìn ngó xung quanh, chú ý từng xó vườn, từng cửa sổ các nhà

- Tên khốn kiếp, ta đoán ra ngay mà. - Cooc­nêliluyt lẩm bẩm. - Còn củ giống, em đã làm gì, Rô­da? Bây giờ trồng hơi muộn rồi đấy. - bên cạnh tới khi tưởng chỉ còn mình hắn, hắn mới cúi xuống, thọc tay vào đống đất mềm, bốc lấy một nắm để trong lòng bàn tay, nhẹ nhàng gảy gảy xem có mầm củ trong đó không, hắn làmđi làm lại ba lần, mỗi lần một vội vàng và cẩn trọng hơn, sau cùng hắn hiểu hắn đã bị mắc lừa. Hắn vội lấy cào, san bằng chỗđất, tiu nghỉu quay về với dáng đi của một người vô tội đi dạo về.Cooc­nêliluyt nói.

- Emđã trồng sáu ngày nay rồi..- Thế nào? - Cooc­nêliluyt kêu lên. - ởđâu? Trên chỗđất nào? Có đủ nắng hay không? Liệu nó có bị tên Ja­cob lấy cắp mất không?

- Không, nó không th ể bị lấy cắp trừ khi lão phá cửa vào buồng em.

- Thế thì được rồi, anh lo quá.

- Em trồng trong cái hũ to bằng cái hũ trước anh trồng. Đất trồng gồm ba phần là đất thường, lấy ở chỗ tốt nhất trong vườn, một phần là đất thô.

Vì em nghe ông gi ải thích và cả lão bỉổi Ja­cob, như ông gọi lão thế, cho biết hoa tuylíp tốt nhất phải trồng ở thứđất nào nên em biết mọi cách như người làm vườn chính cống ở Harlem ấy!

- Bây gi ờđến chỗđể, chỗ phơi. Em đặt nó ở chỗ nào, Rô­da?

- Lúc này, suốt ngày emđể nó ra ánh nắng. Nhưng đến khi nó nhú lên khỏi mặt đất, em sẽđặt nó ở cửa sổ hướng đông

từ tám giờ sáng đến mười một giờ trưa và ở cửa sổ hướng tây từ ba giờ chiều

đến năm giờ.

- Đúng rồi! - Cooc­nêliluy?t thốt lên. - Em là một người làm vườn tuyệt vời.

Nhưng anh nghĩ rồi, trồng hoa tuylíp làm mất thì giờ của em nhiều lắm đấy.

- Đúng vậy! - Rô­da đáp. - Nhưng không sao, hoa tuylíp của anh là con gái

c ủa em. Khi em là mẹ nó, em không còn là tình địch của nó nữa, em biết thế mà.

- Rô­da, em không thích là anh cũng yêu hoa sao?

- Không phải là không thích, có điều là em buồn khi thấy anh yêu hoa hơn

anh yêu em.

- Rô­da! - Cooc­nêliluyt kêu lên. - Em Rô­da, em hãy b ửa đôi củ tuylíp đen ấy đi, em hãy cắt bỏ hy vọng anh đặt trong hoa đó đi, em hãy vứt bông hoa đáng ghen tị của các loài hoa khác ấy đi, nhưng xin em đừng bỏ anh để anh không còn được trông thấy hình bóng của em, để anh được cảm nhận cái ấm áp, dịu hiền trong giọng nói của em, xin emđừng lơi mắt nhìn anh để anh khỏi mất ánh sáng soi đường. Rô­da ơi, anh yêu em, anh chỉ yêu mỗi mình em.

- Yêu sau hoa tuylíp đen, anh nhỉ. - Cô gái thở dài nói. Đôi bàn tay mềm mại

c ủa cô lần này chịu để yên trên lưới sắt cho Cooc­nêliluyt hôn.

- Không phải thế, yêu em trước tất cả mọi thứ…

- Có cần em phải tin anh?

- Có, như em tin Thượng đế.

- Yêu em, anh không bị gì ràng buộc chứ?.- Không, rất ít emạ, nhưng yêu anh, em bị ràng buộc nhiều lắm đấy.

- Em bị ràng buộc bởi cái gì cơ? - Nàng hỏi.

- Trước tiên em không được lấy chồng.

- Anh quên việc anh buộc em làm rồi sao?

- Việc gì nào?

- Việc anh viết chúc thư trên sách kinh thánh của ông Cooc­nây đơ Vit, anh

quên rồi sao? Em thì không quên đâu! Nay em biết đọc rồi, ngày nào em chẳng

đọc nó, đúng hơn, ngày đọc hai lần kia.

Trong chúc th ư, anh buộc em phải yêu và lấy một chàng trai trẻđẹp tuổi từ hai mươi sáu đến hai mươi tám đấy thôi.

- à! Rô­da, anh viết chúc thư khi anh tưởng chắc chắn anh phải chết, nhưng may quá nhờ trời anh còn sống.

- Vậy là em không phải đi tìm chàng trai trẻ hai mươi sáu, hai mươi tám tuổi

ấ y nữa nên em đến thăm anh.

- Phải đấy em Rô­da, em cứđến đây.

- Nhưng với một điều kiện.

- Xin chấp nhận trước.

- Trong ba ngày không được nói đến hoa tuylíp đen nữa.

- Vâng, nếu em muốn thì không bao giờ nói đến cũng được.

- Ồ, không nên đòi hỏi cái không thểđược. Và vì vô ý cô để cặp má tươi tắn của cô lại quá gần song cửa cho nên cặp

môi của Cooc­nêliluyt đã lướt nhẹđược lên.

Rô­da thốt lên một tiếng kêu đầy tình yêu rồi biến mất.

CỦ GIỐNG THỨ HAI

Đ

êm hôm đó trời rất đẹp, và ngày hôm sau còn đẹp hơn. Khi Cooc­nêliluyt

t ỉnh dậy, một tia nắng sớm đang đùa trên chấn song sắt, những con chim bồ câu đang bay vút lên không trung trong khi những con khác đang gật gù tình tứ trên mái nhà bên cạnh,

Cooc­nêliluyt chạy ra mở cửa sổ. Anh cảm thấy như cuộc sống hạnh phúc và

tự do đang cùng với tia nắng sớm tràn vào trong căn buồng u ám của anh.

Chính là vì tình yêu đã nở hoa, đã làm cho mọi vật xung quanh anh nở hoa. Thứ hoa thiên thần, còn sáng lạn hơn nhiều, thơm ngát hơn nhiều so với mọi thứ hoa trên trái đất này. Lúc Gri­phuyt bước vào phòng gi­am, lão chắc mẩm là tù nhân vẫn còn nằm dài và âu sầu như mọi n?gày. Nhưng trái lại, lão thấy anh đang đứng hát. Lão ngó nghiêng anh. Anh hỏi:

- Sáng nay mọi người khỏe cả chứ ông? – Lão vẫn ngó nghiêng anh, anh hỏi

ti ếp – Con chó và gã Jacôp, cô Rô­da xinh đẹp khỏe cả chứ? Gri­phuyt nghiến răng lại nói:

- Bữa điểm tâm của anh đây!

- Cám ơn ông, đúng lúc quá vì tôi đói lắm rồi.

- A! Anh đói à?

- Vâng, tại sao không?

- Hình như âm mưu đang tiến triển tốt lắm phải không?

- Âm mưu gì?

- Được, cứ cười đi! Cười người hôm trước hôm sau người cười. Khoảng chín giờ, Rô­da đến; nhưng không mang theo đèn. Rô­da không cần

đ èn nữa, Rô­da biết đọc rồi. Với lại ánh đèn có thể làm lộ Rô­da. Cô cảm thấy cô bị Ja­cob theo dõi ghê quá. Sau cùng ánh đèn sẽ làm ai thấy má nàng đỏ khi nàng e thẹn. Đêm ấy, hai người bạn trẻ nói với nhau những chuyện gì nhỉ? Họ nói về những điều mà những cặp tình nhân nói với nhau trên ngưỡng cửa tình yêu, những vấn đề chắp cánh cho thời gi­an.

Đủ mọi thứ chuyện trừ hoa tuylíp. Đến mười giờ như thường lệ họ tạm biệt nhau. Cooc­nêliluyt sung sướng, chẳng khác gì một người hết lòng chăm hoa tuylíp

sung sướng khi vào một lúc nào đó có ai nói chuyện hoa tuylíp với mình.

Anh th ấy Rô­da xinh đẹp như tất cả các tình yêu trên trái đất; anh thấy cô tốt, duyen dáng và dịu dàng. Nhưng tại sao Rô­da lại cấm anh không được nói đến hoa tuylip? Đó là một khuyết điểm lớn ma Rô­da mắc phải. Cooc­nêliluyt thở dài tự nhủ thầm: “Đàn bà là không bao giờ Hòan hảo cả!”. Gần hết cảđêm, anh suy nghĩ về khuyết điểm ấy. Như vậy có nghĩa là chừng nào anh còn thức là anh còn nghĩđến Rô­da. Hôm sau, Rô­da đến đúng giờ như ngày hôm trước. Còn Cooc­nêliluyt thì can đảm chịu nhận hình phạt, không vội nóiđến chuyện hoa. Rô­da lại hiểu rất rõ khi yêu cầu mặt này căng thì mặt kia phải nới lỏng. Côđể yên bàn tay, để yên cho ai ấy hôn lên làn tóc qua lưới thép khung cửa ghisê..Cô bé cảm thấy khổ sở. Tất cả các trò chơi đó nguy hiểm cách khác với cô hơn là nói chuyện hoa tuylíp. Cô nhận ra điều đó khi trở về nhà, tim cô đập mạnh, má nóng ran.

B ỗng nhiên cô nói:

- Nó mọc rồi!

- Cái gì mọc? - Cooc­nêliluyt hỏi, không dám tin Rô­da giảm bớt hình phạt.

- Hoa tuylíp ấy. - Rô­da nói.

- Thế nào, em cho phép nói về nó rồi ư? -Cooc­nêliluyt hỏi.

- Vâng! - Rô­da trả lời dịu dàng như người mẹ âu yếm nói với đứa con.

- Rô­da, em hãy chăm sóc cẩn thận, em sẽ thấy nó chóng lớn biết chừng nào.

- Anh còn phải nói thế với em. - Rô­da nói. -Em chỉ nghĩđến nó thôi.

- Chỉ nghĩđến nó thôi hả Rô­da? Em cẩn thận nhé, đến lượt anh phải ghen

đây này.

- Anh phải biết rằng nghĩđến nó là nghĩđến anh. Không lúc nào em rời mắt

kh ỏi nó.

- Em nói có lý, đó là của hồi môn của em, em biết đấy.

- Vâng, nhờ nó em sẽ cưới được người chồng trẻ hai mươi sáu hay hai mươi tám tuổi mà em yêu.

- Anh xin em, sao em ác thế. Đêm hôm ấy, Cooc­nêliluyt là người hạnh phúc nhất đời. Rô­da để cho anh

nắm tayđến thích thì thôi, còn anh thì nói chuyện tuylíp thoải mái đến cùng.

Từđó trởđi, tình yêu giữa hai người và sự phát triển của hoa đều tiến bộ

v ượt bậc. Lúc này thì lá chồi, lúc khác thì hoa chúm ?chím. Hai ngày sau, Rô­da báo tin hoa hé nở.

- Hé nở! - Cooc­nêliluyt kêu lên. - ôi! Bông hoa mong đợi của tôi đã hé nở! Người ta đã có thể phân biệt được màu sắc. Anh bỗng im, thở hổn hển.

- Vâng. - Rô­da đáp. - Người ta có thể phân biệt được một tia màu khác mảnh mai như sợi tóc.

- Màu của nó thế nào? - Cooc­nêliluyt lo lắng hỏi.

- Rất sẫm.

- Màu nâu ư?

- Sẫm hơn màu nâu.

- Sẫm hơn màu nâu, sẫm hơn màu nâu! Sẫm như gỗ mun, sẫm như….- Sẫm như thứ mực em viết thư cho anh. Cooc­nêliluyt sung sướng nhưđiên kêu lên:

- Rô­da, hoa tuylíp của anh sắp nở, hoa tuylíp của anh sắp nở màu đen! Rô­da, tạo hóa sinh ra em Hòan hảo nhất trên trái đất này!

- Vẫn là sau hoa tuylíp.

- Em imđi, em ác quá. Thương anh em hãy đừng nói thế. Rô­da, em hãy nói lại anh nghe có phải chậm nhất hai hay ba ngày nữa hoa sẽ nở, phải không em?

- Vâng, mai hay ngày kia hoa sẽ nở.

- Thế mà anh không được trông thấy nó. -Cooc­nêliluyt kêu lên tiếc rẻ.

- Nếu anh muốn em sẽ ngắt đến cho anh.

- Không! Không! Khi hoa nở emđể ngay vào chỗ bóng mát, đồng thời em

báo ngay cho ông Ch ủ tịch Hội làm vườn ở Harlem biết là hoa tuylíp đen đã nở. Anh tin điều này là rất kỳ diệu nên ông chủ tịch chắc chắn sẽđích thân đến Lôvôt­ten để chiêm ngưỡng hoa tuylíp đen vĩđại!

- Em Rô­da, th ế ngộ nhỡ nó không đen tuyền thì sao?

- Trời! Ngày mai hoặc ngày kia anh sẽ biết chứ sao?

- Đợi mãi đến tối thì anh sốt ruột đến phát điên lên mất. Ta có thể thỏa thuận trước với nhau bằng một ám hiệu chăng?

- Em sẽ cố gắng.

- Em sẽ làm thế nào?

- Nếu là nó nở ban đêm, em sẽđến báo ngay cho anh. Nếu là vào ban ngày,

em sẽđi qua cửa buồng anh và luồn một mẩu giấy xuống dưới cánh cửa vào

giữa hai buổi tuần tra của cha em.

- Ô Rô­da, đúng đấy! Một chữ của em báo cho cái tin ấy là một hạnh phúc

g ấp đôi.

- Kìa, mười giờ rồi, em phải đi đây!

- Phải, phải, em vềđi! Rô­da ra về hơi buồn. Cooc­nêliluyt gần nhưđã đuổi cô. Đúng là như thế, để

cô về chăm sóc cho hoa tuylip mà!

NỞ HOA

Đ

êm hôm đó trôi đi rất nhẹ nhàng nhưng đồng thời lại đầy hồi hộp với

Cooc­nêliluyt. M ỗi lúc anh lại tin tưởng như nghe thấy tiếng nói dịu dàng của Rô­da gọi, anh giật mình tỉnh dậy, đi ra phía ngoài cửa ghé mắt vào ghisê: vắng lặng như tờ. Chắc chắn là Rô­da cũng thao thức; nhưng cô được sung sướng hơn anh, cô được chăm sóc hoa tuylip, cô có trước mắt bông hoa kỳ diệu không những chưa ai biết đến, mà còn được coi là không thể có được.

Thế giới sẽ nói như thế nào khi họ biết rằng hoa tuylipđen đã được xuất

hiện, đã được ra đời, và chính là do Văng Ba­clơ, một tù nhân sáng tạo ra.

Ngày hôm đó, hoa tuylip chưa nở. Buổi tối Rô­da đến, vui vẻ, nhẹ nhàng như

m ột con chim.

- Thế nào em? - Anh hỏi.

- Mọi việc rất tốt đẹp. Đêm nay nhất định hoa tuylíp của anh sẽ nở!

- Thành màu đen chứ?

- Toàn đen như hạt huyền, không có pha một chấm màu nào khác.

- Rô­da, em nói làm anh sung sướng quá. Một nụ cười rộng lượng pha lẫn một chút trào phúng thoáng hiện trên khuôn

mặt người con gái, còn ?Cooc­nêliluyt bỗng trở nên nghiêm trang.

- Nếu hoa nởđêm nay, em phải viết thư ngay, nhất là phải nghĩ ngay ai sẽ là

người mang thưđi Harlem.

- Em nghĩđến chuyện đó rồi anh ạ. Khi em bảo, người đưa thư sẵn sàng đi

ngay.

- Ai thế em? Liệu có phải là người chắc chắn không?

- Chắc Hòan toàn, em đảm bảo. Một người mê em, dân chở thuyền ở Lôvet­ten, rất nhanh nhẹn, quãng hai mươi nhăm hay hai mươi sáu tuổi ấy mà.

- Rõ khỉ!

- Anh yên tâm! - Rô­da cười nói. - Vả lại anh ta chưa đến tuổi anh quy định

trong chúc thư kia mà!.- Rô­da, anh dặn này, chớ cho ai xem trước khi ông chủ

tịch đến và làm biên bản xác nhận nhé.

Một Phlorăng người ta còn ăn cắp huống hồđây là một trăm nghìn phlorăng?

Em nhớ nhé! Khi hoa nở phải báo ngay ông chủ tịch.

Rô­da th ở dài nhưng không phải thở dài cay đắng mà thở dài như người phụ nữ bắt đầu hiểu những sự yếu đuối của con người.

- Em trở về xem hoa đây, anh Văng Ba­clơạ; nếu nó nở em báo tin anh ngay.

- Rô­da, anh không biết ví em với sự kỳ diệu nào của trời hay của đất đây?

- Anh hãy ví em với bông hoa tuylíp đen của anh, được thế emđã lấy làm

mãn nguy ện lắm rồi. Chúng ta tạm biệt nhau nhé, anh Cooc­nêliluyt.

- Nói thế này hơn! Tạm biệt anh yêu quý! -Cooc­nêliluyt nói.

- Tạm biệt anh yêu quý! - Cô gái nhắc lại. Cooc­nêliluyt thấy mình đã có phần được an ủi.

- Nói: anh rất yêu quý của em.

- Khiếp, anh yêu…

- Rất yêu, anh van em đấy, rất yêu, rất yêu phải không em?

- Vâng, rất yêu, rất yêu! - Người con gái sung sướng nói.

- Anh chỉ còn thiếu một thứ thôi.

- Thứ gì hả anh?

- Cái má, cái má tươi mát của em. Anh yêu cầu em đấy, hãy ghé má lại gần

anh, chớ làm như vô tình, đi em!

Thếđấy, mơước đã hiện thành sự thực trong tiếng thở dài sung sướng: đôi

môi c ủa người tù đã chạm vào đôi môi người con gái. Nàng vội chạy đi ngay vì thẹn thùng. Cooc­nêliluyt sung sướng đến ngạt thở. Anh mở cửa sổ ngắm nhìn lên khoảng trời xanh thẫm trong đêm và ánh trăng bạc loang loáng trên dòng sông. Gần hết đêm anh ngồi bên song sắt cửa sổ nhà tù.

- Rô­da ởđằng kia, - anh nói. - có lẽ lúc này đang nâng cuống hoa lên, có lẽ

ngay lúc này đây, người và hoa, hai tình yêu của ta, đang vuốt ve trò chuyện với

nhau trong sự khoan dung bao la của Thượng đế và của Trời.

M ấy phút sau, nhưđể cụ thể hóa giấc mơ của anh, Cooc­nêliluyt nghe có tiếng chân người nhẹ bước trên cầu thang..Cooc­nêliluyt nhảy một bước từ cửa sổđến ghisê, lần này nữa đôi môi của anh gặp đôi môi mấp máy của Rô­da, cô nói với anh trong nụ hôn:

- Hoa nở rồi, nó màu đen, đây này, anh.

Một tay Rô­da giơ cao chiếc đèn ló nhỏ lên cửa ghisê, một tay nàng giơ bông

hoa kỳ diệu. Cooc­nêliluyt kêu to một tiếng, tưởng như ngất lịm. Anh lẩm bẩm:

- Trời ơi! Trời đã bù đắp cho con vô tội phải chịu tù đày bằng cách cho nở

hai bông hoa xinh đẹp này ngay trước cửa nhà tù của con.

- Anh thơm hoa đi. - Rô­da nói. - Như lúc nãy em đã thơm hoa. Cooc­nêliluyt nín thởđặt nhẹ môi hôn lên đầu một cánh hoa. Bông hoa đẹp, rất đẹp, lộng lẫy, tráng lệ, tuyệt vời, cuống dài hơn mười tám

phân; nó vươn lên giữa bốn chiếc lá xanh tươi ?láng bóng, thẳng và nhọn như

bốn mũi mác, cánh hoa một màu đen tuyền, rất đen, sánh với hạt huyền.

- Rô­da này, - Cooc­nêliluyt hổn hển nói. - ta không được để chậm một phút,

phải viết thư ngay đi thôi.

- Emđã viết rồi, anh yêu quý của em ạ. Khi hoa đang nở, em viết ngay, em

không mu ốn để phí một phút nào. Cooc­nêliluyt cầm lấy bức thưđọc. “Kính gửi ngài chủ tịch, Bông hoa tuylíp đen có lẽđã nở trong mười phút nữa. Khi hoa nở, tôi sẽ cử

ngay ng ười đến chỗ ngài, yêu cầu ngài đích thân đến pháo đài Lôvet­ten chứng kiến. Tôi là con gái ông Gri­phuyt cai ngục ở pháo đài này. Vì tôi bị ngăn cấm, cũng chẳng kém mấy tù nhân bị gi­am cầm của cha tôi, nên tôi không tự tay mang hoa đến chỗ ngài được. Do đó, tôi đường đột viết thư này yêu cầu ngài đích thân đến lấy hoa về. Ý nguyện của tôi là nó được đặt tên: Rô­da Baer­laen­sis. Thưa ngài, nó vừa nở xong: nó Hòan toàn một màu đen. Mong ngài đến cho. Kính chào ông.

Rô­da Gri­phuyt”

- T ốt lắm, tốt lắm, em Rô­da ạ! Bức thư này viết tuyệt lắm. Anh không thể viết giản dịđược như thế này đâu. Tại hội đồng, em sẽ báo cáo hết mọi việc khi người ta hỏi em. Người ta sẽ biết bông hoa này đã được sáng tạo ra như thế nào, bao nhiêu công lao, bao nhiêu chăm sóc, bao nhiêu hãi hùng… Còn bây giờ không được để chậm một phút… Hãy gọi ngay người liên lạc!

- Ông chủ tịch tên là gì?

- Đưa cho anh, anh đềđịa chỉ. Ô, ông này thì ai cũng biết. Tên ông ấy là

Văng Xyt­ten, thị trưởng Harlem.

Tay run run, Cooc­nêliluyt viết lên bức thư: “Gửi ông Pête Văng Xyt­ten, thị

trưởng và kiêm chủ tịch công ty trồng hoa ở Harlem”.

- Và bây giờ, em đi đi Rô­da. Chúng ta tin tưởng vào sự bảo vệ của Chúa, vì

đến bây giờ Chúa đã bảo vệ chúng ta nhiều rồi.

KẺ GHEN TỴ

Đ

úng là đôi bạn trẻ tội nghiệp của chúng ta cần có sự che chở trực tiếp

của Thượng đế. Chưa bao giờ cái hạnh phúc tưởng nhưđã ở trong tầm tay của

họ lại bịđe dọa đến như lúc này.

Các b ạn độc giả hẳn đã đoán được Bôcten đã theo sát từ Buyten­hôp đến Lôvôt­ten vật mà hắn yêu quý và kẻ mà hắn hận thù: hoa tuylip đen và Văng Ba­clơ. Chúng ta đã thấy hắn đội danh là Jacôp và làm thân với Gri­phuyt. Hắn ru ngủ lòng Hòai nghi của lão cai ngục bằng cách đặt quan hệ với Rô­da. Hắn ve vãn lão bằng cách tán dương lòng kiêu ngạo của kẻ làm cha, vuốt ve cái bản năng cai ngục của lão bằng cách miêu tả những sắc màu đen tối nhất của tên tù nhân thông thái mà lão canh giữ, bảo lão rằng tên tù nhân đó đã có hiệp ước bí mật với quỷ sa tăng để hãm hại Hoàng thân quốc trưởng. Lúc đầu hắn cũng đã thành công được với Rô­da, không phải bằng con đường tình cảm mà bằng cách nói chuyện vềđám cưới và bày tỏ lòng say mêđiên cuồng, ít nhất hắn cũng đã dập tắt được những nghi kỵ mà cô có thể có về hắn. Nếu Rô­da giả vờ trồng củở vườn để thử Ja­cob và đã thấy rõ bụng dạ xấu xa của hắn thì tên khốn nạn này lại rón rén đi theo cô gái vào hành lang nhà tù và nghe trộm được hết cuộc chuyện trò của đôi trai gái. Ja­cob không ai khác chính là Isaac Bôcten, biết rõ ràng là ?Rô­da trồng hoa tuylípđen trong buồng của cô và ngày lại ngày hắn trông thấy sự tiến triển của bông hoa. Hắn thuê ngay một căn buồng trước mặt pháo đài và hắn lại dùng chiếc kính viễn vọng xưa theo dõi cây tuylíp mọc ra sao khi Rô­da đặt nó ra nắng trên bờ cửa sổ. Bôcten nhận thấy cô gái được Văng Ba­clơ hướng dẫn chăm sóc cây một cách Hòan hảo; hắn quyết.định chờ hoa nở hắn mới chiếm lấy bằng cách đánh cắp.

Đ ánh cắp là quyết định cuối cùng của hắn. Nhưng muốn ăn cắp phải chờ Rô­da ra khỏi buồng. Bởi vậy, Bôcten vui sướng thực sự khi thấy đôi trai gái có những cuộc gặp gỡ thường lệ vào các buổi tối. Hắn thừa cơ lúc Rô­da vắng mặt đến nghiên cứu cửa ra vào ở buồng cô. Cửa đóng chặt đấy, khóa hai vòng quay nhưng bằng một cái khóa đơn giản

và Rô­da giữ chìa.

Bôcten có ý định ăn cắp chìa khóa của Rô­da; nhưng việc thò tay vào túi cô gái mà moi chìa khóa đã là một chuyện khó, còn chuyện khó khác là Rô­da thấy mất chìa khóa sẽđi đánh chìa khóa khác; cô sẽ không rời khỏi buồng khi khóa chưa được thay chìa: như vậy có phải là Bôcten sẽ uổng công không? Tốt hơn hết là dùng cách khác.

Bôcten thu th ập hết các chìa khóa hắn có thể tìm kiếm được; trong khi Rô­da và Cooc­nêliluyt trò chuyện vui vẻ với nhau ở cửa ghisê, hắn đem tất cả chìa khóa đến thử.

Có hai chìa lọt được vào ổ khóa, một trong hai chìa xoay được một vòng, tắc

ở vòng thứ hai. Việc làm tiếp theo với chiếc chìa này dễ thôi. Bôcten bôi một lớp sáp mỏng lên chiếc chìa và đem thử lại. Đến khi chiếc chìa gặp chỗ tắc, điểm nghẽn để lại dấu vết trên sáp. Bôcten chỉ việc lấy một chiếc giũa mỏng như một lưỡi dao giũa theo vết dấu để lại. Hai ngày sau, Bôcten làm xong chiếc chìa khóa một cách Hoàn hảo. Mở cửa buồng Rô­da một cách dễ dàng, không kêu, không phải nặng tay;

Bôcten đứng ở trong phòng, một mình với bông hoa tuylíp.

Hành động phạm pháp đầu tiên của Bôcten là trèo qua tường nhà Rô­da vào vườn bới tìm củ giống; lần thứ hai là trèo qua cửa sổ vào buồng sấy của Cooc­nêliluyt; lần này là mở cửa buồng Rô­da bằng một chìa khóa giả.

Các bạn thấy đấy, sự thèm muốn đã đẩy Bôcten dấn sâu vào con đường tội

l ỗi. Bôcten một mình với bông hoa tuylíp. Nếu là một kẻ trộm bình thường hắn sẽ thủ ngay chậu hoa đemđi..Nhưng

Bôcten không phải là tên trộm bình thường nên hắn còn suy nghĩ.

Lấy chiếc đèn ló ra soi, hắn thấy bông hoa chưa nở hết nên chưa chắc chắn

nó đã là màu đen tuyền mặc dầu bề ngoài là thế.

H ắn suy nghĩ thấy rằng nếu hoa không phải là màu đen, hoặc có một vết màu nào khác lẫn vào thì việc hắn ăn trộm là công toi. Lúc ấy tin đồn về vụ trộm sẽ truyền đi, người ta sẽ căn cứ vào những gì xảy ra ở khu vườn để nghi ngờ ai là kẻ trộm, người ta sẽđiều tra, rồi mặc dầu hắn giấu kỹ lưỡng cây hoa, người ta vẫn có thể mò rađược.

Hắn suy nghĩ rằng dù hắn giấu kỹ cây hoa khiến người ta không tìm thấy thì

khi chuyển nó đi vẫn có thể xảy ra những chuyện chẳng lành.

B ởi hắn đã có trong tay chìa khóa buồng Rô­da nên có thể tùy ý ra vào lúc nào cũng được, nên sau cùng hắn thấy điều tốt nhất là hãy chờđến độ hoa nở, lấy trộm trước m�có �t giờ hay sau một giờ nó nở; rồi tức tốc đến Harlem, ởđấy nếu có kẻ nào khiếu kiện hắn đã có hoa ngay trình tòa.

Vậy cô hay cậu nào sau này có khiếu nại sẽ bị Bôcten khép tội ăn cắp.

Đó là cả một kế hoạch được xếp đặt chu đáo và xứng đáng với đức tài của kẻ

lập ra nó.

Vậy là tối nào cũng vậy, trong lúc đôi bạn trẻ chuyện trò vui vẻ trước cửa

ghisê nhà tù, thì Bôcten lẻn vào buồng cô gái để theo dõi hoa tuylíp.

Vào cái đêm kể trên, Bôcten sắp sửa vào buồng của Rô­da như mọi đêm khác. Nhưng như chúng ta thấy, hai bạn trẻ mới trao đổi với nhau vài câu, Cooc­nêliluyt đã giục Rô­da vềđể trông cây tuylíp. Khi thấy Rô­da sau mười phút đi đã quay về, Bôcten biết ngay là hoa tuylíp đã nở hay sắp sửa nở. Chính vào đêm đó hắn sẽđi nước cờ quyết định. Bôcten đến chơi nhà Gri­phuyt với món quà gấp đôi thường lệ. Nghĩa là mang theo hai chai rượu bách xù ở hai bên túi. Gri­phuyt say thì Bôcten sẽ làm chủ ngôi nhà hay gần như thế. Đến mười một giờ, Gri­phuyt say mềm chẳng biết trời đất là gì. Đến hai giờ sáng, Bôcten thấy Rô­da ra khỏi nhà, tay xách vật gì xem dáng thận trọng lắm. Vật đó không còn nghi ngờ gì nữa, là hoa tuylípđen sắp nở. Nàng sẽ làm gì với cây hoa ấy? Nàng có mang hoa đi ngay Harlem lúc này không? Một cô gái không thể dám liều mình đi đêm xa như vậy. Hay nàng chỉ mang hoa đến cho Cooc­nêliluyt xem không thôi? Có thể như thế. Hắn bỏ giày đi chân không nhẹ nhàng theo sau Rô­da. Hắn thấy cô gái tiến đến gần cửa buồng gi­am. Rồi cô khẽ gọi Cooc­nêliluyt. Dưới ánh ngọn đèn ló, hắn cũng nhìn thấy bông hoa tuylíp đã nởđen như bóng đêm hắn đang nấp. Hắn nghe thấy việc đôi bạn trẻ bàn nhau cử một liên lạc viên tới Ha­clem. Hắn trông thấy môi hai người gắn vào nhau, rồi Cooc­nêliluyt bảo Rô­da ra về. Rô­da tắt đèn và quay về buồng. Sau đó Rô­da đi vào trong buồng. Mười phút sau cô đi ra, đóng cửa rất cẩn thận, vặn khóa hai vòng xoay. Tại sao cô ta lại phải đóng cửa cẩn thận như vậy? Chắc chắn là cô ta đã để hoa tuylíp đen bên trong.

Bôcten nấp trên cầu thang trông thấy hết. Đợi cho Rô­da xuống khỏi bậc cuối

cùng, hắn nhẹ nhàng đến trước cửa buồng.

Đó là lý do vì sao ởđầu chương này chúng tôi đã nói đôi bạn trẻ tội nghiệp

ấy cần phải được sự bảo trợ trực tiếp của Chúa.

HOA TUYLIP ĐEN THAY ĐỔI CHỦ

C

ooc­nêliluyt vẫn đứng nguyên tại chỗ như lúc Rô­da từ biệt anh; anh cảm thấy không đủ sức chịu đựng được cùng một lúc hai hạnh phúc lớn lao! Nửa giờ trôi qua. Khi những tia nắng ban mai đầu tiên mới rọi vào buồng

gi­am thì Cooc­nêliluyt giật mình nghe thấy những bước chân lên cầu thang.

Ngay lúc đó, một lúc bộ mặt tái mét và hốc hác của Rô­da hiện lên ở cửa

ghisê.

- Anh Cooc­nêliluyt, cây hoa tuylíp… - Cô hổn hển kêu lên..

- Làm sao? - Cooc­nêliluyt lo lắng hỏi.

- Em biết nói làm sao bây giờ? Nó bịđánh cắp mất rồi.

- Mất cắp! - Cooc­nêliluyt bàng Hoàng nhắc lại.

-Thế là thế nào? Em nói rõ xem nào.

- ôi! Lỗi không phải tại em an­hạ. Khổ thân Rô­da! Cô không dám xưng hô vói Cooc­nêliluyt: “Anh yêu quý của em” nữa.

- Em không trông nó chứ gì? - Cooc­nêliluyt than thở. - Đúng, có một lúc thôi, khi emđi gọi người báo tin cách xa có vài bước, trên bờ sông Wa­hal.

- Và lúc đó emđể quên chìa khóa ở cửa, khổ chưa!

- Không, thế mới lạ chứ! Rõ ràng em khóa chặt cửa, chìa khóa em còn giữ đây. Khi trở về, cửa vẫn còn khóa nguyên nhưng cây tuylíp thì biến mất. Nhất định tên ăn trộm phải có chìa khóa giả. Cô thổn thức, những cái nấc chẹn lấy họng cô. Cooc­nêliluyt đứng yên như mất hồn, nghe mà không hiểu, chỉ biết lẩm bẩm:

- Trộm! Trộm! Trộm! Thế là hết.

- ôi! Anh Cooc­nêliluyt, xin anh tha tội! Xin anh tha tội cho em. - Rô­da kêu lên. - Em chết mất. Cooc­nêliluyt nắm lấy tay cô bóp thật mạnh:

- Rô­da! - Anh nói to. - Ta bịăn cắp, đúng thế, nhưng có thể lấy lại được.

Chúng ta biết kẻăn trộm là ai. Đó là tên bất lương Ja­cob. Này Rô­da, ta phải cho

ng ười đuổi theo hắn, phải đuổi kịp hắn.

- Làm thế nào được hả anh?

- Rô­da, em hãy mở cánh cửa này ra cho anh; em cứ mở ra xem anh có đuổi

bắt được nó không; xem anh có phát hiện ra nó được không, xem anh có buộc

nó ph ải khai ra tội ác của nó không!

- Trời ơi! Xin anh nói khẽ chứ! Tức điên đến cực độ, Cooc­nêliluyt hét to:

- Nếu em không mở, anh sẽđẩy đổ các chắn song này, anh sẽ phá, anh sẽ

giết hết những gì anh gặp trên đường đi.

Người tù bất hạnh, sức lực được tăng lên gấp mười lần do tức giận, ra sức

lay cánh c ửa ầm ầm bằng đôi bàn tay cứng như thép. Văng Ba­clơ thét lên:

- Tao sẽ giết mày, hỡi tên lưu manh Gri­phuyt; tao sẽ giết chết mày như mày

đã giết chết cây hoa tuylíp đen quý giá của tao..Con người khổ sở kia bắt đầu

hóa điên. Rô­da run rẩy:

- Vâng, em xin mở cửa, nhưng trước tiên anh phải bình tĩnh lại đã, anh Cooc­nêliluyt! Cô không nói tiếp được vì một tiếng thét bên cạnh cắt ngang câu nói của cô.

- Chết chưa! cha em! - Rô­da kêu lên. Văng Ba­clơ gầm lên:

- A! Gri­phuyt, tên gi­an ác, mày đây rồi à? Giữa những tiếng ầm ĩấy, lão già Gri­phuyt lên gác không ai nghe thấy. Hắn tóm chặt lấy cổ tay cô gái:

- à! Mày lấy chùm chìa khóa của tao! - Hắn tức điên lên nói. - A! Cái thằng

mưu phản đáng treo cổ là thằng Cooc­nêliluyt của mày đây! A! Mày thông đồng

với các tù nhân Nhà nước. Được.

- H ắn chuyển từ giọng tức giận bừng bừng sang giọng trào phúng lạnh lùng.

- A! ông bạn trồng hoa tuylíp ngây thơ, a! Nhà thông thái hiền lành, a! Ngài sẽ giết tôi kia đấy! Tốt lắm! Chỉ cần thế thôi! Lại còn đồng lõa với con gái tôi nữa! Sáng nay ngài thống đốc tỉnh sẽ biết hết chuyện; ngày mai, Hoàng thân Altesse sẽ biết tin. Cút xuống, đứa con gái mất giống này. Còn ngài thông thái, xin chào tạm biệt ngài, xin ngài yên tâm, chào ngài!

Rô­da vừa sợ, vừa tuyệt vọng làm hiệu gửi người bạn trai một chiếc hôn; rồi

nh ư vừa nảy ra một ý kiến, nàng chạy xuống cầu thang nói:

- Chưa phải đã là mất tất cả, anh hãy tin ở em, anh Cooc­nêliluyt ạ. Người cha hét lên đuổi theo nàng. Còn người trồng hoa tuylíp trẻ, anh nới lỏng dần dần các ngón tay nắm các

chấn song hãy còn giật giật vì tức giận; đầu anh nặng trĩu, mắt anh trợn trừng

trong h ốc mắt trũng; anh nặng nề ngã vật xuống sàn nhà, miệng lẩm bẩm:

- Mất cắp, mất cắp rồi!… Trong? khiđó, Bôcten ra khỏi lâuđài Lôvôt­ten bằng lối cửa do chính tay

Rô­da m ở lúc nãy, hắn mang theo hoa tuylíp đen bọc trong áo cHoàng rộng. Ra đến ngoài phố hắn nhảy lên một chiếc xe ngựa đang đợi hắn và biến mất. Hắn chẳng thèm báo cho ông bạn Gri­phuyt biết sự ra đi vội vã ấy. Sáng hôm sau, Bôcten tới Ha­clem, bơ phờ nhưng thắng lợi. Hắn thay đổi chậu để xóa hết dấu vết ăn trộm. Rồi hắn viết thư cho ông chủ tịch Hội làm vườn báo cho ông biết hắn đã đến Ha­clem với một cây hoa tuylíp đen tuyền. Hắn thuê một khách sạn sang trọng và nằm chờ với bông hoa tuylip đen nguyên vẹn.

ÔNG CHỦ TỊCH VĂNG XYT­TEN

K

hi tạm biệt Cooc­nêliluyt, Rô­da đã có một quyết định. Đó là phải trả lại

anh cây hoa vừa bị Ja­cob đánh cắp hoặc không được sẽ không bao giờ gặp lại

anh nữa.

Cô đã chứng kiến nỗi tuyệt vọng ghê gớm của anh. Vả lại sự xa nhau đó là không thể tránh được, một mặt Gri­phuyt đã bắt được quả tang mối tình và cuộc hẹn hò của đôi bên. Mặt khác, nguồn hy vọng Cooc­nêliluyt nuôi dưỡng từ bảy năm nay bịđỗ vỡ hết.

Rô­da là một trong những cô gái mềm yếu nhưng có sức mạnh để chống lại

một nỗi khỗ cực ghê gớm, đủ quyết tâmđể chiến thắng nó.

Cô gói m ột ít quần áo cần thiết đem theo, lấy ra ba trăm phlorăng tiết kiệm, lục tìm trong đống quần áo viền đăng ten mềm mại của mình củ mầm giống thứ ba cất trong đó,đem giấu vào yếm ngực cẩn thận, khóa kỹ hai vòng khóa cửa để người ta phát hiện chậm việc cô bỏ trốn, mọi việc chuẩn bị xong, cô xuống cầu thang. Ra khỏi nhà tù, cô đến nhà một người cho thuê ngựa hỏi thuê một xe ngựa nhỏ. Cô hy vọng đuổi kịp người đưa thư và nếu gặp được chàng trai tử tế và tốt bụng ấy, cô sẽđi cùng, anh sẽ vừa là người dẫn đường cho cô, vừa là người cô có thể dựa dẫm được..Thật vậy, đi chưa đầy một dặm, cô đã trông thấy anh từ xa đang rảo bước trên một con đường chạy dọc theo bờ sông.

Cô cho ngựa chạy nước kiệu và đuổi kịp anh.

Hai người đi từ năm giờ sáng, đã vượt qua tám dặm đường mà người cha vẫn

chưa hề biết rằng con gái mình đã rời khỏi pháo đài.

Trong khi ông b ố còn tưởng Rô­da run sợ hay nằm dỗi trong buồng, thì cô gái đã đi thêm được một đoạn đường. Và khi Gri­phuyt bắt đầu lo lắng về sự vắng mặt của cô con gái, Rô­da đã tới được Rot­ter­dam cùng với người bạn đường.

Bu ổi tối, cô nghỉ lại ở Delft và hôm sau cô tới Harlem sau Bôcten bốn tiếng. Cô hỏi thăm ngay đến nhà ông chủ tịch làm vườn tức ngài Văng Xyt­ten. Cô xưng danh xin gặp, nhưng tên cô dù rằng rất kêu, ông chủ tịch vẫn không biết cô là ai, ông từ chối không cho cô gặp. Rô­da không nản chí. Cô nói:

- Xin các ông báo giùm với ông chủ tịch tôi đến vì chuyện cây hoa tuylíp

đen.

Nh ờ những từđó, cô vào được tận phòng làm việc của ông chủ tịch; ông chủ tịch thật là phong nhã, tiếp đón cô rất lịch sự. ông nói to:

- Thưa cô, cô nói đến đây vì chuyện cây hoa tuylíp đen, có phải thế chăng?

- Thưa vâng, cháu đến ít ra là để thưa với ông về chuyện đó. - Rô­da trả lời.

- Cây mọc khỏe khoắn chứ cô? - Văng Xyt­ten m� ôn�m cười hỏi với một nét mặt

kính tr ọng dễ thương.

- Thưa ông, cháu không biết nói thế nào. -Rô­da trả lời.

- Thế nào? Có chuyện gì không hay xảy ra?

- Thưa ông, có đấy ạ. Chuyện không xảy ra đối với hoa, nhưng đối với cháu đấy ạ. Họđã ăn cắp hoa của cháu.

- Thế nào, cháu gái, cháu nói khó hiểu quá. Có lẽ cháu muốn nói người ta đã đánh cắp cây hoa của ông chủ cháu là ông

Bôcten phải không?

- Thưa ông, không ạ. Cháu không biết ông Bôcten ; đây là lần đầu tiên cháu

nghe thấy nói.

- à ra thế! Lúc nãy tôi tưởng cháu là người giúp việc cho ông ta. Cháu không

quen ông Bôcten và cháu c ũng có một cây hoa tuylípđen hay sao?

- Còn có một cây khác nữa, thưa ông? - Rô­da ngạc nhiên hỏi.

- Của ông Bôcten, đúng thế.

- Nó thế nào ạ?.- Đen tuyền, không một màu nào khác, không pha một vết nhỏ tí nào.

- Và ông có nó ởđây, nó được gửi ởđây phải không?

- Không, nhưng nó sẽđược trưng bày ởđây cho hội đồng chấm thi xem trước khi trao giải thưởng. Rô­da kêu lên:

- Thưa ông, cái ông Bôcten ấy tự xưng là chủ sở hữu cây hoa tuylíp đen…

- Đúng như vậy.

- Thưa ông, đó có phải là một người gầy còm?

- Đúng.

- Hói đầu.

- Đúng.

- Có một con mắt ngơ ngác?

- Tôi cho là như thế.

- Vẻ mặt lo lắng, lưng còng, chân khèo, có phải không ạ?

- Đúng như vậy, cháu tả chân dung ông Bôcten đúng từng nét một.

- Thưa ông, đó là hoa của cháu, đó là tài sản của cháu, cây hoa bịđánh cắp.

Thưa ông cháu đến đây khiếu nại về việc ấy.

- ồ! ồ! - ông Văng Xyt­ten nhìn chằm chằm Rô­da nói. - Thế nào! Cô đến đây để kiện ông Bôcten về việc cây tuylíp bị mất cắp? Hay đấy! Cô bạo mồm thật. Cô hãy tìm gặp ông Bôcten ở khách sạn Thiên Nga trắng, cô dàn xếp với ông ấy.

- Tr ời ơi! Thưa ông! Thưa ông! - Rô­da rên rỉ.

- Có điều, con ạ, - ông Văng Xyt­ten nói tiếp.

- Con hãy còn trẻ, ta coi con chưa đến nỗi Hòan toàn hư hỏng đâu, con hãy

nghe đây lời khuyên của ta: Con hãy thận trọng trong việc này vì chúng ta có tòa án và có nhà tù ở Harlem, hơn nữa chúng ta rất dễ nổi giận với ai động chạm đến danh giá hoa tuylíp của chúng ta. Thôi đi đi, ông Isaac Bôcten nghỉở khách sạn Thiên Nga trắng đấy.

Nói xong, ông Văng Xyt­ten lại cầm bút tiếp tục viết báo cáo.

MỘT HỘI VIÊN CỦA HỘI TRỒNG HOA

R

ôda cuống quýt lên; cô gần nhưđiên lên vì sung sướng va sợ hãi khi đã

tìm ra manh m ối cây hoa, Rô­da cuống cuồng đi đến khách sạn Thiên Nga trắng, theo sau phò tá cô vẫn là anh đưa thư khỏe mạnh tỉnh Frise, mình anh có thể nuốt tươi mười gã Bôcten. Trong khiđi đường, anh chàng lái đò đã được cô cho biết chuyện. Anh không chịu lùi bước trước cuộc đấu tranh nếu cần, nhưng anh được lệnh là phải bảo vệ an toàn cho hoa tuylip. Nhưng khi tới Grote-​Markt, Rô­da bỗng nhiên đứng lại, một ý nghĩ vừa thoáng qua, giống như nữ thần Minec của Hôme nắm lấy tóc Asin vào lúc sắp lên cơn giận dữ.

- Trời ơi! - Cô thầm thì nói. - Mình đã phạm phải một sai lầm lớn. Mình đã báo động cho họ biết, họ sẽ nghi ngờ. Mình chỉ là một cô gái, họ.là đàn ông liên kết chống lại mì?nh, thế là mình chỉ có thua, chết mất.

Một lúc sau điềm tĩnh lại cô nghĩ:

- N ếu mình đến chỗở của Bôcten và giả dụ là mình không quen biết hắn, nếu Bôcten đó không phải là tên Ja­cob nhà mình, mà lại là một người chơi hoa khác cũng tìm ra được loại hoa tuylípđen… Mặt khác, nếu mình nhận ra tên Bôcten là tên giả Ja­cob thì chuyện gì sẽ xảy ra? ôi! Xin Đức MẹĐồng trinh hãy phù hộ cho con! Đây là số phận của con, là số phận của người tù lúc này đang chết dần vì sầu muộn trong nhà tù, xin đức MẹĐồng trinh hãy phù hộđộ trì cho chúng con. Khi đó có tiếng ầm ầm ởđầu đằng kia phố Grote-​Markt. Thiên hạ chạy đến, các cửa nhà mở tung, Rô­da, một thân một mình, không nghe thấy gì, không trông thấy gì trong sự chuyển động đó của đám đông.

Cô th ầm thì:

- Mình phải quay lại chỗ ông chủ tịch thôi. Rô­da khó khăn lắm mới lọt được vào chỗ ông chủ tịch, lúc này vẫn như lúc

trước, ông cảm thấy rất hồi hộp khi nghe cái từđầy ma thuật: hoa tuylíp đen.

Khi nhìn thấy cô gái, ông nghĩ ngay là một con bé điên, tệ hơn nữa, ông nổi

nóng định tống khứ cô ra.

Cô ch ắp tay lại nói với một giọng rất thành thật làm mủi lòng mọi người nghe:

- Th ưa ông, vì Chúa, ông đừng xua đuổi cháu; xin ông hãy nghe cháu giãi bày; nếu ông không làm cho người ta phải công nhận quyền lợi của cháu thì ít ra ông hãy nghe cháu nói để một ngày kia, đứng trước mặt Chúa, ông không phải hối hận vì đã tòng phạm với một việc làm xấu xa. Ông Văng Xyt­ten sốt ruột; đó là lần thứ hai ông bị quấy rầy trong lúc đang soạn thảo một diễn văn yêu cầu văn phong phải lưu loát, đàng Hoàng xứng danh một ông thị trưởng thành phố kiêm chủ tịch Hội làm vườn Harlem.

- Tôi còn ph ải viết báo cáo chứ! - ông nói to.

- Báo cáo về hoa tuylíp đen! Các người có biết không? Rô­da nói tiếp vững tâm về tính trung thực và sự vô tội của mình:

- Thưa ông, nếu ông không nghe cháu nói thì báo cáo của ông chỉ dựa trên

nh ững sự kiện gi­an ác hoặc dối trá thôi. Cháu van ông, xin ông cho dẫn ông Bôcten tới đây, xem ông ấy có phải là ông.Ja­cob đóng giả không. Xin thề trước Chúa, cháu sẽ công nhận quyền sở hữu khám phá ra hoa tuylíp đen là của ông ấy, nếu như hoa tuylíp đen đó không phải là của cháu.

- Hay đấy nhỉ! Đưa việc ra trước hay đấy nhỉ!

- ông nói thế nghĩa là thế nào ạ?

- Tôi hỏi chị nhé, còn chứng tỏđược điều gì nữa khi chịđã thừa nhận hết hai

điều trên là của chị rồi?

- Th ưa ông, ông là một người chính trực. -Rô­da nói. - Nếu ông trao giải cho một người vì một công trình không phải là của người đó, tồi tệ hơn, vì một công trình đi ăn cắp được thì… Giọng nói của Rô­da hình nhưđã làm rung động trái tim ông Văng Xyt­ten; ông sắp sửa trả lời cô gái một cách dịu dàng hơn bỗng ngheở ngoài đường có tiếng động.

Những tiếng hoan hô ầm ĩ làm rung chuyển cả căn nhà.

- Chuyện gì thế? - ông thị trưởng kêu lên. -Chuyện gì thế? Thế có được

ch ăng hay tôi nghe nhầm? Ông chạy về phía phòng đợi để mặc Rô­da ở phòng làm việc của ông. Vừa tới bậc cửa, ông kêu lên một tiếng ngạc nhiên khi thấy một cảnh tượng

ít thấy bày ra trước mặt: cầu thang lên gác nhà ông đông? cứng những người.

Đám đông kéo nhau đi theo một người trai trẻăn mặc giản dịđang lên cầu

thang m ột cách chậm rãi trông thật quý phái. Hai sĩ quan đi sau, một thuộc binh chủng hải quân, một thuộc kỵ binh. Văng Xyt­ten bảo gia nhân dẹp chỗ rồi ông ra cúi chào người mới đến. ông nói:

- Xin kính chào Hoàng thân! Hoàng thân quá bộđến thăm!

- ông Văng Xyt­ten thân mến. - Guyômđ’Orăng nói một cách thanh thản, sự

thanh th ản ở ông là thay cho nụ cười. - ở Leyde tôi nghe nói thành phố Harlem có hoa tuylíp đen; sau khi hỏi lại cho chắc chắn, mặc dầu vẫn còn chưa tin, tôi đến hỏi ông chủ tịch Hội làm vườn Harlem xem thế nào.

- ôi! Thưa Hoàng thân, - Văng Xyt­ten hể hả nói. - quý hóa quá, sung sướng quá, thật vinh dự lớn cho Hội làm vườn chúng tôi được Hoàng thân để mắt tới..ông có hoa đểởđây không? - ông Hoàng cắt ngang câu nói của Văng Xyt­ten, có lẽ ông lấy làm tiếc mình đã nói quá nhiều.

- D ạ, bẩm không, nó không có ởđây.

- Nó ởđâu?

- Dạ! ở nhà chủ nó ạ.

- Chủ nó ởđâu?

- Dạ! ở khách sạn Thiên Nga trắng ạ. Tôi xin cho người đi gọi ạ. Trong khi

chờđợi, xin Hoàng thân sang phòng khách tạm nghỉ; biết Hoàng thân ởđây, thế

nào ng ười đó cũng phải mang hoa đến ngay để Hoàng thân thưởng thức ạ.

- Được rồi, gọi anh ta đến.

- Bẩm vângạ, thưa Hoàng thân, có điều là…

- Có gì cơ?

- Dạ, bẩm không có gì quan trọng cảạ.

- Không có gì là không quan trọng, ông Văng Xyt­ten ạ.

- Dạ, có vấn đề là chủ nó đến kiện đòi lại quyền sở hữu ạ. Đúng là nó có giá một trăm nghìn phlorăng.

- Thế là một trọng tội rồi còn gì, đúng không ông Văng Xyt­ten?

- Đúng thếđấy ạ.

- ông có bằng chứng gì về sự lừa đảo đó không?

- Bẩm không, kẻ thủ phạm, dạ, tôi muốn nói là cô gái đến kiện hãy còn ngồi đây kia, dạ, ở buồng bên cạnh đó ạ.

- ở buồng bên cạnh? ông nghĩ thế nào về chuyện đó, ông Văng Xyt­ten?

- Lúc nãy tôi chuẩn bị xét hỏi cô ta thì Hoàng thân đến.

- Hãy nghe cô ta khai, ông Văng Xyt­ten ạ, hãy nghe cô ta; tôi là viên quan

đứng đầu đất nước, tôi sẽ nghe và phân xử nghiêm minh.

- Hoàng thân là vua Sa­lomon phục sinh! -Văng Xyt­ten vừa nói vừa cúi người

xu ống và chỉ lối đi cho Hoàng thân. Hoàng thân định đi trước nhưng nghĩ thế nào đứng lại nói:

- ông đi trước đi và đừng gọi tôi là Hoàng thân nữa. Họ vào phòng làm việc. Rô­da vẫn đứng nguyên một chỗ, trán tì vào kính cửa sổ và mắt nhìn xuống

vườn:

- A! A! Một cô gái tỉnh Frisonne. - ông Hoàng nói khi nhìn thấy cái mũ vàng

và bộ váy đỏ của Rô­da.

Thấy động, cô gái quay đầu lại và chỉ kịp nhìn ông Hoàng ra ngồi ở góc tối

nhất trong buồng.

Văng Xyt­ten cũng ngồi xuống, sung sướng và hãnh diện về vai trò quan

trọng của mình:

- Cháu gái kia! - ông nói. - Cháu hứa là nói đúng sự thực về cây hoa tuylíp,

có đúng không nào?

- Thưa ông, đúng.

- Vậy cháu hãy nói trước mặt ông đây; ông cũng là một thành viên của Hội

làm vườn.

- Thưa ông, - Rô­da nói, - cháu không biết nói gì hơn ngoài những điều cháu

đ ã nói với ông rồi - Nói hết cho chúng tôi.

- Cháu nói lại lời yêu cầu cháu đềđạt với ông.

? - Yêu cầu gì?

- Yêu cầu cho ông Bôcten đến đây với cây hoa tuylíp; nếu cháu thấy không

đúng là của cháu, cháu sẽ nói thẳng ra; nhưng nếu cháu nhận đúng là của cháu,

cháu sẽđòi lại, dù có phải đi đến Hoàng thân stathoud­er cháu cũng đi.

V ăng Xyt­ten đưa mắt nhìn ông Hoàng. Khi nghe Rô­da thốt ra những tiếng đầu tiên, ông Hoàng đang thử cố nhớ xem có một kỷ niệm gì vì hình nhưđây không phải lần đầu tiên ông nghe giọng nói êm ái như thế.

Một viên sĩ quan được phái đi tìm Bôcten còn ông Văng Xyt­ten tiếp tục xét

h ỏi:

- Cô dựa vào đâu để nói rằng cô là chủ nhân của bông hoa đó? - ông nói.

- Đơn giản là tự tay cháu ươm và trồng ở trong buồng của cháu.

- Trong buồng của chị, buồng của chịởđâu?

- ở Lôvet­ten ạ.

- Chịở Lôvet­ten?

- Vâng, cháu là con gái ông cai ngục ở pháo đài. Ông Hoàng cựa quậy như muốn nói:

- A! Thôi đúng rồi, mình nhớ ra rồi. Rồi một mặt làm ra đang đọc báo, một mặt ông nhìn Rô­da chăm chú hơn

trước.

- Và ch ị thích hoa? - ông Văng Xyt­ten hỏi tiếp.

- Thưa ông, vâng ạ.

- Chị là một nhà bác học về hoa à? Rô­da lưỡng lự một chút rồi bằng một giọng như xuất phát tựđáy lòng, cô

nói:

- Thưa các ông, cháu nói ởđây có phải là nói với các ngài có chữ tín, chữ

nghĩa không ạ?

Gi ọng cô rất thật nên Văng Xyt­ten và ông Hoàng đều gật đầu cùng một lúc công nhận..- Vậy cháu xin nói: không, không phải cháu là một nhà bác học nghiên cứu về hoa, không phải đâu ạ, cháu chỉ là con người bình thường, là một cô gái quê tỉnh Frise trước đây ba tháng còn chưa biết đọc, biết viết. Không, không phải cháu là người tìm tòi, sáng tạo ra hoa tuylíp đen.

- Th ế ai tìm ra nó?

- Đó là một người tù khốn khổở Lôvet­ten.

- Một người tù ở Lôvet­ten. - ông Hoàng nhắc lại. Nghe giọng nói ấy, lần này đến lượt Rô­da thảng thốt. Ông Hoàng nói tiếp:

- Là một người tù Nhà nước vì ở Lôvet­ten chỉ gi­am những tù nhân Nhà nước. Ông tiếp tục đọc hayđúng hơn, giả vờđọc báo. Rô­da run bắn người vì sợ, lẩm bẩm nói:

- Vâng, vâng, một người tù Nhà nước tìm ra nó. Văng Xyt­ten tái mặt khi nghe thấy một lời thú nhận như vậy trước một nhân

chứng vĩđại nhường kia.

- Theo lời chị nói, hình như chị lợi dụng chị là con gái ông cai ngục và chị

liên h ệ với tên tù để trồng hoa, có đúng không? Rô­da đầm đìa nước mắt:

- Thưa ông, vâng ạ. Cháu buộc lòng phải thú thực hàng ngày cháu vẫn gặp anh ấy.

- Khốn nạn! - ông Văng Xyt­ten nói to. Ông Hoàng ngửng đầu nhìn Rô­da đang sợ hãi và mặt ông chủ tịch tái xanh. Bằng một giọng rõ ràng và nhấn mạnh, ông nói:

- Điều vừa rồi không liên quan đến các thành viên Hội trồng vườn. Nói tiếp

đi, cô gái, nói tiếp đi.

Ông V ăng Xyt­ten mạnh dạn nhìn ông thành viên mới của Hội làm vườn và cám ơn ông, nhân danh các bông hoa tuylíp.

Đượ c lời khích lệ của người lạ mặt, Rô­da kể lại tất cả những gìđã diễn ra trong ba tháng nay, tất cả những gì cô đã làm, tất cả những gì cô phải chịu đựng. Cô kể những việc làm tàn ác của Gri­phuyt, giày xéo lên mầm củ thứ nhất, về nỗi đau thương của người tù trồng hoa, những chăm sóc thận trọng cho mầm củ thứ hai? được nảy mầm và trổ hoa, sự kiên nhẫn của người tù, những lo lắng của anh khi hai người xa nhau; việc anh nhịn ăn.cho chết vì không được tin tức về cây hoa của anh; sự vui mừng khi họ tái hợp sau cùng là sự tuyệt vọng của cả hai người khi bị mất chậu hoa chỉ sau một tiếng đồng hồ hoa nở. Tất cả những điều đó được nói lên rất thành thực, đúng sự thật, nhưng ông Hoàng vẫn thản nhiên như không, ít ra là bề ngoài, nhưng trái lại có tác động đến ông Văng Xyt­ten.

- Cô mới quen biết người tù đó chứ? - ông Hoàng hỏi.

Rô­da mở to mắt nhìn người lạ mặt nhưng người này thụt vào bóng tối như

mu ốn tránh cái nhìn của cô.

- Thưa ông, sao ông hỏi thế? - Rô­da hỏi.

- Bởi ông cai ngục cùng cô con gái mới đến ở Lôvet­ten có bốn tháng…

- Thưa ông, đúng như vậy.

- Ít ra là cô không yêu cầu thuyên chuyển cho cha cô đểđi theo một người tù nào đó được chở từ La Haye về Lôvet­ten…

- ông! - Rô­da đỏ mặt kêu lên.

- Cô nói tiếp đi.

- Thú thực cháu có quen người tù đó ở La Haye.

- Diễm phúc thay cho anh ấy! - ông Guyôm mỉm cười nói. Lúc đó, viên sĩ quan được cửđi gọi Bôcten đã về.

CỦ GIỐNG THỨ BA

B

ôcten đã đến cùng với viên sĩ quan, theo sau hắn có hai người mang một cái hòm đựng cây hoa quý báu. Họđặt cái hòm lên trên một cái bàn. Báo cáo vừa dứt thì Bôcten bước vào phòng khách của ông Văng Xyt­ten. Ông Hoàng được báo liền đi vào phòng khách, ngắm nhìn một lúc, không

nói năng gì lại trở ra ngồi vào chỗ cũ trong bóng tối trên chiếc ghế bành chính

lúc nãy ông đã ngồi.

Tr ống ngực đánh thình thịch, mặt tái mét, tinh thần đầy khiếp sợ, cô gái chờ đến lượt mình được gọi vào nhận mặt hoa. Đúng lúc ấy cô nghe thấy tiếng nói của Bôcten.

- Chính nó rồi! - Cô kêu lên.

Ông Hoàng ra hiệu cho cô hãy đứng nhìn vào phòng khách qua cánh cửa hé

mở.

- Chính hoa của cháu! - Rô­da kêu lên. - Hoa của cháu, cháu nhận đúng hoa

c ủa cháu. Cô òa lên khóc. Ông Hoàng đứng dậy, đi ra cửa rồi đứng một lúc ở chỗ sáng..Rô­da để mắt

nhìn kỹ. Hơn lúc nào hết cô tin chắc không phải lần đầu tiên cô gặp người xa lạ

này.

- Ông Bôcten, ông vào đây. - ông Hoàng nói. Bôcten vội vàng chạy tới, đứng trước mặt Guil-​laume d’Or­ange.

- Lạy Hoàng thân! - Hắn vừa nói vừa lùi.

- Hoàng thân! - Rô­da choáng váng nhắc lại. Nghe tiếng thốt kinh ngạc ở bên tai, Bôcten quay sang thì thấy Rô­da. Hắn giật mình. Ông Hoàng lẩm bẩm:

- Hắn lúng túng rồi. Bôcten trấn tĩnh lại được.

- Ông Bôcten này, - Guyôm hỏi. - Hình như ông tìm ra được bí mật của hoa tuylípđen đấy nhỉ?

- Thưa Hoàng thân, vâng. - Bôcten trả lời, giọng xem ra hơi lo lắng. Sự lúng túng có thể là do hắn nhận ra người đứng trước mặt là Guyôm. Ông Hoàng nói tiếp:

- Ờ! Nhưng đây là cô gái cũng nhận mình tìm ra bí mật ấy. Bôcten nhún vai và mỉm cười khinh bỉ. Guyôm theo dõi tất cả các cử chỉ của hắn một cách tò mò và quan tâm rõ rệt.

- Như vậy là ông không biết người con gái này phải không?

- Bẩm Hoàng thân, không.

- Còn cô, cô có biết ông Bôcten không?

- Bẩm không, nhưng cháu biết ông Ja­cob.

- Cô mu�ợ,��n nói gì?

- Cháu muốn nói là ở Lôvet­ten ông Isaac Bôcten gọi là ông Ja­cob.

- ông Bôcten, ông trả lời thế nào?

- Bẩm Hoàng thân, cô ấy nói sai.

- ông chối chưa bao giờở Lôvet­ten phải không? Bôcten ngập ngừng. ông Hoàng xói mắt nhìn hắn khiến hắn không dám nói

bậy.

- Con không phủ nhận con đã ở Lôvet­ten nhưng con không ăn cắp hoa

tuylíp.

- Chính ông là đồăn cắp! - Rô­da tức giận kêu to.

- Tôi không ăn cắp.

- ông nghe đây, ông có không nhận đã theo tôi vào vườn hôm tôi giả vờươm

củ giống không?

Ông có không nh ận đêm hômấy ông nhảy vào vườn đến chỗ ông tưởng sẽ tìm thấy củ giống tôi trồng.không? ông có không nhận ông lấy tay bới đất tìm kiếm nó không? ông nóiđi, ông nói đi, ông có phủ nhận tất cả những điều đó không?

Bôcten cho là không nên trả lời thẳng vào những câu hỏi đó. Hắn nói:

- Bẩm Hoàng thân, hai mươi năm nay con theo nghề trồng hoa tuylíp ở

Đoocđret. Trong nghệ thuật trồng hoa, con đã được một chút danh tiếng.

Cô gái này biết con đã tìm ra giống tuylíp đen liền cùng với anh bạn tù nào

đó ở pháo đài Lôvet­ten…

Tên tù đó, bẩm Hoàng thân, là một tên tội phạm Nhà nước, một lần bị xử án

t ử hình.

- Tên hắn là gì? Rô­da hai tay ômđầu tuyệt vọng.

- Hắn tên là Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơ. - Bôcten đáp. - Hắn là con đỡđầu của

tên khốn kiếp Cor-​neille đơ Vit đấy ạ, bẩm Hoàng thân.

Ông Hoàng giật mình. Con mắt bình thản của ông bỗng nảy lửa, một tử khí

l ạnh lẽo lan tỏa trên mặt ông.

- Nói tiếp đi! - ông Hoàng nói với Bôcten.

- Con không còn gì nói nữa, Hoàng thân biết rõ cả rồi. Có điều lúc này con

không muốn nói là để cô này không phải hổ thẹn vì sự vô ơn của cô.

Con đến Lôvet­ten là có công việc; ởđấy con quen ông già Gri­phuyt, con yêu con gái ông ta và con xin hỏi côấy làm vợ; con nghèo, không có nhiều tiền nhưng con đã dại dột kể với cô gái hy vọng sắp kiếm được món tiền lớn một trăm nghìn phlorăng; muốn chứng minh điều đó, con cho cô ta xem cây hoa tuylípđen của con. Người tù, bạn trai của cô ấy ởĐoocđret đã từng giả vờ làm người trồng hoa tuylíp để che đậy những âm mưu làm phản của hắn thì ở Lôvet­ten anh ta cùng cô gái này đã âm mưu làm hại con.

Hoàng thân quay sang Rô­da nói:

- Cô làm th ế là không tốt và người bạn trai của cô sẽ bị trừng trị vì đã khuyên cô làmđiều bậy bạ. Suýt nữa cô phạm một tội ác, tôi không trừng phạt cô nhưng tôi nghiêm trị tên thủ phạm chính, hắn sẽ gánh phạt cho cô. Một người trong cái dòng họấy có thể âm mưu này khác, ngay cả phản bội…

nhưng không được ăn cắp.

- Ăn cắp ư! - Rô­da kêu lên. - ôi! Thưa Hoàng thân, anh ấy sẽ phẫn uất đến

ch ết khi nghe từấy. Nếu có chuyện ăn cắp thì con xin thề với Hoàng thân chính là anh này.

- Bằng chứng đâu? - Bôcten lạnh lùng nói.

- Được, nhờơn Chúa, tôi sẽ chứng minh cho anh thấy. Rồi quay sang Bôcten, cô gái trực tiếp hỏi:.- Hoa tuylíp kia thật là của anh?

- Phải.

- Anh có bao nhiêu củ giống? Bôcten ngập ngừng một chút, sau anh hiểu cô gái sẽ không hỏi vậy nếu chỉ

có hai c ủ giống.

- Ba củ. - Bôcten trả lời.

- Chúng nó bây giờ thế nào? - Rô­da hỏi.

- Th�iế� nào ấy ư?… Thì một củ hỏng, một củ cho ra hoa màu đen…

- Còn củ thứ ba?

- Củ thứ baở nhà tôi. - Bôcten lúng túng trả lời.

- Anh nói bậy rồi! - Rô­da kêu lên. - Cô lần ở trong yếm ra củ thứ ba và nói

tiếp: - Củ thứ ba đây, cùng bọc trong một tờ giấy với hai củ trước.

Khi anh Cooc­nêliluyt V ăng Ba­clơ sắp lên đoạn đầu đài, anh đưa cả gói cho con, con đưa trình Hoàng thân xét ạ. Rô­da mở tờ giấy bọc ra đưa củ giống thứ ba cho Hoàng thân. ông cầm lấy

ng ắm nghía.

- Thưa Hoàng thân, cô gái này không thể cũng ăn cắp nó như cây hoa của con hay sao? - Bôcten lắp bắp nói. Hắn lo lắng khi thấy Hoàng thân chăm chú xem xét củ giống, nhất là khi thấy Rô­da chăm chú đọc mấy dòng ghi trên tờ giấy bọc cô còn cầm trong tay.

M ắt cô gái bỗng sáng rực lên. Cô nói:

- Kính thưa Hoàng thân, xin Hoàng thân đọc, xin Hoàng thân đọc ạ! Guyôm mới đọc lướt, sắc mặt đã đượm một nỗi đau và thương xót vô hạn. Tờ giấy mà Rô­da đưa cho ông là trang sách thánh của Cooc­nây đơ Vit xé ra viết và nhờ Craeke mang đến Đoocđret cho Văng Ba­clơ yêu cầu anh đốt ngay tập thư quan hệ với Lou­vois. Chúng ta hãy nhớ lại lá thưđó có mấy dòng chữ sau đây: “Con thân yêu, Con hãy đốt gói bọc cha gửi. Con đốt ngay không mở, không xem để nó luôn luôn làđiều không biết đối với con. Những bí mật của nó đủ giết người cất giữ nó. Con hãy đốt đi và như vậy là con cứu cha Cooc­nây và chú Jăng của con đấy. Vĩnh biệt con và hãy nhớđến cha! Cooc­nây đơ Vit 20 tháng 8 năm 1672” Tờ giấy đó chứng tỏ Văng Ba­clơ vừa là người vô tội, vừa là người có của khi

nói v ề ba củ hoa giống kia. Rô­da và ông stathoud­er cũng nhìn nhau vẻ hiểu biết. Cái nhìn của Rô­da muốn nói: “Hoàng thân thấy đấy!” Cái nhìn của Guyôm muốn nói: “Hãy im lặng và chờđợi!” Ông Hoàng gạt một giọt mồ hôi lạnh ngắt vừa chảy từ trán ông xuống má. Mặt ông và ý nghĩ của ông đắm sâu nhìn vào cái vực thăm thẳm, cái vực không đáy ấy gọi là sự hối hận và hổ thẹn đối với quá khứ.

M ột lúc sau ông mệt nhọc ngẩng đầu lên. ông nói:

- Thôi đi, ông Bôcten vềđi, công lý đã sẽ phân giải, tôi đã hứa thế rồi. Quay sang ông chủ tịch, ông nói tiếp:

- ông Văng Xyt­ten thân mến, ông giữ cô gái và bông hoa ở lại đây. Xin chào

đồ ng bào. Mọi người cúi đầu chào kính cẩn; ông Hoàng đi ra khỏi phòng khách, những

ti ếng hoan hô của đám đông vang dậy khua động không gi­an. Rô­da lại gần hoa tuylip, thành kính hôn lên cánh hoa rồi thì thầm: “Lạy Chúa! Người cũng đã biết Cooc­nêliluyt dạy con biết đọc biết viết với mục đích gì rồi sao?”

BÀI CA NHỮNG BÔNG HỒNG

T

rong khi những sự việc trên diễn ra thì Văng Ba­clơở Lôvet­ten phải khốn khổ chịu đựng hình phạt của Gri­phuyt, tên cai ngục đã biến thành đao phủ. Không nhận được một tin tức nào của Rô­da hay của Ja­cop, hắn tin chắc rằng

mọi tai họa đổ xuống nhà hắn là do quỷ sứ gây nên mà Văng Ba­clơ là tên học

trò của nó đứng ra thực hiện ở trên trần này.

Kết quả của sự suy nghĩđó là vào một buổi sáng nọ, ngày thứ ba Rô­da và

Ja­cob biệt tăm, hắn xăm xăm bước vào buồng gi­am tức giận hơn lúc nào hết?.

Cooc­nêliluyt đang tì hai tay lên cửa sổ, tựa dầu vào lòng bàn tay, cặp mắt ngơ ngác nhìn ra xa chân trời, nhìn những chiếc cối xay gió ởĐoocđret đang quay, anh hít một làn không khí mát lạnh để nén nước mắt và nén luồng suy nghĩ.

Những con chim bồ câu vẫn còn đó, nhưng hy vọng đã tiêu tan mất rồi,

tương lai đã mịt mù mất rồi.

Than ôi! Rô­da xinh đẹp đã bị canh giữ không thểđến được nữa. Cô có thể

viết thưđược không?

Không. Hôm qua anh đã trông thấy một sự căm hờn và quỷ quyệt trong mắt lão Gri­phuyt, như vậy Rô­da có chịu những nỗi đau thống khổ hay đày đọa nào khác không?

Ý nghĩ Rô­da có thể bị hành hạ làm cho anh điên tiết lên. Và anh cảm thấy

mình yếu đuối, bất lực.

V ăng Ba­clơ muốn viết thư cho Rô­da, nhưng biết cô ởđâu mà gửi? Anh muốn viết thư về La Hay đểđề phòng Gri­phuyt có làm gì cho những cơn bão táp mới sẽđổ xuống. Nhưng biết viết gì bây giờ, Gri­phuyt đã lấy hết giấy và bút chì. Thế là trong đầu anh luôn nghĩ tới chuyện vượt ngục. Nghĩđến việc nhảy bổ vào bóp cổ tên Gri­phuyt giết chết lão.

Nhưng than ôi! Gri­phuyt là cha Rô­da, cô ấy sẽ không tán thành vệc làm của

ta đâu, lại phải bàn với Rô­da trước đã.

Đó là những ý nghĩ của Cooc­nêliluyt sau ba ngày cảnh bi thảm chia rẻ Rô­da

với anh. Lúc đó lão Gri­phuyt bước vào.

Lão c ầm trong tay một cái gậy to tướng, đôi mắt rực lên những ý nghĩ xấu xa, nụ cười bỉổi dán chặt trên môi. Cooc­nêliluyt biết lão vào nhưng anh không quay lại.

Cooc­nêliluyt kh ẽ ngâm nga bài ca của những bông hoa, buồn nhưng rất hay. Bài ca trầm tĩnh và êm dịu lại càng làm cho Gri­phuyt điên tiết thêm.

- Này ông ca sĩ! Ông không nghe thấy tiếng tôi vào à!

- Chà! - R ồi anh lại tiếp tục hát. Gri­phuyt lại hét lên:

- Cái thằng phù thủy khốn kiếp này, mi khinh ta đấy hả! Cooc­nêliluyt vẫn tiếp tục hát. Thấy vậy Gri­phuyt lại gần nói:

- Vậy là mi không nhận thấy ta đã tìm ra biện pháp để mi phải nhận tội sao?

- Ông điên hay sao ấy, hả ông Gri­phuyt? Gri­phuyt xoay xoay cái gậy trước ngực, nói:

- Này ông Gri­phuyt, ông dọa tôi đấy à?

- Phải, phải, ta dọa… mi đấy! – Lão cai ngục kêu lên.

- Vì sao mới được chứ?

- Chỉ là cái gậy chứ gì! – Cooc­nêliluyt bình tĩnh nói. Nhưng tôi tin rằng lão không thể dọa được tôi.

- A! Mi cho là như thế hả? tại sao?

- Trong Kinh thánh có nói: “Kẻ nào dùng gươm, sẽ bỏ mạng vì gươm. Kẻ

nào dùng gậy sẽ bị gậy quật lại”.

Gri­phuyt mỗi lúc một điên tiết lên. Lão giơ tay lên, nhưng vào lúc lão giáng

xu ống. Cooc­nêliluyt lao đến chụp lấy cái gậy. Gri­phuyt gầm lên vì tức giận.

- Thôi, thôi ông lão ơi, đừng có cáu tiết nữa mà làm gì!

- Này, thằng phù thủy kia. Tao sẽ cho mi biết một cách khác.

- Xin mời!

- Mi cũng biết là thường ngày, buổi sáng ta lên đây không như thế này có

phải không?

- À, đúng rồi. lão mang cho tôi cái loại cháo hẩm nhất không thể tưởng

t ượng được.

- Càng ngon đối với mi?

- Chứ sao!

- Tại sao vậy?

- Đơn giản thôi, tôi biết rằng khi lão mang cho tôi loại bánh xấu, lão nghĩ tôi phải khổ sở lắm.

- Này, lão cũng biết rằng tôi là phù thủy, tôi biến bánh xấu thành bánh ngon. Gri­phuyt gầm lên v�phẬ tức:

- A! Thế là miđã thú nhận mi là phù thủy rồi nhé!

- Thế nào? – Cooc­nêliluyt hỏi.

- Ta sẽ không mang bánh đến cho mi nữa. Tám ngày sau sẽ biết.

- Như vậy là một cuộc ám sát! Cooc­nêliluyt kêu lên, anh bắt đầu thấy khiếp sợ khi nghĩđến cái ghê rợn ấy.

- Được thôi, - Gri­phuyt chế nhạo nói – Mi là một thằng phù thủy thì thế nào mi cũng sống được. Cooc­nêliluyt lại tiếp tục vẻ nhạo báng. Anh nhún vai nói:

- Lão không trông thấy tôi gọi những con chim bồ câu từĐoocđret đến đây à?

- Thì sao?

- Món chim bồ câu quay ngon lắm! Một người một ngày ăn một con thì không thể chết đói được, đúng không?

- Thế lửa ởđâu ra?

- Lửa à? Lão cũng biết tôi đã liên minh với quỹ sứ rồi. Thế mà lão lại nghĩ là

quỷ sứ lại để tôi phải thiếu lửa sao?

- Một người dù mạnh mẽđến đâu cũng không thể mỗi ngày chỉăn một con

chim bồ câu!

- V ậy thì khi mà tôi đã ngấy chim bồ câu rồi, tôi sẽ làm cho cá ở sông Os­kan và sông Mơdơ phải trườn lên đây (Gri­phuyt mở to kinh ngạc). Tôi cũng khá thích cá, lão chẳng cho tôi ăn bao giờ. Tôi muốn lợi dụng lúc lão muốn cho tôi chết đói để thưởng thức món cá.

Gri­phuyt suýt ngất đi vì tức giận và sợ hãi. Nhưng trấn tĩnh lại được, lãođút

tay vào túi r ồi nói:

- Vì bị mi bắt buộc, này! Và lão rút ra một con dao.

- A! Một con dao! – Cooc­nêliluyt nói và cầm gậy giữ thế thủ.

TRƯỚC KHI RỜI KHỎI LÔVÊT­TEN VĂNG BA­CLƠ THANH TOÁN­VỚI GRI­PHUYT

H

ai người đứng giữ thế một lúc. Thấy tình thếđó có thể dài vô tận.

Cooc­nêliluyt muốn biết vì sao lại xảy ra sự bực tức ấy ởđối phương anh liền

h ỏi:

- Này! Lão còn muốn gì tôi nữa??

- Muốn gi ta sẽ không nói cho mi biết. Ta muốn mi trả con gái cho ta.

- Con gái lão?

- Phải, Rô­da! Rô­da mà mi đã dùng tà thuật để bắt nó đi. Thế nào, có bằng lòng bảo cho ta biết nó ởđâu được không? Thái độ của lão mỗi lúc một thêm đe dọa, Cooc­nêliluyt kêu lên:

- Rô­da không có ở Lôvôt­ten à?

- Mi biết quá đi rồi còn gì! Mi có chịu trả lại con gái cho ta không?

- Được – Cooc­nêliluyt nói – Lão định đánh bẫy tôi đấy hả?

- Một lần cuối cùng nữa, mi có bằng lòng nói con gái ta hiện giờởđâu không?

- Nếu lão không biết thì tựđoán lấy! Gri­phuyt tái mét mặt, môi run rẩy, lão gần nhưđiên tiết lên:

- À, à! Mi không muốn nói phải không? Được, được, ta sẽ cậy răng mi ra. Tiến lại gần người tù trẻ tuổi, hắn nói:

- Mày có biết tao đã giết hơn năm chục con gà trống chân đen bằng con dao

này rồi không? Tao sẽ giết mày, đồ quỷ sứạ, tao sẽ giết mày như tao đã giết

chúng, ch ờđấy, mày hãy chờđấy..Cooc­nêliluyt mắng lại:

- Đồ vô lại, mày định giết tao thật ư?

- Tao muốn phanh ngực mày ra xem mày giấu con tao ở chỗ nào? Trong cơn hoảng loạn, Gri­phuyt sấn sổ vào đâm Cooc­nêliluyt, anh chỉ còn kịp nhảy ra sau chiếc bàn tránh cái đâm đầu tiên. Gri­phuyt vừa chửi vừa giơ dao dọa nạt. Cooc­nêliluyt không để mất thời cơ, tóm được cổ tay cầm dao của hắn, bẻ

quặt lại sau, Gri­phuyt ngã nhào xuống đất. Chàng trai giận ngay chân mình lên

ng ười hắn. Gri­phuyt tỏ vẻ còn? muốn chống cự, Cooc­nêliluyt tức thì ra tay. Anh nện tên cai ngục vô hồi kỳ trận, hắn buộc phải xin tha, tiếng kêu dữ dội

c ủa hắn làm náo động cả nhà gi­am. Hai người chuyên giữ chìa khóa các buồng gi­am, một viên thanh tra và bốn lính gác cùng một lúc xuất hiện ở ngưỡng cửa. Nhìn thấy tất những người làm chứng đó, Cooc­nêliluyt biết mình đã thất bại. Thật vậy, tất cả những cái bề ngoài chống lại anh.

Biên bản được lập ngay tại chỗ, ghi rõ tất cả những đòn đánh đập ông cai tù,

hắn ta yêu cầu các từ dùng trong biên bản phải thật mạnh mẽ, cay độc.

Trong lúc lập biên bản, bốn người lính gác khóa giữ Cooc­nêliluyt tỏ lòng

nhân hậu bảo cho anh biết kỷ luật ở Lôvet­ten.

H ọ kể cho anh biết kỷ luật này đã được áp dụng như thế nào vào năm 1668, nghĩa là năm năm trước đây đối với một người tù tên là Math­ias đã có hành động chống đối còn nhẹ hơn nhiều so với hành động vừa rồi của Cooc­nêliluyt. Chuyện kể chưa xong đã nghe có tiếng chân đi lên cầu thang. Những người lính gác đứng tránh ra cho một viên sĩ quan đi. Người này bước vào phòng gi­am của Cooc­nêliluyt trong lúc viên thơ lại ở Lôvet­ten còn đang lập biên bản. Viên sĩ quan hỏi:

- Có ph ải đây là buồng gi­am số 11 không?

- Báo cáo đại úy, đúng buồng số 11! - Một hạ sĩ quan trả lời.

- Có phải là buồng gi­am phạm nhân Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơ không?

- Đúng đấy ạ!

- Tù nhân đâu?

- Thưa ông, tôi là Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơđâyạ! - Cooc­nêliluyt mặc dầu can đảm vẫn tái mặt, đáp. Lần này viên sĩ quan hỏi trực tiếp người tù:

- Anh là Cooc­nêliluyt Văng Ba­clơ?

- Thưa vâng..- Vậy theo tôi.

- Cooc­nêliluyt kêu lên, tim thắt lại vì lo sợ trước cái chết đang đến.

- Ô, ô! Ở Lôvôt­ten này người ta giải quyết nhanh đến thế kia à? Nói xong anh hít không khí vào đầy lồng ngực rôi nghĩ thầm: “Mình phải tỏ

ra xứng đáng là con đỡđầu của Cooc­nây đơ Vit!”.

Và anh hiên ngang đi qua trước mặt viên lục sự bị bỏ dở công việc đang làm.

Ông này kh ẽ bảo người sĩ quan:

- Thưa ông Văng Đêken, biên bản chưa làm xong ạ!

- Không cần đâu! – Viên sĩ quan đáp. Cooc­nêliluyt đi theo viên sĩ quan, anh đếm từng bậc cầu thang đang đi

xuống, đầu óc suy nghĩ mông lung. Gri­phuyt hẳn làđang khoái chí lắm! Nhưng

còn con gái lão, còn Rô­da, còn Rô­da! N ếu anh không được gặp cô, nếu anh đang đi tới cõi chết mà không được gửi tới cô một cái hôn cuối cùng hoặc ít nhất cũng là một lời vĩnh biệt cuối cùng!

Nếu anh sắp chết mà khồn được một tin gì về hoa tuylip đen!

Cooc­nêliluyt nhìn ngang nhìn ng ửa, nhìn phải nhìn trái, anh đã đi xuống tới dưới sân mà chẳng trông thấy Rô­da đâu, cũng chẳng thấy Gri­phuyt chỉ thấy những người lính sắp đưa anh đi hành quyết. Nhưng họ tụ tập không thành hàng ngũ và không mang súng. Cooc­nêliluyt thấy vậy cho là họ không nghiêm túc trong giờ phút như thế này. Bỗng nhiên Gri­phuyt xuất hiện. Lão đi cà nhắc, tay chống trên một cái nạng. Dồn vào cặp mắt tất cả sự hằn học, lão thả sức luôn về phía Cooc­nêliluyt những lời chửi rủa thô tục đến nỗi Cooc­nêliluyt phải nói với viên sĩ quan:

- Thưa ông, để cho người ta chửi rủa tôi như thế này thật là không tốt chút

nào, nhất là trong lú?c này.

- Ông hãy cứ nghe đi - Người sĩ quan đáp – Lão ta chửi rủa ông như vậy

c ũng là lẽ tự nhiên, vì hình như ông vừa mới cho lão ta ăn một trận đòn tơi tả.

- Vâng, cũng chỉ là để tự vệ thôi!

- Thôi, mặc cho lão nói. Bây giờ có quan trọng gì đối với ông nữa! Giọt mồ hôi lạnh ngắt chảy xuống trán Cooc­nêliluyt khi anh nghe thấy câu

nói đó. Anh cho câu châm biếm đấy hơi tàn nhẫn, nhất là khi nó lại là của một

viên sĩ quan mà người ta nói là thân cận với Hoàng thân.

Anh chàng khốn khổ hiểu là mình chẳng còn trông mong vào đâu được nữa,

ch ẳng còn bạn bè nào nữa, anh đành cam chịu. Anh hỏi viên sĩ quan:

- Thưa ông, tôi đi đâu bây giờ? Viên sĩ quan chỉ cho anh thấy chiếc xe bốn ngựa kéo, gợi anh nhớ tới chiếc xe như vậy, trong một tình huống tương tự anh thấy ở Buyten­hôp.

- Anh trèo vào trong! - Viên sĩ quan nói. Cooc­nêliluyt nghĩ thầm: “A! Hình như ta không được vinh dự hành quyết ngay tại đây!”. Cỗ xe chuyển bánh. Gri­phuyt hét ầm lên và giơ nắm đấm theo cỗ xe:

- Đồ kẻ cướp! Đồ phản bội! Không trả con gái cho tao à?

NGƯỜI TA BẮT ĐẦU NGHI NGỜ VỀ HÌNH PHẠT DÀNH CHO COOC­NÊLI­UYT VĂNG BA­CLƠ

C

ỗ xe đi suốt ngày, bỏ lại Đoocđret ở bên trái, đi qua Rôt­tecđam rồi đến Đen­phơ. Tới năm giờ chiều nó đã đi được hai mươi dặm rồi. Cooc­nêliluyt hỏi viên sĩ quan là người áp tải, vừa là bạn đồng hành vài câu,

nhưng anh chẳng nhận được câu trả lời nào.

Đ êm hômđó nọi người ngủ trong xe. Sáng sớm hôm sau, Cooc­nêliluyt thấy đã tới Laude, biển Bắc ở bên trái và biển Ha­clem ở bên phải. Ba giờ sau anh đi vào Ha­clem.

Cooc­nêliluyt không hề biết việc gì đã xảy raở Ha­clem.

Chúng tôi thấy Rô­da và hoa tuylip như hai chị em, như hai đứa trẻ bị Hoàng

thân Guyôm đ’Orăng bỏ lại ở nhà ông chủ tịch Văng Xyt­ten.

Vào m ột buổi chiều, một sĩ quan thừa lệnh Hoàng thân đến nhà ông Văng Xyt­ten, mời Rô­da lên tòa thị chính. Cô được dẫn vào một phòng họp rộng lớn, nơi Hoàng thân đang ngồi viết. Trong phòng không còn ai khác.

Ông ngồi một mình, một con chó săn to lớn, giống chó tỉnh Frise, nằm dưới

chân ông. Mắt không nhìn lên, ông nói:

- Cô lại đây. Rô­da đi vài bước tới bàn.

- Con chào Hoàng thân. - Cô dừng bước nói.

- Chào cháu, cháu ngồi xuống. - ông nói. Trong khiđó, con chó nhỏm dậy, tiến lại trước Rô­da, nhìn cô rồi vẫy đuôi xoắn xít. Guyôm nói với con chó:

- Mày biết rõ là người nhà mà. Mày nhận ra mà. Rồi ông quay về phía Rô­da, nhìn cô chăm chú như dò hỏi, mắt đượm buồn:

- Cha cháuở Lôvet­ten phải không?

- Bẩm vâng.

- Cháu không yêu cha cháu sao?

- Vâng, hay ít ra, thưa Hoàng thân, cháu không yêu cha cháu như bổn phận

người con phải làmđối với người cha.

- Con không yêu cha là không tốt, nhưng cháu không giấu giếm Hoàng thân

là điều hay. Hoàng thân cúi đầu nhìn xuống.

- Vì lý do gì cháu không yêu cha cháu?

- Cha cháuđộc ác lắm.

- Độc ác như thế nào?

- Ông hay ngược đãi tù nhân.

- Cháu không trách ông ngược đãi đặc biệt một người nào hay sao?

- Đặc biệt là anh Văng Ba­clơ.

- Là người đồng lõa với cháu? Rô­da lùi lại mộ?t bước..- Là người cháu yêu, thưa Hoàng thân. - Cô tự hào

đáp.

- Nhưng yêu một người mà số phận phải sống và chết trong tù thì ích gì cho

cháu?

- Kính thưa Hoàng thân, nếu anh ấy phải sống và chết trong tù thì cháu vẫn

yêu và s ẽ giúp anh ấy sống được và chết được trong tù.

- Như vậy là cháu đồng ý lấy một người tù?

- Được lấy anh ấy, cháu vô cùng tự hào và sung sướng nhất, nhưng… Rô­da mỉm cười, xoắn tay.

- Cháu hy vọng ở ta. - Hoàng thân nói.

- Thưa vâng ạ!

- Hừm! Hoàng thân đóng dấu và bức thư mới viết, rồi gọi một sĩ quan vào và bảo:

- Này Văng Đêken, anh hãy mang bức thư này đến Lôvet­ten. Anh hãy

đọc­chỉ thị tôi viết cho ông Tỉnh trưởng. Những gì thuộc phạm vi của anh thì anh

thi hành.

Người sĩ quan cúi chào đi ra, rồi người ta nghe thấy có tiếng vó ngựa dưới

sân. Guyôm tiếp tục nói với Rô­da:

- Này cô, ngày chủ nhật tới là ngày hội hoa tuylíp. Cô hãy cầm lấy một trăm

phlorăng đây đểđi sắm sửa quần áo cho thật đẹp vào, vì tôi muốn rằng ngày

hôm đó sẽ là ngày hội lớn của cô.

- Tâu Hoàng thân – Rô­da thì thào - Ngài muốn tôi ăn mặc thế nào ạ?

- Mặc áo cô dâu nông thôn, rất thích hợp với cô đấy!

HA­CLEM

H

aclem là một thành phố xinh đẹp, đáng được tự hào là thành phố râm

mát nh ất Hòa Lan. Ha­clem ưa thích những vấn đề nhẹ nhàng, êm dịu: âm nhạc, hội họa, du lịch, trồng cây… Ha­clem trở nên say sưa các loại hoa, nhất là hoa tuylip. Ha­clem đề ra những giải thưởng vì danh dự hoa tuylip, và như chúng tôi đã nói, ngày 15 tháng 5 năm 1673, giải thưởng trăm nghìn Phlorăng đã được đặt ra cho người nào phát minh ra hoa tuylip đen tuyền, không dấu vết, không nhược điểm. Hội trồng hoa Ha­clem, để tỏ ra xứng đáng với tên gọi cao quý của nó, đã treo giải thưởng đó. Thành phố không muốn bị kém,đã bỏ ra một số tiền tương đương để mở hội mừng giải thưởng quốc gia được thực hiện. Vì vậy vào ngày chủ nhật mở hội, thành phố Ha­clem ồn ào đông đúc không thể tảđược. Người ta tụ tập để chiêm ngưỡng những người Hòa Lan tốt lành đã sẵn sàng dành một món tiền thưởng lớn cho người phát minh ra một thứ hoa mới rực rỡđể mua vui trong một ngày cho người phụ nữ, những nhà bác học và những người tò mò. Đi đầu nhóm các ông thân sĩ và Ban chấp hành hội trồng hoa là ông Văng Xyt­ten sáng ngời trong bộ quần áo đẹp nhất của ông. Con người xứng đáng ấy đã cố hết sức mình để trồng bông hoa mà ông ta chuộng bằng màu tối, và vẻ kịch sự của bộ quần áo. Đằng sau ban chấp hành, sặc sỡ như một vườn hoa, thơm tho như một mùa xuân, người ta trông thấy những nhà thông thái, những vị pháp quan, những quân nhân, những nhà quý tộc. Ở giữa đám rước là bông hoa tuylip đen. Nó được đặt trên một cái kiệu phủ nhung trắng viền vàng. Bốn người đàn ông khiêng kiệu như xưa kia ở La Mã, người ta khiêng bà mẹ Xy­ben trở về thành phố bất tử giữa những tiếng kèn và tấm lòng yêu mến của cả dân tộc. Đích thân Hoàng thân quốc trưởng sẽ trao tặng giải thưởng trăm nghìn Phlorăng và mọi người mong đợi ngài sẽđọc một bài diễn văn. Toàn thể dân chúng ?tỉnh Ha­clem đã xếp hàng hai bên đường dưới những hàng cây; họ quyết định sẽ vỗ tay hoan hô, lần này không phải là những nhà khoa học, mà là hoan hô những người đã chiến thắng Thiên nhiên, đã thực hiện được vấn đề tưởng như không thể làm được là phát minh ra hoa tuylip đen. Vậy là, trước hết người ta vỗ tay hoan hô ông Văng Xyt­ten và các cộng tác viên của ông, người ta vỗ tay tự hoan hô người ta, và sau cùng chúng ta cũng phải côn nhận là người ta vỗ tay vì những tiếng nhạc của đội nhạc công thành phố.

Sau hoa tuylip đen, nữ Hoàng của ngày hội, mọi cặp mắt ngước tìm người anh hùng, tác giả của hoa. Người anh hùng đó sẽ xuất hiện sau bài diễn văn hùng tráng của ông Văng Xyt­ten và chắc chắn sẽ gây được nhiều ấn tượng hơn cả chính ngài quốc trưởng. Mối thiện cảm của mọi người trong ngày hômđó không phải dành cho bài diễn văn đáng kính của chủ tịch Văng Xyt­ten, không phải cho những thanh niên quý tộc diện quần áo bảnh bao ngày chủ nhật vừa đi vừa nhấm nháp bánh ga tô, không phải cho những trẻ em dân nghèo cởi trần trùng trục đang nhá những con lươn khô hun khói. Mối cảm tình cũng không phải nhằm vào những cô gái Hòa Lan xinh đẹp có cặp má hồng và bộ ngực trắng, cũng không phải là vào những khách du hành từ Xâylăng hoặc từ Ja­va đến. Mối thiện cảm của mọi người nhắm vào một bộ mặt sáng ngời và hân hoan đi giữa Ban chấp hành Hội trồng hoa, quần áo sặc sỡ làm nổi bật màu nước da vàng khô. Con người đắc thắng, sáng ngời say sưa đó, người anh hùng làm cho người ta quên lãng bài diễn văn của ông Văng Xyt­ten và sự có mặt của Quốc trưởng ngày hômđó, chính là công dân Itxắc Bôcten. Đi đằng trước hắn phía bên phải là hoa tuylip đen đặt trên một chiếc gối nhung, bên trái là món tiền trăm ngàn Phlorăng gồm những đồng tiền vàng sáng ngời đặt trong một cái túi rộng. Thỉnh thoảng Bôcten lại rảo bước đi lên để khuỷu tay hắn chạm vào khuỷu tay ông Văng Xyt­ten. Bôcten muốn lấy của mỗi người một chút danh vọng để tạo danh vọng cho mình như hắn đã ăn cắp hoa tuylip của Rô­da để có được của cải và danh vọng. Chỉ còn có mười lăm phút nữa Quốc trưởng sẽđến, đám rước sẽ dừng lại lần cuối cùng, hoa tuylip sẽđược đặt vào ngai vàng của nó, Hoàng thân phải nhường sự ngưỡng mộ của quần chúng cho hoa. Hoàng thân sẽ cầm một miếng da bò non tô màu hồng rực rỡ, trên đó viết tên tác giả, ông sẽ tuyên bố một cách rõ ràng tên người đã phát minh ra được một kỳ quan cho nước Hòa Lan, đã buộc thiên nhiên phải sản xuất ra một bông hoa màu đen, và từ bây giờ bông hoa sẽ lấy tên là hoa tuylipđen Boctenig mang trên người phát minh ra nó – ông Bôcten đáng kính. Tuy vậy, đôi khi Bôcten cũng rời cặp mắt khỏi hoa tuylip đen và túi tiền thưởng để rụt rè dò tìm trong đámđông, hắn lo ngại phải nhìn thấy bộ mặt tái xanh và xinh đẹp của cô thiếu nữ Rô­da.

Nhưng hắn không nhìn thấy Rô­da đâu cả, và kết quả là niềm vui sướng của

Bôcten không bị quấy rối.

Đ ám rước ngừng lại ở một quảng trường, cây cối xung quanh đều trang Hoàng cờ hoa và khẩu hiệu.Đám rước dừng lại trong tiếng nhạc ầm ĩ, và những cô gái Ha­clem xuất hiện để hộ vệ hoa tuylip đen đến chỗ ghế cao trên mặt một cái bục bên cạnh chiếc gh?ế bành bằng vàng của Hoàng thân quốc trưởng.

Và hoa tuylip đen kiêu hành ngự trên bục cao bao trùm cảđámđông giữa

những tiếng vỗ tay vang dội kéo dài của cả thành phố Ha­clem.

LỜI CẦU NGUYỆN CUỐI CÙNG

T

rong giờ phút trang trọng ấy, khi tiếng vỗ tay vẫn còn vang dội, có một cỗ

xe bốn ngựa kéo đi qua con đường bên cạnh quảng trường. Tới đấy, cỗ xe phải

đi chậm lại vì đông người.

C ỗ xe đầy bụi, mệt mỏi, bánh xe kêu ken két, trong xe có anh chàng Cooc­nêliluyt khốn khổđang nhìn qua cửa xe để xemđám hội hoa mà chúng tôi đã nói đến.

Đámđông dân chúng, tiếng động cùng những cái lộng lẫy huy Hoàng óng

ánh như có một tia chớp lọt vào chiếc xe làm lóe mắt người tù.

M ặc dầu người sĩ quan áp tải ít hào hứng trả lời, Ba­clơ vẫn thử hỏi xem vì sao có nhiều tiếng ồn ào mà anh phải coi, hay có thể coi như Hòan toàn xa lạ đối với anh.

- Cái gì th ế, thưa ông đại tá? - Anh hỏi.

- à, đó là ngày hội. - ông đại tá trả lời.

- à! Ngày hội. - Cooc­nêliluyt nói bằng một giọng dửng dưng nghe đến thảm

của một người mà từ lâu không một thứ vui nào trên đời này còn thuộc về mình

nữa..Một lúc yên lặng và trong khi chiếc xe tiếp tục chạy, anh hỏi:

- Thưa ông, có phải là ngày chợ hoa ở Harlem không ạ, vì tôi thấy có rất

nhi ều hoa.

- Đúng, là ngày chợ hoa ở Harlem.

- ôi! Hương mới thơm làm sao. ôi! Những màu sắc mới đẹp làm sao! - Anh

thốt kêu lên.

- Này bác đánh xe, hãy dừng cái đã, cho ông này xem một tí. - Viên sĩ quan

nói gi ọng thương tình nhẹ nhàng thường chỉ thấy ở những con nhà lính.

- Ôi! Cámơn ông! - Văng Ba­clơ buồn rầu đáp.

- Nhưng thôi xin ông thứ cho thú vui đó. Vì cái vui của người khác là nỗi

buồn của tôi, mong ông hiểu cho.

- Được, bác đánh xe, tiếp tục đi thôi. Tôi bảo dừng xe vì thấy anh có vẻ yêu

hoa, nh ất là đối với thứ hoa hôm nay người ta mở hội tôn vinh.

- Hoa nào đó, thưa ông?

- Hoa tuylíp.

- Hoa tuylíp! - Văng Ba­clơ reo lên. - Hôm nay là ngày hội hoa tuylíp, thưa ông?

- Đúng thế, nhưng anh không thích thì thôi ta đi. Cooc­nêliluyt ngăn ông lại, một ý nghĩ thoáng qua đầu anh.

- Thưa ông, có phải hôm nay người ta trao giải thưởng. - Anh hỏi, giọng run run.

- Phải, giải thưởng trao cho bông hoa tuylíp màu đen. - Người sĩ quan đáp. Má Cooc­nêliluyt nóng bừng, sống lưng anh ớn lạnh, mồ hôi vã trên trán. Nhưng nghĩ rằng thiếu anh và hoa tuylíp anh sáng tạo, hội chợ hoa sẽ phải

hẫng do không có người và hoa để tôn vinh, anh than thở:

- Chao ôi! T ất cả bà con đi dự hội hoa kia không mấy gặp may vì họ sẽ thấy hội hoa không được trang trọng như họđược mời đến, hay ít ra họ sẽ thấy nó còn có phần chưa Hòan hảo.

- Anh nói th ế là thế nào? Cooc­nêliluyt ngả người ra sau thành xe nói:

- Tôi muốn nói trừ một người tôi biết, chưa có ai tìm rađược hoa tuylíp màu đen. Viên sĩ quan trả lời:

- Thế thì người anh biết, đã tìm thấy rồi đấy, vì tất cả bà con thành phố

Harlem đến đây lúc này là để xem bông hoa có màu đen mà chưa ai tìm thấy.

- Hoa tuylíp đen! - Văng Ba­clơ thò đầu ra ngoài cửa xe kêu lên. - Nó ởđ�hoa �u?

Nó ởđâu?

- Kia, trên giá cao kia, anh thấy không?

- Tôi thấy..- Thôi, thế thôi, ta đi thôi.

- Thưa ông, xin ông gia ơn, ông đừng cho xe đi vội, ông cho tôi nhìn thêm

chút n ữa! Thế nào, bông hoa tôi nhìn thấy kia là bông hoa tuylíp đen, đen tuyền… Được sao? ôi! Thưa ông, ông đã thấy nó chưa? Nó hẳn phải có màu khác pha lẫn, nó không Hòan toàn đen, có lẽ nó bị nhuộm đen đấy thôi! ôi! Nếu tôi có đấy, tôi sẽ phân biệt được rõ ràng; thưa ông, ông hãy cho phép tôi xuống, cho tôi đến gần, tôi xin ông, tôi van ông.

- Anh điên hay sao đấy, tôi cho phép được ư?

- Tôi xin lạy ông!

- Anh quên anh bị tù à?

- Đúng, tôi là một người tù nhưng tôi cũng là người biết trọng danh dự. Tôi

xin thề với ông, tôi không chạy trốn. Tôi không tìm cách chạy trốn đâu. Xin ông

cho phép tôi l ại gần nhìn hoa!

- Thế tôi không phải thi hành lệnh à? Một lần nữa người sĩ quan định ra lệnh cho người đánh xe cho ngựa chạy.

Cooc­nêliluyt van xin ông lần nữa.

- ôi! Xin ông hãy yên tâm, xin ông hãy r ộng lượng, cả cuộc đời tôi lúc này dựa vào lòng trắc ẩn của ông. Trời ơi! Thưa ông, cuộc đời của tôi chắc hẳn không còn dài nữa. ôi! ông không biết tôi đau khổ vì đâu; ông không biết điều gì vật lộn trong đầu tôi, trong trái tim tôi đâu; vì sau rốt, - Cooc­nêliluyt nói tiếp một cách tuyệt vọng, - bông hoa tuylíp của tôi có phải là bông hoa Rô­da bịđánh cắp đấy không? Xin ông hiểu cho rằng đó là một bông hoa Hòan hảo, nó là một kiệt tác vừa của nghệ thuật vừa của tạo hóa; khi nghĩ rằng nó bị mất, tôi bị mất nó vĩnh viễn, tôi phát điên lên. Tôi phải xuống, thưa ông, tôi phải xuống, tôi phải được nhìn nó, thấy nó tận mắt, sau đó ông có giết tôi, tôi xin vui lòng, nhưng tôi phải nhìn nó, tôi phải trông thấy nó.

- Anh có im ngay không, thụt ngayđầu vào trong đi,đoàn cận vệ của Hoàng thân stathoud­er ngang qua xe ta đây này; nếu Hoàng thân thấy có gì khả nghi là thôi đừng nói gì nữa, anh và tôi đi đứt. Văng Ba­clơ lo thay cho ông sĩ quan hơn là lo cho bản thân mình, liền thụt vào trong nhưng không ngồi yênđược nửa phút; hai chục kỵ mã đầu tiên vừa vượt khỏi xe anh, anh đã thò đầu ra cửa xe, vừa giơ tay ra hiệu, vừa van xin stathoud­er lúc xe ông đi tới. Guyôm bình thản và giản dị, như thường lệđến quảng trường để làm nhiệm vụ của người đứng đầu quốc gia. ông cầm trong tay một ống cuộn giấy vê-​lanh trắng, nó trở thành cái gậy chỉ huy của ông trong đêm hội lớn này..Nhìn thấy có người khua tay, cầu xin và có lẽ cũng nhìn thấy người sĩ quan đi theo áp tải, ông Hoàng stathoud­er lệnh cho xe dừng lại.

Ngay lúc đó, có tiếng ngựa hí hãmđứng ngay sau xe chở Ba­clơ.

- Cái gì thế? - ông Hoàng hỏi viên sĩ quan được lệnh của stathoud­er vội nhảy

xuống xe chạy đến kính cẩn báo cáo:

- Bẩm Hoàng thân, đó là người tù Nhà nước, tôi đến tìmở Lôvet­ten và dẫn

v ềđây theo lệnh của Hoàng thân.

- Hắn muốn gì?

- Hắn xin cho được dừng chân một lúc ởđây. Văng Ba­clơ chắp tay nói vọng ra:

- Con xin được xem hoa tuylíp đen; một khi con được thấy nó rồi, một khi

con đã được biết điều con cần biết, thì dầu phải chết con cũng xin chết, nhưng trước khi chết con sẽ ca ngợi Hoàng thân đã giúp cho công? trình của con được thành đạt và quang vinh. Thật là một cảnh tượng kỳ lạ: hai người, mỗi người đứng ở cửa xe của mình, chung quanh là lính gác, một người đầy quyền lực, một người khốn khổ; một người sắp lên ngôi vua, một người tưởng mình sắp lên đoạn đầu đài.

Guyôm l ạnh lùng nhìn người trai trẻ và đã nghe thấy lời thỉnh cầu thiết tha của anh ta. Ông hỏi người sĩ quan:

- Có phải đây là tên tù nổi loạn định giết người cai ngục ở Lôvet­ten không?

Cooc­nêliluyt cúi đầu thở dài, nét mặt dịu dàng và chân thật của anh cùng một lúc ửng đỏ rồi tái mét. Những lời nói của Hoàng thân - cái tế nhị của một bộ óc do đã được một thông tin nào đó bí hiểm mà không một người nào khác có được mách bảo, đã biết tội ác của anh - những lời nói của Hoàng thân đã báo trước cho anh biết không những một hình phạt chắc chắn mà còn là sự từ chối thẳng thừng. Anh không tìm cách đấu tranh, anh không tìm cách tự bảo vệ; anh chỉ làm cho Hoàng thân thấy được một cảnh tuyệt vọng đau lòng, rất dễ hiểu và cảm động.

Sau cùng ông Hoàng nói:

- Cho phép tù nhân xuống xe và ra xem hoa tuylípđen. Nó rất đáng được

xem, ít nhất là một lần trong đời.

Cooc­nêliluyt nh ư muốn ngất đi vì niềm vui sướng bất ngờ, lảo đảo trên bậc xe. Anh nghẹ ngào vè nếu không có cánh tay của viên sĩ quan đưa ra đỡ, anh đã khuỵu xuống và để cámơn Quốc trưởng. Cho phép xong, ông Hoàng tiếp tục đi giữa những tiếng hoan hô nhiệt liệt. Chẳng bao lâu ông đã đi tới bục gỗ khán giả và những tiếng đại bác gầm lên từ chốn chân trời xa xôi.

KẾT LUẬN

V

ăng Ba­clơđi sau bốn người lính gác mở một con đường trong đám đông,

đ i chéo tới chỗ hoa tuylíp đen mà anh cứ trố mắt ra nhìn. Cuối cùng, anh đã nhìn thấy nó, bông hoa độc nhất hợp thành bởi những yếu

tố không ai biết đến của nóng và cái lạnh, giữa ánh sáng và bóng tối của một

ngày nó đã nởđể rồi theo số phận, nó sẽ vĩnh viễn mất đi.

Anh đứng cách xa nó sáu bước. Anh thưởng thức sự Hòan hảo, cái nõn nà của nó. Các cô gái họp thành một hàng rào danh dựđứng sau bà Hoàng hoa trong trắng và quý phái đó. Tuy nhiên, mắt anh càng tin tưởng vào sự Hòan thiện của nó thì tim anh càng nhói đau. Anh nhìn quanh xem có ai quen để hỏi một câu, chỉ một câu thôi. Nhưng quanh anh chỉ toàn những bộ mặt xa lạ, mọi con mắt đều đổ dồn về ông Hoàng Quốc trưởng vừa bước lên chiếc ngai dành cho ông. Guyômđứng lên, lặng lẽ nhìn đámđông đang vui sướng cuồng nhiệt và con mắt sắc sảo của ông lần lượt dừng lại một lúc khá lâu và ba nhân vật của một tấn kịch đang âm ỉ nhưng cũng sắp đến hồi kết thúc. Ở một góc tam giác hợp bởi ba nhân vật đứng gần đó là Bôcten đang nóng lòng chờđợi phần kết, tâm trí dồn vào lúc ông Hoàng, lúc tiền thưởng, lúc hoa tuylípđen, lúc hội đồng trao giải. Ở góc khác là Cooc­nêliluytđang tức thở, câm lặng. Toàn bộ nhịp thở, trái tim, tình yêu lúc này Cooc­nêliluyt dành cho bông hoa tuylíp đen duy nhất, đứa con tinh thần, đứa con sáng tạo của anh. Cuối cùng, ở góc thứ ba đứng trên bậc các cô gái đồng trinh của thành phố Harlem là một cô gái quê tỉnh Fris?e, mặc áo len sợi mềm màu đỏ thêu kim tuyến bạc, đầu đội mũ vàng kết nhiều dải đăng-​ten dài cùng với mái tóc vàng chảy xuống đôi vai: đó là Rô­da mệt mỏi, nước mắt đầm đìa, dựa vào một quan hầu cận của ông Hoàng Guyôm. Ông Hoàng thấy mọi người đã yên chỗ liền rút ra cuộn giấy vê-​lanh trắng và bằng một giọng bình tĩnh, rõ ràng, hơi yếu nhưng không mất một âm tiết nhỏ nhờ vào sự yên lặng thần kỳ của năm mươi nghìn khán giả nhiệt tình, ông tuyên bố:

- Các ông biết mục đích các ông đến đây. Một giải thưởng một trăm nghìn phlorăng sẽđược trao cho người tìmđược giống hoa tuylíp đen. Hoa tuylíp đen, một kỳ quan của đất nước Hòa Lan là đây, bày ra trước mắt các ông; hoa tuylíp đen đã được tìm ra theo những điều kiện bắt buộc của chương trình do Hội làm vườn Harlem lịch sử khai sinh ra nó và tên của người tạo ra nó sẽđược ghi trong sách vàng của thành phố. Hãy cho người là chủ bông hoa lại gần đây!

Khi nói nh ững lời trên, ông đưa con mắt sắc sảo của mình nhìn ba người đứng ba bên kể trên để xemảnh hưởng thế nào của lời nói đối với từng người này.

Ông th ấy Bôcten nhảy khỏi bậc đứng. Ông thấy Cooc­nêliluyt giật mình. Sau cùng, ông thấy viên sĩ quan chịu trách nhiệm trông nom Rô­da dẫn cô đi, đúng hơn, khẽđẩy cô đến trước ngai vàng. Hai tiếng kêu cùng vang lên một lúc bên phải và bên trái ông Hoàng. Bôcten sửng sốt, Cooc­nêliluyt bàng Hoàng, cả hai đều kêu lên:

- Rô­da! Rô­da!

- Thật sự bông hoa này thuộc về chị phải không? - ông Hoàng hỏi.

- Thưa vâng ạ. - Rô­da lắp bắp nói, một số người xuýt xoa chào mừng nàng..-

ôi! - Cooc­nêliluyt nói kh ẽ. - Thế ra cô này nói láo bị mất trộm hoa. à ra vì thế mà cô ta trốn khỏi Lôvet­ten. Mình bị lừa, bị phản bội, thế mà trước đây mình tưởng đó là một người bạn tốt.

- ôi! - Bôcten than th ở. - Mình mất toàn bộ cơđồ rồi.

- Bông hoa tuylíp này, - ông Hoàng nói tiếp.

- sẽ mang tên người tạo ra nó; nó sẽđược ghi vào ca-​ta-​lô các loại hoa với

cái tên Tulipe ni­gra Rô­da Bae­len­git gồm tên của người tạo ra nó là Văng Ba­clơ

và tên của cô gái này sẽ lấy anh làm chồng.

Cùng lúc ấy, Guyôm cầm tay Rô­da đặt vào tay một người đàn ông vừa chạy bổ lên chân ngai, mặt tái nhợt, chân tay luống cuống: anh cúi lạy Hoàng thân, mừng rỡ trước người yêu và ngước nhìn trời như cám ơn Thượng đế có lẽđang mỉm cười với họ. Cũng cùng lúc ấy có một người choáng váng, ngã vật xuống chân ông chủ tịch Văng Xyt­ten.

Bôcten th ấy cơđồ của mình sụp đổ vừa ngất xỉu. Người ta nâng hắn dậy, bắt mạch, nghe nhịp tim. Nhưng hắn đã chết. Việc xảy ra bỗng nhiên đó không hề cản trởđám hội, chứng cớ là ông chủ

tịch cũng như ông Hoàng không chú ý đến sự việc ấy lắm.

Riêng Cooc­nêliluyt lùi l ại, hoảng hốt vì anh đã nhận ra tên ăn trộm, trong cái tên Ja­cob giả danh, chính là Isaac Bôcten, người láng giềng mà do tính bản thiện anh không lúc nào ngờ có thể có những hành động tai quái đến thế. Dù sao, Bôcten cũng được hạnh phúc vì Thượng đếđã cho hắn đột tử rất đúng lúc vì bệnh tràn máu cơ tim nếu không hắn đã phải sống cuộc sống tủi nhục.

Đ ám rước tiếp tục giữa những tiếng kèn đồng vang dội, nghi lễ kh�ói �ng có gì thay đổi. Cooc­nêliluyt và Rô­da thắng lợi, vui mừng nắm tay đi bên nhau. Trở về tòa thị chính, ông Hoàng chỉ cho Cooc­nêliluyt số tiền một trăm nghìn phlorăng vàng, nói:

- Người ta không rõ lắm số tiền này do anh hay chị kiếm được vì anh là

ng ười tìm ra hoa tuylíp đen và chị là người chăm sóc và làm hoa nở. Cooc­nêliluyt chờ xem ông Hoàng định nói tiếp đến đâu. Ông nói tiếp:

- Tôi trao cho Rô­da một trăm nghìn phlorăng là tiền chị kiếm được một cách

x ứng đáng và chị có thể biếu lại anh; đó là bằng chứng cho tình yêu của chị, của sự can đảm và sự thành thật của chị. Về phần anh, nhờ Rô­da đưa ra chứng cớ anh vô tội, -nói đến đây, ông Hoàng chìa ra cho Cooc­nêliluyt bức.thư của Cooc­nây đơ Vit viết trên trang sách Thánh xé ra và dùng để gói củ giống thứ ba. Nhờ Rô­da, người ta nhận thấy anh bị bắt oan về một tội ác mà anh không hề phạm phải. Nói thế nghĩa là anh không những được tự do mà những của cải của anh đều không bị tịch thu vì anh vô tội. Anh Văng Ba­clơ, anh là con đỡđầu của ông Cooc­nây đơ Vit và là người thân tình của ông Jăng. Anh hãy sống xứng đáng với người đã cho anh mang tên trong buổi lễ rửa tội, và xứng đáng với người đã tỏ tình thân đối với anh. Anh hãy giữ lấy truyền thống vẻ vang của họ vì hai ông đơ Vit bị xử tội oan, bị nhận hình phạt nhầm trong một lúc sai lầm của quần chúng, hai ông là hai công dân vĩđại mà ngày nay đất nước Hòa Lan phải lấy làm tự hào.

Sau hai từ vừa rồi Hoàng tử nói với một giọng cảm động khác với thói quen

c ủa ông, ông đưa tay cho hai vợ chồng quỳ dưới chân hôn. Ông thở dài nói tiếp:

- Chao ôi! Anh chị thật hạnh phúc; có lẽ anh chị là người mơước một nước

Hòa Lan được vinh quang thực sự, nhất là được hạnh phúc thực sự, thì anh chị hãy chỉ nên suy nghĩ làm sao chinh phục được những màu sắc mới cho hoa tuylíp Hòa Lan, làm sao cho chúng trở thành những bông hoa luôn muôn hương, muôn sắc, muôn màu.

Nhìn về phía nước Pháp, ông như thấy ởđấy có những đám mây mới cuộn

lên. ông bước lên xe, rời thành phố.

Cũng ngày hôm đó, Cooc­nêliluyt đi Đoocđret cùng với Rô­da, trước đó cô đã

cho người báo với cha mình tất cả những gì đã xảy ra.

Nh ững ai biết tính nết lão già Gri­phuyt trong chuyện chúng tôi kể trên sẽ hiểu lão khó lòng hòa thuận được với con rể. Lão nhớ trong lòng những cú gậy bịđánh, lão đếm cụ thể trên lưng những vết sẹo được ghi, lão nói, có đến bốn mươi mốt vết.

Nh ưng sau cùng lão cũng đành thôi, chả nhẽ không rộng lượng bằng Hoàng thân stathoud­er hay sao, lão bảo thế.

Bây gi ờ lão làm người bảo vệ hoa tuylíp. Sau khi làm tay canh gác tù, lão trở thành người trông nom hoa tích cực nhất ở các xứ Flan­dres bắc châu Âu. Phải thấy lão đề phòng các con bướm nguy hiểm cho hoa, giết những con chuột nhắt rừng và các con ong háu đói ta mới thấy rõ điều đó. Lão biết chuyện về Bôcten, lão bực mình vì bị tên Ja­cob giảđánh lừa, nên chính lão là người dỡ bỏđài quan sát của Bôcten đặt trên cây thích trắng; chả là hàng rào của nhà Bôcten được bán đấu giá nay nằm gọn thon lỏn trong vườn ươm của Cooc­nêliluyt đã được mở rộng, bất chấp mọi ống nhòm. ởĐoocđret tài thánh cũng chịu không? nhòm ngó được. Rô­da càng ngày càng trở nên xinh đẹp, thông thái; sau hai năm lấy chồng, cô biết đọc biết viết thành thạo nên đủ sức dạy bảo hai con được sinh vào tháng năm 1674 và 1675; chúng hay ăn chóng lớn, khỏe khoắn chẳng khác gì những bông hoa tuylíp nhưng không gây vất vả cho cô như hồi nào cô chăm nom khổ sở cây hoa tuylíp đen, tuy nhiên nó lại là đầu câu chuyện hạnh phúc của vợ chồng cô.

Cần phải nói thêm rằng hai con của họ một trai, một gái, đứa traiđược đặt

tên là Cooc­nêliluyt, đứa gái là Rô­da.

V ăng Ba­clơ trung thành với Rô­da chẳng khác gì với những bông hoa tuylíp; cảđời anh dành cho hạnh phúc gia đình và việc trồng hoa; nhờ kiên trì anh tìm ra được nhiều giống hoa mới, được ghi vào bảng tổng kê của nước Hòa Lan. Trang trí chính trong phòng khách nhà anh là hai tờ sách Kinh Thánh của Cooc­nây đơ Vit được lồng trong hai khung lớn giát vàng. Trên một tờ, chúng ta hãy nhớ lại, cha đỡđầu viết cho anh bảo rằng hãy đốt ngay đi những thư từ quan hệ với hầu tước De Lou­vois. Trên tờ kia chính tay anh viết nhượng cho Rô­da củ giống hoa tuylíp đen với điều kiện cô phải dùng một trăm nghìn phlorăng tiền thưởng làm của hồi môn khi lấy người chồng hai mươi sáu đến hai mươi tám tuổi, yêu cô và cô yêu; điều kiện đã được thực hiện một cách nghiêm túc Sau cùng, để chống lại những kẻ tham lam như loại Itxăc Bôcten, anh viết lên cánh cửa nhà anh câu thơ của Grotiuyt đã khắc lên tường nhà gi­am trước khi vượt ngục:

“Đôi khi vì đã đủ đau khổ, người ta có quyền không bao giờ nói: Tôi sung

sướng quá!”.

?]]>

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: