Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

6

New York, thành phố lớn nhất nước Mỹ, càng thêm phồn hoa sau chiến tranh. Từ năm 1865, nền kinh tế Mỹ bắt đầu phục hồi, cuộc sống dường như "một bước lên tiên".

Dĩ nhiên, đây chỉ là ảo giác. Có đối chiếu mới thấy hạnh phúc – so với thời chiến, cuộc sống hiện tại đúng là tốt hơn nhiều.

Nước Mỹ giàu tài nguyên, lại chịu tổn thất nhân khẩu nặng nề vì chiến tranh, đặc biệt là thanh niên trai tráng.

Theo quy luật cung cầu, giới tư bản buộc phải vừa nhập lao động da đen giá rẻ, vừa tăng lương giữ chân công nhân.

Thu nhập tăng giúp xoa dịu mâu thuẫn xã hội. Hôm nay là cuối tuần, Tom rủ bạn gái Elena đi chơi.

"Tom, anh có để ý thấy hàng hóa rẻ hơn nhiều không? Chiếc váy em để ý tháng trước, giờ giảm tận một nửa!"

Tom cau mặt: "Xin lỗi em. Ngân sách tháng này của chúng ta đã cạn. Hay đợi tuần sau khi nào anh lĩnh lương?"

Ảnh hưởng từ văn hóa Mỹ, giới trẻ không có thói quen tiết kiệm. Là thành viên "hội tiêu xài hết sạch tiền lương", Tom chỉ quan tâm giá cả trong nửa đầu tháng sau khi lãnh lương.

Ngoài tiền sinh hoạt phí, lương của anh chỉ đủ cầm cự nửa tháng. Dù sao anh cũng làm việc trong công ty chứng khoán – coi như tầng lớp trung lưu.

New York vừa là thiên đường vừa là địa ngục. Nơi này chỉ phù hợp với người giàu. Kẻ nghèo tốt nhất đừng ra đường – càng nhìn nhiều, cuộc sống càng thêm khổ sở.

Vì Franklin (tiền giấy Mỹ), Elena gật đầu. Với thu nhập eo hẹp, không tính toán kỹ thì không thể sống nổi ở New York.

"Không cầu tốt nhất, chỉ cầu đắt đỏ nhất" – đó chính là New York thời này. Khu vực đắt đỏ nhất nước Mỹ, thậm chí có thể nói là toàn thế giới.

Trong lúc dạo phố, sắc mặt Tom dần tối sầm. Khắp nơi quảng cáo giảm giá – từ quần áo đến máy móc, tất cả đều "bán tháo trong nước mắt".

Là cử nhân Columbia, lại làm trong ngành tài chính, Tom nhạy cảm với kinh tế hơn người thường.

Việc giảm giá quy mô lớn khiến anh thấy bất thường. Dù người tranh mua đông đúc, tổng cầu thị trường không đổi.

Cơn sốt mua sắm này chẳng qua là "vay" sức mua tương lai. May mà người Mỹ có truyền thống "tiêu trước trả sau" – thẻ tín dụng chưa ra đời, nếu không đã thành "con nợ".

Tom cười khổ: "Elena, xem ra chúng ta phải chuẩn bị sống khổ sở rồi."

Anh còn thấy được vấn đề, lẽ nào giới tư bản đỉnh cao không phát hiện? Mỗi cuộc khủng hoảng kinh tế đều có điềm báo trước.

Hầu hết cuộc khủng hoảng, các tập đoàn tài phiệt đều kiếm đậm. Nếu họ thua lỗ, hoặc là quá ngu bị đối thủ hãm hại, hoặc là quá tham – muốn vơ vét đến đồng xu cuối cùng.

Elena ngạc nhiên: "Sao vậy? Anh bị sa thải rồi à?"

"Chưa, nhưng sắp rồi." Tom trả lời.

Elena an ủi: "Không sao. Với năng lực của anh, tìm việc mới không khó. Từ tháng sau, chúng ta cắt giảm chi tiêu là được."

...

Trong khi hai người bàn bạc, thị trường đã phản hồi đến các doanh nghiệp sản xuất. Chịu ảnh hưởng từ hàng hóa giá rẻ Áo, nhiều mặt hàng Mỹ ế ẩm.

Việc Anh xảy ra khủng hoảng kinh tế, dân chúng không biết, nhưng giới tư bản thì rõ như ban ngày.

...

Tại cuộc họp ban điều hành Citibank, Chủ tịch James phát biểu: "Thưa quý vị, theo tin tình báo, số tàu chở hàng từ Áo đến Mỹ tăng đột biến – toàn hàng công nghiệp tiêu dùng.

Từ bàn chải đánh răng, ốc vít đến máy móc – tất cả ngành nghề đều bị tấn công. Đây rõ ràng là hành động đổ hàng giá rẻ.

Không chỉ Áo hành động, người Anh cũng không ngồi yên. Số tàu từ London đến Mỹ tăng 1/3.

Họ cũng đang bán phá giá hàng hóa. Khách hàng của chúng ta không đủ sức kháng cự. Hầu hết doanh nghiệp Mỹ không chống đỡ nổi. Chúng ta phải hành động, nếu không nợ xấu sẽ chất như núi."

Citibank – ngân hàng lâu đời nhất phố Wall – chưa phải "quái vật" Citigroup sau này. Nguồn thu chính không phải vũ khí, mà là cho vay và chứng khoán.

Thời này, ngành công nghiệp vũ khí Mỹ còn nhỏ, thị trường xuất khẩu bị châu Âu độc chiếm. Thời bình, lĩnh vực này không nuôi nổi ngân hàng.

Liên hệ giữa Citibank và các công ty vũ khí chỉ là cho vay thương mại, chưa đầu tư trực tiếp. Giờ gặp khủng hoảng, ngân hàng phải tự cứu mình trước.

Cổ đông Babuno hỏi: "James tiên sinh, ông định làm gì? Muốn thúc đẩy Quốc hội lập pháp tăng thuế quan hạn chế hàng nhập khẩu ư? E rằng đã muộn."

Hành động là tất yếu. Đây là di chứng nội chiến. Khi can thiệp vào chiến tranh Mỹ, Anh-Pháp-Áo-Tây Ban Nha đã mở toang thị trường Mỹ.

Giờ muốn tăng thuế bảo hộ thị trường không dễ dàng. Đây chính là lý do hàng Áo tràn vào Mỹ – không rào cản thuế quan, giá rẻ trở thành vũ khí vô địch.

Đáng sợ hơn, hàng công nghiệp này không chỉ rẻ, mà chất lượng vượt trội hàng Mỹ.

Thời này, hàng Mỹ vốn mang tiếng "hàng nhái, chất lượng kém" – chỉ dựa vào giá rẻ để cạnh tranh.

Giờ bi kịch rồi – hàng Áo bán tháo, Anh tiếp bước giảm giá. Mùa đông của ngành sản xuất Mỹ đã đến.

James lắc đầu: "Không phải. Chúng ta không phải cứu thế chủ. Khủng hoảng kinh tế đã không thể tránh khỏi, dù có tăng thuế bảo hộ thị trường.

Bây giờ phải cắt lỗ và kiếm tiền từ khủng hoảng. Tôi đề nghị hội đồng quản trị tạm ngừng cho vay bên ngoài.

Những khoản vay rủi ro, tôi sẽ cử người đốc thúc thu hồi. Đồng thời bán tháo chứng khoán và cổ phiếu đang nắm giữ. Ngân hàng sẽ huy động chuyên gia bán khống thị trường."

Đây không phải cứu thị, mà là "đâm dao" vào người đang ngã. Nhưng không sao – chỉ cần kiếm được tiền.

Vốn liếng của nhà tư bản luôn đặt trên lương tri và trách nhiệm xã hội. Những từ cao đẹp đó chỉ để nói, tin vào thì ngu.

Đặc biệt thế kỷ XIX – thời đại đẫm máu của tư bản, mỗi đồng đô la đều nhuốm máu và mồ hôi.

Không cần thương lượng, đã đến lúc xào bài. Muốn chống lại tư bản châu Âu, trước hết phải tự sống sót.

Từ cuộc khủng hoảng trước, mọi người vẫn nhớ như in. Do dự và thiếu chuẩn bị, Citibank suýt phá sản vì thiếu tiền mặt.

Cùng thời điểm, nhiều nhà tư bản tài chính cũng chọn cách tương tự. Trước lợi ích, không có tình nghĩa. Thời đại cá lớn nuốt cá bé, không tàn nhẫn không sống nổi.

Ngân hàng thắt chặt tín dụng, gây hiệu ứng domino. Nhiều doanh nghiệp lâm vào khốn cảnh, kể cả những công ty làm ăn tốt cũng phá sản vì đứt vốn.

Chỉ trong chốc lát, sa thải và giảm sản xuất trở thành từ khóa nóng. Đường phố đầy người tìm việc, nhưng công ty tuyển dụng đếm trên đầu ngón tay. Sự phồn vinh hậu chiến vừa chớm nở đã chết yểu.

Không chỉ Mỹ, cơn bão này quét qua toàn thế giới. Áo dẫn đầu mở cửa xả hàng, đẩy khủng hoảng ra nước ngoài.

Anh tiếp bước, kéo cả thế giới xuống nước. Quốc gia công nghiệp số một thế giới, cũng là nơi hàng hóa tồn kho nhiều nhất.

Tư bản Anh liều mạng bán phá giá sang châu Âu.

Nước đầu tiên chịu họa là Pháp. Hàng dệt Anh tràn vào với giá rau, chính phủ Paris tăng thuế mấy lần cũng không chặn được.

Áo đã hành động trước – đổ hàng giá rẻ vào các nước kém phát triển. Khi Anh tỉnh ngộ, sức mua thị trường đã cạn.

Những nước này vốn không có công nghiệp, hàng công nghiệp giá rẻ không ảnh hưởng đến kinh tế nông nghiệp. Nhiều người còn vui mừng mua được hàng rẻ.

Châu Âu thì khác, các nước đều phát triển công nghiệp. Hàng Anh tràn vào nghiêm trọng ảnh hưởng kinh tế. Không còn cách – tất cả dựng "tường thuế quan".

Khủng hoảng lan rộng khắp lục địa, kể cả Áo. Hàng ngày, vô số doanh nghiệp phá sản.

Dưới tác động của thuế quan, thị trường quốc tế thu hẹp nhanh chóng. Đế quốc thuộc địa còn đỡ – có nơi xả hàng.

Những nước không thuộc địa như Bỉ – "tiểu cường công nghiệp" – lãnh đòn nặng. Mất thị trường, công nghiệp Bỉ năm 1868 sụt giảm 50%.

Ba Lan mới độc lập cũng không thoát nạn. Mất thị trường Nga, ngành công nghiệp non yếu của họ sụp đổ ngay đợt sóng đầu tiên.

Ngay nông sản xuất khẩu cũng không tránh khỏi. Giá lương thực quốc tế lao dốc vì khủng hoảng.

Thêm việc không có cảng biển, chi phí thuế quan đội lên – nông sản Ba Lan mất hết sức cạnh tranh.

Điều này khiến mâu thuẫn Phổ-Ba thêm trầm trọng. Người Ba Lan ngày càng hận Vương quốc Phổ – chính họ áp thuế nông sản Ba Lan.

Thực ra Phổ Đôn cũng tự lo chưa xong. Sau chiến tranh, Anh không tha cho "thiếu niên" này.

Hàng Anh tràn vào, công nghiệp non yếu của Phổ Đôn tan nát, thất nghiệp tăng vọt.

Công nghiệp sụp đổ, nông nghiệp phải cứu. Chính phủ do tầng lớp Junker thống trị buộc phải ưu tiên lợi ích giai cấp.

Sau chiến tranh Phổ-Nga, Phổ Đôn có thêm nhiều đất đai, từ nước nhập khẩu lương thực biến thành xuất khẩu.

Trên thị trường lương thực, Phổ và Ba Lan trở thành đối thủ. May mà cả hai vừa kết thúc chiến tranh, sản lượng nông nghiệp chưa phục hồi, cạnh tranh chưa khốc liệt.

Tình hình thay đổi vào mùa thu hoạch 1868 – đúng lúc khủng hoảng kinh tế đạt đỉnh. Sức mua giảm, giá lương thực quốc tế giảm 28%.

Các nước xuất khẩu lương thực châu Âu đều khổ sở. Để bảo vệ lợi ích, chính phủ Berlin do Junker lãnh đạo buộc phải dùng thuế quan chặn hàng Ba Lan.

Không hoàn toàn trách Berlin – ai bảo tư bản Ba Lan đổ hàng vào nội địa Phổ Đôn?

Hai chính phủ từng thỏa thuận cấm nông sản Ba Lan bán trong lãnh thổ Phổ. Nhưng ràng buộc chính trị không thể trói được tư bản.

Thấy giá lương thực Phổ Đôn cao, tư bản Ba Lan không kiềm chế được. Ban đầu chỉ lén bán dọc đường vận chuyển, sau làm lớn dần đến mức không che giấu nổi.

Trước lợi ích, không có tình nghĩa. Junker bị tổn thương lợi ích nổi giận, chính phủ Berlin đương nhiên đứng về phía họ. Sau khi đàm phán thất bại, thuế quan trở thành vũ khí tối thượng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #lichsu