61
**Nước Mỹ**, trận đại chiến quyết định vận mệnh của hai chính phủ Nam-Bắc cuối cùng đã kết thúc trong thế hai bên cùng kiệt sức.
Về mặt chiến thuật, chính phủ miền Nam giành được thắng lợi, với thương vong thấp hơn; nhưng về mặt chiến lược, chính phủ miền Bắc mới là người chiến thắng.
Nếu không có sự can thiệp từ bên ngoài, chính phủ miền Bắc hoàn toàn có thể dựa vào ưu thế về nhân lực và công nghiệp để dần chiếm thế thượng phong.
Đáng tiếc, điều này là không thể. Từ đầu cuộc Nội chiến này đã diễn ra dưới sự can thiệp của các cường quốc châu Âu.
Với sự hỗ trợ từ nhiều "bà đỡ", ưu thế công nghiệp của chính phủ miền Bắc chưa kịp phát huy. Thời đại hàng hải phát triển, thương mại giữa châu Âu và Mỹ sôi động. Dù các nhà tư bản miền Bắc có cố gắng sản xuất đến đâu, họ vẫn không thể vượt qua châu Âu.
Hơn nữa, cuộc chiến càng kéo dài, chính phủ miền Nam càng mắc nợ các nước, khiến các chính phủ này không thể buông tay.
"Hiệu ứng cánh bướm" tỏ ra mạnh mẽ. Hiện tại, chính phủ miền Nam không chỉ phát hành trái phiếu bông mà còn vay nợ khổng lồ từ các nước, biến Anh, Pháp, Áo thành những chủ nợ lớn.
Đáng chú ý, phần lớn kinh phí chiến tranh của chính phủ miền Bắc cũng được vay từ ba nước này. Dù phe nào sụp đổ, các chủ nợ đều sẽ chịu tổn thất nặng nề.
"Ăn hết phe trên rồi đến phe dưới" – nếu không phải giới tài chính ba nước liên kết lại gây rối, cuộc chiến này đã không kéo dài đến mức này.
Tổng thống Lincoln bất lực nói: "Không thể đánh tiếp được nữa. Hãy nhanh chóng đàm phán với chính phủ miền Nam!"
Thực sự đã kiệt sức. Đến lúc này, chính phủ miền Bắc đã cạn kiệt sinh lực. Nếu tiếp tục kéo dài, dù có tiêu diệt được miền Nam, họ cũng sẽ suy yếu đến mức trở thành miếng mồi ngon cho các nước khác.
Những nhà tư bản ủng hộ Lincoln không muốn "chơi đến chết" nước Mỹ, vì điều này không phù hợp với lợi ích của họ. Tất cả đều là người trưởng thành và thực tế – nếu đã không thể thắng, tốt nhất là dừng lại kịp thời.
Hoặc là giải quyết vấn đề khi các cường quốc châu Âu đang tập trung vào lục địa, nếu không, khi họ quay lại, mọi thứ sẽ khó khăn hơn nhiều.
Bộ trưởng Ngoại giao Seward suy nghĩ một lúc rồi hỏi: "Thưa Tổng thống, có phải quá sớm không? Chúng ta còn nhiều việc chưa hoàn thành, công tác tạo dư luận vẫn đang diễn ra."
Lincoln đưa ra bức điện mới nhận từ châu Âu: "Không kịp rồi. Đây là tin tình báo mới nhất, ông hãy xem đi!
Những kẻ vô dụng đó còn tệ hơn chúng ta tưởng. Đừng nói đến việc lật đổ chính quyền, ngay cả làn sóng cách mạng mới cũng không thể kích động nổi."
Seward lướt qua tài liệu, không nói gì. Từ những thông tin này, các đảng cách mạng chỉ đạt mức "đủ điểm", nhưng còn xa mới đáp ứng được kỳ vọng của Lincoln.
Dù là tổ chức độc lập Hungary thất bại thảm hại, họ cũng khiến chính phủ Vienna bận rộn suốt vài tháng. Các nhóm cách mạng khác cũng không kém, giành được thời gian quý báu cho chính phủ Liên bang.
Nhưng đối với Lincoln, vài tháng này quá ngắn ngủi, ngắn đến mức ông không còn ý chí tiếp tục chiến tranh.
Đánh lâu như vậy, ông đã hiểu rõ sức mạnh của chính phủ miền Nam. Nếu không có vài năm, không thể giành chiến thắng.
Rõ ràng, điều này là không thể. Một khi các cường quốc châu Âu "tỉnh giấc", đừng nói đến việc đánh bại miền Nam, ngay cả khu vực kiểm soát còn lại của chính phủ Liên bang cũng có thể bị nhòm ngó.
Lincoln từng hy vọng các đảng cách mạng sẽ kích động làn sóng cách mạng mới ở châu Âu, khiến các nước không thể can thiệp vào Nội chiến Mỹ, tạo cơ hội thống nhất đất nước.
Nhưng tổ chức độc lập Hungary đã thất bại trong cuộc khởi nghĩa; phong trào độc lập Ireland cũng bị chính phủ London đàn áp dã man; đảng cách mạng Pháp vẫn đang vật lộn vì "Nước Pháp tự do", nhưng họ không giỏi chiến đấu, chỉ biết đấu võ mồm với Paris.
Chỉ có đảng cách mạng Tây Ban Nha là đạt được thành quả, hiện đang giao chiến với chính phủ, và khó có thể kết thúc trong thời gian ngắn.
Tuy nhiên, Tây Ban Nha là nước yếu nhất trong liên minh can thiệp. Chỉ cần ba cường quốc Anh, Pháp, Áo quyết định dùng vũ lực, họ sẽ lập tức hành động theo.
Đảng cách mạng Ý cũng có thành tựu nhất định, ít nhất Garibaldi đã chiếm giữ nửa đảo Sicily và đang cố gắng chiếm toàn bộ.
Nhưng đây không phải điều Mỹ cần. Họ muốn người Ý nổi dậy ở Sardinia và Lombardy-Veneto, để kiềm chế Pháp và Áo.
Rõ ràng, đảng cách mạng Ý không ngu. Họ không đi "gặm xương cứng". Sau khi Garibaldi thành công ở Sicily, mọi người đều quay sang ủng hộ cuộc cách mạng ở đảo Sicily.
Nếu tiếp tục như vậy, chỉ cần nửa năm nữa, Anh, Pháp, Áo đều có thể giải quyết xong vấn đề nội bộ. Khi đó, chính phủ Liên bang – kẻ gây ra cuộc hỗn loạn này – chắc chắn sẽ không nhận được trái ngọt.
Lincoln không nghĩ các nước châu Âu không biết vai trò của họ. Trong chính trị, không cần bằng chứng, chỉ cần phân tích lợi hại là đủ.
Hiện tại, nếu thỏa hiệp, chính phủ Liên bang vẫn có thể chiếm ưu thế trong đàm phán. Nếu kéo dài, khi các nước có đủ sức trả đũa, tình hình sẽ hoàn toàn khác.
Không cần suy nghĩ cũng biết các cường quốc châu Âu sẽ ủng hộ ai. Nếu để chính phủ miền Nam nuốt thêm vài bang nữa, chính phủ Liên bang sẽ càng thảm hại.
Hiện tại, nhiều bang tự do đã bị chính phủ miền Nam chiếm giữ, và cần phải giành lại. Nếu không làm được điều này, những "ông chủ" đứng sau cũng không tha cho Lincoln.
Không chỉ chính phủ miền Bắc không chịu nổi, mà chính phủ miền Nam cũng đã đến giới hạn. Thương vong của cả hai phe hiện đã vượt xa so với cùng kỳ lịch sử, và chi phí quân sự trở thành con số khổng lồ.
Trước khi trận đại chiến nổ ra, chính phủ miền Nam đã đề nghị đàm phán với miền Bắc, nhưng Lincoln và đồng bọn đặt hy vọng cuối cùng vào trận chiến này, nên không đưa ra câu trả lời.
Đến lúc này, mọi người mới buộc phải thừa nhận: dưới sự can thiệp của các cường quốc châu Âu, cuộc chiến này đã trở thành cuộc chiến "đốt tiền và mạng người".
Chính phủ miền Bắc có dân số đông hơn, nhưng miền Nam cũng không thiếu người. Cộng với sức chiến đấu mạnh hơn của quân đội miền Nam, chênh lệch sức mạnh giữa hai phe không lớn.
Đây là di chứng của "hiệu ứng cánh bướm". Nếu không có sự can thiệp của các nước trước khi Nội chiến nổ ra, chính phủ miền Nam không thể nào thu hút nhiều bang tham gia như vậy.
Chính trị luôn là điểm yếu của chính phủ miền Nam. Nếu không, chỉ cần giương cao ngọn cờ phản chiến, nhiều bang sẽ chọn trung lập, và chính phủ Lincoln dù muốn dùng vũ lực cũng không được dân ủng hộ.
Trong lịch sử, phần lớn các bang Mỹ ban đầu đều giữ thái độ trung lập. Nhiều người Mỹ cho rằng việc miền Nam độc lập là hợp pháp, và phản đối dùng vũ lực giải quyết.
Cho đến khi chính phủ miền Nam nổ phát súng đầu tiên, những người này mới thay đổi lập trường, đứng về phía miền Bắc.
Hiện thực tàn khốc. Sau vài năm chiến tranh, nhiều người đã tỉnh ngộ, và trình độ chính trị của chính phủ miền Nam cũng được nâng cao trong chiến tranh.
Trong khi các cường quốc châu Âu đang "ngủ quên", hai bên Nam-Bắc đã mở cuộc đàm phán bí mật.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro