Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

52

Khủng hoảng kinh tế trong thế giới tư bản thường đến nhanh và đi cũng nhanh. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đầu tiên, đến đầu năm 1859 cuối cùng đã khép lại.

Tính đến cuối năm 1858, tổng sản lượng công nghiệp của Áo đã giảm 29,7% so với năm trước, quy mô kinh tế giảm 17,3%, hơn 3.000 doanh nghiệp phá sản, số người thất nghiệp vượt qua mốc một triệu...

Franz cuối cùng cũng hiểu tại sao mọi người lại sợ hãi khủng hoảng kinh tế đến vậy. Chính phủ Vienna đã tích cực áp dụng các biện pháp ứng phó, nhưng tổn thất vẫn lớn như thế; những quốc gia không có biện pháp ứng phó thì càng không cần nói.

Dĩ nhiên, tổn thất lớn của nền kinh tế Áo cũng liên quan trực tiếp đến sự tăng trưởng quá nóng trước đó. Giá trị thị trường của các công ty đường sắt mà Franz từng thổi phồng thậm chí còn giảm xuống chỉ còn một phần mười so với thời kỳ đỉnh cao.

Tổn thất từ khủng hoảng kinh tế lớn không hẳn là điều xấu. Nếu nhìn nhận vấn đề từ một góc độ khác, điều này cũng có nghĩa là quá trình công nghiệp hóa của Áo sắp hoàn thành. Chỉ khi nền kinh tế tư bản phát triển đến một mức độ nhất định, những tổn thất như vậy mới xuất hiện.

Nếu nền kinh tế tư bản chưa phát triển, ngay cả khi gặp khủng hoảng kinh tế, nó cũng sẽ không bị ảnh hưởng nhiều.

Đế quốc Nga bên cạnh chính là một ví dụ. Khủng hoảng kinh tế có liên quan gì đến họ đâu?

Hai nước chịu thiệt hại nặng nề nhất trong cuộc khủng hoảng kinh tế lần này là Mỹ và Áo. Mỹ là vì người Anh rút vốn, dẫn đến tình trạng thiếu tiền trên thị trường, khiến chính quyền trung ương yếu kém hoàn toàn bối rối.

Áo thì tự nhiên trở thành nơi dòng vốn đổ vào ào ạt, hậu quả của việc các nhà tư bản đầu tư mù quáng. Sau khủng hoảng kinh tế, thị trường trở lại lý trí, điều này không hẳn là xấu.

Sau khi lướt qua báo cáo kinh tế, Franz hài lòng gật đầu.

Trong hoàn cảnh không có kinh nghiệm nào để tham khảo, việc thoát khỏi khủng hoảng kinh tế nhanh chóng như vậy chứng tỏ chính phủ Vienna đã làm tốt nhiệm vụ của mình.

Thủ tướng Felix lên tiếng: "Bệ hạ, khủng hoảng kinh tế đã kết thúc, nền kinh tế thế giới đang dần hồi phục. Nội các quyết định chấm dứt chính sách kích thích kinh tế để tránh tái diễn đầu tư mù quáng.

Để đối phó với khủng hoảng kinh tế, chính phủ đã tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Thâm hụt ngân sách năm tài khóa 1858 lên tới 280 triệu Shilling, vượt xa khả năng chịu đựng tài chính của chính phủ.

Để giảm áp lực tài chính, chính phủ dự định cắt giảm chi tiêu trong ba năm tới, đồng thời giảm nợ dần dần khoảng 30 triệu Shilling.

Những dự án đã khởi công sẽ tiếp tục tiến hành, các dự án đang lên kế hoạch hoặc chưa bắt đầu xây dựng sẽ được hoãn lại."

Cơ sở hạ tầng cũng tốn rất nhiều tiền. Là "kẻ gánh vác" lớn nhất trong cuộc khủng hoảng kinh tế lần này, chính phủ Vienna đã chi ra một khoản khổng lồ.

Một phần số tiền huy động từ trái phiếu được dùng để tiếp quản các dự án dang dở; một phần khác được đầu tư cổ phần vào các công ty đường sắt và ngành công nghiệp liên quan đến dân sinh.

Thâm hụt ngân sách 280 triệu Shilling chính là số tiền đã chi ra. Hai năm rưỡi thu nhập tài chính đều đã biến thành các dự án cơ sở hạ tầng và cổ phần doanh nghiệp.

Phần còn lại phải được sử dụng đúng mục đích. Không phải tất cả các dự án đều dang dở, kế hoạch giữ chân nhà đầu tư vẫn đang hiệu quả.

Người ta tiếp tục hoàn thành các dự án, chính phủ đương nhiên phải thanh toán chi phí. Chính phủ Vienna rất coi trọng uy tín, sau khi nghiệm thu hoàn thành sẽ thanh toán ngay lập tức.

Chính phủ hết tiền, đương nhiên phải cắt giảm chi tiêu, và nhát dao đầu tiên rơi vào đầu tư cơ sở hạ tầng.

Đợt xây dựng cơ sở hạ tầng lớn này tương đương với mười năm đầu tư trong thời bình, rõ ràng không thể kéo dài mãi.

Dù có điên cuồng đến đâu, Franz cũng không thể mỗi năm lấy ra số tiền bằng gấp đôi thu nhập tài chính để đổ vào cơ sở hạ tầng.

Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, thực hiện một đợt ứng phó khẩn cấp là có thể chấp nhận. Nhưng sau khi khủng hoảng kinh tế kết thúc, việc xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn phải ưu tiên lợi ích kinh tế.

Franz suy nghĩ một chút rồi nói: "Điều này là tất yếu. Tổng nợ của chúng ta hiện đã đứng thứ tư thế giới, quả thật nên cắt giảm một phần.

Hiện tại, cơ sở hạ tầng ở các đô thị quan trọng trong nước đều đã được bao phủ, trong ngắn hạn không có dự án lớn nào bắt buộc phải thực hiện. Xây dựng cơ sở hạ tầng có thể tạm dừng một thời gian.

Trong hai đến ba năm tới, áp lực tài chính của chính phủ có thể sẽ khá lớn. Sau khoảng thời gian này, số lượng lớn cổ phần doanh nghiệp mà chúng ta nắm giữ sẽ bắt đầu sinh lời."

Khi nói điều này, chính Franz cũng không mấy tự tin. Sinh lời thì đúng, nhưng đáng tiếc rằng khoản đầu tư lớn nhất lại đổ vào các công ty đường sắt, khoản đầu tư này không hề mang lại lợi nhuận.

Trừ khi, ông nới lỏng chính sách, cho phép các công ty đường sắt từ bỏ một số tuyến ít người đi, chỉ tập trung vận hành các tuyến ở khu vực thương mại sầm uất.

Về mặt kinh tế, cách làm này sẽ mang lại lợi ích tối đa; nhưng về mặt chính trị, đây là điều không thể làm.

Việc mở rộng mạng lưới đường sắt đến từng thành phố cần thiết không chỉ nhằm phát triển kinh tế, mà còn để tăng cường sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối với các địa phương.

Trong bối cảnh này, Franz chỉ có thể xin lỗi những kẻ đầu cơ bị mắc kẹt sau này. Vì sự phát triển của đất nước, các công ty đường sắt phải hoạt động thua lỗ trong thời gian ngắn, không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu.

Nếu không phải chính phủ buộc các dự án đường sắt trong thời kỳ thị trường nóng bỏng, để các nhà tư bản tự do xây dựng đường sắt, có lẽ ở các khu vực sầm uất sẽ xuất hiện ba đến năm tuyến đường sắt song song, còn các tỉnh nghèo kinh tế thì không có nổi một đoạn đường ray.

Điều này đã được chứng minh ở Anh và Pháp. Những tuyến đường sắt không có giá trị kinh tế sẽ không được xây dựng, trong khi ở các khu vực kinh tế phát triển lại có sự trùng lặp lớn trong xây dựng.

Nếu chỉ có một cái hố này thì thôi, vấn đề là chính phủ đã góp vốn vào nhiều doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nặng, loại hình đầu tư đòi hỏi vốn lớn, chu kỳ dài và lợi nhuận cao.

Trong ngắn hạn, những doanh nghiệp này còn phải mở rộng sản xuất và thúc đẩy đổi mới công nghệ, hầu như không thấy cổ tức, việc trông chờ vào những khoản đầu tư này để bù đắp thâm hụt tài chính còn xa vời.

Tất nhiên, ngay từ đầu chính phủ Vienna đã không kỳ vọng sẽ thu được lợi ích lớn từ đây.

Quan trọng hơn là thông qua việc góp vốn, chính phủ cung cấp nguồn vốn cứu sống cho các doanh nghiệp, bảo vệ những ngành công nghiệp cốt lõi.

Điều này giống như chính phủ hiện tại đang trải qua những ngày tháng khó khăn, để lại cho các chính phủ sau một nền tảng vững chắc. Việc này chỉ có thể xảy ra ở những quốc gia ổn định về chính trị.

Nếu là quốc gia thay đổi chính phủ liên tục, không gây thêm rắc rối cho người kế nhiệm đã là may, chứ đừng nói đến việc tích lũy tài sản cho họ – điều đó chỉ là mơ thôi!

Đây cũng là lý do khiến nhiều quốc gia ngày càng tăng nợ công. Dù sao, miễn là nhiệm kỳ của mình vui vẻ, ai quan tâm đến số phận của người kế nhiệm?

Một nhiệm kỳ chồng lên một nhiệm kỳ, cuối cùng dẫn đến núi nợ chất chồng, chính phủ buộc phải chịu ảnh hưởng từ các tập đoàn tài chính, dần dần trở thành người phát ngôn của đồng tiền.

Doanh trại thì cố định, binh lính thì thay phiên.

Các quốc gia quân chủ thì khác. Chính phủ nội các có thể thay đổi, nhưng Hoàng đế Franz thì không thay đổi được, dù có thay đổi người kế nhiệm thì đó cũng là con cháu của ông. Do đó, ông sẽ không cho phép ai hy sinh lợi ích tương lai vì lợi ích trước mắt.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #lichsu