49
Sau khi trở lại lục địa châu Âu, Stephan và Gabori đã chia tay nhau. Một người chuẩn bị tiến hành hoạt động độc lập, trong khi người kia muốn tìm một nơi để quan sát tình hình.
Stephan và những người khác không vội vàng quay về Hungary ngay. Kinh nghiệm lưu vong dạy họ phải cẩn thận, bất kỳ sự sơ suất nào cũng có thể dẫn đến thảm họa.
Mặc dù đã hơn mười năm trôi qua và mọi thứ đều thay đổi chóng mặt, nhưng không ai có thể đảm bảo rằng họ sẽ không bị người quen nhận ra.
Nếu tin tức bị rò rỉ, cả nhóm sẽ bị "xóa sổ" ngay lập tức. Stephan và đồng bọn xuống thuyền tại Công quốc Montenegro, giả dạng làm thương nhân để khảo sát thị trường ở đây.
Sau đó, họ cử một vài thanh niên chưa từng xuất hiện tại Áo vào khu vực Hungary để thu thập thông tin tình báo.
Khó khăn là môi trường tốt nhất để con người trưởng thành. Tổ chức độc lập Hungary hiện tại đã không còn giống như hơn mười năm trước. Họ không chỉ học cách hiểu rõ bản thân và đối thủ mà còn nâng cao khả năng tự bảo vệ mình lên nhiều bậc.
---
Trong khi một làn sóng các phe phái nổi dậy đang đổ bộ vào lục địa châu Âu, chiến tranh Phổ-Đan cũng sắp đi đến hồi kết. May mắn thay, chính phủ Sa hoàng đã kịp thời can thiệp vào thời điểm này.
Tuy nhiên, điều này không hẳn là "kịp thời". Chính phủ Sa hoàng lẽ ra nên hành động hơn hai tháng trước. Tiếc rằng, Nga muốn dập tắt cuộc nổi dậy ở Ba Lan trước, rồi mới đối phó với Phổ.
Kết quả là quân nổi dậy Ba Lan đã bị đánh bại, nhưng cuộc nổi dậy vẫn tiếp tục. Cuộc nổi dậy Ba Lan lần này có quá nhiều thế lực hậu thuẫn từ phía sau, sức mạnh của quân nổi dậy vượt xa dự đoán của người Nga.
Đánh bại họ thì dễ, nhưng muốn tiêu diệt hoàn toàn lại rất khó. Sự tồn tại của cuộc nổi dậy Ba Lan đã giúp Phổ giành thêm thời gian.
Cho đến khi Đan Mạch không thể chống đỡ được nữa, chính phủ Sa hoàng buộc phải ra tay. Nếu Vương quốc Đan Mạch sụp đổ, danh dự của Đế quốc Nga sẽ mất sạch.
Ngày 28 tháng 12 năm 1864, chính phủ Sa hoàng gửi tối hậu thư chiến tranh tới Vương quốc Phổ, yêu cầu họ rút khỏi Đan Mạch trong vòng 24 giờ.
**Berlin**, mặc dù đã chuẩn bị tinh thần, nhưng khi ngày này thực sự đến, chính phủ Phổ vẫn cảm thấy áp lực nặng nề.
Lần này, kẻ thù là bá chủ lục địa châu Âu – Đế quốc Nga, hoàn toàn không thể so sánh với Đan Mạch.
Đến nước này, họ không còn đường lùi. Nếu đắc tội với Nga thì không nói, mà còn khiến Anh và Pháp – những kẻ âm thầm ủng hộ họ – cũng thất vọng.
Vua Wilhelm I cũng không còn thời gian để cãi vã với quân đội nữa. Nếu thua trận này, dù Nga không nuốt chửng hoàn toàn Phổ, ít nhất cũng sẽ cắn một miếng lớn.
"Đã chuẩn bị xong chưa? Có chắc chắn đánh bại được Nga không?"
Bộ trưởng Lục Hải Quân Roon trả lời: "Chúng ta đã hoàn thành việc huy động toàn quốc. Tất cả các lực lượng dự bị đã được triệu tập, 427.000 quân Phổ sẵn sàng tham chiến bất cứ lúc nào.
Hiện tại điều quan trọng nhất là phải giành thêm khoản vay từ Anh và Pháp. Chỉ cần giải quyết vấn đề tài chính, chúng ta có thể kéo dài thời gian với Nga."
Vương quốc Phổ đã huy động được 427.000 quân, nhưng điều đó không có nghĩa là tất cả số quân này đều có thể tham gia vào cuộc chiến với Nga.
Có hàng xóm quá mạnh mẽ cũng là một bi kịch. Ba nước láng giềng, bất kỳ nước nào cũng có đủ sức mạnh để nghiền nát họ, chính phủ Phổ buộc phải cẩn thận.
Dùng lực lượng chủ lực để đối đầu trực tiếp với Nga không phải vấn đề, nhưng làm thế nào để đảm bảo không bị Pháp và Áo thừa cơ tấn công lại là một vấn đề lớn.
Mặc dù Pháp và Áo cần họ để kiềm chế Nga, tạm thời hai nước này sẽ không động thủ, nhưng sau khi chiến tranh kết thúc thì sao?
Dù thắng hay thua, họ đều có thể phải đối mặt với sự tấn công từ Pháp và Áo.
Thất bại thì không cần nói, Nga sẽ "ăn thịt", Pháp và Áo cũng sẽ hưởng lợi. Nếu không trả giá đắt, Vương quốc Phổ đừng mong thoát thân.
Thắng trận này cũng không đồng nghĩa với chiến thắng. Chính phủ Sa hoàng vẫn còn sức mạnh để trở lại, tương lai còn dài.
Lục địa châu Âu quá nhỏ, không thể chứa nhiều cường quốc. Cả Pháp và Áo đều không muốn nhìn thấy một Phổ mạnh mẽ xuất hiện.
Sau khi đánh bại Nga, vai trò của Vương quốc Phổ sẽ hết, bị đâm sau lưng là điều quá bình thường.
Phải phòng ngừa trước, chính phủ Phổ buộc phải chuẩn bị từ sớm. Nếu có tình huống bất ngờ xảy ra, ít nhất cũng cần có thời gian phản ứng.
Với quá nhiều vấn đề thực tế đặt ra trước mắt, quân đội Phổ đương nhiên không dám mạo hiểm. Họ không chỉ phải giành chiến thắng mà còn phải giảm thiểu tổn thất càng nhiều càng tốt, để sau chiến tranh có thể đối phó với việc Pháp và Áo có thể thừa cơ tấn công.
Trong thời đại này, môi trường quốc tế của Vương quốc Phổ khắc nghiệt hơn nhiều so với lịch sử, và phạm vi lựa chọn của họ quá hẹp.
Trong lịch sử, Bismarck có thể dẫn dắt Phổ thống nhất Đức là nhờ vào việc Nga thua trong Chiến tranh Crimea và Áo thua trong Chiến tranh Pháp-Áo.
Nhưng tình hình hiện tại hoàn toàn khác. Chiến tranh Pháp-Áo thậm chí chưa diễn ra. Vương quốc Sardinia cố gắng dụ Pháp tấn công Áo bằng cách nhượng đất, nhưng chính phủ Vienna trực tiếp "đưa luôn cả Sardinia" cho Pháp.
Pháp sau khi nuốt gọn Sardinia, bề ngoài có vẻ kiếm được món hời lớn, nhưng thực chất đã rơi vào thế bị động chiến lược, bị cô lập bởi các nước châu Âu.
Ở một mức độ nào đó, điều này cũng là một điều tốt cho Vương quốc Phổ. Pháp, bị mắc kẹt trong tình thế ngoại giao khó khăn, trong thời gian ngắn không dám nhòm ngó vùng Rhineland, áp lực quốc phòng của Phổ giảm đáng kể.
Ngược lại, Nga thì hoàn toàn khác. Mặc dù họ chịu tổn thất lớn hơn trong Chiến tranh Cận Đông so với Chiến tranh Crimea trong lịch sử, nhưng vấn đề là họ đã thắng!
Người dân Nga không sợ tổn thất nặng nề. Chính phủ Sa hoàng chiếm được Constantinople, xã hội các tầng lớp đều rất hài lòng, tổn thất bị bỏ qua hoàn toàn.
Quân đội Sa hoàng sau khi trải qua chiến tranh, sức chiến đấu không thể so sánh với lịch sử. Không chỉ vũ khí trang bị vượt xa thời kỳ lịch sử, tinh thần binh sĩ cũng không thể so sánh.
Do đó, việc quân đội Phổ chọn chiến thuật bảo thủ là điều dễ hiểu. Dù sao, điều mà chính phủ Sa hoàng không thiếu nhất chính là binh lính. Hơn nữa, với liên minh Nga-Áo, dù Áo không hỗ trợ Nga, họ vẫn có thể bán vũ khí.
Trong bối cảnh này, việc đối đầu trực tiếp với Nga rõ ràng là không khôn ngoan. Chính phủ Sa hoàng có thể chịu thua ba đến năm lần, nhưng Phổ chỉ cần thua một lần là xong.
Chiến tranh không phải trò đùa. Cả Roon và Moltke đều là những nhà quân sự xuất sắc nhất thời đại này. Tầm nhìn của họ không chỉ dừng lại ở việc giành chiến thắng trong một trận đánh, mà là giành chiến thắng trong cả cuộc chiến.
Điểm yếu lớn nhất của chính phủ Sa hoàng là nghèo. Phổ có các nhà tài trợ giàu có đứng sau, nếu kéo dài thời gian, bên đầu tiên không chịu nổi chắc chắn sẽ là Nga.
Thủ tướng Frank đặt câu hỏi: "Làm thế nào để đảm bảo chặn được Nga? Từ thực tế, chúng ta phải đẩy lùi kẻ thù ra khỏi biên giới.
Kỵ binh Cossack là loại gì, các vị đều rõ ràng. Nếu để họ xâm nhập sâu vào lãnh thổ gây rối, hậu quả sẽ không thể tưởng tượng nổi."
Đây chính là vấn đề đau đầu nhất. Đường biên giới Phổ-Nga quá dài, đồng bằng Bắc Đức lại bằng phẳng, những khu vực này còn là nền tảng của quý tộc Junker, không thể để mất.
Không nói đến việc quân đội Nga lớn xâm nhập sâu, chỉ cần một vài trăm kỵ binh xông vào phá hoại, chính phủ Berlin đã không thể chịu nổi.
Moltke nghiêm túc nói: "Chúng ta phải thực hiện chiến thuật 'kiên bích thanh dã' (rút sạch và giữ vững), di dời tất cả dân cư trong phạm vi 50 km dọc biên giới Phổ-Nga về phía sau.
Tiếp tục huy động lần hai, tăng thời gian phục vụ quân ngũ lên năm năm, điều chỉnh độ tuổi phục vụ từ 16 đến 55, chúng ta có thể huy động thêm 300.000 quân. Sau khi huấn luyện đơn giản, họ có thể dùng để đối phó với các lực lượng Nga xâm nhập."
Mọi người biến sắc. "Kiên bích thanh dã" nghe thì đơn giản, nhưng thực hiện thì chắc chắn phải trả giá đắt.
Vương quốc Phổ không lớn. Lùi lại 50 km nghe thì dễ, nhưng thực tế điều này có nghĩa là phải di dời hàng triệu dân, và một phần năm lãnh thổ sẽ trở thành vùng đất chết.
Vua Wilhelm I nghiêm nghị nói: "Điều này không thể. Kế hoạch 'kiên bích thanh dã' của các vị đã vượt quá khả năng chịu đựng của chúng ta. Nếu làm vậy, bên đầu tiên sụp đổ sẽ là chúng ta, chứ không phải Nga."
Moltke thở dài: "Nếu vậy, chúng ta chỉ có thể mạo hiểm tấn công, cố gắng đưa chiến trường vào lãnh thổ Ba Lan."
Trong thời đại này, chiến hào và dây thép gai chưa xuất hiện. Không có những công trình phòng thủ rẻ tiền này, biên giới Phổ-Nga lại quá dài, chỉ có thể xây dựng công sự ở những khu vực trọng yếu.
Quân đội địch lớn không dám bỏ qua những công sự này để tấn công sâu, nhưng các đơn vị nhỏ thì khác.
Tất nhiên, phía sau cũng không phải không có công sự phòng thủ. Các lâu đài của quý tộc chính là pháo đài tốt nhất, đủ để đối phó với các đơn vị nhỏ không có hỏa lực mạnh.
Nguyên nhân chính của "kiên bích thanh dã" là để giảm thiểu thương vong. Dù sao không thể để dân chúng sống mãi trong lâu đài, họ cũng cần sinh hoạt.
Kỵ binh đến và đi như gió. Ngay cả khi đã được thông báo, cũng cần thời gian chuẩn bị. Lùi lại 50 km chính là để giành thêm thời gian này.
Wilhelm I do dự. Rủi ro lớn nhất của việc tấn công không nằm ở khía cạnh quân sự. Hiện tại, tổ chức độc lập Ba Lan là đồng minh của Phổ; ngay cả khi chiến tranh diễn ra trên lãnh thổ Ba Lan, họ vẫn có sự ủng hộ từ dân chúng địa phương.
Vấn đề khó khăn hơn là làm Nga tức giận, biến cuộc chiến cục bộ thành một cuộc chiến toàn diện giữa hai quốc gia. Không trách Phổ nhát gan, vấn đề lớn nhất là sau khi hoàn thành cải cách quân sự, họ chưa từng trải qua một cuộc chiến lớn, trong lòng thiếu tự tin.
Thủ tướng Frank lên tiếng: "Bệ hạ, đã đến nước này rồi, sao còn phải lo trước lo sau?
Nếu thắng trận này, Vương quốc Ba Lan độc lập sẽ trở thành vùng đệm giữa Phổ và Nga trong tương lai. Nếu thua trận này, Vương quốc Phổ sẽ mất đi tương lai."
Là thủ tướng xuất thân từ tầng lớp quý tộc Junker, vào thời điểm then chốt, ông vẫn đứng về phía lợi ích của giai cấp mình. Dù sao đi nữa, lợi ích giai cấp phải được bảo vệ.
Đường lui của Vương quốc Phổ đã bị chặn lại, nhưng đường lui của quý tộc Junker vẫn còn đó. Những quý tộc giỏi chiến đấu trong thời đại này vẫn rất được săn đón, chẳng cần lo lắng về lối thoát.
Wilhelm I gật đầu mạnh mẽ: "Cứ mạnh dạn làm đi!"
Đến nước này, ông quyết định đánh cược một phen lớn. Đưa chiến trường vào khu vực Ba Lan thuộc Nga không chỉ giảm thiểu thiệt hại cho lãnh thổ bản địa mà còn có cơ hội "cắn" lại một miếng thịt từ Nga sau chiến tranh.
Người Anh ủng hộ họ mở rộng ở khu vực Baltic. Không có cơ hội mở rộng ở khu vực Đức, việc mở rộng về phía đông trở thành lựa chọn duy nhất.
Các nước châu Âu sẽ không ngại chứng kiến sự ra đời của một Đế chế Phổ sẵn sàng đối đầu với Nga. Gánh vác nhiệm vụ bao vây Đế quốc Nga, John Bull (ám chỉ Anh) sẽ không để Phổ sụp đổ.
Thủ tướng Frank đề xuất: "Bệ hạ, chúng ta cần tìm kiếm thêm sự ủng hộ, ít nhất phải đảm bảo Áo giữ thái độ trung lập.
Đế quốc Nga được Áo hỗ trợ và Đế quốc Nga không có sự hỗ trợ của Áo là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Chúng ta không thể đồng thời đối đầu với hai đế quốc."
Vì đây là một cuộc chiến tiêu hao, tất nhiên phải cân nhắc so sánh sức mạnh hai bên. Áo có thể không giàu bằng Anh và Pháp, nhưng sức mạnh công nghiệp của Áo không thua kém gì Pháp.
Sự hỗ trợ không nhất thiết phải là tiền. Cung cấp vật tư cũng có thể phát huy tác dụng. Chỉ cần có đủ lương thực, vũ khí, đạn dược và các nhu yếu phẩm quân sự cần thiết, Nga có thể tiếp tục trụ vững.
Trong thời đại này, phần lớn binh lính nghĩa vụ ở châu Âu không nhận lương, và lương của các sĩ quan quý tộc cũng có thể nợ trước – họ sẽ không đình công vì vua không trả nổi lương.
Wilhelm I suy nghĩ một lúc rồi nói: "Ừ, hãy cử người đàm phán với chính phủ Vienna. Miễn không phải vấn đề cốt lõi, mọi thứ đều có thể thương lượng."
---
**Vienna**, Franz vẫn chưa biết rằng Áo một lần nữa trở thành tâm điểm tranh giành của các bên. Lúc này, cả Nga và Phổ đều cần sự ủng hộ của Áo.
Địa chính trị luôn là chủ đề không thể tránh khỏi. Áo ở gần ngay sát bên, vai trò mà Áo có thể phát huy không phải điều mà Anh và Pháp ở xa ngàn dặm có thể so sánh.
Ông vẫn đang đau đầu với bức thư trong tay. Maximiliano cuối cùng cũng nhận ra tình thế khó khăn và cầu cứu, khiến Franz rơi vào thế khó xử.
Chiến tranh Phổ-Nga sắp nổ ra, chính phủ Vienna buộc phải tập trung cao độ để theo dõi. Nội chiến Mỹ sắp phân thắng bại, và lực lượng của Áo ở khu vực châu Mỹ phải chuẩn bị cho các hành động can thiệp sau này.
Nếu lại nhúng tay vào nội tình Mexico, đó thực sự là đòi mạng.
Từ chối thẳng thừng thì lại quá vô tình. Dù Maximiliano ngây thơ nghĩ rằng chỉ cần hỗ trợ ngoại giao là đủ, ông không hiểu rằng mỗi lần hỗ trợ ngoại giao đều là kết quả của sự cân nhắc sức mạnh.
Ngoại giao không có sức mạnh chống lưng thì chẳng đáng một xu. Do dự mãi, Franz quyết định "tưới" cho Maximiliano một liều "súp tâm hồn", để ông tự lực cánh sinh.
Dù sao, với tư cách là một người anh tốt, Franz vẫn đưa ra những lời khuyên cụ thể.
Ông phân tích sâu sắc các mâu thuẫn nội bộ của Đế chế Mexico, khuyên Maximiliano trước tiên nên thu hút phe Lập hiến, xây dựng một chính phủ ổn định, và tạm gác vấn đề cải cách sang một bên.
Không có tiền thì càng đơn giản: cứ mạnh dạn vay tiền từ Pháp. Quyền ưu tiên thông quan, quyền sử dụng đường sắt, thu nhập tài chính, khoáng sản... miễn giá cả hợp lý, tất cả đều có thể thế chấp.
Maximiliano có nghe hay không thì Franz không thể kiểm soát. Dù sao lời khuyên đã được đưa ra. Làm theo những gì được gợi ý, dù không thể khiến Đế chế Mexico mạnh lên, ít nhất cũng có thể giúp Maximiliano giữ vững ngai vàng.
Khó khăn trong cải cách tương lai tăng lên, nhưng Franz hoàn toàn phớt lờ điều này. Trước vấn đề sinh tồn, mọi yếu tố khác đều có thể bỏ qua.
"Nợ nhiều thì thành ông chủ" – mặc dù điều này trong thời đại này chưa chắc đã đúng, nhưng ít nhất nó đảm bảo Napoleon III không dám dễ dàng từ bỏ sự hỗ trợ đối với Maximiliano.
Vấn đề trả nợ thì cũng phải đợi sau khi ngồi vững trên ngai vàng mới tính tiếp. Nếu giữa chừng bị lật đổ, những khoản nợ này cũng chẳng liên quan gì đến Maximiliano nữa.
Tiền vay là của chính phủ Mexico, chứ không phải của cá nhân Maximiliano. Nếu bị kẻ thù lật đổ, để lại một mớ hỗn độn cho họ cũng là một hình thức trả thù nhỏ.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro