34
**Sau khi khủng hoảng kinh tế bùng nổ, "quả bom" mà Franz đã cài đặt đã nổ. Các dự án dang dở tràn lan khắp nơi, chính phủ Vienna phải vất vả dọn dẹp đống hỗn độn.**
Không còn cách nào khác—sức tàn phá của khủng hoảng kinh tế quá mạnh. Là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đầu tiên, lần này nghiêm trọng hơn nhiều so với các cuộc khủng hoảng trước đó.
Chỉ trong năm 1857, số doanh nghiệp phá sản ở Mỹ đã lên đến hơn 5.000, thị trường chứng khoán sụp giảm một nửa, và một số ngành có dư thừa năng lực sản xuất nghiêm trọng, giá cổ phiếu giảm tới 90%.
Các nước châu Âu cũng không khá hơn, chỉ là thời điểm bị ảnh hưởng đến trễ hơn, nên chính phủ các nước có thời gian phản ứng.
Đáng tiếc, thời kỳ này không có khái niệm chính phủ can thiệp kinh tế—mọi người chỉ ngồi chờ khủng hoảng bùng nổ, nên thiệt hại là không thể tránh khỏi.
Do ảnh hưởng của khủng hoảng, chuỗi vốn của nhiều nhà tư bản bị đứt gãy. Khi túi rỗng, dù có bất mãn đến đâu, họ cũng phải cắn răng "cắt thịt".
Số tiền đầu tư ban đầu coi như làm từ thiện, tiền đặt cọc đảm bảo hợp đồng cũng bốc hơi.
Dự án công của chính phủ bị dang dở, nhưng đây chỉ là vấn đề nhỏ. Dù sao những dự án này không phải "nước sôi lửa bỏng"—dù chậm vài năm thi công cũng không nguy hiểm đến tính mạng.
Hơn nữa, các nhà tư bản có thực lực vẫn cắn răng kiên trì. Đầu tư càng nhiều, họ càng không nỡ từ bỏ—vốn dĩ, những dự án này vẫn là chất lượng cao.
Sự kiên trì này cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế Áo đang chao đảo. Nó giúp nhiều doanh nghiệp trong chuỗi ngành liên quan sống sót, tránh tình trạng kinh tế tiếp tục xấu đi.
Thủ tướng Felix trầm giọng báo cáo:
—"Bệ hạ, tính đến hiện tại, số doanh nghiệp trong nước xin phá sản đã lên đến 1.800, số doanh nghiệp bên bờ vực phá sản là 2.000, trong đó có cả năm công ty đường sắt lớn.
Chỉ số thị trường chứng khoán giảm 42%, trong đó cổ phiếu đường sắt giảm mạnh nhất. Do ảnh hưởng của bong bóng đường sắt Mỹ, nhiều nhà đầu tư mất niềm tin vào ngành này, giá trị thị trường bốc hơi 72%.
Ngành dệt may, sản xuất, tài chính, thép đều chịu tổn thất nặng nề. Do khủng hoảng, ngay cả xuất khẩu nông sản cũng giảm 25%.
Giá trị sản xuất công nghiệp so với cùng kỳ năm trước giảm gần 30%, và vẫn đang tiếp tục suy giảm.
Số người thất nghiệp trong nước đã vượt 980.000, sớm muộn sẽ vượt triệu người. Nếu tình hình kinh tế không cải thiện, tình trạng này sẽ tiếp tục xấu đi."
Mọi ngành nghề bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng, doanh nghiệp phá sản hàng loạt—Franz không quan tâm chút nào, vì mọi thứ đều nằm trong dự đoán của ông.
Mô hình tăng trưởng kinh tế bừa bãi như vậy, làm sao không có hậu quả? Nếu không nhờ Chiến tranh Đông Gần, giúp Áo chiếm lĩnh thị trường của Anh và Pháp tại Đế quốc Nga, khủng hoảng đã bùng nổ từ Áo rồi.
Trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế sau chiến tranh, dấu hiệu khủng hoảng của Áo đã xuất hiện.
Nếu không nhờ mở rộng thuộc địa hải ngoại, cải cách chế độ bản vị vàng, lượng vàng từ thuộc địa đổ về mang theo tiền tệ dồi dào, cùng các biện pháp như tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng của chính phủ—thì lần này khủng hoảng đã bắt đầu từ Áo, chứ không phải Mỹ.
Các vấn đề khác có thể giải quyết từ từ, nhưng vấn đề thất nghiệp thì cấp bách, phải giải quyết ngay—nếu không, sẽ dẫn đến các vấn đề xã hội nghiêm trọng.
Franz suy nghĩ rồi nói:
—"Theo kế hoạch ban đầu, chính phủ tiếp quản các dự án xây dựng dang dở, cho công nhân trở lại làm việc.
Đồng thời, chính phủ sẽ làm việc với các công ty đường sắt đã ngừng thi công: hoặc họ tự tìm cách giải quyết vấn đề vốn, khôi phục ngay thi công; hoặc chấp nhận chính phủ đầu tư góp vốn. Dù thế nào, phải khôi phục thi công nhanh nhất có thể.
Bộ Thuộc địa cũng phải hành động gấp. Khủng hoảng kinh tế là cơ hội tốt nhất để tổ chức di cư—not only Áo, mà toàn bộ khu vực Đức cũng nằm trong phạm vi hoạt động của các ngài.
Phải tìm cách khuyến khích người dân bị phá sản di cư đến thuộc địa. Lúc này, người Mỹ cũng đang trong khủng hoảng, không ai cạnh tranh với các ngài về di cư.
Ra lệnh cho chính quyền thuộc địa đẩy nhanh tốc độ, mở rộng sang Nigeria và Congo. Ta cho phép họ tổ chức lực lượng dân sự tham gia chiến đấu, nhanh chóng mở rộng phạm vi ảnh hưởng của chúng ta."
Chỉ cần các dự án này khôi phục thi công bình thường, các doanh nghiệp liên quan trong chuỗi cung ứng cũng sẽ sống sót, vấn đề thất nghiệp trong nước sẽ được giải quyết phần lớn.
Thời kỳ này, công nghiệp còn khá đơn giản—các ngành liên quan đến dự án này đã bao gồm hầu hết các ngành trong nước.
Franz "nuốt" các dự án cơ sở hạ tầng dang dở vì chúng không tìm được "người tiếp nhận"—chỉ còn chính phủ tiếp quản và tiếp tục thi công.
Không "nuốt trọn" các công ty đường sắt vì ngoài lý do giá trị thị trường cao, chi phí mua lại lớn, lý do quan trọng hơn là đường sắt đang là "mua bán lỗ".
Kể từ khi chính phủ Vienna nhượng quyền toàn bộ các tuyến đường cho các công ty đường sắt, "tương lai" của họ không còn sáng sủa.
Các tập đoàn thông minh đã rút lui ngay khi khủng hoảng kinh tế Mỹ bùng nổ—giờ những người bị "kẹt" đều là các nhà đầu cơ phản ứng chậm.
Franz đương nhiên không giải cứu họ. Biết rằng trong thập kỷ tới, các công ty đường sắt sẽ không thấy lợi nhuận—dự án dài hạn như vậy, không ai "gánh" nổi, chỉ dựa vào chính phủ Vienna đầu tư thì áp lực tài chính quá lớn.
Nếu có thể, ông thà để tư nhân đầu tư xây dựng toàn bộ đường sắt cho *Tân Đế quốc La Mã Thần thánh*, chứ không muốn mô hình hợp tác công-tư hiện tại.
Nhờ loạt hoạt động tài chính, chỉ trong chưa đến một thập kỷ, Áo đã tăng thêm hơn 14.800 km đường sắt—tổng chiều dài đường sắt của *Tân Đế quốc La Mã Thần thánh* đã vượt 20.000 km.
Nếu do chính phủ đầu tư, có lẽ chính phủ Vienna giờ chưa hoàn thành nổi một nửa khối lượng này—đó là sức mạnh của tiền bạc, "chính phủ nghèo" Vienna không chơi nổi các công trình lớn như vậy.
Dù hiện nay, chính phủ Vienna cũng không đủ khả năng gánh các khoản đầu tư khổng lồ này. Các dự án cơ sở hạ tầng hiện tại đều dựa vào vay nợ.
Điều này khiến Áo trở thành quốc gia nợ lớn thứ tư thế giới, sau Anh, Pháp, và Mỹ—trong vài thập kỷ tới, chính phủ Vienna sẽ phải nỗ lực trả nợ.
Chiến tranh là cách tốt nhất để chuyển hướng khủng hoảng, nhưng châu Phi quá xa—nếu không, Franz không ngại chiếm vài vương quốc thổ dân để vượt qua khủng hoảng này.
Tuy nhiên, việc mở rộng thuộc địa vẫn cần thiết. Dù không cướp bóc tài sản, ít nhất phải chiếm đất để định cư người di cư.
Vấn đề dân số quá tải ở khu vực Đức không phải chuyện ngày một ngày hai. Khu vực Áo còn khá ổn—đã gửi hàng chục vạn người đến bán đảo Balkan, và thêm vài vạn đến thuộc địa, nên áp lực dân số không quá lớn.
Các khu vực khác ở Đức thì khác—mỗi lần khủng hoảng kinh tế gây thất nghiệp, đó là thời điểm di cư lớn ra nước ngoài.
Lần này, Mỹ cũng đang trong khủng hoảng, nên dù họ muốn di cư, người ta cũng không chào đón.
Josip Jelacic đáp:
—"Bệ hạ, Bộ Thuộc địa đã lập kế hoạch di cư. Để thu hút người di cư từ khu vực Đức, chúng tôi đề xuất hai hình thức:
Thứ nhất, nhận việc làm từ chính phủ, di cư đến thuộc địa để khai phá nông trại. Chính phủ sẽ sắp xếp địa điểm cụ thể, chịu mọi chi phí di cư—họ không phải lo về việc làm.
Tất nhiên, cần ký hợp đồng lao động 5 năm. Tôi đề xuất mức lương cao hơn trong nước 20%, và trong thời gian đó, chính phủ cung cấp một kỳ nghỉ thăm gia đình miễn phí.
Thứ hai, di cư tự do. Ai chọn định cư tại bất kỳ cứ điểm thuộc địa nào của chúng ta, chính phủ sẽ trợ cấp 50% chi phí vé tàu."
Franz gật đầu—đây là điều kiện tốt nhất chính phủ Vienna có thể cung cấp. Các nông trại, đồn điền khai phá chủ yếu để dành thưởng cho những người có công.
Dù sao, đất đai trong nước có hạn—dù phong tước quý tộc, phần lớn chỉ mang tính danh nghĩa. Nhiều vùng đất đã có chủ, không thể dùng để ban thưởng.
Vậy thì dùng đất thuộc địa làm lãnh địa là điều tất yếu. Nhưng không phải ai cũng có nền tảng gia đình—chỉ cần cấp quyền một mảnh đất, không phải ai cũng đủ khả năng khai phá.
Những công thần xuất thân từ bình dân hoặc quý tộc suy tàn có tài sản hạn chế, không đủ sức khai phá lãnh địa—vậy dùng các nông trại hoặc đồn điền đã khai phá làm lãnh địa là lựa chọn hay.
Tự khai phá, có thể nhận vài trăm, thậm chí cả nghìn km² đất phong; nhưng nhận nông trại có sẵn, chỉ được vài chục hoặc vài trăm hecta lãnh địa.
Không có chuyện ai được lợi hay thiệt ở đây—khai phá cũng cần đầu tư chi phí. Về vấn đề này, Franz không ép buộc ai.
Các đồn điền đầu tiên khai phá ở thuộc địa Guinea giờ đã thấy lợi nhuận—sản xuất ngũ cốc, bông, lạc, những cây trồng ngắn kỳ cho hiệu quả nhanh.
Sau khi có sản lượng, chính phủ Vienna mạnh mẽ tuyên truyền, gọi đây là "mái nhà thứ hai" của *Tân Đế quốc La Mã Thần thánh*, nhấn mạnh đất đai châu Phi màu mỡ.
Nhận thức của nhiều người về thuộc địa châu Phi đã thay đổi—khái niệm "lục địa độc trùng" đã phai nhạt, thay vào đó là "đất đai trù phú" trong tâm trí mọi người.
Đây không phải nói dối—châu Phi thực sự có nhiều đất đai màu mỡ. Các thuộc địa Áo khai phá hiện nay đều khá giàu có, điều kiện khí hậu phù hợp cho con người sinh sống.
Giờ huy động người dân di cư, vừa phát triển thuộc địa hải ngoại, giải quyết thất nghiệp trong nước, lại chuyển hướng khủng hoảng kinh tế—thật là "một mũi tên trúng nhiều đích".
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro