23
Ở một khía cạnh nào đó, lần này Áo đã đóng vai trò "kẻ khuấy động". Trong tình huống bình thường, việc này thường do người Anh đảm nhận.
Chỉ là người Anh cảm thấy lo lắng, sợ rằng sau khi bán đi một lượng lớn tàu chiến, họ sẽ không đủ khả năng để đàn áp các thách thức từ các nước châu Âu.
Đối với các quốc gia quyền lực trên biển, hải quân chính là cốt lõi. Một khi Hải quân Hoàng gia Anh tỏ ra yếu thế, những kẻ thách thức chắc chắn sẽ nhảy vào.
Đừng nhìn vào việc hiện tại Pháp đang do phe thân Anh lãnh đạo, nhưng nếu có cơ hội, người Pháp chắc chắn sẽ không ngần ngại thay thế vị trí của Anh. Đây cũng là lý do mà cường quốc số một thường đàn áp cường quốc số hai.
Trong lịch sử, khi người Anh ủng hộ chính phủ miền Nam, phần lớn tàu chiến mà họ bán đi đều là tàu cũ kỹ. Các tàu chiến chủ lực của Hải quân Hoàng gia chưa bao giờ được mang ra bán.
Franz thì có lương tâm hơn nhiều. Mặc dù ông cũng trộn lẫn một số tàu chiến cũ, nhưng vài chiếc tàu giáp thép mà ông bán đều là kiệt tác của công nghệ công nghiệp hiện đại của Áo. Ông không hề chơi trò cắt giảm chất lượng.
Về mặt công nghệ, ít nhất chúng vẫn vượt trước người Mỹ hơn mười năm. Hai tàu chiến bắn nhau ở khoảng cách vài trăm mét, hết đạn mà tỷ lệ trúng đích bằng không - chỉ có Hải quân Mỹ mới làm được điều này.
Tất nhiên, yếu tố con người cũng là một nguyên nhân chính. Không thể kỳ vọng gì nhiều từ hai lực lượng hải quân non nớt. Nhưng việc công nghệ pháo kém cũng là một yếu tố quan trọng.
Áo không phải là quốc gia quyền lực trên biển. Ngay cả khi chính phủ miền Nam có thể phân tích ngược lại công nghệ tàu chiến, điều đó cũng không gây tổn hại gì. Nếu không có đủ sức mạnh công nghiệp, việc sao chép lại còn khó khăn hơn.
Còn về việc dựa trên cấu trúc của tàu chiến để đưa ra các biện pháp đối phó tương ứng, điều đó là quá xa vời. Khi các tàu mới đang được chế tạo, ai còn sợ những tàu cũ bị nhắm đến?
Dù khoảng thời gian này không dài, nhưng thực tế trong thời đại này, công nghệ phát triển rất nhanh. Công nghệ của các tàu giáp thép Áo đã được cải tiến nhiều lần. Những con tàu hiện đang nằm trên ụ đóng tàu hoàn toàn khác biệt so với những chiếc tàu giáp thép ban đầu.
Với cùng một sức mạnh hỏa lực, những chiếc tàu giáp thép ban đầu cần tới tám hoặc chín nghìn tấn, nhưng bây giờ chỉ cần hơn bảy nghìn tấn là đạt được.
Không phải tàu chiến càng lớn thì sức chiến đấu càng mạnh. Điều quan trọng hơn là xem xét pháo được lắp đặt. Thông thường, tàu chiến có pháo mạnh và số lượng nhiều sẽ có sức chiến đấu cao hơn.
Độ dày của giáp thép cũng là một tiêu chí đánh giá, nhưng hiện tại nó không được coi trọng lắm. Là một đế chế thuộc địa, chắc chắn phải tính đến chiến đấu ở vùng biển xa. Hải quân phòng thủ không phù hợp với Áo.
...
New York, chính phủ Liên bang vừa rút lui từ Washington đến đây, lại một lần nữa hứng chịu cú sốc lớn.
Mới vừa huy động được người dân, lợi dụng sự nhiệt tình của họ đối với đất đai, thu được đủ binh lính, tạo ra ưu thế về quân số đối với chính phủ miền Nam.
Bộ Chiến tranh đang lên kế hoạch phản công, dự định sử dụng ưu thế quân số để tiêu hao lực lượng nổi dậy. Tiếc rằng, kế hoạch này chưa kịp thực hiện thì đã nhận được tin chính phủ miền Nam mua hạm đội.
Điều này có nghĩa là kế hoạch phong tỏa miền Nam bằng hải quân đã hoàn toàn thất bại. Thậm chí, trong một thời gian tới, hải quân của chính phủ Liên bang sẽ còn ở thế bất lợi. Có khả năng chính phủ miền Nam sẽ quay lại phong tỏa họ.
Không cần nghi ngờ, sức mạnh hải quân của chính phủ miền Nam phụ thuộc vào mức độ đầu tư của họ và sự hỗ trợ từ các cường quốc.
Áo có thể bán hạm đội cho chính phủ miền Nam, thì Anh, Pháp và Tây Ban Nha cũng có thể làm vậy. Chính phủ miền Bắc không thể cạnh tranh sức mạnh công nghiệp với bốn cường quốc Anh, Pháp, Áo và Tây Ban Nha - hai bên hoàn toàn không cùng đẳng cấp.
Tổng thống Lincoln cố gắng giữ bình tĩnh, nhìn Bộ trưởng Hải quân với ánh mắt đầy hy vọng hỏi: "Nếu hạm đội này gia nhập hạm đội nổi dậy, hải quân có thể đảm bảo đường vận chuyển biển của chúng ta thông suốt không?"
Rõ ràng, ông đã từ bỏ ý định phong tỏa các bang miền Nam bằng hải quân. Lincoln tự biết mình, thay vì nghĩ đến những điều không thể làm được, tốt hơn là nên cân nhắc liệu chính phủ Liên bang có bị phong tỏa hay không.
Bộ trưởng Hải quân Gideon Welles suy nghĩ một lúc rồi nói: "Có thể gặp chút rắc rối nhỏ, nhưng kẻ thù không có khả năng phong tỏa bờ biển của chúng ta.
Hạm đội viễn dương mà Áo bán có sức chiến đấu mạnh mẽ, bởi vì nó lấy năm tàu giáp thép tiên tiến nhất làm nòng cốt, kèm theo hơn ba mươi tàu chiến buồm.
Nhưng số lượng tàu chiến của họ không nhiều. Ngoài những tàu chiến chủ lực này, số còn lại đều là tàu phụ trợ.
Khả năng đóng tàu của chúng ta có hạn. Nếu chỉ dựa vào sức mạnh của mình, ít nhất cần hai năm để vượt qua hạm đội nổi dậy.
Chiến tranh không thể chờ đợi lâu như vậy. Để nhanh chóng giành được ưu thế trên biển, chúng ta chỉ có thể mua hoặc thuê tàu chiến từ bên ngoài."
Việc đóng tàu cần thời gian. Dù ngành đóng tàu của Mỹ có phát triển đến đâu, cũng không thể trong vài năm ngắn ngủi chế tạo ra hàng trăm tàu chiến.
Trong lịch sử, hạm đội hải quân Liên bang trong Nội chiến Mỹ chủ yếu dựa vào việc mua và thuê, chỉ một phần nhỏ là tự chế tạo.
Dù sao thì tàu chiến không dễ chế tạo. Không cần nói đến tàu giáp thép - biểu tượng của năng lực công nghiệp thời đại mới, ngay cả tàu chiến buồm gỗ cũng có yêu cầu không hề thấp.
Chỉ riêng vấn đề gỗ đã là một thách thức. Một tàu chiến buồm thường cần chặt hàng nghìn cây. Gỗ sau khi được xử lý thường được lưu trữ vài năm để khô.
Đặc biệt là sống tàu, chỉ có thể làm từ gỗ sồi hoặc gỗ tếch, yêu cầu đối với cây rất cao.
May mắn thay, với sự phát triển của công nghệ đóng tàu, các bộ phận này hiện nay phần lớn có thể thay thế bằng thép. Nếu không, sau nhiều năm khai thác, việc tìm đủ gỗ đối với người Mỹ sẽ chỉ là giấc mơ.
Khi nhắc đến thép, đương nhiên là phải nhập khẩu từ Anh. Mỹ đã liên tục nhiều năm giữ vững danh hiệu quốc gia nhập khẩu thép lớn nhất thế giới. Giờ đây, khi chiến tranh bùng nổ, nhu cầu thép càng tăng cao.
Đây cũng là lý do khiến Lincoln lo ngại bị phong tỏa. Nếu nguồn cung vật tư bị cắt đứt, họ có thể trực tiếp đầu hàng và công nhận độc lập của chính phủ miền Nam.
Tổng thống Lincoln tức giận nói: "Hãy thực hiện theo kế hoạch của các người đi. Đến bước này, đã đến lúc phải đấu sức tài chính với chính phủ miền Nam, xem ai có thể trụ lâu hơn."
Chiến tranh chính là cuộc đấu tiền bạc. Trong thời đại này, rất nhiều thứ có thể mua được bằng tiền, bao gồm cả tàu chiến.
Bất kỳ quốc gia châu Âu nào cũng sẵn sàng nhận đơn hàng này. Chỉ cần có lợi nhuận đủ lớn, ai quan tâm tàu chiến bán cho ai?
Bộ trưởng Ngoại giao Seward lên tiếng: "Chỉ sợ rằng điều này vẫn chưa đủ. Các cường quốc châu Âu ủng hộ chính phủ miền Nam. Ngay cả khi họ đồng ý bán tàu chiến cho chúng ta, nhiều nhất cũng chỉ giúp hai bên cân bằng.
Phong tỏa trên biển đã thất bại. Yếu tố quyết định thắng bại của cuộc chiến này lại trở về với lục quân. Chỉ khi giành được chiến thắng trên đất liền, chúng ta mới có thể thắng cuộc chiến này và duy trì sự thống nhất đất nước."
Đây là một vấn đề thực tế. Đừng nhìn vào việc chính phủ miền Bắc có lợi thế kinh tế, nhưng nếu thật sự đấu sức tài chính, chưa chắc đã là đối thủ của chính phủ miền Nam.
Trong thời đại này, Cục Thuế Mỹ chưa có sức mạnh đáng kể, các nhà tư bản chắc chắn sẽ không ngoan ngoãn nộp thuế. So với đó, việc thu thuế xuất khẩu từ các chủ đồn điền miền Nam lại dễ dàng hơn.
Để huy động vốn, chính phủ Liên bang đã phát hành nhiều đợt trái phiếu trong nước. Tiếc rằng, số tiền này đều là đô la Mỹ, chỉ có thể dùng trong nước, còn trên trường quốc tế thì không ai chấp nhận.
Chính phủ miền Nam nhờ có bông làm tài sản thế chấp, phát hành trái phiếu ở nước ngoài, và thu về trực tiếp ngoại tệ. Thỉnh thoảng, trong các giao dịch hàng hóa lớn, họ còn có thể trả một phần bằng trái phiếu.
Về việc tranh thủ sự ủng hộ từ các nước châu Âu, chính phủ Liên bang đã thử nhưng không có kết quả. Ngay cả khi có người ủng hộ họ, cũng chỉ dừng lại ở lời nói.
Hiện tại, Napoleon III còn đang bận rộn với việc thôn tính Vương quốc Sardinia, không thể vì lợi ích của họ mà đắc tội với Anh, Áo và Tây Ban Nha, mất đi cơ hội mở rộng trên lục địa châu Âu.
Tổng thống Lincoln thăm dò hỏi: "Chúng ta bãi bỏ chế độ nô lệ thì sao?"
Bộ trưởng Ngoại giao Seward lập tức phản đối: "Tài sản tư nhân là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Việc này vi phạm Hiến pháp Mỹ, và sẽ đẩy các bang nô lệ trung thành với Liên bang về phía chính phủ miền Nam."
Tài sản tư nhân là thiêng liêng và bất khả xâm phạm, điều này không chỉ bảo vệ lợi ích của các chủ nô, mà còn bảo vệ lợi ích của các nhà tư bản.
Tâm lý "thỏ chết cáo buồn" ai cũng có. Nếu chính phủ Liên bang phá vỡ lỗ hổng này, các nhà tư bản cũng sẽ lo lắng rằng một ngày nào đó chính phủ Liên bang sẽ giáng dao xuống đầu họ.
Lincoln giải thích: "Ý tôi là giải phóng nô lệ ở các bang nổi dậy, các khu vực khác vẫn giữ nguyên."
Bộ trưởng Ngoại giao Seward vẫn lắc đầu. Hiện tại, trong số 16 bang nô lệ của Liên bang, đã có 15 bang gia nhập chính phủ miền Nam, chỉ còn lại Delaware, nơi chế độ nô lệ đã gần như không còn tồn tại.
Hiệu lực của sắc lệnh này có thể tạo ra bao nhiêu ảnh hưởng vẫn là một ẩn số, nhưng tác động tiêu cực của nó thì rất nghiêm trọng.
Biết đâu, người dân miền Nam sẽ cho rằng chính phủ Liên bang muốn tước đoạt toàn bộ tài sản của họ, buộc họ phải chiến đấu đến cùng, thì mọi thứ sẽ thật sự kết thúc.
Ngay cả khi loại trừ nô lệ, họ vẫn còn bảy hoặc tám triệu người, cộng với sự hỗ trợ từ các cường quốc. Nếu họ đoàn kết quyết tâm giành độc lập, chính phủ Liên bang sẽ không bao giờ có cơ hội thống nhất đất nước.
Tổng thống Lincoln bổ sung thêm: "Chúng ta không còn lựa chọn nào khác. Trong quân đội nổi dậy đã xuất hiện một lượng lớn quân đội da đen. Nếu không thể chia rẽ họ, quân nổi dậy sẽ sử dụng những quân cờ này để tiêu hao lực lượng tinh nhuệ của chúng ta.
Theo tôi biết, quân nổi dậy còn ký hiệp ước nhập cư lao động với người Áo, trung bình mỗi năm nhập cư ba trăm nghìn lao động trẻ khỏe.
Họ muốn làm gì? Chỉ có điều là bây giờ những người chủ nô đã phải trả giá cho nền độc lậptương lai họ sẽ dùng những lao động này để bù đắp lại.
Dù sao khi đã đến địa bàn của họ, cuối cùng những người này là lao động hay nô lệ đều do chính họ quyết định."
Đừng nói đến các chủ đồn điền miền Nam, ngay cả các nhà tư bản miền Bắc cũng có người muốn đưa vào một lượng lớn lao động rẻ tiền để khai thác mỏ.
Con người luôn bị hoàn cảnh ép buộc. Chính phủ miền Nam vì thiếu hụt dân số, số lượng quân đội tự nhiên không thể sánh được với chính phủ miền Bắc, nên việc sử dụng nô lệ trong chiến đấu trở thành một lựa chọn.
Bộ trưởng Ngoại giao Seward không tiếp tục phản đối nữa. Theo tình hình hiện tại, nếu muốn giành ưu thế trên chiến trường, cần phải chia rẽ mối quan hệ giữa nô lệ và chủ nô.
Nếu không, quân nổi dậy miền Nam có thể dùng hai hoặc ba nô lệ da đen để đổi lấy một binh sĩ Liên bang, điều này sẽ khiến họ khóc thét.
Đừng nhìn vào việc chiến tranh đang diễn ra ác liệt, nhưng hoạt động của các công ty xuất khẩu lao động chưa bao giờ ngừng lại. Quân nổi dậy có thể chịu đựng được tổn thất.
...
Tháng 9 năm 1862, Tổng thống Lincoln đã đệ trình lên Quốc hội "Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ Da đen". Sau một cuộc tranh luận gay gắt, nhờ sự kiên trì của Tổng thống Lincoln, tuyên ngôn đã được thông qua với lợi thế sít sao.
Nội dung: Quy định rằng kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1863, chế độ nô lệ ở các bang nổi dậy sẽ bị bãi bỏ, và nô lệ sẽ được phép gia nhập quân đội miền Bắc với tư cách là người tự do.
Luật bãi bỏ chế độ nô lệ ngay lập tức gây chấn động nước Mỹ. Các bang miền Nam đã chứng kiến làn sóng nô lệ trốn chạy, và bóng dáng của người da đen bắt đầu xuất hiện tại các điểm tuyển quân của chính phủ miền Bắc.
Thậm chí còn ảnh hưởng đến quân đội của chính phủ Liên minh miền Nam. Để an ủi tinh thần quân đội, chính phủ Liên minh buộc phải trao quyền công dân tự do cho các binh sĩ nô lệ da đen.
Vì sự ban hành của luật bãi nô, chính phủ miền Nam về mặt chính trị đã rơi vào thế bất lợi. Để thay đổi tình hình này, chính phủ Liên minh cũng không ngồi yên.
Theo đề nghị của các đại diện các nước, chính phủ Liên minh miền Nam bắt đầu lôi kéo người da đỏ và hứa hỗ trợ họ giành độc lập và thành lập quốc gia riêng.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro