23
Do hiệu ứng cánh bướm của Franz, mặc dù người Nga chịu tổn thất nặng nề trong cuộc chiến Cận Đông, nhưng họ đã giành được Constantinople mà họ hằng mơ ước. Trước chiến thắng này, các cuộc khủng hoảng trong nước tạm thời bị đè nén.
Sau hai năm nghỉ ngơi và phục hồi, chính phủ Sa hoàng lại bắt đầu không yên phận. Tuy nhiên, vào thời điểm này, hệ thống Vienna đã được tái thiết, trên lục địa châu Âu không còn cơ hội cho họ mở rộng, buộc chính phủ Sa hoàng phải chuyển ánh mắt sang khu vực châu Á.
Vào tháng 10 năm 1856, dưới sự xúi giục của người Nga, triều đại Ba Tư tấn công và chiếm đóng Herat. Bị kích động, người Anh lập tức tuyên chiến với triều đại Ba Tư, dẫn đến cuộc chiến Anh-Ba Tư bùng nổ.
Herat nằm ở vị trí phía tây giáp Vịnh Ba Tư, phía bắc giáp biển Caspian và sông Aras, phía đông giáp sông Ấn, vị trí địa lý đặc biệt này đã quyết định tầm quan trọng chiến lược của nó, trở thành một mắt xích quan trọng trong cuộc tranh bá giữa Anh và Nga trên lục địa châu Á.
Trong thời kỳ chiến tranh Cận Đông, người Nga từng lên kế hoạch xuất quân viễn chinh Ấn Độ để buộc người Anh rút khỏi cuộc chiến, và Herat là một chướng ngại không thể vượt qua.
Khi đó, chính phủ Herat lo sợ sẽ gây hấn với người Anh nên từ chối yêu cầu mượn đường của người Nga, khiến quan hệ hai nước xấu đi.
Để nhổ bỏ cái gai này, chính phủ Sa hoàng chuyển sang ủng hộ triều đại Ba Tư, và giờ đây còn hỗ trợ người Ba Tư xâm lược Herat.
Do ảnh hưởng từ cuộc chiến ở Trung Á, cuộc đàm phán ở Vịnh Guinea cũng xuất hiện bước ngoặt. Để giành được sự ủng hộ từ dư luận quốc tế, chính phủ Anh buộc phải nhượng bộ.
Khi không còn người Anh – kẻ chuyên phá bĩnh – các cuộc đàm phán sau đó trở nên dễ dàng hơn nhiều. Vì tham gia quá muộn, lợi ích của người Pháp ở khu vực này không lớn, chính phủ Paris không dốc sức tranh giành, còn các quốc gia khác thì không đủ thực lực để cạnh tranh.
Ngày 1 tháng 11 năm 1856, bảy nước Anh, Pháp, Áo, Tây Ban Nha, Mỹ, Bồ Đào Nha và Hà Lan ký kết Hiệp ước Vịnh Guinea tại Vienna, còn được gọi là Hiệp ước Bảy Nước.
Hiệp ước quy định vùng duyên hải Vịnh Guinea được phân chia dựa trên các khu vực chiếm đóng thực tế của từng nước, các cứ điểm thuộc địa không được phép tấn công lẫn nhau, còn các mỏ vàng ở nội địa thì ai phát hiện trước thuộc về người đó.
Bề ngoài, không ai chịu thiệt, nhưng thực tế, điều này đã xác lập quyền bá chủ của Áo ở khu vực. Với lợi thế về nhân lực, Áo chiếm ưu thế tuyệt đối.
Mỹ, Tây Ban Nha và Pháp cùng chiếm giữ Liberia; Áo, Anh và Bồ Đào Nha cùng chiếm Sierra Leone; Áo, Bồ Đào Nha, Pháp và Hà Lan cùng chiếm giữ Bờ Biển Ngà; Áo, Anh và Hà Lan cùng chiếm Ghana; Anh và Áo cùng chiếm Togo; còn Áo độc chiếm Guinea.
Thế lực của các quốc gia ở Vịnh Guinea đan xen lẫn nhau, biến nơi đây thành khu vực hỗn loạn nhất thế giới. Hiệp ước Bảy Nước chỉ tạm thời kìm nén mâu thuẫn giữa các nước, chứ không thể xóa bỏ chúng.
Nhìn bản đồ phân bố thế lực của các quốc gia, Franz không biết nói gì hơn. Các thế lực đan xen như răng chó, chẳng hạn như ở Togo, người Anh chỉ có một cứ điểm vài trăm người, nhưng họ cứ bám trụ không chịu rời đi.
Không còn cách nào khác, thời đại này Đế quốc Anh quá mạnh trên biển. Dù Áo có lợi thế ở khu vực, họ cũng không thể trục xuất người Anh ra ngoài.
Franz không cảm thấy bất bình. Ngoại giao nằm trong tầm bắn của đại bác, trên danh nghĩa không thể động vào thuộc địa của Anh, nhưng chẳng lẽ âm thầm ra tay thì không được sao?
Đừng thấy các thế lực ở Vịnh Guinea hiện giờ đan xen phức tạp mà nghĩ rằng các nước tranh giành quyết liệt. Thực tế, đó chỉ là do người Anh phát huy vai trò kẻ phá bĩnh, không muốn Áo độc bá Vịnh Guinea nên kéo thêm nhiều quốc gia vào để kiềm chế Áo.
Nếu không có sự hiện diện của nhiều quốc gia như vậy, chỉ dựa vào thực lực của Anh ở khu vực, khả năng bị đẩy ra khỏi Vịnh Guinea là rất cao. Lợi thế của họ nằm trên biển, còn lên đất liền thì không đủ sức.
Trừ khi co cụm trong các cứ điểm thuộc địa không ra ngoài, nếu không, một khi tiến hành hoạt động thuộc địaở bên ngoài, họ có thể gặp nguy hiểm. Đây là lục địa châu Phi, xảy ra chút tai nạn là chuyện quá bình thường.
Để tránh tình huống này, chính phủ London mới lôi kéo các nước cùng phân chia Vịnh Guinea. Dù sao Áo đã lấy được phần lợi lớn nhất, Franz đương nhiên không đẩy mọi chuyện đến đường cùng.
Đừng thấy thực lực của các nước ở đây không mạnh mà nghĩ rằng có thể xem nhẹ. Điều đó cũng đại diện cho thể diện của họ. Nếu trực tiếp trục xuất họ, Áo cũng không cần lăn lộn trên trường quốc tế nữa.
Metternich nói: "Thưa bệ hạ, cuộc chiến Anh-Ba Tư đã bùng nổ, người Nga hy vọng chúng ta có thể ủng hộ hành động của họ."
Phải ủng hộ, chắc chắn phải ủng hộ! Ít nhất là trên mặt nổi phải tỏ thái độ ủng hộ. Dù người Nga có bất an đến đâu, chỉ cần họ không gây rối ở lục địa châu Âu, Franz đều không quan tâm.
Vốn dĩ cuộc đàm phán Tây Phi đã rơi vào bế tắc, người Anh với lợi thế hải quân không đời nào chịu thua dễ dàng. Nhưng người Nga vừa ra tay, họ lập tức nhượng bộ.
Hiện tại là thời điểm quan trọng để người Anh củng cố thuộc địa Ấn Độ. Việc người Nga xúi giục Ba Tư chiếm Herat, động cơ còn cần nghi ngờ sao nổi?
Không còn người Pháp làm tay sai, trên đất liền có thể đối đầu với Nga thì không nhiều. Dù chiếm lợi thế ra tay trước, chính phủ London từ trên xuống dưới cũng không dám xem nhẹ.
Franz suy nghĩ một lúc rồi nói: "Chính phủ Sa hoàng muốn gây khó dễ cho người Anh, vừa hay tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng ở hải ngoại. Họ muốn sự ủng hộ kiểu gì?"
Metternich bình tĩnh đáp: "Ngoài sự ủng hộ ngoại giao, họ còn muốn vay một khoản tiền."
Lại là "khoản vay". Franz hiểu tại sao liên minh Đức-Nga trong lịch sử lại tan rã. Không phải chính phủ Wilhelm II ngu ngốc, mà thực sự là họ không nuôi nổi người Nga.
Đừng thấy Đế quốc Đức II lúc đó phát triển rất tốt, tưởng chừng rất giàu có, nhưng thực tế, là một đế quốc mới nổi, họ không có nhiều vốn tích lũy.
Tốc độ phát triển kinh tế có nhanh đến đâu cũng không thay đổi được việc họ thiếu tiền. Trong thời đại bản vị vàng, đối thủ cạnh tranh là người Anh kiểm soát phần lớn vàng trên thế giới, chính phủ Đức muốn mở rộng tiền tệ cũng phải cẩn thận từng li từng tí.
Quy mô kinh tế trên thị trường tuy lớn, nhưng kho dự trữ của chính phủ không đủ. Tiền phát hành chỉ đủ đáp ứng nhu cầu trong nước đã là tốt lắm rồi, làm gì có nhiều tiền để cho Nga vay?
Để kiềm chế người Anh, Franz quyết định chấp nhận. Suy nghĩ một lúc, ông nói: "Bộ Ngoại giao cứ đàm phán với người Nga. Nếu số tiền vay nhỏ thì có thể đồng ý, nhưng phải có tài sản thế chấp."
Khoản vay khổng lồ là không thể, chính phủ Vienna cũng không dư dả. Dù có giới hạn điều kiện sử dụng khoản vay, cũng không được.
Tăng phát tiền tệ một cách mù quáng là điều Franz không dám làm liều. Dù có đủ dự trữ vàng cũng không được, vì lượng tiền lớn đổ vào thị trường sẽ gây lạm phát. Dù không giỏi kinh tế, chút kiến thức cơ bản này ông vẫn biết.
Metternich giải thích: "Thưa bệ hạ, trong cuộc chiến này, chính phủ Sa hoàng có lẽ sẽ không trực tiếp tham chiến, nên lỗ hổng tài chính của họ không quá lớn.
Chiến thắng trong cuộc chiến Cận Đông tuy khiến nhiều người trong chính phủ Sa hoàng tự mãn, nhưng cũng có không ít người sáng suốt nhận ra thực lực của mình. Họ muốn thúc đẩy cải cách chế độ nông nô và đã nhận được sự ủng hộ của Nicholas I.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Nicholas I từng định ban thân phận tự do cho tất cả binh sĩ, nhưng bị các quý tộc lấy lý do thiếu tiền bồi thường, cùng nhau phản đối và đẩy lùi kế hoạch.
Hiện tại, phái cải cách và phái bảo thủ đang đấu đá kịch liệt, chính phủ Sa hoàng trong ngắn hạn khó mà tập trung sức lực để mở rộng ra bên ngoài."
Franz lo lắng hỏi: "Chính phủ Sa hoàng có khả năng lợi dụng cơ hội chiến tranh để đánh lạc hướng dư luận trong nước, thực hiện cải cách chế độ nông nô không?"
Sau một lúc trầm ngâm, Metternich trả lời: "Thưa bệ hạ, điều này gần như không thể. Tài chính của chính phủ Sa hoàng hiện rất khó khăn, họ không thể huy động đủ kinh phí cho chiến tranh.
Ấn Độ là thuộc địa quan trọng nhất của người Anh, chính phủ London không thể dễ dàng từ bỏ. Một khi cuộc chiến này bùng nổ, nó sẽ kéo dài lê thê.
Chính phủ Sa hoàng không thể không biết điều này. Hành động hiện tại của họ chẳng qua là gây rối cho người Anh, trì hoãn thời gian người Anh thôn tính Ấn Độ."
Rõ ràng, chính phủ Sa hoàng cũng hiểu rõ sức mạnh của người Anh. Là đối thủ cạnh tranh lớn nhất, nếu không kéo chân sau, còn xứng đáng là kẻ thù sao nổi?
Phát động chiến tranh ủy nhiệm là một lựa chọn không tồi. Thành công thì đại thắng, thất bại cũng chẳng sao, chuyện bán đứng đồng minh thì chính phủ Sa hoàng rất có kinh nghiệm
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro