Tính đến cuối năm 1860, tổng dân số của Hoa Kỳ đã đạt 31,6 triệu người. Trong đó, dân số các bang miền Bắc tự do khoảng 18,7 triệu người, còn dân số các bang miền Nam giữ nô lệ là 12,9 triệu người, trong đó có tới 5 triệu nô lệ.
Hiệu ứng cánh bướm của Franz vẫn phát huy tác dụng, sự cân bằng sức mạnh giữa hai miền Nam và Bắc có chút thay đổi, nhưng vẫn chưa thể đảo ngược tình thế Bắc mạnh Nam yếu.
Trong đại sứ quán Áo tại Washington, đại diện của bốn nước Anh, Pháp, Áo và Tây Ban Nha tụ họp. Đại sứ Áo tại Mỹ, Druck, mở lời trước: "Hôm nay mời mọi người đến đây là để thảo luận về vấn đề độc lập của miền Nam.
Trong thời điểm biến động này, chúng ta cần duy trì sự nhất quán để bảo vệ tốt hơn lợi ích của tất cả."
Không biết từ khi nào, mọi người đã nhận ra lợi ích của nguyên tắc "liên minh các cường quốc." Thông thường, chỉ cần làm theo cách này, tất cả đều có thể kiếm được lợi nhuận khổng lồ.
Mọi người chìm vào suy tư, dường như đang cân nhắc xem lợi ích khi hợp tác lớn hơn hay tự hành động sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn.
Về vấn đề bãi bỏ chế độ nô lệ, điều này hoàn toàn không nằm trong phạm vi cân nhắc của họ. Đừng nhìn khẩu hiệu "bãi nô" mà các nước châu Âu hô hào rầm rộ, thực tế thì ai cũng chỉ đứng ngoài xem kịch vui.
Những năm gần đây, tốc độ bành trướng của Hoa Kỳ giống như một quả bóng đang phồng lên, khiến nhiều người lo ngại. "Luận điệu đe dọa từ Mỹ" trở thành chủ đề nóng ở châu Âu.
Để thu hút người di cư, chiến dịch tuyên truyền của Mỹ, dưới sự dẫn dắt của những kẻ có ý đồ, đã trở thành bằng chứng cho "mối đe dọa từ Mỹ."
Do giao tiếp khó khăn, ảnh hưởng bất lợi từ dư luận mà chính phủ Mỹ không thể kiểm soát. Mỗi lần cố gắng định hướng dư luận, họ lại bị bắt thóp và rơi vào tình thế lúng túng.
Đại diện Anh, Mark Oliver, lên tiếng: "Bốn nước chúng ta đều có quan hệ thương mại khổng lồ với Hoa Kỳ. Một châu Mỹ ổn định sẽ phù hợp hơn với lợi ích của chúng ta.
Chúng ta cùng can thiệp để tránh nội chiến Mỹ bùng nổ, điều này sẽ góp phần duy trì hòa bình và ổn định thế giới."
Thái độ của người Anh không gây ngạc nhiên. Đế quốc Anh không thể thiếu nguồn cung cấp nguyên liệu công nghiệp giá rẻ từ Mỹ, đặc biệt là bông.
Không chỉ người Anh, Pháp, Áo và Tây Ban Nha đều là những nước nhập khẩu bông lớn. Ngay cả khi bông ở Tây Phi được mùa, Áo cũng chỉ đủ đáp ứng nhu cầu trong nước.
Đại diện Tây Ban Nha, Francisco, bổ sung: "Để duy trì hòa bình thế giới, việc chia cắt Hoa Kỳ là điều cần thiết.
Từ năm 1783 đến nay, diện tích lãnh thổ của Hoa Kỳ đã tăng từ hơn 800.000 km² lên gần 8 triệu km². Nếu không kiềm chế, chẳng bao lâu toàn bộ châu Mỹ sẽ bị họ dần nuốt trọn.
Mọi người đều hiểu rõ tiềm năng phát triển của quốc gia này. Với tốc độ phát triển hiện tại, chỉ cần năm mươi năm nữa, họ sẽ đuổi kịp châu Âu và vượt qua chúng ta nhờ quy mô khổng lồ của mình.
Hãy nhớ rằng, tổng diện tích lãnh thổ của bốn nước chúng ta cộng lại chưa bằng một phần ba của Hoa Kỳ. Họ hầu như không thiếu tài nguyên gì, muốn hạn chế họ cũng không biết bắt đầu từ đâu.
Đây là cơ hội duy nhất. Nếu để Hoa Kỳ giải quyết xong vấn đề nội bộ, vị trí bá chủ thế giới tương lai sẽ thuộc về họ."
Lời nói của Francisco gần như là phiên bản sao của "luận điệu đe dọa từ Mỹ." Cùng với sự phát triển của Hoa Kỳ, những năm gần đây họ không ngừng mở rộng ra bên ngoài, và Tây Ban Nha là nạn nhân lớn nhất.
Đặc biệt là khi người Mỹ đưa tay vào Cuba, âm mưu chiếm thêm một thuộc địa của Tây Ban Nha, càng làm dấy lên lòng thù địch của người Tây Ban Nha.
Phong trào mở rộng của Mỹ, ngoại trừ việc ít ảnh hưởng đến Áo, thì Anh và Pháp đều là những bên bị thiệt hại. Người Pháp bị ép bán vùng Louisiana, còn người Anh mất nhiều lãnh thổ hơn.
Đại diện Pháp, Alfred, mỉa mai: "Điều này có phải quá khoa trương không? Hoa Kỳ có thể trở thành bá chủ thế giới sao?"
Đại sứ Áo, Druck, cười nói: "Ai mà biết được? Nhưng tốc độ phát triển của người Mỹ những năm qua là điều không thể phủ nhận. Họ đang không ngừng hút máu châu Âu.
Mọi người muốn đưa người di cư đến thuộc địa, nhưng bị Mỹ cướp mất không ít chứ? Mỗi năm có hàng trăm ngàn người châu Âu di cư sang Mỹ, điều này có nghĩa gì, chắc hẳn ai cũng rõ!
Nếu chính quyền miền Bắc thành công, họ sẽ sở hữu nguồn tài nguyên phong phú nhất thế giới, nguyên liệu công nghiệp rẻ nhất, và một lượng lớn lao động. Họ sẽ nhanh chóng hoàn thành công nghiệp hóa.
Trên thị trường hàng hóa, chúng ta lại có thêm một đối thủ cạnh tranh. Có lẽ chẳng bao lâu nữa, khu vực châu Mỹ sẽ ngập tràn sản phẩm của Mỹ.
Vốn không có biên giới, có lẽ nhiều nhà tư bản đã bắt đầu cân nhắc chuyển đến Mỹ. Nếu những người này cũng chuyển sang, thì lợi thế về công nghệ của chúng ta cũng sẽ không còn.
Hãy nhớ rằng, họ còn kiểm soát nguồn nguyên liệu công nghiệp của chúng ta, ví dụ như bông.
Dù chúng ta tìm được nguồn nguyên liệu mới, thì chi phí sản xuất cũng khó có thể thấp hơn Mỹ. Việc các nhà tư bản xây dựng nhà máy ở Mỹ là điều hoàn toàn hợp lý."
Lời của Druck rõ ràng có ý ám chỉ. Những người ngồi đây đều thuộc tầng lớp thống trị của các nước, là những người hưởng lợi, không ai muốn thấy lợi ích quốc gia của mình bị tổn hại.
Mark Oliver sắc mặt thay đổi. Ông dám chắc nếu lần này ông không làm gì, khi trở về nước, ông sẽ bị trả thù bởi các nhà tư bản trong nước.
Việc nhà tư bản di cư sang Mỹ? Thực tế, đây chỉ là đặc quyền của các nhà tư bản lớn và tập đoàn tài chính. Các nhà tư bản nhỏ và vừa chạy đến một nơi xa lạ, nếu không bị nuốt chửng sạch thì đã là may mắn.
Sự thật về vốn không biên giới chỉ có thể thực hiện khi trật tự được thiết lập và mọi người đều chú ý đến hình thức.
Mục đích của Druck vẫn là nhắc nhở mọi người giữ đúng lập trường, đừng vì nhận tiền của chính quyền miền Bắc mà nghiêng về phía Mỹ.
Bình tĩnh lại, Mark Oliver cười nói: "Hoa Kỳ quả thực quá mạnh mẽ, vẫn nên làm yếu đi một chút.
Tôi nhớ rằng trong Tuyên ngôn Độc lập, các bang liên bang Hoa Kỳ có quyền rút lui. Giờ đây, khi bảy bang miền Nam đã độc lập, chúng ta hãy công nhận địa vị của họ!"
Đây mới là điểm chí mạng. Một khi các nước châu Âu công nhận địa vị độc lập của chính quyền miền Nam, cuộc Nội chiến Mỹ sẽ không còn là nội chiến Mỹ, mà là cuộc chiến giữa hai quốc gia độc lập.
Về mặt chính trị, đây là một đòn chí mạng đối với chính quyền miền Bắc. Khi địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam được xác lập, các nước sẽ dễ dàng tìm cớ can thiệp vào cuộc chiến này.
Nếu mọi người đồng ý, chỉ cần chính quyền miền Nam gửi một lời mời, tất cả có thể can thiệp quân sự để "điều đình hòa bình."
Kế hoạch của chính quyền miền Bắc dùng vấn đề bãi nô để tạo áp lực dư luận, cắt đứt sự hỗ trợ của các nước châu Âu cho chính quyền miền Nam, đã thất bại ngay từ đầu.
Quyết định của người Anh còn liên quan đến vấn đề Canada. Sự mở rộng liên tục của Mỹ khiến người Anh từ lâu đã không hài lòng. Sau Chiến tranh Độc lập, xung đột Anh-Mỹ chưa bao giờ dừng lại.
Năm 1812, cựu Tổng thống Jefferson đã tuyên bố hùng hồn: "Năm nay chúng ta sẽ sáp nhập vùng Canada... và cuối cùng sẽ đẩy lực lượng Anh ra khỏi châu Mỹ!"
Ngay sau đó, người Mỹ tấn công vào vùng Canada, âm mưu độc chiếm châu Mỹ.
Giận dữ, "chú bò John" (Anh) ngay lập tức hành động quân sự, khiến người Mỹ cảm nhận được thế nào là nắm đấm sắt của Đế quốc Anh. Trên chiến trường, người Mỹ bị đánh tơi tả, thậm chí Nhà Trắng cũng bị thiêu rụi.
Thời gian là vũ khí tốt nhất. Nỗi sợ hãi từ người Anh dần bị người Mỹ lãng quên. Năm 1844, khẩu hiệu tranh cử của Tổng thống thứ mười một James Polk là: "(Anh) hoặc là giao Oregon, hoặc là chiến tranh!"
Lúc này, Hoa Kỳ đã không còn yếu đuối, không còn dễ bị đánh bại.
Sau khi cân nhắc lợi hại, chính phủ London đã nhượng bộ và từ bỏ vùng Oregon, nhưng nỗi uất hận này vẫn còn đó.
Uất hận có thể kìm nén, nhưng mối đe dọa từ Mỹ thì người Anh đã cảm nhận rõ. Chỉ là các nhà tư bản vì lợi ích cá nhân đã gây áp lực lên Quốc hội, hòa giải mâu thuẫn Anh-Mỹ.
Dù sao đi nữa, thù vẫn là thù. Mark Oliver phát hiện ra lập trường chống Mỹ của Áo và Tây Ban Nha, liền quyết định giáng một đòn mạnh vào người Mỹ.
Đại diện Pháp, Alfred, phản đối: "Can thiệp trực tiếp vào nội chính Mỹ không tốt lắm đâu. Dư luận châu Âu đều ủng hộ việc bãi nô, chúng ta làm vậy rất dễ gây rắc rối."
Lợi ích quyết định lập trường. Người Pháp ở Bắc Mỹ đã không còn nhiều lợi ích, họ tự nhiên không quan tâm đến việc Mỹ lớn mạnh. Dù sao, khi Mỹ lớn mạnh, người chịu ảnh hưởng đầu tiên sẽ là người Anh.
Đại diện Áo, Druck, nghiêm nghị giải thích: "Đây chỉ là vấn đề nhỏ. Chính quyền miền Nam cũng có thể bãi bỏ chế độ nô lệ. Hiện tại, họ đang bảo vệ quyền tài sản cá nhân không thể xâm phạm.
Việc rút khỏi Liên bang Hoa Kỳ hoàn toàn là hành động hợp pháp. Hiến pháp Hoa Kỳ không cấm các bang rút lui, chúng ta phải tôn trọng tinh thần hợp đồng!
Nói trắng ra, nguyên nhân chính của mâu thuẫn Nam-Bắc là vấn đề thuế quan. Chính sách tăng thuế quan của chính quyền miền Bắc đã nghiêm trọng vi phạm nguyên tắc công bằng thương mại!"
Công bằng thương mại là giả, nhưng thiệt hại lợi ích của mọi người là thật. Một khi người Mỹ tăng thuế quan, mọi người không chỉ mất đi nguồn nguyên liệu giá rẻ mà còn mất luôn một thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Ngay cả người Pháp, dù ủng hộ Mỹ để gây rối cho Anh, cũng phải thừa nhận rằng chính sách của chính quyền miền Bắc đã làm tổn hại đến lợi ích của họ.
Đây cũng là lý do tại sao chính sách của chính phủ Pháp đối với Mỹ thường xuyên thay đổi. Nhiều lúc, ngay cả họ cũng không biết phải làm gì.
Đại diện Pháp, Alfred, hỏi với vẻ không tin: "Ngài không đùa chứ, chính quyền miền Nam sẽ bãi bỏ chế độ nô lệ sao?"
Sau chiến dịch tuyên truyền của chính quyền miền Bắc, trong mắt nhiều người, chính quyền miền Nam là những kẻ buôn nô lệ xấu xa. Chủ đồn điền vốn dựa vào bóc lột nô lệ để kiếm lợi, làm sao có thể từ bỏ nguồn tài chính này?
Druck tự tin trả lời: "Không có gì là không thể. Chủ đồn điền cũng có thể học theo mô hình kinh doanh của các nhà tư bản.
Trên thế giới này, có không ít nhà tư bản đen tối chỉ trả lương ít ỏi, thậm chí không trả lương.
Danh nghĩa là trao cho nô lệ tự do, nhưng thực tế mức lương họ trả cũng chỉ đủ để những người này sinh tồn.
Nếu già yếu hoặc bệnh tật, họ sẽ bị đuổi ra ngoài để tự sinh tự diệt. Chuyển sang một hình thức khác, liệu chi phí có thực sự tăng lên?
Chủ đồn điền lo lắng rằng sau khi nô lệ được tự do, họ sẽ rời đi. Vấn đề này có thể giải quyết bằng hợp đồng lao động."
Lời của Druck phản ánh thực tế xã hội thời đại này. Các nước châu Âu đều như vậy. Danh nghĩa là đã bãi bỏ chế độ nông nô, nhưng đời sống của tầng lớp dân chúng dưới đáy xã hội không cải thiện bao nhiêu.
Bề ngoài, khi trở thành công nhân, mọi người nhận được lương và mức sống tăng lên. Thực tế, điều này là kết quả của việc tăng khối lượng lao động.
Gặp khủng hoảng kinh tế, nói thất nghiệp là thất nghiệp. Công nhân bị bệnh không thể chữa, chữa thì gia đình tan nát, không có chút an toàn nào.
Mark Oliver tán thành: "Đúng vậy, xét về chi phí, thay đổi phương thức sử dụng lao động cũng là lựa chọn không tồi. Công ty xuất khẩu lao động của Mỹ có rất nhiều, chủ đồn điền sẽ không thiếu lao động.
Là người dẫn đầu thế giới văn minh, chúng ta có trách nhiệm giúp chính quyền miền Nam dần bãi bỏ chế độ nô lệ xấu xa, gia nhập đại gia đình xã hội văn minh."
Sau khi giải quyết vấn đề chế độ nô lệ, đại diện Pháp cũng không còn phản đối. Chính quyền miền Nam có bãi bỏ chế độ nô lệ hay không không quan trọng, miễn là họ tỏ ra có ý định bãi bỏ.
Đại diện Tây Ban Nha đề xuất: "Để sớm bãi bỏ chế độ nô lệ xấu xa, vì hòa bình và ổn định thế giới, bây giờ chúng ta cần thuyết phục thêm nhiều bang giữ nô lệ gia nhập chính quyền miền Nam."
Rõ ràng là để cân bằng sức mạnh giữa hai miền Nam-Bắc, nhưng qua miệng các chính trị gia, điều này trở nên đường hoàng.
Liệu chính quyền miền Nam có chấp nhận "lòng tốt" của mọi người hay không? Điều này không cần phải cân nhắc, họ buộc phải chấp nhận.
Đây chỉ là một động thái chính trị, không phải hành động ngay lập tức. Chỉ cần diễn một màn kịch, họ có thể được quốc tế công nhận, ai dám từ chối chứ?
Đại diện Pháp, Alfred, nói: "Đây là một đề xuất không tồi. Pháp sẵn sàng giúp những nô lệ này giành được tự do."
...
Ngày 11 tháng 2 năm 1861, bất chấp sự phản đối của chính quyền miền Bắc, bốn nước Anh, Pháp, Áo và Tây Ban Nha đã cùng phát hành thông cáo ngoại giao, công nhận độc lập của chính quyền miền Nam và thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro