112
Kỳ vọng vào việc người dân châu Phi chống lại quân xâm lược Anh là điều hoàn toàn không thực tế. Nếu họ thực sự có sức mạnh chiến đấu như vậy, thời đại thuộc địa đã kết thúc từ lâu rồi.
Tuy nhiên, việc tạo ra những trở ngại vẫn cần thiết. Dù hiệu quả đến đâu, ít nhất nó có thể làm chậm đà bành trướng của người Anh.
Mọi đế quốc đều có giới hạn mở rộng, và Đế quốc Anh – cường quốc thuộc địa số một thế giới – cũng không ngoại lệ.
**Dân số là điểm yếu chí tử.** Tổng cộng các đảo Anh chỉ có khoảng ba mươi triệu người. Trong bốn cường quốc châu Âu, Anh xếp cuối. Khi Pháp và Áo hoàn thành công nghiệp hóa, cán cân sức mạnh đang thay đổi chóng mặt.
Chưa cần đợi đến thế kỷ XX, ngay lúc này, quy mô kinh tế nội địa của Anh đã tụt xuống thứ ba châu Âu, thứ năm toàn cầu.
Dẫu vậy, họ vẫn là quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới. Ở thời đại mà nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, việc Anh đứng sau Ấn Độ về tổng sản lượng là điều dễ hiểu.
Không có gì đáng ngạc nhiên – đông dân chưa chắc đã mạnh, ít nhất là về tổng sản lượng kinh tế.
Đáng tiếc, tổng sản lượng không đồng nghĩa với quốc lực. Sức mạnh quốc gia được quyết định bởi công nghiệp, và Đế quốc Anh vẫn là đế chế hùng mạnh nhất.
Nhưng trong công cuộc mở rộng lãnh thổ, họ gặp bất lợi lớn: dân số Anh chưa bằng hai phần ba Pháp (kể cả Sarđin), chưa đến một nửa Áo (kể cả Balkan). Trong đó, hàng triệu người Ireland ly khai luôn nuôi mộng độc lập.
Dân số ít ỏi lại phải quản lý khối thuộc địa khổng lồ – trung bình mỗi người Anh "được" hưởng hơn 1 km² đất thuộc địa.
Sau cuộc Chiến tranh Cận Đông, chính phủ London né tránh xung đột châu Âu là điều dễ hiểu.
Duy trì đế chế thuộc địa không hề dễ dàng. Hàng năm, hàng nghìn thực dân bỏ mạng. Nếu tiếp tục tham chiến, người Anh sẽ kiệt sức.
Đó chính là cơ hội trong mắt Franz – gây rối cho Anh tại thuộc địa. Dù bề ngoài không mấy ấn tượng, nhưng tích tiểu thành đại, dần bào mòn nhân lực của họ.
Chiến tranh Ethiopia lần này là dịp tốt. Chỉ cần khiến Anh tổn thất hàng chục nghìn quân, Franz đã mãn nguyện.
Thắng Anh ư? Không thể. Quân đội Anh không phải quân Ý – trò cười thế kỷ này họ không dám lặp lại.
...
Trên đường quân Anh tiến vào Ethiopia, Hội nghị London đã thay đổi. Cách ngoại giao của Nga thực sự không thể khen nổi.
Thụy Điển ủng hộ họ, nhưng không phải nhờ Nga, mà nhờ vai trò của Vương quốc Đan Mạch.
"Giúp người thân hơn giúp lẽ phải" – Đan Mạch sắp gia nhập Liên bang Bắc Âu, và Thụy Điển, với tư cách lãnh đạo, buộc phải chiều lòng họ.
Từ nay, Vương quốc Phổ Đôn có thêm kẻ thù tiềm tàng: Liên bang Bắc Âu sắp thành hình.
Dù vậy, mối đe dọa này không lớn. Đan Mạch không chiếm ưu thế trong chính phủ mới, chỉ là sự thù địch chưa đủ để dẫn đến chiến tranh.
Đế chế Liên bang Đức cảm nhận được mối nguy từ Phổ Đôn, nhưng vô ích. Nga không thể tranh thủ sự ủng hộ của họ, đành chọn trung lập.
Các quốc gia còn lại không cần bàn – Thụy Sĩ trung lập vĩnh viễn, còn lại đều đứng về Phổ Đôn.
Quên mất, Công quốc Montenegro và Hy Lạp cũng ủng hộ Nga. Montenegro luôn được Nga hậu thuẫn, còn Hy Lạp chỉ muốn dựa vào cường quốc.
Phổ Đôn ở xa, đắc tội cũng chẳng sao. Còn Nga gần ngay trước mắt, Hy Lạp không dám đụng vào.
Về số lượng ủng hộ, Nga không chỉ thua về số lượng mà còn kém cả về tầm ảnh hưởng.
Để Nga không thua quá thảm, Wesenberg buộc phải đề xuất giảm số lượng đại biểu đàm phán.
Ngoại trừ ba nước trung gian Anh-Pháp-Áo, chỉ quốc gia tham chiến được tham dự. Các đại biểu khác phải ngồi hàng ghế khán giả.
May sao, đại biểu Nga – Clarence Ivanov – tỏ ra khôn ngoan. Ông nhanh chóng ký hiệp định đình chiến với Bốn nước Trung Á và Đế chế Phương Đông.
Uy danh nước Nga vẫn còn. Sau khi đạt được lợi ích, các nước này im lặng. Còn đồng minh Phổ Đôn ư? Xin lỗi, họ chưa từng liên minh, nên không có nghĩa vụ gì.
Thấy tình thế bất lợi, Đế chế Ottoman cũng rút lui. Nga từ bỏ lãnh thổ chiếm được ở Caucasus từ cuộc chiến trước và nhượng thêm đất, chấm dứt chiến tranh. (Ghi chú: Khu vực Georgia ngày nay)
Đến tháng 7, chỉ còn Phổ Đôn và Ba Lan. Khác với sự nhượng bộ ở các mặt trận khác, Nga tỏ ra cứng rắn ở Đông Âu.
Trước hết, họ phủ nhận khái niệm "khu vực Ba Lan". Việc trao trả Litva và một phần Belarus đã là giới hạn của Sa hoàng.
Nhưng Phổ Đôn muốn Latvia. Họ không đòi Estonia vì nơi này quá gần Saint Petersburg, Berlin cũng sợ kích động Nga.
Ba Lan đòi toàn bộ Belarus – vùng đất đã thỏa thuận chia cắt với Phổ Đôn.
Đại diện Ba Lan còn đòi cả vùng Volyn thuộc Ukraina, kéo dài đến Kiev. Không có Lviv – vùng Tây Ukraina này thuộc về Áo.
Tất cả vùng đất bị đòi đều trù phú. Điều này Sa hoàng không thể chấp nhận.
Nếu đồng ý, Đế quốc Nga sẽ mất 860.000 km², 21 triệu dân và 30% công nghiệp.
Hơn nữa, họ sẽ đánh mất lợi thế dân số so với Áo – khi Trung Á đã độc lập, Caucasus và Viễn Đông đã trả giá.
Mất đất đồng nghĩa giảm dân. May mà các vùng này thưa thớt, trừ Trung Á có 5-6 triệu, còn lại chỉ 1-2 triệu.
Đông Âu khác hẳn – đây là lõi của Đế quốc Nga. Sa hoàng không dễ dàng từ bỏ.
Hội nghị lại bế tắc. Đại biểu Anh-Pháp-Áo họp kín. Không có gì phải ngại – họ đều muốn làm suy yếu Nga.
Nga quá lớn. Nếu hoàn thành công nghiệp hóa, lợi ích của các cường quốc đều bị đe dọa.
Tuy nhiên, Pháp và Áo không muốn Phổ Đôn mạnh lên. Trái lại, Anh tin rằng Phổ Đôn sẽ gây rắc rối cho Pháp và Áo.
Pháp muốn ủng hộ Ba Lan, Áo lại phản đối.
"Đâu dễ để kẻ khác nằm gần trướng mình".
Để kiềm chế Ba Lan, Áo sẵn sàng ủng hộ Phổ Đôn chiếm Litva, chặn đường ra biển của Ba Lan.
Đây là cách tạo mâu thuẫn. Vấn đề cảng biển không giải quyết được, quan hệ Phổ Đôn-Ba Lan sớm muộn sẽ đổ vỡ.
Họ có thể đổi đất. Nhưng điều này càng không tưởng – Ba Lan đâu dại đổi Warsaw lấy một cảng biển?
Phổ Đôn không thể chiến đấu vất vả mà không thu được lợi ích. Mở rộng lãnh thổ là tất yếu, Litva trở thành lựa chọn duy nhất.
Mâu thuẫn giữa Anh-Pháp-Áo khiến đàm phán thêm phức tạp.
Mùa hè đến, mùi thuốc súng lại đậm đặc ở Đông Âu. Nếu không đạt thỏa thuận, chiến tranh sẽ tái diễn.
Dù Phổ Đôn chiếm ưu thế trên chiến trường, họ đã cạn tiền. Nếu chiến tranh tiếp diễn, người trả tiền vẫn là Anh.
Chính phủ London không phải kẻ ngốc. Họ tính toán kỹ lưỡng. Mục tiêu làm suy yếu Nga đã đạt, tiếp tục đánh sập Nga cũng chẳng được lợi bao nhiêu.
Dù Nga và Áo là đồng minh, nhưng khi suy yếu, đồng minh cũng đáng sợ. Nếu Phổ Đôn may mắn thắng thêm trận lớn, Sa hoàng sụp đổ, ai biết Áo có thừa cơ đánh úp?
Người Anh khôn ngoan không bao giờ bỏ tiền cho đối thủ hưởng lợi.
Hơn nữa, họ đã cho Phổ Đôn và Ba Lan vay quá nhiều. Nợ tăng liên tục, nguy cơ thành nợ xấu ngày càng cao.
Muốn kết thúc chiến tranh, trước hết Anh-Pháp-Áo phải thống nhất. Bằng không, họ sẽ tiếp tục chọc ghẹo nhau, châm ngòi lửa chiến tranh.
Vì đồng bảng Anh, Reslin phải thuyết phục Pháp và Áo cùng gây áp lực, chấm dứt chiến tranh.
Không chỉ Anh lo lắng, Pháp và Áo cũng vậy. Tất cả đều là chủ nợ. Anh-Pháp chủ yếu cho Phổ Đôn và Ba Lan vay, còn Áo cho Nga vay.
Hiện tại, Anh cho vay nhiều nhất – 320 triệu bảng; Áo theo sau với 240 triệu; Pháp ít nhất – 120 triệu.
Dù muốn hay không, cuộc chiến này là cuộc chơi của các thế lực tài chính. Những kẻ thao túng bóng tối đều là người chiến thắng.
Nếu các khoản nợ này chết, họ vẫn có cách thu hồi vốn từ nơi khác. Dĩ nhiên, không ai muốn điều đó.
Tại sao phải biến khoản vay thành nợ chết khi có thể thu hồi?
Dù có nhiều tài sản thế chấp, nếu xảy ra biến cố, chúng có thể trở thành giấy lộn.
Lấy Ba Lan làm ví dụ – nếu chính phủ họ sụp đổ, Anh-Pháp đòi tiền ai?
Trái lại, Áo có lợi thế – nếu cần, họ có thể chiếm một phần đất để bù đắp.
Pháp cũng có thể nhắm đến vùng Rhineland – dù sao, đòi nợ là lý do chính đáng.
Anh thì thảm hơn. Dù người khác dám cắt đất, họ có dám nhận không?
Các khoản thuế, mỏ khoáng, quyền đường sắt thế chấp chỉ có giá trị khi chính quyền con nợ ổn định.
Điều này có nghĩa sau chiến tranh, họ phải tiếp tục cho Phổ Đôn và Ba Lan vay. Bằng không, hai chính phủ nghèo này hoặc phá sản, hoặc sụp đổ vì khủng hoảng tài chính.
Dĩ nhiên, rủi ro càng cao, lợi nhuận càng lớn. Trong cuộc chiến này, Anh đã thắng lớn.
Họ không chỉ khẳng định vị thế bá chủ thế giới, thu vài chư hầu, bảo vệ an toàn cho Ấn Độ, mà còn hoàn thành bố cục chiến lược tại lục địa Á-Âu.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro