Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

chương 5: ngôi làng chết chóc

Tâm hồn chúng ta đều là những bông hướng dương vàng xinh đẹp, chúng ta được chúc lành bằng những hạt giống dành cho riêng mình. - Allen Ginsberg

Phía đông dãy Thái Hành Sơn có một ngôi làng nhỏ. Ngôi làng ấy là nơi đáng sợ nhất trên đất nước Trung Hoa. Người thầy giáo làng họ Cao đưa các học sinh của mình đi dã ngoại đầu thu, bỗng trời đổ mưa như trút nước. Một cậu học sinh tiểu học bị lạc khỏi đoàn, thầy giáo và hàng trăm dân làng đổ đi tìm giữa cơn mưa lớn. Họ liên tục gọi tên cậu bé giữa chốn mênh mông ngút ngàn cây cối và bụi rậm, cuối cùng cũng tìm thấy cậu đang hôn mê bất tỉnh trong một hang đất.

Cậu học trò bị ngất đi do quá kinh hãi!

Hang đất nằm ở phía ngoài của đê sông lớn. Trước mặt hang mọc đầy những lùm lau sậy cao vút. Đó là một hang đất tự nhiên, do đất sạt lở và nước xói mòn mà thành. Bờ đê một đầu kéo dài tới khu đầm nước, một đầu dẫn tới cống chặn kênh dẫn nước vào làng. Con kênh gần như khô cạn quanh năm, chỉ vào hai vụ Xuân, Hè làm mùa mới đổ nước.

Người dân phát hiện một xác chết kì quái trong hang đất. Cái xác mặc một chiếc quần dài màu đen, khoá quần không kéo, đũng quần tụt xuống hai đùi, chân nạn nhân xỏ giày ba ta, ngồi dựa vào vách hang. Trên người và quần áo nạn nhân vẫn còn ẩm ướt dính đầy bùn đất. Thi thể đang trong thời gian phân huỷ, một số vùng da khô nứt, khuôn mặt và nửa người bên phải đã lộ cả xương trắng. Trên hộp sọ của nạn nhân có một lỗ nhỏ, trên đó cắm một cành lau còn chưa héo hẳn, giữa hai bàn tay mạng nhện đã bắt đầu giăng tơ.

Cậu học trò lạc mất đoàn, chui vào hang tránh mưa, chẳng may nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng này, sợ quá mà bất tỉnh nhân sự.
Đêm hôm đó, xã Đại Trạch đổ mưa lớn...

Cảnh sát địa phương nhận được thông báo của người dân, lập tức thông đêm tiến hành kiểm tra hiện trường. Sáng sớm ngày hôm sau, vụ việc đã được thông báo lên Cục cảnh sát.

Bạch Cảnh Ngọc đưa những bức ảnh cho tổ chuyên án, bảo: "Mọi người xem mấy bức ảnh chụp hiện trường này, rồi phân tích thử xem."

Tô My quan sát kĩ tử thi trong ảnh, nói: "Nạn nhân là một người trẻ tuổi. Nhìn qua cách ăn mặc xem ra điều kiện sống cũng không được tốt cho lắm."

Họa Long nói tiếp: "Là một vụ giết người, có kẻ dùng vật gì đó làm vỡ đầu nạn nhân, còn cắm một cành lau vào đó, đây là điểm vô cùng đáng nghi. Quần nạn nhân không kéo khoá, dây giày vẫn buộc chặt, có thể nạn nhân bị tấn công khi đang đi vệ sinh, cũng có khả năng đã bị xâm hại. Hộp sọ bị tổn thương nghiêm trọng, chứng tỏ hung khí là một vật cứng, có độ nặng và độ văng nhất định, có một vùng kim loại nhô hẳn ra ngoài."

Bao Triển cũng đưa tay nhấc lấy mấy tấm ảnh, nhìn qua một lượt, rồi phân tích: "Cái xác phân huỷ một cách tự nhiên, trên quần áo dính đầy bùn, chứng tỏ nạn nhân được đào lên từ dưới lòng đất. Quần nạn nhân tụt xuống đến gần đầu gối, chứng tỏ có người đã lôi cái xác từ nơi khác đến."

Giáo sư Lương nói: "Hung thủ sát hại nạn nhân, chôn kĩ dưới đất, sau đó lại đào lên, và di chuyển đến hang đất này."

Bạch Cảnh Ngọc vỗ tay tán thưởng: "Xuất sắc! Hiện trường chôn xác nằm ngay gần đó. Người ta tìm thấy một hố chôn xác tại một khu đất trũng cách hang đất không xa, trong đó còn có bảy thi thể khác nữa..."

Khi cảnh sát địa phương tiến hành kiểm tra hiện trường, phát hiện bùn tại một khu đất trũng gần đó cho kết quả phản ứng Benzidine dương tính (Phản ứng Benzidine: Phản ứng thử hoạt tính men peroxidase, một loại men tìm thấy trong máu), chứng tỏ trong đất có chứa nhiều thành phần của máu. Cảnh sát vốn cho rằng đó là hiện trường gây án, nhưng không ngờ khi đào xuống một đoạn thì phát hiện còn bảy thi thể bị chôn phía dưới. Các thi thể đều có dấu vết bị hại rất rõ rệt, tất cả đều bị thương nặng ở đầu. Vụ án làm chấn động cả một vùng quê, cảnh sát nhanh chóng báo cáo tình hình lên cơ quan cấp cao nhất, tổ chuyên án lập tức được phái đến xã Đại Trạch, hỗ trợ cảnh sát địa phương phá án. Đây là một vụ án mạng có tính chất đặc biệt nghiêm trọng.

Tám người bị hại, hung thủ chôn các thi thể nạn nhân ở một nơi hẻo lánh, đây là vụ án có số nạn nhân nhiều nhất mà tổ chuyên án từng tiếp quản.

Phòng Cảnh sát tỉnh kết hợp cùng cảnh sát địa phương thành lập đội trọng án lâm thời, do giáo sư Lương của tổ chuyên án chỉ huy. Do lo ngại vụ việc dính líu đến các nhân tố chính trị, các cơ quan liên quan cũng chủ động tham gia hỗ trợ.

Người phụ trách kiểm tra hiện trường báo cáo sơ qua về tình hình điều tra. Vụ án này có hiện trường gây án, hiện trường chôn xác và hiện trường di chuyển xác riêng biệt. Hiện chưa xác định được hiện trường gây án, hiện trường di chuyển xác thì đã bị dân chúng phá huỷ hoàn toàn. Phía trước hang đất là một vùng tương đối rộng, phía tây bắc mọc nhiều cỏ dại, lớp cao lớp thấp, phía ngoài đê có nhiều lau sậy, vị trí hang vô cùng hẻo lánh và khó phát hiện. Cách hang đất tầm một trăm mét là một vùng trũng, cũng chính là hiện trường chôn xác. Người ta tìm thấy thi thể bảy nạn nhân còn lại tại đó, tính cả thi thể tìm thấy trong hang đất, tất cả có tám xác chết. Cả tám nạn nhân đều là nam giới, được xếp chồng lên nhau thành hình dấu "#", cách sắp xếp rất quy củ, đầu thi thể này gối lên chân thi thể kia giống như cách những người ở nông thôn xếp củi.

Kết quả xét nghiệm tử thi cho thấy, tám nạn nhân bị hại vào những khoảng thời gian khác nhau. Có người đã chết từ nửa năm trước, có người ba tháng trước, nguyên nhân tử vong đều do bị thương nặng ở đầu, nhưng vết thương không giống nhau, xem ra hung thủ không dùng cùng một loại vũ khí. Thời gian chôn xác đã được ít nhất ba tháng, mức độ phân huỷ của các thi thể không đồng nhất. Cái xác kì lạ trong hang đất là của một nam thanh niên. Ngoài lớp quần dài bên ngoài, người này còn mặc một chiếc quần len. Trong bảy thi thể tìm thấy tại hiện trường chôn xác, có một nạn nhân cũng mặc quần len giống như thế. Theo phán đoán ban đầu, đây có thể là hai cha con, tuy nhiên cần làm xét nghiệm ADN để có kết luận chính xác. Giữa hai bàn tay của thi thể tìm thấy trong hang đất đã bắt đầu giăng mạng nhện, trên xương sọ có cắm một bông lau chưa khô hẳn, kết hợp với kết quả giám định pháp y cho thấy, thời gian di chuyển xác chết vào khoảng ba ngày trước. Xương sườn của xác chết đã gãy, vết gãy tương đối mới, và xuất hiện sau khi nạn nhân đã tử vong, điều này chứng tỏ khi hung thủ đưa thi thể từ hiện trường chôn xác tới đây, hắn đã hành hung xác nạn nhân.

Mọi người bàn tán xôn xao, vụ án có quá nhiều điểm nghi vấn.

"Hung thủ chôn các thi thể nhằm mục đích che giấu tội trạng, tại sao sau đó lại đào một cái xác lên rồi chuyển sang hang đất? Điều này không phù hợp với lẽ thường, hung thủ rất có thể không chỉ có một người." - Họa Long phân tích.

"Người chôn xác liệu có phải là người đã di chuyển cái xác không? Tại sao kẻ đó lại hành hung xác nạn nhân? Vì sao lại phải kéo thi thể tới một hang đất?" - Bao Triển đặt ra một loạt câu hỏi.

Trong đầu mọi người hiện ra một khung cảnh vô cùng đáng sợ:

Giữa màn đêm, một người đào lên một cái xác, tóm lấy chân xác chết mà lôi đi xềnh xệch, thỉnh thoảng dừng lại hành hạ thi thể, cuối cùng ném cái xác lại trong hang đất ngoài bờ đê.

Giáo sư Lương nói: "Nơi chôn xác chết địa thế hẻo lánh, thường ngày ít người qua lại, hơn nữa đường xá khó đi, nên có thể loại trừ khả năng người vùng khác đưa xác đến phi tang. Kẻ thực hiện việc này chắc chắn rất thông thuộc địa hình nơi đây, xung quanh đó còn trồng rất nhiều cao lương, ngoài bờ đê mọc nhiều lau sậy, cách đường cái tương đối xa, chỉ có người bản địa mới thông thuộc nơi này như thế được."

Xã trưởng Cao Nhật Đức giới thiệu: "Xung quanh đây có bốn thôn, Đông Thạch Cổ, Tây Thạch Cổ, Thượng Thạch Cổ, Hạ Thạch Cổ, tất cả đều thuộc xã Đại Trạch."

Giáo sư Lương giao nhiệm vụ cho mọi người. Công việc đầu tiên bây giờ là xác định danh tính nạn nhân, cần đối chiếu với danh sách những người mất tích ở vùng này, xác định tên tuổi tám thi thể đã tìm thấy.

Toàn bộ lực lượng cảnh sát được phân làm bốn nhóm, lần lượt đóng chốt tại bốn thôn để điều tra tình hình. Tổ chuyên án phụ trách điều tra tại thôn Đông Thạch Cổ, gần với hiện trường chôn xác nhất. Phòng cảnh sát tỉnh đến thôn Tây Thạch Cổ, cảnh sát địa phương và các cơ quan liên quan khác sẽ tới điều tra tại thôn Thượng Thạch Cổ và Hạ Thạch Cổ. Lãnh đạo xã Đại Trạch yêu cầu cán bộ thôn thông báo người dân không được tự ý rời khỏi địa phương, tránh trường hợp hung thủ bỏ trốn.

Chương 2: Mất tích

Tại các vùng nông thôn từng xảy ra không ít những vụ án li kì, có khi không thể giải thích được dưới góc độ nhân tính.

Hai nữ sinh viên của một trường đại học đi du lịch và lạc đường. Họ lạc tới một ngôi làng hẻo lánh đã bị bỏ hoang từ lâu, và kể từ đó không quay trở lại. Một tháng sau, một trong hai người được cảnh sát tìm thấy nhưng cô sinh viên đã như người mất hồn, nửa lời không nói, người bạn đồng hành của cô thì mãi mãi không trở về, và cũng không biết rốt cục đã lạc đi đâu.

Những người đã có tuổi chắc vẫn còn nhớ đến vụ án kinh thiên động địa từng xảy ra tại một ngôi làng ở vùng Đông Bắc. Một kẻ ra tay đầu độc chín người, ba nam sáu nữ, của năm gia đình khác nhau, sau đó cắt đầu xếp thành hình tháp tế lễ, đây là một vụ thảm án do mê tín dị đoan gây ra.

Tại một ngôi làng thuộc xã Điền Đông Nam, năm nào cũng có vài trẻ em bị mất tích, tất cả đều dưới mười tuổi. Ban đầu, những người trong làng cho rằng đó là hành vi của những kẻ bắt cóc, nên chỉ còn cách cố gắng trông nom con mình cẩn thận hơn. Nhưng những đứa trẻ ở nông thôn đều phải làm việc từ khi còn nhỏ để giúp đỡ gia đình, cha mẹ chúng cũng chẳng thể nào trông coi mãi được. Một buổi sáng nọ, hai chị em nhà kia đi chơi nhưng đến tối chỉ có đứa chị gái trở về. Khi cha mẹ hỏi đến cậu em trai, cô bé nói em đã theo một bà cụ trong làng đi mua kẹo rồi. Cha mẹ hai đứa trẻ tìm đến nhà bà cụ thì cả gia đình họ một mực phủ nhận, nhưng ánh mắt thì vẫn lo lắng liếc sang bên chuồng lợn như đang giấu giếm điều gì đó. Cha mẹ cậu bé thấy nghi ngờ, liền chạy lại xem thì phát hiện xác con mình không chân không tay, đang bị đàn lợn ủi qua ủi lại. Cha mẹ cậu bé bủn rủn chân tay, lập tức bỏ chạy thục mạng, rồi hô hào dân chúng đến bao vây gia đình bà cụ già. Sự việc bại lộ, họ thừa nhận hành vi dã man của mình suốt bao năm, dân làng phẫn nộ trút giận lên cả gia đình họ, nhưng đến tận sau này, cũng không ai có thể hiểu được vì sao gia đình bà cụ già lại có hành vi man rợ đến thế...

Bao Triển trở về sau khi điều tra tình hình xung quanh, báo cáo riêng với các thành viên tổ chuyên án về những chi tiết mới thu thập được. Buổi họp kết thúc, giáo sư Lương yêu cầu cán bộ thôn tập hợp thành các nhóm, đi điều tra từng gia đình một, lập danh sách những người mất tích. Thư kí thôn cho biết, nam giới của làng hầu như đều đã đi làm xa, một sớm một chiều không thể liên lạc hết được, việc điều tra những người mất tích cần có thời gian nhất định.

Chương 3: Bàn tay trong khu cầu tiêu

Ngay tối đó, thư kí thôn đã thông báo với tổ chuyên án về kết quả điều tra: - Không ai trong thôn mất tích. Họ chuẩn bị một bữa tiệc, chỉ mong nhanh chóng "mời" tổ chuyên án rút đi cho rảnh nợ.

Tổ chuyên án vô cùng phẫn nộ trước thái độ vô trách nhiệm của cán bộ thôn, nhưng cũng không biết phải làm thế nào.

Xã trưởng Cao Nhật Đức ra điều khách sáo, nói: "Các vị cứ ăn xong đã rồi hãy đi, chúng tôi cũng gọi sẵn cơm rượu rồi."

Thư kí thôn lộ rõ vẻ mặt vô liêm sỉ, cười gian xảo, nói: "Dù sao thì cũng là tiền công quỹ cả."

Giáo sư Lương bảo mọi người gom một ít tiền lại, đưa cho thư kí thôn, nói: "Đây là tiền cơm, có cả tiền thuê phòng nữa. Phiền các vị giúp chúng tôi chuẩn bị hai phòng nhỏ, chúng tôi sẽ ở lại đây một thời gian, chừng nào chưa phá xong án thì sẽ chưa về."

Họa Long đứng phía sau, liếc sang phía Tô My và Bao Triển, ngầm giơ ngón tay cái lên, thì thầm: "Thích nhất cái tính quả quyết này của "ông cụ" đấy!"

Cao Nhật Đức và thư kí thôn cũng không hề tỏ ra ngượng ngùng, chỉ có chút bất ngờ. Có lẽ đây là lần đầu tiên kể từ khi họ làm cán bộ, thấy một người từ chối dùng tiền công mà tự móc túi mình trả tiền cơm rượu.

Sau bữa tối, bốn người tổ chuyên án dọn vào ở trong phòng trực ban của thôn.

Giáo sư Lương gọi điện hỏi thăm tình hình điều tra tại ba thôn còn lại. Tổ pháp y cho biết họ đã tìm thấy manh mối mới. Trên quần áo của tám nạn nhân có bụi khoáng sản. Sau khi làm hoá nghiệm, những bụi đó là của một loại than. Trong khu đất nơi chôn xác không phát hiện thấy thành phần nào như thế, chứng tỏ các nạn nhân rất có thể là công nhân mỏ than, hoặc làm vận tải, mua bán, bốc vác ở đó.

Tổ chuyên án bắt đầu thảo luận. Mọi người đều có những suy đoán giống nhau về các điểm nghi vấn trong vụ án này.

Thứ nhất, hung thủ không phải một người. Tám cái xác, tám nạn nhân bị sát hại trong những khoảng thời gian cách nhau khá xa, một người không thể nào hoàn thành cả quá trình từ việc hạ sát, di chuyển, chôn cất, di dời xác chết như thế được.

Thứ hai, hung thủ rất có thể là nông dân hoặc là người đã sống một thời gian dài ở nông thôn. Điều này có thể suy luận từ cách thức kẻ đó sắp đặt các thi thể thành hình dấu "#".

Thứ ba, hung thủ rất am hiểu địa hình nơi chôn xác, và có lẽ cũng khá thân thuộc với địa hình xung quanh đó.

Thứ tư, trên quần áo của cả tám nạn nhân đều có dấu vết của bụi than. Rất nhiều thanh niên nam giới của thôn Đông Thạch Cổ đi làm xa, chủ yếu làm các công việc nặng nhọc trong mỏ than, do đó tổ chuyên án càng có cơ sở phán đoán: Hung thủ nhiều khả năng chính là người của thôn này.

Do tám thi thể bị chôn ở nơi hẻo lánh trong thời gian tương đối dài, các phần mềm bên ngoài đều đã phân hủy gần hết, không thể nào nhận diện được nữa. Giáo sư Lương có kế Họach cho người dân đến nhận xác thông qua quần áo và đồ cá nhân của từng thi thể, hi vọng cách này có thể giúp tìm ra thân phận của những người đã khuất.

Đêm hôm đó, Tô My gặp phải sự việc khiến cô rợn tóc gáy.

Nhà vệ sinh của Ủy ban thôn nằm tít bên ngoài tường bao, là kiểu cầu tiêu thời cũ, với hai viên gạch xây trên nền bê tông, bên dưới là hố trữ phân, vô cùng bẩn thỉu. Nhà vệ sinh nam và nữ nhìn cũng chẳng khác nhau là mấy, trước kia vốn được phân biệt bằng hai chữ "nam - nữ" viết bằng cục vôi khô, nhưng sau đó bị mấy đứa trẻ nghịch ngợm lấy gạch viết đè lên, cố ý che mất dòng chữ "quan trọng" này.

Nửa đêm canh ba, Tô My thấy đau bụng. Mặc dù rất sợ một mình ra ngoài đi vệ sinh, nhưng cô cũng không mặt mũi nào gọi Họa Long và Bao Triển dậy dẫn mình đi giải quyết nỗi buồn, đành lấy hết can đảm, một mình lò dò trong đêm tối.

Dòng chữ trên tường đã không còn phân biệt nổi nữa, nhất là khi ánh sáng xung quanh vô cùng lờ mờ. Tô My khẽ cất tiếng hỏi: "Có ai trong đó không?"

Không gian bên trong chỉ một màu đen đặc quánh, không ai trả lời. Tô My đã nhịn rất lâu, đành đánh liều bước vào.

Cô mặc một chiếc quần ống bó, khiến cặp chân thon dài trông càng hấp dẫn. Cô mò mẫm bước lên hai viên gạch, ngồi xổm xuống. Một dòng âm thanh vang lên, Tô My như trút được gánh nặng, nhưng cũng có phần cảm thấy ngượng ngùng, không biết những âm thanh vừa rồi có vang vọng quá hay không! Tô My định đứng lên, chiếc guốc cao bám trên viên gạch suýt trượt ra ngoài khiến cô giật mình.

Trên nền có rất nhiều đầu lọc thuốc lá, còn vương vãi cả vỏ bao thuốc đã bị lột mỏng, xé thành nhiều phần.

Tô My giật thót mình, chửi thề một câu: "Mẹ kiếp, vào nhầm bên rồi!"

Trên vách tường ngăn hai gian nam nữ của nhà vệ sinh có mấy lỗ hổng. Phần vôi vữa giữa hai lớp gạch đã không còn chắc chắn, thậm chị nhiều viên gạch còn khá lỏng lẻo, có thể dễ dàng kéo ra được. Nếu đứng từ bên nhà vệ sinh nam, nhìn về phía tường có lỗ nhỏ thông sang nhà vệ sinh nữ, có thể bạn sẽ nhìn thấy... Một đôi mắt đang nhìn lén mình. Điều kì lạ hơn nữa, là những kẻ nhìn trộm nhau trong nhà vệ sinh biết đâu lại chính là những người vừa chào hỏi nhau ngay trên con đường đất trong làng.

Tô My cảm thấy khu nhà vệ sinh này có gì đó không bình thường. Dù sợ hãi có người đang nhìn trộm, cô cũng không dám ghé mắt nhìn vào lỗ hở trên tường xem tình hình phía đối diện. Giữa bóng tối, Tô My bỗng cảm thấy có thứ gì đó đang chạm vào mông mình. Hồn bay phách lạc, trong đầu cô đột ngột hiện ra hình ảnh đáng sợ trong những bộ phim kinh dị: Khi những người phụ nữ đi vệ sinh, phía dưới nhà vệ sinh có cánh tay từ từ thò lên. Nghĩ đến đây, cô cúi đầu thật nhanh nhìn xuống dưới, rồi thở phào khi phát hiện một cành cây nằm vật vạ cạnh chân mình, có lẽ do vừa rồi cô không cẩn thận nên đã tự chạm vào cành cây đó mà thôi!

Đúng lúc Tô My định đứng dậy, bỗng từ bên kia bức tường vọng lại một tràng cười ma quái. Một cánh tay từ bên đó luồn qua lỗ trên tường, nhặt cành cây rồi gài lên đầu Tô My.

Quá sợ hãi, Tô My hét thất thanh, rồi đứng bật dậy chạy thục mạng về Ủy ban thôn.

Họa Long và Bao Triển nghe tiếng la hét vội chạy ra, Tô My vừa thở hồng hộc vừa kể lại sự việc vừa xảy ra cho Họa Long và Bao Triển nghe.

"Họa Long, có người sờ mông tôi rồi! Hu hu! Làng này có kẻ biến thái!" - Tô My vừa tức vừa sợ, kể.

"Mẹ kiếp! Ghớm mặt thật! Hắn đâu?" - Họa Long nói dồn dập.

"Bây giờ chắc hắn bỏ chạy rồi, lúc nãy tôi cũng chẳng dám quay đầu nhìn nữa!" - Tô My kể tiếp.

"Chị bảo kẻ đó gài cành cây lên đầu chị đúng không?" - Bao Triển vẫn giữ bình tĩnh, hỏi.

"Đúng thế! Tôi còn nghe cả tiếng hắn cười nữa, giọng cười rất ghê rợn, làm tôi sợ chết khiếp!" - Tô My đáp.

Bao Triển nhớ ra trên hộp sọ của thi thể tìm thấy tại hang đất ngoài đê có cắm một bông lau. Kẻ nhìn trộm trong nhà vệ sinh cũng muốn gài cành cây lên đầu Tô My, liệu đó có phải chính là hung thủ không?

Trong nhà vệ sinh đã không còn ai, hai viên gạch trên tường đã bị ai đó lôi ra từ lúc nào, tạo thành một lỗ hổng lớn. Vừa rồi, kẻ nhìn trộm đã thò tay qua chính lỗ hổng này, khiến Tô My sợ khiếp vía. Gần nhà vệ sinh có một ngã ba đường. Kẻ nhìn trộm chắc chắn chưa thể chạy xa được. Họa Long và Bao Triển quyết định chia nhau đi tìm.

Tô My đứng một mình ở đầu đường, chưa hết kinh hãi. Cạnh đường có một rừng cây nhỏ. Gần bìa rừng người ta chất nhiều đống thân ngô và cây bông khô.

Giữa màn đêm, Tô My dường như thấy thấp thoáng thứ gì đó rất kì lạ. Trong rừng hình như có vật gì đang di chuyển. Dáng nó đứng thẳng, trông như một bộ xương khô hay một xác chết đã teo tóp. Bộ xương đó bước đi rất khó khăn, thân trên bất động, hai tay thẳng đuột, chỉ có hai cẳng chân dưới đang rón rén lê từng bước nhỏ.

Tô My chưa hết bàng hoàng đã gặp ngay cảnh tượng ghê ghớm đó, cô hét lên vang cả màn đêm. Họa Long đang ở cách đó không xa, nghe tiếng Tô My vội vàng quay lại. Hai người dò dẫm tiến vào khu rừng xem rốt cục đó là thứ gì.

Trong rừng trống không, xung quanh rất yên ắng, ánh trăng chiếu qua tán cây như suối nước chảy thành dòng.

Họa Long quay sang Tô My, hỏi bằng giọng nghi ngờ: "Có phải cô hoa mắt không? Chắc vừa nãy sợ quá nên bị hoảng rồi hả?"

Tô My một mực giải thích: "Rõ ràng tôi thấy có thứ gì đó trong này đi đi lại lại mà."

Họa Long nửa thật nửa đùa, nói: "Chẳng lẽ... gặp ma!"

Tô My có phần sợ hãi, bấu chặt lấy cánh tay Họa Long, nói: "Thứ đó chắc chắn không phải là người, nhưng cũng không giống động vật."

Họa Long cầm tay Tô My, tiếp tục tiến sâu vào trong rừng. Cả hai đi vòng quanh mấy đống củi khô nhưng không phát hiện có gì lạ thường. Ánh trăng vằng vặc rọi xuống khu rừng, xung quanh chỉ có duy nhất hai bóng người là Họa Long và Tô My.

"Liệu nó có trốn trong đống thân ngô khô không?" - Tô My dè dặt hỏi.

Họa Long đưa chận đạp mấy cái vào đống thân ngô, lên tiếng doạ dẫm: "Ra đây!"

Trong đống thân ngô không có gì. Tô My sợ co rúm người, hai tay bấu chặt lấy cánh tay Họa Long.

Họa Long và Tô My đều thấy hết sức kì lạ. Đúng lúc đó, từ trên đầu hai người vọng xuống một tràng cười ghê rợn.

Chương 4: Người đàn bà điên dại

Trăng đã ngả đằng tây, cành lá bỗng rung lên mấy hồi, một quái nhân nhảy xuống từ cành cây ngay trước mặt.

Đó là một người phụ nữ. Cô ta ngồi sụp dưới đất, từ từ đứng dậy, ngẩng đầu nhìn Họa Long và Tô My. Họa Long và Tô My giật mình lùi lại mấy bước.

Người phụ nữ trước mặt họ quá gầy gò, mái tóc thả rối bù, chỉ mặc độc một bộ quần áo len đã lấm lem không còn nhìn rõ màu sắc. Chiếc quần len tụt đến tận gối, mùi nước tiểu bốc lên nồng nặc, có thể cô ta vừa đi vệ sinh rồi quên luôn cả việc kéo quần, đó cũng là lí do dáng đi của cô ta lại cổ quái đến thế. Người phụ nữ chỉ còn da bọc xương, những đoạn khớp trên người nhô ra vô cùng đáng sợ. Khuôn mặc hom hem, hốc mắt sâu hoắm, trông chẳng khác nào một con rối da. Hai chân teo tóp như hai cành cây khô, cánh tay cũng chẳng còn tí thịt nào, cảm giác chỉ chạm mạnh cũng có thể gãy thành mấy khúc. Có nói cô ta trông chẳng giống người chút nào, cũng không phải là quá đáng, có lẽ giống một con quỷ hoặc một bộ xác khô thì đúng hơn.

Họa Long giải người phụ nữ quái đản kia về Ủy ban thôn, Tô My vẫn thấy sợ hãi, đi nấp phía sau Họa Long.

Thư kí thôn nói: "Giời ạ! Đây là con mẹ điên! Cô ta bị bệnh thần kinh mà!"

Giáo sư Lương tỉnh dậy, khoác chiếc áo lên vai, hai tay chống vào thành giường, ngồi lên chiếc xe lăn. Giáo sư hỏi người phụ nữ: "Cô còn người thân nào nữa không?"

Người phụ nữ điên bỗng nhiên xông tới trước mặt giáo sư Lương, khiến mọi người xung quanh cũng giật mình. Cô ta ôm lấy đầu giáo sư, rồi thơm một cái lên trán, nói: "Sao con không chịu mặc quần len?"

Giáo sư Lương tròn mắt, không biết phải đáp ra sao.

Người phụ nữ điên nói tiếp: "Mẹ đây! Là mẹ đây mà!"

Họa Long dở khóc dở cười, tiến lại tóm lấy một tay người phụ nữ điên, không để cô ta làm loạn.

Người phụ nữ điên bất ngờ chộp lấy tay giáo sư Lương, gào lên: "Đi! Đi! Về nhà ăn màn thầu!"

Thư kí thôn chạy lại kéo người phụ nữ điên ra, đuổi cô ta về nhà. Người phụ nữ điên vẫn không chịu buông tha, nhất quyết đòi lôi giáo sư Lương về theo. Tô My đứng nép vào một góc, bịt miệng cười. Thấy vậy, người phụ nữ điên bắt đầu buông lời chửi bới, dùng những lời lẽ khó nghe nhiếc móc Tô My dụ dỗ chồng cô ta, còn cướp cả con cô ta đi nữa. Tô My ngẩn người, thấy vừa buồn cười, vừa oan ức. Cuối cùng, Họa Long và thư kí thôn kéo người phụ nữ điên ra ngoài. Cô ta lấy hết sức giằng co, sau hồi lâu mới chịu ra về, miệng vẫn chửi bới Tô My là đồ đàn bà mất nết.

Họa Long than thở: "Bà thím này, trông như bộ xương khô mà khoẻ ghê gớm!"

Tô My giờ mới lên tiếng: "Tức chết đi mất! Dám nói tôi dụ dỗ chồng cô ta! Điên thật rồi!"

Thư kí thôn giải thích, chồng và con trai người phụ nữ này đều đi làm xa, không ai trông nom cô ta, cả ngày cứ vất vưởng trong làng như kẻ lang thang không nhà không cửa.

Họa Long nói: "Thực ra, cô ta cũng rất đáng thương, sao mọi người không cho cô ta chút gì đó để ăn? Trông cô ta còm đến mức chẳng còn ra dáng người nữa rồi."

Thư kí thôn cười khẩy, buông một câu: "Chồng con cô ta còn chẳng thèm ngó ngàng đến, sao chúng tôi phải lo."

Giáo sư Lương nhặt lên một sợi tóc. Đó là tóc của người phụ nữ điên rụng khi giằng co. Giáo sư nói: "Trong tám nạn nhân có hai người là cha con, ngày mai đưa sợi tóc này xuống tỉnh làm xét nghiệm AND, rất có thể họ chính là người thân của người phụ nữ này."

Tối đó, Bao Triển trong lúc truy đuổi bắt được một người đàn bà đang trộm rau cải trồng trong nhà kính. Người đàn bà đó tên Giảo Liên, là một góa phụ. Ở nông thôn thường xuyên xảy ra những chuyện kiểu "tiện tay dắt bò" như thế này. Thư kí thôn tịch thu chỗ rau cải, mắng mấy câu rồi để cô ta về.

Ngày hôm sau, buổi nhận dạng di vật được mở ngay tại sân của Ủy ban thôn. Một sợi dây thép được căng ngang sân, trên đó treo kín những bộ quần áo, thắt lưng, giày dép của tám nạn nhân. Hầu hết những bộ quần áo này đều là đồ rẻ tiền, đống giày dép cũng chẳng có nổi một đôi giày da, chỉ cần nhìn qua cũng đoán được chủ nhân của chúng là những phu lao động nặng nhọc quanh năm. Trong số di vật, có một chiếc áo phông vẫn còn dính nguyên vết máu loang lổ, có thể tưởng tượng phần nào cảnh tượng đáng sợ khi nạn nhân bị hại.

Hầu hết dân làng đều đã liên lạc được với người thân đi làm xa của họ. Giờ này, họ tập trung về đây chủ yếu để xem cho vui, cho dù có người nhận ra di vật, cũng không muốn để ai biết, tránh gặp rắc rối. Vài người bước vào trong sân, nhìn quanh một lượt những thứ đồ treo trên sợi thép, giống như đang lượn qua một gian hàng bán đồ cũ, nhưng không ai dám tiến lại quá gần. Một ông cụ già ngồi xổm ở góc sân, tay vê vê điếu thuốc lá, lắc đầu lẩm bẩm: "Không thấy có đồ của thằng con lão..."

Ngoài cổng Ủy ban thôn bỗng vọng lại mấy tiếng ồn ào, nhóm người đang tụ tập cũng phải dạt sang hai bên. Một người đàn bà chống nạnh, lên giọng chửi bới năm anh em nhà họ Quách. Người đàn bà đó chính là vợ của người em út tên Quách Ngũ, chỗ rau cải bị mất đêm qua chính là trong ruộng rau nhà ả.

Góa phụ Giảo Liên nhất định không chịu nhận mình là người trộm rau. Cô ta cũng là hàng chua ngoa trong làng, xắn tay áo, mặt tối sầm, hỏi như thách thức: "Thím Năm, thím đang chửi ai thế? Ruộng nhà thím lấn sang đất nhà tôi, tôi đã chẳng thèm nói thì thôi, thím còn định gây sự hả?"

Vợ Quách Ngũ trợn mắt, cơn tức xông lên não, giọng điêu ngoa đáp: "Ối dào! Cái ngữ vừa ăn cắp vừa la làng!"

Góa phụ Giảo Liên điên tiết dang chân chống nạnh, chửi: "Ái chà con láo toét! Hôm nay bà phải cho mày một trận!"

Góa phụ Giảo Liên chạy xộc về nhà, vác ra một cái thớt và một con dao chặt lớn, sát khí đằng đằng chạy lại Ủy ban thôn.

Vợ Quách Ngũ cũng chẳng chịu thua, cô ta mang ra một cái chậu rửa mặt làm dụng cụ trợ uy, rồi quay lại chuẩn bị cho "cuộc chiến".

Tô My lo sợ xảy ra huyết án, Bao Triển ghé tai cô thì thầm: "Không sao đâu, cho chị mở rộng tầm mắt, biết thế nào là đàn bà quê chửi nhau". Người dân đến xem càng lúc càng đông, công tác nhận dạng di vật của nạn nhân bị hai người đàn bà chua ngoa làm đảo lộn, thư kí thôn khuyên giải thế nào cũng không xong, tổ chuyên án và những người xung quanh đành đứng nhìn, coi như xem một buổi diễn hề chèo nơi làng xã.

Văn hóa chửi nhau ở các làng quê vốn mang đầy tính giải trí và tính thưởng thức, những cuộc cãi vã của mấy người đàn bà chua ngoa là nét đặc trưng cho phong tục truyền thống ở những nơi này.

Làng nào cũng có vài ba "cao thủ", những người phụ nữ quê coi đó là cơ hội thể hiện tài ăn nói của mình. Những "cao thủ" thực sự không những phải có giọng nói vang đanh, mà còn cần một cái miệng liến thoắng, nhất là phải có cảm thụ về âm luật. Một trận chửi nhau không cần kiêng nể bất cứ thứ gì, cũng chẳng phải để ý đến thể diện, tất cả chỉ vì những chuyện vặt vãnh hàng ngày, những tranh chấp nhỏ nhặt giữa những người hàng xóm láng giềng. Lời chửi càng khó nghe càng nhận được sự tán tụng của người đứng xem, những cái miệng nhanh như súng, lưỡi sắc hơn gươm liên tục tuôn ra những cơn sóng ngôn từ sẵn sàng phá vỡ tới phòng tuyến cuối cùng của đối thủ. Đối diện với một người đàn bà giỏi cãi lộn, các bậc thầy về hài kịch cũng trở thành những người chẳng ngọng thì lắp, những nhà văn cũng đành chịu bại trận dưới cách dùng từ quá ư chuyên nghiệp của họ.

Góa phụ Giảo Liên vốn là nhân vật "hàng đầu" trong "ngành" này, chưa ai qua nổi mặt, bao năm khẩu chiến chưa hề chịu thất bại, xưng bá một vùng, suốt mười mấy năm chưa có đối thủ.

Vợ Quách Ngũ, học chửi nhau từ lúc lên ba, từ nhỏ đã theo mẹ "chinh đông chiến tây", tích lũy biết bao kinh nghiệm khẩu chiến. Năm mười sáu tuổi đã trở thành cao thủ bậc nhất tại quê mẹ.

Đây là trận giao chiến đầu tiên giữa hai người đàn bà này, kẻ tám lạng người nửa cân, hai bên không ai kém ai, dân làng đứng xung quanh đều đoán được rằng đây sẽ là trận đại chiến gió tung đá cuốn, đất trời rung chuyển, chưa từng có ở làng quê này.

Vụ trộm rau cải là mồi lửa châm ngòi cho cuộc chiến. Hai bên từ trước đến nay đã nhiều lần khúc mắc, sự giận dữ dồn nén bấy lâu chỉ còn chờ đến hôm nay để bộc phát.

Vợ Quách Ngũ lấy một cành cây gõ liên hồi vào cái chậu rửa mặt, mọi người nghe tiếng gõ lập tức im bặt, ánh mắt hướng về phía thị một cách chờ đợi, xung quanh bỗng cuộn lên một mùi sát khí. Cô ta dẫm chân xuống đất, cơ thể chồm lên, tay chỉ thẳng về phía trước mặt, từ miệng tuôn ra một tràng những câu nói độc địa chẳng khác nào một khẩu súng liên thanh nã đạn về phía trước.

Góa phụ Giảo Liên cau mặt, hàng lông mày lá liễu giờ dựng chéo, hai mắt trợn tròn long sòng sọc, hai hàm răng nghiến vào nhau như cối nghiền gạo, hít vào một hơi dài qua kẽ răng, đứng dựa vào một gốc cây như để lấy chỗ tựa cho tràng pháo sắp tới. Tay trái cô ta cầm cái thớt gỗ, tay phải cầm chiếc dao chặt bản to, vỗ đen đét vào thớt, bắt đầu chửi, mỗi câu chửi tung ra là một lần đập mạnh dao vào thớt, khí thế hơn người, âm thanh liên tục tuôn ra vô cùng chói tai, từ ngữ phong phú khiến mọi người dù khó chịu cũng không khỏi thán phục.

Vợ Quách Ngũ nổi cơn tam bành, dạng chân dậm xuống đất, vỗ cái đét vào đủi, rồi bắt đầu tràng chửi rủa.

Góa phụ Giảo Liên cũng không vừa, nện mặt dao vào mặt thớt kêu chan chát, giành lấy "quyền phát ngôn". Giọng nói của bà ta vừa đanh vừa gắt, chẳng cần dùng đến loa phóng thanh cũng có thể khiến cả thôn phải nhức óc.

Vợ Quách Ngũ chưa từng gặp đối thủ nào nặng kí đến thế, máu nóng trong người đang sôi sùng sục, vừa thao thao bất tuyệt những thứ ngôn từ tục tĩu, vừa phụ hoa thêm bằng những động tác như sắp xông tới ăn thịt đối phương đến nơi.

Góa phụ Giảo Liên không chịu thua kém, hai bên kẻ chửi qua, người chửi lại, miệng lưỡi không kịp nghỉ. Giọng nói réo rắt, tốc độ như nã đạn, ngôn ngữ phong phú và nham hiểm của cả hai đều đã đạt đến độ "phi thường". Trong lúc hai người đàn bà chua ngoa đang cãi nhau không phân thắng bại, chẳng ai thèm để ý đến người phụ nữ điên đã đi vào sân từ lúc nào. Cô ta nhìn hai chiếc quần len treo trên dây thép, rơm rớm nước mắt rồi bỗng hét lên một tiếng xé tan không gian. Tiếng khóc của người phụ nữ điên át cả tiếng chửi rủa đương lúc cao trào của hai người đàn bà ngoài cổng khiến mọi người đều phải quay lại nhìn.

Người phụ nữ điên quay người lại, chỉ còn biết khóc, hai hàng lệ chảy tràn xuống gò má gày gò rơi lã chã trên sân.

Quả đúng như những gì giáo sư Lương phán đoán. Hai cha con trong tám nạn nhân chính là chồng và con trai của cô ta. Kết quả kiểm tra ADN sau đó cũng đã chứng thực thông tin này. Chồng và con trai người phụ nữ điên theo người ta đi đào mỏ than, từ đó không trở về. Đi cùng họ còn có anh em nhà họ Quách. Nhà họ Quách có năm anh em trai, tất cả đều đã trở về. Người đang cãi nhau ngoài cổng chính là vợ của người em út Quách Ngũ. Có điều quái lạ, là dù thấy vợ mình đứng cãi nhau với một mụ goá giữa làng, thậm chí sắp xông vào đánh nhau đến nơi, nhưng Quách Ngũ không hề có ý can ngăn, năm anh em nhà họ Quách cũng không thấy vào nhận dạng di vật.

Tổ chuyên án nhận định, anh em nhà họ Quách là nghi phạm quan trọng trong vụ án này.

"Mấy anh em nhà họ Quách, ai nhát gan nhất?" - Giáo sư Lương hỏi.

"Quách Ngũ! Hắn ta là kẻ sợ chết, vô dụng." - Thư kí thôn trả lời.

Cảnh sát nhanh chóng khống chế năm anh em nhà họ Quách, giáo sư Lương gọi riêng Quách Ngũ vào thẩm vấn. Họa Long và Bao Triển đứng sau lưng giáo sư, Tô My ngồi làm thư kí ghi chép, giáo sư Lương còn sắp xếp một số cảnh sát ôm súng đứng canh ngoài cổng và cửa phòng thẩm vấn.

Quách Ngũ bị dẫn vào phòng thẩm vấn, nhìn thấy cảnh tượng đó đã rụng rời chân tay. Chẳng chờ giáo sư Lương kịp hỏi, hắn đã quỳ sụp xuống đất, thút thít nói: "Tôi... tôi không giết người. Tôi chỉ đi đào hố chôn xác thôi. Mấy thằng kia là do anh cả và anh hai dẫn đến, rồi anh ba và anh tư giết, không liên quan đến tôi."

Chương 5: Hoa hướng dương

Camera theo dõi ở góc đường từng ghi được một cảnh tượng ghê tởm. Một cậu bé lang thang mặc chiếc áo sơ mi rách rưới, nằm ngủ trên chiếc ghế dài trong công viên. Trời nửa đêm về sáng, một chiếc ô tô chạy ngang qua chỗ cậu nằm. Một lát sau, chiếc xe đó lùi lại, lái xe bước xuống, cúi đầu nhìn cậu bé lang thang, khẽ kéo quần cậu bé xuống, định giở trò. Cậu bé giật mình tỉnh dậy, lấy hết sức giằng co thoát ra. Tên lái xe không thoả trí, nhưng cũng đành ngậm ngùi bỏ đi. Lúc rời khỏi đó, hắn còn định tóm lấy cậu bé lôi lên xe nhưng không được.

Những kẻ lang thang ngoài việc phải đối mặt với nguy cơ bị quấy rối tình dục, còn gặp phải hai mối nguy hiểm lớn: Chó và những kẻ lạ mặt chuyên bắt người vô gia cư.

Vụ án "động gạch đen" tại huyện Hồng Động một thời từng làm rung chuyển dư luận Trung Quốc. Ba mốt người nông dân bị lừa đến một xưởng sản xuất gạch, bị ép lao động mà không trả tiền lương. Trong đó có chín người có vấn đề về trí tuệ, và một bộ phận trẻ em dưới độ tuổi lao động.

Hàn Hồng Liên, hội trưởng hội phụ nữ thôn Ma Thạch huyện Lôi, giam giữ trái phép nhiều người đàn ông lang thang, nhốt trong núi sâu, nuôi như những kẻ nô lệ và tự ý mua bán.

Nhiều năm về trước, trên đường quê ở xã Đại Trạch xuất hiện một người phụ nữ điên. Cô ta cũng có phần nhan sắc, nước da trắng nõn nà, quần áo và đầu tóc sạch sẽ tinh tươm, có lẽ là một người bị bệnh thần kinh của nhà nào đó đi lạc. Người phụ nữ điên thường xuyên lân la đến khu chợ, nhặt những lá rau úa người ta đã bỏ đi mà ăn, buổi tối ngủ lại trên chiếc phản xi măng của người bán cá hoặc chui dưới gầm cầu. Đầu óc cô ta lúc tỉnh lúc điên, trên trụ cầu còn có dòng chữ cô ta viết bằng cục vôi, nhắc mọi người đây là "nhà" mình, xin đừng tiểu tiện bừa bãi.

Mọi người phát hiện bụng người phụ nữ điên ngày một lớn dần, nhưng cũng chẳng rõ kẻ thất đức nào gây ra.

Sau đó, người phụ nữ điên cũng biến mất luôn. Một kẻ độc thân lúc nửa đêm cưỡng ép, lôi cô ta về nhà mình.

Kẻ độc thân ấy tên là Thanh Sơn, sống trong căn nhà bằng đá phía đằng tây thôn Đông Thạch Cổ. Ngôi nhà của hắn lúc nào cũng lạnh lẽo, bốc ra một thứ mùi hôi hám. Ngay bên cạnh căn nhà là một chuồng lợn, bên cạnh chuồng lợn là hai mẫu đất trồng hoa hướng dương, mỗi độ Hè đến, những bông hướng dương vàng bung nở lấp lánh, hương hoa quyện giữa những cây hướng dương xanh mướt, rồi thoát khỏi đám hoa lan toả khắp thôn làng. Thanh Sơn ngượng không dám nói mình "nhặt" vợ ngoài đường về, đành nói rằng mình bỏ tiền mua được. Trong lòng hắn luôn cho rằng, trong mắt người dân làng, mua về dù sao cũng "đáng giá" hơn nhặt được.

Trong làng này cũng có không ít người phải đi mua vợ, nhưng mấy cô vợ mua đó có người đã bỏ chạy, có người đã thành bà thím trên những ruộng bông, có người thành mấy mợ chuyên ngồi nhà khâu dép.

Người đàn bà điên sinh cho gã một thằng con trai, trông cũng ngây ngô lúc tỉnh táo lúc ngờ nghệch.

Đứa trẻ ngày một lớn, người phụ nữ điên lúc tỉnh thì chẳng khác nào người thường, lúc lên cơn thì chẳng còn nhận ra ai với ai, đến cả việc cá nhân cũng không thể nào tự mình xử lí được. Cô ta biết đọc biết viết, biến đan quần áo len, nhưng chưa bao giờ cô ta nhớ ra nhà mình ở đâu.

Thanh Sơn nói: "Bố con tôi đi làm kiếm tiền về chữa bệnh cho mẹ nó, phải chữa khỏi bệnh thần kinh này mới được."

Người phụ nữ điên cúi đầu, giọng trầm xuống: "Chữa khỏi bệnh rồi, tôi nhớ ra mình là ai, từ đâu đến, mình không sợ tôi bỏ đi sao?"

Thanh Sơn trả lời: "Không sợ! Có thằng bé rồi, nhà mình còn có cả hoa hướng dương, mẹ nó thích ăn hướng dương nhất mà!"

Đứa trẻ gọi mẹ một tiếng, nũng nịu: "Mẹ! Mẹ đừng bỏ đi nhé! Chữa khỏi bệnh rồi cũng đừng bỏ đi! Dù có không chữa được bệnh thì mẹ vẫn là mẹ của con!"

Người phụ nữ điên cười hiền lành, đáp: "Ừ! Mẹ cũng đâu nỡ lòng nào. Chỉ sợ mỗi lần phát bệnh, lại chạy lạc đi đâu mất thôi!"

Dịp tết, Thanh Sơn đốt nén nhang trước ban thờ, nguyện quyết tâm đi làm kiếm tiền chữa bệnh cho vợ.

Hắn dập đầu trước Phật Tổ, nói rằng cuộc đời này hắn đã làm một việc sai trái, và cũng làm một việc tốt.

Hắn cưỡng bức một người phụ nữ ngờ nghệch trong chợ làng không chỉ một lần, đó là điều sai trái.

Còn việc tốt mà hắn đã làm, đó là đưa người phụ nữ ấy về nhà, chung sống yêu thương đến tận bây giờ.

Cho dù là những con người sống dưới đáy bùn của xã hội, cũng luôn hướng về một ngày mai tươi sáng hơn, giống như bông hoa hướng dương giữa bóng tối, luôn biết phương hướng để quay về phía Mặt Trời.

Người phụ nữ điên đan cho hai cha con một cặp quần len, chỉ một cặp quần thôi cô cũng phải đứt đoạn đến ba năm trời mới hoàn thành được. Trước ngày lên đường, Thanh Sơn gửi người vợ điên của mình cho thím Hai nhờ chăm sóc.

"Đành nhờ thím cho vợ cháu chút gì ăn hàng ngày vậy!" - Thanh Sơn khẩn khoản.

"Đừng để mẹ cháu chạy lung tung!" - Con trai Thanh Sơn nói.

Hai cha con họ xách tay nải lên đường, và từ đó không bao giờ trở lại...

Người phụ nữ điên bị bỏ đói, chỉ còn da bọc xương, từ sáng sớm đến đêm khuya cứ dật dờ đi lại khắp làng như một bóng ma. Có lẽ đó là cách cô ta chờ đón chồng con mình về. Chồng con cô ta đã đi rất lâu, không biết khi nào trở lại, cũng chẳng rõ sẽ về theo hướng đường nào. Người phụ nữ điên thỉnh thoảng cũng có lúc tỉnh táo, cô ta đứng trước cổng thôn ngẩn ngơ nhìn về nơi xa xăm, rồi nhặt một cục vôi đánh dấu vào cả hai đầu thôn. Cô lo sợ một ngày nào đó, mình không tỉnh táo mà đi khỏi nơi này, lạc giữa biển người không bao giờ trở về được nữa.

Trên tường của ngôi nhà đá, cô ta viết một chữ "nhà" thật lớn.

Theo lời khai của Quách Ngũ, năm anh em nhà họ Quách gặp hai cha con Thanh Sơn ở ga tàu hoả. Họ đều là người của thôn Đông Thạch Cổ, nên đứng lại nói chuyện mấy câu:

Anh cả Quách Đại nói với hai cha con Thanh Sơn: "Thanh Sơn, cha con mày đi làm ở đâu thế?"

Thanh Sơn trả lời: "Cũng chả có nghề ngỗng gì, chắc đi làm phu hồ, bốc gạch, làm thợ cốt thép thôi."

Quách Đại liếc nhìn Quách Nhị một cái rồi quay lại hỏi dò: "Hay là... Hai cha con mày đi đào mỏ than cùng bọn tao, kiếm được hơn đi làm mấy thứ linh tinh kia nhiều."

Quách Nhị giả bộ chen vào, nói: "Anh, không được đâu. Đã bảo là để cho hai chú Quách Tam và Quách Tứ đi rồi cơ mà, ông chủ mỏ có nhận người ngoài đâu."

Con trai Thanh Sơn tay nọ đút vào tay áo kia, hỏi: "Kiếm được bao nhiêu? Có đủ để chữa bệnh cho mẹ cháu không?"

Quách Đại nói: "Làm bằng nào kiếm bằng ấy, dù sao cũng nhiều gấp vạn đi làm phu hồ."

Thanh Sơn có phần do dự, rồi hơi ngượng ngùng hỏi: "Hay là thế này, để cha con tao nhập bọn, cùng đi làm với bọn mày được không?"

Quách Đại nói: "Thế mày thay chân Quách Tam, đến nơi nhớ gọi tao là anh cả, phải đổi sang họ Quách, vì trên đấy ông chủ không nhận người ngoài, sợ lắm chuyện rắc rối."

Thanh Sơn vội gật đầu, nói: "Quyết!"

Quách Đại nói với con trai Thanh Sơn: "Thằng bé này! Phải gọi tao là cha, gọi cha mày là chú, nghe chưa?"

Con trai Thanh Sơn gật đầu: "Được!"

Quách Đại hào hứng nói: "Mau mau mau, gọi cha xem nào!"

Con trai Thanh Sơn lễ phép gọi: "Cha!"

Quách Đại chỉ sang Quách Nhị, bảo: "Gọi chú mày đi!"

Con trai Thanh Sơn nghe lời, gọi: "Chú mày!"

Quách Đại đưa tay đập vào đầu thằng bé một cái, chửi: "Đúng là đồ ngu!"

Quách Đại nhắc lại mấy việc quan trọng. Làm việc dưới mỏ than vô cùng nguy hiểm, thường xuyên xảy ra các vụ tai nạn, nên chủ mỏ không muốn tìm người chưa quen việc, cũng không muốn người ngoài. Quách Đại và Quách Nhị giúp cha con Thanh Sơn làm giả chứng minh thư, rồi dặn đi dặn lại, nhất định không được để lộ thân phận thật, nếu không sẽ bị đuổi thẳng cổ, đến tiền công cũng đừng hòng lấy nổi.

Hai anh em nhà họ Quách sau một hồi khua môi múa mép đã khiến cha con Thanh Sơn tin sái cổ, rồi theo chúng đến mỏ than làm thuê. Chủ mỏ và người làm công phải kí bản giao kèo. Trên đó giấy trắng mực đen ghi rõ: "Nếu xảy ra tai nạn, mất một ngón tay đền năm mươi tệ, một mạng người đền ba vạn tệ."

Anh em nhà họ Quách lập mưu giết cha con Thanh Sơn dưới mỏ, rồi nguỵ tạo hiện trường thành vụ tai nạn sập mỏ, sau đó lại lấy danh nghĩa người nhà, đòi chủ mỏ phải bồi thường theo đúng giao kèo. Hành động giết người để lừa lấy tiền bồi thường này, trước đó chúng đã thực hiện nhiều lần. Do những người lang thang vô gia cư và những kẻ điên dở ngoài đường ngày càng ít, chúng không còn người thích hợp để thực hiện mưu đồ, nên quay về chĩa bàn tay ác quỷ của mình vào chính những người đồng hương lương thiện.

Trước khi bị giết, con trai Thanh Sơn, chàng trai tuổi mới lớn hiền lành đến độ ngờ nghệch quỳ xuống vừa khóc vừa nói: "Cha! Chú! Đừng giết cháu! Đừng giết cháu! Cháu còn phải kiếm tiền chữa bệnh cho mẹ nữa."

Quách Nhị ra bộ hiền từ: "Thôi được! Quay lưng lại, đừng có mở mắt ra!"

Con trai Thanh Sơn tin lời, vừa quay lưng lại vừa nói: "Giết cháu rồi, ai sẽ chăm sóc mẹ cháu đây!"

Quách Đại giơ cao chiếc xà beng trong tay, giáng đòn chí mạng xuống đầu chàng thanh niên, nói: "Nhưng... Mày đáng giá ba vạn cơ con ạ!"

Anh em nhà họ Quách xúc than đổ lên xác hai cha con Thanh Sơn, nguỵ tạo hiện trường sập hầm mỏ.

Trên đời có thứ đen hơn than, đó là lòng người!

Bột than chất đống trên hai xác chết giống như một nấm mồ. Trên người họ đang phủ đầy xác của những cây liễu từ thời cổ đại và những cây thì là hàng vạn năm về trước.

Những hầm mỏ tự phát kiểu này vốn đã không đủ an toàn, một khi xảy ra sự cố, chủ mỏ chỉ muốn làm sao để "chuyện lớn thành chuyện nhỏ, chuyện nhỏ thành không có", chẳng may để ngành than hoặc Cục Lao động phát hiện sập hầm chết người, thì ngoài việc bị phạt tiền, có khi còn bị đóng cửa luôn chứ chẳng chơi. Chủ mỏ đành nhanh chóng trả tiền cho xong chuyện. Anh em nhà họ Quách muốn đòi thêm tiền cấp dưỡng, vừa giả bộ đau thương, vừa mặc cả từng đồng. Sau một hồi đôi co qua lại, chủ mỏ lấy ra một khoản tiền bồi thường, hai bên kí xác nhận tai nạn ngoài ý muốn, không liên quan đến chủ mỏ.

Trong hơn một năm, anh em nhà họ Quách đã giết tám người. Ngoài cha con Thanh Sơn ra, còn lại đều là những người lang thang, điên dại ngoài đường. Trong mắt anh em họ, những người đó đều là tiền, mỗi mạng ba vạn tệ. Việc xử lí thi thể nạn nhân, chúng chọn lựa cách đơn giản nhất, đó là chôn vùi.

"Muốn hoả táng thì phải có giấy chứng tử." - Quách Nhị nói.

"Cái đấy có gì mà khó, ngoài kia đầy bọn làm giấy tờ giả, đến chứng minh thư, sổ hộ khẩu còn làm được, một tờ giấy chứng tử thì ăn nhằm gì." - Quách Tam nói.

"Vấn đề ở chỗ, hoả táng mất tiền. Tự nhiên mất đống tiền vô ích để làm gì?" - Quách Đại nói.

"Chứ còn gì nữa! Anh cả nói chuẩn quá còn gì! Em thấy, cứ kiếm chỗ nào kín kín, chôn quách đi cho xong." - Quách Tứ nói.

"Chôn đi! Đỡ tốn!" - Quách Ngũ hùa theo.

Anh em nhà họ Quách chôn tám cái xác xuống một khu đất trũng và hẻo lánh phía ngoài làng. Mãi đến sau này cảnh sát cũng không thể làm rõ được, ai là người đã đào một cái xác lên và lôi đến hang đất ngoài đê. Tổ chuyên án nghĩ đến người vợ điên của Thanh Sơn. Đối với một người điên mà nói, hành vi kì quặc này cũng không có gì là lạ.

Thế nhưng, làm cách nào cô ta phát hiện được nơi chôn xác?

Người phụ nữ điên lấy cục vôi viết chữ, cắm những cành cây dọc đường, đánh dấu khắp đầu thôn cuối xóm.

Người phụ nữ điên ấy lo sợ một ngày nào đó mình sẽ đi lạc, không còn tìm được đường về nhà, cho dù trời đã về đêm, cô ta vẫn lang thang khắp thôn xóm, cứ thế mà đợi chồng con mình trở về.

Bất luận ban ngày hay đêm tối, cô ta vẫn chờ, vẫn đợi, cho dù những người đó sẽ mãi mãi không trở về. Trong trái tim hỗn độn của người phụ nữ điên này, có phút hồi ức nào ấm áp hay không? Khi cô tỉnh táo, ngồi dưới ánh hoàng hôn, đan chiếc quần len cho chồng con mình, trong lòng cô đang nghĩ gì? Sau này, khi đến nhận di vật, vì sao cô lại khóc một tiếng lớn đến thế?

Rời xa một người, mới biết mình nhớ nhung đến mức nào.

Trước khi tổ chuyên án rời đi, xã Đại Trạch lại trút một trận mưa lớn...

Người phụ nữ điên đứng ngẩn ngơ giữa trời, nhìn vào ngôi nhà đá của mình, trên tường có chữ "nhà" rất lớn mà cô đã viết.

Trên khoảng ruộng cạnh nhà, những cây hướng dương đã thu hoạch hết, thân cây chém nửa, chỉ còn phần gốc ướt đẫm nước mưa. Những "trái" hướng dương cũng chính là hạt giống. Mỗi người đều có con đường của riêng mình, dẫu biết sẽ phải gặp sự lạnh lẽo của đêm đen và khổ nhọc của mưa gió, nhưng chỉ cần dũng cảm bước tiếp, sẽ đến một ngày ta tìm thấy đóa hoa của riêng mình, một đoá hướng dương rực nở, vẫn đứng đó mãi chờ chúng ta.

Đoá hướng dương trong lòng mãi mãi không bao giờ tàn úa.

Tổ chuyên án quyết định đến nhà thím Hai của Thanh Sơn. Trước khi cha con Thanh Sơn đi làm đã gửi người phụ nữ điên cho bà thím Hai chăm sóc, thế nhưng bà ta đến một miếng cơm cũng chẳng cho ăn. Chẳng còn ai trông nom, không còn ai quan tâm chăm sóc, người phụ nữ điên gầy như bộ xương khô, cứ như thế này chẳng biết cô ta còn trụ nổi bao lâu nữa.

Thím Hai của Thanh Sơn biện minh, rằng tại Thanh Sơn không để lại tiền nuôi dưỡng.

Giáo sư Lương lấy ra một số tiền đưa cho bà thím. "Ông cụ" đáng yêu nói bằng giọng vừa nghiêm túc, vừa có phần uy hiếp: "Tiền này là của Cục Cảnh sát để ở nhà chị, không được tiêu lung tung. Nhà chị ăn gì thì cũng cho cô ta một miếng. Nếu để cô ta chết đói, chúng tôi sẽ bắt chị cho vào tù đấy!"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #doli