Yamamoto va nhung tran danh tai TBD 4
Kế đó, tôi xoay sang tìm hiểu các cuộc hành quân ở New Guinea, và nhận thấy hầu hết đang sa lấy. Lục quân cố gắng điều động một sư đoàn ở Buna, nằm trên bờ biển phía đông Papua, xuyên qua rặng núi Owen Stanley để tiến đến hải cảng Moresby. Hầu hết binh sĩ đã bỏ thây trong rừng núi. Trong khi Hải quân gặp nhiều rắc rối quanh hòn đảo Guadalcanal, lực lượng viễn chinh của Lục quân thiếu thốn lương thực đến nỗi chết đói ở Papua. Trong lúc địch quân tiến như vũ bão qua các vùng rừng rậm Papua ở New Guinea, quân Nhật tuần tự rút lui khỏi Gona ngày 9 tháng 12 năm 1942, Buna ngày 14, Madang và Wewak bốn ngày sau đó. Tuy nhiên, trận hải chiến Bismarck đã gây xúc động cho tôi hơn là hàng loạt các khu vực bị bỏ rơi này. Chiến bại Bismarck của Nhật là một chiến bại hầu như không thể nào tin được. Hai phi trường chính của Nhật là Lae và Salamana, ở phía Đông New Guinea, được giao cho Lục quân vào ngày 15 tháng 11. Lục quân quyết định tăng cường hai phi trường này bằng cách chuyển 1 lực lượng ở Rabaul đến. Lực lượng này được đưa xuống 8 tàu chuyển vận, với 8 khu trục hạm hộ tống, khởi hành vào ngày 28 tháng 2. Vị chỉ huy đoàn tàu chuyển vận, Đề đốc Masatomi Kimura, đã trù tính yêu cầu không quân bao che đoàn tàu của ông, nhưng trước khi việc này được thực hiện, liên tiếp hai ngày 2 và 3 tháng Ba, hơn 100 phi cơ địch ào đến tấn công đoàn tàu chuyển vận giữa thanh thiên bạch nhật. Kết quả, tất cả các chuyển vận hạm và 4 trong số các khu trục hạm hộ tống bị đánh chìm. Vào ngày thứ hai của cuộc không kích, 26 phi cơ Hải quân Hoàng Gia Nhật bay đến để bao che cho đoàn tàu chuyển vận, nhưng vì bay quá cao nên không kịp ngăn chặn các phi cơ sà thấp của địch. Hơn 3.500 binh sĩ bị chôn vùi dưới đáy biển trong trận đánh này. Một cuộc đại bại chưa từng thấy. Nó hoàn toàn trái hẳn cuộc triệt thoái thành công ở Guadalcanal. Bây giờ tôi có thể hiểu tại sao Phó Đô đốc Kondo mang dáng vẻ tiều tụy như vậy khi tiếp tôi. Ngay lúc tôi còn suy nghĩ xem tại sao một việc như vậy có thể xảy ra, Đề đốc Kan Takama bước vào phòng tài liệu. Vì muốn tìm hiểu thêm, tôi yêu cầu ông giải thích rõ hơn về cuộc bại trận khủng khiếp ở biển Bismarck. Ông nói: "Cuộc hành quân chuyển vận được thi hành với tất cả sự thận trọng đúng mức, nhưng sự bao che của không quân hoàn toàn khiếm khuyết. Ở Guadalcanal, kế hoạch của chúng ta thích đáng, cuộc triệt thoái được giữ bí mật từ đầu đến cuối, địch quân không thể nào đánh hơi được. Sự thành công ngoạn mục của cuộc triệt thoái này có lẽ đã khiến cho các nhà lãnh đạo Lục quân nghĩ rằng họ có thể liều lĩnh thực hiện một cuộc chuyển quân mà không cần phải có sự chuẩn bị và yểm trợ đầy đủ. Một điều chắc chắn nhất đưa đến thảm bại: Lục quân không cung cấp cái ô không quân thích đáng cho đoàn tàu chuyển vận trên biển Bismarck." Đề đốc Takama rời khỏi phòng tài liệu. Tôi tiếp tục đọc các hồ sơ ghi lại những biến cố quan trọng khác. Vào ngày 5 tháng 3, hai khu trục hạm là Minegumo và Murasame bị đánh chìm ở Vịnh Kula mà không bắn được phát đạn nào hết. Địch quân đã sử dụng hỏa lực có radar điều khiển để hạ hai chiếc tàu này. Tôi rời khỏi soái hạm Atago với tâm tư trĩu nặng. Khi đặt chân lên bờ,tôi mới nhận thấy có biết bao nhiêu đổi thay đã xảy ra trong vòng 5 tháng qua. Trong Câu Lạc Bộ Sĩ Quan , tôi gặp Đại tá Tomiji Koyanagi, Tham mưu trưởng của Phó Đô đốc Kurita.Chúng tôi ngồi chung bàn. Thảm kịch biển Bismarck vẫn còn lảng vảng trong tâm trí tôi, và không do dự, tôi hỏi ý kiến của Konayagi về cuộc đại bại này. Ông ta nói: "Đề đốc Kimura đã thuật lại là các oanh tạc cơ đã sử dụng phương pháp oanh tạc mới để tấn công đoàn tàu chuyển vận của ông. Theo đó, các oanh tạc cơ khổng lồ đã lướt tới như làn sóng rồi thả bom xuống mặt nước, và mấy quả bom này sẽ nhảy đến đâm vào cạnh sườn của các chiến hạm. Những phương thức tránh né cổ điển của các chiến hạm Nhật đều tỏ ra không còn hữu hiệu với chiến pháp được mệnh danh là :oanh tạc nhảy" này nữa. Ban đầu Kimura nghĩ rằng địch đã sử dụng một loại ngư lôi trang bị cho phi cơ để thực hiện phương pháp oanh tạc mới này. Lối thả bom từ trên cao xuống các chiến hạm đang di động trên mặt biển không đạt kết quả mấy, do đó địch quân đã phát triển phương pháp oanh tạc mới này cốt ý đương đầu với các nỗ lực tránh né xưa nay của chúng ta. Hiện tại chúng tôi đang lo nghĩ, không biết làm cách nào để chống lại phương pháp oanh tạc nhảy. Anh có ý kiến gì không?"**********Ngày hôm nay bao nhiêu chuyện dồn dập đầy kinh ngạc khiến tôi phải vắt hết tim óc ra để suy nghĩ. Tôi cảm thấy như một tên học trò ngày đầu tiên bước chân vào trường. Tôi quay lại chiếc Shigure với cơn đau đầu như búa bổ. Sau khi sắp xếp cho thủy thủ lên bờ, tôi rã rời bước vào cabin, và ròng rã 24 tiếng đồng hồ, không lúc nào ngừng nghĩ tìm các câu giải đáp cho các vấn đề mới mẻ vừa nổi lên trong cuộc chiến. Cuối cùng, tôi gạt tất cả sang một bên, vì nhận thấy vấn đề này quá xa vời nếu so sánh với vấn đề trước mắt: Một thủy thủ đoàn chưa được huấn luyện để chiến đấu của tôi. Tôi phải bắt đầu từ căn bản. Sau ngày thủy thủ đoàn được cho lên bờ rong chơi, tôi bắt đầu huấn luyện họ liên tục trong hải vực quanh Truk. Tôi đã biết ơn Phó Đô đốc Kondo, nhận thấy ông quá cao kiến khi dành một khoảng thời gian cho tôi thực hiện việc này. Bởi vì cũng cần ít ra khoảng ba tháng mới khép thủy thủ đoàn vụng về của tôi vào quy củ. Theo kế hoạch huấn luyện, tháng đầu tiên tôi kiên nhẫn chỉ họ các căn bản đi tàu, và nếu điều chỉ dạy nào xét thấy họ không lĩnh hội được, tôi đích thân chứng minh và điều khiển cuộc tập dượt, nhiều khi lập đi lập lại hàng chục lần. Thoạt đầu họ có vẻ chán nản nhưng dần dần ham thích và hăng hái thi hành các mệnh lệnh tôi đưa ra. Họ không đến nỗi tồi tệ như tôi tưởng. Nhưng trong suốt thời gian huấn luyện này, tôi thường hay bị ám ảnh về tình hình thật sự của cuộc chiến, qua các hồ sơ mà tôi đã được xem trên soái hạm Atago. Một tháng trôi qua, tôi bắt đầu cảm thấy gặp phải một vấn đề không thể nào hiểu nổi. Do kinh nghiệm thu thập được trong các trận đánh của năm qua, tôi nhận thấy có nhiều hành động đã được lặp đi lặp lại với cùng một phương thức. Khi một chiến thuật được áp dụng thành công thì y như là nó sẽ được Hải quân Hoàng Gia áp dụng lại, không thay đổi một chút nào, và kết quả thường là thảm họa. Cuộc pháo kích dữ dội vào Guadalcanal vào tháng 10 năm rồi, do hai thiết giáp hạm Kongo và Haruna của Phó Đô đốc Kurita thực hiện là một thành công lớn. Một tháng sau đó, Đề đốc Abe được lệnh tái sử dụng phương pháp tấn công này với hai thiết giáp hạm Hiei và Kirishima. Nhưng với lần ăn quen này, Hải quân không những chạm được một quả đạn nào vào hòn đảo mà còn khiến cho thiệt mất cả hai tàu chiến. Với thảm họa biển Bismarck vào tháng hai, 12 trong số 16 chiến hạm của Đề đốc bị đánh chìm, làm tan hẳn cố gắng chuyển quân tăng viện đến Lea và Salamaua của ông. Kế hoạch chuyển quân này rõ ràng giống hệt như kế hoạch chuyển quân thành công đến Buna trước đó. Nhưng sự lặp lại này được xem là không biết suy xét, và thời gian sáu tháng sau cuộc chuyển quân đến Buna, sức mạnh không quân địch trong khu vực đã gia tăng. Đề đốc Tanaka đã thực hiện một loạt cuộc hành quân vận chuyển đến Guadalcanal vào hai tháng 11 và 12 năm 1942. Sau đó, một nhóm khu trục hạm khác được các sĩ quan thiếu khả năng cầm đầu, đã cố gắng lặp lại hành động của Tanaka, nhưng chỉ đưa đến các thảm bại, như cuộc thảm bại Vịnh Kula ngày 5 tháng 3 chẳng hạn. Khăng khăng như vậy là ngu dốt. Qua các sự việc vừa nói, có vẻ như Hải Quân Hoàng Gia cho rằng địch quân là những kẻ luôn luôn bị đánh lừa trước trò chơi của chúng tôi. Và qua các sự việc vừa nói, bắt tôi nhớ lại những dòng được ghi trong quyển truyện ký của Mishashi Miyamoto, một kiếm khách siêu việt mà tôi từng đề cập đến: "Trong khi chiến đấu mà lặp lại một phương thức từng được sử dụng quả là một điều tệ hại, và còn tệ hại hơn nữa nếu lặp lại lần thứ ba. Khi mà một cố gắng thất bại, có thể cố gắng lần thứ hai. Nhưng nếu cố gắng này thất bại nữa, phải lập tức đổi thay phương thức, và cứ tiếp tục thay đổi như thế. Khi đối thủ nghĩ cao, mình đánh thấp, khi đối thủ nghĩ thấp, mình sẽ đánh cao. Đó là bí quyết của kiếm thuật." Tôi có ấn tượng lời khuyên này có thể ứng dụng cho tình thế hiện tại của chúng tôi. Tôi quyết định chuyển các ý kiến của tôi lên Đô đốc Isoroku Yamamoto.
Tôi không thể nào tự tiện bước vào văn phòng của Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp và trực tiếp trình bày các ý kiến này với ông. Do đó, vào ngày 24 tháng 4 năm 1943, tôi đến soái hạm Mushashi để giải thích các ý kiến của tôi với Tham mưu trưởng của Yamamoto là Phó Đô đốc Matome Ugaki. Chỉ có một chuẩn úy đó tiếp tôi tại cầu thang của chiếc thiết giáp hạm khổng lồ này. Đây là một việc khác thường, không đúng nghi lễ đón tiếp một vị chỉ huy trưởng Hải đội, Khi tôi cho biết muốn gặp Phó Đô đốc Ugaki, viên chuẩn úy nhìn tôi trừng trừng, đôi mắt có vẻ đờ đẫn. Im lặng hồi lâu, hắn yêu cầu tôi theo hắn. Chúng tôi đi qua nhiều đường lối quanh co và lên xuống các cầu thang trong chiếc soái hạm khổng lồ. Tôi không gặp các sĩ quan nào hết, còn các thủy thủ thì hình như có vẻ ngơ ngác và chán nản. Khi chúng tôi đến căn phòng bên ngoài đề hàng chữ "Tổng Tư Lệnh", viên chuẩn úy mở cửa và nhường lối cho tôi bước vào. Trong căn phòng vừa đủ sáng, mùi nhang đốt xông ra ngào ngạt, và chính giũa căn phòng này, trên một chiếc bàn rộng lớn có trải thảm, 7 chiếc hòm được xếp thành hàng. Tôi xoay sang viên chuẩn úy dọ hỏi. Hắn cúi đầu và đáp thật nhỏ: "Ngày Chủ Nhật vừa qua, từ Rabaul, Đô đốc Yamamoto và Bộ tham mưu của ông sử dụng hai chiếc oanh tạc cơ để bay đi miền Nam. Khi hai chiếc phi cơ đến gần không phận Buin thì bị các chiến đấu cơ P-38 của Hoa Kỳ đột kích và bắn rơi. Các chiến đấu cơ này chắc chắn cất cánh từ phi trường Guadalcanal. Bảy chiếc hòm này đựng thi hài của Tổng Tư Lệnh và sáu người khác trong số các sĩ quan tham mưu của ông. Phó Đô đốc Ugaki và những người khác bị thương trầm trọng." Một việc không thể nào tưởng tượng được, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Mắt tôi đã thấy và tai tôi đã nghe. Lệ dâng đầy đôi mắt khi tôi cúi đầu cầu nguyện cho sự yên nghỉ của những người đã chết.
Chương 4: NHỮNG ĐỐI THỦ VƯỢT TRỘI
Tôi được thăng cấp Đại tá vào ngày 1 tháng 5 năm 1943. Hạm trưởng của Shigure, Thiếu tá Kimio Yamagami, tổ chức buổi tiệc mừng tôi được tân thăng. Và tôi là khách danh dự của buổi tiệc này. Sĩ quan chật ních phòng, chúc tụng tôi nồng nhiệt và thi nhau mời tôi uống rượu sake. Sau hai tuần rượu, Thiếu tá Yamagami lên tiếng với vẻ lưỡng lự: "Suốt 40 ngày ròng rã khổ nhọc, toàn thể thủy thủ đoàn đã làm việc không phút nào nghỉ ngơi. Tôi thấy rằng nên để họ được xả hơi một chút. Tối nay trên tàu sửa chữa Akashi có một buổi chiếu phim, kính thưa Đại tá, Đại tá nghĩ rằng tôi có nên cho phép họ đi xem hay không?" Từ chối lời đề nghị hợp lý này thật khó cho tôi, nhưng tôi giải thích: "Tôi biết chúng ta đang phải chịu đựng một thời gian gò bó. Ở trên tàu bảy ngày một tuần tuy quá nhiều nhưng rất cần thiết. Các anh đừng nghĩ rằng tôi nghiêm khắc với các anh. Tình thế đòi hỏi chúng ta không được nghỉ ngơi một phút nào cả. Tôi mong các anh hiểu cho." Yaganami đúng là một con người trầm lặng, ông ta không nói gì thêm. Nhưng Đại úy Toshio Doi, sĩ quan ngư lôi trưởng lên tiếng: "Kính thưa Đại tá, tôi nghĩ thủy thủ đoàn khó có thể làm việc hữu hiệu nếu họ không được một phút nghỉ ngơi, giải trí nào. Tôi nghĩ họ cần có những giây phút thoải mái." Tôi đáp: "Việc gò bó này có vẻ sai lầm thật đấy, nhưng cũng nên biết rằng toàn thể thủy thủ đoàn của chúng ta chưa lần nào ra trận, nơi mà chỉ vấp phải một sai lầm nhỏ thôi, cũng đủ gây ra sự mất còn của chiếc tàu, của thủy thủ đoàn và của chính sinh mạng chúng ta. Các thủy thủ sẽ nghĩ rằng tôi quá nghiêm khắc và chắc họ sẽ oán trách tôi, nhưng tôi mong rằng các anh, những vị sĩ quan của họ, hiểu rằng tôi phải áp dụng một cuộc sống gò bó như vậy, bởi vì thà chịu đựng sự khổ nhọc trong thời gian tập luyện còn hơn là phải thiệt mạng với địch quân." Bầu không khí nặng nề chợt phá tan khi Đại úy Hiroshi Kayanuma, cơ khí trưởng, lên tiếng: "Thưa quý vị, tôi đồng ý những gì mà Đại tá Hara vừa nói. Trong những tháng vừa qua, rất nhiều khu trục hạm của chúng ta bị đánh chìm, và chính Đại tá Hara đã chứng kiến tận mắt cảnh tượng đó. Chúng ta rất may mắn được chỉ huy bởi một người đã có nhiều kinh nghiệm quý báu. Chúng ta phải biết lợi dụng tài năng và kinh nghiệm này của Đại tá Hara, để áp dụng cho chính bản thân mình. Ai chưa biết rõ Đại tá Hara ở hiện tại thì tôi mong rằng trong những ngày sắp tới sẽ hài lòng để nhìn thấy sự lỗi lạc của ông." Thiếu tá Yamagami cùng với các sĩ quan nâng ly mời tôi tuần rượu chót. Sau buổi tiệc, tôi nói với Thiếu tá Yamagami: "Tôi cảm thấy có lỗi với Thiếu tá về việc tôi đã nghiêm khắc thái quá đối với thuộc cấp của Thiếu tá. Đúng ra, một vị chỉ huy trưởng hải đội phải trao toàn quyền điều khiển chiếc tàu cho hạm trưởng. Tôi không biết giải thích làm sao để mọi người hiểu rằng tôi buộc lòng phải nắm trong tay việc điều khiển chiếc Shigure. Tôi nhìn nhận tinh thần hợp tác của Thiếu tá và hy vọng rằng một ngày nào đó Thiếu tá sẽ hiểu."
Thiếu tá Yamagami gật đầu một cách khiêm tốn. Giả sử ông ta là một người ương ngạnh và bướng bỉnh thì với tư cách hạm trưởng của Shigure, ông ta sẽ gây ra cho tôi không biết bao nhiêu là nỗi bực bội. May mắn thay, ông ta đã chứng tỏ là một cộng sự viên rất đắc lực và biết tuân lệnh.
Sau sáu tuần huấn luyện khổ nhọc, Shigure được chỉ định vào công tác phòng duyên ở Truk. Công tác này bao gồm việc bảo vệ những chuyển vận hạm ra vào hải cảng và ngăn ngừa tiềm thủy đĩnh của địch quân len lỏi tấn công. Công tác nhẹ nhàng này không hề làm cản trở chương trình huấn luyện của chúng tôi.
Trong khi đó, tình hình chung của cuộc chiến không mấy sáng sủa đối với Nhật Bản. Sau khi triệt thoái khỏi Guadalcanal, lực lượng Nhật rút về trú đóng tại một chuỗi đảo khác nằm ở phía trên quần đảo Solomon. Nhưng khả năng tấn công của địch càng lúc càng mạnh mẽ và nhanh chóng hơn khả năng phòng thủ của Nhật Bản. Đô đốc Mineichi Koga, kế nhiệm Đo đốc Yamamoto trong chức vụ Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp vẫn tiếp tục theo đuổi chiến thuật của vị tiền nhiệm. Ông đã áp dụng chiến thuật tấn công lẻ tẻ, bằng cách phân tán các tuần dương hạm và khu trục hạm ra từng nhóm nhỏ. Chiến thuật "tiêu hao" này được tung ra cả ngày lẫn đêm, đã gặt hái được một số chiến thắng nhỏ, nhưng vẫn không xoay nổi dòng thủy triều của cuộc chiến. Cùng với việc triệt thoái ra khỏi vùng Guadalcanal, những lực lượng tinh nhuệ của Nhật đóng tại quần đảo Solomon rút về New Georgia. Tại đây, Nhật có những căn cứ trên hòn đảo chính Munda và các đảo phụ cận Kolombangara. Trong khu vực này, Nhật có khoảng chừng 10.500 quân. Ngày 30 tháng 6 năm 1943, lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ đã chĩa một mũi dùi vào khu vực này, qua các cuộc đổ bộ lên phía Bắc hai đảo Rendova và Vangunu. Các cuộc đổ bộ này là mối đe dọa trầm trọng cho những căn cứ của Nhật Bản trong khu vực, do đó Đô đốc Koga đã phải ra lệnh tăng cường đến mức tối đa cho các đạo quân trú phòng. Các khu trục hạm của chúng tôi được chỉ định vào công việc chuyển quân tăng cường này. Những chiến hạm vừa chở đầy người và đồ tiếp liệu, vừa phải đối đầu với địch quân vượt trội trong những trận đánh dữ dội xảy ra vào những ngày 4,6,12 và 19 tháng 7. Tưởng rằng với sự cách biệt rõ rệt giữa lực lượng hai bên, phần thất bại sẽ nghiêng về phía chúng tôi. Nhưng trái lại, những chiến hạm nhỏ bé nhưng can đảm này đã gặt hái được những thành tích lớn. Đặc biệt nhất là chiến công sáng chói của 5 khu trục hạm tại Vịnh Kula vào đêm 12 tháng 7. Trong cuộc quần thảo tại Vịnh Kula, lực lượng Nhật gồm có tuần dương hạm hạng nhẹ Jintsu và các khu trục hạm Yukikaze ( đồng đội cũ của tôi) , Hamakaze, Mikazuki, Ayanami và Yugure chống lại với một lực lượng địch gồm đến 3 tuần dương hạm hạng nhẹ, hai của Hoa Kỳ và 1 của New Zealand, và 10 khu trục hạm. Trận chiến bắt đầu lúc nửa đêm, khi tuần dương hạm Jintsu đáp nhầm lại tín hiệu cho một tàu Hoa Kỳ và bị đánh chìm ngay lập tức bởi một hỏa lực tập trung mãnh liệt. Trận chiến tiếp diễn, tuần dương hạm Leander của Hoa Kỳ bị chiến hạm Nhật phóng ngư lôi loại ra khỏi vòng chiến. Lực lượng Đồng Minh vấp phải một sai lầm khi chia lực lượng ra làm hai nhóm vào lúc ấy. Một trong hai nhóm đã thất bại nặng khi lâm chiến với các khu trục hạm Nhật. Năm khu trục hạm Nhật đã lướt sóng tung hoành giữa nhóm tàu thứ hai này của địch quân, và đã loại ra khỏi vòng chiến hai tuần dương hạm St Louis và Honolulu, đồng thời đánh chìm khu trục hạm Gwim. Trong cơn hỗn loạn của trận chiến, hai khu trục hạm của Hoa Kỳ là Woodworth và Buchanan va chạm nhau. Các chiến hạm Nhật quay mũi về căn cứ, tuy bị thiệt hại, nhưng là thiệt hại trong chiến thắng. Đối với Nhật, việc mất mát tuần dương hạm Jintsu, so với sự thiệt hại mà khu trục hạm Yukikaze và các đồng đội gây ra cho ba tuần dương hạm và 3 khu trục hạm Đồng Minh, có vẻ đắt giá hơn nhiều. Tại Truk tôi cảm thấy có một chút ganh tị khi nghe được chiến công của khu trục hạm Yukikaze. Chiếc Yukikaze cùng hạ thủy một lượt với chiếc Amatsukaze của tôi hồi cuối năm 1942, nhưng nó chưa đạt được một chiến công hiển hách nào trước đó, chỉ được thành tích là chiến hạm duy nhất còn tồn tại trong trận hải chiến Bismarck mà không hề mang một thương tích nào. Nhờ trận hải chiến tại Vịnh Kula chiếc Yukikaze trở thành một trong những khu trục hạm nổi tiếng. Tôi định tâm cho chiếc Shigure của tôi ganh đua chiến công với chiếc Yukikaze khi chúng tôi được lệnh di chuyển đến Rabaul vào ngày 20 tháng 7.Tôi rất sung sướng nhận được lệnh di chuyển. Từ trước đến sau, tôi chỉ là một Chỉ huy trưởng Hải đội trên danh nghĩa, vì tất cả các chiến hạm của tôi đều phân phối cho các bộ chỉ huy khác, ngoại trừ chiếc Shigure. Hai trong số khu trục hạm của tôi là chiếc Yugure và Ariake bây giờ đang ở Rabaul. Do đó khi nghĩ đến ba chiến hạm dưới quyền tôi sẽ gặp nhau, tự nhiên tôi thấy phấn khởi. Tôi cũng biết được chiếc Yugure vừa trở về từ trận đánh vinh quang ở Vịnh Kula với nhiều thành tích đáng kể. Với kinh nghiệm đã qua, chiếc tàu này sẽ là một tài sản quý giá của Hải đội. Toàn thể thủy thủ đoàn Shigure đều chia sẻ cảm giác này với tôi, và tinh thần của họ lên cao khi nghe tin những thành tích mà chiếc Yugure đã gặt hái được. Chịu đựng sự huấn luyện gian khổ trong suốt bốn tháng trời ròng rã, tất cả mọi người đều mệt mỏi, nhưng trước viễn tượng sẽ được dịp thử sức với địch quân ngoài mặt trận, nỗi mệt mỏi này đã tan biến. Chất đầy những bộ phận phi cơ mà Rabaul rất cần đến, chiếc Shigure hướng về phía Nam với tốc độ đều đặn 18 hải lý. Tôi không thể nào tưởng tượng được rằng chỉ qua bốn tháng huấn luyện, đã làm biến đổi một thủy thủ đoàn thiếu tinh thần, làm việc rời rạc trước đây, trở thành một thủy thủ đoàn làm việc hăng say, có tinh thần đồng đội cao độ. Trong suốt thời kỳ huấn luyện, tôi tiết kiệm những lời khen thưởng, nhưng họ cũng đã thi hành bổn phận một cách tốt đẹp. Kinh nghiệm thực tế đã dạy cho tôi hiểu rằng hành động thật sự sẽ giúp cho ta hiểu biết nhiều hơn là hàng ngàn lần thao dượt. Có lẽ tôi cần phải tiết kiệm lời khen thưởng cho đến lúc nào họ thật sự chịu đựng được một cách can đảm trước khói lửa, và tôi cũng hy vọng nhờ vào những thử thách cam go, sự yếu kém của họ sẽ được điền khuyết. Bây giờ tôi thèm khát được chiến đấu. Khu trục hạm Yukikaze đã thành công, Shigure cũng sẽ thành công. Đoạn hải trình đến Rabaul không có gì xảy ra, và chúng tôi cập bến vào ngày 23 tháng 7. Tôi lập tức trình diện Tổng hành dinh ở đây. Một sĩ quan tham mưu đã lặng lẽ trao tôi một bản tin. Tôi xem vội vã và chết điếng người. Bản tin cho biết hai khu trục hạm Yugure và Kiyonami đã bị đánh chìm tại phía Nam Choiseul vào ngày 20. Hai chiếc tàu này nằm trong thành phần các khu trục hạm có nhiệm vụ vận chuyển đồ tiếp tế đến Kolombangara, bị gián đoạn một tuần lễ trước đó và đang được cố gắng thực hiện lại. Toàn thể thủy thủ đoàn mất tích, gồm 228 người của chiếc Yugure và 240 người của chiếc Kiyonami. Như vậy, tính ra địch quân đã phục thù được tổn thất của họ tại Vinh Kula trong vòng có một tuần lễ. Ngay sau khi chiếc Shigure đổ hàng xong xuôi, tôi báo cho thủy thủ đoàn biết câu chuyện đã xảy ra cho hai chiếc khu trục hạm bất hạnh trên. Toàn thể thủy thủ lắng nghe một cách im lặng, và theo tôi ghi nhận, họ đã bắt đầu cảm thấy tất cả những gì mà họ đã phải chịu đựng trong lúc tập dượt không phải là vô ích. Hải đội 27 Khu trục hạm vẫn còn đặt dưới quyền chỉ huy của tôi, dầu chỉ trên danh nghĩa. Nhưng khu trục hạm Ariake cùng với hai chiếc khác trở về vào ngày 21, sau khi thành công trong nhiệm vụ chuyển vận đến Kolombangara kế tiếp chuyến đi thất bại của Yugure và Kiyonami. Cả ba đã chọn hải trình Vịnh Vella để di chuyển thay vì Vịnh Kula. Lực lượng hùng hậu của địch, gồm 4 tuần dương hạm và 3 khu trục hạm, vẫn còn lảng vảng tại Vịnh Kula, nhưng không sao phát giác được tung tích của 3 khu trục hạm Nhật, cho mãi đến khi chúng tiến được vào mặt này và ra đi ở mặt kia của đảo Kolombangara. Rabaul, căn cứ tiếp liệu cho tất cả lực lượng Nhật Bản trấn đóng trên quần đảo Solomon và New Guinea, là địa điểm đã xảy ra những trận đánh khốc liệt nhất vào mùa hè 1943. Khu trục hạm Shigure được phép tạm nghỉ xả hơi, nhưng tất cả thủy thủ đoàn luôn luôn nằm trong tình trạng ứng chiến trong suốt 6 ngày, và sau đó được lệnh cùng 3 chiến hạm khác, thuộc Phân đội 4 Khu trục hạm, lãnh nhiệm vụ chuyển vận đồ tiếp tế đến Kolombangara lần nữa. Chúng tôi bắt buộc phải sử dụng hải trình xuyên qua Vịnh Vella mà cách đây 10 ngày chiếc Ariake đã di chuyển. Hải trình này rất "an toàn" như Tổng hành dinh Rabaul đã cho chúng tôi biết. Tuy nhiên chúng tôi phải dè dặt bởi vì, theo như nhận xét của riêng tôi, việc lặp lại thường xuyên một phương thức đã từng được sử dụng thường rước lấy thảm họa. Chúng tôi không tin được các tuần dương hạm và khu trục hạm của địch quân có thể lại phí phạm một cách vô ích thời gian và nhiên liệu tại Vịnh Kula. Thảm kịch đã xảy đến cho hai chiếc Yugure và Kiyonami có lẽ là một bằng chứng khá đủ để không cho phép chúng tôi xem thường khả năng của đối phương một cách khờ khạo như thế. Ngày 1 tháng 8, chúng tôi rời hải cảng Rabaul ra khơi theo đội hình hàng dọc. Chiếc Amagiri lãnh nhiệm vụ hướng dẫn và thám báo nên không chở theo gì cả. Ba khu trục hạm theo sau, Hagikaze, Arashi và Shigure, đều chất đầy người và hàng hóa. Tổng số lên đến 900 binh sĩ và 120 tấn tiếp liệu. Chuyến ra khơi thực sự lần đầu tiên trong năm này, tôi cảm thấy âu lo. Trong thời gian tôi vắng mặt, các hải vực thuộc miền trung Solomon này là nơi nhận chìm rất nhiều khu trục hạm nổi tiếng của Nhật. Ba khu trục hạm Kagero, Huroshio và Oyashio, từng tạo những chiến công oanh liệt ngoài khơi đảo Savo cho Đề đốc Tanaka, đã bị phi cơ địch và mìn nhận chìm vào ngày 8 tháng 5 năm 1943. Nagatsuki, chiếc tàu đã cùng tham chiến với tôi tại biển Java, và chiếc Niizuki đã vùi sâu trong hải vực này hồi tháng 7. Hatsuyuki, người hùng của trận Savo vào tháng 10 năm 1942, đã nổ tan xác và chìm sâu xuống biển cả mênh mông gần Bougainville vào ngày 17 tháng 7 năm 1943 Mãi suy nghĩ về những chuyện đã xảy ra mà tôi quên rằng mình đang đứng trên đài chỉ huy của chiếc Shigure. Nhìn đại dương bao la và đen thẫm trước mặt, tôi tự hỏi không biết bao nhiêu chiếc, và chiếc nào trong số 4 khu trục hạm do tôi chỉ huy, có thể vượt thoát được cơn sóng gió sẽ xảy đến trong lần ra khơi này? Khi đêm xuống hẳn, tôi cảm thấy nhẹ người. Với màn đêm đen như mực này, hy vọng phần lợi thế sẽ nghiêng về phía chúng tôi. Chúng tôi tiến vào eo biển Blackett. Đoạn nằm giữa Kolombangara và ba đảo nhỏ hơn, đến tận phía Tây Nam của eo biển này rất hẹp, đầy dẫy đá san hô và nhiều chỗ rất nông kéo dài cả Km. Tôi ra lệnh cho tàu tắt máy trước khi đến điểm hẹn. Ba chiếc tàu chở đầy nghẹt hàng hóa và binh sĩ lặng lẽ lướt tới. Hàng chục chiếc tàu nhỏ từ trong bờ chạy nhanh ra để nhận hàng và người. Công việc diễn ra chỉ trong vòng 20 phút, tất cả hàng tiếp tế và binh sĩ đều được chuyển đi. Chúng tôi nhẹ hẳn người khi nhận được đèn hiệu của chiếc Hagikaze: "Quay trở về."Khu trục hạm Amagiri đã thoát chạy trước dẫn đường trong khi 3 chiếc khác còn lo cho máy chạy lại. Trong vòng 5 phút, chúng tôi rời khỏi điểm đổ hàng, chạy ngược trở lại đoạn hải trình nguy hiểm, đầy dẫy chướng ngại vật của eo biển Blackett. Tôi đã lưu ý đài chỉ huy và các quan sát viên của chiếc Shigure phải cẩn thận. Trong khu vực này địch quân đã giăng một mạng lưới tình báo rất chặt chẽ, có thể họ đã biết được những hoạt động của chúng tôi. Họ có thể xuất hiện để tấn công chúng tôi, tại bất cứ khoảng nào thuộc vùng đá ngầm của eo biển Blackett này. Di chuyển hơn 10 phút, chúng tôi bắt đầu cho tàu chạy 30 hải lý một giờ để lướt nhanh qua đoạn hải trình nguy hiểm, mà ngay cả trong thời bình cũng không có một chiếc nào dám di chuyển ban đêm với tốc độ quá 12 hải lý một giờ, dầu mở sáng tất cả các đèn. Dĩ nhiên, hiện thời chúng tôi phải di chuyển âm thầm. Khí trời ban đêm thật oi bức, nhưng mồ hôi lạnh lại lấm tấm trên trán của mọi người. Chúng tôi di chuyển qua Arundel, Wana-Wana và đến ngang Gizo thì bắt kịp khu trục hạm Amagiri. Chúng tôi tiếp tục di chuyển theo đội hình hàng dọc, mỗi chiếc cách nhau 600m. Mắt tôi, nhìn rất rõ trong đêm tối, chợt nhìn thấy một vật nhỏ màu đen đang di chuyển khá nhanh trên mặt biển, ở mạn trái con tàu. Vật màu đen này di chuyển về hướng chiếc Ammagiri, đang chạy phía trước chiếc Shigure chừng 1.500mChưa xác định rõ vật đen đó là gì, nhưng tôi tự nói với mình "tàu địch mò đến", và cố trấn áp hồi hộp. Vật đen mờ dần trong đêm tối, và biến mất hẳn. Không một tiếng nổ, không một ánh đèn, không một tiếng súng nào. Thật là kỳ quái. Ngay lúc đó, hoạt động trên Amagari có vẻ rộn ràng, và từ chiếc tàu này, một tín hiệu bằng đèn được gửi đi: "Gặp các ngư lôi đĩnh địch. Một chiếc bị đụng và chìm."
Súng trên hai khu trục hạm Hagikaze và Arashi bắt đầu khai hỏa. Tôi nhận thấy hàng loạt đạn như mưa tuôn ra từ tả mạn của hai chiếc tàu này. Hai ngư lôi đĩnh địch bốc cháy dữ dội, soi sáng cả quang cảnh xung quanh hai khu trục hạm Arashi và Hagikaze. Tôi cũng ra lệnh cho chiếc Shigure khai hỏa. Toàn thể thủy thủ đoàn nãy giờ vẫn kìm súng, bắt đầu ra tay thật chính xác. Hai ngư lôi đĩnh địch bốc cháy dữ dội hơn, và dần dần biến mất trong dòng nước đen ngòm. (Thật ra, đây chỉ là hai phần của chiếc PT-109 bị Amagari đụng và cắt rời ra.) Những tiếng cười hân hoan vang lên trên các khu trục hạm Nhật, lúc chúng tôi tiếp tục xả hết tốc lực trên đoạn hải trình còn lại để trở về căn cứ. Cảm thông được niềm vui của mọi người, nhưng tôi không thể hòa mình cùng với họ, vì đầu óc của tôi vẫn còn lảng vảng hình ảnh của chiếc PT-109 lúc tàu tôi lướt ngang qua. Chiếc tàu này đã làm tôi nhớ đến chiếc Terutsuki bị đánh chìm vào tháng 12 năm 1942, bởi các trái ngư lôi do hai ngư lôi đĩnh địch có trọng tải 50 tấn phóng ra. Có lẽ chúng tôi cũng chịu chung số phận với chiếc khu trục hạm Terutsuki đêm nay, nếu địch quân nhận ra chúng tôi và phản ứng trước một vài phút sớm hơn. Chúng tôi giảm tốc độ lại khi ra khỏi Vịnh Vella, và sau đó trở về căn cứ Rabaul an toàn. Thủy thủ đoàn của chúng tôi vẫn còn phấn khởi với chiến công vừa qua, nhưng tôi thì rất dè dặt và lo ngại. Sự lo ngại thật sự đã đến với tôi, khi tôi đến trình diện tại tổng hành dinh và nhận một tin tức chính thức. "Khu trục hạm Mitkazuki (thuộc Hải đội 30 Khu trục hạm) và Ariake (thuộc Hải đội 27 Khu trục hạm) trong lúc thi hành sứ mạng chuyển vận đến Tuluvu, New Britain. Đã mắc cạn gần mũi Gloucester vào ngày 27 tháng 7, và hôm sau cả hai đã bị các oanh tạc cơ B-25 oanh kích hủy diệt hoàn toàn, nhưng chỉ có 7 thủy thủ thiệt mạng."Tôi buồn bã quay trở về khu trục hạm Shigure. Một lần nữa, tôi lại trở thành vị hải đội trưởng chỉ có một khu trục hạm dưới tay. Tai biến dồn dập biết bao. Không đầy một tháng, năm chiến hạm đã từng tạo nên những chiến công lẫy lừng chỉ còn lại hai chiếc.Hai chiếc Mikazuki và Ariake vụng về, đần độn đến bậc nào mà cho đến nỗi phải bị mắc cạn? Mệt mỏi và mất tinh thần, đêm đó tôi đã nốc cạn rất nhiều chai sake, Thiếu tá Yamagachi đã cùng tôi đối ẩm để chia sẻ nỗi đau buồn cùng cực với tôi. Nhưng ông ta chỉ lưu lại một giờ đồng hồ, và sau đó tôi độc ẩm suốt đêm. Hai ngày sau, lúc sáng sớm ngày 4 tháng 8, Đại tá Kaju Sugiura, chỉ huy trưởng Hải đội 4 Khu trục hạm, đạt giấy mời Yamagachi và tôi đến soái hạm của ông để dự một phiên họp.Đó là một buổi sáng đầy nắng. Chúng tôi dùng ca nô chạy đến khu trục hạm Hagikaze. Bàn ghế của buổi họp đặt trên sàn tàu, phía trên căng một tấm vải nhỏ để che nắng. Hai chúng tôi đến muộn hơn hết. Các hạm trưởng và sĩ quan thuộc các khu trục hạm khác có mặt trên tàu tiếp đón chúng tôi một cách thân mật. Đại tá Sugiura, huynh trưởng của tôi ở Eta Jima và đã tốt nghiệp Trường Tham Mưu Cao Cấp, sau khi chào hỏi mọi người, ông bắt đầu ngay phiên họp, Ông nói: "Thưa toàn thể quý vị, tôi rất vui mừng thông báo cùng quý vị rõ, chúng ta đã thành công mỹ mãn trong sứ mạng chuyển vận đến căn cứ Kolombangara vừa qua. Sự thành công này sở dĩ đạt được là nhờ sự cộng tác chặt chẽ của quý vị. Bộ Tư Lệnh Tối Cao Lục quân và Hải quân rất hài lòng, và nhờ tôi chuyển đến quý vị lời khen nồng nhiệt nhất. Đồng thời, thượng cấp ra lệnh tiếp tục công tác chuyển vận vào ngày mốt. Khu trục hạm Kawakaze sẽ thay thế khu trục hạm Amagari bị móp ở mũi vì chạm phải ngư lôi đĩnh của địch quân. Tôi yêu cầu quý vị cho biết ý kiến, và điều cần đề nghị tôi cũng rất mong quý vị nêu ra. Nhìn chung quanh bàn họp, tôi nhận thấy toàn thể các hạm trưởng thuộc quyền Sugiura lắng nghe một cách bình thản. Không một ai đứng lên phát biểu ý kiến nhằm chống lại Đại tá Sugiura. Trong buổi họp, tôi là người duy nhất mang cùng một cấp bậc Đại tá, và cũng là một Hải đội trưởng, dù chỉ một chiếc, như Sugiura, nên tôi đứng dậy và lên tiếng:
"Thưa Đại tá, tôi hiểu Đại tá muốn nói gì khi bảo rằng chúng ta cần phải tiếp tục thi hành sứ mạng của chúng ta. Điều đó, thưa Đại tá, có phải Đại tá muốn nói rằng chúng ta cần phải thi hành công tác theo cùng một hải trình mà chúng ta đã sử dụng trong chuyến vừa qua?"
"Đúng vậy, thưa Đại tá Hara. Chúng ta cũng sẽ đi ngang qua Vịnh Vella và eo biển Blackett. Chúng ta xuống hàng tại căn cứ Kolombangara vào lúc 23h30 ngày mốt, y như lần trước chúng ta đã thực hiện." "Xin lỗi Đại tá, tôi nghĩ rằng lặp lại một phương thức mà chúng ta đã sử dụng là một hành động không mấy khôn khéo. Chúng ta đã sử dụng hải trình ngang qua Vịnh Vvella hai lần rồi. Tôi tự hỏi chúng ta không thể sử dụng một hải trình khác được sao? Riêng eo biển Blackett đã là hải trình không an toàn, vì nó đầy dẫy đá ngầm và có những khoảng rất nông, đó là chưa nói đến chuyện phải qua eo biển Gizo như thế nào trước khi vào được Blackett mà không bị địch quân phát giác?" "Thưa Đại tá Hara, tôi đồng ý quan điểm của Đại tá, nhưng tôi đã lỡ ban theo chỉ thị của thượng cấp. Do đó, việc thay đổi hải trình theo như Đại tá vừa nói, sẽ đưa đến việc thay đổi toàn bộ hệ thống liên quan đến công tác mà chúng ta đảm nhận, nhất là về phương diện liên lạc. Như Đại tá đã rõ, hệ thống liên lạc của Lục quân chúng ta vô cùng yếu kém. Nếu eo biển Blackett bất lợi đối với chúng ta thì nó cũng nguy hiểm đối với địch quân. Các ngư lôi đĩnh của địch có thể chạm vào đá ngầm trước khi chúng đương đầu với chúng ta." Ba hạm trưởng của Đại tá Sugiura gật đầu nhè nhẹ, tỏ ra họ đồng ý những điều mà vị chỉ huy của họ vừa phát biểu. Những phản đề nghị của tôi rõ ràng đều bị tất cả mọi người có mặt trong buổi họp chống đối, ngoại trừ Yamagami. Tôi cảm thấy hơi choáng váng. Bên tai tôi lại văng vẳng những câu trong quyển tự truyện của Musashi Miyamoto" "Lập lại một phương thức đã từng sử dụng quả là tệ hại, và còn tệ hại hơn nữa nếu lặp lại lần thứ ba....... Khi đối phương nghĩ mình đánh cao, mình đánh thấp. Khi đối thủ nghĩ thấp, mình sẽ đánh cao. Đó là bí quyết của kiếm thuật." Đại tá Sugiura không phải là người xa lạ gì với tôi. Chúng tôi đã là bạn nhau từ nhiều năm nay. Ông được thượng cấp tín nhiệm và có nhiều biệt nhãn đối với ông. Có nhiều dấu hiệu cho thấy ông sẽ được thăng cấp Đề đốc. Một người có tương lai như vậy thì khi nào lại dám cãi lại mệnh lệnh của cấp trên đưa xuống. Đại tá Sugiura phá tan sự im lặng và tiếp tục lên tiếng một cách rất hòa hoãn: "Đại tá Hara, nếu Đại tá bằng lòng thì tôi sẵn sàng giao nhiệm vụ thám báo cho chiếc Shigure. Như vậy Đại tá sẽ được rảnh tay và khỏi phải lo lắng về vấn đề chuyển vận nặng nhọc. Nhiệm vụ này trước đây do chiếc Amagiri đảm trách và hiện được chiếc Kawakaze thay thế, nhưng thủy thủ đoàn của chiếc tàu này lại thiếu kinh nghiệm. Tôi mong rằng với tài khéo léo và kinh nghiệm sẵn có của Đại tá, Đại tá sẽ hoàn tất công tác một cách tốt đẹp trong nhiệm vụ thám báo." Đây lại là một lời đề nghị chứng tỏ sự khôn khéo của Đại tá Sugiura. Ông ta muốn đẩy tôi, kẻ duy nhất chống đối lệnh hành quân, vào thế không thể từ chối trước một trách nhiệm quan trọng như vậy trong cuộc hành quân này.Tất cả mọi người đều nhìn về tôi chờ xem sự phản ứng. Tôi trả lời một cách chân thành: "Tôi cảm ơn sự lưu tâm của Đại tá đối với tôi, nhưng rất tiếc tôi không thể nào chấp nhận sự đề nghị của Đại tá." Tất cả những người tham dự trong buổi họp đều ngạc nhiên. Các hạm trưởng có mặt đều áy náy lúc nghe tôi trả lời như vậy. Tôi tiếp tục: "Khu trục hạm Shigure, một chiếc tàu chậm chạp, cũ kỹ, nhiều tuổi nhất trong số 4 khu trục hạm tham dự cuộc hành quân này. Bộ máy 42.000 mã lực của Shigure đã đến thời kỳ phải sửa chữa, do đó tôi sợ nó không đạt nổi tốc độ 30 hải lý. Giao nhiệm vụ thám báo cho nó thật không thích hợp chút nào. Tôi đề nghị nên giao nhiệm vụ này cho Trung tá Koshichi Sugioka, hạm trưởng khu trục hạm Arashi. Chiếc tàu của ông còn mới, và với dàn máy 52,000 mã lực, nó có thể đạt đến tốc độ 35 hải lý dễ dàng." Trong lúc bầu không khí im lặng bao trùm buổi họp, Sugiora vẫn ngồi lặng lẽ và đôi mắt của ông ngó lặng chỗ khác. Cuối cùng, nột cách trầm tĩnh, Đại tá Sugiora đã phá tan bầu không khi im lặng với ý kiến nhân nhượng:"Được rồi, thưa toàn thể quý vị, soái hạm Hagikaze sẽ đi đầu và lãnh nhiệm vụ thám báo. Tuy nhiên vẫn phải chia sẽ gánh nặng trong nhiệm vụ chở binh sĩ và đồ tiếp liệu. Ba chiếc Arashi, Kawakaze và Shigure theo sau, chiếc nọ cách chiếc kia 500m. Bằng lòng chưa, thưa Đại tá Hara?" Tôi bằng lòng với sự xếp đặt này, vì nhận thấy Đại tá Sugiura chiều lòng tôi như vậy đã là quá mức. Buổi họp chuyển sang bàn cãi những vấn đề khác thuộc về chuyên mônTheo kế hoạch, chúng tôi sẽ rời khỏi Rabaul vào sáng sớm để có thể đến được vùng luôn luôn nằm dưới mắt của trinh sát cơ địch xuất phát từ căn cứ Russells khi đêm xuống. Đại tá Sugiura cho biết rằng tầm hoạt động của phi cơ Hoa Kỳ tại căn cứ này là 300 dặm. Tin tức của Đại tá Sugiura có lẽ đúng trước đây một tuần, nhưng chúng tôi không thể nào cứ cho rằng bây giờ những chiến đấu cơ địch không thể xuất phát từ căn cứ tiền phương của chúng ở Rendova. Căn cứ này bắt đầu hoạt động từ tháng 7. Ngoài ra, lực lượng chúng tôi còn có thể bị các tiềm thủy đĩnh địch phát giác. Tuy nhiên, điều này không đáng quan tâm mấy.Cuộc họp này kéo dài 2 giờ. Tôi giữ thái độ im lặng và lo âu khi rời buổi họp về Shigure. Yamagari nói với tôi:"Thưa Đại tá, tôi rất lấy làm khâm phục sự can đảm của Đại tá, qua những ý kiến mà Đại tá đã phát biểu trong buổi họp. Nhưng tôi e rằng tất cả những sĩ quan thuộc hải đội 4 sẽ không bao giờ lưu tâm đến quan điểm của Đại tá."
"Đây không phải chỉ là vấn đề can đảm mà tôi phải phát biểu trong buổi họp, như ý nghĩ của mọi người. Nhưng chính vì mạng sống của nhiều người mà tôi phải nói lên những điều đó. Cuộc hành quân thật ra rất vô lý, nhưng bây giờ tôi chỉ biết làm một việc đơn giản là cầu nguyện cho chúng ta được nhiều may mắn trong sứ mạng mà cấp trên giao phó."Tôi luôn nghĩ đến buổi họp vừa qua với nỗi buồn sâu xa. Tôi sẽ không bao giờ khuấtphục trước chính sách điên rồ của giới chỉ huy tối cao. Giả sử mà quan điểm của tôi được họ lưu ý đến thì hàng ngàn mạng người sẽ được cứu sống ở cuộc hành quân đang phát động và những cuộc hành quân sắp được phát động sau này. Tuy nhiên, tập đoàn chỉ huy tối cao của binh chủng Hải quân có khi nào lại chú ý đến quan điểm của tôi. Sau đó, tôi biết được những lời chống đối rất hữu ích của tôi trong cuộc họp kể trên còn tạo nên rất nhiều chỉ trích trong giới sĩ quan tại căn cứ Rabaul. Vào 3h sáng ngày 6 tháng 8, chúng tôi rời căn cứ Rabaul tiến về hướng Nam. Mặt biển lặng sóng, bầu trời nhiều mây, thỉnh thoảng những cơn mưa luồng chợt đến, và xen vào đó là ánh nắng chiếu loáng thoáng từng khoảnh trên đại dương. Lúc 14h30, chúng tôi di chuyển ngang qua đảo Boka. Một trinh sát cơ địch xuất hiện, nhưng rồi mất hút trong mây. Truyền tin của tôi cho biết vừa chặn bắt được một công điện được mã hóa. Có lẽ đây là công điện của phi cơ địch báo cáo hướng tiến của chúng tôi về bộ chỉ huy. Thật ra, cuộc hành quân này không làm cho địch quân phải ngạc nhiên. Tôi tiếp tục theo dõi soái hạm Hagikaze, để xem Đại tá Sugiura đối phó với tình hình như thế nào. Tôi rất buồn lòng khi thấy chúng tôi vẫn tiếp tục đi theo một lộ trình, và với tốc độ như cũ, dầu rằng địch quân đã phát hiện chúng tôi. Tôi nghiến chặt răng và thi hành nhiệm vụ. Lúc 19h, chúng tôi tiến vào eo biển Bougainville, xoay hướng 140 độ và gia tăng tốc độ lên 30 hải lý. Hai giờ hai mươi phút sau đó, chúng tôi tiến thẳng vào mặt Đông Bắc của đảo Vella Lavelle. Chiếc Shigure rơi về phía sau, chứng tỏ nó không đủ sức chạy mãi với tốc lực 30 hải lý. Sĩ quan hoa tiêu là Trung úy Toshiro Tsukihara báo cáo với tôi: "Thưa Đại tá, chúng ta ở mãi tuốt đằng sau chiếc Kawakaze đến 1000m, Làm thế nào gia tăng tốc độ để giữ khoảng cách 500m?" "Không," tôi lớn tiếng, "như thế này được rồi. Thật là điên khùng để giữ khoảng cách 500m. Đừng bắt máy chạy nhanh hơn nữa." Căn cứ Kolombangara hiện ra thấp thoáng ở mạn phải chiếc Shigure, với ngọn núi cao ngút bao phủ toàn mây đen. Ở mạn trái, tôi không nhìn thấy gì cả ngoài một màu đen kịt mà từ đó địch quân có thể xuất đầu lộ diện bất cứ lúc nào. Tôi cảm thấy hơi nao núng. Tôi lớn tiếng ra lệnh: :"Sẵn sàng chiến đấu. Tất cả trọng pháo và ngư lôi nhắm về mạn trái, đặt súng ở tầm 3.000m, ngư lôi ở tầm sâu 2m, giác độ 20. Tăng cường gấp đôi các vị trí quan sát." Mười phút năng nề trôi qua, tôi vẫn nhìn chăm chú về mạn trái xem coi có dấu hiệu hoặc chuyển động nào của địch quân hay không. Tầm nhìn của tôi không xa hơn 2.000m. Sự căng thẳng trên tàu chợt bị xé tan khi tiếng nói từ phòng kiểm soát vang lên qua ống liên lạc nội bộ. Đó là tiếng nói của Đại úy Doi hỏi tôi xem tất cả những ống phóng ngư lôi có phải di chuyển hết từ mạn phải sang mạn trái theo lệnh hay không?Tôi la lên: "Không".Và tiếp đó tôi giải thích rõ hơn: "Không di chuyển Doi, ở mạn phải nhìn rất rõ, chúng ta có thể nhìn thấy cả những lớp san hô của đảo Vella Lavella. Nhưng ở mạn trái, chúng ta không thể nào nhìn xa quá 2.000m, chúng ta không biết địch quân ở đâu mà mò. Hãy cứ giữ vị trí các ngư lôi như cũ và riêng hướng tả mạn, sẵn sàng phóng bất cứ lúc nào." Tiếng nói của tôi chưa kịp dứt, quan sát viên Yamashita la lên: "Những làn sóng trắng! Những vật đen xuất hiện!... Rất nhiều chiếc tàu đang tiến về phía chúng ta!" Lập tức, tôi ra lệnh cho tàu xoay hẳn về phía phải, đồng thời ra lệnh phóng ngư lôi vào các mục tiêu ở mạn trái. Bây giờ thì những vệt sóng trắng đã hiện rõ trên mặt đại dương. Tôi cảm thấy hơi nao núng, liếc nhìn về phía ba khu trục hạm dẫn đầu. Cả ba đang tiếp tục tiến về phía trước, như không để ý gì những chiến hạm địch đang đâm thẳng đến. Tôi chửi thề! Shigure của tôi vẫn còn lẽo đẽo tận mãi phía sau, cách chiếc Kawakaze đến 1500m. Khoảng 45 giây sau lệnh đổi hướng, Shigure vung sang mạn phải, ngay khi những quả ngư lôi được phóng ra và lướt nhanh trên mặt nước. Lúc đó là 21h45. Khi sắp ra lệnh phóng thêm 8 quả ngư lôi nữa, tôi chợt thấy nhiều quả ngư lôi xé nước chạy về phía chúng tôi. Quả ngư lôi gần nhất chỉ cách tàu chúng tôi 800m. Tôi ra lệnh cho chiếc tàu xoay cấp tốc về phía phải. Ngay lúc đó, tôi nhìn thấy một cột lửa bốc lên từ khoảng giữa khu trục hạm Arashi, và 2 cột lửa khác từ khu trục hạm Kawakaze. Riêng chiếc tàu dẫn đầu Hagikaze ở mãi tít đằng xa và chạy cùng hàng với hai chiếc tàu phát hỏa, nên tôi không hiểu được tình trạng nó ra sao.
Lúc quay nhìn xuống mặt nước, tôi nín thở. Ba quả ngư lôi lướt thẳng đến trước mũi Shigure, lúc chiếc tàu vừa quay về mạn phải. Tôi gần như muốn quỵ xuống, nhưng đã kịp nắm chặt vào tay vịn của đài chỉ huy. Quả ngư lôi đầu chỉ cách mũi tàu khoảng 20m, quả kế gần hơn, và quả thứ ba chắc chắn trúng chiếc tàu. Tuy nhiên, nó không trúng, hoặc nếu có trúng thì chỉ phớt nhẹ vào vỏ tàu lúc chiếc tàu đang xoay hướng nhanh chóng. Tôi mơ hồ nghe một tiếng động nhẹ phát ra từ phía sau chiếc tàu, nhưng không đoán ra là tiếng động gì. Nhìn chung quanh, một lần nữa tôi phát hiện nhiều quả ngư lôi đang lướt ngang phía trước mũi chiếc Shigure, cách chừng 30m hay xa hơn chút ít, lúc nó vừa xoay vòng tròn để tránh né một cách tuyệt vọng.Tôi ra lệnh cho chiếc tàu xoay ngược: "Bẻ lái sang trái, nửa vòng!"
Khi một khu trục hạm đang chạy với tốc lực 30 hải lý một giờ, muốn guồng lái đáp ứng với tay lái phải mất một phút. Tôi nhìn quanh đầy lo ngại. May mắn thay, tôi không còn nhìn thấy quả ngư lôi nào nữa. Lúc này tôi mới có dịp nhìn đồng hồ. Bây giờ là 21h47. Hai phút ngắn ngủi vừa trôi qua là hai phút nghẹt thở nhất trong cuộc đời tôi. Quan sát viên Yamashita thông báo một cách hân hoan là một trong số những quả ngư lôi do chúng tôi phóng đi đã nổ giữa đám tàu của địch quân. Đây là loạt khai hỏa đúng vào lúc mà toàn thể thủy thủ và sĩ quan thuộc khu trục hạm Shigure đang lo lắng không biết lúc nào chiếc tàu thân yêu của mình bị trúng ngư lôi địch.Tuy nhiên, niềm vui này không dài lâu khi chúng tôi nhận thấy hình như không một chiến hạm nào của địch bị trúng ngư lôi của chúng tôi. Sau đó, mọi người đoan chắc rằng sở dĩ quả ngư lôi phát nổ vì chạm phải sóng mạnh do tàu địch gây ra, bởi lẽ loại ngư lôi Oxygen rất bén nhạy. Đêm đó, địch quân đã tránh né loại ngư lôi tối tân của Nhật một cách tài tình. Tôi đinh chắc thế nào một số ngư lôi mà chúng tôi phóng ra cũng trúng đích, nhưng các khu trục hạm địch đã kịp thời quay 90 độ hướng về phía Đông thật đúng lúc để lẩn tránh. Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ đang hoạt động gần Bougainville này là lực lượng đặc nhiệm 312 do Trung tá Frederick Moosbrugger chỉ huy, bao gồm Hải đội 12 Khu trục hạm với các chiếc Dunlap, Craven và Maury, cùng Hải đội 15 Khu trục hạm với các chiếc Lang, Sterrett và Stack.Tôi liên lạc với phòng truyền tin hỏi xem có tin tức gì của các khu trục hạm Nhật khác hay không. Tôi được trả lời ngay: "Tin nhận được cho biết khu trục hạm Arashi và Kawakaze đã trúng ngư lôi địch. Không biết tin tức gì về khu trục hạm Hagikaze."Sau khi ra lệnh phải cố giữ liên lạc thường xuyên với các tàu bạn, tôi cho Shigure phun một màn khói để che dấu hoạt động của chúng tôi. Tôi phân vân không biết phải làm gì nữa đây. Trong lúc đó, chiếc Shigure đang chạy thẳng về hướng Tây bắc, rời khỏi khu vực chiến đấu. Kiểm điểm lại tình hình, tôi nhận thấy địch quân đã mở một cuộc phục kích chúng tôi rất thần tình, và vào lúc ấy chiếc Shigure ở vào một tình thế bất lợi thấy rõ. Tôi nhớ lại cái đêm ở Guadalcanal trước đây, một mình chiếc khu trục hạm của tôi đương đầu với cả một đoàn tàu địch, và đã đánh chìm khu trục hạm Barton. Bây giờ thì tình thế đã đổi khác. Địch quân đã tiến thẳng vào tàu tôi và không phải một mình chiếc tàu tôi chống trả địch quân. Xét đoán hướng tiến của các ngư lôi địch, tôi nhận thấy các chiến hạm địch đã khai hỏa trong sự phối hợp chặt chẽ. Hai khu trục hạm Arashi và Kawakaze bị trúng đạn đã gây sửng sốt cho tôi. Trước đây, tôi chưa bao giờ thấy chiến hạm nào của địch quân phóng ngư lôi tài tình như vậy. Ngẫu nhiên, tôi đã khám phá ra kỹ thuật phóng ngư lôi của địch quân. Đêm nay, lực lượng Hải quân Hoa Kỳ đã nắm được đầy đủ lợi thế. Tôi không thể nào tháo chạy, bỏ mặc các tàu bạn, cho dù tôi biết không thể nào chống chọi lại với một lực lượng địch quân vượt trội như vậy. Khu trục hạm Hagikaze biệt tăm, chỉ mong rằng may ra nó vẫn còn nổi được trên mặt biển. Tôi ra lệnh chuẩn bị lại các dàn ngư lôi, và cho thủy thủ đoàn biết Shigure sẽ quay lại để đánh tiếp. Đúng 21h51, chúng tôi quay tàu lại. Một phút sau đó, một màn hỏa lực giăng cách phía trước chúng tôi khoảng 3 dặm. Những ánh đèn pha và đèn rọi tìm địch rực sáng cả bầu trời. Địch quân đang pháo kích các khu trục hạm đã thấm đòn của chúng tôi.
Trong lúc chiếc Shigure tiến về phía trước, nơi đang xảy ra cuộc pháo kích, tôi gọi phòng truyền tin hỏi xem có liên lạc được với các khu trục hạm hay không và đồng thời ra lệnh cho mọi người sẵn sàng tham chiến, nhưng không một ai lên tiếng. Ngay lúc đó, tôi nhận ra hướng tiến của chiếc Shigure không được chính xác. Tôi nhớ chực lại tiếng động khác lạ mà tôi đã nghe trước đó. Mãi đến 4 tháng sau, khi chiếc Shigure vào ụ nổi để sửa chữa, tôi mới hiểu nguyên do gây ra tiếng động này. Gần buồng máy của chiếc tàu có một lỗ thủng khoảng chừng 2 tấc: một quả ngư lôi Mỹ đã chọc thủng, nhưng không nổ, và dính luôn vào đó.
Trên đài chỉ huy, tôi đang sống trong một trạng thái cực kỳ lo lắng. Với số lượng 250 binh sĩ và nhiều tấn dụng cụ chất lên boong tàu, làm sao chiếc Shigure có thể đơn thân độc mã chống trả với một kẻ thù vượt trội còn nguyên vẹn? Tại Guadalcanal, tôi đã vấp phải 3 lỗi lầm khiến cho 43 thủy thủ thiệt mạng. Không biết tôi sẽ phạm thêm bao nhiêu lỗi lầm trong tình cảnh này? Và sẽ có bao nhiêu người thiệt mạng vì những lỗi lầm đó? Shigure vẫn tiếp tục tiến tới khu vực chiến đấu. Hỏa lực của địch thình lình ngưng hẳn vào lúc 22h10. Khu vực chìm khuất trong bóng tối. Dường như cả ba khu trục hạm đã biến mình vào lòng đại dương rồi. Kẻ chiến thắng chắc chắn đang nằm chờ trong bóng tối để bất thần nhảy ra vồ lấy chiếc Shigure. Ngay sau khi cố tạo lần liên lạc cuối cùng với các khu trục hạm bạn nhưng không được trả lời, tôi ra lệnh rút lui vào lúc 22h15. Đây là một quyết định rất đau lòng, nhưng không có sự chọn lựa nào tốt hơn.Tôi thông báo về căn cứ Rabaul rằng chúng tôi đã rút khỏi địa điểm xảy ra trận chiến và yêu cầu ở đây cho chỉ thị. Tổng hành dinh trả lời tức khắc: "Quay về căn cứ. Yêu cầu lực lượng ở Kolombangara tìm cách tiếp cứu những người còn sống sót." Như vậy là trận đánh đã kết thúc và địch quân đã chiến thắng vẻ vang. Ba khu trục hạm Nhật bị đánh chìm, 700 thủy thủ và 820 binh sĩ bộ binh có mặt trên 3 chiếc tàu này chỉ còn sống sót 310 người, trong số đó có Đại tá Sugiura. Hơn 30 giờ sau khi tàu chìm, ông ta trôi dạt vào bờ và đi lạc trong rừng rậm suốt một tuần lễ trước khi được toán tìm kiếm giải cứu.Vào ngày 20 tháng 8, tôi rất đau lòng và hổ thẹn khi thấy Sugiura trở về căn cứ Rabaul trong một thân xác gầy yếu. Những người sống sót đã thuật lại cảnh tượng khủng khiếp của trận đánh mà họ đã tham dự. Hai quả ngư lôi đã trúng vào chiếc Hagikaze, hệ thống liên lạc của chiếc tàu này bị cắt đứt ngay lập tức. Chiếc Arashi lĩnh 3 quả ngư lôi và chiếc Kawakaze lĩnh hai quả. Đó là một trong những thành tích phóng ngư lôi chính xác nhất của người Mỹ trong lịch sử các trận hải chiến. Quả ngư lôi thứ tám của địch quân trúng vào phòng máy của khu trục hạm Shigure. Cũng nhờ vào sự may mắn chứ không thì nó cũng chịu chung số phận với 3 khu trục hạm bạn thuộc Hải đội 4 Khu trục hạm. Trận chiến kể trên chứng tỏ lực lượng Hải quân Hoa Kỳ đã tiến bộ rất mau lẹ trên mọi phương diện, gây kinh ngạc cho tất cả chuyên viên của Nhật Bản, những người từ trước đến nay tỏ ra xem thường sự hữu hiệu của ngư lôi địch quân. Không cần phải đợi mãi đến sau khi chiến tranh chấm dứt , được đọc những bài viết về trận đánh này, tôi mới hiểu tại sao địch quân đã chiến thắng. Tất cả khu trục hạm của chúng tôi đã chui vào cái bẫy được địch quân khéo léo giăng ra, lợi dụng vào địa thế của dãy núi Kolombanga.
Hoa Kỳ đã biết được chúng tôi sẽ lên đường vào sáng sớm và đã theo dõi chúng tôi suốt ngày hôm đó. Sáu khu trục hạm của họ đã rời khỏi căn cứ Tulagi lúc 9h30. Các khu trục hạm này đã được trinh sát cơ thông báo đầy đủ diễn tiến hoạt động của chúng tôi. Địch quân biết chúng tôi hướng về Vịnh Vella. Từ Vịnh họ đã thấy chúng tôi trên màn hình radar ở khoảng cách đến 10 dặm. Lúc đó chiến hạm địch bèn chia thành hai nhóm, mỗi nhóm 3 chiếc. Ba chiếc Dunlap, Craven và Maury có nhiệm vụ ra tay trước, còn 3 chiến hạm khác chờ đợi để khi nào cần sẽ tiếp tay đồng bọn dứt điểm mục tiêu. Nhưng 3 chiếc tàu trước đã phóng ngư lôi một cách rất chính xác nên nhóm thứ nhì không cần phải hành động.Chiến thắng của Hoa Kỳ có lẽ sẽ được trọn vẹn hơn nếu họ tiếp tục truy đuổi chiếc Shigure. Nhưng vì màn khói đen do chúng tôi tạo ra khá hữu hiệu, đến nỗi khiến cho địch quân tưởng lầm chiếc Shigure đã trúng ngư lôi và chìm rồi. Sau chiến thắng này của Hoa Kỳ, Bộ Tư Lệnh Tối Cao Nhật không bao giờ còn dám sử dụng ngõ Vịnh Vella để tiến đến căn cứ Kolombangara nữa.
Khu trục hạm Shigure trở về căn cứ Rabaul vào đêm 7 tháng 8. Lúc đó Tổng hành Dinh ở đây rất náo động. Chiến bại của chúng tôi tại Munda vào ngày 4, và tiếp liền sự thảm bại không ai ngờ tại Vịnh Vella đã làm mọi người xúc động. Từ Munda xuyên qua eo biển Blankett nhỏ hẹp là khu vực phòng ngự chính của Nhật Bản bảo vệ quần đảo Solomon và căn cứ Kolombangara. Tôi có thể hiểu được tại sao các khu trục hạm của địch quân đụng đầu với chúng tôi ở Vella đã quyết đánh tan chúng tôi. Họ không muốn chúng tôi sử dụng hải trình này nữa, và họ đã thành công. Phó Đô đốc Tomoshige Samejima, Tư lệnh Đệ Bát Hạm Đội đã tiếp đón chúng tôi với khuôn mặt dầu dầu, nhưng ông đá động gì đến công tác vừa qua của tôi. Ông tỏ ra hối hận đã đưa các khu trục hạm của Hải đội 4 Khu trục hạm vào bẫy, vì đã điên rồ lặp đi lặp lại lần thứ hai một chiến thuật đã được sử dụng.
Lúc tôi quay trở về thì 250 bộ binh và đồ đạc của họ đã chuyển hết lên bờ. Hầu hết số binh sĩ này đều đau ốm trầm trọng sau 40 giờ chen chúc nhau ở dưới hầm tàu. Họ la lên vui mừng khi được đặt chân xuống đất liền. Họ biết vừa thoát khỏi tay tử thần trong đường tơ kẻ tóc, nên trước khi ra đi tất cả đều cung kính chào giã biệt chiếc Shigure và thủy thủ đoàn. Điều này khiến tôi nghĩ rằng quyết định mà tôi đã chọn lựa là một quyết định đúng. Tôi cho các thủy thủ được nghỉ ngơi qua hết ngày hôm sau, và cho phép họ lên bờ mỗi lần một phần ba tổng số thủy thủ đoàn. Đây là lần nghỉ ngơi thật sự và đầu tiên của họ. Khi nhìn thấy Trung sĩ Yamashita, quan sát viên đã phát hiện tàu địch, trong nhóm thủy thủ đầu tiên được phép lên bờ, tôi gọi anh ta vào phòng. Tôi trao anh ta chiếc đồng hồ đeo tay bằng bạc của tôi và nói: "Anh đã làm được một việc lớn. Tôi muốn anh nhận cái này. Nó không đáng giá bao nhiêu, tôi đã mua nó cách đây 20 năm tại thương xá Wanamaker ở thành phố NewYork."
Trung sĩ Yamashita từ chối: "Thưa Đại tá, tôi không dám nhận một vật có nhiều ý nghĩa đặc biệt đối với Đại tá. Tôi chỉ làm nhiệm vụ của mình thôi. Nếu hành động của tôi được khen thưởng thì tôi mong rằng sự khen thưởng đó phải do Bộ Tư Lệnh Tối Cao." "Nhận chiếc đồng hồ này và đừng bàn cãi gì thêm nữa Yamashita. Bộ Tư Lệnh Tối Cao sẽ không bao giờ cho anh cái gì đâu. Ngay cả quả ngư lôi của chúng ta đã trúng tàu địch mà họ còn không tin, bởi lẽ việc này chỉ có anh là nhân chứng duy nhất mà thôi." "Ồ, thưa Đại tá, họ không tin là sai. Tôi thấy quả ngư lôi đã trúng ngay khi tàu địch vừa tiến đến chúng ta. Trong suốt đời tôi, tôi chưa hề biết nói láo, và tôi sẽ đánh vào mặt kẻ nào cho tôi là nói láo." "Nào lại đây, Yamashita. Bây giờ anh biết phải làm gì. Quên chuyện đó đi. Hãy lên bờ và vui chơi thỏa thích." Tôi nhét chiếc đồng hồ vào trong túi Yamashita. Anh ta hơi bối rối một chút, nhưng sau đó nở một nụ cười trên môi, và cáo từ.
Tôi buông mình xuống ghế. Một công việc khó khăn đang chờ tôi. Tôi phải viết một bản báo cáo với đầy đủ chi tiết về trận hải chiến tại Vịnh Vella. Tôi muốn viết một cách ngay thẳng đồng thời tôi muốn bênh vực cho các đồng nghiệp tôi. Tôi phải mất nhiều giờ mới viết xong bản báo cáo.
Tôi bước ra boong tàu để nghỉ xả hơi. Toán thủy thủ lên bờ đầu tiên đang lần lượt trở về. Tôi thấy trung sĩ Yamashita đứng riêng rẽ, quần áo nhàu nát, mặt sưng vù và đôi mắt bầm tím. Tôi gọi Yamashita hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Anh ta ấp úng nói: "Thưa Đại tá, Không có gì cả. Tôi trượt chân và té nhào xuống đất."
"Anh đã nói với tôi sáng nay rằng anh không hề nói dối, vậy thì anh đừng làm tôi giận ."
"Xin lỗi Đại tá, đây là lần đầu tiên tôi nói dối. Tôi gây lộn với một vài người ở trên bờ, nhưng không ai đánh tôi cả."
"Anh vào phòng tôi ngay, tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra."
Gã trẻ tuổi lòng đầy tự phụ này bước theo tôi như một con cừu non. Vào phòng, tôi yêu cầu anh ta giải thích đầy đủ chuyện vừa xảy ra."
"Thưa Đại tá, tôi uống đâu được vài ly và có lẽ đã chuếch choáng nên tôi khoe chiếc đồng hồ mà Đại tá vừa thưởng tôi. Lúc đó, có mấy thằng chó đẻ bảo rằng chiếc khu trục hạm Shigure đã rút lui một cách nhục nhã và hành động này làm mất thể diện cho binh chủng Hải quân. Lại có thằng vào hùa nói rằng Hải đội 27 Khu trục hạm gồm toàn một lũ biếng nhác không làm nên trò trống gì cả. Lúc đó tôi giận run người và tôi đã dần chúng một trận nên thân. Đồ quân đẻ hoang."
"Thật tội cho anh, Yamashita. Anh không nghĩ những gì mà chiếc khu trục hạm Shigure đã làm là sai lầm sao?"
"Không, thưa Đại tá. Tôi luôn luôn tin rằng những quyết định của Đại tá là hoàn toàn đúng. Đó chính là lý do tại sao mấy thằng chó đẻ đó đã làm tôi điên tiết lên."
"Anh phải lờ đi, đừng để ý gì đến họ cả. Nhiệm vụ của chúng ta đến đây là đánh kẻ thù chứ không phải đánh người cùng quê hương xứ sở với chúng ta. Đừng bận tâm đến việc này nữa. Hay lo săn sóc vết thương của anh đi. Lần sau anh sẽ hiểu biết hơn." Kể từ sau trận đánh ở Vịnh Vella, bầu không khí trên khu trục hạm Shigure hoàn toàn thay đổi. Sau đêm đó, tinh thần của thủy thủ đoàn lên cao, họ tỏ ra kiêu hãnh và đoàn kết. Trên mọi khuôn mặt không còn thấy những nét khờ khạo và ngu đần nữa. Họ đã chứng tỏ rằng họ có đầy đủ sự can đảm và tin tưởng để sẵn sàng tham dự trận đánh khác. Và trận đánh này xảy ra không lâu sau đó. Người Mỹ tiếp tục bước tiến của họ. Họ thực hiện một cuộc hành quân đổ bộ mới vào ngày 15 tháng 8 tại Biloa, nằm gần cực Nam Vịnh Vella. Cuộc đổ bộ mới này xảy ra cùng với cuộc đổ bộ khác tại Munda trước đó đã tạo thành một gọng kềm xiết chặt 12.000 quân trú phòng của chúng tôi ở Kolombangara. Bộ Tư Lệnh Tối Cao Nhật đã phản ứng bằng cách tung toàn bộ không lực vào vùng Biloa, đồng thời tăng cường lực lượng trên bộ tại Horaniu, trên Vịnh Vella Lavella, để phản công bất kỳ cuộc đổ bộ mới nào của quân địch. Vào sáng sớm ngày 16 tháng 8. Yamagami và tôi tham dự một phiên họp trên khu trục hạm Sazanami, dưới quyền chủ tọa của Tư Lệnh Hải đội 3 Khu trục hạm, Đề đốc Matsuji Ijuin. Trong phiên họp này, Ijuin tuyên bố sẽ đích thân chỉ huy cuộc hành quân Horaniu. Đề đốc Ijuin nói: "Khi được lệnh chỉ huy cuộc hành quân này, tôi đã van nài Bộ Tư Lệnh Hải quân hãy đình chỉ sử dụng các khu trục hạm vào công tác chuyển vận. Theo đó, các khu trục hạm của chúng ta chỉ sử dụng đơn thuần vào nhiệm vụ hộ tống mà thôi. Lực lượng hộ tống kể từ một năm nay không bao giờ dưới 8 khu trục hạm, nhưng hiện tại chúng ta phải chấp nhận sử dụng 4 chiếc, bởi vì những cuộc đụng độ trong những tháng vừa qua đã khiến cho con số hao hụt gia tăng quá cao. Nhưng tôi đã hài lòng với 4 khu trục hạm xuất sắc này, vì tôi biết rằng khả năng chiến đấu của chúng tương đương với khả năng chiến đấu của 8 khu trục hạm." "Ijuin yêu cầu tôi kết thúc phần họp bằng cách trình bày sơ lược các diễn biến xảy ra tại Vịnh Vella. Ông và các sĩ quan khác ngồi nghe chăm chú. Khi tôi dứt lời, ông ta tiếp:
"Tôi sẽ hết sức lưu ý những nhận xét của Đại tá Hara vừa nêu ra, và tôi cũng mong toàn thể quý vị hiện diện ở đây hãy học hỏi những kinh nghiệm quý báu mà Đại tá Hara đã thu thập được trong trận chiến vừa qua, và hãy ghi nhớ sự thận trọng và mềm dẻo của ông trong lúc thi hành công tác. Trong cuộc hành quân sắp phát động, nhiệm vụ của chúng ta là phải bảo vệ đoàn tàu chở tiếp liệu chứ không phải đi tìm tàu địch để đánh. Tôi không chấp nhận sự ương ngạnh đã từng gây ra những thiệt hại cho binh chủng Hải quân của chúng ta. Không ai dám bàn ra tán vào khi Đề đốc Ijuin cho rằng 4 khu trục hạm sắp tham dự vào cuộc hành quân là những chiếc tốt nhất tại Rabaul. Chiếc Shigure của tôi là chiếc tàu duy nhất thuộc hẳn vào lớp cũ. Còn khu trục hạm Hamakaze, người hùng của trận chiến ngày 13 tháng 7 tại Vịnh Kula, là một trong nhữn tàu chiến hiếm hoi của Nhật Bản trong thời gian này được trang bị radar. Hamakaze cùng với chiếc đàn chị Isokaze họp thành hải đội 17 Khu trục hạm do Đại tá Toshio Miyazaki chỉ huy. Cả 3 khu trục hạm vừa nói và soái hạm của Đề đốc Ijuin, chiếc Sazanami, là lực lượng hộ tống trong cuộc hành quân. Lực lượng nhỏ bé này có thể hãnh diện vì được cả một vị Đề đốc tài giỏi và 2 vị Đại tá điều động. Hơn nữa, Đề đốc Ijuin đã mềm dẻo trao toàn bộ quyền hành đông cho các Đại tá của ông ta, để họ tự do thu xếp công việc. Và Đề đốc Ijuin cũng được Bộ Tư Lệnh Hải quân cho phép hành động tự do, việc này chứng tỏ rằng thượng cấp rất quan tâm đến sự thất bại vừa qua tại vịnh Vella. Bốn Khu trục hạm rời khỏi căn cứ Rabaul vào lúc 3 giờ sáng ngày 17 tháng 8 chạy về hướng Nam, tiến đến điểm hẹn với đoàn tàu vận chuyển gồm 20 chiếc cỡ nhỏ. Những tàu chuyển vận này đã khởi hành cùng ngày, lúc 10h27, từ căn cứ Buin và Bougaville, mang theo 400 quân tăng cường cho căn cứ Horaniu.Khi chúng tôi rời khỏi căn cứ Rabaul khoảng 100 dặm thì truyền tin chủa chúng tôi bắt được một công điện phát ra từ một chiếc phi cơ bay gần đó. Như vậy là địch quân đã biết động tĩnh của chúng tôi, Ijuin tức khắc liên lạc về căn cứ không quân tại Buin yêu cầu tăng cường gấp đôi số phi cơ. Lúc 11h30, khi chúng tôi nhìn thấy Bougainville thấp thoáng ở chân trời Tây Nam, một trong những trinh sát cơ gửi báo cáo đầu tiên về cho chúng tôi: " Ba khu trục hạm lớn của địch rời khỏi eo biển Gizo trực chỉ Biloa." Nguồn tin này được chúng tôi cảm nhận với nhiều cảm nghĩ lẫn lộn khác nhau. Riêng tôi đã thấy nhẹ nhõm, vì ít ra chúng tôi cũng biết được chút ít địch tình. Như vậy là khá hơn cuộc hành quân lần trước của chúng tôi nhiều. Trong cuộc hành quân vừa qua, chúng tôi đã tiến mà không biết một chút gì thế trận của địch thủ. Tất cả chiến hạm của chúng tôi đều gia tăng tốc độ đến 28 hải lý, hướng về eo biển Bougainville. Chúng tôi phải tiến mau, vì e rằng lực lượng của địch sẽ làm thịt đoàn tàu chuyển vận không có hộ tống đang tiến chậm chạp dọc theo bờ biển Choseul. Mặt trời lặn đúng lúc chúng tôi vượt qua eo biển Bougainville. Thời tiết xấu đã che khuất vầng trăng tròn. Mây sà thấp ở cao độ 1.600 bộ, cách ba dặm không nhìn thấy gì cả. Thời tiết này nghiêng phần lợi về phía đối phương, vì họ có hệ thống radar tối tân. Chúng tôi đã từng biết qua khả năng siêu việt của loại radar này.
Lúc 21h, Vịnh Vella Lavella hiện ra lờ mờ ngay phía trước mặt. Chúng tôi đang tiến gần đến đích. Sự im lặng đầy căng thẳng chợt bị vỡ tan bởi tiếng hét của quan sát viên Yamashita: "Phi cơ địch xuất hiện." Bóng dáng chói lòa của chiếc phi cơ vượt ngang qua nền trời và mất hút trong những đám mây tầm thấp. Thình lình, một chiếc phi cơ khác, hình như là loại oanh tạc cơ Avenger, chui ra khỏi cụm mây và thả một trái pháo sáng ngay trên chiếc Shigure.
Chúng tôi lập tức tách khỏi đội hình và phân tán trong khi tất cả mọi loại súng đều nhả đạn lên phi cơ địch. Tôi cho tàu chạy chữ chi với vận tốc 30 hải lý, đồng thời tạo màn khói bao che. Các khu trục hạm chạy sau cũng làm giống như Shigure.
Một oanh tạc cơ khác của địch lại rời khỏi đám mây, chúi mũi thẳng xuống chiếc Sazanami, đến nỗi gần như đụng các tháp khi lướt ngang qua. Nhiều quả bom được thả xuống. "Oanh tạc nhảy", tôi nghĩ thầm trong bụng, và nắm chặt tay một cách bối rối. Trong suốt 5 tháng vừa rồi, kể từ ngày tôi nghe đến phương thức tấn công mới này bằng phi cơ, tôi như sống thường xuyên trong những cơn ác mộng. Tôi moi óc tìm phương cách chế ngự các cuộc tấn công như vậy, nhưng tôi đã phí công vô ích. Tuy nhiên, những quả bom nhắm vào chiếc Sazanami không nhảy. Chúng rơi xuống theo lối thông thường, nghĩa là giữ nguyên vị trí được thả xuống chứ không nhảy đến mục tiêu. Nhiều cột nước trắng xóa tung lên quanh chiến hạm Sanazami. Súng đặt trên chiến hạm này phản ứng kịp thời, tất cả đều nhắm vào chiếc oanh tạc cơ nhưng không trúng. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi nhận thấy không chiến hạm nào của chúng tôi bị thiệt hại. Phi cơ địch bay đi mất. Nhưng biết đâu nhóm phi cơ khác không bay đến tấn công chúng tôi một lần nữa? Xa phía trước, chúng tôi nhìn thấy đoàn tàu mà chúng tôi phải bảo vệ. Có lẽ phải mất chừng một giờ nữa chúng tôi mới tiến được gần đoàn tàu đó. Tôi cố nghĩ cách chống lại nếu một khi các phi cơ địch đến nhiều hơn. Nhưng những ý nghĩ này bị đứt đoạn bởi tiếng la khác của quan sát viên Yamashita. Lần này hai phi cơ địch xuất hiện. Một oanh tạc cơ hai cánh quạt chúi mũi xuống soái hạm Sanazami chạy dẫn đầu, và chiếc còn lại nhắm vào khu trục hạm Shigure chạy sau cùng. Tất cả mọi loại súng đều cất tiếng chào mừng viên phi công gan dạ khi hắn bay qua giữa những tháp của chiếc Shigure để thả những "quả trứng giết người". Một số đạn cao xạ của chúng tôi đã trúng chiếc phi cơ này. Cánh trái của chiếc phi cơ tóe lửa và không thấy xuất hiện lại nữa. Khi các quả bom đều tránh né chiếc Shigure, tôi quay nhìn về phía soái hạm Sazanami. Chiếc tàu này đã tạo một màn khói bao che dày đặc. Tôi biết nó cũng đã thoát khỏi cú đấm của mấy tên phi công gan lì. Tính ra, trên đoạn hải trình vừ chạy vừa đánh này, chúng tôi đã phải chịu đựng tất cả 8 oanh tạc cơ tấn công, kéo dài cho đến lúc chúng tôi tiến vào Vịnh Vella. Sau khi chiếc cuối cùng trong các oanh tạc cơ địch bay khỏi, bóng dáng đen thẫm khác thường của quần đảo Kolombangara hiện ra ở phía Đông, ngay trước mặt chúng tôi. Mọi vật lại chìm trong màn đêm kỳ dị. Có lẽ chúng tôi bước vào bẫy rập khác chăng? Phòng truyền tin thông báo: "Soái hạm Sazanami ra lệnh xoay 180 độ về hướng Tây, vì hướng hiện thời không thấy rõ Kolombangara." Tôi tuân theo lệnh một cách hài lòng, và cho chiếc Shigure xoay hướng tức khắc. Ba khu trục hạm của chúng tôi chạy sát nhau, cùng tiến về hướng Tây. Chúng tôi di chuyển được khoảng 30 dặm thì chiếc Sazanami báo hiệu cho chúng tôi biết: "Bốn chiến hạm địch đang di chuyển ở hướng 190 độ, cách xa 15.000m." Lệnh xoay hướng của Đề đốc Ijuni đã cứu chúng tôi thoát khỏi cuộc phục kích của địch quân. Soái hạm Sazanami vẫn tiếp tục ra lệnh bằng đèn hiệu: "Chạy theo đội hình chiến đấu. Chuẩn bị một cuộc tấn công bằng ngư lôi ở mạn trái." Sau này Đề đốc Ijuin đã nói với chúng tôi rằng ông rất vui mừng lúc biết được địch quân đang truy đuổi chúng tôi. "Sau chiến thắng ngày 6 tháng 8. Tôi chắc chắn địch quân đã quá tự tin nên sẽ không bao giờ để ý đến những chiếc tàu không có hộ tống của chúng ta. Họ muốn so tài tay đôi với các chiến hạm Nhật. Tôi ra lệnh tiến về hướng Bắc là nhằm để lừa địch quân phải chấp nhận một cuộc chiến cách xa đoàn tàu chuyển vận của chúng ta." Lúc 22h32, tất cả khu trục hạm của chúng tôi xoay 45 độ, và tiến về phía Tây Bắc, trong lúc mọi cặp mắt đều chăm chú quan sát mọi động tĩnh của đối phương. Lệnh đổi sang "đội hình chiến đấu" khiến cho vị trí của các khu trục hạm cũng thay đổi. Bây giờ khu trục hạm Hamakaze có trang bị radar chạy ở vị trí gần địch quân nhất, với sự bao che của hai chiếc Hamakaze và Shigure ở mạn bắc, cách 1.000m. Địch quân vẫn tiến về phía Đông Bắc, chứng tỏ họ chưa phát giác việc đổi hướng bất ngờ của chúng tôi. Khoảng cách giữa chúng tôi và đối phương càng lúc càng rút ngắn lại. Lúc 22h40, một trái pháo sáng rực rỡ hai màu xanh và trắng, treo lơ lửng trên đoàn tàu của địch quân. Đây là ám hiệu của một trong những trinh sát cơ của chúng tôi, có ý nghĩa: "Tàu của địch quân là loại khu trục hạm."
Đoàn tàu của đối phương bắt đầu đổi hướng một cách mau lẹ để chạy về hướng Tây. Điều này khiến cho Ijuin kinh ngạc, vì ông biết như vậy là địch quân đã hủy bỏ cuộc truy đuổi các khu trục hạm của ông. Điều này có nghĩa là địch quân đổi ý xoay sang tấn công những chiếc chuyển vận hạm không được bảo vệ của chúng tôi. Lập tức, Ijuin ra lệnh cho tất cả các chiến hạm của ông xoay 90 độ về hướng Tây Nam và thi đua tốc độ với chiến hạm của địch quân. Vài phút sau, mọi người đều hiểu rằng tất cả các khu trục hạm của chúng tôi không tài nào bắt kịp chiến hạm địch trước khi chúng "phóng hỏa" đốt những chiếc tàu không có lực lượng yểm trợ của chúng tôi. Ijuin ra lệnh: "Phóng tất cả ngư lôi tầm xa." Ông đã ước định khoảng cách giữa soái hạm Sanazami và lực lượng đối phương chừng 8.000m. (Nhưng, theo tôi, khoảng cách có thể xa hơn 10.000m. Qua khoảng cách xa như vậy , ngư lôi được phóng ra khó có thể trúng đích.) Tất cả chiến hạm Hoa Kỳ gần như chạy song song, với tốc độ 30 hải lý có hơn. Do đó, tai họa thế nào cũng sắp xảy ra. Ijuin vội vã ra lệnh phóng tất cả ngư lôi. Vào lúc 22h52, tất cả ngư lôi đều hướng vào mục tiêu với tốc độ kinh hồn, cách sâu 2m dưới mặt biển. Một trong 23 quả ngư lôi Oxygen được phóng ra trên nửa đường đến mục tiêu bỗng nhảy vọt cao lên khỏi mặt nước, làm tung lên những cuộn sóng trắng xóa có thể nhìn thấy rõ trong màn đêm, giống như tia sáng của đèn hiệu trên boong tàu. Nhóm chiến hạm địch cũng đã trông thấy những cuộn sóng nên vội vàng xoay qua mạn phải. Do đó, tất cả ngư lôi của chúng tôi đều sai đích.Qua ống nhòm, Đề đốc Ijuin bình thản nói: "Tránh né tài tình! Nhưng dù hoang phí ngư lôi, ít ra chúng ta cũng đã lôi địch quân xa khỏi đoàn convoy."
Vào lúc 22h55 phút, soái hạm Sanazami phóng tất cả 8 quả ngư lôi còn lại. Bảy ngàn mét vẫn còn là khoảng cách khó có thể trúng đích, nhưng Đề đốc Ijuin đâu cần để ý chuyện trúng trật. Địch quân phản ứng bằng cách xoay nhanh về phía phải, và một lần nữa, các ngư lôi của chúng tôi thành hoang phí.Ijuin ra lệnh: "Mọi loại súng đều khai hỏa."Hai khu trục hạm Sanazami và Hamakaze tiến về phía trước như vũ bão và đồng loạt khai hỏa mọi loại súng. Nhưng vì không sử dụng đèn rọi tìm địch, tất cả hỏa lực đều không thể nào nhắm trúng đích được. Hơn nữa khoảng cách quá xa đối với loại súng 127mm nhỏ bé của Nhật. Isokaze và Shigure cũng tiến về phía trước, nhưng không khai hỏa. Hai lực lượng đối nghịch càng lúc càng sáp gần lại nhau. Lúc 22h59, tôi ra lệnh: "Sẵn sàng 4 quả ngư lôi, mục tiêu mạn trái,"Ngay lúc đó, chiếc Shigure bị đạn trọng pháo của địch bao vây, rơi nổ cách khoảng chừng 20 đến 40m. Những cột nước dâng cao và trải rộng. Vài giây sau đó, vòng rào hỏa lực thứ hai của địch xiết chặt hơn, và tới vòng rào thứ ba thì hầu như chạm vào tàu của chúng tôi. Tôi cố nhướng cổ, mở to mắt tìm kiếm các họng súng rực lửa của đối phương nhưng không thấy đâu. Lúc đó tôi mới biết được rằng chúng tôi đang nhận lãnh những quả đạn loại mới, không phát ra các tia lửa khi bắn. Loại đạn này chúng tôi từng nghe đồn đãi nhưng chưa thấy tận mắt. Loại đạn này cộng với các trọng pháo điều khiển bằng radar là một mối lo ngại lớn lao cho chúng tôi. Bỏ lệnh tấn công ngư lôi mà tôi vừa ban hành, tôi ra lệnh tạo màn khói bao che và cho tàu chạy theo hình chữ chi. Shigure chạy tới chạy lui trong màn khói dày đặc với tốc độ tối đa 30 hải lý. Nhưng dù chạy như vậy, chúng tôi vẫn không thể nào tránh xa những viên đạn rơi xuống chung quanh cứ cách mỗi sáu bảy giây rời rạc như đánh nhịp. Sự căng thẳng tăng lên cực độ, vì tôi biết rằng bất cứ lúc nào chiếc tàu cũng có thể trúng đạn. Sĩ quan ngư lôi và pháo thuật đều xin phép được khai hỏa, nhưng tôi biết cần phải chờ đợi cho đến khi nào có cơ hội thuận tiện nhất. Chúng tôi vẫn không khai hỏa khi đạn địch tiếp tục rơi xuống. Các chiến hạm địch đang tiến tới ở hướng 60 độ. Tôi muốn phóng ngư lôi trước, rồi mới cho khai hỏa các loại súng trên tàu, vì nếu không làm như vậy, sức giật của chúng sẽ làm sai lạc sự chính xác của ngư lôi. Đạn đại bác của địch quân càng lúc càng tiến sát đến nỗi nước văng vào mặt tôi tung tóe. Khi các chiến hạm đối phương còn cách chúng tôi chừng 5.000m, tôi ra lệnh phóng ngư lôi và xoay hướng chiếc tàu để chạy ra xa. Tôi nhìn theo những quả ngư lôi lướt nhanh trên mặt đại dương và đồng thời chờ đợi cho chiếc tàu xoay đúng hướng. Một loạt đạn của địch quân lại rơi xuống cách xa chiếc tàu, nhưng loạt kế tiếp lại nhích gần hơn. Tôi ra lệnh khai hỏa mọi loại súng. Chiếc tàu rung lên như một chiếc lá khi loạt đạn đầu tiên được bắn đi. Tiếng nổ đinh tai nhức óc. Từ lúc chúng tôi và đối phương khởi diễn cuộc đấu súng, không có quả đạn nào của họ trúng tàu chúng tôi. Khi đôi tai làm quen được với tiếng nổ chát chúa của mọi loại súng trên tàu, tôi nghe tiếng hét của quan sát viên đứng trên cột buồm: "Một quả ngư lôi trúng chiếc tàu thứ nhì, và đạn pháo kích của chúng ta cũng trúng chiếc tàu thứ ba của địch quân." Trong khói lửa mù mịt của trận chiến đang tiếp diễn, tôi chưa dám vội kiêu hãnh nhưng tin đó đã mang phấn khởi cho các thủy thủ trên boong tàu. Một tin khác, một tin bất ngờ và gây ngạc nhiên nhất trong ngày, do khu trục hạm Hamakaze cho biết. Theo đó, radar trên chiếc tàu này đã phát hiện một lực lượng hùng hậu của đối phương đang tiến về phía chúng tôi. Đại tá Toshio Miyazaki đề nghị rút lui về Tây Bắc. Đề đốc Ijuin chấp nhận ngay lời đề nghị này. Tôi cũng tức tốc chuyển lời hoàn toàn đồng ý đề nghị của Đại tá Toshio Miyazaki. Lúc 23h, chiếc Shigure của tôi xoay qua hướng Tây Bắc, theo sau là các khu trục hạm Isokaze, Sanazami và Hamakaza. Cả 4 chiến hạm đều sử dụng tốc lực rút lui. Đạn trọng pháo vẫn rơi quanh chúng tôi, kéo dài chừng 10 phút. Không có trái đạn nào trúng chiếc Shigure, nhưng chiếc Isokaze kém may mắn hơn. Sau khi trúng đạn, khu trục hạm này vội vã phóng 8 quả ngư lôi vào chiến hạm địch đang truy đuổi. Tàu địch vung sang trái để tránh né ngư lôi rồi tiếp tục cuộc truy đuổi. Vào lúc 23h12 phút, trên chiếc Isokaze gần như hỗn loạn. Một đám cháy nhỏ và một số thủy thủ của chiếc tàu này bị thương. Khu trục hạm Hamakaze cũng bị thiệt hại nhẹ, riêng hai chiếc Sazanami và Shigure là còn nguyên vẹn. Đây là trận đụng độ dàn mặt lần thứ hai mà chiếc Shigure và toàn thể thủy thủ đoàn không hề bị một thương tích nào cả.
Trong khi 20 chuyển vận hạm tiến chậm chạp dọc theo bờ biển, các khu trục hạm của chúng tôi đã lừa các khu trục hạm của Hoa Kỳ chạy ra hướng biển. Đó là 4 khu trục hạm Nicholas, O'Bannon, Taylor và Chevalier. Trước khi trời tối một vài giờ, 400 binh sĩ phải nằm lại trên các chuyển vận hạm đậu dọc theo bờ biển. Khi màn đêm buông xuống, tất cả đã đổ bộ lên bờ biển Horaniu. Như vậy, cuộc hành quân đổ bộ đã thành công trọn vẹn. Và như vậy, có thể kết luận rằng các khu trục hạm của Đại tá Thomas J.Ryan đã thất bại, và trong thất bại này có nhiều điều khúc mắc không thể giải thích được.
Tất cả các chiến hạm của Ryan chạy cùng một hướng với chiến hạm của chúng tôi mãi cho đến 23h32, và sau đó bỗng xoay hai lần 90 độ để hướng về các chuyển vận hạm Nhật. Một vài báo cáo cho biết sở dĩ ông ta đã từ bỏ cuộc săn đuổi các khu trục hạm chạy với vận tốc 35 hải lý của chúng tôi bởi lẽ các khu trục hạm của ông ta chỉ có thể chạy với tốc độ 30 hải lý mà thôi.
Nhưng sự thật lúc ấy tốc độ tối đa của khu trục hạm Shigure chỉ đạt đến 30 hải lý là cùng. Hơn nữa bánh lái của Shigure lại không được chính xác nên chắc chắn tàu này và Isokaze chạy không quá 28 hải lý. Mặt khác, hướng tiến của các chiến hạm Hoa Kỳ và hai chiến hạm Nhật , tôi được kiểm chứng lại qua các bản báo cáo của 2 bên sau này, cho thấy Đại tá Ryan không hề săn đuổi chúng tôi.
Lực lượng của Đại tá Ryan cũng không chủ tâm săn đuổi các chuyển vận hạm Nhật. Theo báo cáo, tất cả các khu trục hạm của ông ta đã bắn hết đạn nhưng vẫn còn lại một số đại đại liên, có thể đủ sức tấn công vào đoàn tàu chuyển vận không có vũ trang của chúng tôi. Nhưng theo kết quả đã thấy, chỉ có 2 chuyển vận hạm bị đánh chìm và không ai trên các tàu này thiệt mạng.
Qua những sự kiện này, cho thấy Đại tá Ryan có lẽ đã nghĩ đây là một trong các chuyến chuyển vận quen thuộc mà khu trục hạm Nhật thường đảm trách vai trò chính trong nhiệm vụ chuyên chở lực lượng đổ bộ, vì vậy khi các khu trục hạm của chúng tôi rút lui thì ông ta đã mãn nguyện, cho rằng cuộc hành quân đổ bộ của chúng tôi đã bị bẻ gãy, không cần phải truy đuổi xa hơn nữa.
Trong suốt trận đánh vừa qua, tôi cũng như tất cả các đồng nghiệp khác không hề nhìn thấy một quả ngư lôi nào được phóng đi. Điều này cũng gây thắc mắc cho chúng tôi, bởi vì cuộc đụng độ này xảy ra, chỉ cách có 10 ngày sau cuộc chiến thắng bằng ngư lôi của Mỹ tại cùng một khu vực. Sau này, Đề đốc Ijuin đã nói với tôi : "Tôi tin rằng các chiến hạm địch phải là tuần dương hạm chứ không phải khu trục hạm, bởi vì các chiến hạm này chỉ tham chiến bằng súng từ đầu đến cuối."
Lời ghi nhận của một quan sát viên trên khu trục hạm Shigure về việc một trong những quả ngư lôi của chúng tôi đã trúng tàu địch không bao giờ được kiểm chứng. Đó có thể là do sự quan sát lầm lẫn. Hình như quả ngư lôi phát nổ là do chạm phải các làn sóng do một chiếc tàu địch gây ra. Lối điều động không mấy hăng hái của địch quân sau báo cáo của quan sát viên, khiến cho tôi nghĩ nhận xét sau của tôi có lẽ đúng. Như vậy, có thể nói không có quả ngư lôi nào của Nhật chạm mục tiêu, nhưng một số đã gây chút ít rối loạn cho hàng ngũ đối phương.
Ijuin, sinh ra trong một dòng họ quý tộc và có những thói quen gia hệ, luôn luôn giữ trạng thái lạc quan. Ông ta không hề để tai đến những ngờ vực có tính cách bi quan của tôi. Do đó, trong bản báo cáo gửi cho Bộ Tư Lệnh Tối Cao Hải Quân Hoàng Gia, ông viết: "Chiếc khu trục hạm xuất sắc nhất thuộc phân đội của tôi là chiếc Shigure . Nó đã sử dụng ngư lôi đánh chìm một tuần dương hạm của địch quân.
Điều đáng phê phán nhất của toàn bộ trận đánh là việc Nhật Bản bất thình lình ngưng hướng tiến để xoay về hướng Tây Nam. Lý do là radar của chiếc Hamakaze đã khám phá ra một lực lượng địch quân hùng hậu trong khu vực phụ cận. Đây là một sự sai lầm, và chỉ có một cách giải thích sự sai lầm này: radar của Nhật Bản lúc đó không thể nào tin tưởng được, vì vậy lực lượng địch mà radar của chiếc Hamakaze phát hiện được thật ra là các chiếc tàu thuộc đoàn chuyển vận của chúng tôi.
Từ khi cuộc chiến chấm dứt, tôi đọc tất cả những lời đả kích mạnh mẽ của Hoa Kỳ nhắm vào hành động rút lui của Ijuin, bỏ mặc đoàn chuyển vận mà ông có nhiệm vụ bảo vệ. Tuy nhiên, một điều hơi lạ là dường như không có một lời chỉ trích nào nhắm vào vị chỉ huy Hoa Kỳ về việc ông ta không xúc tiến việc truy đuổi chúng tôi.
Theo tôi nghĩ, các vị chỉ huy của cả hai bên đều có sự bận tâm và bối rối riêng trong khi điều động trận đánh này. Sự thất bại ngày 7 tháng 8 tại Vịnh Vella hiển nhiên là có ảnh hưởng nặng nề đối với Ijuin, giống như trận Kolombangara vào ngày 12 tháng 7 đối với Ryan. Trong trận Kolombangara, Ryan chỉ huy một hải đội khu trục hạm khi một trong bốn chiếc tàu của ông bị đánh chìm, ba chiếc còn lại đã xoay hướng bỏ chạy một cách hỗn loạn, nhưng cũng bị các lực lượng vượt trội của Nhật đuổi theo và giáng cho các đòn chí tử. Tuy nhiên, các sử gia và phê bình gia thường không chú ý đến trạng thái tinh thần của các vị tư lệnh trong việc phê phán một trận đánh trên bộ hoặc trên mặt biển như thế này.
Bốn khu trục hạm của chúng tôi trở về Rabaul vào ngày 18 tháng 8. Qua ngày sau, thủy thủ đoàn sung sướng và hãnh diện của chiếc Shigure được nghỉ ngơi.
Trong giai đoạn tiêu hao khá cao của cả cuộc chiến này, một khu trục hạm trải qua 2 trận đánh liên tiếp mà không mang một vết thương nào thì thật là một điều đáng ngạc nhiên.
Trong chuyến trở về trước đó của chúng tôi, thiên hạ đã nhìn một cách điềm nhiên bởi vì họ cho rằng Shigure là chiếc tàu duy nhất của Nhật còn tồn tại trong trận đánh chỉ do may mắn mà thôi. Bây giờ thì không còn ai tỏ vẻ nghi ngờ về tài năng và sự kiêu hùng của nó.
Đề đốc Ijuin dùng cơm trưa với Đại tá Miyazaki và tôi tại CLB sĩ quan . Cả hai đều hết lời ca tụng chiến công của chiếc Shigure đến nỗi tôi cảm thấy bối rối nhưng pha lẫn chút ít sung sướng. Ijuin ghi nhận rằng từ ngày được tôi chỉ huy, khu trục hạm Shigure có nhiều thay đổi lớn lao, và ông kết luận:
"Tôi rất tiếc, Hara, mang tiếng là chỉ huy trưởng Hải đội mà anh chỉ có trong tay một chiếc tàu duy nhất, và chiếc tàu này lại còn lâu đời hơn chiếc Amatsukaze trước đây của anh. Nhưng hãy kiên nhẫn, không lâu nữa số tàu dưới quyền sẽ có đầy đủ cho anh."
Đề đốc Ijuin là một mẫu người rất dễ thân cận và hòa hợp. Mặc dù ông thuộc giai cấp quý tộc, sinh ra trong nhung lụa, nhưng ông đã tạo được một tiếng tăm lừng lẫy trong Hải quân như là một hoa tiêu xuất sắc.Thật đáng hài lòng khi thấy một người có khả năng và giai cấp như vậy lại chú tâm đến sự an vui của người khác.
Căn cứ Rabaul tương đối yên tĩnh vì không có những trận oanh kích xảy ra, do đó sau khi dùng cơm trưa xong, chúng tôi thả bộ quanh một vòng. Từng cơn gió nhẹ, từ hướng Đông Nam lướt đến, lay động hàng dừa rợp bóng trên đầu. Căn cứ vùng nhiệt đới này chỉ có vẻ nhộn nhịp tí chút ở bề ngoài. Chúng tôi đều mặc áo ngắn, vận quần tây ngắn và đội nón rơm. Ăn mặc như vậy thích thú hơn vì không ai chú ý và khỏi phải phiền phức đáp trả những cái chào của thủy thủ đi ngang qua chúng tôi.
Các cửa hàng trên hòn đảo vẫn mở cửa buôn bán như thường lệ, và hầu hết do người Trung Hoa làm chủ. Một dân tộc nhẫn nại và cần cù biết bao. Trong lúc Đồng Minh và Nhật Bản đang đụng độ một cách tàn khốc thì họ, những người Trung Hoa trầm tĩnh này, chỉ biết tìm cách gia tăng sức mạnh kiểm soát kinh tế địa phương của họ.
Khi băng qua một ngõ hẹp, chúng tôi bị một đám đông tụ tập trước sân của một lữ quán lôi cuốn. Đó là một đám khán giả của một nhóm vũ công địa phương khoảng chừng 40 người. Bốn mươi vũ công này không trang điểm gì khác hơn là vắt những chiếc lông chim trĩ lên tóc, vận sà rông màu sắc sặc sỡ và thân thể trần trùi trụi, rám nắng của họ được tô son vẽ phấn lòe loẹt. Họ múa may cuồng nhiệt đến nỗi thân thể ướt đẫm mồ hôi. Tiếng trống là âm điệu duy nhất phụ họa với điệu vũ này. Một số khán giả phụ nữ lâu lâu ném vài quả chuối hoặc các loại trái cây khác vào nhóm vũ công, và họ chụp lấy vừa ăn vừa nhảy múa. Thỉnh thoảng họ la lên, âm thanh giống như tiếng vịt kêu. Chúng tôi không hiểu được nguyên nhân nào mà dân địa phương tổ chức buổi khiêu vũ này, nhưng phải công nhận đây là một điệu vũ rất lôi cuốn. Gần nửa giờ, chúng tôi đứng quan sát nhóm vũ công trẻ tuổi hoa chân múa tay trong khi đầu lắc qua lắc lại liên hồi. Chỉ chừng bao nhiêu động tác ấy, nhưng hấp dẫn kỳ lạ.
Mayazaki nói: "Những người này họ bằng lòng với đời sống sơ khai của họ, họ ăn uống đạm bạc, ở trong những căn nhà tồi tàn, ăn vận thô sơ và họ không mơ ước gì hơn nữa. Đối với cuộc sống hiện đại của chúng ta, xem ra họ có vẻ biếng nhác. Nhưng thật ra ai là kẻ hạnh phúc hơn?"
Cuối cùng, Ijuin đề nghị đi chỗ khác, ông nói: "Tôi thích cuộc khiêu vũ này, nhưng tôi lại muốn đến viếng nơi tắm ở suối nước nóng mà hồi nãy chúng ta nhìn thấy. Các anh có bằng lòng theo tôi không?"
Lời đề nghị của Ijuin làm Miyazaki và tôi sửng sốt. Hồi nãy khi đi ngang qua suối nước nóng, chúng tôi có nói với Đề đốc về sự tuyệt diệu của chỗ tắm này. Bây giờ, khi nghe Ijuin nói, tôi định lên tiếng thì Miyazaki đã cướp ngang: Xin lỗi Đề đốc, suối nước nóng đó ở ngay ngoài trời. Tôi chưa thấy một vị Đề đốc nào đến đó tắm bao giờ."
Ijuin đáp: "Nhưng mà anh đã từng tắm ở đó rồi, phải không Đại tá thân mến của tôi? Và một khi anh có thể tận hưởng cuộc tắm ngoài trời sảng khoái như vậy được, tại sao tôi lại phải bằng lòng với cái buồng tắm chật hẹp và thiếu tiện nghi của tôi ở trên tàu?"
Không ai dám lý luận với một vị Đề đốc, nhất là khi ông ta nói rất hữu lý. Hải quân Nhật đã cho xây nhiều nhà tắm lộ thiên trên các suối nước nóng do núi lửa New Britain tạo thành. Ở đây có đặt những cái thùng bằng kim khí rộng lớn dùng để chứa nước . Ai muốn tắm thì đổ đầy nước trong và ấm vào thùng, rồi tắm theo lối Nhật , nghĩa là ngâm cả thân thể vào chiếc thùng đầy nước này. Tắm theo kiểu này thân thể sẽ đỏ hồng và cảm thấy khỏe khoắn hoàn toàn.
Bất cứ thủy thủ nào từng ghé Rabaul đều biết đến địa điểm tắm nước nóng ở đây. Nếu có giấy phép lên bờ, thủy thủ có thể đến tắm tự do, khỏi phải trả một khoản phí nào hết. Sau những ngày lênh đênh trên mặt biển, không hề biết đến việc tắm rửa là gì, đây là một địa điểm mà họ không thể nào quên được. Nhưng các sĩ quan cao cấp thì đã có nơi tắm riêng trên tàu, do đó, thật là đáng ngạc nhiên, khi nhìn thấy một vị Đề đốc, cũng là một vị Nam tước ngoài đời, lại lần mò đến những nơi tắm công cộng thế này.
Khi chúng tôi bắt đầu hứng nước nóng vào thùng, hai thủy thủ trẻ tuổi nhảy ra khỏi thùng của họ, chào chúng tôi và dành lấy công việc này. Phản ứng tự nhiên, chúng tôi chào trả lại họ, nhưng Ijuin nhanh miệng: "Được rồi, các chú, việc này có khó khăn gì đâu, chúng tôi có thể làm được mà. Trần truồng như thế này thì còn phân biệt giai cấp cái quái gì được nữa?"
Nhưng hai chàng thủy thủ trẻ tuổi dường như không nghe. Khi đổ nước đầy mấy cái thùng của chúng tôi xong, họ lặn khỏi địa điểm ngay lập tức.
Đề đốc Ijuin thở dài: "Dường như chúng ta đã quấy rầy cuộc vui của họ. Từ rày tôi sẽ không đến đây nữa."
Buổi tắm tuyệt thú. Sau khi tắm xong, chúng tôi kỳ lưng cho nhau và xếp thành hàng giống như ba con khỉ đột. Thật ra, đây là cái trò không lấy gì làm đứng đắn lắm đối với các sĩ quan Hải quân, nhưng chúng tôi cũng không để ý đến điều đó. Trong lúc đang hưởng sự thoải mái, Ijuin nói: "Sư tổ phóng lôi Hara, tôi muốn anh cho tôi biết ý kiến về hành động của tôi trong trận chiến vừa qua. Tám con cá của khu trục hạm Sanazami đã phí phạm một cách vô ích. Sao chúng ta không thể làm tốt hơn?"
"Thưa Đề đốc, theo tôi nghĩ, các ngư lôi đó thật sự không phí phạm một chút nào hết. Loạt phóng đầu tiên của chúng ta bị đối phương phát giác kịp thời, bởi lẽ có một quả ngư lôi đi sai hướng và bị gió thổi ngược trở lại. Nếu điều đó không xảy đến thì tôi tin rằng thế nào chúng ta cũng bắn trúng tàu địch."
Ijuin đồng ý lý luận của tôi, và ông nêu ý kiến thêm rằng khoảng cách của mục tiêu quá xa, nên dầu cho các ngư lôi có tầm xa cũng không thể nào trúng đích được. Tôi tiếp lời: "Đúng vậy, thưa Đề đốc, với sự tiến bộ về tầm phát hiện của radar địch, họ có thể bắn chúng ta từ xa, trong khi chúng ta khó mà có thể đến gần họ trong tầm 3.000m"
Ijuin nói: "Đó là sự thật. Địch quân hiện thời đã trên chân chúng ta. Điều khôn ngoan nhất cho chúng ta là cố gắng làm sao đừng gắng công đạt cho được chiến thắng mà phải chịu hao tổn quá nhiều. Không nên trả giá đắt về người và chiến hạm chỉ để đánh đổi một chiếc tàu địch."
Các cuộc tấn công của Đồng Minh ngày càng gia tăng nhanh chóng và mạnh mẽ, khiến Nhật Bản xoay trở khó khăn. Ngay chính vào ngày chúng tôi quay trở về và nghỉ ngơi tại Rabaul. Lực lượng bộ binh của Nhật bắt đầu triệt thoái khỏi căn cứ Santa Isabel, một hòn đảo có chiều dài nhưng không có chiều ngang thuộc quần đảo Solomon, nằm song song phía chính Đông của các đảo Vella Lavella, Kolombangara và New Georgia
Ba ngày được nghỉ ngơi tại Rabaul, Miyazaki và tôi được lệnh sử dụng 3 khu trục hạm để đến di tản càng nhiều càng tốt số binh sĩ đồn trú trên đảo Rekata nằm ở phía Đông Bắc Santa Isabel. Trước đó, 600 trong số 3.400 binh sĩ trú đóng trên đảo Rekata đã được một số khu trục hạm khác di tản.
Thêm một lần nữa, chiếc Shigure lại ra khơi với chiếc Hamakaze. Khu trục hạm hư hại Isokaze được chiếc Minazuki thay thế. Cả 3 khu trục hạm lên đường vào sáng ngày 22 tháng 8. Tàu của chúng tôi chất đầy thức ăn và đồ tiếp tế cho số binh sĩ còn kẹt lại trên đảo không di tản hết trong chuyến đi này vì tàu của chúng tôi mỗi chiếc chỉ có thể chở 250 người là cùng.
Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, nhiệm vụ giao phó cho chúng tôi đều gian nan vất vả. Cuộc di tản trước được thực hiện cách nay đúng 4 hôm, khiến cho công tác của chúng tôi trở nên khó khăn thêm. Địch quân đã được đặt trong tình trạng báo động. Chúng tôi phải chuẩn bị sẵn sàng để đối phó nguy cơ trước mắt.
Hành trình đến căn cứ Retaka thật nguy hiểm với hằng hà sa số đá ngầm và nhiều nơi đáy biển không được đánh dấu. Hải đồ của chúng tôi sao y hải đồ của người Anh, thực hiện năm 1939 kèm theo lời ghi chú như sau: "Những hòn đảo này chỉ được nghiên cứu có một phần, và phần lớn còn lại vẫn chưa biết được. Tốt hơn nên cẩn thận khi di chuyển trong khu vực này."
Lúc chúng tôi rời khỏi căn cứ Rabaul chưa đầy 100 dặm thì 3 phi cơ địch xuất hiện ở độ cao 20.000 bộ ( khoảng 7.960m). Súng cao xạ đặt trên các khu trục hạm của chúng tôi khai hỏa tức khắc, nhưng ở cao độ như vậy súng của chúng tôi làm sao với nổi. Quả thật đáng lo.
Phi cơ địch không bỏ một quả bom nào, nhưng cứ quấy phá bằng cách bay vòng tròn trên đầu chúng tôi. Lối chọc tức này thật đáng chửi thề. Khoảng chừng 10 phút sau, 6 chiến đấu cơ Zero cất cánh từ căn cứ Buka xuất hiện trên không phận của khu vực. Sáu chiến đấu cơ Nhật đâm thẳng vào các oanh tạc cơ địch và khai hỏa. Nhưng phi cơ địch, dường như là loại oanh tạc cơ B-24, vẫn tiếp tục bay, hoàn toàn không có vẻ gì là rối loạn cả. Mọi loại súng của chúng tôi đều quay mũi lên trời sẵn sàng khai hỏa, nếu phi cơ địch bay vào tầm.
Quấy phá chúng tôi chùng 20 phút, các phi cơ địch bỏ đi. Sáu chiến đấu cơ của chúng tôi tiếp tục bay về hướng Nam, phía trên các chiến hạm của chúng tôi, cho đến chiều tối mới quay trở về căn cứ. Nhưng chúng tôi vẫn sống trong những giờ phút bất an, vì vậy chúng tôi vẫn phải duy trì tình trạng báo động. May mắn là không còn chiếc phi cơ nào đến quấy phá chúng tôi nữa. Chúng tôi tiến một cách chậm chạp dọc theo bờ biển Bougainville và luôn luôn phải đề phòng bất trắc trên đoạn hải trình nguy hiểm này.
Chúng tôi len lỏi tiến vào khu vực đầy đá nhọn và đáy biển nông, bao quanh đảo Choiseul. Ngay lúc đó, một công điện hỏa tốc được gửi đến từ căn cứ Rekata. Không một ai trong chúng tôi quên được khi đọc nội dung của công điện này: "Bốn tuần dương hạm và rất nhiều khu trục hạm địch được nhìn thấy lảng vảng gần cửa khẩu vào hải cảng Rekata."
Tôi la trời. Tất cả các chiến hạm của chúng tôi đều chạy một cách nặng nề và chậm chạp, với vận tốc tối đa 10 hải lý. Như vậy chúng tôi sẽ trở thành mấy con bồ câu bằng đất sét vĩ đại, làm mồi cho phi pháo và ngư lôi của địch quân.
Trong khi tôi rối trí trong tình cảnh tiến thoái lưỡng nan, đèn trên chiếc Hamakaze nhấp nháy một tín hiệu: "Xoay hướng tức khắc, chạy trở ra biển với tốc độ 24 hải lý cho đến khi nào chúng ta hiểu rõ địch tình."
Rời bờ biển để chạy ra khơi như vậy chúng tôi sẽ trở thành mục tiêu rất rõ cho radar của địch quân. Chúng tôi chạy theo hướng mới chưa đầy 10 phút, truyền tin của chúng tôi bắt được một công điện xuất phát từ một trinh sát cơ địch, báo cáo về sự xoay hướng của chúng tôi. Chúng tôi phải làm gì để kháng cự lại với một đối thủ đầy đủ tai mắt như vậy?
Sau khi xem xét hải đồ, chúng tôi biết rằng địch quân chỉ cách chúng tôi 30 dặm. Có thể nào chúng tôi tiến vào bờ để đánh lạc hướng radar địch hay không?
Sau khi xem xét hải đồ, chúng tôi biết rằng địch quân chỉ cách chúng tôi 30 dặm. Có thể nào chúng tôi tiến vào bờ để đánh lạc hướng radar địch hay không? Chạy trốn? Tấn công? Tấn công chắc chắn chúng tôi sẽ chỉ hạ gục một hay hai chiến hạm địch là cùng, và sau đó, những chiến hạm còn lại của địch chắc chắn sẽ nuốt sống chúng tôi. Đèn hiệu màu xanh sau lái của chiếc Hamakaze bắt đầu nhấp nháy: "Rabaul ra lệnh trở về căn cứ ngay lập tức, không được chạm trán với địch quân. Rút lui với tốc độ 30 hải lý."
Tôi thở phào nhẹ nhõm và cúi nhìn đồng hồ, lúc đó gần nửa đêm. Chúng tôi xoay hướng chạy thẳng về Rabaul và đến nơi vào trưa ngày 23 tháng 8. Nhưng chúng tôi chỉ có chút ít thời gian để phục hồi sức khỏe sau mấy đêm mất ngủ. Hai ngày sau đó, chúng tôi lại được lệnh đến căn cứ Retaka một lần nữa. Lần đi này, chúng tôi gặp may mắn, vì thời tiết ảm đạm, có nhiều mây mù, do đó phi cơ địch không phác giác ra chúng tôi. Mưa trút xuống từng cơn trên hải trình tiến về hướng Nam, khiến cho chúng tôi chỉ nhìn thấy cách xa chừng vài trăm mét vào ban đêm.
Tình trạng thời tiết vẫn không thay đổi khi tàu chúng tôi tiến đến Santa Isabel. Kể từ lúc không có dấu hiệu nào cho thấy chiến hạm địch lảng vảng xung quanh, chúng tôi mong ước bầu trời trong sáng trở lại. Chúng tôi hạ tốc độ xuống còn 6 hải lý để len lỏi qua các khoảng nông dẫn vào hải cảng Retaka, và cứ mỗi một trăm mét phải dừng lại để kiểm soát lại vị trí. Đây cũng là một điều làm điên đầu chẳng khác nào bị địch quân quấy phá.
Chúng tôi cứ dò dẫm như vậy suốt gần 2 giờ, cho đến lúc một ánh đèn lờ mờ xuất hiện. Đó là đèn hiệu của một binh sĩ thuộc lực lượng trú đóng Nhật báo cho chúng tôi biết đã đến cửa khẩu gần hải cảng. Cả 3 chiến hạm của chúng tôi đều băng qua vùng biển cạn nguy hiểm một cách an toàn. Chúng tôi cảm thấy nhẹ hẳn người khi cho tàu lướt vào hải cảng nhỏ bé này.
Lúc 1h đêm ngày 25 tháng 8, chúng tôi bắt đầu cho cất đồ tiếp tế lên bờ, trong khi trên cầu cảng hàng trăm binh sĩ xếp hàng chờ đợi lần lượt xuống tàu. Nhưng màn đêm yên tĩnh chợt bị phá tan một cách cuồng bạo. Hai chiếc oanh tạc cơ của địch gào thét trên các tháp, và biến mất vào những đám mây sà thấp trên nền trời, sau khi thả xuống một loạt bom. Những cột nước dâng cao quanh chúng tôi. Không một thiệt hại nào được ghi nhận, nhưng chính những quả bom không trúng đích này đã thúc đẩy chúng tôi xúc tiến nhanh chóng công việc chuyển hàng và nhận binh sĩ.
Khi đồ tiếp liệu đã được dọn sạch. Binh sĩ chờ đợi chạy như bay xuống tàu. Chớp mắt, các khu trục hạm của chúng tôi đầy nghẹt đám hành khách nhốn nháo. Chúng tôi lập tức quay tàu ra khơi. Tuy trời vẫn còn tối đen như mực, nhưng bây giờ chúng tôi có thể điều khiển chiếc tàu băng qua những vùng biển cạn mà không cần phải dừng lại để mò mẫm như trước đây. Ngay lúc nhìn thấy đèn báo hiệu của binh sĩ ở cửa khẩu, chúng tôi gia tăng tốc độ. Vào lúc 2h30 phút, tốc độ của chúng tôi lên đến 30 hải lý. Chắc chắn phi cơ địch sẽ quay lại tìm chúng tôi với số lượng nhiều hơn. Chúng tôi hy vọng rời khỏi hải cảng càng xa càng tốt trước khi trời sáng.
Trước bình minh một giờ, chúng tôi đã thoát ra khỏi đại dương bao la. Sau đó, chúng tôi cho tàu chạy dọc theo bờ biển Choiseul. Một giờ nữa trôi qua, chúng tôi tiến vào eo biển Bougainville, và cũng là lúc phi cơ địch xuất hiện.
May mắn cho chúng tôi là sớm rông thấy phi cơ địch bay đến nên tạo ngay một màn khói bao che và phân tán mỏng. Khu trục hạm Hamakaze và Minazuki tăng tốc độ tối đa 35 hải lý. Chiếc Shigure già nua mệt mỏi chỉ đủ sức chạy đến 30 hải lý là cùng. Phi cơ địch ít ra là hàng chục chiếc, dường như xuất hiện mọi nơi trên vòm trời. Chúng bay xuống bắn phá xung quanh chúng tôi. Tất cả mọi loại súng của chúng tôi đều chĩa lên trời bắn liên hồi nhưng không trúng mục tiêu nào cả. Lúc phi cơ trút bom, chúng tôi cho 3 chiến hạm xả hết tốc lực, chạy theo hình chữ chi và đan chéo nhau. Lúc đó, bánh lái của chiếc Shigure lại không sử dụng được như ý muốn.
Năm phút căng thẳng trôi qua. Tất cả các oanh tạc cơ của địch bay mất. May mắn thay, chiếc Shigure không bị trúng bom. Các bộ phận trên tàu báo cáo không thiệt hại cũng không có thương vong. Các quả bom đều rơi nổ cách xa chiếc Shigure.
Khi màn khói do Shigure tạo ra tan dần. Chúng tôi nhận thấy 2 khu trục hạm bạn chạy phía trước chừng 3.000m. Và khi màn khói của tất cả các chiến hạm khác biến mất, tôi mới biết chiếc Hamakaze đang lâm nạn. Sàn tàu của khu trục hạm này bốc cháy và đang di chuyển với một tốc độ giảm sút rõ rệt. Chiếc Manazuki vô hại, và đang chạy cặp kè chiếc Hamakaze để bảo vệ. Trong lúc chiếc Shigure tiến đến gần hai đồng đội, chiếc Hamakaze sử dụng tín hiệu bằng cờ báo tin: "Một quả bom rơi trúng sàn tàu, 36 thủy thủ thương vong. Tốc độ chỉ giới hạn 20 hải lý. Tôi muốn tiến về Shortland. Hạm trưởng Miyazaki."
Shortland là căn cứ gần chúng tôi nhất, cách khu vực này không đầy 30 dặm. Nhưng tôi biết rằng Shortland không phải là nơi an toàn cho tàu chiến, vì không có sự bao che bề mặt trên không. Tức khắc, tôi ra lệnh cho nhân viên truyền tin vẫy một công điện bằng cờ: "Đại tá Hara chống lại ý định của anh. Căn cứ ở Shortland không phải là nơi an toàn. Chúng ta hãy cứ quay về Rabaul, với tốc độ 20 hải lý. Nếu có rắc rối gì xảy ra, chiếc Shigure sẵn sàng kéo anh. Yêu cầu phúc đáp."
Miyazaki lập tức chấp nhận lời đề nghị của tôi. Ngọn lửa trên chiếc Hamazaki được dập tắt. Chúng tôi vầy đoàn tiếp tục chạy về hướng Bắc. Chúng tôi thâu ngắn đoạn hành trình còn lại chậm chạp một cách thảm thương, nhưng may mắn là không có một phi cơ địch nào bay đến tấn công chúng tôi nữa. Sau đó, chúng tôi tiến vào cảng Rabaul. Mọi người đứng trên cầu tàu đã sững sờ khi nhìn thấy khu trục hạm Shigure chạy dẫn đầu, theo sau là các chiếc Hamakaze và Minazuki. Bởi vì, đối với họ, nếu bất kỳ một trong số ba khu trục hạm này lâm nạn, chắc chắn phải là chiếc khu trục hạm yếu ớt Shigure, không thể nào là chiếc tàu mới tinh và chạy nhanh như chiếc Hamakaze được. Thủy thủ đoàn Shigure cảm thấy sung sướng và hãnh diện. Chúng tôi không sao quên được những lời đàm tiếu và khinh thị mà họ đã nhắm vào chiếc Shigure của chúng tôi trước đây.
Ngày hôm sau, khi gặp nhau tại Tổng Hành Dinh, tôi ngỏ lời chia buồn cùng Miyazaki. Một vị chỉ huy trưởng khu trục hạm lỗi lạc và tài giỏi như ông ta, một người đang được đề nghị thăng cấp Đề đốc, trong khi mới 40 tuổi, bây giờ trở thành một vị chỉ huy trưởng bất hạnh của một hải đội khu trục hạm với tất cả chiến hạm dưới quyền (Yukikaze, Isokaze, Hamanaze) đều bị hư hại nặng cần phải sửa chữa. Việc thăng cấp của ông hiện tại đã thành xa vời. Lúc gặp Miyazaki, tôi nhận thấy ông có vẻ buồn bã và hổ thẹn.
Ijuin đã đưa cho Miyazaki một mảnh giấy và nói: "Đừng ủ rũ nữa, Miyazaki. Hãy đọc mảnh giấy này và vui vẻ lên."
Đôi tay Miyazaki run run khi lướt mắt qua các dòng chữ, và sau đó trao cho tôi với nụ cười thoáng buồn. Đây là công điện gửi từ Shortland, cho biết phi cơ địch đã ồ ạt tấn công gây thiệt hại nặng nề cho căn cứ này. Miyazaki bắt tay tôi và nói: "Hara, anh đã cứu tôi cùng chiếc Hamazaki và thủy thủ đoàn cùng hàng trăm binh sĩ trên tàu. Nếu tôi không nghe lời anh, cứ cho chiếc tàu chạy đến Shortland, chắc chắn giờ này chúng tôi tan thành mảnh vụn rồi."
Bốn ngày sau đó, Đề đốc Ijuin cho mời tôi và hạm trưởng khu trục hạm Shigure đến văn phòng của ông. Vị tư lệnh phân đội của chúng tôi tỏ ra lo âu và có vẻ ngần ngừ trước khi nói: "Khu trục hạm Shigure phải đơn độc đảm nhận một công tác chuyển vận đến Tuluvu. Tôi không muốn giao cho các anh nhiệm vụ này. Nhưng tôi đã ra lệnh cho toàn thể các khu trục hạm khác cùng đi với tôi đến di tản các binh sĩ tại đảo Retaka. Shigure đã được chọn để đảm nhận công tác này một mình, bởi vì, Hara, tôi biết có mặt anh trên chiếc tàu. Tôi tin rằng nếu một người nào có thể đảm nhận công tác này, với một chiến hạm duy nhất, thì người đó phải là anh. Đây là một công tác khó khăn, và tôi hứa rằng ít nhất sẽ có hơn một chiếc khu trục hạm nữa gia nhập vào hải đội của anh, khi anh trở về."
"Thưa Đề đốc, tôi sung sướng được Đề đốc giao phó nhiệm vụ. Được chỉ huy chiếc Shigure trong chuyến đi đơn độc này, đó là một vinh dự to lớn đối với hạm trưởng Yamagami và tôi."
Gương mặt của Ijuin trở nên tươi tắn hẳn ra, ông tiếp, bằng một giọng đầy khôi hài: "Hara, anh đã tạo ra nhiều kinh ngạc với chiếc Shigure. Nó đáng mang danh hiệu "Khu trục hạm kiên cố" trong hàng ngũ hạm đội Nhật Bản. Chiếc tàu này lại nằm trong phân đội của tôi, đó là một điều đáng cho tôi hãnh diện. Tôi hy vọng chúng ta sẽ cùng đi chung với nhau trong một chuyến công tác khác."
Trên đảo Tuluvu, nằm ở cực bắc mũi Gloucester thuộc đảo New Britain, Nhật Bản có thiết lập một căn cứ không quân nhỏ. Mặc dầu địch quân đã nắm ưu thế trên không trong các vùng phụ cận, Tuluvu vẫn được xem là cứ điểm quan trọng, một tiền đồn quan sát của Rabaul. Không có một con đường nào nối liền Rabaul và Tuluvu ngoài đường biển. Do đó, tất cả đồ tiếp tế cho đảo này đều được vận chuyển bằng tàu thủy. Trong khoảng thời gian ngắn vừa qua, căn cứ nhỏ bé này thiếu thốn thực phẩm và đạn dược, những lời yêu cầu tiếp tế lập đi lập lại vẫn không được đáp ứng, vì lúc ấy gặp phải áp lực nặng nề của địch quân tại quần đảo Solomon. Bây giờ đã đến lúc Tuluvu không thể bị quên lãng được nữa, nếu Nhật Bản muốn giữ quyền kiểm soát hòn đảo này.
Tuluvu, cái tên âm vang như một lời đe dọa đối với tôi. Nó nằm tại cửa khẩu phía Tây vùng biển Bismarck, nơi mà đầu tháng ba vừa qua địch quân đã phóng ra những cuộc "oanh tạc nhảy", nhận chìm bốn trong số tám khu trục hạm và toàn thể tám chiếc chuyển vận hạm, thuộc đoàn convoy 16 chiếc của chúng tôi. Cũng chính cạnh bờ biển Tuluvu, chiếc Ariake thuộc hải đội của tôi cũng bị đánh chìm bằng phương pháp oanh tạc nhảy, cùng với chiếc Mikazuki, vào ngày 28 tháng 7. hai chiếc khu trục hạm này đã chạy rướn lên đá ngầm trong lúc cố né tránh cuộc oanh kích của phi cơ địch và sau đó bị triệt hạ luôn.
Tuluvu là một căn cứ nằm trong các cuộc tuần thám hàng ngày của phi cơ Đồng Minh. Bất cứ chiếc tàu nào của Nhật Bản bén mảng đến đây đều có thể hy vọng được oanh tạc cơ Đồng Minh tiếp đón nồng hậu, có khi bằng những trận oang tạc nhảy. Tôi phải cố gắng bằng mọi cách tìm cho ra một giải pháp chống lại hình thức tấn công này, mà chắc chắn chúng tôi phải đối diện. Nhưng, cho đến hiện tại, đầu óc tôi vẫn mù mịt, nếu không nói là bó tay.
Những người sống sót trong trận đánh ở biển Bismarck đẽ kể lại chiến thuật tránh né theo lối xưa cũ của các chiến hạm Nhật đã thất bại như thế nào. Tôi nghĩ có lẽ lúc bị oanh tạc nên quay mũi hướng thẳng về chiếc phi cơ địch, như vậy mức độ chính xác về thời gian được tính toán để thả bom sẽ bị sai lạc hẳn. Nhưng không có cách gì để kiểm chứng xem ý niệm này có đúng không, ngoài cách thử thách ngay trong trận đánh. Nhưng thử thách như vậy có khác nào đùa giỡn trên mạng sống của chiếc tàu và hơn 200 thủy thủ đoàn của chúng tôi. Vào trưa ngày một tháng 9, khu trục hạm Shigure rời căn cứ Rabaul trực chỉ Tuluvu. Chúng tôi cho tàu chạy dọc theo bờ biển phía Bắc đảo New Britain với tốc độ 18 hải lý. Hải vực tại đây cũng nguy hiểm không thua gì tại quần đảo Solomon, đầy dẫy đá ngầm, và nhiều nơi đáy biển rất nông không được ghi chú trên bản đồ.
Đêm xuống khi chúng tôi tiến vào Vịnh Hollmann..... Bo sung
Đêm xuống khi chúng tôi tiến vào Vịnh Hollmann, nằm ở cực Bắc của bán đảo Willaumez, khoảng nửa đường giữa Rabaul và Tuluvu. Khu trục hạm Shigure đang tiến vào vùng nguy hiểm.
Phòng truyền tin cho biết đã bắt được làn sóng vô tuyến của một phi cơ địch lảng vảng đâu đây. Tin tức này đã đến sớm hơn sự dự đoán của chúng tôi. Tôi ra lệnh cho các quan sát viên trông chừng phi cơ địch, cho dù mây mù và trời tối đen, khiến thị độ quan sát rất yếu kém.
Một giờ sau, nhân viên truyền tin báo cáo: "Một phi cơ địch lại gửi công điện. Ngay trên đầu. Chúng tôi không thể giải đoán công điện mã hóa này, nhưng hình như phi cơ địch báo cáo vị trí, hướng đi và tốc độ của chúng ta." Chúng tôi tiếp tục chạy về hướng Tây. Thời tiết đột nhiên xấu hơn không thể nào nhìn thấy vật gì trước mặt được nữa. Không khí trở nên oi bức. Mồ hôi rịn đọng trên mặt tôi. Vài phút trôi qua, phòng truyền tin lại gọi: "Một phi cơ địch tiếp tục theo dõi hướng tiến của chúng ta."
Lặng yên và căng thẳng gia tăng trên đài chỉ huy. Tôi lấy khăn tay ra lau mặt. Chưa lần nào không khí lại ngưng đọng như thế này. Đại úy Tsukihara, sĩ quan hoa tiêu cho biết sắp có một trận mưa. Anh ta đã tiên đoán đúng. Lúc 20h, cơn mưa trút xuống, ngăn hẳn tầm nhìn trong vòng một hai mét. Chúng tôi cho tàu giảm tốc độ, quay mũi về hướng Tây Nam và tiến vào bờ biển đầy đá tảng.
Phòng truyền tin báo cáo không còn bóng dáng một phi cơ nào của đối phương được ghi nhận. Đại úy Tsukihara nói: "Tốt, thời tiết quỷ quái này đã làm cho địch quân nản chí."
Bầu không khí căng thẳng trên đài chỉ huy đã được giải tỏa. Sĩ quan và thủy thủ bắt đầu nói chuyện lao xao. Họ ngáp dài và duỗi tay chân, sau khi mươi phút trôi qua mà không có liên lạc vô tuyến nào của địch quân được ghi nhận trong vùng lân cận.
Tuy nhiên, những cánh tay bỗng hóa tê cứng trong không khí, những cái miệng chợt há hốc sững sờ trước tiếng động đinh tai nhức óc của các oanh tạc cơ chúi xuống trút bom. Mọi người đều bò càng. Với một tiếng rít lạnh xương sống, một chiếc phi cơ chúi mũi thẳng xuống đài chỉ huy và tiếp theo đó là tiếng nổ đồng loạt của nhiều quả bom. Một phi cơ khác đang gầm thét trên cột buồm.
Tôi lảo đảo đứng dậy, tự hỏi phi cơ địch ở hướng nào? Tôi nhìn thấy Yamagami đang sờ soạng tìm nút báo động và ấn mạnh. Tiếng còi báo động vang lên một cách muộn màng. Chiếc Shigure xoay hẳn về phía tả. Một cột nước mọc lên ngay trong nửa vòng tròn của chiếc tàu vừa xoay, cách không đầy 10m. Cột nước chụp lên tháp canh và đổ ập xuống đài chỉ huy. Tôi vừa giũ nước vừa hét: "Cố bẻ lái qua bên phải! Tốc độ tối đa! Gia tăng tức khắc!"
Trung úy Tsukihara nhìn tôi một cách sửng sốt, và hỏi lại: "Gia tăng tốc độ tối đa tức khắc?"
"Tức khắc!" Tôi gào lên. Tsukihara, mặt tái xanh và tay run lẩy bẩy, ấn mạnh nút liên lạc phòng máy, và nhắm nghiền mắt lại. Cùng lúc, Yamagami gọi phòng máy ra lệnh gia tăng tốc độ tối đa tức khắc, và kêu lên nho nhỏ: "Trời ơi!"
Phản ứng của họ hoàn toàn tự nhiên. Trước đây, tôi chưa bao giờ ra một mệnh lệnh như vậy, và cũng có thể nói hầu hết sĩ quan Hải quân trong suốt cuộc đời binh nghiệp của họ cũng chưa ai từng ra mệnh lệnh này. Dưới các điều kiện thông thường, một chiếc tàu muốn gia tăng vận tốc từ 12 hải lý lên vận tốc tối đa 30 hải lý phải mất nửa giờ. Dưới các điều kiện chiến đấu, việc gia tăng vận tốc như vậy cũng mất ít nhất 16 phút.
Lệnh gia tăng vận tốc "tức khắc" của tôi đã vượt qua tất cả các phương thức thông thường, và có thể làm nổ turbin cùng guồng máy chiếc Shigure thân yêu của chúng tôi. Lệnh này đã gây ra sự náo động không thể tưởng tượng được dưới hầm tàu. Mối lo âu lớn của toán phòng máy là làm sao thi hành được mệnh lệnh này mà tránh cho các sợi dây của turbin khỏi bị đứt tung khi những cái van trong máy nở ra. Tất cả mọi người đều thi hành mệnh lệnh một cách khẩn cấp nhưng trong thâm tâm đều nghĩ tai họa chắc chắn sẽ xảy ra.
Những người đứng trên đài chỉ huy chờ đợi phi cơ địch tái xuất hiện không biết phút giây nào. Yamagami, đang hướng mặt về phía sau lái bỗng la to và đưa tay chỉ ống khói tàu. Từ miệng ống khói đang tuôn ra những dòng lửa có ngọn kéo dài theo chiều gió. Nhiên liệu dư quá nhiều, máy đốt không kịp nên tuôn ra ống khói và bốc cháy. Ngọn lửa sáng rực cả phần sau chiếc tàu.
Các oanh tạc cơ địch không bao giờ bỏ bom trật một mục tiêu như thế này. Sự lo âu chỉ kéo dài trong vài phút, nhưng đối với mọi người như kéo dài hàng nhiều giờ, và ngay lúc đó, phòng truyền tin báo cáo: "Sử dụng ngôn ngữ thông thường, phi cơ địch báo cáo đã oanh tạc vào ngay giữa một khu trục hạm. Chiếc tàu bốc cháy và đang chìm."
Tôi sợ tai mình nghe lầm, tôi yêu cầu đọc lại công điện một lần nữa. Khi nghe xong công điện đáng kinh ngạc này, Yamagami và Tsukihara reo lên vui mừng.
Không khí háo hức bị phá tan, một tiếng nói từ phòng máy vọng lên, hỏi xem có cần phải tiếp tục thi hành lệnh gia tăng tốc độ cấp tốc nữa không? Tôi sung sướng trả lời rằng lệnh này không còn cần thiết nữa, và bây giờ có thể giảm tốc độ xuống 12 hải lý trở lại. Ngọn lửa ở miệng ống khói tàu hạ xuống mau chóng, và chúng tôi tiếp tục di chuyển trong bóng đêm một cách bình yên.
Không còn chiếc phi cơ nào theo đuổi chúng tôi nữa. Đối phương xem ra đã xóa tên chiếc Shigure trên biển cả. Đoạn hải trình còn lại của chúng tôi thông suốt và thoải mái sau những phút giây dựng tóc gáy. Chúng tôi đổ hàng tiếp tế xuống Tuluvu và quay ra khơi trong không khí vui mừng náo nức của binh sĩ đồn trú trên đảo.
Một lần nữa, chúng tôi trở về căn cứ Rabaul bình an. Ngày hôm sau, tôi trình diện Đề đốc Ijuin. Ông cũng trở về bình an và thành công trong chuyến đi Retaka của ông.
Lúc tôi kể chuyện với ông về những việc đã xảy ra, ông cười muốn đứt hơi, và nói: "Xem ra bây giờ chúng tôi có thể gọi anh là Đại tá Hara Huyền diệu. Hara, ngoài anh, không ai có thể nghĩ ra chiến thuật kỳ dị và thành công đến như vậy trong giờ phút nguy nan đó."
Tôi sung sướng trước lời khen tặng của ông. Tôi nói: "Chiến tranh dường như có liên quan đến thế giới huyền nhiệm. May mắn cũng là một phần lớn trong sự huyền nhiệm này. Tôi nghĩ rằng sử dụng cùng mưu mẹo đó sẽ khó thành công trong kỳ khác."
Ngay sau khi Đề đốc Ijuin đọc bản phúc trình của tôi về chuyến đi Tuluvu, ông ra lệnh xem xét lại chiếc Shigure. Là một chuyên viên hoa tiêu, ông lo ngại những hậu quả gây ra từ việc gia tăng tốc độ cấp tốc mà chiếc tàu phải chịu đựng.
Sau khi đã chạy thử và xem xét cẩn thận, các kỹ sư bảo trì đã đệ lên Ijuin một báo cáo hoàn toàn đúng với điều lo ngại của ông. Theo đó, chiếc Shigure không còn đủ khả năng để dự trận được nữa. Bản báo cáo ghi nhận rằng chiếc Shigure bỏ qua kỳ hạn tu bổ quá lâu, máy móc đã đến mức tồi tệ, bánh lái và tay lái sai lệch. Thân tàu đóng đầy vỏ sò hến, và các cơ quan cần phải có sự chính xác khác đều không thể sửa chữa hoặc điều chỉnh được. Bản báo cáo kết luận: "Xin cho phép sửa chữa tạm thời tại Rabaul để khu trục hạm Shigure có thể di chuyển sớm chừng nào hay chừng ấy đến Sasebo để hoàn tất công việc tu bổ.
Khi một phó bản của báo cáo được gửi đến chiếc Shigure, mọi người đã chuyền tay nhau để xem. Phản ứng của thủy thủ đoàn mỗi người một khác, nhưng đều giống nhau trên căn bản: Không người nào muốn trở về Nhật. Sau khi tham dự nhiều trận đánh mà không một ai thương vong, tinh thần của thủy thủ đoàn Shigure lên cao tột đỉnh. Tất cả đều la lên giận dữ khi đọc qua bản báo cáo. Họ reo hò phản đối, hết lời thóa mạ và có người còn vung tay đe dọa "mấy tên thợ máy to đầu" ám chỉ mấy viên kỹ sư. Tất nhiên, Đề đốc Ijuin chấp thuận khuyến cáo của các viên kỹ sư.
Khi những chuyên viên sửa chữa lên tàu, thái độ của thủy thủ đoàn thay đổi mau chóng. Họ tỏ ra thân thiện và vui vẻ, vui lòng hợp tác với các chuyên viên trên mọi phương diện. Đại úy Hiroshi Kayanuma, cơ khí trưởng của Shigure, còn tỏ ra một cách thân thiện đặc biệt hơn. Với bộ râu dài, Kanayuma giống như một người tiền sử, nhưng trái lại anh ta là một người khôn khéo và thông minh, và cũng là một tay uống rượu cừ khôi nhất trên tàu. Kanayuma bắt bồ ngay với mấy viên cai trông coi toán sửa chữa, lôi họ đi nhậu nhẹt mỗi ngày, cố gắng tán tỉnh để họ xúc tiến công việc sửa chữa nhanh chóng. Anh ta nói với họ: "Rabaul đang thiếu tàu chiến. Ngay cái chậu cũ kỹ xộc xệch này xem ra còn xài được hơn mấy cái chậu mới, chỉ biết đưa lưng ra đỡ đạn. Chúng tôi muốn chiến đấu. Xin giúp chúng tôi cơ hội nhận chìm tàu địch càng sớm càng tốt."
Thái độ đó cũng là thái độ chung của thủy thủ đoàn Shigure. Chỉ trong vòng 6 tháng qua mà họ đã thay đổi biết bao! Hiện thời họ đã khiến cho tôi kiêu hãnh. Với tinh thần cao như vậy, tôi biết nếu tham dự bất kỳ trận đánh nào họ cũng đều có thể gặt hái thành công dễ dàng.
Công việc sửa chữa mất nhiều ngày giờ hơn dự tính của chúng tôi. Vì có thêm nhiều chỗ hư hỏng cần phải sửa chữa thật cẩn thận.
Trong tuần lễ đầu tiên ăn không ngồi rồi tôi ngã bệnh. Suốt tháng 8 đầy sôi động, tôi không bao giờ được nghỉ ngơi lâu dài sau các trận đánh dữ dội. Qua các trận đánh kéo dài nhiều giờ này, cộng thêm nhiều đêm không chợp mắt, khiến bao nhiêu sức lực của tôi đều tiêu tán. Trong giai đoạn nghỉ ngơi như thế này tôi lại uống quá nhiều rượu. Vào cuối tháng 8, tôi đã tiêu thụ cả thùng sake mỗi đêm trước khi ngủ. Sau một tuần nhàn rỗi và quen thói quen nhậu nhẹt, tôi sợ mình trở thành một con sâu rượu nên cố gắng giảm xuống. Nhưng sức khỏe tôi giảm sút khủng khiếp, không đủ trầm trọng để tôi nằm liệt giường, nhưng nó đủ sức gây cho tôi tính khí thất thường và hay tức bực.
Tôi ngẫm nghĩ về tình thế của cuộc chiến. Tại sao Nhật Bản không chịu thương lượng hòa bình trước khi việc này quá trễ tràng? Tôi không thể nào ngủ yên giấc. Mỗi khi tôi chợp mắt, những cơn ác mộng ùa đến và tôi bừng dậy, mồ hôi lạnh toát đầy thân.
Nghĩ lại, tôi nhớ ơn Đề đốc Ijuin. Ông biết tôi cần phải nghỉ ngơi, nên ông đã dành cho tôi thời gian này. Nhiệm vụ chỉ huy một chiếc tàu trong thời chiến là một nhiệm vụ đầy mệt mỏi, đó là không nói giữa lúc tôi còn khỏe mạnh, tuổi mới trên 40. Chỉ cần tưởng tượng tôi cũng thấy các vị sĩ quan cao cấp hơn đã gặp phải biết bao khó khăn. Các sử gia, những người thường hay chỉ trích những sĩ quan chỉ huy, phải nhìn một cách thích đáng những căng thẳng và những trách nhiệm nặng nề của một vị chỉ huy chiến đấu.
Thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi làm cho tôi hồi sinh. Hai tuần lễ này đã khôi phục đầy đủ năng lực tiêu tán của tôi. Vào giữa tháng 9, khi công việc sửa chữa chiếc tàu của chúng tôi xong xuôi, tôi mạnh hẳn về cả thể xác lẫn tinh thần.
Trong khi đó, tình thế cuộc chiến về phía Nhật Bản trở nên tồi tệ. Do đó, Bộ Tư Lệnh Tối Cao quyết định một cuộc hành quân triệt thoái khác. Lực lượng Nhật ở Kolombangara được di tản.
Tôi hoạt động trở lại đúng thời gian có cuộc hành quân chuyển vận Buka. Hòn đảo thuộc quần đảo Solomon này nằm gần Rabaul nhất. Đề đốc Ijuin cho rằng cuộc hành quân dễ dàng này sẽ lấy lại phong độ cho tôi.
Cuộc di tản ở khu vực Kolombangara bắt đầu vào ngày 21 tháng 9. tất cả binh sĩ Nhật trấn đóng trên hai đảo Arundel và Gizo, ở mạn phía Nam và Đông Nam của Kolomban gara, được rút hết cùng ngày. Vào ngày 27, cuộc hành quân chuyển vận Buka hoàn tất, tôi gia nhập vào cuộc di tản gần 10.000 binh sĩ trú phòng ngay trên đảo chính là Kolombangara. Cuộc di tản này thành công hoàn toàn vào đầu tháng 10, chỉ có 66 binh sĩ thương vong.
Chương trình triệt thoái kế tiếp là Vella Lavella. Từ đây giống như từ các địa điểm di chuyển khác, binh sĩ được rút đi đều mang hết về Bougainville. Ijuin được lệnh điều khiển cuộc di tản 600 binh sĩ ở đảo Horaniu, thuộc Vella Lavella.
Để thực hiện cuộc hành quân triệt thoái này, Ijuin đã vạch một kế hoạch công phu, đòi hỏi 3 nhóm hộ tống gồm 9 khu trục hạm...
Chương trình triệt thoái kế tiếp là Vella Lavella. Từ đây giống như từ các địa điểm di chuyển khác, binh sĩ được rút đi đều mang hết về Bougainville. Ijuin được lệnh điều khiển cuộc di tản 600 binh sĩ ở đảo Horaniu, thuộc Vella Lavella.
Để thực hiện cuộc hành quân triệt thoái này, Ijuin đã vạch một kế hoạch công phu, đòi hỏi 3 nhóm hộ tống gồm 9 khu trục hạm. Nếu so sánh với tổng số 25 khu trục hạm được sử dụng trong cuộc di tản 10.000 binh sĩ ở Kolombangara, cuộc di tản nhỏ bé này đã quy tụ một lực lượng hộ tống vượt mức. Ijuin giải thích rằng mặc dù các cuộc hành quân ở Kolombangara không gặp phải sự ngăn trở nào đáng kể, nhưng với các cuộc hành quân sau này, địch quân đã hiểu chiến lược của chúng tôi, nên phải chuẩn bị sẵn sàng để đương đầu với sự ngăn cản mạnh mẽ hơn.
Sự buồn cười có lẽ là đặc tính nổi bật nhất của cuộc hành quân quá tỉ mỉ này, bởi sự thật, 600 binh sĩ ở Horaniu không được di tản đâu xa hơn là Buin, nằm ở phía Nam Bougainville, nghĩa là cách xa địa điểm di tản không quá 50 dặm. Hơn nữa, và là một sự mỉa mai, 400 trong số 600 binh sĩ được di tản lại do chính Ijuin hộ tống đổ bộ lên Horaniu một tháng trước đó.
Trận đánh khu trục hạm xảy ra vào hai ngày 6 và 7 tháng 10 là một trong những trận đánh hỗn loạn nhất của cuộc chiến Thái Bình Dương. Ngay khởi đầu, cuộc xung đột được điều động bởi những người khư khư ôm lấy ảo tưởng và những sai lầm, nhưng có một vài điểm khá chính xác: Người Mỹ đã đánh giá đúng sức mạnh của Nhật ở Horaniu, và họ biết Nhật sắp đưa ra một nỗ lực để triệt thoái lực lượng bị cô lập trên hòn đảo này. Người Mỹ cũng biết rằng sau một năm của cuộc chiến tiêu hao, sức mạnh trên mặt biển của Nhật đã sút giảm nghiêm trọng, nhưng họ không bao giờ tưởng tượng Hải quân Nhật đã tung đến 9 khu trục hạm, 4 tàu săn ngầm và 20 chuyển vận hạm vào một cuộc hành quân nhỏ bé như vậy.
Đề đốc Ijuin đã đảm trách quá nhiều nhiệm vụ trong những tháng vừa qua, vì vậy ông đã mỏi mệt. Trong khi sức khỏe của tôi có dịp phục hồi, tinh thần và thể xác căng thẳng của ông qua các cuộc chiến đấu liên miên không có một dịp nào khác để nghỉ ngơi. Vấn đề này là một yếu tố quan trọng trong cuộc đụng độ sắp xảy ra.
Lực lượng đảm trách cuộc di tản ở Vella Lavella Đề đốc Ijuin, xuất phát từ Rabaul vào sáng sớm ngày 6 tháng 10, tổ chức như sau:
I. Nhóm khu trục hạm hộ tống, Đề đốc Ijuin tổng chỉ huy, chia thành 2 nhóm nhỏ:
Nhóm A: Khu trục hạm Akigumo, Isosake, Kazegumo, Yugumo do Đại tá Miyazaki chỉ huy.
Nhóm B: Khu trục hạm Shigure, Samidare do Đại tá Hara chỉ huy.
II. Nhóm khu trục hạm chuyển vận do Đại tá Kunizo Kanaoka chỉ huy bao gồm 3 khu trục hạm Fumizuki, Matsukaze và Yunagi.
III. Nhóm tàu chống ngầm và chuyển vận hạm do Đại tá Shigoroku Nakayama chỉ huy bao gồm 4 tàu chống ngầm và 20 chuyển vận hạm.
Tất cả đều dưới quyền tổng chỉ huy của Ijuin, soái hạm của ông là chiếc Akigumo, kế đó là Đại tá Miyazaki đầy đủ kinh nghiệm với chiếc Isokaze của ông, và thành phần còn lại tiếp theo sau. Chọn chiếc Akigumo làm soái hạm, có lẽ Ijuin không muốn Miyazaki mó tay vào các quyết định mặt trận quan trọng của ông. Trên chiếc Akigumo, với vị hạm trưởng và các sĩ quan ít kinh nghiệm. Ijuin sẽ mạnh miệng hơn khi tạo ra các quyết định riêng của ông.
Trái hẳn ý kiến của một số người Mỹ từng tham dự vào trận đánh sắp xảy ra - họ cho rằng Ijuin không muốn chạm trán với họ. Sự thật, Ijuin mong muốn và rất sẵn sàng để đánh. Số lượng chiến hạm mà ông mang theo đã chứng tỏ điều này. Từng là một chuyên viên hoa tiêu, ông tránh dàn binh theo đội hình phức tạp, và sự thành công của đội hình từng gây bối rối cho đối phương trong cùng một khu vực bảy tuần lễ trước đây vẫn còn trong ký ức ông. Hiện tại ông lại mệt mỏi, ý niệm điều quân mới mẻ không thể hy vọng sẽ có nơi ông.
Bốn chiến hạm thuộc nhóm đầu tiên của ông đều có khả năng đạt được tốc độ đến 35 hải lý. Do đó, trong một phiên họp chiến thuật, Ijuin có nói với chúng tôi rằng ông sẽ điều quân để nhử địch vào vị trí chọn lựa, nơi đây hai khu trục hạm của tôi có thể đưa ra một cú đấm gây sửng sốt cho địch quân, để nhờ vậy, nhóm khu trục hạm thứ ba của chúng tôi có thể tiến đến đoàn tàu chuyển vận suôn sẻ. Chín khu trục hạm của chúng tôi cũng triển khai thành nhiều nhóm riêng rẽ để địch quân không thể đoán nổi sức mạnh thật sự của chúng tôi. Quả thật, địch quân đã khinh thường lực lượng của chúng tôi, nhưng họ lại không đánh theo sự sắp xếp của Ijuin.
Ngày đó trời đầy mây và mưa sa từng chặp. Lướt vào những cơn mưa, chúng tôi tìm thấy chốn ẩn thân tuyệt hảo. Khi chạy men theo bờ biển phía Đông Bougainville vào buổi trưa hôm đó, truyền tin của chúng tôi chặn bắt được một công điện viết bằng những con số của địch quân. Công điện này do trinh sát cơ hoặc một số quan sát viên bí mật được địch quân cài trong rừng rậm Bougainville gửi đi. Chúng tôi không có cách nào để biết có phải công điện này đã báo cáo đầy đủ hay chỉ từng nhóm tàu chiến riêng rẽ của chúng tôi. Nên biết, hiện tại các chiến hạm của chúng tôi chia ra làm 3 nhóm chạy riêng rẽ và cách xa nhiều dặm. Nhưng dù thế nào, công điện này cũng chứng tỏ sự hiện diện của chúng tôi đã bị địch quân sớm phát hiện.
Sau khi bắt được công điện, khoảng cách giữa các khu trục hạm của chúng tôi được nới rộng thêm từ 1000m, nhằm chuẩn bị đón nhận một cuộc tấn công của phi cơ địch.
Khoảng 15h, đúng ngay lúc chúng tôi đang chống trả với một cơn mưa ào ạt, nhiều phi cơ địch từ hướng Choiseul bay đến. Cơn mưa bão đã bảo vệ chúng tôi hữu hiệu. Bầu trời thẩm tối trong nửa giờ, phi cơ địch không biết chúng tôi ở đâu mà mò, nên đành bỏ cuộc săn đuổi.
Lúc mặt trời lặn, chúng tôi nhận được một công điện của Đề đốc Ijuin cho biết nhóm tàu của ông đang tiến thẳng đến Vella, và chỉ thị thành phần còn lại "hãy giảm tốc độ xuống còn 9 hải lý, và chờ ở phía Đông đảo Shortland để gặp đoàn tàu chuyển vận", mà ông hy vọng sẽ đến sớm. Sau khi gửi chỉ thị, nhóm tàu gồm 4 chiếc của Ijuin chạy với tốc độ 26 hải lý, hướng mũi vào eo biển Bougainville. Eo biển này ban ngày di chuyển đã khó khăn, trong đêm tối còn khó khăn hơn nữa, nhưng các chiến hạm của ông không gặp tai nạn nào. Một hoa tiêu xuất sắc, tiếng tăm của Ijuin không có gì quá đáng.
Hai khu trục hạm của tôi chạy chầm chậm ngang qua eo biển và đã gặp các chuyển vận hạm ở phía Đông Shortland theo như sự sắp xếp. Sau đó, chúng tôi tiếp tục chạy về hướng Đông Nam, với vận tốc nhàn nhã 9 hải lý.
Giữa lúc hầu như đã đặt chân đến Horaniu, Ijuin phát hiện 4 khu trục hạm địch xuyên qua đêm tối. Một cơn bão đến bất thình lình che phủ mọi vật. Lần này cơn mưa nghiêng phần lợi thế về phía địch quân, lúc ấy vẫn chưa phát hiện các khu trục hạm của Ijuin. Mò mẫm trong bóng tối như bưng, và chợt nghĩ đến các khẩu súng có radar hướng dẫn của đối phương, Ijuin đã lưỡng lự. Ngay lúc đó, phòng truyền tin trao ông một công điện: "Một trinh sát cơ Nhật phát hiện 4 tuần dương hạm và 3 khu trục hạm địch từ hướng Tây tiến về phía Bắc Vella Lavella."
Ijuin gật mạnh đầu, và bình thản ra lệnh cho nhóm tàu của ông xoay hướng. Báo cáo này hoàn toàn sai lầm, và đã dẫn đến hầu hết những sai lầm tiếp theo khác của Nhật Bản trong trận đánh này. Làm sao báo cáo này được tin tưởng và được phổ biến? Câu hỏi chưa bao giờ có giải đáp dứt khoát. Theo tôi phỏng đoán, viên phi công của trinh sát cơ là một tay mới vào nghề. Hắn ta có thể đã nhìn thấy nhóm 3 khu trục hạm Hoa Kỳ thấp thoáng qua các cụm mây, hắn ta bay qua vị trí khác và hướng khác, rồi lại quan sát. Cứ như vậy, hắn ta đã nhìn một nhóm tàu địch thành hai hoặc thành ba, và nhắm mắt báo cáo bừa. Đó là một sai lầm nghiêm trọng và tai hại thật sự.
Nếu báo cáo quan sát đầu tiên này chính xác, toàn thể quanh cảnh của trận đánh sẽ khác biệt hẳn. Theo báo cáo, lực lượng đối phương gồm 4 tuần dương hạm. Một tuần dương hạm mang hỏa lực gấp 10 lần một khu trục hạm và loại tàu này còn được trang bị những pháo khẩu điều khiển bằng radar rất hữu hiệu. Mặc dù Ijuin biết trong tình trạng đêm tối và mưa gió radar sẽ hoàn toàn vô dụng, nhưng các chiến hạm của ông không thể nào đương đầu nổi với lực lượng đối phương hùng hậu như vậy. Do đó, ông chỉ còn một cách lựa chọn mà thôi: Xoay hướng.
Khi công điện chuẩn bị đổi hướng đến chiếc Shigure, tôi đã tỏ ra kinh ngạc về sự xuất hiện quá sớm của địch quân, nhưng tôi không có lý do nào để ngờ vực sự chính xác của báo cáo do trinh sát cơ cung cấp. Tôi chỉ thoáng hình dung vẻ mặt u sầu của Ijuin khi bỏ ngang kế hoạch đã được sắp xếp của ông. Ông đang ở vào một tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Ông sẽ có 2 đường để chọn, đình chỉ hẳn hoặc cố gắng tiếp tục nhiệm vụ được giao phó. Lực lượng hùng hậu hiện thời của ông không tương xứng chút nào với nhiệm vụ di tản nhỏ bé được giao phó. Do đó, bỏ ngang nhiệm vụ, ông sẽ không còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ. Hơn nữa, không có lý lẽ nào để tin tưởng cuộc hành quân di tản này được hoãn lại để thực hiện lần sau sẽ gặp một lực lượng địch quân yếu kém hơn.
Trong khi Ijuin bị dày vò với muôn ngàn ý nghĩ và nhóm tàu của ông tiếp tục chạy về hướng Nam với vận tốc 26 hải lý, Đại tá Walker trên soái hạm Selfridge, dẫn đầu một nhóm 3 khu trục hạm Hoa Kỳ, đã phát hiện những gì mà ông ta đoán quyết là một đoàn chuyển vận hạm của Nhật Bản. Lúc đó là 23h31 (giờ địa phương). Và trong khi Walker ra lệnh cho các chiến hạm thuộc quyền của ông gia tăng tốc độ lên 23 hải lý để chạy đua với "đoàn chuyển vận hạm" Nhật, ông đã gọi thêm một nhóm 3 khu trục hạm Hoa Kỳ khác, hiện đậu ở cạnh bờ biển phía Bắc New Gerorgia, cách 20 dặm phía Tây vị trí của ông.
Có thể đêm đẹp trời này là đêm của biến cố, đêm của đổi thay. Thời tiết bỗng trong sáng đến nỗi có thể nhìn thấy các mục tiêu cách xa trên 15.000m, Nhưng thỉnh thoảng các đám sương mờ và hơi nước bốc lên che khuất hẳn tầm nhìn. Đại tá Walker, qua radar, đã nhìn thấy các chiến hạm Nhật, trong khi Ijuin không hay biết gì đến sự có mặt của các khu trục hạm Hoa Kỳ.
Lực lượng của Walker nhanh chóng tiến sát đến các khu trục hạm Nhật trong khi Ijuin đánh đi công điện kế tiếp của ông, ra lệnh cho "hai chiếc tàu của tôi kết hợp với ông càng nhanh càng tốt." Tôi nhận công điện này vào lúc 20h10 và cấp tốc đáp ứng lệnh đưa ra bằng cách xả hết tốc lực 30 hải lý, trực chỉ về hướng nhóm tàu của Ijuin.
Ijuin vẫn chưa biết gì về vị trí và động tĩnh của đối phương. Mối đe dọa này đã bị sương mù của đêm che khuất. Nhưng, trong cố gắng nhằm để các khu trục hạm của tôi gặp ông dễ dàng, Ijuin đã xoay hướng nhóm tàu của ông về phía tây vào lúc 20h29. Sáu phút sau, tôi đánh đi một công điện kêu cứu: "Không thể nào tìm thấy anh, bởi lẽ sương mù quá dày đặc. Yêu cầu khu trục hạm Yugumo bật đèn lái màu xanh." Ngay lúc đó, 20h35, Ijuin lại xoay hẳn hướng các chiến hạm của ông sang trái trong khi chiếc Yugumo cho biết đã bật đèn lái theo lời yêu cầu của tôi.
Nhóm tàu của Ijuin lại nhanh chóng xoay trái hai lần nữa, lần xoay sau cùng thực hiện vào lúc 20h38, khi tôi đã nhìn thấy đèn hiệu màu xanh của chiếc Yugumo. Một phút sau đó, Ijuin phát hiện lực lượng địch đang tiến đến từ hướng Đông. Cấp tốc 4 khu trục hạm Nhật gia tăng tốc độ lên 35 hải lý chạy về hướng Nam. Hơi nước lúc ấy bốc lên mù mịt, che khuất hẳn tầm nhìn. Ijuin đăm đăm nhìn về phía địch quân, nhưng ông vẫn chỉ thấy lờ mờ và vẫn tin rằng lực lượng địch bao gồm 4 tuần dương hạm và 3 khu trục hạm theo như báo cáo của phi cơ. Xuyên qua màn hơi nước, ông ước lượng khoảng cách của các chiến hạm ẩn hiện như bóng ma của địch quân độ chừng 10.000m, và ông quyết định lặp lại chiến thuật mà ông đã từng sử dụng vào ngày 17 tháng 8.
Theo đó, Ijuin dự định quay về hướng Tây Tây Nam với tốc độ cao để vừa chạy vừa phóng ngư lôi. Nhưng, một việc thường thấy ở biển, mục tiêu xuất hiện thường thấy gần hơn là khoảng cách thực sự của nó. Vì vậy, Ijuin đã sai lầm khi ước lượng khoảng cách giữa ông và địch quân.
Ông cho tàu vung nhẹ sang hướng Nam Đông Nam, tức hướng 235 độ, và vào lúc 20h40 ông xoay về hướng tây tây Nam. Chỉ huy trưởng 4 chiếc tàu săn ngầm, Đại tá Nakayama gửi công điện báo cáo đoàn chuyển vận hạm đã hướng thẳng đến Horaniu. Tin này khiến Ijuin vui mừng, vì như vậy là đoàn tàu sẽ di chuyển an toàn ngang qua phía sau lực lượng đối phương.
Vào lúc 20h45, Đề đốc Ijuin khám phá ra sự sai lầm của ông. Lực lượng địch vẫn duy trì hướng tiến cũ, nhưng khoảng cách giữa ông và họ xa hơn ông tưởng. Ông lập tức xoay về hướng Nam Đông Nam trở lại và, sau đó, khi đã điều chỉnh lại sự ước lượng khoảng cách sai lầm và sắp xếp một kế hoạch tấn công bằng ngư lôi, vào lúc 20h48, ông ra lệnh cho các tất cả các chiến hạm của ông đồng loạt xoay về bên phải 45 độ.
Tới đây, Ijuin lại tạo ra một lỗi lầm khác. Đồng loạt xoay hướng là một hành động vô cùng khó khăn. Việc này đòi hỏi sự chính xác của thời gian, đó là không nói đến sự rắc rối khi thi hành, bởi lý do các khu trục hạm đang chạy trong một đội hình hàng dọc khít khao. Muốn thi hành sự xoay hướng này, điều kiện tuyệt đối là soái hạm phải biết đầy đủ tình trạng và vị trí chính xác của từng chiếc tàu một trong đội hình. Nhưng ở hiện tại, các đường liên lạc vô tuyến của soái hạm chỉ liên lạc được với 3 khu trục hạm, còn liên lạc với chiếc Shigure của tôi, bị cắt đứt hoàn toàn.
Sau sự sai lầm ước lượng khoảng cách của địch quân, tiến đến sự sai lầm trong lệnh xoay hướng đồng loạt, Ijuin cho nhóm chiến hạm của ông kết hợp thành đội hình hàng dọc tạm thời tiến về hướng Nam. Nhìn qua tình hình này, Ihuin có vẻ lo ngại, vì ông hiểu rằng các chiến hạm của ông hiện thời đã trở thành mục tiêu lộ liễu cho địch quân. Ông nhớ lại hình ảnh xoay hướng về bên phải khéo léo và thần tốc của 4 khu trục hạm Hoa Kỳ trong trận đánh ngày 17 tháng 8 trước đây. Nếu lúc này địch quân cũng làm như vậy, lực lượng của ông sẽ lãnh một cú đấm tàn khốc, để rồi tiếp sau đó, chiến hạm địch sẽ đổ xô về phía Nam và dọn sạch đoàn tàu chuyển vận. Ám ảnh mạnh mẽ bởi mối đe dọa này, cộng thêm với thể xác mệt mỏi vì chiến trận, và cái thói quen không chịu lưu ý hoặc nghe theo khuyến cáo của các thuộc cấp đầy kinh nghiệm, Đề đốc Ijuin đã tạo nên một sai lầm thứ ba, một sai lầm vĩ đại nhất trong cuộc đời ông. Ông ra lệnh cho tất cả chiến hạm của ông đồng loạt xoay hướng một lần nữa, lần này xoay về bên trái. Bây giờ các chiến hạm Nhật nằm trong đội hình hàng ngang so le, từ phía Nam tiến về phía Đông, và như vậy càng khiến cho lực lượng của Ijuin trở thành mục tiêu dễ nuốt đối với địch quân hơn.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro