Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Y thien do long ky 24-34

Hồi 24

THÁI CỰC SƠ TRUYỀN NHU KHẮC CƯƠNG

Âm dương đắp đổi,

Thái cực xoay vòng.

Đỉnh đầu lơ lửng như bông,

Tọa thiền kia với hành công khác gì[1].

*

* *

Trương Vô Kỵ nghĩ đến Tống đại sư bá và các người không biết đã từ Tây Vực về đến núi chưa, trên đường đi tuyệt nhiên không nghe tin tức gì của họ cả, nếu như gặp phải biến cố, ở lại núi chỉ có thái sư phụ và một số đệ tử đời thứ ba, tam sư bá Du Đại Nham tàn phế nằm đó, nếu như cường địch đến lấy gì chống trả? Chàng nghĩ vậy, trong bụng không khỏi bồn chồn như lửa đốt liền lớn tiếng nói:

- Các vị tiền bối, huynh trưởng, phái Võ Đương là nơi tiên phụ xuất thân, thái sư phụ đối với tại hạ ơn nặng như núi. Hiện nay đang gặp đại nạn, cứu binh như cứu hỏa, sớm khắc nào hay khắc đó. Vậy xin Vi Bức Vương đi theo bản nhân, đến cứu viện trước, các vị kế tiếp chia ra đến sau, mọi việc nhờ Dương tả sứ và ông ngoại an bài.

Nói xong vòng hai tay lên chào, lách mình vọt ra khỏi cửa. Vi Nhất Tiếu thi triển khinh công, đi song song với chàng. Tiếng đáp ứng của quần hào chưa dứt, hai người đã đến cửa chùa Thiếu Lâm rồi, khinh công đẹp như thế, nhanh như thế thật trên đời không có được một người thứ ba sánh kịp.

Hai người không dám hao phí một giây một khắc, chân không ngừng bước, chạy một mạch mấy chục dặm. Thoạt đầu Vi Nhất Tiếu không kém chút nào nhưng càng lâu, nội lực dần dần sút giảm. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Đường lên núi Võ Đương thật xa, không thể chạy một mạch không nghỉ như thế này. Huống chi cường địch ngay trước mặt, mình phải giữ sức để còn chiến đấu". Chàng liền nói với Vi Nhất Tiếu:

- Đến thị trấn đằng trước mình tìm mua hai con ngựa cưỡi để dưỡng sức.

Vi Nhất Tiếu vốn có ý ấy nhưng không tiện nói ra, liền đáp:

- Giáo chủ, mua bán ngựa mất nhiều thì giờ lắm.

Chẳng mấy chốc, thấy từ xa có năm sáu người cưỡi ngựa chạy lại, Vi Nhất Tiếu liền tung mình nhảy tới, nắm cổ hai người, nhẹ nhàng vứt ngay xuống đất, kêu lên:

- Giáo chủ, lên ngay.

Trương Vô Kỵ chần chừ đứng lại, nghĩ thầm mình chặn đường cướp ngựa như thế có khác gì cường đạo đâu? Vi Nhất Tiếu kêu lên:

- Làm chuyện lớn đừng câu nệ tiểu tiết, họ còn nhiều mà.

Trong khi la lối, y lại vứt thêm hai người khác xuống đất. Mấy người đó cũng biết chút ít võ nghệ, quát mắng chửi bới, rút binh khí ra toan động thủ. Vi Nhất Tiếu hai tay cầm bốn con ngựa, giơ chân đá tung hết võ khí trong tay bốn người đó. Lại nghe một người quát lên:

- Kẻ cậy mạnh cướp đường kia, có giỏi thì để lại tên tuổi.

Trương Vô Kỵ nghĩ nếu còn dây dưa, ắt sẽ thêm nhiều phiền phức, tung mình nhảy lên lưng ngựa, cùng Vi Nhất Tiếu mỗi người dắt thêm một con, quất ngựa chạy thẳng. Những người kia luôn mồm chửi rủa nhưng không dám đuổi theo.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chúng ta ở vào chỗ không còn cách nào khác, nhưng biết đâu người ta cũng có việc gấp phải làm, làm thế này trong bụng không an.

Vi Nhất Tiếu cười đáp:

- Giáo chủ, chuyện nhỏ nhặt này có đáng gì đâu? Năm xưa Minh giáo hành sự, có thể nói là "không còn e dè, ngang ngược vô pháp".

Nói xong cười lên ha hả. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Minh giáo bị người ta coi là tà giáo dị đoan cũng có lý của nó. Thế nhưng thế nào là ngay, thế nào là cong thì cũng thật khó mà luận". Nghĩ đến mình mang trọng nhiệm giáo chủ trên vai nhưng kiến thức ít ỏi, nhiều chuyện không quyết định được, ngay như chuyện nhỏ nhặt đoạt ngựa đây, cũng do dự không biết sao cho phải, dù có võ công cao cường, nhưng việc trên đời đâu phải chỉ dựa vào võ lực? Chàng nghĩ đến đó, trong lòng cảm thán, chỉ mong sớm đón được Tạ Tốn về để trút được gánh nặng trên vai không còn phải lo gì nữa.

Ngay lúc đó, bỗng thấy thấp thoáng, hai người nhảy ra chặn ngay lối đi, trong tay đều cầm cương trượng. Vi Nhất Tiếu quát lên:

- Tránh ra.

Y lấy roi cuốn bên lưng vung ra, giục ngựa phóng tới. Một người giơ trượng đỡ roi, còn người kia huýt một tiếng còi, giơ gậy ra chặn. Con ngựa Vi Nhất Tiếu đang cỡi hoảng sợ, dựng hai vó trước. Ngay lúc đó, từ trong lùm cây bốn hán tử mặc áo đen chạy ra, xem thân pháp đều là những tay luyện ngạnh công. Vi Nhất Tiếu kêu lên:

- Giáo chủ cứ việc đi trước, để bọn chuột nhắt này thuộc hạ tính cho.

Trương Vô Kỵ thấy họ có ý ngăn chặn cứu binh cho phái Võ Đương, dụng tâm ác độc thoáng nhìn là biết, tình hình rất là hung hiểm, biết Vi Nhất Tiếu khinh công võ kỹ đều xuất chúng, có thể lo liệu được bọn này, nếu không thắng thì cũng tự bảo vệ được thân. Chàng bèn kẹp hai đùi, giục ngựa xông tới. Hai tên hắc y giơ cương trượng ra chặn ngay đầu ngựa, Trương Vô Kỵ cúi xuống, vung hai tay đoạt luôn hai cây gậy, thuận thế ném ra. Chỉ nghe "a" "a" hai tiếng thảm khốc, hai tên áo đen đã bị hai cây gậy chia ra đánh gãy xương đùi, ngã lăn quay trên mặt đất. Chàng thấy bốn tên quấy rối Vi Nhất Tiếu võ công không phải là kém, e rằng mình đi rồi, Vi Nhất Tiếu sẽ khó mà xoay trở nên giúp y thanh toán trước hai tên.

Tung Sơn và Võ Đương sơn mặc dù ở hai tỉnh Dự Ngạc khác nhau, nhưng một đằng ở Dự Tây, một đằng ở Ngạc Bắc, cách nhau không xa lắm. Đi qua Mã Sơn Khẩu rồi, về phía nam đường toàn đồng trống, ngựa chạy thật nhanh, mới chính ngọ đã đến Nội Hương. Trương Vô Kỵ trong bụng đói meo, liền ghé một cái chợ mua mì, bánh bao ăn đỡ, bỗng nghe phía sau một con ngựa của mình hí lên thảm thiết, quay đầu nhìn lại, đã thấy một con dao sáng loáng đâm dưới bụng ngựa, một bóng người thoáng qua rồi biến mất.

Trương Vô Kỵ phi thân đuổi theo chộp được người nọ, thấy y mặc áo đen, vạt trước áo dính đầy máu ngựa. Chàng quát hỏi:

- Ngươi là thủ hạ của ai? Bang hội môn phái nào? Đại đội nhân mã chúng bay đã đến núi Võ Đương chưa?

Chàng hỏi liền mấy câu nhưng người kia chỉ nhắm mắt không trả lời. Trương Vô Kỵ không muốn mất thì giờ thêm, nghĩ thầm cứ lên đến núi Võ Đương sẽ biết, lập tức giơ tay đóng huyệt Đại Truy để cho y đau đớn khổ sở ba ngày ba đêm cho biết. Chàng giục ngựa chạy tiếp một mạch đến Tam Quan Điện, qua sông Hán Thủy đi về hướng nam. Thuyền đến giữa dòng, nhìn thấy nước sông cuồn cuộn nghĩ đến năm nào thái sư phụ dẫn mình đi lên núi Thiếu Lâm cầu chữa bệnh không xong phải quay về, trên sông Hán Thủy gặp Thường Ngộ Xuân, lại cứu được Chu Chỉ Nhược. Trong đầu chàng hiện ra hình bóng kiều diễm của nàng, nhớ đến đôi mắt chăm chăm nhìn mình trên Quang Minh Đính khiến chàng không khỏi xuất thần.

Qua Hán Thủy rồi chàng tiếp tục phóng ngựa xuôi nam. Bấy giờ trời đã nhá nhem, chỉ nhìn thấy lờ mờ, chạy thêm một giờ nữa không có ánh trăng sao, con ngựa cực kỳ mỏi mệt, không còn sức nữa, khụy xuống đường. Chàng vỗ vỗ lưng nó nói:

- Ngựa ơi, ngựa ơi, ngươi ở đây nghỉ ngơi, rồi muốn đi đâu thì đi.

Nói xong chàng thi triển khinh công chạy tiếp. Chạy đến canh tư, bỗng nghe văng vẳng tiếng vó ngựa phía trước, xem ra một đoàn người đang đi. Chàng càng gia tăng kình lực, đi lẻn qua đoàn người này. Thân pháp chàng vừa nhanh vừa nhẹ, lại trong đêm khuya cho nên không một ai hay biết. Cứ xem hướng đi của bọn này chính là đang lên núi, hơn hai chục người không nói một tiếng thành thử không thể biết được lai lịch thế nào, nhưng ai ai cũng mang binh khí hẳn là đối địch với phái Võ Đương, không còn ngờ gì nữa. Chàng trong lòng thấy an tâm: "Thế là mình cũng đuổi kịp bọn chúng rồi, phái Võ Đương như vậy chưa bị tấn công".

Lại chạy thêm nửa giờ nữa, trước mặt lại có một đoàn người cũng đi lên núi Võ Đương. Trước sau chàng gặp năm nhóm, mỗi nhóm nhiều thì ba chục người, ít cũng khoảng mươi người. Khi gặp đoàn thứ năm, chàng bỗng thấy lo lắng: "Không biết đã có bao nhiêu nhóm lên trên núi rồi? Đã có nhóm nào động thủ cùng người trong bản phái chưa?".

Chàng tuy không phải đệ tử Võ Đương, nhưng vì gốc tích của cha nên từ trước tới nay vẫn coi phái Võ Đương là môn phái của mình. Nghĩ như thế chàng càng cố chạy nhanh hơn.

Chẳng mấy chốc chàng đã lên núi, cũng may không gặp nhóm địch nào. Đến lưng chừng bỗng thấy đằng trước có một người đang cố sức chạy, áo rộng đầu trọc chính là một nhà sư, khinh công cực giỏi. Trương Vô Kỵ chạy theo xa xa để xem động tĩnh của y.

Nhà sư đó chạy một mạch lên núi, tới trên đỉnh rồi bỗng nghe một người quát hỏi:

- Bằng hữu ở lộ nào đó mà đang đêm lại đến viếng núi Võ Đương?

Tiếng quát chưa dút, đằng sao khe đá chạy ra bốn người, hai đạo sĩ, hai tục gia chính là đệ tử đời thứ ba, thứ tư của phái Võ Đương. Tăng nhân đó chắp tay làm lễ nói:

- Thiếu Lâm tăng nhân Không Tướng, cớ chuyện gấp cầu kiến Võ Đương Trương chân nhân.

Trương Vô Kỵ hơi ngạc nhiên: "Thì ra y là một tiền bối hàng chữ Không của phái Thiếu Lâm, cùng Không Văn phương trượng, các vị Không Trí, Không Tính thần tăng là sư huynh đệ. Y không nề gian khổ chạy lên núi Võ Đương, hẳn là đi đến báo tin.

Một đạo nhân của phái Võ Đương nói:

- Đại sư đường xa mệt nhọc, xin mời quá bước vào tệ quan dùng trà.

Nói xong đi trước dẫn đường. Không Tướng bỏ giới đao đeo ở hông xuống, giao cho một đạo nhân, để tỏ ý không dám đeo binh khí bước vào quan. Trương Vô Kỵ thấy đạo nhân đó dẫn Không Tướng vào điện Tam Thanh trong Tử Tiêu Cung, liền náu ở bên ngoài cửa sổ. Lại nghe Không Tướng lớn tiếng nói:

- Xin đạo trưởng lập tức bẩm báo Trương chân nhân, sự việc khẩn cấp không thể diên trì một phút nào cả.

Đạo nhân kia đáp:

- Đại sư đến thật không phải lúc, tệ sư tổ tọa quan từ năm ngoái, đến nay đã hơn một năm, đệ tử bản phái đã lâu chẳng một ai được thấy tư phạm của lão nhân gia.

Không Trí nói:

- Như vậy phiền thông báo Tống đại hiệp.

Đạo nhân trả lời:

- Đại sư bá cùng gia sư và các chư vị sư thúc, liên minh với quí phái, viễn chinh Minh giáo chưa trở về.

Trương Vô Kỵ nghe đến mấy tiếng "viễn chinh Minh giáo chưa trở về", trong bụng kinh hoảng, quả nhiên nhóm Tống Viễn Kiều đã gặp chuyện gì không hay trên đường trở về. Lại nghe Không Tướng thở dài một tiếng nói:

- Nếu quả như thế phái Võ Đương cũng không khác gì phái Thiếu Lâm chúng tôi, hôm nay khó mà qua khỏi được kiếp nạn này.

Đạo nhân kia không hiểu ý tứ nói:

- Sự vụ trong tệ phái, hiện nay do Cốc Hư Tử sư huynh chủ trì, tiểu đạo sẽ thông báo ngay, mời ra tham kiến đại sư.

Không Tướng hỏi:

- Cốc Hư đạo trưởng là đệ tử của vị nào thế?

Đạo nhân kia đáp:

- Là môn hạ Du tam sư thúc.

Không Tướng nhướng đôi lông mày dài nói:

- Du tam hiệp tay chân bị thương, nhưng đầu óc vẫn minh mẫn, mấy câu này lão tăng nói lại với Du tam hiệp vậy.

Đạo nhân kia nói:

- Vâng, xin theo lời đại sư chỉ bảo.

Nói xong quay mình đi vào. Nhà sư Không Tướng ở trong sảnh đi đi lại lại, xem ra cực kỳ nóng ruột, thỉnh thoảng lại nghiêng tai nghe ngóng, hiển nhiên lo lắng địch nhân tấn công lên núi. Chẳng bao lâu, đạo nhân kia rảo bước đi ra, khom mình nói:

- Du tam sư thúc có lệnh mời, nói là xin đại sư tha thứ cho tội không đi ra ngoài nghênh tiếp được.

Lúc này thần thái cử chỉ của đạo nhân kia so với khi trước cung kính hơn nhiều, chắc là Du Đại Nham nghe thấy nhà sư thuộc hàng chữ Không của phái Thiếu Lâm giá lâm nên dặn y lễ mạo phải mười phần chu đáo. Không Tướng gật đầu, đi theo y vào ngọa phòng của Du Đại Nham. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Tam sư bá tàn phế tứ chi, tai mắt hẳn là linh mẫn hơn nhiều, nếu ta đến bên ngoài phòng ông ta nghe ngóng, chỉ e sẽ bị phát giác". Chàng đi đến cách phòng Du Đại Nham chứng vài trượng liền dừng lại.

Qua chừng thời gian uống một chén trà, đạo nhân kia lật đật đi ra khỏi phòng Du Đại Nham, hạ giọng gọi:

- Thanh Phong, Minh Nguyệt, qua bên này.

Liền có hai đạo đồng chạy đến trước mặt ông ta, kêu lên một tiếng:

- Sư thúc.

Đạo nhân kia nói:

- Chuẩn bị cáng, tam sư thúc muốn ra ngoài.

Hai đạo đồng bèn vâng dạ đi ngay. Trương Vô Kỵ ở trên núi Võ Đương mấy năm, tri khách đạo nhân kia là đệ tử của Du Liên Châu mới thu về sau nên chàng không biết, nhưng lại biết hai đạo đồng Thanh Phong, Minh Nguyệt. Mỗi khi Du Đại Nham muốn ra ngoài phải nằm trên cáng do hai đạo đồng đó khiêng đi. Chàng thấy hai đạo đồng đó đi về hướng phòng để cáng liền rón rén đi theo sau, đợi cho hai người vào phòng đột nhiên gọi:

- Thanh Phong, Minh Nguyệt, nhận ra ta không?

Hai tiểu đồng sợ hãi nhảy dựng lên, chăm chú nhìn Trương Vô Kỵ, xem thấy quen quen, nhưng chưa biết là ai. Trương Vô Kỵ cười nói:

- Ta là Vô Kỵ tiểu sư thúc đây, các ngươi quên rồi sao?

Hai đưa tiểu đồng liền nhớ lại, mừng rỡ kêu lên:

- Ồ, tiểu sư thúc về rồi. Sư thúc khỏi bệnh chưa?

Ba người tuổi tác cùng lứa, trước kia thường chơi đùa với nhau. Trương Vô Kỵ nói:

- Thanh Phong, để ta giả làm ngươi, đến khiêng tam sư bá, xem ông ấy có nhận ra ta không?

Thanh Phong trù trừ nói:

- Cái đó. .. không được đâu.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tam sư bá thấy ta khỏi bệnh trở về, vui không để đâu cho hết, vui sướng còn chưa đủ, lẽ nào còn trách mắng ngươi?

Hai đạo đồng biết là từ tổ sư Trương Tam Phong trở xuống, Võ Đương lục hiệp đối với vị tiểu sư thúc này cực kỳ sủng ái, y khỏi bệnh về núi, thật là một chuyện vui rất lớn, muốn nghịch ngợm một tí, Du Đại Nham đang bệnh sẽ vui không có gì là không được. Minh Nguyệt nói:

- Tiểu sư thúc bảo sao thì làm vậy.

Thanh Phong nghe thế liền cười hì hì cởi đạo bào, giày vớ để cho chàng thay. Minh Nguyệt thì giúp Trương Vô Kỵ tết một cái búi tóc. Chỉ trong giây lát, chàng đã biến thành một tiểu đạo đồng. Minh Nguyệt nói:

- Nếu sư thúc mạo xưng Thanh Phong, tướng mạo không giống, vậy nói là đệ tử mới thu trong đạo quan. Thanh Phong bị ngã què chân nên sư thúc vào thay.

Trương Vô Kỵ cười đáp:

- Hay lắm. ..

Đạo nhân kia ở ngoài quát mắng:

- Hai thằng nhãi kia, còn hi hi ha ha cái gì trong đó, sao lâu thế không chui ra.

Trương Vô Kỵ và Minh Nguyệt le lưỡi, vác cáng lên vai đi về phía phòng Du Đại Nham. Hai người đỡ Du Đại Nham ngồi vào cáng, Du Đại Nham mặt thật là trịnh trọng không để ý đến đạo đồng là ai nói:

- Đến tiểu viện sau núi để gặp tổ sư gia gia.

Minh Nguyệt đáp:

- Vâng

Quay mình lại tiến bước còn Trương Vô Kỵ khiêng đằng sau. Du Đại Nham chỉ thấy sau lưng Minh Nguyệt nhưng không thấy Trương Vô Kỵ. Không Tướng đi theo ngang bên cáng cùng đến hậu sơn. Viên tri khách đạo nhân kia không được Du Đại Nham gọi đến nên không dám đi theo.

Nơi Trương Tam Phong bế quan tĩnh tu là một tiểu viện nằm sâu trong rừng trúc tại sau núi, cây cối um tùm, bóng râm che phủ mặt đất, ngoài tiếng chim kêu không nghe một tiếng nào khác. Minh Nguyệt và Trương Vô Kỵ khiêng Du Đại Nham đến trước tiểu viện, hạ võng xuống. Du Đại Nham đang toan mở miệng cầu kiến, bỗng nghe từ sau cửa truyền ra tiếng nói già cả của Trương Tam Phong:

- Vị cao tăng nào của phái Thiếu Lâm quang lâm hàn cư, lão đạo không kịp ra xa nghênh tiếp, mong thứ lỗi.

Nghe kẹt một tiếng, cửa tre mở rộng, Trương Tam Phong từ từ bước ra. Không Tướng ngạc nhiên, thấy Trương Tam Phong nhận ra người đến thăm thuộc phái Thiếu Lâm thật là kỳ quái nhưng nghĩ ngay có lẽ tri khách đạo nhân đã đến bẩm trước rồi. Du Đại Nham biết là sư phụ càng ngày càng tinh thâm, chỉ nghe tiếng bước chân Không Tướng đã nhận ra ngay môn phái võ công, trình độ nông sâu. Nội công của Trương Vô Kỵ cao thâm hơn Không Tướng nhiều, từ thực quay trở lại hư, quá tinh thuần nên lại thành giản phác, cử chỉ, ánh mắt, bước chân, giọng nói mọi thứ đều không lộ ra chút nào khiến Trương Tam Phong không nhận ra. Chàng thấy thái sư phụ tuy mặt mày hồng hào nhưng râu tóc đã bạc phơ, so với lúc chia tay năm xưa đã già hơn một chút, trong lòng vừa hoan hỉ, vừa bi thương, nhịn không nổi nước mắt chảy ròng ròng, vội quay đầu ra chỗ khác.

Không Tướng chắp tay vái chào nói:

- Tiểu tăng Thiếu Lâm Không Tướng, tham kiến Võ Đương tiền bối Trương chân nhân.

Trương Tam Phong cũng chắp tay đáp lễ nói:

- Không dám, đại sư bất tất đa lễ, xin mời vào nói chuyện.

Cả năm người bước vào tiểu viện. Chỉ thấy trên bàn có một bình trà, một chén uống trà, dưới đất là một tấm bồ đoàn, trên tường treo một thanh kiếm gỗ, ngoài ra không còn gì khác. Trên bàn dưới đất đầy những bụi bặm.

Không Tướng nói:

- Trương chân nhân, phái Thiếu Lâm gặp phải kiếp nạn nghìn năm qua chưa hề có, ma giáo đột nhiên bất ngờ tấn công, bản phái từ phương trượng Không Văn sư huynh đổ xuống, hoặc chiến đấu đến chết vì chùa, hoặc sức yếu bị bắt, chỉ một mình tiểu tăng liều chết chạy thoát. Đại đội ma giáo đang tiến về núi Võ Đương, vinh nhục mất còn của võ lâm Trung Nguyên hôm nay toàn nằm trong tay một mình Trương chân nhân đấy thôi.

Nói xong khóc òa lên. Trương Vô Kỵ bị chấn động mạnh, chàng biết rõ phái Thiếu Lâm đã bị tai kiếp ra sao nhưng không ngờ toàn phái đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Ngay cả Trương Tam Phong đã một trăm năm tu tập, nghe tin đó cũng giật mình kinh hoảng, một hồi lâu không nói được tiếng nào, định thần rồi mới hỏi:

- Ma giáo tuy ngang ngược như thế nhưng phái Thiếu Lâm cao thủ biết bao nhiêu, làm sao đến nổi phải rơi vào độc thủ của chúng được?

Không Tướng nói:

- Không Trí, Không Tính hai vị sư huynh đem môn hạ đệ tử, cùng năm đại môn phái Trung Nguyên thề ước tây chinh, vây đánh Quang Minh Đính. Tăng chúng còn ở lại chùa ngày ngày mong ngóng tin vui. Hôm đó dưới chân núi báo tin lên, những người viễn chinh đại thắng trở về. Phương trượng Không Văn sư huynh nghe tin mừng lắm, cùng mọi người trong chùa ra nghênh đón, quả nhiên thấy Không Trí, Không Tính hai vị sư huynh cùng các đệ tử trở về đến chùa rồi, ngoài ra còn bắt được đến mấy trăm người dẫn theo.

Mọi người vào đến đại viện, phương trượng hỏi han tình hình đắc thắng, Không Trí sư huynh ấp úng nói không ra. Không Tính sư huynh đột nhiên kêu lên: "Sư huynh cẩn thận, chúng tôi đã lọt vào tay người ta rồi, những kẻ bị bắt toàn là địch nhân. ..". Phương trượng còn đang kinh ngạc, bọn tù binh liền rút binh khí dấu trong người ra tay tấn công. Đệ tử bản phái một là trở tay không kịp, hai là các hảo thủ tây chinh bị địch bắt rồi, những người còn lại trong chùa chẳng bao nhiêu, mọi hướng ra trong đại viện đều bị địch chặn lại hết, kịch đấu một trận, đều bị chúng đánh cho tan tành cả, Không Tính sư huynh tuẫn nạn ngay tại đương trường. ..

Nói tới đây Không Tướng khóc lên thành tiếng. Trương Tam Phong trong bụng xót xa, nói:

- Bọn ma giáo tàn độc như thế, thi hành ác kế làm sao ai mà đề phòng cho nổi?

Không Tướng cởi cái bọc vải màu vàng đeo trên lưng, mở bao ra, bên trong là một lớp vải dầu, mở lớp vải dầu, quả nhiên lộ ra một cái thủ cấp, mắt tròn xoe trợn ngược, mặt đầy vẻ phẫn nộ, chính là một trong ba đại thần tăng của phái Thiếu Lâm Không Tính đại sư. Trương Tam Phong và Trương Vô Kỵ đều biết mặt Không Tính, vừa thoạt nhìn không nhịn nổi cùng kêu "A" lên một tiếng.

Không Tướng khóc nói:

- Tiểu tăng liều chết cướp được pháp thể của Không Tính sư huynh, Trương chân nhân, ngài xem đại cừu này làm sao trả được?

Nói xong cung kính đặt chiếc đầu của Không Tính lên bàn rồi phục xuống lạy. Trương Tam Phong buồn bã khom lưng chắp tay đáp lễ. Trương Vô Kỵ nhớ đến khi tỉ võ trên Quang Minh Đính, Không Tính thần tăng khẳng khái lỗi lạc, hào khí hơn người, không thên là đường đường một đại tông sư của phái Thiếu Lâm, đâu ngờ bị gian nhân làm hại đến nỗi đầu một nơi, mình một nẻo, trong lòng thật là đau xót.

Trương Tam Phong thấy Không Tướng nằm phục xuống hồi lâu không dậy, khóc lóc thật thảm thiết, liền đưa tay ra đỡ lên nói;

- Không Tướng sư huynh, Thiếu Lâm Võ Đương vốn cũng một nhà, thù này không thể không báo. ..

Oâng vừa nói tới chữ "báo" thì không ngờ nghe bình một tiếng, song chưởng của Không Tướng cùng đánh thẳng vào bụng dưới.

Biến cố đó thật là đột ngột, Trương Tam Phong võ công tuy đã đến mức tòng tâm sở dục, cảnh giới tối cao muốn gì được nấy, nhưng đâu ngờ nhà sư Thiếu Lâm đang mang mối huyết cừu, từ xa đến báo tin cho mình tự nhiên lại bất ngờ đánh lén. Ngay lúc đầu, ông tưởng đâu Không Tướng vì bi thương quá độ nên tâm trí mê man, trong cơn hôn loạn tưởng mình là địch nhân, nhưng lập tức biết rằng không phải, nơi bụng dưới trúng phải chưởng lực, chính là ngoại môn thần công Kim Cương Bát Nhã Chưởng, cảm thấy Không Tướng đang dồn hết sức đẩy kình lực ra, mặt mày trắng bệch nhưng khóe miệng lộ một nụ cười hiểm ác.

Trương Vô Kỵ, Du Đại Nham, Minh Nguyệt ba người đâu ngờ biến cố đó xảy ra, ai nấy kinh sợ đến chết trân. Du Đại Nham khổ nỗi thân thể tàn phế, không cách nào tiến lên giúp sư phụ một tay, còn Trương Vô Kỵ tuổi trẻ hiểu biết ít, trong một sát na, đâu đã hiểu được rằng Không Tướng đang toan giết chết thái sư phụ mình. Hai người vừa kêu lên một tiếng thì Trương Tam Phong đã đẩy chưởng trái ra, nghe bộp một tiếng nhỏ, đánh trúng ngay đỉnh đầu Không Tướng. Chưởng đó thật mềm như bông mà cứng còn hơn sắt, sọ Không Tướng nát bấy, người sụm xuống như một đống bùn nát chết ngay, chẳng kịp kêu lên một tiếng.

Du Đại Nham vội kêu:

- Sư phụ, lão nhân gia. ..

Nói tới đó ông liền ngừng lại thấy Trương Tam Phong nhắm mắt ngồi xuống, chỉ trong chốc lát, trên đầu tỏa ra những làn hơi trắng li ti, bỗng dưng há mồm hộc ra một ngụm máu tươi.

Trương Vô Kỵ trong lòng kinh hãi, biết rằng thái sư phụ bị thương thực không phải nhẹ, nếu như ông nôn ra máu bầm đen, thì với nội công thâm hậu vô tỉ của ông chỉ ba bốn ngày sẽ hoàn toàn bình phục, thế nhưng lại hộc máu tươi, phun ra ồng ộc ắt là tạng phủ đã bị trọng thương. Trong giây phút đó, lòng chàng trù trừ không biết tính sao: "Mình có nên lập tức bước ra thố lộ thân phận để cứu thái sư phụ? Hay làm cách nào?".

Ngay khi đó bỗng nghe tiếng chân, có người đã đến trước cửa, nghe có vẻ gấp rút, xem ra mười phần hoảng hốt nhưng không dám tiến vào. Du Đại Nham hỏi:

- Linh Hư đấy ư? Chuyện gì thế?

Tri khách đạo nhân Linh Hư đáp:

- Bẩm báo tam sư thúc, đại đội ma giáo đã đến bên ngoài cung, xin gặp tổ sư gia gia, nói ra những lời thô bỉ, nói muốn san phẳng phái Võ Đương. ..

Du Đại Nham quát lên:

- Câm mồm. ..

Oâng sợ Trương Tam Phong bị phân tâm sẽ khích động đến thương thế. Trương Tam Phong từ từ mở mắt, nói:

- Kim Cương Bát Nhã chưởng của phái Thiếu Lâm quả thực là ghê gớm, nếu không tĩnh dưỡng ba tháng thì không khỏi được.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Hóa ra thái sư phụ bị thương còn nặng hơn ta tưởng nhiều".

Lại nghe Trương Tam Phong nói:

- Minh giáo kéo đại đội binh mã lên núi, ôi, không biết Viễn Kiều, Liên Châu bọn nó có được bình an không? Đại Nham, con nghĩ mình phải làm sao?

Du Đại Nham lặng yên không đáp, biết rằng trên núi ngoài sư phụ và mình ra, còn lại đệ tử đời thứ ba thứ tư chẳng có gì đáng kể, đưa ra ngự địch, chẳng qua chỉ đẩy vào chỗ chết. Việc hôm nay, chỉ có nước mình liều mạng ra cho địch làm gì thì làm, để sư phụ tìm nơi dưỡng thương, sau này sẽ tìm cách báo thù. Nghĩ thế ông bèn cao giọng nói:

- Linh Hư, ngươi đi ra bảo họ chờ tại điện Tam Thanh ta sẽ ra gặp.

Linh Hư vâng lời đi ngay. Trương Tam Phong và Du Đại Nham tình thầy trò với nhau đã lâu, tâm ý tương thông, nghe ông nói như thế biết ngay ý định nói:

- Đại Nham, sống chết ăn thua, chẳng có gì đáng phải để bụng cả nhưng tuyệt học phái Võ Đương không thể vì chuyện này mà đứt gánh. Ta tọa quan mười tám tháng, đắc ngộ tinh yếu võ học, một pho Thái Cực Quyền và một pho Thái Cực Kiếm bây giờ ta truyền cho con.

Du Đại Nham ngẩn ngơ, nghĩ thầm bản thân mình tàn phế đã lâu làm sao còn học được quyền pháp kiếm thuật? Huống chi lúc này cường địch đã nhập quan, còn đâu ở không mà tập luyện võ công, nên chỉ kêu lên:

- Sư phụ.

Rồi không nói thêm gì được nữa. Trương Tam Phong cười buồn nói:

- Từ khi ta khai sáng phái Võ Đương đến nay, hành hiệp giang hồ, làm nhiều điều nhân nghĩa, cứ đại số mà nói, quyết không thể nào bị đứt đoạn như thế này. Hai pho Thái Cực Quyền và Thái Cực Kiếm của ta so với đạo lý võ học từ trước đến nay hoàn toàn khác hẳn, chuyên về lấy tĩnh chế động, hậu phát chế nhân. Sư phụ con đã hơn trăm tuổi, nếu như chẳng gặp cường địch, thì cũng còn sống được bao năm? Điều vui là đến cuối cuộc đời lại sáng chế được pho võ công này.

Viễn Kiều, Liên Châu, Tùng Khê, Lê Đình, Thanh Cốc chẳng có ai ở bên ta, còn đệ tử đời thứ ba, thứ tư thì trừ Thanh Thư ra không có nhân tài nào kiệt xuất, mà y lại cũng không có ở trên núi. Đại Nham, con phải mang trọng trách truyền lại bình sinh tuyệt nghệ của ta, vinh nhục một ngày của phái Võ Đương có gì đáng kể? Nếu như pho Thái Cực Quyền này truyền lại được cho người sau, thanh danh của phái Võ Đương sẽ lưu đến muôn đời.

Ông nói đến đây, thần thái phấn khởi, hào khí bốc lên ngùn ngụt, tưởng như coi cường địch đang uy hiếp kia chẳng để vào đâu.

Du Đại Nham vâng vâng dạ dạ, hiểu ý sư phụ muốn mình nhẫn nại để đảm trách việc lớn, làm sao tiếp truyền tuyệt kỹ của bản phái mới là quan trọng. Trương Tam Phong từ từ đứng dậy, hay tay buông thõng, lưng bàn tay hướng ra ngoài, ngón tay để tự nhiên, hai chân dang ra ngang nhau. Kế đến hai cánh tay từ từ đưa lên đến ngang ngực thì tay trái ôm thành hình bán nguyệt, lòng bàn tay úp thành âm chưởng, tay phải lật lên thành dương chưởng, nói:

- Đây là thế khởi đầu của Thái Cực Quyền.

Rồi tiếp tục từng chiêu, từng thức diễn ra một lượt, miệng đọc các tên thế: Lãm Tước Vĩ, Đơn Tiên, Đề Thủ Thượng Thế, Bạch Hạc Lượng Xí, Lâu Tất Câu Bộ, Thủ Huy Tì Bà, Tiến Bộ Ban Lan Truy, Như Phong Tự Bế, Thập Tự Thủ, Bão Hổ Qui Sơn ...

Trương Vô Kỵ ngưng thần nhìn không nháy mắt, lúc đầu tưởng là thái sư phụ cố ý đem từng thức diễn thật chậm, cốt để cho Du Đại Nham nhìn cho rõ ràng, nhưng đến chiêu thứ bảy "Thủ Huy Tì Bà", chỉ thấy ông tay trái dương chưởng, tay phải âm chưởng, mắt chăm chú nhìn cánh tay bên trái, hay tay từ từ hợp lại, xem tưởng ngưng trọng như núi, lại tựa nhẹ nhàng như lông. Trương Vô Kỵ đột nhiên tỉnh ngộ:

- Đây là một loại võ công thượng thừa lấy chậm chống với nhanh, lấy tĩnh chế động, không ngờ là trên thế gian này lại có một loại công phu cao minh đến thế.

Chàng vốn dĩ võ công cực cao, một khi đã lãnh hội, càng xem càng thêm nhập thần. Chỉ thấy Trương Tam Phong hai tay ôm thành hình vòng tròn, chiêu nào cũng hàm ý âm dương biến hóa, tinh vi ảo diệu, quả thực mở ra một khung trời mới cho võ học.

Ước chừng ăn xong một bữa cơm, Trương Tam Phong sử đến thượng bộ Cao Thám Mã, thượng bộ Lãm Tước Vĩ, Đơn Tiên rồi hợp trở lại thái cực. Ông đứng yên thần định khí nhàn, tuy mới bị trọng thương mà luyện xong quyền pháp, tinh thần xem ra lại sung vượng hơn. Trương Tam Phong hai tay ôm vòng thành thức thái cực, nói:

- Quyết khiếu của môn quyền pháp này là mười sáu chữ "hư linh đính kình, hàm hung bạt bối, túng yêu thùy đồn, trầm kiên trụy trửu[2]". Thuần lấy ý mà đi quyền, tối kỵ dùng sức, hình thần hợp nhất, đó chính là yếu chỉ của quyền pháp.

Nói xong ông giải thích kỹ lưỡng một lần. Du Đại Nham không nói một lời chỉ chăm chú lắng nghe, biết rằng thời thế khẩn bách, không có thì giờ để hỏi, tuy có rất nhiều điều chưa hiểu rõ nhưng chỉ cốt chăm chăm ghi nhớ, nếu như sư phụ có chuyện gì chẳng lành, những khẩu quyết chiêu thức mình còn truyền lại được, sau này có kẻ nào tài trí thông minh suy nghĩ được chỗ tinh áo trong đó. Còn Trương Vô Kỵ lãnh hội được nhiều hơn, mỗi câu mỗi thế Trương Tam Phong diễn ra đều khiến chàng như được mở ra một con đường mới, lòng vui sướng không sao tả nổi.

Trương Tam Phong thấy mặt Du Đại Nham có vẻ như hoang mang chưa rõ, hỏi lại:

- Con hiểu được mấy phần?

Du Đại Nham đáp:

- Đệ tử ngu độn, chỉ hiểu độ ba bốn phần nhưng chiêu thức và khẩu quyết thì nhớ hết.

Trương Tam Phong nói:

- Cũng thật khó cho con. Nếu như Liên Châu ở đây thì có thể hiểu được năm thành. Ôi, ngũ sư đệ của con ngộ tính cao hơn cả, tiếc thay không may chết sớm, nếu ta có được ba năm ra tay điểm bát, thì có thể truyền môn tuyệt kỹ này cho y.

Trương Vô Kỵ nghe ông đề cập đến cha mình, trong lòng không khỏi chua xót. Trương Tam Phong lại nói tiếp:

- Quyền kình của môn này chủ yếu là tưởng lỏng nhưng không phải lỏng, sắp bung ra nhưng chưa bung ra, kình dứt rồi mà ý chưa dứt. ..

Ông đang định giải thích tiếp, bỗng nghe từ phía điện Tam Thanh xa xa truyền đến một giọng già nua:

- Nếu Trương Tam Phong lão đạo cứ rụt đầu không ra, bọn ta đem đồ tử đồ tôn của y giết sạch đã.

Lại có một giọng đàn ông ồm ồm nói:

- Hay lắm, cứ cho một mồi lửa đốt tiêu cái đạo quan này rồi tính sau.

Tiếp đến có một giọng the thé:

- Để lão chết thui thì lão sướng quá. Mình phải tóm cổ lão, trói lại dẫn đi các môn các phái cho họ nể mặt, để mọi người xem cái lão già sống dai vẫn được gọi là Thái Sơn, Bắc Đẩu mặt mũi ra thế nào.

Tiểu viện nơi hậu sơn cách tiền điện đến hơn hai dặm, nhưng thanh âm mấy người này truyền đến rõ ràng, hiển nhiên địch nhân cố ý khoe khoang công lực, mà công lực cũng quả không tầm thường.

Du Đại Nham nghe những lời hối nhục sư tôn, trong bụng giận lắm, mắt như muốn tóe lửa. Trương Tam Phong nói:

- Đại Nham, những lời ta dặn dò con, mới đây sao đã quên rồi? Không nhẫn nại được, làm sao đảm trách chuyện lớn?

Du Đại Nham nói:

- Vâng, con xin theo lời giáo huấn của sư phụ.

Trương Tam Phong nói:

- Con đã hoàn toàn tàn phế, địch nhân sẽ không đề phòng, tuyệt đối không được gấp gáp nóng nảy. Nếu như tuyệt nghệ ta khổ tâm sáng chế không truyền được cho hậu thế, thì con sẽ là tội nhân của phái Võ Đương ta đó.

Du Đại Nham nghe mà lưng toát mồ hôi, biết dụng ý tại sao sư phụ nói thế thế, dù địch nhân lăng nhục thầy trò thế nào chăng nữa, thì cũng phải giả như hèn nhát để sống, cốt sao truyền được tuyệt nghệ. Trương Tam Phong lấy bên mình ra một đôi La Hán bằng thép đúc, giao cho Du Đại Nham nói:

- Tên Không Tướng này nói phái Thiếu Lâm đã bị diệt sạch, không biết có thật hay không. Người này là cao thủ của phái Thiếu Lâm, đến như y mà còn đầu hàng kẻ địch, đến trước ám toán ta thì phái Thiếu Lâm ắt đã bị đại nạn không còn nghi ngờ gì nữa. Đôi La Hán này là do Quách Tương Quách nữ hiệp tặng cho ta một trăm năm trước, con sau này gửi lại truyền nhân của phái Thiếu Lâm, may ra từ đôi La Hán này mà còn lưu truyền được một tuyệt nghệ của môn phái.

Nói xong ông phất tay áo một cái, đi ra khỏi cửa. Du Đại Nham nói:

- Khiêng ta đi theo sư phụ.

Minh Nguyệt và Trương Vô Kỵ hai người liền ghé vai khiêng chiếc cáng đi theo Trương Tam Phong.

Bốn người đến điện Tam Thanh, thấy trong điện đầy kẻ đứng người ngồi, phải đến ba bốn trăm chứ không ít. Trương Tam Phong đứng giữa điện, ra hiệu chào khách nhưng không nói lời nào. Du Đại Nham lớn tiếng nói:

- Vị này là sư tôn chúng tôi Trương chân nhân. Các vị đến núi Võ Đương, không hiểu muốn dạy bảo điều gì?

Đại danh Trương Tam Phong uy chấn võ lâm, lập tức bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn vào ông, chỉ thấy ông mặc một chiếc đạo bào cũ kỹ dơ bẩn màu tro, râu mày bạc trắng, thân thể cực kỳ cao to, ngoài ra không có gì khác thường.

Trương Vô Kỵ nhìn thấy những người kia thấy một nửa ăn mặc theo lối giáo chúng Minh giáo, còn hơn chục người đứng đầu mặc quần áo bản phái, có lẽ vì thân phận cao cấp, không muốn mạo xưng người khác. Cao lùn tăng tục, mấy trăm người đều dồn vào trong điện, nhất thời không thể nhìn rõ mặt từng người.

Ngay lúc đó, nghe thấy bên ngoài có người truyền vào:

- Giáo chủ đến.

Người trong điện nghe thế, lập tức im phăng phắc, hơn chục thủ lãnh liền tiến ra ngoài nghênh tiếp, những người khác cũng rảo bước theo sau. Chỉ trong giây lát, mấy trăm người đều đi hết sạch không còn một ai.

Lại nghe tiếng chân hơn chục người kia từ xa đến gần, đến trước điện thì dừng lại. Trương Vô Kỵ từ trong ngó ra, không khỏi giật mình, thấy tám người khiêng một chiếc kiệu bọc gấm vàng, có thêm bảy tám người đi trước sau ủng vệ, dừng ngay trước cửa. Tám người kiệu phu kia chính là thần tiễn bát hùng ở Lục Liễu Sơn Trang.

Trương Vô Kỵ trong lòng chợt nảy ra một ý, hai tay liền bốc đất dưới chân xoa đầy lên mặt. Minh Nguyệt nghĩ rằng chàng thấy đại địch đến đánh, hãi sợ vô cùng nên mới giả làm như thế, nhất thời cũng bấn loạn theo, bắt chước cũng bốc đất trét lên mặt. Hai đứa đạo đồng lập tức biến thành hai ông vua bếp, không còn nhìn ra mặt mũi thật ra sao.

Cửa kiệu mở ra, từ trong bước ra một thanh niên công tử, mặc áo bào trắng, trên áo thêu một ngọn lửa đỏ đang cháy, tay cầm quạt lông phe phẩy, chính là Triệu Mẫn cải nam trang.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Thì ra mọi việc đều do cô này sắp xếp, thảo nào phái Thiếu Lâm một trận tan tành". Triệu Mẫn đi vào trong điện, có độ hơn chục người đi theo. Một gã thân thể cao lớn bước tới một bước, khom lưng nói:

- Khải bẩm giáo chủ, người này là lão đạo Trương Tam Phong của phái Võ Đương, còn gã tàn phế kia ắt là đệ tử thứ ba của y là Du Đại Nham.

Triệu Mẫn gật đầu, đi lên vài bước, cụp quạt lại, vái Trương Tam Phong một vái thật sâu nói:

- Vãn sinh Trương Vô Kỵ chấp chưởng Minh giáo, hôm nay được dịp gặp bậc Thái Đẩu của võ lâm, thực là may mắn biết chừng nào.

Trương Vô Kỵ giận lắm, trong bụng chửi thầm: "Con tặc a đầu này mạo xưng giáo chủ Minh giáo, cái đó cũng chẳng sao, lại cả gan mạo luôn cả tên ta đến lừa dối thái sư phụ". Trương Tam Phong nghe ba chữ "Trương Vô Kỵ" thật lạ lùng: "Sao giáo chủ Minh giáo lại là một cô gái tuổi trẻ xinh đẹp thế này, tên lại giống thằng cháu Vô Kỵ của ta". Oâng liền chắp tay hoàn lễ nói:

- Không biết giáo chủ đại giá quang lâm, chẳng kịp ra xa nghênh đón, xin tha lỗi cho".

Triệu Mẫn nói:

- Không dám, không dám.

Tri khách đạo nhân Linh Hư đưa các đạo đồng nhà bếp đem trà lên. Triệu Mẫn một mình ngồi trên ghế, các thủ hạ của nàng đứng thõng tay xa xa ở đằng sau, không dám đến gần nàng quá năm thước, tựa hồ sợ là bất kính mạo phạm đến nàng. Trương Tam Phong đã tu luyện một trăm năm, khiêm xung tĩnh lãng, đến mức vạn sự không còn gì phải để trong lòng nữa nhưng tình thầy trò thâm trọng, nghĩ đến an nguy sống chết của bọn Tống Viễn Kiều, mười phần khắc khoải nên hỏi ngay:

- Mấy đứa học trò của lão đạo không biết lượng sức mình, từng đến quí giáo học hỏi cao chiêu, đến nay chưa về, không biết bọn chúng bây giờ ra sao, xin được Trương giáo chủ minh thị.

Triệu Mẫn cười hì hì nói:

- Tống đại hiệp, Du nhị hiệp, Trương tứ hiệp, Mạc thất hiệp bốn vị, hiện nay nằm trong tay bản giáo. Mỗi người bị thương chút đỉnh nhưng tính mệnh không có gì đáng ngại.

Trương Tam Phong nói:

- Bị thương chút đỉnh ư? Có lẽ trúng chút đỉnh chất độc thì đúng hơn.

Triệu Mẫn cười nói:

- Trương chân nhân quả thật tự hào về Võ Đương tuyệt học. Nếu chân nhân bảo họ trúng độc, thì cứ coi như là trúng độc đi.

Trương Tam Phong biết rằng các học trò mình đều là cao thủ bậc nhất đời nay, nếu vì ít người không chống lại được với số đông, thì dẫu sao cũng có một hai người thoát thân quay về báo, còn nếu cả bọn bị bắt, chắc là trúng phải độc dược vô ảnh vô tung khó mà phòng bị. Triệu Mẫn thấy ông đoán trúng ngay như thế nên thản nhiên thừa nhận.

Trương Tam Phong lại hỏi:

- Thế còn tiểu đồ họ Ân thì sao?

Triệu Mẫn thở dài:

- Ân lục hiệp bị phái Thiếu Lâm mai phục, cũng bị y hệt chẳng khác gì vị Du tam hiệp kia, bốn chân tay bị đại lực Kim Cương Chỉ bẻ gãy, chết thì không chết nhưng cử động thì không được.

Trương Tam Phong nhìn mặt mà xét, thấy những lời của nàng ta không phải nói láo, trong lòng đau đớn, òa một tiếng, lại phun ra một ngụm máu tươi.

Những người đứng sau Triệu Mẫn lộ vẻ mừng rỡ, biết là Không Tướng đã đánh lén được rồi, vị cao nhân của phái Võ Đương đã bị thương nặng, bọn họ vốn chỉ sợ một mình Trương Tam Phong, lúc này không còn gì phải úy kỵ nữa. Triệu Mẫn nói:

- Vãn sinh có một lời khuyên bảo, không hiểu Trương chân nhân có muốn nghe không?

Trương Tam Phong đáp:

- Xin nói ra.

Triệu Mẫn nói:

- Dưới khắp gầm trời này, không chỗ nào không phải là đất của hoàng đế. Tất cả mọi thứ trên bờ cõi của nhà vua, không gì không phải là phận bầy tôi[3]. Hoàng đế Mông Cổ chúng ta uy trùm bốn bể, nếu như Trương chân nhân tòng thuận thì hoàng thượng lập tức tấn phong, cả phái Võ Đương đều được vinh sủng, cả bọn Tống đại hiệp ai nấy đều an toàn không còn gì phải nói nữa.

Trương Tam Phong ngửng đầu nhìn xà nhà, lạnh lùng đáp:

- Minh giáo tuy làm nhiều điều bất nghĩa, càn rỡ không đâu vào đâu, nhưng xưa nay vẫn chống lại người Mông Cổ, không biết qui thuận triều đình từ bao giờ? Lão đạo thật là quê mùa kém hiểu biết quá.

Triệu Mẫn đáp:

- Bỏ chỗ tối vào chỗ sáng, xưa nay kẻ am hiểu thời vụ mới là người tuấn kiệt. Phái Thiếu Lâm từ Không Văn, Không Trí thần tăng đổ xuống, ai ai cũng qui thuận, tận trung với triều đình. Bản giáo chẳng qua nhìn thấy được đại thế nên đi theo các bậc hiền hào, chứ có gì đâu?

Trương Tam Phong hai mắt sáng quắc, nhìn thẳng vào Triệu Mẫn nói:

- Người Nguyên tàn bạo, tàn hại bách tính, khiến cho hôm nay thiên hạ quần hùng đều nổi lên, chính là lúc đuổi quân Hồ Lỗ, lấy lại giang sơn. Chúng ta phàm đã là con cháu Hoàng Đế [4] ai ai mà chẳng có chí đuổi quân Thát Đát, đó mới chính là đại thế phải theo. Lão đạo tuy là người xuất gia không lý chuyện đời, nhưng cũng biết được đâu là đại nghĩa. Không Văn, Không Trí là bậc đương thế thần tăng, lẽ nào khuất phục trước thế lực? Sao cô nương lại nói năng lăng nhăng, lộn xộn như thế?

Đằng sau Triệu Mẫn vọt ra một đại hán, lớn tiếng quát lên:

- Lão đạo đần độn kia, nói năng không biết nặng nhẹ gì cả. Phái Võ Đương chỉ trong chớp mắt là bị tiêu diệt rồi, lão không sợ chết, không lẽ hơn trăm đạo nhân đệ tử trên núi này, đứa nào cũng không sợ chết?

Kẻ đó nói năng trung khí sung túc, thân thể cao to, bắp tay gân guốc, hình tướng thật là uy võ. Trương Tam Phong liền cất tiếng ngâm:

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.

(Có ai sống mãi đâu nào,

Lòng son sao được ghi vào sử xanh)

Đây là hai câu thơ của Văn Thiên Tường[5]. Khi Văn Thiên Tường khẳng khái chết vì nghĩa thì Trương Tam Phong tuổi còn nhỏ, rất kính ngưỡng vị thừa tướng anh hùng này. Về sau ông hay than thở khi đó võ công chưa thành nếu không thể nào cũng xả thân cứu ông ta thoát nạn, nay đến lúc vào cảnh sinh tử quan đầu, tự nhiên ngâm ra hai câu thơ trên. Ông ngừng lại một chút nói tiếp:

- Xem ra Văn thừa tướng cũng còn có chỗ chấp nê, chỉ cần giữ mình một tấm lòng son còn sử sách sau này chép sao thì chép.

Ông liếc Du Đại Nham một cái, nghĩ thầm: "Ta mong sao pho Thái Cực Quyền được lưu truyền hậu thế, có khác gì Văn thừa tướng muốn để tiếng thơm cho đời sau? Thực ra nếu đã hành sự không hổ cùng trời đất rồi, thì còn lo gì Thái Cực Quyền Kiếm có truyền hay không truyền, phái Võ Đương tồn tại hay không tồn tại".

Bàn tay trắng như ngọc của Triệu Mẫn vẫy nhẹ một cái, đại hán kia liền lui lại phía sau. Nàng mỉm cười nói:

- Nếu Trương chân nhân đã cố chấp như thế, tạm thời mình không nói đến nữa. Vậy thì mời các vị đi theo ta.

Nói xong nàng đứng lên, bốn người đứng đằng sau lập tức tiến lên vây Trương Tam Phong lại. Bốn người đó gồm một đại hán cao to, một người áo vải đầy mụn vá, một hòa thượng gầy gò, và một người Hồ Tây Vực râu xồm mắt biếc. Xem ra nếu Trương Tam Phong nếu không đi theo họ, bốn người này sẽ ra tay.

Trương Vô Kỵ thấy mấy người đó thân pháp kẻ ngưng trọng, kẻ phiêu dật ai nấy đều thật là phi thường, trong bụng hơi hoảng: "Sao dưới tay cô ả họ Triệu này lại nhiều cao thủ đến thế?" Chàng lại nghĩ thầm: "Phe địch cao thủ thật nhiều, bọn này ai nấy đều gian trá vô sỉ, không kể tín nghĩa, không phải như sáu môn phái vây công Quang Minh Đính. Ta muốn bảo hộ thái sư phụ và tam sư bá được bình an không phải dễ. Nếu có đánh bại được vài người, bọn họ nhất định không chịu thua, thể nào cũng ùa lên một lượt. Thế nhưng việc đến nước này, chỉ còn một phen hết sức, tốt nhất là làm sao bắt giữ được Triệu cô nương để uy hiếp đối phương".

Chàng đang toan tiến ra ngăn trở bọn kia, bỗng nghe bên ngoài cửa một tiếng cười dài ghê rợn, một người áo xanh bay vụt vào trong điện, thân pháp chẳng khác gì quỉ mị, thoáng một cái như gió bay, như chớp lòe đã tới sau lưng gã cao to, múa chưởng đánh ra. Đại hán đó liền xoay người, múa ngược tay lại đỡ, ý muốn dùng ngạnh công đấu với người kia. Thế nhưng người áo xanh không để chiêu đó đánh xong, tay trái đã đánh luôn vào vai người Hồ Tây Vực. Người Hồ nghiêng qua né tránh, giơ chân lên đá vào bụng dưới y. Người kia khi đó đã đánh tiếp qua nhà sư gầy gò, vội vàng nghiêng người lùi lại, tả chưởng đánh luôn vào người ăn mặc rách rưới. Chỉ trong nháy mắt, y liên tiếp đánh ra bốn chưởng, công kích bốn cao thủ, tuy không chưởng nào trúng nhưng thủ pháp nhanh như thế không ai ngờ nổi. Bốn người kia biết mình đã gặp kình địch nên đều nhảy lùi mấy bước, ngưng thần tiếp chiến.

Người áo xanh không thèm để ý đến phía địch, khom lưng xuống vái Trương Tam Phong nói:

- Vãn bối Vi Nhất Tiếu, tọa hạ của Trương giáo chủ Minh giáo, tham kiến Trương chân nhân.

Người đó chính là Vi Nhất Tiếu. Y thoát khỏi những kẻ chặn đường rồi lập tức chạy đến đây. Trương Tam Phong thấy y xưng là "Minh giáo Trương giáo chủ tọa hạ", cho rằng y cũng cùng bọn với Triệu Mẫn, giơ tay đánh bốn người kia chắc có âm mưu gì nên lạnh lùng đáp:

- Vi tiên sinh không phải đa lễ. Đã từ lâu nghe danh Thanh Dực Bức Vương khinh công tuyệt đính, trên đời ít có, hôm nay được thấy quả thực danh bất hư truyền.

Vi Nhất Tiếu mừng lắm, y ít đến Trung Nguyên, trước nay tên tuổi không mấy nổi, nào ngờ Trương Tam Phong cũng nghe tiếng khinh công cao siêu của mình, khom mình đáp:

- Trương chân nhân là Bắc Đẩu của võ lâm, vãn bối được chân nhân khen một câu, quả thực vinh hạnh không để đâu cho xiết.

Y quay lại, chỉ vào Triệu Mẫn nói:

- Triệu cô nương, sao cô lén lút mạo danh Minh giáo làm bại hoại tên tuổi bản giáo là để làm gì? Nam tử hán, đại trượng phu sao lại độc ác, âm hiểm như thế?

Triệu Mẫn cười khanh khách nói:

- Ta vốn có phải nam tử hán đại trượng phu đâu, độc ác âm hiểm thì ngươi làm gì được nào?

Vi Nhất Tiếu mới nói một câu đã bị bắt bẻ khiến không biết đối đáp ra sao, y ngẩn ngơ rồi nói:

- Các vị tấn công Thiếu Lâm rồi lại tới làm phiền phái Võ Đương, rốt ráo lai lịch thế nào? Nếu như các vị có oán cừu với hai phái này, Minh giáo trước nay không hay xen vào việc người khác, thế nhưng nếu mạo xưng tên tuổi chúng tôi, ăn mặc giả làm giáo chúng thì Vi Nhất Tiếu này không thể không can thiệp.

Trương Tam Phong vốn biết Minh giáo là tử địch với triều đình đã hơm trăm năm nên không tin nay lại đầu hàng Mông Cổ, nghe Vi Nhất Tiếu nói mấy câu đó bấy giờ mới minh bạch, nghĩ thầm: "Thì ra cô gái này mạo xưng. Ma giáo tuy thanh danh không tốt nhưng những chuyện lớn thế này họ không thể hồ đồ được". Triệu Mẫn quay sang người to cao kia nói:

- Nghe y to mồm huyên hoang nhỉ, ngươi ra thử xem y có tài thật hay chỉ nói phét?

Đại hán kia khom lưng đáp :

- Vâng.

Y đưa tay sửa lại dây thắt lưng, khệnh khạng đi ra giữa điện nói:

- Vi Bức Vương, tại hạ muốn lãnh giáo công phu Hàn Băng Miên Chưởng.

Vi Nhất Tiếu không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: "Gã này làm sao lại biết ta có môn Hàn Băng Miên Chưởng? Y biết thế mà vẫn tiến lên khiêu chiến, ta hẳn không thể coi thường được". Y hai tay vỗ một cái nói:

- Xin thỉnh giáo tính danh của các hạ?

Người kia đáp:

- Bọn ta đã mạo xưng Minh giáo đến đây, không lẽ lại dùng tên thật? Câu hỏi đó của Bức Vương quả thật ngốc quá.

Hơn một chục tên đứng sau lưng Triệu Mẫn bật lên tiếng cười ha hả. Vi Nhất Tiếu lạnh lùng nói:

- Đúng thế, câu hỏi của ta ngu thật. Các hạ cam chịu làm ưng khuyển cho triều đình, làm nô tài cho dị tộc, không nói tên ra tốt hơn, nếu không thì làm nhục cả tổ tiên.

Đại hán kia đỏ mặt, lửa giận bốc lên, nghe vù một tiếng đã đánh ra một chưởng vào thẳng ngực Vi Nhất Tiếu, kình lực thật là lợi hại. Vi Nhất Tiếu xoay chuyển cước bộ né qua ngay, thân hình chỉ nhấp nháy đã lòn ra sau lưng giơ tay điểm vào lưng địch. Y chưa giở Hàn Băng Miên Chưởng ra vì còn muốn thăm dò xem đối phương kia hư thực nông sâu thế nào. Đại hán kia liền giơ tay trái đỡ ngược lại, trong thủ có ẩn thế công. Chỉ qua mấy chiêu, chưởng thế của gã kia nhanh dần, chưởng lực mỗi lúc một thêm mạnh mẽ. Tuy nội thương Vi Nhất Tiếu đã được Trương Vô Kỵ chữa, mỗi lần vận công không còn phải uống máu nóng để chế ngự âm độc trong cơ thể như trước, nhưng mới khỏi chưa bao lâu, nay gặp cường địch lại ra tay trước mặt một đại tông sư như Trương Tam Phong, thành thử không dám khinh suất, lập tức vận dụng Hàn Băng Miên Chưởng công phu ra chống đỡ. Hai người chưởng thế chậm dần, dần dần đi vào chỗ đấu nội lực.

Đột nhiên nghe vù một tiếng, từ cửa chính một vật đen xì ném thẳng vào gã đại hán. Vật đó xem ra còn to hơn một bao gạo, quả thật lạ kỳ thiên hạ làm gì có loại ám khí nào lớn đến thế. Đại hán chẳng biết vật gì liền vận kình đánh bật vật đó ra văng xa hơn một trượng. Chỉ nghe một tiếng "A" thảm khốc, thì ra đó là một cái bao trong đó có người, kẻ đó bị một chưởng mãnh liệt vô luân của đại hán kia làm sao không đứt gân gãy xương cho được?

Đại hán kia còn đang ngạc nhiên, chưa hiểu ra sao, Vi Nhất Tiếu lập tức lẻn ra sau, lẳng lặng đánh ngay một Hàn Băng Miên Chưởng vào huyệt Đại Truy chính giữa hậu tâm y. Đại hán đó vừa giận vừa sợ, vội quay lại, hết sức đánh một chưởng lên đầu Vi Nhất Tiếu.

Vi Nhất Tiếu cười ha hả, không tránh né cũng không đỡ gạt. Chưởng của đại hán đó đến giữa chừng, cánh tay đột nhiên mềm nhũn không hơi sức, chưởng đó tuy đánh trúng thiên linh cái đối phương nhưng hoàn toàn không có một chút kình lực, chẳng khác gì để tay lên đầu. Vi Nhất Tiếu biết rằng một khi trúng phải Hàn Băng Miên Chưởng, kình lực đối phương lập tức mất hết thế nhưng cao thủ đối chiến, ai dám cho địch đánh vào đầu mình, liều lĩnh như thế xưa nay chưa ai thấy, người đứng ngoài không khỏi toát mồ hôi.

Nếu đại hán kia có thuật chế ngự Hàn Băng Miên Chưởng, kình lực nhất thời chưa mất, chưởng đó đánh lên đỉnh đầu, làm sao khỏi nát sọ? Vi Nhất Tiếu suốt đời hành sự quá đản lạ lùng, những chuyện không ai dám làm, không chịu làm, chưa từng làm y càng khoái chí. Y thừa cơ đối phương phân tâm ra tay đánh lén, xem ra cũng không được quang minh chính đại, thế nhưng lại đám để cho địch thẳng cánh đánh vào đầu, thì tuy không quang minh chính đại thì cũng phải là lớn mật làm càn, đem sống chết ra đùa cợt.

Gã áo quần rách rưới liền xé chiếc bao, lôi ra một người, thấy y mặt đầy máu, đã bị đại hán nọ đánh một chưởng chết rồi. Kẻ đó mặc áo đen, chính là đồng bọn của họ, không hiểu vì sao lại bị bỏ trong bao vứt vào đây. Gã giận quá, quát lên:

- Đứa nào thập thò. ..

Nói chưa hết câu, một chiếc bao trắng đã chụp xuống đầu y. Y đề khí nhảy lùi lại, tránh được, thấy ngay một nhà sư mập mạp đứng ngay trước mặt đang cười hì hì, chính là Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc.

Chiếc túi Càn Khôn Nhất Khí của Thuyết Bất Đắc bị Trương Vô Kỵ làm vỡ trên Quang Minh Đính rồi, không có binh khí cầm tay, đành phải lấy mấy cái túi vải dùng tạm, dĩ nhiên không thể nào lợi hại như cái túi Càn Khôn đao kiếm chém không đứt kia được. Khinh công của y tuy không bằng Vi Nhất Tiếu, nhưng cũng ghê gớm lắm, trên đường lại không bị ngăn trở, chân trước chân sau đã đến ngay.

Thuyết Bất Đắc khom mình chào Trương Tam Phong nói:

- Tọa hạ Trương giáo chủ Minh giáo, nhà sư túi vải rày đây mai đó Thuyết Bất Đắc xin tham kiến chưởng giáo tổ sư Trương chân nhân của phái Võ Đương.

Trương Tam Phong hoàn lễ đáp:

- Đại sư đi đường xá xa xôi vất vả quá.

Thuyết Bất Đắc nói:

- Các anh em tọa hạ của tệ giáo chủ gồm Quang Minh sứ giả, Bạch Mi Ưng Vương , Tứ Tản Nhân, Ngũ Hành Kỳ cùng nhân mã các lộ đều đã kéo đến núi Võ Đương. Xin Trương chân nhân xuôi tay đứng ngoài, để xem Minh giáo chúng tôi cùng bọn vô liêm sỉ mạo danh người khác quấy hôi bôi nhọ này so tài cao thấp.

Câu này của y chỉ là hư trương thanh thế, đại đội nhân mã của Minh giáo làm gì đến nhanh thế được. Thế nhưng Triệu Mẫn nghe rồi, đôi lông mày nhíu lại, nghĩ thầm: "Bọn chúng đến nhanh như thế là do kẻ nào tiết lộ cơ mật?". Nàng nhịn không nổi buột miệng hỏi:

- Trương giáo chủ các ngươi đâu? Bảo y ra gặp ta.

Nói xong trừng mắt nhìn Vi Nhất Tiếu, ánh mắt dường như có ý nghi ngờ, hỏi xem giáo chủ bây giờ ở đâu? Vi Nhất Tiếu cười ha hả nói:

- Thế bây giờ cô không mạo xưng nữa ư?

Y trong bụng cũng hỏi thầm :"Giáo chủ hẳn đã đến rồi, nhưng bây giờ đang ở đâu?". Trương Vô Kỵ từ nãy đến giờ đứng nấp đằng sau Minh Nguyệt, biết rằng Vi Nhất Tiếu và Thuyết Bất Đắc chưa nhận ra mình, thấy có hai tay thuộc hạ đắc lực, bụng thật mừng rỡ.

Triệu Mẫn cười nhạt nói:

- Một con dơi độc, một nhà sư thối thì làm được trò trống gì?

Nói chưa dứt, bỗng từ góc mái nhà phía đông một chuỗi cười dài rồi có tiếng hỏi:

- Thuyết Bất Đắc đại sư, Dương tả sứ đã tới hay chưa?

Người đó tiếng nói vang dội, già dặn hào hùng, chính là Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính. Thuyết Bất Đắc chưa kịp trả lời, tiếng cười của Dương Tiêu ở trên mái nhà phía tây đã vọng xuống vui vẻ nói:

- Ưng Vương, lão huynh đúng là càng già càng dẻo càng dai, đã đến trước đệ một bước.

Ân Thiên Chính cười đáp:

- Dương tả sứ không phải khách sáo làm gì, hai người mình cùng đến một lượt, chẳng ai hơn ai. Hẳn là tả sứ nể mặt Trương giáo chủ nên nhường mỗ đấy thôi.

Dương Tiêu nói:

- Đương nhân bất nhượng[6]. Tại hạ đã dùng hết sức mình, nhưng vẫn không thể nào nhanh được như Ưng Vương.

Hai người trên đường thi đua kình lực xem ai chạy nhanh hơn, nội lực Ân Thiên Chính cao thâm, còn bộ pháp của Dương Tiêu thì nhanh nhẹn nên khởi hành cùng một lượt, cùng đến một lần. Hai người cười ha hả, nhảy từ trên mái nhà xuống.

Trương Tam Phong đã nghe danh Ân Thiên Chính từ lâu, hơn nữa ông ta lại là nhạc phụ của Trương Thúy Sơn, còn Dương Tiêu thì là nhân vật nổi danh trên giang hồ, cho nên tiến lên ba bước, chắp tay nói:

- Trương Tam Phong cung nghinh Ân huynh, Dương huynh đại giá.

Trong bụng có điều không hiểu: "Ân Thiên Chính rõ ràng là giáo chủ Thiên Ưng Giáo, sao lại nói cái gì "nể mặt Trương giáo chủ" là sao?".

Ân Dương hai người khom mình đáp lễ, Ân Thiên Chính nói:

- Đã từ lâu nghe tiếng của Trương chân nhân, nhưng chưa có duyên bái kiến, hôm nay được thấy tôn nhan, đúng là tam sinh hữu hạnh.

Trương Tam Phong nói:

- Hai vị đều là nhất đại tông sư, lại cùng đại giá quang lâm, quả thực là hiếm có.

Trong bụng Triệu Mẫn mỗi lúc thêm bực bội, thấy các cao thủ của Minh giáo càng lúc càng đông, tuy chưa thấy Trương Vô Kỵ xuất hiện nhưng e rằng lời của Thuyết Bất Đắc không phải dọa xuông, y quả đang đứng sau sắp xếp, bố trí một trận thế ghê gớm hơn. Kế hoạch của mình đã an bài đâu đấy, xem ra khó mà thành công, nhưng việc ám toán được Trương Tam Phong trọng thương là chuyện ngàn năm một thuở, không thể nào có lần thứ hai, hôm nay không đánh tan phái Võ Đương để sau này ông ta chữa khỏi rồi thì không còn cơ hội nào nữa.

Nàng liếc qua liếc lại đôi mắt đen nhánh, cười khẩy nói:

- Giang hồ vẫn truyền ngôn Võ Đương là danh môn chính phái nhưng tai nghe đâu bằng mắt thấy? Thì ra phái Võ Đương lén lút bắt tay với ma giáo, được ma giáo đỡ đầu, còn võ công bản môn chẳng đáng vào đâu.

Thuyết Bất Đắc nói:

- Triệu cô nương, nói như cô đúng là giọng điệu đàn bà, kiến thức con nít. Thời Trương chân nhân uy chấn võ lâm, chỉ sợ đến ông nội cô cũng chưa ra đời, thứ trẻ con như cô biết làm sao được?

Đằng sau Triệu Mẫn lập tức có mươi người hung hăng tiến ra, hầm hầm nhìn y. Thuyết Bất Đắc mặt nhơn nhơn, cười nói:

- Các ngươi bảo ta không được nói như thế phải không? Thì tên ta đã là "Thuyết Bất Đắc" mà. Cái gì nói được là ta nói, các ngươi làm gì ta đây?

Nhà sư gầy gò thủ hạ Triệu Mẫn giận dữ nói:

- Chủ nhân, để thuộc hạ giải quyết tên to mồm lắm miệng này.

Thuyết Bất Đắc kêu lên:

- Hay lắm, hay lắm. Ngươi là sư đi hoang, mà ta cũng lang thang không chùa, hai đứa mình làm một keo xem nào. Mời Võ Đương tông sư Trương chân nhân chỉ điểm những chỗ sai sót, còn hơn tự mình khổ luyện mười năm.

Nói xong hai tay vung ra, từ trong bọc lấy thêm một cái túi vải nữa. Người ngoài thấy y hết túi này đến túi khác, lấy mãi không hết, không biết dưới áo bào y còn dấu bao nhiêu cái túi nữa.

Triệu Mẫn khe khẽ lắc đầu:

- Hôm nay chúng ta lên đây học hỏi tuyệt nghệ của phái Võ Đương, phái Võ Đương vị nào hạ trường, chúng ta đều vui vẻ phụng bồi. Phái Võ Đương có chân tài thực học không, hay chỉ được cái tiếng hão, một trận hôm nay cả thiên hạ sẽ biết hết. Còn Minh giáo với chúng ta dây mơ rễ má thế nào, ngày sau tính sổ cũng chưa muộn. Tên tiểu quỉ Trương Vô Kỵ gian trá giảo quyệt, ta chưa rút được gân, lột được da y thì chưa tiêu được mối hận lòng, nhưng không gấp gì một hôm nay.

Trương Tam Phong nghe nói "tên tiểu quỉ Trương Vô Kỵ", trong bụng lạ lùng: "Không lẽ giáo chủ Minh giáo tên là Trương Vô Kỵ thật? Thế nhưng sao lại "tiểu quỉ" là sao?". Thuyết Bất Đắc cười khì khì nói:

- Trương giáo chủ bản giáo tuổi trẻ tài cao, Triệu cô nương e rằng còn kém bản giáo chủ vài tuổi, chi bằng lấy quách giáo chủ chúng tôi, hòa thượng này xem ra xứng đôi. ..

Y nói chưa hết câu, bọn người sau lưng Triệu Mẫn cùng gầm lên:

- Đừng nói láo.

- Câm mồm.

- Sư hoang nói thối lắm.

Triệu Mẫn hai má đỏ bừng, dung nhan càng thêm kiều diễm, thần sắc chỉ có ba phần tức giận nhưng đến bảy phần e ấp, một thủ lãnh quần hào oai nghi trong giây lát thành ngay một thiếu nữ thẹn thùng. Thế nhưng thần thái đó chỉ chớp mắt đã qua ngay, nàng lập tức trấn tĩnh, mặt trở lại lạnh như tiền, quay sang nói với Trương Tam Phong:

- Trương chân nhân, nếu ông không muốn ra tay, chỉ cần nói một câu thôi cũng đủ. Cứ nhận rằng phái Võ Đương trước nay chỉ bịp bợm tiếm danh, bọn ta sẽ vỗ tay đi ngay, bọn Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu cũng được thả về chẳng suy suyển một mảy.

Ngay lúc đó, Thiết Quan đạo nhân và Ân Dã Vương trước sau cùng đến, chẳng bao lâu thêm Chu Điên và Bành Oánh Ngọc cũng tới nơi, Minh giáo thế là có thêm bốn tay hảo thủ.

Triệu Mẫn đoán định tình hình, nếu hai bên quyết chiến, chưa chắc đã thắng ngay được, sợ nhất là Trương Vô Kỵ còn trong bóng tối ra tay gì chưa biết. Nàng đưa mắt nhìn khắp lượt mọi người trong Minh giáo, nghĩ thầm: "Trương Tam Phong trở thành mối lo gan ruột của triều đình, chẳng qua chỉ vì có cái uy danh quá lớn, trong võ lâm ai ai cũng coi như Bắc Đẩu, Thái Sơn, nếu đối địch với triều đình thì võ lâm cũng không ai qui phục. Thế nhưng y già cả heo hắt như ngọn đèn trước gió, sống thêm được bao lâu? Hôm nay không cần phải giết lão, chỉ cần làm nhục một phen, cho tiếng tăm phái Võ Đương tiêu ma hết, thế cũng coi như thành công lớn rồi". Nàng bèn lạnh lùng nói:

- Bọn ta đến thăm núi Võ Đương, chỉ muốn lãnh giáo võ công Trương chân nhân xem thật hay giả, nếu như muốn tiễu diệt Minh giáo, chẳng lẽ không biết tìm đường lên Quang Minh Đính? Việc gì phải tỉ võ trên núi Võ Đương, không lẽ trên đời này chỉ có một mình Trương chân nhân là có thể phẩm bình cao thấp, thắng bại hay sao? Thôi chuyện đó gác qua một bên. Trong nhà tôi có ba người giúp việc, một người luyện được vài ngày chút kiếm pháp giết heo, mổ chó, một người biết sơ qua chút ít nội công, còn một người thì học được vài miếng quyền mèo quào. A Đại, A Nhị, A Tam[7], ba người đứng ra đây! Trương chân nhân chỉ cần đánh bại được ba gia nhân vô tích sự của ta, thì mọi người sẽ bội phục võ công phái Võ Đương là thật chứ không phải giả. Còn không thì giang hồ sẽ có công luận, ta chẳng phải nói nhiều làm gì.

Nói xong nàng ta vỗ tay một cái. Chỉ thấy "A Đại" là một ông già mình hạc xác ve, hai tay bưng một thanh trường kiếm, chính là bảo kiếm Ỷ Thiên. Người đó vừa gầy vừa cao, mặt đầy nếp nhăn, dúm dó khổ sở, tưởng như mới bị ai chửi mắng, đánh đập một hồi, nếu không thì hẳn là vợ con mới chết, ai nhìn mặt y cũng thấy chạnh lòng muốn rơi nước mắt. "A Nhị" thì cũng gầy gò như thế, người hơi thấp hơn, đầu nhẵn thín, hói đến nỗi không còn một sợi tóc nào, hai bên huyệt thái dương tụt lõm xuống, sâu đến nửa tấc. Còn "A Tam" thì thân hình rắn rỏi chắc nịch, dềnh dàng có uy, trên mặt, cánh tay, cần cổ chỗ nào có bắp thịt cũng thấy cuồn cuộn săn chắc, tưởng như toàn thân đầy tinh lực muốn bật tung ra ngoài. Trên má trái y có một nốt ruồi đen, trên nốt ruồi có một sợi lông dài. Trương Tam Phong, Ân Thiên Chính, Dương Tiêu nhìn thấy hình dáng ba người này, trong bụng ai cũng kinh thầm.

Chu Điên nói:

- Triệu cô nương, ba người này đều là cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm, Chu Điên này một tên đánh còn chưa lại, sao không biết thẹn đóng vai kẻ ăn người làm, đến đùa cợt với Trương chân nhân?

Triệu Mẫn nói:

- Có thực họ là cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm không? Sao ta lại không biết? Thế tên bọn họ là gì?

Chu Điên tắc tị ú ớ, nhưng lập tức giả vờ cười ha hả, nói:

- Vị này là Nhất Kiếm Chấn Thiên Hạ Xu Mi Thần Quân, vị này là Đơn Khí Bá Bát Phương Ngốc Đầu Thiên Vương. Còn vị này ư, thiên hạ ai mà chẳng biết, ai mà không hay, hì hì, chính là. .. chính là. . Thần Quyền Cái Thế Đại Lực Tôn Giả.

Triệu Mẫn nghe y nói quấy nói quá, không khỏi cười khúc khích nói:

- Ba người ở nhà tôi nấu cơm pha trà, lau bàn quét rác, làm gì có thần quân, thiên vương, tôn giả nào ở đây? Trương chân nhân, xin ông tỉ quyền cước với A Tam trước.

"A Tam" tiến lên một bước, vòng tay nói:

- Xin mời Trương chân nhân.

Chân trái y dậm một cái, nghe lách cách một tiếng, ba miếng gạch vuông dưới chân đã nát vụn. Y dậm nát miếng gạch dưới chân không có gì lạ, nhưng lạ là hai miếng gạch hai bên cũng bị y dậm vỡ luôn. Dương Tiêu đưa mắt nhìn Vi Nhất Tiếu, hai người cùng nghĩ: "Tay này ghê thật".

Hai tên còn lại "A Đại, A Nhị" từ từ lui về sau, vẫn cúi gầm mặt xuống, chẳng nhìn một ai. Ba người này từ khi vào trong điện, chỉ đứng sau lưng Triệu Mẫn, lúc nào cũng lặng lẽ cúi đầu, dáng điệu hèn mọn, không một ai thèm để ý, không ngờ vừa mới bước ra chẳng khác nào ngọn núi vươn ra khỏi vực sâu, có ngay khí phái của một đại tông sư, nhưng khi lui về, lại rụt rè co ro, trở lại dáng điệu một người đầy tớ.

Tri khách đạo nhân của phái Võ Đương Linh Hư từ nãy vẫn lo lắng cho thương thế của thái sư phụ, lúc này không còn nhịn nổi quát lên:

- Thái sư phụ ta vừa mới bị thương thổ huyết, các ngươi không thấy hay sao? Các ngươi sao lại. .. sao lại. ..

Nói đến đây, âm thanh nghẹn ngào muốn khóc. Ân Thiên Chính nghĩ thầm: "Thì ra Trương chân nhân đã bị thương thổ huyết, nhưng không biết bị ai đả thương. Dù cho ông ta còn khỏe mạnh thì tuổi tác đã cao, làm sao có thể tỉ quyền cước với gã kia cho được? Xem võ công người này, toàn là một đường cương mãnh, để ta ra thử xem nào". Nghĩ thế ông cao giọng nói:

- Trương chân nhân thân phận thế nào mà lại động thủ với một kẻ ăn người ở? Nghe thế có tức cười không? Không nói gì đến Trương chân nhân, ngay cả họ Ân này, hừ hừ, thứ đầy tớ như ngươi không chịu nổi một quyền một cước.

Oâng biết rõ "A Đại, A Nhị, A Tam" đâu phải loại tầm thường, nhưng chê họ không đáng vào đâu cốt để buộc y đấu với mình. Triệu Mẫn nói:

- "A Tam", việc mới nhất của ngươi là việc gì? Nói cho họ nghe đi, xem có xứng để đấu với cao nhân phái Võ Đương không?

Nàng mỗi câu mỗi chữ đều nhấn mạnh hai tiếng "Võ Đương". "A Tam" đáp:

- Tiểu nhân gần đây chẳng làm được chuyện gì, chỉ tại đường đi nơi mạn tây bắc quá chiêu với một hòa thượng chùa Thiếu Lâm tên là Không Tính, chỉ lực đấu với chỉ lực, phá được Long Trảo Thủ của y, tiện tay cắt luôn thủ cấp.

Câu đó nói xong, cả đại sảnh ai nấy đều rúng động. Không Tính thần tăng từng dùng Long Trảo Thủ đấu với Trương Vô Kỵ trên Quang Minh Đính, có hồi đã chiếm thượng phong, người trong Minh giáo ai ai cũng chứng kiến, không ngờ táng mạng trong tay gã này. Với thân phận giết được Thiếu Lâm thần tăng đã có thể đấu tay đôi với Trương Tam Phong được rồi.

Ân Thiên Chính lớn tiếng nói:

- Được lắm, đến cả Không Tính thần tăng của phái Thiếu Lâm cũng bị ngươi giết chết, vậy để cho họ Ân này đấu với ngươi một phen, cũng là một việc thật thú vị.

Nói xong tiến lên hai bước, xoải chân xuống tấn, lông mày trắng dựng ngược thần uy lẫm lẫm.

"A Tam" nói:

- Bạch Mi Ưng Vương, nhà ngươi là tà ma ngoại đạo, còn "A Tam" này thì cũng ngoại đạo tà ma. Hai chúng ta cũng cùng một "lò", phe mình lẽ nào đánh phe ta. Nếu ngươi thích đánh thì cứ định ngày trước rồi sẽ đấu một phen. Hôm nay chủ nhân chỉ ra lệnh cho ta thử xem phái Võ Đương võ công hư thực thế nào.

Y quay sang nói với Trương Tam Phong:

- Trương chân nhân, nếu như ông không muốn hạ trường, chỉ cần nói một câu là xong, bọn ta không ngang ngược ép uổng gì đâu. Phái Võ Đương chỉ cần nhận thua là được, không lẽ bọn ta nhất định phải lấy mạng ông hay sao?

Trương Tam Phong mỉm cười, nghĩ thầm tuy mình đang bị thương nặng nhưng nếu thi triển thượng thừa pháp môn "dĩ hư ngự thực" trong pho Thái Cực Quyền mới sáng chế, chưa chắc y đã thắng được. Cái khó là sau khi đánh bại "A Tam" rồi, tên "A Nhị" thể nào cũng lên đấu nội công, cái đó không thể nào khôn khéo gì được, cửa ải đó khớ mà có thể vượt qua. Thế nhưng sự việc như lửa cháy lông mày, tình thế trước mắt, chỉ có cách đánh bại tên "A Tam" đã rồi tính sau.

Nghĩ thế ông từ từ đi ra giữa điện, quay sang nói với Ân Thiên Chính:

- Mỹ ý của Ân huynh, bần đạo xin tâm lãnh. Bần đạo mấy năm gần đây có sáng tạo được một môn quyền thuật, gọi là Thái Cực Quyền, tự biết không giống như những ngành võ học khác. Vị thí chủ này nếu muốn ấn chứng công phu phái Võ Đương, nếu như Ân huynh đánh bại y, y sẽ không cam lòng. Vậy bần đạo đem vài chiêu số trong pho Thái Cực Quyền ra đấu xem sao, cũng là dịp tốt để bần đạo được trình cho các vị xem pho quyền nhiều năm tâm huyết này.

Ân Thiên Chính nghe thế, vừa vui mừng, vừa lo lắng, nghe giọng ông nói đến Thái Cực Quyền đầy vẻ tự tin. Trương Tam Phong là hạng người thế nào, đã nói như thế, hẳn đã có chủ định, đâu lẽ làm mất cả thanh danh một đời? Thế nhưng ông vừa bị thương thổ huyết, chỉ e quyền kỹ tuy tinh, nội lực lại không chịu nổi. Ông không tiện nói thêm, chỉ còn nước vòng tay nói:

- Vãn bối cung kính đứng ngoài chiêm ngưỡng thần kỹ của Trương chân nhân.

"A Tam" thấy Trương Tam Phong vẫn thản nhiên hạ trường, trong bụng nẩy sinh ba phần khiếp sợ nhưng chuyển niệm nghĩ ngay: "Hôm nay ta chỉ hết sức cùng lão đạo sĩ già này lưỡng bại câu thương", cũng đã rúng động võ lâm rồi. Nghĩ thế y nín thở ngưng thần, hai mắt chăm chăm nhìn vào mặt Trương Tam Phong, lẳng lặng vận nội tức, xương cốt toàn thân chuyển động nghe răng rắc, phát ra tiếng lốp bốp không ngừng. Mọi người thấy thế ai nấy đều kinh ngạc, biết đây là võ công tối thượng thừa của Phật môn chính tông, trông tưởng ngoại hình mà thực sự là nội công, không nhuốm chút tà khí nào, chính là Kim Cương Phục Ma thần thông.

Trương Tam Phong thấy y như thế, cũng phải kinh hãi: "Người này lai lịch không phải nhỏ. Không biết pho Thái Cực Quyền của ta có đối phó nổi chăng?". Nghĩ rồi ông từ từ giơ hai cánh tay lên, ý muốn nhường "A Tam" tiến chiêu.

Đột nhiên một tiểu đạo đồng đầu bù tóc rối, mặt mày nhem nhuốc từ đằng sau Du Đại Nham chạy ra, nói:

- Thái sư phụ, vị thí chủ này nếu muốn biết quyền kỹ của phái Võ Đương ta thì việc gì phải mất công thái sư phụ đại giá? Để đệ tử diễn vài chiêu cho y xem, cũng đã đủ rồi.

Đạo đồng mặt mũi dơ dáy kia chính là Trương Vô Kỵ. Cả bọn Ân Thiên Chính, Dương Tiêu cùng chàng chia tay chưa bao lâu, tuy lúc này hình dáng, quần áo hoàn toàn thay đổi, nhưng chỉ nghe giọng nói, lập tức nhận ra ngay. Quần hào Minh giáo thấy giáo chủ đã ở đây tự bao giờ, ai ai cũng mừng rỡ.

Thế nhưng Trương Tam Phong và Du Đại Nham làm sao nghĩ ra được? Trương Tam Phong nhìn không rõ diện mạo của chàng, nhưng theo áo quần trên người chỉ đoán là Thanh Phong, liền nói:

- Vị thí chủ này chuyên về Kim Cương Phục Ma ngoại công của phái Thiếu Lâm, hẳn là một cao thủ của Thiếu Lâm Tây Vực. Còn trẻ như con chỉ một chiêu là đã nát xương đứt gân, đâu phải chuyện đùa.

Trương Vô Kỵ tay trái nắm chéo áo Trương Tam Phong, tay phải cầm bàn tay ông lắc nhè nhẹ, nói:

- Thái Cực Quyền thái sư phụ dạy cho con, con chưa hề dùng đến, cũng chẳng biết có được hay không. May quá có vị thí chủ đây là ngoại gia cao thủ, xin để con ra đấu xem nhu có khắc nổi cương không, hư có chế ngự được thực không, chẳng hay lắm ư?

Trong khi nói, chàng vận dụng Cửu Dương thần công đưa một luồng khí cực kỳ hồn hậu, cực kỳ nhu hòa theo bàn tay truyền vào cơ thể Trương Tam Phong. Trong một sát na, Trương Tam Phong thấy một luồng lực đạo vô cùng mạnh mẽ theo lòng bàn tay đi vào mình, tuy còn kém xa nội lực của ông về mặt tinh thuần chuyên nhất, nhưng hàng hàng lớp lớp, liên miên bất tuyệt dường như không bao giờ dứt, không bao giờ cùng. Ông kinh hoảng, định thần nhìn kỹ mặt Trương Vô Kỵ, thấy mắt chàng không lộ quang hoa, chỉ ẩn dấu một nét trong sáng, ôn hòa, hiển nhiên đã đạt tới cảnh giới tuyệt đỉnh, bình sinh ông gặp chỉ có vài người như bản sư Giác Viễn đại sư, đại hiệp Quách Tĩnh là đạt đến cảnh giới này thôi. Còn đương thời, ngoại trừ chính ông ra, không tìm ra một người thứ hai có mức độ tương đương. Trong nháy mắt, lòng ông rộn lên bao nỗi hồ nghi, nhưng nội lực của thanh niên này truyền vào rõ ràng để giúp ông trị thương, quyết không phải vì ác ý, vì nhất thời chưa nghĩ ra, ông mỉm cười đáp:

- Ta tầm thường lẩm cẩm, có được công phu gì dạy cho con đâu? Con muốn lãnh giáo công phu ngoại môn tuyệt đính của vị thí chủ này thì cũng được, nhưng phải cẩn thận.

Oâng chỉ đoán rằng tiểu đạo đồng là một thanh niên cao thủ của một môn phái nào đến tiếp viện, cho nên trong ngôn ngữ có phần khiêm tốn nể nang. Trương Vô Kỵ đáp:

- Thái sư phụ đối với hài nhi ơn nặng như non, dù hài nhi có tan xương nát thịt cũng chưa trả nổi đại ân của thái sư phụ và các sư bá sư thúc. Phái Võ Đương ta tuy võ công không dám nói là thiên hạ vô địch nhưng quyết không thua môn hạ của Tây Vực Thiếu Lâm, thái sư phụ cứ yên tâm.

Mấy câu đó chàng nói hết sức thành khẩn, những chữ "thái sư phụ" ra khỏi cửa miệng thật là tự nhiên, không một chút ngập ngừng khiến Trương Tam Phong cũng ngạc nhiên: "Hay là y đúng là đệ tử bản môn thật, bí mật cố công tập luyện, chẳng khác gì bản sư Giác Viễn năm xưa?". Oâng nhẹ nhàng thả tay Trương Vô Kỵ ra, lùi lại chỗ cũ, ngồi xuống ghế, đưa mắt nhìn Du Đại Nham, thấy người học trò cũng ngơ ngẩn không hiểu ra sao.

"A Tam" thấy Trương Tam Phong để một tiểu đạo đồng xuất chiến, có thể nói là khinh miệt coi thường mình đến cực điểm, định bụng sẽ đánh một quyền chết tươi đối phương, khích cho lão đạo thảng thốt bồn chồn, rồi sẽ cùng ông ta động thủ, lúc đó sẽ dễ dàng chế thắng hơn. Nghĩ thế y không nói gì, chỉ nói:

- Thằng nhãi kia, ra chiêu đi.

Trương Vô Kỵ nói:

- Pho quyền thuật này là do thái sư phụ Trương chân nhân nhiều năm tâm huyết mới sáng tạo ra, tên gọi Thái Cực Quyền. Vãn bối mới học, chưa kịp tập luyện, không chắc đã lãnh ngộ được tinh yếu của quyền pháp, trong ba mươi chiêu e rằng không đánh ngã được các hạ. Nếu thế bởi vì tôi học nghệ chưa tinh, chứ không phải là vì pho quyền thuật này không hiệu quả, chuyện đó phải nói để các hạ biết trước.

"A Tam" không giận nổi mà phá ra cười, quay đầu lại nói với "A Đại", "A Nhị":

- Đại ca, nhị ca, trên đời này sao lại có một tiểu tử cuồng vọng đến thế nhỉ?

"A Nhị" cũng cười ha hả theo. Còn "A Đại" nhìn ra tiểu đạo đồng này không phải là kẻ đối phó dễ dàng nói:

- Tam đệ, chớ có khinh địch.

"A Tam" tiến lên một bước, nghe vù một tiếng, tay phải đánh thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ. Chiêu đó thần tốc như điện, quyền đến nửa chừng, quyền bên trái lại thành nhanh hơn, phát chiêu sau mà tới trước, đánh luôn vào mặt Trương Vô Kỵ, chiêu số kỹ thuật thật là kỳ quái, trên đời ít thấy.

Trương Vô Kỵ từ khi nghe Trương Tam Phong diễn giảng về nguyên lý Thái Cực Quyền, hơn một giờ liền, chàng chỉ suy nghĩ về quyền lý của pho quyền này, thấy quyền tay trái của "A Tam" đánh ra, lập tức sử chiêu Lãm Tước Vĩ [8] trong Thái Cực Quyền, chân phải thực, chân trái hư, vận dụng yếu quyết chữ "tễ", nương theo đối phương, chưởng phải đã nắm được cổ tay trái của địch, vận kình đẩy ngang ra. "A Tam" thân hình lập tức bổ nhào về trước, loạng choạng liền hai bước mới đứng lại được. Người chung quanh thấy thế ai nấy đều kinh hãi kêu lên.

Chiêu Lãm Tước Vĩ này là chiêu đầu tiên từ khi pho Thái Cực Quyền được sáng tác ra đến nay mới có dịp dùng, Trương Vô Kỵ thân mang đầy Cửu Dương thần công, lại thiện dụng phép chuyển đổi trong Càn Khôn Đại Na Di, đột nhiên sử dụng yếu quyết chữ "niêm" trong Thái Cực Quyền, tuy học chưa đầy hai giờ nhưng cũng không kém gì người cả đời khổ luyện.

"A Tam" bị chàng "vuốt" một cái, kình lực nghìn cân của ngọn quyền như rơi vào biển cả, không còn thấy tăm hơi, chính mình cũng bị quyền kình lôi tới trước hai bước. Y trong cơn kinh hãi, trở thành tức giận liên tiếp đánh ra, tưởng như có hàng chục cánh tay, hàng chục nắm đấm cùng tung ra một lượt. Mọi người thấy y tấn công chẳng khác gì gió táp mưa sa, ai nấy nghĩ thầm: "Thảo nào một người cao cường như Không Tính đại sư mà cũng bỏ mạng dưới tay y". Ngoại trừ đám đồng đảng đi theo Triệu Mẫn, ai ai cũng lo thầm cho Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ cố ý hiển dương uy danh phái Võ Đương nên chàng không sử dụng đến võ công của mình, mọi chiêu thức đều dùng pho Thái Cực Quyền do Trương Tam Phong sáng tạo như Đơn Tiên, Đề Thủ Thượng Thế, Bạch Hạc Lượng Sí, Lâu Tất Câu Bộ. Đến khi chàng ra chiêu Thủ Huy Tì Bà, tay phải lỏng ra, tay trái thu vào, trong nhất thời hiểu ngay được chỗ tinh vi áo diệu trong pho quyền nên chiêu này chàng sử dụng chẳng khác gì nước chảy mây trôi, cực kỳ nhàn nhã.

"A Tam" thấy thượng bàn bị song chưởng của chàng nhốt chặt như trong một cái lồng, không thể nào tránh né được, cũng không chống đỡ gì được, chỉ còn nước vận kình ra lưng, chịu cho chàng đánh một chưởng, đồng thời quyền bên phải đấm ra, cốt sao mỗi người chịu một chiêu, thành thế cả hai cùng chết, lấy đòn đổi đòn. Nào ngờ Trương Vô Kỵ hai tay vòng lại như ôm thái cực trong người, một luồng kình đạo vô cùng hồn hậu hợp thành một cơn gió lốc, lôi "A Tam" xoay luôn tại chỗ bảy tám vòng như con quay, khiến y phải vội vàng xuống tấn Thiên Cân Trụy mới đứng lại được nhưng cũng thẹn đến mặt đỏ gay, cực kỳ bẽ bàng.

Quần hào Minh giáo lớn tiếng reo hò. Dương Tiêu kêu lên:

- Công phu Thái Cực Quyền của phái Võ Đương thật là thần diệu quả thực khiến người ta được mở mắt.

Chu Điên cười nói:

- "A Tam" lão huynh, ta khuyên ngươi nên đổi tên đi, gọi là "A Chuyển".

Ân Dã Vương nói:

- - Có quay thêm vài vòng cũng chẳng có gì xấu mặt, cổ nhân chẳng từng nói "Ba mươi sáu kế, kế xoay là hơn cả" đấy ư?

Thuyết Bất Đắc bồi thêm:

- Năm xưa hảo hán Lương Sơn Bạc có một người tên Hắc Toàn Phong, đã có gió lốc thì đương nhiên là xoay tít.

"A Tam" nghe xong tức giận đến mặt đang đỏ biến thành tím ngắt, rống lên một tiếng, nhảy chồm tới, tay trái lúc thì quyền lúc thì chưởng, biến ảo khôn lường, trong khi tay phải lại dùng thuần chỉ lực công phu, chộp cào đâm chọc, vồ cào cấu phất, năm ngón tay khi thì như phán quan bút, lúc lại như điểm huyệt quyết, như đao như kiếm, như thương như kích, thế công cực kỳ ác liệt.

Thái Cực Quyền của Trương Vô Kỵ chưa thuần thục, cho nên tay chân luống cuống, không ứng phó nổi, đột nhiên nghe soẹt một tiếng, tay áo đã bị rách một đường, chỉ còn nước thi triển khinh công, vừa chạy vừa né tránh mới tạm thoát được công phu chỉ lực ghê gớm chưa từng thấy kia. "A Tam" hò hét đuổi theo, nhưng làm sao theo kịp khinh công phiêu dật của đối phương, chộp luôn mười trảo đều hụt cả.

Trương Vô Kỵ một mặt né tránh, trong bụng nghĩ thầm: "Nếu ta chỉ chạy mà không đấu, chẳng hóa ra thua hay sao? Pho Thái Cực Quyền này ta chưa nhuần nhuyễn lắm, chi bằng sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thần công, đấu với y xem sao". Chàng liền quay lại, hai tay ra chiêu Dã Mã Phân Tông[9] trong Thái Cực Quyền nhưng tay trái lại sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thủ pháp. Một ngón tay phải của "A Tam" đâm vào đầu vai đối phương, nhưng không hiểu sao bị lôi kéo thế nào, nghe cạch một tiếng lại đâm ngay vào bên trái của chính mình, đau đến mắt nổ đom đóm, cánh tay dường như không nhắc lên nổi.

Dương Tiêu biết đó không phải là Thái Cực Quyền nhưng lập tức nói khỏa lấp đi:

- Thái Cực Quyền quả hay thực là hay.

"A Tam" vừa đau vừa tức, quát lên:

- Cái này là yêu pháp tà thuật, Thái Cực Quyền cái gì?

Vụt vụt vụt y đâm luôn ba chỉ. Trương Vô Kỵ tung mình tránh được, thấy "A Tam" lại vươn tay, hai ngón tay đâm tới chàng liền sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, vừa kéo vừa dẫn, nghe cộp một tiếng, hai ngón tay của "A Tam" đâm luôn vào một cái cột gỗ lớn trong đại điện, lút tới tận gốc. Mọi người vừa tức cười, vừa kinh hãi.

Trong khi ai nấy đang cười ồ, bỗng có tiếng của Du Đại Nham cất lên:

- Khoan đã! Ngươi đang sử dụng Kim Cương Chỉ Lực của phái Thiếu Lâm, phải không?

Trương Vô Kỵ tung mình nhảy qua, nghe thấy "Kim Cương Chỉ Lực của phái Thiếu Lâm" lập tức nghĩ ra, Du Đại Nham bị thương vì Kim Cương chỉ lực, trong hơn hai mươi năm qua, phái Võ Đương vẫn vì việc này mà thâm thù phái Thiếu Lâm, xem ra hung thủ ngay tại trước mắt. Chỉ nghe "A Tam" cười khẩy nói:

- Kim Cương Chỉ Lực thì đã sao? Ai bảo ngươi cứng đầu, không chịu nói nơi dấu đao Đồ Long? Nếm mùi tàn phế hai mươi năm qua có thích không?

Du Đại Nham hậm hực nói:

- Cám ơn ngươi hôm nay nói ra chân tướng, thì ra thân ta tàn phế là do phái Tây Vực Thiếu Lâm hạ độc thủ. Chỉ đáng buồn. .. đáng buồn thay ngũ sư đệ ta.

Ông nói đến câu cuối, giọng nghẹn ngào. Năm xưa Trương Thúy Sơn tự vẫn mà chết chỉ vì Du Đại Nham bị Ân Tố Tố dùng ngân châm đả thương, không còn mặt mũi nào nhìn sư huynh. Thực ra Du Đại Nham trúng phải ngân châm rồi, Ân Tố Tố đã nhờ Long Môn tiêu cục đưa lên núi Võ Đương, chữa thuốc chừng một tháng là sẽ khỏi. Chân tay ông bị người bẻ gãy, chính là do độc thủ của Đại Lực Kim Cương Chỉ, nếu khi đó tìm được ra kẻ gây nên tội lỗi, vợ chồng Trương Thúy Sơn đâu đến nỗi chết thảm như thế?

Du Đại Nham thương cho sư đệ chẳng tội tình gì chết oan, lại hận cho mình thành người tàn phế, mắt như muốn tóe lửa ra ngoài. Trương Vô Kỵ chỉ nghe hai người đối đáp, lập tức minh bạch tiền nhân hậu quả. Khi còn nhỏ chàng đã từng nghe cha nói qua, nhà sư nấu bếp ở chùa Thiếu Lâm học lén võ nghệ, đánh chết thủ tọa Đạt Ma Đường là Khổ Trí thiền sư, các cao thủ trong phái Thiếu Lâm tranh chấp đến nỗi Khổ Tuệ thiền sư phải chạy sang Tây Vực, khai sáng phái Thiếu Lâm Tây Vực, xem ra gã này là truyền nhân của Khổ Tuệ thiền sư năm xưa.

Quả nhiên nghe Trương Tam Phong nói:

- Thí chủ bụng dạ thật là tàn ác, ta không ngờ trong những truyền nhân của Khổ Tuệ thiền sư, lại có một người như thí chủ.

"A Tam" cười gằn:

- Khổ Tuệ là cái quái gì thế?

Trương Tam Phong vừa nghe, lập tức hiểu ngay. Năm xưa khi Du Đại Nham bị Đại Lực Kim Cương Chỉ đả thương, phái Võ Đương đã cho người sang chất vấn phái Thiếu Lâm, chưởng môn phái Thiếu Lâm kiên quyết không nhận, nên cũng nghi là phái Thiếu Lâm Tây Vực. Thế nhưng nghe ngóng lâu năm biết phái này rất ít ỏi, đệ tử chuyên về nghiên cứu Phật học, không thông võ công, lúc này nghe "A Tam" nói một câu "Khổ Tuệ là cái quái gì thế?", lập tức biết ngay nếu y là người của phái Thiếu Lâm Tây Vực, quyết không thể nào dám mở miệng nhục mạ tổ sư khai sáng, ông liền cao giọng nói:

- Thảo nào! Thảo nào! Thì ra thí chủ là truyền nhân của hỏa công đầu đà, không những học được võ công của ông ta, lại học luôn được cả tính tình độc ác âm hiểm. Thế gã gọi là Không Tướng gì gì đó, có phải là sư huynh đệ của thí chủ không?

"A Tam" đáp:

- Đúng đó. Y là sư đệ của ta, nhưng không phải tên là Không Tướng mà pháp danh Cương Tướng. Trương chân nhân, Bát Nhã Kim Cương chưởng của Kim Cương môn, so với chưởng pháp của phái Võ Đương thì thế nào?

Du Đại Nham hậm hực đáp:

- Kém xa thật là xa. Đầu y bị sư phụ ta đánh một chưởng, phọt óc chết ngay. Đánh trống qua cửa nhà sấm, thật đáng kiếp.

"A Tam" rống lên một tiếng, tung mình xông tới. Trương Vô Kỵ liền dùng chiêu Như Phong Tự Bế trong Thái Cực Quyền chặn y lại, nói:

- "A Tam", mau đưa Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao ra đây.

Vừa nói chàng vừa đưa tay ra. "A Tam" giật mình kinh hãi: "Tục cốt diệu dược của bản môn cực kỳ bí mật, ngay cả đệ tử tầm thường cũng chưa biết tên, tên tiểu đạo đồng này nghe ở đâu thế?".

Y đâu biết trong Y Kinh của Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu có chép là "Tây Vực có một lộ ngoại gia võ công, nghi là bàng chi của phái Thiếu Lâm, thủ pháp thật là quái dị, bẻ gẫy xương chân ta người ta, không có thuốc gì trị được chỉ có bí dược của chính họ là Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao mới có thể cứu thôi, nhưng cao đó phương thuốc phối chế thế nào thì không truyền ra ngoài". Trương Vô Kỵ nghĩ đến chi tiết đó, thuận mồm nói ra, vốn chỉ thử xem có đúng không, nhưng thấy y biếc sắc liệu là mình đoán không sai, nên lớn tiếng nói:

- Đưa đây.

Chàng nghĩ đến cha mẹ chết thảm, lại thêm hai vị Ân Dư sư bá sư thúc bị tàn phế, hận không thể lập tức giết chết y, nhưng cũng không muốn nói thêm với y lời nào. Còn "A Tam" vừa rồi giao thủ với Trương Vô Kỵ tuy có lúc bị nguy hiểm đôi chút, nhưng khi sử dụng Đại Lực Kim Cương Chỉ thì đối phương chỉ có nước trốn tránh, không cách gì hoàn thủ. Y nghĩ thầm chỉ cần để ý đừng để bị thủ pháp cổ quái lôi kéo, đấu thêm nữa thể nào cũng thắng, nên tiến lên một bước, quát lớn:

- Thằng nhãi kia, ngươi quì xuống rập đầu cho kêu lạy ta ba lạy thì ta tha cho, nếu không thì cũng như tên họ Du kia thôi.

Trương Vô Kỵ nhất định lấy cho bằng được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao, nhưng đối phó với Kim Cương Chỉ thế nào, nhất thời chàng chưa nghĩ ra, Càn Khôn Đại Na Di tuy có thể làm y bị thương nhưng làm sao ép y đưa thuốc ra mới là khó. Còn đang trầm ngâm, Trương Tam Phong bỗng nói:

- Này con, con lại đây.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Thưa thái sư phụ, vâng.

Trương Tam Phong nói:

- Dùng ý chứ không dùng sức, cốt sao thái cực xoay vòng, không được để cho đứt đoạn. Nếu được như thế rồi, cái gốc của đối phương tự nhiên sẽ đứt. Mỗi chiêu mỗi thức, cần phải liền lạc với nhau, như sông dài biển rộng, chảy hoài không hết.

Oâng thấy Trương Vô Kỵ đối địch ra chiêu cũng đã phần nào thấu được cái tinh hoa của pho quyền, nhưng chỉ vì còn quá rạch ròi, quyền pháp minh bạch chiêu nào ra chiêu nấy nên không thể hiện được ý tứ bốn chữ "viên chuyển bất đoạn" (xoay vòng không đứt).

Trương Vô Kỵ võ công đã cao rồi, biết được nguyên lý của nó, nghe Trương Tam Phong nói mấy câu đó, lập tức lãnh ngộ ngay, liền nhẩm thử cái ý xoay vòng không đứt, âm dương biến hóa của pho quyền.

"A Tam" cười khẩy nói:

- Lâm trận học võ không trễ lắm sao?

Trương Vô Kỵ lông mày dựng lên, nói:

- Có kịp hay không, các hạ cứ thử thì biết.

Nói xong quay lại, tay phải vòng ra phía trước, nhắm ngay mặt "A Tam" đánh tới, chính là chiêu Cao Thám Mã trong Thái Cực Quyền. Năm ngón tay phải của "A Tam" lập tức chụm lại thành hình cương đao chém xuống, Trương Vô Kỵ biến thành chiêu Song Phong Quán Nhĩ, vẫn tiếp tục đánh cả hai tay. Biến chiêu đó đúng là lãnh hội được tinh nghĩa "viên chuyển bất đoạn" trong Thái Cực Quyền mà thái sư phụ vừa chỉ điểm, rồi khi thì vòng tay trái, khi thì vòng tay phải, hết vòng này tới vòng khác, vòng to, vòng nhỏ, vòng ngang, vòng dọc, vòng thẳng, vòng xéo, hết vòng nọ lại tới vòng kia liên tiếp, khiến cho "A Tam" phải lật đật lắc lư, chân đứng không vững chẳng khác nào người say rượu.

Đột nhiên năm ngón tay "A Tam" hết sức đâm tới, Trương Vô Kỵ liền sử chiêu Vân Thủ, tay trái cao, tay phải thấp thành một vòng tròn chặn ngay tay y lại, kình lực Cửu Dương thần công vận ra, chỉ nghe cắc một tiếng, cánh tay phải của "A Tam" cả trên lẫn dưới đều gãy rời. Cương kình của Cửu Dương thần công thật là ghê gớm, xương bả vai của "A Tam" gãy thành năm sáu mảnh, các đầu xương nát vụn, không còn thành hình thù gì nữa. Cứ riêng kình lực đó không thôi, pho Thái Cực Quyền lấy nhu kình làm chủ không thể nào bì kịp.

Trương Vô Kỵ hận y tàn ác, Vân Thủ chàng sử ra liên miên bất tuyệt, như một áng mây trắng bay ngang bầu trời, vòng tròn này chưa xong, vòng kế tiếp đã bắt đầu, lại nghe cắc thêm một tiếng nữa, cánh tay trái "A Tam" cũng gãy luôn, tiếp theo cắc cắc hai tiếng, cả hai bên đùi trái phải của y cũng gãy vụn. Trương Vô Kỵ trong đời động thủ cùng người, chưa bao giờ hạ độc thủ như thế, nhưng người này giết hại cha mẹ mình, là hung thủ làm khổ tam sư bá, lục sư thúc, nếu không phải vì còn cần Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thì chàng đã hạ thủ đánh chết y rồi.

"A Tam" chỉ hự được một tiếng, đã nằm gục xuống, trong đám thủ hạ Triệu Mẫn một người liền vọt ra, ôm y lên quay về chỗ. Những người chung quanh thấy thần công của Trương Vô Kỵ như thế, ai nấy kinh hãi, ngay đến các cao thủ Minh giáo cũng ngơ ngẩn không kịp mở miệng hò reo.

Tên đầu hói "A Nhị" lập tức nhào ra, chưởng phải nhắm ngay ngực Trương Vô Kỵ tấn công. Chưởng của y chưa tới, Trương Vô Kỵ đã thấy tức ngực, vội vàng sử dụng chiêu Tà Phi Thế, dẫn lực đạo của y lệch qua một bên. Gã hói đầu đó chẳng nói chẳng rằng, hạ bàn vững chãi như đóng đinh xuống đất, chăm chăm hết chưởng này đến chưởng khác đánh ra, nội lực hùng hồn không ai sánh kịp.

Trương Vô Kỵ thấy chưởng pháp của y với "A Tam" cũng cùng một loại, nhìn tuổi tác hẳn là sư huynh của "A Tam", tuy không nhanh nhẹn bằng nhưng trầm ổn hơn nhiều, chàng liền sử dụng các chiêu thức niêm, dẫn, tễ, án trong Thái Cực Quyền định đẩy cho y nghiêng qua, nào ngờ người này nội lực quá mạnh, lại kéo chàng nhủi tới một bước.

Hùng tâm của Trương Vô Kỵ nổi lên, nghĩ thầm: "Để ta tỉ đấu với y một phen xem nội lực Tây Vực Thiếu Lâm kia mạnh, hay Cửu Dương thần công của ta ghê gớm hơn". Chàng thấy chưởng của y đánh ra liền múa chưởng ra đỡ, đó là thuần lấy cứng chọi cứng, không có chút nào khéo léo gì ở bên trong. Hai chưởng đụng nhau, nghe bình một tiếng lớn, cả hai người đều lắc lư.

Trương Tam Phong "Ý" một tiếng, trong bụng kêu thầm: "Không xong, đánh kiểu thô lỗ này, ai mạnh người ấy thắng, hoàn toàn tương phản với quyền lý của Thái Cực. Gã hói đầu này nội lực hồn hậu, trong võ lâm quả ít thấy, chỉ e đấu thêm chưởng nữa, tiểu hài nhi sẽ bị trọng thương".

Ngay lúc đó, chưởng thứ hai của đôi bên lại đụng nhau, nghe bình một tiếng, "A Nhị" thân hình lảo đảo, lùi lại một bước, còn Trương Vô Kỵ thản nhiên nhàn nhã vẫn đứng tại chỗ.

Cửu Dương thần công và nội công của phái Thiếu Lâm nếu luyện đến cảnh giới tối cao, có thể nói không bên nào kém bên nào. Thế nhưng sáng phái tổ sư hỏa công đầu đà của Kim Cương Môn bên Tây Vực là người học lén võ công của chùa Thiếu Lâm. Quyền cước binh khí thì học trộm được, còn nội công là cách vận chuyển khí tức trong cơ thể, dù có trông thấy người ta đả tọa tĩnh tu mười năm, tám năm, cũng không sao hiểu được phương pháp điều quân thế nào, dẫn các đường chân khí đi ra sao? Thành ra ngoại công y cớ thể bắt chước, còn nội công thì không sao học lóm được. Kim Cương Môn ngoại công rất mạnh không kém gì Thiếu Lâm chính tông, còn nội công thì thua xa không thể nào bằng.

"A Nhị" là một dị nhân trong môn phái Kim Cương, vốn có thần lực trời sinh, từ ngoại công biến ngược trở lại thành nội công, đi theo một đường riêng luyện thành một người nội công cực kỳ thâm hậu, tài năng còn hơn xa cả tổ sư hỏa công đầu đà năm xưa, có thể coi là trời cho. Dưới song chưởng của y, rất ít ai đỡ nổi ba chiêu, lúc này đánh theo kiểu tay ngang, nhưng lại bị chưởng lực của Trương Vô Kỵ đẩy lùi một bước.

Y vừa giận vừa sợ, hít một hơi dài, hai chưởng cùng đánh ra, nhắm thẳng vào Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Ân lục thúc, chú xem cháu rửa hận cho chú đây.

Thì ra khi đó Ân Lê Đình đang được Dương Bất Hối, Tiểu Siêu hộ tống, do hai tên giáo chúng Minh giáo dùng cáng khiêng, vừa tới núi Võ Đương. Trương Vô Kỵ vừa quát lên, chưởng phải đánh ra, nghe bình một tiếng lớn, gã hói đầu phải lùi liên tiếp ba bước, hai mắt lồi ra, khí huyết trong ngực trộn trạo. Trương Vô Kỵ quát lớn:

- Ân lục thúc, trong đám vây đánh chú có tên đầu hói hay không?

Ân Lê Đình đáp:

- Chính hắn, tên này chính là đầu sỏ.

Chỉ thấy tên đầu hói "A Nhị" toàn thân xương cốt kêu lách cách mấy tiếng, chính đang vận kình. Du Đại Nham biết tên này nội lực cương mãnh, y vận nội công, chưởng lực sẽ không biết đâu mà lường, cực kỳ khó chống đỡ, kêu lên:

- Qua sông chưa xong, đánh vào giữa dòng.

Ý xúi Trương Vô Kỵ đừng đợi "A Nhị" vận kình hoàn thành, hãy tiến lên đánh cho y trở tay không kịp. Trương Vô Kỵ đáp:

- Vâng.

Chàng tiến lên một bước nhưng không ra tay. "A Nhị" hay tay đẩy ra, một luồng lực đạo bài sơn đảo hải đánh tới. Trương Vô Kỵ hít một hơi, chân khí trong cơ thể lưu chuyển, hữu chưởng đánh ra, một tay đỡ một tay đón, đem toàn bộ chưởng lực đối phương hất trả lại. Hai luồng chưởng lực dồn lại làm một, "A Nhị" chỉ kêu lên được một tiếng, chẳng khác nào viên đá nằm trên nỏ bắn ra, nghe lách cách lách cách, thân hình y đụng vỡ tung bức tường, bay thẳng ra ngoài.

Ai nấy còn đang kinh hãi thất sắc, bỗng thấy một người theo lỗ hổng trên tường chui vào, xách "A Nhị" đặt ngay dưới đất. Người đó béo tròn lùn xủn như cái trống đá, hình dáng thật là tức cười nhưng thân pháp hết sức nhanh nhẹn, chính là chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ của Minh giáo Nhan Viên. Hai xương cánh tay, xương lồng ngực, xương đòn gánh, tất cả đều bị chưởng lực cương mãnh hồn hậu chấn động gãy nát. Nhan Viên bỏ "A Nhị" xuống đất rồi, khom lưng chào Trương Vô Kỵ, rồi lại theo lỗ hổng trên tường chui ra, luồn ra luồn vào, chẳng khác gì một con chuột chũi mập mạp.

Triệu Mẫn thấy tiểu đạo đồng liên tiếp đánh bại hai cao thủ hạng nhất của mình, vốn đã sinh nghi, lại thấy Nhan Viên hành lễ, nàng liền nhìn kỹ lập tức nhận ra ngay, tự trách mình: "Đáng chết thực, đáng chết thực. Ta vào trước là chủ, vẫn tưởng tên tiểu quỉ này ở ngoài bố trí, đâu ngờ y giả trang đạo đồng, ở đây phá bĩnh, làm hỏng hết việc của ta".

Nghĩ thế nàng liền khinh khỉnh nói:

- Trương giáo chủ, sao giáo chủ không nghĩ đến thanh danh mà lại đi giả làm đứa tiểu đồng? Luôn mồm thái sư phụ nọ, thái sư phụ kia không biết thẹn hay sao?

Trương Vô Kỵ thấy nàng đã nhận ra mình, liền cao giọng đáp:

- Tiên phụ Thúy Sơn công chính là đệ tử thứ năm của thái sư phụ, tôi không gọi "thái sư phụ" thì gọi bằng gì bây giờ? Có gì mà thẹn hay không thẹn?

Nói xong chàng quay lại quì xuống khấu đầu trước Trương Tam Phong, nói:

- Hài nhi Trương Vô Kỵ, khấu đầu bái kiến thái sư phụ và tam sư bá. Sự việc cấp bách, không kịp bẩm rõ mọi điều, mong tha tội khinh mạn cho hài nhi.

Trương Tam Phong và Du Đại Nham vừa mừng vừa lo, không thể nào ngờ thanh niên đánh bại hai cao thủ Thiếu Lâm Tây Vực, lại chính là đứa bé ốm o, chết đi sống lại ngày nào. Trương Tam Phong cười ha hả, đưa tay đỡ dậy, nói:

- Hảo hài tử, con chưa chết, Thúy Sơn đã có người nối dòng.

Trương Vô Kỵ võ công trác tuyệt, cũng chỉ là thứ yếu, việc Trương Tam Phong mừng hơn cả chính là vì vẫn tưởng chàng chết rồi, không ngờ vẫn còn sống, thành thử đúng là trời cho, lòng như mở cờ trong bụng, quay đầu sang nói với Ân Thiên Chính:

- Ân huynh, chúc mừng Ân huynh có được đứa cháu ngoại thế này.

Ân Thiên Chính cười đáp:

- Trương chân nhân, chúc mừng Trương chân nhân dạy được một đồ tôn giỏi là dường ấy.

Triệu Mẫn trả miếng liền:

- Cái gì mà hảo ngoại tôn, hảo đồ tôn. Hai lão già sống dai, dạy được một tên tiểu quỉ gian trá giảo hoạt. "A Đại", ngươi ra thử kiếm với y xem nào!

Kẻ mặt mày sầu khổ "A Đại" kia liền lớn tiếng đáp: "Vâng", nghe soẹt một tiếng rút phắt thanh Ỷ Thiên kiếm, mọi người chỉ thấy ánh sáng xanh lè, dường như có một làn khí lạnh tỏa ra, đúng là một thanh kiếm tốt. Trương Vô Kỵ nói:

- Kiếm này là sở hữu của phái Nga Mi, sao lại ở trong tay cô được?

Triệu Mẫn hứ một tiếng nói:

- Tiểu quỉ, ngươi biết gì mà nói? Diệt Tuyệt lão ni ăn cắp thanh kiếm này của nhà ta, bây giờ vật về chủ cũ, kiếm Ỷ Thiên có liên quan gì đến phái Nga Mi đâu?

Trương Vô Kỵ đâu có biết lai lịch của thanh kiếm Ỷ Thiên ra thế nào, bị nàng hỏi vặn ngược lại, không biết trả lời ra sao, bèn đánh trống lảng qua chuyện khác, nói:

- Triệu cô nương, xin cô cho tôi Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao, để tôi trị dứt xương gãy cho tam sư bá và lục sư thúc, mọi sự đã qua chúng ta bỏ đi không nói đến nữa.

Triệu Mẫn nói:

- Hừ, bỏ qua chuyện cũ? Nói dễ nghe nhỉ? Thế ngươi có biết Không Văn, Không Trí của phái Thiếu Lâm, cùng bọn Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu của phái Võ Đương, hiện nay đang ở đâu không?

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

- Tôi không biết. Mong cô nương chỉ rõ.

Triệu Mẫn cười khẩy nói:

- Việc gì ta phải nói cho ngươi nghe? Ta chưa chém ngươi thành muôn mảnh thì chưa trả được cái tội khinh bạc làm nhục hôm trước ở trong cương lao tại Lục Liễu Sơn Trang.

Nàng nói tới mấy tiếng "khinh bạc làm nhục", nghĩ đến tình cảnh ở trong hầm tối, không khỏi mặt đỏ lên, vừa tức vừa thẹn.

Trương Vô Kỵ nghe tới chuyện "khinh bạc làm nhục" cũng bẽn lẽn, nghĩ đến việc hôm đó vì phải cứu quần hào Minh giáo bị trúng độc, việc đang khẩn cấp thành ra phải giở hạ sách, dùng tay cù gan bàn chân nàng, tuy không có ý trăng hoa, nhưng nam nữ thụ thụ bất thân, dẫu phải tòng quyền, cũng chưa nói với ai, nhưng nếu có người biết được chàng đùa dỡn với đàn bà con gái, thì thật than ôi. Thấy không cách gì biện bạch lúc này, chàng chỉ còn nước lảng qua:

- Triệu cô nương, Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao cô có cho tôi hay không nào?

Triệu Mẫn liếc một cái, cười hì hì nói:

- Ngươi muốn có Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao, cũng chẳng có gì khó cả. Ngươi chỉ bằng lòng nhận làm ba điều, ta sẽ hai tay dâng lên ngay.

Trương Vô Kỵ hỏi dồn:

- Ba chuyện gì thế?

Triệu Mẫn đáp:

- Ba điều đó bây giờ ta chưa nghĩ ra. Sau này khi nào nghĩ ra được, nói điều nào thì ngươi làm điều đó.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cái đó sao được? Chẳng lẽ cô bảo tôi tự sát, hay bảo tôi làm heo làm chó, tôi cũng phải theo hay sao?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Ta không bảo công tử tự sát, cũng không bảo công tử làm heo làm chó, nhưng đã nhận lời thì sau đừng có chối.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô nói cho tôi nghe trước đi, nếu như không vi phạm đạo hiệp nghĩa, mà tôi có thể làm được, thì tôi sẽ làm cho cô nương.

Triệu Mẫn đang toan trả lời, nhìn qua bỗng thấy trên mái tóc của Tiểu Siêu có đính một bông hoa kết bằng ngọc trai, chính là đóa hoa nàng tặng cho Trương Vô Kỵ, lập tức nổi giận, lại thấy Tiểu Siêu mắt sáng miệng tươi, mặt mày rạng rỡ, tuổi tuy còn nhỏ nhưng đã mơn mởn như một đóa phù dung, thật là dễ thương, trong bụng càng bực bội, liền nghiến răng nói với "A Đại":

- Ra chém đứt hai cánh tay tiểu tử họ Trương cho ta.

"A Đại" đáp lời: "Vâng", tay cầm kiếm Ỷ Thiên tiến lên một bước, nói:

- Trương giáo chủ, chủ nhân ra lệnh, sai tại hạ chém hai cánh tay của giáo chủ đó.

Chu Điên trong bụng ấm ức đã lâu, lúc này không nhịn nổi, ngoạc mồm chửi ngay:

- Con mẹ mày nói nghe thối quá, sao ngươi không chém chính tay mình đi có được không?

"A Đại" mặt mày sầu khổ, nhăn nhăn nhó nhó nói:

- Nói thế cũng hợp lý lắm.

Chu Điên nghe thế như mở cờ trong bụng, lớn tiếng nói:

- Thế thì mau chặt tay đi.

"A Đại" đáp:

- Chẳng đi đâu mà vội.

Trương Vô Kỵ thấy hơi lo, thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén dị thường, binh khí nào đụng phải cũng gãy ngay, chỉ còn một nước dùng Càn Khôn Đại Na Di tay không đoạt binh khí của y, thế nhưng khi đưa tay vào gân thanh kiếm nếu như kiếm chiêu của y kỳ lạ, biến hóa không lường được, tay chàng dù chỗ nào đụng phải cũng sẽ đứt ngay. Chàng chưa biết phải đối địch cách nào, còn đang trù trừ, bỗng nghe Trương Tam Phong nói:

- Vô Kỵ, ta sáng tạo ra Thái Cực Quyền con đã học rồi, còn một pho Thái Cực Kiếm, để ta truyền cho con luôn, để dùng quá chiêu với vị thí chủ này.

Trương Vô Kỵ mừng rỡ đáp:

- Đa tạ thái sư phụ.

Chàng quay sang nói với "A Đại":

- Vị tiến bối kia, tôi kiếm thuật không tinh xảo, cần được thái sư phụ chỉ điểm thêm, sau đó sẽ đấu với ông.

"A Đại" vốn có lòng e ngại Trương Vô Kỵ, tuy có bảo kiếm trong tay chiếm được ưu thế, nhưng thắng được không cũng chưa biết, nghe chàng muốn học chiêu thức mới, thật mừng hết cỡ, nghĩ thầm kiếm chiêu mới học dù có tinh diệu đến đâu, không khỏi ngượng nghịu. Trong đạo kiếm, cốt nhất là nhẹ nhàng linh động, ít nhất cũng phải luyện một hai chục năm, khi lâm địch mới lòng muốn sao tay ra chiêu như thế, thuần thục tự nhiên. Y liền gật đầu, nói:

- Ngươi đi học chiêu, ta ở đây chờ. Học hai giờ liệu có đủ chưa?

Trương Tam Phong nói:

- Chẳng cần phải đi đâu xa, ta dạy ngay tại đây, Vô Kỵ học ngay ở đây, "hàng mới ra lò nóng hổi[10]". Chẳng đến nửa giờ là dạy xong pho Thái Cực Kiếm.

Ông nói câu đó, ngoại trừ Trương Vô Kỵ ra, ai nấy kinh hãi, tưởng như không tin vào tai mình, nghĩ thầm: "Dù cho Thái Cực Kiếm pháp của phái Võ Đương áo diệu thần kỳ đến đâu, nhưng ở đây công nhiên dạy kiếm thuật, địch nhân nhìn thấy rõ ràng, thì còn gì gọi là bí áo nữa?".

"A Đại" đáp:

- Thế cũng được, vậy ta ra ngoài điện đứng chờ.

Y chứng tỏ mình không muốn được lợi thế, dẫu là phận đầy tớ, nhưng hành vi chẳng khác gì một bậc tông sư trong võ lâm. Trương Tam Phong nói:

- Không cần phải vậy, pho kiếm pháp này ta mới sáng tạo ra, chẳng biết có dùng được không? Các hạ là danh gia kiếm thuật, chính mong được các hạ nhìn xem, chỉ cho những chỗ sơ hở, khiếm khuyết.

Lúc ấy Dương Tiêu bỗng chợt nghĩ ra, lớn tiếng hỏi:

- Thì ra các hạ chính là Bát Tí Thần Kiếm[11] Phương trưởng lão. Các hạ đường đường đứng đầu trong các trưởng lão Cái Bang, sao lại cam chịu làm đầy tớ cho người khác?

Quần hào Minh giáo nghe nói thế, ai nấy đều kinh hãi. Chu Điên hỏi:

- Ngươi chẳng phải đã chết rồi sao? Sao lại sống đây. .. cái đó. .. cái đó sao lại thế được?

"A Đại" thở dài một tiếng, cúi đầu nói:

- Lão hủ trăm lần chết cũng chưa đủ, chuyện đã qua chẳng nói làm gì nữa. Tại hạ không còn là trưởng lão Cái Bang từ lâu rồi.

Những người lớn tuổi một chút ai cũng biết Bát Tí Thần Kiếm Phương Đông Bạch là người đứng đầu trong tứ đại trưởng lão của Cái Bang, kiếm thuật tinh kỳ, danh vang thiên hạ, nổi tiếng là xuất kiếm cực nhanh chẳng khác nào có bảy tám cánh tay nên được cái danh hiệu đó. Hơn mười năm trước, người ta nghe y bị bệnh nặng chết đi, khi đó ai cũng lấy làm tiếc, đâu ngờ vẫn còn sống đến ngày nay.

Trương Tam Phong nói:

- Pho Thái Cực Kiếm của lão đạo nếu được Bát Tí Thần Kiếm chỉ điểm cho vài chiêu thì thật là vinh hạnh. Vô Kỵ, con có mang kiếm không?

Tiểu Siêu liền tiến lên mấy bước, đưa cho ông thanh kiếm Ỷ Thiên giả bằng gỗ Trương Vô Kỵ lấy được của Triệu Mẫn. Trương Tam Phong cầm lên cười nói:

- Kiếm gỗ à? Lão đạo có vẽ bùa bắt quyết, trừ tà tróc quỉ đâu?

Ông đứng lên, tay trái cầm kiếm, tay phải thành hình kiếm quyết, hai tay ôm thành vòng tròn, từ từ đưa lên, đó là Khởi Thủ Thức, tiếp theo là Tam Hoàn Sáo Nguyệt, Đại Khôi Tinh, Yến Tử Sao Thủy, Tả Lan Tảo, Hữu Lan Tảo. .. từng chiêu một diễn ra, đến thế thứ năm mươi ba Chỉ Nam Châm, hai tay cùng vẽ thành hình tròn, vòng trở lại thành thức thứ năm mươi bốn Trì Kiếm Qui Nguyên.

Trương Vô Kỵ không ghi nhớ chiêu thức, chỉ nhìn kỹ những yếu chỉ "thần tại kiếm tiên, miên miên bất tuyệt[12]" trong kiếm chiêu mà thôi. Trương Tam Phong sử xong pho kiếm pháp, chẳng thấy một ai reo hò, người nào cũng đều thất vọng: "Thứ kiếm pháp chậm như rùa, mềm như bún thế này làm thế nào có thể dùng để ra chiêu đối địch?". Nhưng lại nghĩ ngay "Chắc là Trương chân nhân cố ý múa kiếm thật chậm, cốt để cho giáo chủ có thể nhìn cho rõ".

Trương Tam Phong hỏi:

- Hài nhi, con có nhìn ra không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Con nhìn ra rồi.

Trương Tam Phong hỏi tiếp:

- Có nhớ được chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đã quên gần một nửa rồi.

Trương Tam Phong nói:

- Hay lắm, cũng thật khó cho con. Con tự mình suy nghĩ thêm đi.

Trương Vô Kỵ cúi đầu trầm tư, một lúc sau, Trương Tam Phong hỏi lại:

- Bây giờ ra sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đã quên mất quá nửa rồi.

Chu Điên thất thanh kêu lên:

- Ôi chao, càng lúc càng quên nhiều hơn. Trương chân nhân, lộ kiếm pháp này thâm áo quá, xem một lần làm sao nhớ được? Xin ngài diễn thêm một lần nữa cho giáo chủ chúng tôi xem lại.

Trương Tam Phong mỉm cười:

- Được, để ta biểu diễn lại một lần nữa.

Ông cầm kiếm ra chiêu, diễn lại lần thứ hai. Mọi người mới coi vài chiêu, trong bụng ai cũng lạ lùng, lần này không chiêu nào giống lần trước. Chu Điên kêu lên:

- Ôi chao, ôi chao, thế này thì càng làm cho người ta thêm rối trí.

Trương Tam Phong vạch kiếm thành vòng tròn, hỏi:

- Hài nhi, thấy thế nào?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Còn ba chiêu chưa quên được.

Trương Tam Phong gật đầu, quay về chỗ ngồi. Trương Vô Kỵ đi chầm chậm vòng quanh trong điện, trầm tư hồi lâu, lại đi thêm nửa vòng nữa, ngửng đầu lên, mặt rạng rỡ, kêu lên:

- Con đã quên hết rồi, quên không còn chút nào nữa rồi.

Trương Tam Phong nói:

- Khá lắm, khá lắm. Quên nhanh như thế, con có thể mời Bát Tí Thần Kiếm chỉ giáo được rồi.

Nói xong đưa thanh kiếm gỗ trong tay cho chàng. Trương Vô Kỵ khom mình tiếp lấy, quay lại nói với Phương Đông Bạch:

- Xin mời Phương tiền bối.

Chu Điên vò đầu bứt tai, cực kỳ lo lắng. Phương Đông Bạch vươn mình đâm ra nói:

- Xin mạo muội.

Chỉ thấy ánh sáng xanh lấp lánh, nghe vù một tiếng, nội lực mạnh chẳng kém gã "A Nhị" chút nào. Ai nấy rùng mình kinh hãi, nghĩ thầm dẫu y chỉ cầm một thanh đồng nát sắt rỉ, với nội lực như thế uy lực cũng không gì đương cự nổi, huống chi lại cầm bảo kiếm Ỷ Thiên sắc bén cắt vàng chặt ngọc. Hai chữ Thần Kiếm quả nhiên danh bất hư truyền.

Trương Vô Kỵ tay trái để xéo kiếm quyết, mộc kiếm đưa ngang qua, vạch thành nửa vòng tròn, đè luôn lên trên sống kiếm Ỷ Thiên, kình lực truyền vào, thanh bảo kiếm lập tức bị dìm xuống. Phương Đông Bạch khen:

- Hảo kiếm pháp.

Y lật cổ tay hất thanh kiếm, mũi kiếm liền ngóc lên đâm thẳng vào sườn bên trái của đối phương. Trương Vô Kỵ liền quay kiếm vòng về, nghe cách một tiếng, hai thanh kiếm đụng nhau, cả hai đều phi thân lùi ra ngoài. Thanh kiếm Ỷ Thiên trong tay Phương Đông Bạch rung động không ngừng, nghe tiếng u u hồi lâu chưa hết.

Hai thứ binh khí, một đằng là bảo kiếm, một đằng là kiếm gỗ, thế nhưng khi chạm vào nhau, hai bên không bên nào hơn bên nào. Chiêu đó của Trương Vô Kỵ đã "dùng cái cùn nhụt của mình, đụng vào chỗ không sắc bén của địch" chính là tinh áo của Thái Cực Quyền. Nên biết Trương Tam Phong truyền cho chàng là truyền "Kiếm Ý", không phải "Kiếm Chiêu", cho nên bao nhiêu kiếm chiêu chàng quên hết, chính là đã đạt được cốt tủy của kiếm pháp, đến khi lâm địch dùng ý mà ra chiêu, thiên biến vạn hóa, vô cùng vô tận.

Nếu như còn một hai chiêu không quên được, trong lòng sẽ vướng mắc, kiếm pháp sẽ không thể nào tinh thuần. Nguyên lý đó những cao thủ như Dương Tiêu, Ân Thiên Chính lờ mờ hiểu được, còn Chu Điên dẫu sao cũng kém một mức, khiến y phải lo lắng một hồi lâu.

Khi đó tiếng vi vút trong điện càng lúc càng mạnh, kiếm chiêu của Phương Đông Bạch lợi hại ghê gớm, lại thêm nội lực vô cùng hồn hậu, thanh kiếm cực kỳ sắc bén, ra chiêu thật là tinh diệu, ánh sáng xanh lập lòe, kiếm khí bao phủ, người trong điện tưởng như một khối tuyết đang di động trước mắt, tỏa ra một làn hơi lạnh thấu xương. Thanh kiếm gỗ của Vô Kỵ trong vòng hàn khí đó vạch thành vòng tròn, chiêu nào cũng thành vòng cung đâm ra, lại theo hình vòng cung thu về, trong lòng chàng không mảy may vương vấn, chỉ lấy ý mà vận dụng thanh kiếm, thanh kiếm gỗ tung ra chẳng khác nào một sợi tơ mỏng manh, quấn lấy thanh Ỷ Thiên kiếm. Thế nhưng sợi tơ ấy mỗi lúc một dày, tưởng chừng biến thành một khối bông, bao chặt lấy thanh bảo kiếm. Hai người đấu đến quá hai trăm chiêu, Phương Đông Bạch kiếm chiêu mỗi lúc một thêm trì trệ, thanh kiếm trong tay càng lúc càng nặng, từ năm cân, thành sáu cân, bảy cân. .. mười cân, hai chục cân. .. thỉnh thoảng vận kiếm tung ra không đủ kình lực, lại bị kiếm gỗ lôi đi mấy vòng.

Phương Đông Bạch càng đấu càng hoảng sợ, đến ba trăm chiêu mà hai lưỡi kiếm không đụng vào nhau, trong đời y chưa từng gặp phải bao giờ. Đối phương tưởng như tung ra một cái lưới lớn, thắt mình vào giữa. Phương Đông Bạch liên tiếp thay đổi đến sáu, bảy kiếm thuật khác nhau, tung hoành biến hóa, huyễn ảo vô cùng người chung quanh ai cũng phải hoa cả mắt. Còn Trương Vô Kỵ trước sau cũng chỉ vạch kiếm thành vòng tròn, người ngoài trừ Trương Tam Phong ra, không biết chàng ra chiêu đó là công hay thủ. Lộ Thái Cực Kiếm pháp này chỉ có đủ các loại vòng, cái to cái nhỏ, cái ngược, cái xuôi, cái thẳng, cái xéo, nếu nói là chiêu số, có thể nói chỉ có một chiêu, nhưng chiêu đó biến hóa khôn cùng.

Chỉ nghe Phương Đông Bạch hú lên một tiếng dài, râu tóc dựng đứng, kiệt tận toàn lực bình sinh nhằm thẳng trung cung đâm tới. Trương Vô Kỵ thấy thế đâm tới ác liệt thu kiếm về gạt, Phương Đông Bạch cổ tay hơi lắc, thanh kiếm Ỷ Thiên liền ngóc lên, nghe cạch một tiếng nhỏ, mũi kiếm gỗ đã gãy một khúc chừng sáu tấc. Thanh kiếm Ỷ Thiên không còn gì ngăn chặn đâm thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ kinh hãi, kiếm quyết tay trái vung ra, hai ngón tay trỏ và giữa kẹp ngay vào thân thanh Ỷ Thiên kiếm, nửa thanh kiếm gỗ bên tay phải chém luôn xuống tay phải Phương Đông Bạch. Tuy chỉ là thanh kiếm gỗ, nhưng với Cửu Dương thần công vận vào cũng chẳng khác gì cương đao. Phương Đông Bạch vận lực vào cánh tay giật về, nhưng kiếm Ỷ Thiên đã bị đối phương kẹp chặt, như trong một chiếc kìm sắt không lay chuyển gì được. Trong tình cảnh đó, ngoại trừ buông kiếm nhảy vọt về sau, không còn cách nào khác.

Chỉ thấy Trương Vô Kỵ quát lên:

- Rút tay mau.

Phương Đông Bạch nghiến răng, không chịu buông, chỉ như một ánh chớp lóe lên, nghe chát một tiếng, một cánh tay của y đã bị thanh kiếm gỗ chặt đứt, không khác gì một thanh kiếm sắc bén. Phương Đông Bạch không chịu buông ra là đã có ý hi sinh cánh tay để bảo vệ binh khí, tay trái liền vươn ra chộp ngay không để thanh kiếm rơi xuống. Cánh tay đứt kia đã rời ra rồi, năm ngón tay vẫn khư khư giữ chặt thanh kiếm Ỷ Thiên. Trương Vô Kỵ thấy y dũng cảm như thế, bụng hơi ái ngại, lòng thấy ăn năn, không còn muốn tranh đoạt thanh kiếm của y nữa.

Phương Đông Bạch đi đến trước mặt Triệu Mẫn, khom lưng nói:

- Chủ nhân, tiểu nhân vô năng, cam chịu trách phạt.

Triệu Mẫn không nhìn đến y, lạnh lùng nói:

- Hôm nay ta nể mặt Trương giáo chủ của Minh giáo, tha cho phái Võ Đương.

Nàng phất tay một cái, ra lệnh:

- Thôi đi!

Các thủ hạ của nàng ẵm Phương Đông Bạch, gã hói đầu "A Nhị", "A Tam" đi ra khỏi điện. Trương Vô Kỵ kêu vói theo:

- Khoan đã, không để lại Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thì đừng tính chuyện rời khỏi núi Võ Đương.

Chàng phóng mình tới, giơ tay ra chộp vào đầu vai Triệu Mẫn. Tay Trương Vô Kỵ còn cách người Triệu Mẫn chừng một thước, bỗng thấy có hai luồng chưởng phong vô thanh vô tức từ hai bên đánh tới, trước đó không có dấu hiệu gì, chàng giật mình kinh hãi, hai chưởng đẩy ra, tay phải đỡ chưởng đánh từ bên phải, tay trái đỡ chưởng đánh từ bên trái, bốn chưởng đụng nhau, chỉ thấy kình lực mạnh lạ thường, bên trong chưởng lực có một luồng hàn khí âm độc vô tỉ. Luồng hàn khí đó chàng thật là quen thuộc, chính là hơi lạnh làm chàng chết đi sống lại khi còn nhỏ, Huyền Minh thần chưởng.

Trương Vô Kỵ kinh hoảng, Cửu Dương thần công trong người lập tức nảy sinh, nhưng tiếp theo hai bên mạng sườn đã bị địch nhân đánh trúng mỗi bên một chưởng. Chàng chỉ kêu hự lên một tiếng, ngã ngửa về sau, thấy hai người tấn công mình là hai ông già cao gầy. Hai người ra hai chưởng bị Trương Vô Kỵ đỡ được, còn lại hai tay vô hình vô ảnh đánh luôn vào người chàng. Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cùng giận dữ quát lên, tung mình xông tới. Hai lão kia lại múa chưởng đánh ra, bình bình hai tiếng, Dương Vi hai người lịch kịch lùi lại mấy bước, máu trong ngực trộn trạo, khí lạnh thấu xương. Hai lão già cũng lảo đảo. Người bên phải cười khẩy nói:

- Minh giáo tên tuổi là thế, hóa ra cũng chỉ có vậy.

Cả hai quay lại, hộ tống Triệu Mẫn ra đi.

Hồi 25

CỬ HỎA LIỆU THIÊN HÀ HOÀNG HOÀNG

Bừng bừng lửa thánh cháy lên,

Làm trai quyết chí báo đền núi sông.

Muôn người trên dưới một lòng,

Xua quân Hồ Lỗ đại công cáo thành.

*

* *

Mọi người lo lắng Trương Vô Kỵ bị thương nên không đuổi theo, vội vàng xúm lại. Trương Vô Kỵ mỉm cười, xua tay, ý nói không sao cả, trong thân thể phát động Cửu Dương thần công, đẩy khí âm hàn của Huyền Minh thần chưởng ra ngoài. Trên đầu chàng như cái lồng hấp, những làn hơi trắng từng tia bay lên. Chàng cởi áo ngoài, hai bên mạng sườn có dấu hai bàn tay màu đen sậm. Cửu Dương thần công vận chuyển một hồi, hai bàn tay từ màu đen biến thành màu tía, từ màu tía biến thành màu tro, sau cùng biến mất không còn dấu vết gì nữa. Trước sau chỉ mất nửa giờ đồng hồ, khác hẳn trước kia mấy năm không khu trừ được âm độc của Huyền Minh thần chưởng, bây giờ khoảnh khắc là mất hẳn. Chàng đứng lên, nói:

- Lần này tuy hung hiểm thật, nhưng sau cùng chúng ta cũng biết được mặt mũi của kẻ đối đầu.

Khi Huyền Minh nhị lão đối chưởng với Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu thì trước đó đã bị Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ xung kích rồi, âm độc trong chưởng lực chưa được hai thành lúc bình thường, thế mà Dương Vi hai người phải ngồi đả tọa vận khí, một hồi thật lâu mới đẩy được hết âm độc ra. Trương Vô Kỵ quan tâm đến thương thế của thái sư phụ nhưng Trương Tam Phong nói:

- Hỏa công đầu đà nội công chẳng đáng gì, ngoại công tuy cương mãnh thật nhưng so với Huyền Minh thần chưởng thì còn kém xa, thương thế của ta không có gì đáng ngại.

Vừa lúc đó chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ là Ngô Kình Thảo bước vào bẩm báo, tất cả địch nhân đến xâm phạm đã xuống núi rồi. Du Đại Nham liền sai tri khách đạo nhận dọn cỗ chay để mời quần hào Minh giáo. Trong bữa tiệc, Trương Vô Kỵ liền kể lại cho Trương Tam Phong và Du Đại Nham tất cả sự tình từ khi từ biệt tới bây giờ, ai nấy đều kinh hãi thở dài. Trương Tam Phong nói:

- Năm xưa cũng tại nơi điện Tam Thanh này, ta đã từng cùng một ông già trao đổi một chưởng, có điều là hồi đó y mặc giả làm quân Mông Cổ nên không biết là người nào trong hai người đó. Nói ra thật đáng hổ thẹn, cho đến hôm nay, chúng ta vẫn chưa biết rõ kẻ đối đầu gốc gác thế nào.

Dương Tiêu nói:

- Không biết cô gái họ Triệu kia lai lịch thế nào mà sao cao thủ như loại Huyền Minh nhị lão cũng phải cam tâm để cho cô ta sai khiến.

Mọi người suy đoán đủ loại nhưng không biết rõ thế nào. Trương Vô Kỵ nói:

- Trước mắt có hai chuyện lớn phải làm. Việc thứ nhất là đi cướp Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao để trị cho khỏi thương thế của Du tam sư bá và Ân lục sư thúc. Việc thứ hai là nghe ngóng tin tức nhóm Tống đại sư bá hiện nay ở đâu. Cả hai việc đó đều ở trong tay cô gái họ Triệu kia.

Du Đại Nham cười gượng nói:

- Ta tàn phế đã hai mươi năm, dù quả có tiên đan thần dược cũng trị không khỏi được đâu, lo việc cứu đại ca, lục đệ các anh em mới là cần.

Trương Vô Kỵ nói:

- Việc không thể trì hoãn, xin Dương tả sứ, Vi Bức Vương và Thuyết Bất Đắc đại sư ba vị đi cùng tôi xuống núi truy tìm tung tích địch nhân. Các chưởng kỳ phó sứ của Ngũ Hành Kỳ chia nhau ra đến các phái Nga Mi, Côn Lôn, Không Động và Nam Thiếu Lâm ở Phúc Kiến liên lạc với các phái, nghe ngóng tin tức. Xin ông ngoại và cậu đi xuống Giang Nam chỉnh đốn lại giáo chúng Thiên Ưng Kỳ. Thiết Quan đạo trưởng, Chu tiên sinh, Bành đại sư cùng các chưởng kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ tạm thời ở lại núi Võ Đương, nghe lệnh thái sư phụ của tôi Trương chân nhân, ở giữa điều động hoạch định.

Chàng thuận miệng sắp đặt ngay trong bàn tiệc. Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu mọi người đều đứng dậy, khom lưng nhận lệnh. Trương Tam Phong lúc đầu còn ngờ rằng chàng trẻ quá, làm sao thống suất được quần hào, bây giờ thấy chàng phát hiệu ra lệnh, các đại hào kiệt trong võ lâm như Ân Thiên Chính, Dương Tiêu... đều nhất nhất tuân theo, trong lòng cực kỳ vui sướng nghĩ thầm: "Y học được Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm của ta chẳng qua chỉ do nội công có căn bản, ngộ tính cao, tuy cũng khó thật nhưng chưa phải thật là quí. Còn như y có thể quản thúc các đại ma đầu của Minh giáo, Thiên Ưng giáo đưa bọn họ đi lại con đường ngay thẳng, cái đó mới thực là một đại sự. Ôi, Thúy Sơn có người nối dõi rồi, Thúy Sơn có người nối dõi rồi". Nghĩ đến đây, ông không nhịn nổi vuốt râu mỉm cười.

Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu cả bọn ăn no rồi, lập tức từ biệt Trương Tam Phong xuống núi thám thính hành tung của Triệu Mẫn. Bọn Ân Thiên Chính tiễn đến ngoài núi mới quay lại. Dương Bất Hối lưu luyến không muốn rời xa phụ thân, đưa chân đến hơn một dặm. Dương Tiêu nói:

- Bất Hối, con về đi, cố gắng chăm sóc cho Ân lục thúc.

Dương Bất Hối đáp:

- Vâng.

Nàng đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, đột nhiên má đỏ bừng, nói nhỏ:

- Vô Kỵ ca ca, em muốn nói với anh đôi câu.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cả bọn ba người trong bụng cười thầm: "Hai người có tình thanh mai trúc mã[1], thể nào chẳng có vài lời muốn nói". Lập tức gia tăng cước bộ, chạy xa một đoạn.

Dương Bất Hối nói:

- Vô Kỵ ca ca, anh đến đây.

Nàng nắm tay Vô Kỵ, đến ngồi xuống một tảng đá lớn bên sườn núi. Trương Vô Kỵ trong lòng nghi hoặc tự hỏi: "Ta và cô nàng biết nhau từ nhỏ, giao tình không phải tầm thường. Vậy mà lần này xa nhau lâu ngày không gặp, sao cô ta lại đối với mình thật là lạnh nhạt chẳng thân mật tí nào, bây giờ lại muốn nói chuyện?".

Chỉ thấy Dương Bất Hối chưa mở miệng mặt đã đỏ bừng, cúi đầu lặng thinh. Một lúc lâu sau mới nói:

- Vô Kỵ ca ca, khi mẹ em mất có ủy thác cho anh lo lắng cho em, phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế!

Dương Bất Hối nói:

- Anh vạn dặm đường xa vời vợi, từ bờ sông Hoài đưa em đến Tây Vực giao tận tay cha em, đường đi bao nhiêu lần vào sinh ra tử, trăm cay nghìn đắng. Đại ân không thể đền đáp bằng lời, cái ơn nghĩa đó em chỉ để trong đáy lòng thôi, trước nay chưa nói với anh một lời nào.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cái đó có gì đáng nói đâu? Nếu như anh không đưa em đến Tây Vực, bản thân anh cũng không có những cơ duyên gặp gỡ, e rằng chất độc phát ra nay đã chết rồi.

Dương Bất Hối nói:

- Không, không đâu. Đại ca nhân hiệp rộng rãi, gặp việc gì rồi cũng phùng hung hóa cát. Vô Kỵ ca ca, em từ nhỏ không có mẹ, cha em tuy thân nhưng có nhiều điều em không thể nói với cha được. Đại ca là giáo chủ của bản giáo thật nhưng trong lòng em, em chỉ nghĩ anh như một người anh ruột thôi. Hôm đó trên Quang Minh Đính thấy anh lành lặn trở về, lòng em mừng không sao nói ra được, chỉ có điều em không tiện nói với anh, anh có giận em không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không đâu, đương nhiên là không giận.

Dương Bất Hối nói tiếp:

- Em đối với Tiểu Siêu thực hung ác, thực tàn nhẫn, chắc anh không vừa ý. Chỉ vì mẹ em chết thật thê thảm, đối với ác nhân, từ đó em lòng dạ thật cứng rắn. Về sau thấy Tiểu Siêu đối với anh thật tốt, em không còn ghét nó nữa.

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Con tiểu a đầu Tiểu Siêu quả thực có nhiều điều kỳ lạ, có điều anh thấy nó không phải là người xấu đâu.

Lúc này mặt trời đã ngả về phương Tây, gió thu mơn man thật mát mẻ. Dương Bất Hối vẻ mặt nhu tình vô hạn, sóng mắt long lanh, nói nhỏ:

- Vô Kỵ ca ca, anh nghĩ cha em và mẹ em có không nên không phải với Ân... lục thúc không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chuyện cũ rồi, mình không nên nhắc tới nữa.

Dương Bất Hối nói:

- Không đâu, đối với người ngoài thì chuyện đó đã quá lâu rồi, đến em nay cũng đã mười bảy tuổi rồi (?)[2]. Thế nhưng dù thế nào Ân lục thúc vẫn không quên được mẹ em. Bây giờ ông ta lại bị thương nặng, ngày đêm hôn mê, vẫn thường cầm tay em, không ngớt gọi: "Hiểu Phù, Hiểu Phù". Ông ấy còn nói: "Hiểu Phù, em đừng bỏ anh. Chân tay anh gãy cả rồi, đã thành phế nhân, anh van em, đừng bỏ anh nhé, đừng làm ngơ không ngó ngàng gì đến anh".

Nàng nói đến đây, nước mắt rưng rưng thật là khích động. Trương Vô Kỵ nói:

- Đó chẳng qua là lục thúc nói ra khi thần trí nửa mê nửa tỉnh, không có gì làm chắc chắn đâu.

Dương Bất Hối nói:

- Chẳng phải đâu. Anh không rõ nhưng em biết rõ. Khi ông ấy tỉnh táo rồi, mỗi lần nhìn em, ánh mắt và thần khí cũng vẫn như thế, có ý cầu khẩn em đừng bỏ ông ta, nhưng không dám nói ra lời đấy thôi.

Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, chàng biết rằng vị sư thúc này võ công tuy cao, tính tình lại thật yếu đuối. Hồi nhỏ chàng vẫn thường thấy chỉ một chuyện hết sức nhỏ nhặt cũng làm ông ta khóc một hồi, cái chết của Kỷ Hiểu Phù đối với ông thật là một biến cố lớn, bây giờ tứ chi lại gãy nát, dĩ nhiên ông ta tâm thần kinh hoảng bất an. Chàng bèn nói:

- Ngu huynh sẽ kiệt tận toàn lực tìm cách đoạt cho bằng được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao để trị cho Tam sư bá và Lục sư thúc.

Dương Bất Hối nói:

- Mỗi lần Ân lục thúc nhìn em như thế, nghĩ lại em càng thấy cha em và mẹ em không phải, càng thấy ông ta đáng thương hơn. Vô Kỵ ca ca, em đã chính miệng bằng lòng với Ân... Ân lục thúc, chân tay ông ấy khỏi cũng thế, cả đời tàn phế cũng thế, em nguyện sẽ ở bên cạnh ông ấy mãi mãi, vĩnh viễn không rời xa ông ta.

Nàng nói đến đây, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng, thế nhưng thần thái vừa phấn khởi hớn hở, lại vừa thẹn thùng. Trương Vô Kỵ kinh hãi, không ngờ rằng nàng lại cả gan cùng Ân Lê Đình phó thác cuộc đời, nhất thời không biết phải phản ứng ra sao, chỉ ấp úng:

- Em... em...

Dương Bất Hối nói:

- Em đã nói chắc chắn như chém đinh chặt sắt là đã nhất định theo ông ta. Dù cho cả đời ông không cử động được thì em cũng sẽ hầu hạ bên giường, lo liệu việc ăn uống, nói chuyện vui cho ông ấy giải sầu.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế nhưng cô...

Dương Bất Hối cướp lời:

- Chẳng phải vì em nhất thời khích động mà hứa thế với ông ấy đâu. Trên đường đi em đã suy nghĩ thật nhiều thật kỹ. Không những ông ấy không bỏ em được mà em cũng không bỏ ông ấy được. Nếu như ông ấy bị thương nặng không chữa nổi thì em cũng không sống được đâu. Mỗi khi em ở gần ông ấy, ông ấy say đắm nhìn em, em thấy sung sướng vô cùng. Vô Kỵ ca ca, khi còn bé chuyện gì em cũng kể cho anh nghe, em muốn ăn bánh nướng, cũng nói cho anh hay, trên đường đi muốn ăn kẹo cũng nói với anh. Khi đó mình làm gì có tiền để mua, nửa đêm anh vào lấy cắp của họ ra cho em, anh có còn nhớ không?

Trương Vô Kỵ nghĩ đến năm xưa khi chàng cầm tay cô ta dẫn đi tìm cha, hai anh em sống chết có nhau không khỏi chạnh lòng, hạ giọng nói:

- Anh nhớ chứ.

Dương Bất Hối cầm bàn tay chàng nói:

- Anh đưa cho em cái kẹo, em không nỡ ăn, cầm trong tay đi đường, ánh nắng chiếu vào kẹo chảy ra, em tiếc quá khóc mãi không thôi. Anh bảo để anh tìm cho em cái khác nhưng tiếc thay về sau đâu có tìm thấy loại kẹo đó nữa. Về sau anh mua cho em những cái kẹo vừa to vừa ngon, em không thích lại khóc nữa khiến anh bực mình quá mắng em là không biết nghe lời, có đúng không?

Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:

- Anh mắng em anh đâu có nhớ.

Dương Bất Hối nói:

- Tính tình em cố chấp lắm, Ân lục thúc là chiếc kẹo đầu tiên em thích, em sẽ không thích cái kẹo nào thứ hai. Vô Kỵ ca ca, có khi em nghĩ thật là trẻ con, anh tốt với em như thế, mấy lần cứu em thoát chết, đúng ra em... em phải suốt đời hầu hạ anh mới phải. Thế nhưng em coi anh chẳng khác gì anh ruột, trong lòng em thương anh kính anh, thế nhưng đối với ông ta em thấy thương hại không để đâu cho xiết, mến ông ta không nói ra được. Ông ấy tuổi còn hơn gấp đôi em, lại là trưởng bối của em, người ta thể nào cũng cười em, cha em lại là kẻ thù không đội trời chung, em... em biết là không ổn... nhưng dù thế nào chăng nữa, em cũng sẽ nói với anh.

Nàng nói đến đây, không dám nhìn vào mặt Trương Vô Kỵ nữa, lập tức đứng dậy, chạy mất.

Trương Vô Kỵ nhìn lưng nàng khuất sau một sườn núi, trong lòng hoang mang, không biết tính sao, đứng ngơ ngẩn hồi lâu, rồi chạy đuổi theo ba người Vi Nhất Tiếu. Thuyết Bất Đắc và Vi Nhất Tiếu thấy khóe mắt chàng dường như có ngấn lệ, liếc Dương Tiêu mủm mỉm cười, ý như muốn nói: "Chúc mừng ngươi nhé, chẳng bao lâu nữa Dương tả sứ sẽ thành bố vợ của giáo chủ".

Bốn người xuống khỏi núi Võ Đương. Dương Tiêu nói:

- Cô nương họ Triệu đó tiền hô hậu ủng, không phải chỉ đi một mình, muốn tìm tung tích nàng ta không có gì là khó. Chúng ta chia nhau ra bốn hướng đông tây nam bắc tra tìm, hẹn ngày mai đúng ngọ gặp nhau tại Cốc Thành. Tôn ý của giáo chủ ra sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Hay lắm, cứ như thế, để tôi đi về phương tây.

Cốc Thành nằm ở phía đông núi Võ Đương, chàng đi về hướng tây tra xét, có nghĩa là phải đi xa hơn những người kia một khúc đường. Chàng dặn tiếp:

- Võ công của Huyền Minh nhị lão rất là ghê gớm, ba vị nếu có gặp họ, nếu tránh được thì tránh, đừng một mình động thủ với họ làm gì.

Ba người vâng lệnh, lập tức hành lễ từ biệt, chia ra ba hướng đông nam bắc mà đi.

Về phía tây toàn là đường núi, Trương Vô Kỵ thi triển khinh công chạy thật nhanh, chỉ hơn một giờ đã đến Thập Yển Trấn. Chàng ghé vào thị trấn kiếm một quán ăn gọi một tô mì, hỏi tiểu nhị hỏi xem có thấy một chiếc kiệu bọc gấm đoạn vàng đi qua không. Gã tiểu nhị đáp:

- Có chứ. Còn thêm ba người bệnh nặng, nằm trong võng khiêng theo nữa, đi về hướng Hoàng Long Trấn, mới chưa đến một giờ.

Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm bọn người này không thể đi nhanh, để khỏi tiết lộ hành tung của mình đến trời tối đuổi theo cũng không muộn. Chàng bèn tìm một nơi vắng lặng, nằm ngủ một giấc, đợi đến canh một mới thẳng hướng Hoàng Long Trấn mà đi.

Lúc đến trấn trời chưa tới canh hai, chàng náu mình dưới góc tường, thấy đường xa hoàn toàn yên tĩnh không một bóng người, nhưng ở một khách điếm lớn vẫn còn đèn đuốc sáng chưng. Chàng tung mình nhảy lên mái nhà, nhẩy vài cái, đã đến mái nhà bên cạnh khách điếm, nhìn quanh thấy ở bên ngoài đồng trống nơi bờ sông có một cái lều vải lớn, đằng trước đằng sau có người qua lại, canh gác thật nghiêm mật, nghĩ thầm: "Không lẽ Triệu cô nương lại ở nơi cái lều kia? Hình dáng nói năng cô ta chẳng khác gì người Hán, nhưng hành sự ngang tàng sảng khoái, có vài phần phong thái người Mông Cổ". Khi đó người Nguyên cai trị Trung Hoa đã lâu, không hiếm những người Hán khá giả cố học cách của người Mông Cổ cho là vinh dự nên cũng không có gì là lạ.

Vô Kỵ đang tính toán làm sao đến gần cái lều đó được, bỗng nghe từ một cửa sổ nơi khách điếm vọng ra mấy tiếng rên. Chàng chợt động tâm vội nhảy xuống rón rén men đến cửa sổ, nhìn vào trong. Trong nhà có ba người nằm trên ba chiếc giường, trong đó hai người nhìn không rõ mặt. Người nằm gần cửa sổ hai tay hai chân đều quấn vải trắng chính là "A Tam", y xuýt xoa nho nhỏ xem chừng vết thương cực kỳ đau đớn. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Chân tay y bị ta đánh gãy, thể nào cũng dùng linh dược bản môn là Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao để chữa trị. Lúc này nếu không cướp lấy thì còn lúc nào?". Chàng lên đẩy tung cửa sổ, tung mình nhảy vào, một người đứng trong phòng kinh hãi kêu lên, vung chưởng đánh ra. Trương Vô Kỵ giơ tay chộp đầu quyền của y, tay phải điểm luôn vào huyện tê, quay lại nhìn thấy hai người nằm kia chính là gã đầu hói "A Nhị" và Bát Tí Thần Kiếm Phương Đông Bạch. Còn người bị chàng điểm huyệt mặc trường bào vải xanh, tay còn cầm hai cái kim chắc là đang châm cứu cho ba người đỡ đau. Trên bàn để một cái bình màu đen, cạnh bình có mấy khối ngải cứu.

Trương Vô Kỵ cầm cái bình lên, mở nút ra ngửi, thấy một mùi cay nồng, cực kỳ hăng xông vào mũi. "A Tam" kêu lên:

- Có người đến cướp thuốc...

Trương Vô Kỵ ngón tay nhanh như gió điểm luôn á huyệt của cả ba người, mở băng của "A Tam" ra coi, quả nhiên tay chân y đều một màu đen, phủ một lớp cao mỏng. Chàng e ngại Triệu Mẫn ngụy kế đa đoan, cố ý để thuốc giả trong bình, để dụ cho mình tới nên vét tất cả thuốc cao trên người "A Tam" lẫn gã đầu hói "A Nhị" vào băng vải, thì dù thuốc trong bình có thể giả nhưng thuốc từ ngay vết thương của họ hẳn không thể nào giả được. Người canh gác bên ngoài nghe tiếng, đạp cửa xông vào. Trương Vô Kỵ không thèm nhìn đến họ, giơ chân đá mỗi người một cái văng cả ra ngoài. Chỉ trong giây lát, người trong khách điếm kêu la om xòm, náo loạn cả lên.

Trương Vô Kỵ liên tiếp đá sáu người mới vét được một nửa số thuốc cao trét trên người "A Tam" và lão hói đầu "A Nhị", nghĩ thầm nếu mình dây dưa thêm, để cho Huyền Minh nhị lão xông ra thì thật là khó khăn, nên bỏ ngay cái bình thuốc và cuốn băng vào túi, nhắc gã thầy thuốc lên ném luôn ra ngoài cửa sổ.

Không ngoài dự liệu của chàng, chỉ nghe bình một tiếng thật lớn, gã thầy thuốc kia đã bị đánh trúng một chưởng lăn quay ra đất, ngoài cửa sổ quả có cao thủ mai phục tập kích. Trương Vô Kỵ lợi dụng ngay giây phút đó, phi thân ra ngoài, trong bóng đêm ánh sáng lấp loáng, hai món binh khí đã đâm tới. Chàng tay trái kéo, tay phải đẩy, thi triển Càn Khôn Đại Na Di, kiếm bên trái liền đâm trúng người bên phải còn ngọn giáo bên phải đâm ngay vào người bên trái, đang lộn xộn thì chàng đã chạy xa rồi.

Chàng trên đường về cảm thấy vui vẻ, tuy chuyến đi chưa tìm ra được chân tướng Triệu Mẫn nhưng lấy được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thì dù gì vẫn hơn. Chàng lập tức chạy về núi Võ Đương, nhờ Hồng Thủy Kỳ cho người đến Cốc Thành, báo cho bọn Dương Tiêu quay trở lại. Trương Tam Phong và những người khác nghe tin đã lấy được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao đều hết sức vui mừng.

Trương Vô Kỵ xem xét kỹ thuốc cao bôi trên người "A Tam" rồi so sánh với thuốc cao trong bình, quả đúng là cùng một thứ. Cái bình đó là một khối ngọc lớn tạc thành, đen nhánh như sơn, cầm trên tay thấy âm ấm trông có vẻ cổ kính. Riêng cái bình đó không thôi cũng là một bảo vật quí giá rồi. Chàng không còn hoài nghi gì nữa, sai người khiêng Ân Lê Đình và Du Đại Nham vào phòng riêng, để hai chiếc giường song song.

Dương Bất Hối đi theo vào, nàng không dám nhìn thẳng vào mặt Vô Kỵ nhưng trên mặt đầy vẻ rạng rỡ, trong lòng cực kỳ cảm kích, đủ thấy Trương Vô Kỵ đưa nàng sang Tây Vực, uống thay nàng ly rượu độc ở nhà Hà Thái Xung, bao nhiêu ân tình đó cũng không bằng được việc chàng trị bệnh cho Ân Lê Đình.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tam sư bá, các vết thương cũ của sư bá nay đã lành rồi, muốn chữa bệnh thì điệt nhi phải đánh gãy các khớp xương rồi nối lại, chỉ mong sư bá cố chịu cái đau nhất thời này.

Du Đại Nham chẳng tin là mình đã tàn phế hai mươi năm nay lại có thể chữa lành, nhưng cùng lắm có không khỏi thì cũng đến như bây giờ thôi, trong hai mươi năm qua ông chẳng còn coi chuyện gì vào đâu nữa nên nghĩ thầm: "Vô Kỵ tận tâm kiệt lực, muốn đền đáp cái lỗi lầm của cha mẹ, không làm thì suốt đời không yên tâm. Cái đau nhất thời của ta, nào có đáng gì?".

Ông không nói thêm, chỉ mỉm cười đáp:

- Cháu cứ tùy ý mà làm, không sao.

Trương Vô Kỵ bảo Dương Bất Hối ra ngoài, cởi hết y phục Du Đại Nham ra, lấy tay mò các chỗ xương gãy cho thật kỹ càng, sau đó điểm huyệt cho ông mê đi, vận kình lên mười ngón tay, nghe cắc cắc cắc liên thanh bất tuyệt, đánh gãy lại các chỗ xương cũ nay đã liền. Du Đại Nham tuy huyệt đạo bị điểm nhưng đau đến nỗi tỉnh lại. Trương Vô Kỵ thủ pháp nhanh như gió, xương lớn xương nhỏ gì cũng đánh gãy hết, sau đó nối lại tất cả các bộ vị, bôi Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao lên rồi bó lại, ghép thêm giá gỗ bên ngoài, sau đó mới châm kim cho bớt đau.

Chữa cho Ân Lê Đình thì dễ dàng hơn nhiều, các xương gãy khi còn ở Tây Vực chàng đã nắn lại cho thẳng cả, lúc này chỉ cần bôi Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao là đủ. Xong xuôi, chàng sai chính phó kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ luân phiên canh gác, đề phòng địch nhân kéo đến quấy nhiễu.

Quá trưa hôm đó, ăn cơm xong, Trương Vô Kỵ nằm trong vân phòng ngủ một lát lấy lại sức cho đêm qua chạy đôn chạy đáo, đang mơ màng nghe tiếng người đi tới trước cửa, liền tỉnh ngay dậy. Tiểu Siêu ở bên ngoài canh hỏi nhỏ:

- Chuyện gì thế? Giáo chủ đang ngủ.

Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên nói nhỏ:

- Ân lục hiệp đau đến bất tỉnh ba lần, không biết giáo chủ...

Trương Vô Kỵ không đợi y nói hết câu, nhỏm dậy chạy ra, rảo bước đến phòng Du Đại Nham, thấy Ân Lê Đình hai mắt trợn ngược, đã bất tỉnh rồi. Dương Bất Hối hoảng đến hai mắt đẫm lệ, không biết phải làm sao. Nằm bên cạnh Du Đại Nham nghiến răng kêu ken két, hiển nhiên đang cố nhịn đau, chỉ vì tính ông kiên cường, không để lọt ra tiếng rên rỉ nào.

Trương Vô Kỵ thấy tình hình đó, cực kỳ lạ lùng, tại các huyệt Thừa Khấp, Thái Dương, Đàn Trung... của Ân Lê Đình nắn bóp mấy cái, cứu ông ta tỉnh lại, quay sang hỏi Du Đại Nham:

- Tam sư bá, các chỗ xương gãy đau lắm sao?

Du Đại Nham đáp:

- Chỗ xương gãy đau thì đã đành, có điều lục phủ ngũ tạng ngứa ngáy chịu không nổi... tưởng như, tưởng như có muôn ngàn con côn trùng đang đục khoét.

Trương Vô Kỵ kinh hãi không đâu cho hết, nghe Du Đại Nham nói, rõ ràng là trúng chất kịch độc, vội hỏi Ân Lê Đình:

- Lục thúc, chú thấy sao?

Ân Lê Đình nửa mê nửa tỉnh đáp:

- Đỏ có, tím có, xanh có, lục có, vàng có, trắng có, lam có... đẹp ơi là đẹp, biết bao nhiêu là bong bóng bay vòng vòng, chạy qua chạy lại... thật là dễ ưa... ngươi xem... ngươi xem...

Trương Vô Kỵ "Ối chà" một tiếng, tưởng như muốn ngất ngay tại chỗ. Chàng nghĩ ngay đến trong Độc Kinh của Vương Nạn Cô có chép:

Thất trùng thất hoa cao, dùng bảy loại độc trùng, bảy loại độc hoa, đem trộn lẫn nấu với nhau mà làm thành, người trùng độc trước thấy nội tạng ngứa ngáy như bảy loại trùng đang cắn xé, sau đó trước mắt thấy hiện lên bảy màu, đẹp đẽ huyễn ảo, như bảy loại hoa bay chập chờn. Thất trùng thất hoa cao dùng bảy loại trùng, bảy loại hoa tùy theo mỗi người một khác, nam bắc cũng chẳng giống nhau. Tối linh nghiệm thần hiệu có bốn mươi chín cách phối chế khác nhau, biến hóa ra sáu mươi ba phương thuốc. Chỉ có người chế thuốc giải được thôi.

Mồ hôi trán Trương Vô Kỵ vã ra như tắm, không ngờ lại trúng kế Triệu Mẫn. Nàng ta cố ý để thất trùng thất hoa cao trong bình ngọc đen, lại bôi thứ thuốc kịch độc đó lên người "A Tam" và "A Nhị", không coi tính mệnh của hai cao thủ đó vào đâu cốt sao dụ được mình vào tròng, tâm địa độc ác đến thế, không ai có thể tưởng tượng nổi.

Chàng hối hận quá, vội vàng hành động thật nhanh, cởi hết các giá gỗ buộc trên hai người, dùng rượu trắng rửa sạch chất cao độc. Dương Bất Hối thấy chàng mặt mày nghiêm trọng, biết rằng việc chẳng lành, nên cũng không còn hiềm kỵ gì nữa, giúp chàng dùng rượu rửa sạch tứ chi Ân Lê Đình. Thế nhưng màu đen đã thấm vào da thịt, rửa không ra, chẳng khác nào thợ sơn dính sơn vào tay, không dễ gì một ngày một buổi mà sạch được.

Trương Vô Kỵ không dám dùng thuốc một cách khinh suất, chỉ lấy các loại trấn thống an thần cho hai người uống. Chàng đi ra phòng ngoài, vừa hốt hoảng, vừa xấu hổ, không còn bụng dạ nào nữa hai đầu gối mềm nhũn ra, nằm phục xuống đất khóc òa lên. Dương Bất Hối kinh hãi, chỉ biết kêu lên:

- Vô Kỵ ca ca, Vô Kỵ ca ca.

Trương Vô Kỵ nức nở:

- Chính tay ta giết Tam sư bá và Lục sư thúc rồi.

Chàng trong bụng thầm tính toán: " Loại thất trùng thất hoa cao này có hàng trăm cách phối chế khác nhau, ai biết cô ta dùng bảy loại hoa nào, bảy loại trùng nào? Muốn hóa giải chất kịch độc toàn do phương pháp dĩ độc công độc, chỉ cần sai một loại độc trùng độc hoa, dùng thuốc lỡ tay, lập tức tam sư bá và lục sư thúc chết ngay".

Trong giây phút đó, chàng hiểu ngay vì sao cha mình lại tự vẫn, cái sai lầm to lớn không cứu vãn được, ngoài việc lấy cái chết để tạ tội ra, thật chẳng còn cách nào khác. Chàng uể oải đứng lên, Dương Bất Hối liền hỏi:

- Quả không có thứ thuốc nào chữa được ư? Ngay cả miễn cưỡng làm thử cũng không được à?

Trương Vô Kỵ chỉ biết lắc đầu. Dương Bất Hối thở dài:

- Thôi được.

Thần sắc nàng thản nhiên, không còn vẻ gì kinh hoảng nữa. Trương Vô Kỵ trong lòng nhói lên, nhớ đến hôm trước nàng có nói: "Nếu như ông ấy không sống được, thì em cũng chẳng thiết sống nữa" nghĩ thầm: "Lần này ta đâu phải chỉ làm chết hai người, hai mà thành ba". Trong lòng chàng còn đang nặng như chì, bỗng thấy Ngô Kình Thảo đến trước cửa bẩm:

- Giáo chủ, cô nương họ Triệu kia đang ở ngoài đạo quan xin được gặp.

Trương Vô Kỵ vừa nghe thế, bi phẫn không sao kìm được, kêu lên:

- Ta đang muốn đi kiếm cô nàng đây.

Chàng rút nganh thanh trường kiếm Dương Bất Hối đeo ở ngang hông rảo bước đi ra. Tiểu Siêu lấy chiếc hoa ngọc trai trên đầu đưa cho Trương Vô Kỵ:

- Công tử, công tử đem trả lại cho Triệu cô nương.

Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn nàng, nghĩ thầm: "Cô này thật là có ý tứ. Ta và cô nương họ Triệu kia thù sâu như bể, ta chẳng nên giữ của nàng ta cái gì". Chàng một tay cầm kiếm, một tay cầm hoa, đi ra ngoài cửa đạo quan.

Chỉ thấy Triệu Mẫn một mình đứng đó, vẻ mặt tươi cười. Khi đó mặt trời buổi chiều đỏ rực như máu, chiếu xiên xiên lên mặt nàng, trông xinh đẹp không gì sánh kịp. Huyền Minh nhị lão đứng ở sau lưng nàng cách chừng hơn mười trượng. Hai người cầm ba con ngựa, mắt nhìn đi đâu đâu.

Trương Vô Kỵ chuyển mình một cái đã đến ngay trước mặt Triệu Mẫn, tay trái thò ra nắm được ngay hai cổ tay nàng, tay phải để mũi kiếm vào ngực, quát lên:

- Mau đem giải dược ra cho ta.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Anh đã hiếp đáp tôi một lần, lần này lại định bức bách nữa hay sao? Tôi lên đây là để hỏi thăm anh, vậy mà mặt mày hầm hầm, sao gọi là đạo đãi khách được?

Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi cần giải dược, nếu cô không đưa ra, tôi... tôi không muốn sống nữa, cô cũng chết theo.

Triệu Mẫn mặt hơi đỏ lên, xì một tiếng nói nhỏ:

- Hứ, nói chẳng đâu vào đâu. Anh chết kệ anh, có liên quan gì đến tôi, tại sao lại phải bắt tôi chết theo là sao?

Trương Vô Kỵ sẵng giọng:

- Ai hơi đâu mà nói đùa với cô? Cô không cho giải dược thì hôm nay là ngày cả tôi lẫn cô đều chết hết.

Hai tay Triệu Mẫn bị chàng nắm chặt, chỉ thấy người Trương Vô Kỵ run bần bật, khích động không để đâu cho hết, lại thấy trong lòng bàn tay chàng có vật gì cưng cứng, bèn hỏi:

- Trong tay anh cầm cái gì thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đó là châu hoa của cô, trả lại cô đó.

Chàng buông tay, cầm đóa hoa cắm lại trên đầu nàng, rồi lại vòng xuống chộp ngay lấy hai cổ tay, vừa buông vừa nắm, thủ pháp nhanh như ánh chớp. Triệu Mẫn nói:

- Cái đó tôi tặng cho anh, sao anh lại không lấy?

Trương Vô Kỵ hậm hực đáp:

- Cô làm tôi khổ đến thế, tôi không lấy gì của cô nữa đâu.

Triệu Mẫn nói:

- Có thật anh không lấy gì của tôi không? Nói thật hay đùa đấy? Thế sao vừa mở miệng anh đã đòi tôi đưa anh thuốc giải là sao?

Trương Vô Kỵ mỗi lần tranh cãi với nàng đều bị lép vế, lúc này cũng ngắc ngứ, nghĩ đến Du Đại Nham, Ân Lê Đình không còn sống được bao lâu, lòng đau như cắt, hai hàng nước mắt rưng rưng tưởng như muốn trào ra. Chàng đã toan mở miệng khẩn cầu, nhưng nghĩ lại Triệu Mẫn ác độc như thế nên chẳng muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt nàng.

Lúc này bọn Dương Tiêu đã nghe tin, kéo nhau ra cửa, thấy Triệu Mẫn đã bị Trương Vô Kỵ bắt giữ, Huyền Minh nhị lão lại đứng tận đằng xa, tưởng như không quan tâm đến, hoặc giả ỷ y chẳng sợ hãi gì. Mọi người liền đứng sang một bên, bình tĩnh đứng xem.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Anh là giáo chủ Minh giáo, võ công chấn động thiên hạ, vậy mà mới gặp khó khăn một chút, đã khóc hu hu như trẻ con. Anh vừa mới khóc, có phải không nào? Rõ thật không biết xấu hổ. Để tôi nói đây, anh bị trúng hai chưởng của Huyền Minh nhị lão, tôi đến thăm anh thương thế ra sao. Ngờ đâu vừa mới gặp mặt anh đã xí xa xí xô gì sống sống, chết chết là sao? Anh có bỏ tay ra không thì bảo?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm, dù nàng có muốn chạy trốn cũng không thể nào kịp, chỉ cần chân cô ta vừa động mình sẽ bắt lại ngay nên buông tay Triệu Mẫn ra. Triệu Mẫn giơ tay nắn lại bông hoa trên mái tóc, mỉm cười:

- Sao xem như anh không bị thương chút nào cả?

Trương Vô Kỵ lạnh lùng đáp:

- Chỉ bằng Huyền Minh thần chưởng dễ gì đả thương được người ta.

Triệu Mẫn nói:

- Thế còn Đại Lực Kim Cương Chỉ? Thất trùng thất hoa cao?

Hai câu đó chẳng khác nào hai cái búa giáng vào ngực Trương Vô Kỵ, chàng hậm hực đáp:

- Quả nhiên đúng là thất trùng thất hoa cao.

Triệu Mẫn nghiêm mặt nói:

- Trương giáo chủ, công tử muốn lấy Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao tôi cũng đưa. Giáo chủ muốn lấy giải dược của thất trùng thất hoa cao tôi cũng tặng. Chỉ cần công tử bằng lòng làm cho tôi ba chuyện, tôi sẽ lập tức bưng hai tay dâng lên. Còn nếu anh lấy sức uy hiếp tôi, giết tôi thì dễ, còn muốn thuốc giải đã khó càng khó thêm. Anh lại giở ác hình tra khảo tôi, tôi sẽ chỉ cho anh thuốc giả, thuốc độc.

Trương Vô Kỵ mừng quá, nước mắt đang chực trào ra, mặt lập tức tươi rói, vội vàng nói:

- Ba chuyện gì? Nói ngay, nói ngay.

Triệu Mẫn mỉm cười:

- Mới khóc lại cười, thật không biết xấu. Tôi đã nói với anh rồi, tôi chưa nghĩ ra, bao giờ tôi nghĩ ra được lúc đó sẽ nói với anh, chỉ cần anh kim khẩu một lời, quyết không vi ước là xong. Tôi không bắt anh đi hái mặt trăng trên trời, cũng chẳng đòi anh làm chuyện ác vi phạm đạo hiệp nghĩa, cũng chẳng bảo anh tự tử, dĩ nhiên cũng chẳng bảo anh làm heo làm chó.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Chỉ cần không vi phạm đạo hiệp nghĩa, thì dù có khó khăn đến mực nào, ta cũng kiệt lực mà làm cho được". Chàng bèn khẳng khái đáp:

- - Triệu cô nương, nếu được cô nương huệ tứ linh dược để tại hạ trị khỏi cho tam sư bá và lục sư thúc, dù cho cô nương sai bảo điều gì, dẫu phải dầu sôi lửa bỏng Trương Vô Kỵ này cũng nguyện mặc tình sai khiến quyết không từ nan.

Triệu Mẫn giơ bàn tay ra nói:

- Hay lắm, vậy mình đập tay ăn thề. Tôi sẽ đưa giải dược cho công tử để trị cho tam sư bá và lục sư thúc, sau này tôi đòi công tử làm cho ta ba chuyện, chỉ cần không vi phạm đạo hiệp nghĩa, công tử phải hết sức làm, không được từ chối đấy nhé.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Xin quyết tuân theo lời vàng ngọc của cô nương.

Hai người nhè nhẹ đập tay ba lần. Triệu Mẫn lấy chiếc hoa trên mái tóc nói:

- Thế bây giờ anh đã chịu lấy đồ của tôi tặng cho chưa?

Trương Vô Kỵ sợ nàng không đưa giải dược, không dám trái ý, vội cầm lấy bông châu hoa. Triệu Mẫn nói:

- Nhưng tôi không muốn anh đem cho con a hoàn đâu nhé.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Vâng.

Triệu Mẫn mỉm cười lui lại ba bước, nói:

- Giải dược sẽ đem đến ngay, xin từ biệt Trương giáo chủ.

Nàng phất tay áo, quay mình đi. Huyền Minh nhị lão liền dắt ngựa lại, đỡ nàng lên yên đi trước. Tiếng chân ba con ngựa lộp cộp lộp cộp, thủng thẳng xuống núi.

Bọn Triệu Mẫn ba người vừa khuất sau một triền núi, bên tàn cây lớn phía trái liền nhô ra một người, chính là Tiền Nhị Bại trong thần tiễn bát hùng. Y tay cầm thiết cung, giương tên lớn tiếng nói:

- Chủ nhân chúng tôi trình lên Trương giáo chủ một phong thư, kính xin nhận lấy.

Nói xong nghe soẹt một tiếng đã bắn mũi tên ra. Trương Vô Kỵ khua tay một cái, chộp ngay được mũi tên, thấy mũi không có đầu sắt, đuôi buộc một phong thư. Trương Vô Kỵ cởi ra xem thấy trên phong bì đề: "Trương giáo chủ thân khải". Chàng mở thư thấy có một bức hoa tiên, trên viết mấy dòng theo lối tiểu khải như sau:

Hộp vàng ấy hai tầng vốn sẵn,

Linh cao kia nằm ẩn bên trong.

Châu hoa ở giữa trống không,

Dược phương dấu đó để phòng cần đưa.

Hai món sớm tặng người quân tử,

Sao lại còn đôn đáo làm chi?

Vật hèn tuy chẳng đáng gì,

Đem lòng rẻ rúng coi như đất bùn.

Dẫu sao cũng từ tay tiện thiếp,

Nỡ lòng nào chàng lại coi khinh?

Tặng cho người ở kẻ ăn,

Hóa ra phụ tấm chân tình này sao?[3]

Trương Vô Kỵ đọc kỹ ba lần tờ thư, vừa mừng vừa sợ, lại thêm sượng sùng, vội lấy đóa châu hoa ra coi, vặn thử quả nhiên một viên ngọc trai có thể chuyển động, chàng liền tháo ra thấy cán hoa rỗng không trong có chứa một vật gì trăng trắng. Trương Vô Kỵ lấy trong bọc ra một chiếc kim vẫn dùng để châm huyệt đạo, khều vật đó ra, quả nhiên là một tờ giấy mỏng dính, trên đó ghi rõ bảy loại độc trùng nào và bảy loại hoa nào, người trúng độc giải cứu ra sao, từng loại từng loại thật minh bạch.

Thực ra chàng chỉ cần biết được các tên của bảy loại hoa, bảy loại trùng kia là biết cách chữa, không cần phải ai chỉ điểm. Chàng xem giải pháp hoàn toàn không có gì sai sẩy, biết Triệu Mẫn không có ý phá mình nữa, thực là mừng rỡ, chạy ngay vào nội viện, theo đúng đó mà phối chế thuốc men cứu chữa. Quả nhiên chỉ hơn một giờ sau, độc thế của Du Ân hai người nhẹ hẳn, trong người không còn ngứa ngáy nữa, mắt cũng không còn bị hoa.

Chàng lại lấy cái hộp vàng dùng để đựng bông hoa hạt châu của Triệu Mẫn tặng ra xem kỹ, sau cùng mở được hai tầng giáp nhau ra, bên trong quả đựng đầy thuốc cao đen nhánh, mùi thật thơm tho, mát dịu.

Lần này chàng không dám bộp chộp, bắt một con chó, bẻ gãy một bên chân sau, bôi thử cao lên vết thương, đợi đến sáng hôm sau, con chó vẫn tỉnh táo nhanh nhẹn, không có vẻ gì là trúng độc, chỗ vết thương đã thấy khá hơn nhiều.

Qua ngày thứ ba, chất độc trong người hai vị Du Ân đã hoàn toàn trừ hết, Trương Vô Kỵ liền đem Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thật bôi lên tứ chi hai người. Lần này không chuyện gì xảy ra, Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao quả nhiên công hiệu như thần, chỉ hai tháng sau, hai tay của Ân Lê Đình đã hoạt động lại, xem ra sau này không những tay chân cử động bình thường mà võ công cũng không mất mát lắm. Chỉ có Du Đại Nham tàn phế lâu năm, muốn được như xưa thì thật khó, nhưng xem tình hình hồi phục của ông ta, chỉ sáu tháng thôi, có thể dùng nạng cặp vào nách thay chân bước đi chầm chậm được rồi, tuy vẫn còn tàn phế nhưng không còn là một người nằm ỳ một chỗ không động đậy được gì như trước.

Trương Vô Kỵ ở lại trên núi Võ Đương lâu như thế, những người của Ngũ Hành Kỳ cử đi các phái trước sau đã quay trở về, đem toàn những tin tức khiến ai nấy đều kinh ngạc. Toàn bộ nhân chúng các phái Nga Mi, Hoa Sơn, Không Động, Côn Lôn viễn chinh Quang Minh Đính, không một người nào trở về cả. Trên giang hồ thì thầm đồn đãi, ai cũng bảo rằng Minh giáo người nhiều thế mạnh, đã tiêu diệt toàn bộ các cao thủ đi Tây Vực rồi, nay đang chia ra đi đánh các phái. Các tăng nhân phái Thiếu Lâm đột nhiên thất tung đã đem tới một trận phong ba không tiền khoáng hậu trong võ lâm. Cũng may các phó sứ Ngũ Hành Kỳ lần này đi ai cũng mang theo tín phù của Trương Tam Phong, lại không tiết lộ thân phận mình, nếu không chắc cũng đã bị đánh cho một trận tơi bời. Cũng theo các chưởng kỳ phó sứ, hiện nay các môn phái, bang hội, đến cả các tiêu hãng, sơn trại, thuyền bang, bến đò bãi nước đều đâu đâu cũng nghiêm mật canh phòng sợ Minh giáo bất ngờ đến đánh.

Thêm vài ngày nữa, cha con Ân Thiên Chính và Ân Dã Vương cũng quay về núi Võ Đương, cho hay Thiên Ưng Kỳ đã hoàn toàn chỉnh đốn, tất cả đều qui thuộc Minh giáo. Hai người cũng cho hay phía đông nam quần hùng đang nổi lên, những người phản Nguyên chỗ này xuống thì chỗ khác lại lên, thiên hạ đã thành đại loạn. Thời đó quân Nguyên còn rất mạnh, nơi nào cũng chỉ một mình chiến đấu, không ai liên lạc hô ứng với ai thành thử chưa được dân chúng hưởng ứng đã bị tiêu diệt.

Buổi chiều hôm đó, Trương Tam Phong cho dọn cỗ chay ở hậu điện ca ngợi tin tức của cha con Ân Thiên Chính. Trên bàn, Ân Thiên Chính phân tích nguyên nhân thất bại của các nơi, nơi nào cũng có người của Minh giáo và Thiên Ưng giáo tham gia, bị quân Nguyên hoặc bắt bớ, hoặc tàn sát số người tuẫn nạn thật là đông. Quần hào nghe thế không ai là không ngậm ngùi.

Dương Tiêu nói:

- Trăm họ khổ sở đã nhiều, ai ai cũng trong đợi có sự thay đổi, chính là lúc thuận tiện để đuổi quân Thát tử, lấy lại giang sơn. Năm xưa Dương giáo chủ còn tại thế, ngày đêm nghĩ chuyện hưng phục, có điều bản giáo xưa nay hành sự lệch lạc, hơn trăm năm qua gây oán chuốc thù vớ võ lâm Trung Nguyên, thành ra khó mà cùng nhau nắm tay giết giặc. Thế nhưng trời thương đưa Trương giáo chủ lên coi sóc giáo vụ, oán thù với các phái tạm cởi phần nào, chính là thời cơ đồng tâm hiệp lực, cùng nhau chống lại Hồ Lỗ.

Chu Điên nói:

- Dương tả sứ, lời của ông nghe ra thì không sai. Có điều chỉ là nói chơi cho vui, cũng thật tào lao cán cuốc.

Dương Tiêu nghe rồi không nổi giận, chỉ nói:

- Vậy xin được Chu huynh chỉ giáo.

Chu Điên nói:

- Trên giang hồ ai cũng đồn là Minh giáo chúng ta giết sạch cao thủ các môn phái, chỉ nghe hai chữ "Minh giáo" là người ta đã giận thấu xương, lấy gì mà "đồng tâm hiệp lực, khu trừ Hồ Lỗ" cho được? Nói ra thì nghe hay lắm, nhưng làm sao mà thực hành?

Dương Tiêu nói:

- Chúng mình tuy bị mang tiếng xấu, nhưng thực ra mình sáng như ban ngày, huống chi lại có Trương chân nhân minh chứng điều đó.

Chu Điên cười nói:

- Nếu quả như mình có giết bọn Tống Viễn Kiều, Diệt Tuyệt lão ni, Hà Thái Xung thì Trương chân nhân cũng bị đánh lừa luôn, lấy gì mà làm chứng cho được?

Thiết Quan đạo nhân quát lên:

- Chu Điên, trước mặt Trương chân nhân và giáo chủ, không được nói lếu nói láo.

Chu Điên le lưỡi nhưng không nói gì thêm. Bành Oánh Ngọc nói:

- Lời của Chu huynh cũng không phải là hoàn toàn vô lý. Cứ như ý của bần tăng, chúng ta nên triệu tập một đại hội Minh giáo các thủ lãnh khắp nơi, nói rõ ý của Trương giáo chủ muốn thân thiện với các môn phái. Ngoài ra nhiều người sự việc cũng rõ ràng hơn, để xem Tống đại hiệp, Diệt Tuyệt sư thái các người ở đâu, trong đại hội cũng có thể tra cứu được.

Chu Điên nói:

- Muốn biết tung tích Tống đại hiệp thật là quá dễ, có thể nói là như thổi tro trong bếp.

Mọi người nhao nhao hỏi:

- Sao thế? Sao không nói sớm?

Chu Điên dương dương đắc ý, uống một chén rượu nói:

- Chỉ cần giáo chủ lại hỏi Triệu cô nương một câu, ít ra mười phần cũng biết được đến chín. Tôi dám nói là những người đó không bị cô ta giết thì cũng bị cô ta bắt rồi.

Hơn hai tháng qua, Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc cả bọn chia nhau ra xuống núi dò tìm tông tích, lai lịch Triệu Mẫn, nhưng từ sau hôm nàng đến cửa quan cùng Trương Vô Kỵ đập tay thề thốt đến nay, không biết cả bọn họ đi đâu mất tăm, ngay những thủ hạ đông đảo thế mà cũng không tìm đâu ra một chút dấu vết nào. Quần hào ai nấy suy tính, tin chắc bọn họ thể nào cũng có liên quan đến triều đình, nhưng ngoài điều đó ra vẫn không thấy thêm đầu dây mối nhợ khác. Bây giờ lại nghe Chu Điên nói, ai nấy liền cự ngay:

- Ngươi nói mới thật là tào lao. Nếu như tìm ra được cô gái họ Triệu kia, chẳng lẽ bọn ta không biết dò hỏi chắc?

Chu Điên cười:

- Các ngươi tìm không ra là phải, ai mà chẳng biết. Thế nhưng giáo chủ còn nợ cô ta ba chuyện chưa làm, không lẽ một người ghê gớm như cô ta lại bỏ qua không hỏi đến? Ha ha, cô gái đó thật là nguyệt thẹn hoa nhường, thế mà mỗi lần nghĩ đến cô ta là Chu mỗ lại dựng tóc gáy, sợ muốn chết.

Mọi người nghe y pha trò đều cười ồ lên, nhưng nghĩ lại thì quả là đúng thế. Trương Vô Kỵ thở dài:

- Ta cũng chỉ mong cô ta ra ba nạn đề để hết sức làm cho xong món nợ, khỏi phải ngày đêm khắc khoải, không biết cô ta còn giở trò gì quái đản nữa không. Bành đại sư vừa đưa ý kiến bản giáo triệu tập thủ lãnh các nơi, việc này xem ra nên lắm, các vị có ý gì không?

Quần hào đều đáp:

- Nên lắm. Mình ở trên núi Võ Đương ngồi không cũng chẳng làm được việc gì.

Dương Tiêu nói:

- Giáo chủ nghĩ xem mình nên tập họp ở đâu cho phải?

Trương Vô Kỵ suy nghĩ một hồi, nói:

- Bản nhân hôm nay đảm nhiệm chức vị giáo chủ, vẫn thường nghĩ đến ân tình của hai vị trong bản giáo. Người thứ nhất là Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu tiên sinh, lão nhân gia nay đã chết vì tay Kim Hoa bà bà. Người kia là Thường Ngộ Xuân đại ca, không biết lúc này đang ở nơi đâu. Tôi nghĩ đại hội kỳ này nên cử hành tại Hồ Điệp Cốc ở Hoài Bắc.

Chu Điên vỗ tay nói:

- Hay lắm, hay lắm. Cái lão Kiến Tử Bất Cứu năm xưa tôi vẫn hay cãi nhau với hắn, cũng không đến nỗi tệ hại, chỉ phải cái tính khí thất thường, so với Dương tả sứ thì cũng cá mè một lứa. Y thấy chết không cứu, thành ra lúc y chết cũng chẳng ai cứu cho, đúng là báo ứng. Chu Điên này cũng muốn đến trước mộ y rập đầu vài cái.

Quần hào không ai còn ý gì khác, qui định hơn ba tháng nữa nhằm tháng tám Trung Thu, tất cả các thủ lãnh của Minh giáo cùng đến nơi nhà cũ của Hồ Thanh Ngưu ở Hồ Điệp Cốc tại Hoài Bắc tụ hội.

Sáng sớm hôm sau, các cấp của Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng Kỳ chia nhau ra đi từ núi Võ Đương truyền hiệu lệnh của giáo chủ:

Các lộ giáo chúng, từ hương chủ trở lên hãy giao lại giáo vụ cho người phụ tá đảm trách, đến Hồ Điệp Cốc tại Hoài Bắc trước ngày Trung Thu tháng tám để tham kiến tân giáo chủ.

Từ nay đến ngày Trung Thu còn xa, Trương Vô Kỵ thấy Du Đại Nham và Ân Lê Đình bệnh tình chưa khỏi hẳn, sợ thương thế nếu như trở lại thì thật phí bao công phu, nên tạm ở lại núi Võ Đương lo lắng cho hai vị Du Ân, khi rảnh rỗi thì học hỏi Trương Tam Phong thêm về Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm. Vi Nhất Tiếu, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc thì đi du hành các nơi, thám thính tung tích của Triệu Mẫn.

Dương Tiêu theo lệnh giáo chủ ở lại núi Võ Đương, thế nhưng vì chuyện Kỷ Hiểu Phù, đối với Ân Lê Đình có phần bẽ mặt, bình thời chỉ đóng cửa đọc sách, chẳng mấy khi rời khỏi phòng một bước. Cứ thế đến hơn hai tháng, một buổi chiều, Trương Vô Kỵ đến gặp Dương Tiêu bàn về những việc cần phải truyền xuống các giáo chúng trong đại hội sắp tới tại Hồ Điệp Cốc. Chàng tuổi trẻ, kiến thức nông cạn, bỗng dưng phải đảm trách trọng nhiệm, thường vẫn lo ngay ngáy, chỉ sợ thất thố làm hư đại sự. Dương Tiêu thông hiểu giáo vụ nên Trương Vô Kỵ giữ lại bên cạnh, có việc gì thì hỏi.

Hai người nói chuyện một lát, Trương Vô Kỵ thuận tay cầm một cuốn sách trên bàn của Dương Tiêu lên, thấy trên bìa có viết bảy chữ tựa đề "Minh Giáo Lưu Truyền Trung Thổ Ký", bên dưới có một hàng chữ nhỏ "Đệ Tử Quang Minh Tả Sứ Dương Tiêu cung soạn". Trương Vô Kỵ nói:

- Dương tả sứ, ông văn võ toàn tài, thật là rường cột của bản giáo.

Dương Tiêu chắp tay:

- Đa tạ giáo chủ khen ngợi.

Trương Vô Kỵ mở sách ra, thấy viết bằng chữ nhỏ theo lối khải, mọi việc đều dẫn chứng sách vở rõ ràng. Trong sách kể lại minh bạch, Minh giáo nguyên từ nước Ba Tư, tên thật là Ma Ni giáo, truyền vào Trung thổ từ Diên Tải nguyên niên, đời Đường Võ Hậu. Thời đó người Ba Tư tên là Phí Đa Diên mang bộ Tam Tông Kinh của Minh giáo đến triều, là lần đầu tiên người Trung Quốc biết đến bộ kinh này. Ngày hai mươi chín tháng sáu năm thứ ba đời Đại Lịch nhà Đường, chùa Minh giáo Đại Vân Quang Minh được xây cất tại Lạc Dương, Trường An. Sau đó tại các thị trấn lớn như Thái Nguyên, Kinh Châu, Dương Châu, Hồng Châu, Việt Châu cũng đều có Đại Vân Quang Minh tự. Tới năm Hội Xương thứ ba, triều đình ra lệnh giết giáo đồ, thế lực Minh giáo đại suy. Từ đó về sau, Minh giáo trở thành một tôn giáo bí mật, phạm cấm, đời nào cũng bị quan phủ truy lùng giết chóc. Để có thể sinh tồn, người trong Minh giáo không thể không hành sự ngụy bí, để rồi chữ Ma trong Ma Ni bị đổi thành Ma, đồng nghĩa với tà ma, người ngoài gọi là ma giáo.[4]

Trương Vô Kỵ đọc đến đoạn này, không khỏi thở dài, nói:

- Dương tả sứ, giáo chỉ của bản giáo nguyên là làm điều thiện, trừ điều ác, cùng với đạo Phật chẳng khác bao nhiêu, vậy mà từ đời Đường đến giờ, đời nào sao cũng bị giết hại thảm họa?

Dương Tiêu nói:

- Người trong Thích đạo tuy nói phổ độ chúng sinh, nhưng tăng chúng xuất gia đều cố giữ thanh tu, không để ý đến chuyện đời. Đạo gia cũng thế. Còn bản giáo tụ tập lương dân, bất luận ai gặp nguy nan khốn khổ thì mọi giáo chúng đều ra tay giúp đỡ. Quan phủ áp bức dân lành, có đời nào ít đâu? Có vùng nào ít đâu? Nếu có người nào bị quan phủ ức hiếp, oan khuất, bản giáo liền đứng ra chống lại.

Trương Vô Kỵ gật đầu:

- Chỉ khi nào triều đình, quan lại không còn áp bức dân lành, thổ hào ác bá không còn hoành hành vô phép tắc, đến lúc ấy bản giáo mới có thể hưng vượng được.

Dương Tiêu vỗ bàn đứng dậy, lớn tiếng nói:

- Lời của giáo chủ quả thật nói lên được tôn chỉ gốc rễ của bản giáo.

Trương Vô Kỵ nói:

- Dương tả sứ, ông xem có một ngày nào được như thế chăng?

Dương Tiêu trầm ngâm một hồi lâu rồi nói:

- Cũng chỉ mong được một ngày như thế. Phương Lạp, Phương giáo chủ của bản giáo đời Tống khởi sự cũng chỉ vì muốn quan lại không áp bức dân lành mà thôi.

Y lật quyển sách chỉ vào đoạn chép về giáo chủ Minh giáo Phương Lạp tại Chiết Đông nổi lên, chấn động thiên hạ. Trương Vô Kỵ đọc xong trầm ngâm, gập sách lại nói:

- Đại trượng phu cố nhiên phải như thế. Tuy Phương giáo chủ tuẫn nạn, thân vong nhưng cũng làm nên một sự nghiệp thật là oanh liệt.

Hai người cùng một lòng, không nói mà nhiệt huyết nổi lên bừng bừng.

Dương Tiêu lại nói:

- Bản giáo đời nào cũng bị nghiêm cấm, thế nhưng thủy chung vẫn đứng được mà không sụp đổ. Năm Thiệu Hưng thứ tư đời Nam Tống có một viên quan tên là Vương Cư Chính gửi lên hoàng đế một đạo tấu chương, nói về việc của bản giáo, giáo chủ có thể xem qua.

Nói rồi lật cuốn sách đến đoạn sao lục tấu chương của Vương Cư Chính. Trương Vô Kỵ đọc thấy trong đó viết như sau:

"Thần thấy hai huyện Chiết Châu có tập tục ăn rau phụng thờ ma vương. Trước đời Phương Lạp, pháp cấm còn lỏng, mà việc tôn thờ ma quỉ chưa đến nỗi mạnh. Phương Lạp chết rồi, pháp cấm càng nghiêm, nhưng việc thờ ma lại càng mạnh không trừ nổi... Thần nghe nói rằng kẻ thờ ma, mỗi làng mỗi xóm có một hai tên kiệt hiệt, gọi là ma đầu, xem hết các tên họ trong thôn, đều có thề thốt gia nhập ma đảng. Kẻ thờ ma không ăn thịt. Một nhà có chuyện gì, tất cả đồng đảng đều đến giúp đỡ. Vì chưng chúng không ăn thịt nên giảm chi tiêu, mà giảm chi tiêu nên dễ đầy đủ. Cùng một đảng nên thân lẫn nhau, thân lẫn nhau nên có chuyện gì dễ giúp nhau ..."

Trương Vô Kỵ đọc đến đây nói:

- Gã Vương Cư Chính này tuy là cừu địch nhưng quả biết rằng giáo chúng trong bản giáo sống tiết kiệm, giản phác, tương thân tương ái.

Chàng lại đọc tiếp đoạn sau của tấu chương:

"... vì thế thần cố theo đạo của tiên vương để làm cho dân tương thân, tương hữu, tương trợ. Cốt sống đạm bạc, dạy dân tiết kiệm, khuyến khích lối sống giản dị. Nay làm kẻ dẫn dắt nhân dân, nên không thể không lấy đó làm cách trị dân. Thế nhưng những ma đầu đã trộm cái cách của triều đình để khuyến dụ dân chúng rồi, nên người người đều ca tụng đạo ma, đi trợ giúp tà thuyết. Dân ngu không biết gì cả, nghe lời ma, thờ đạo ma, dễ đủ ăn, dễ trợ giúp, thành ra những gì ma đầu nói ra đều tin, tất cả đều theo về với chúng. Thành ra pháp cấm càng nghiêm, thì lại càng không thắng được những điều cấm."

Chàng đọc đến đây, quay sang nói với Dương Tiêu:

- Dương tả sứ, cái câu "pháp cấm dũ nghiêm, nhi dũ bất khả thắng cấm" chính là rõ ràng nói lên việc bản giáo được lòng dân chúng. Tả sứ cho tôi mượn bộ sách này để tôi đọc, hiểu thêm công đức, các việc còn dở dang, cùng di huấn của các vị vãng thánh tiên hiền trong bản giáo, được chăng?

Dương Tiêu nói:

- Chính đang mong được giáo chủ chỉ giáo.

Trương Vô Kỵ cầm quyển sách cất đi, nói:

- Du tam bá và Ân lục thúc thương thế đã đỡ nhiều, ngày mai mình lên đường đi Hồ Điệp Cốc. Tôi còn một việc muốn bàn với Dương tả sứ, có liên quan đến em Bất Hối.

Dương Tiêu tưởng chàng mở miệng cầu hôn, trong lòng mừng lắm, nói:

- Tính mạng của Bất Hối toàn do giáo chủ ban cho, cha con thuộc hạ cảm ân đâu phải chỉ mong báo đáp một ngày mà xong. Giáo chủ có điều gì sai bảo cũng xin vui vẻ tuân theo.

Trương Vô Kỵ bèn đem chuyện Dương Bất Hối hôm trước thổ lộ với mình ra kể lại từ đầu chí cuối. Dương Tiêu nghe xong, ngạc nhiên quá đỗi đến thừ người ra, hồi lâu mới nói:

- Tiểu nữ được Ân lục hiệp ghé mắt đến, quả thực là may mắn cho nhà họ Dương biết chừng nào. Có điều hai người tuổi tác chênh lệch, vai vế kẻ thấp người cao, cái đó... cái đó...

Y ấp úng hai câu "cái đó" rồi không nói thêm được nữa. Trương Vô Kỵ nói:

- Ân lục thúc cũng chưa đến bốn mươi, đang tuổi khỏe mạnh. Bất Hối muội tử có gọi ông ta một câu "Ân thúc thúc", nhưng thực ra nào có máu mủ liên quan gì đâu, sư môn hai bên cũng khác. Hai người nếu tình đầu ý hợp, nếu như thành được nhân duyên, cái hiềm khích cũ của đời trước nay hoàn toàn xóa sạch, chính là một mỹ sự rất lớn.

Dương Tiêu vốn dĩ là người khoáng đạt, chỉ vì chuyện của Kỷ Hiểu Phù, mỗi khi gặp Ân Lê Đình không khỏi sượng sùng, nghĩ thầm nếu như Bất Hối lại thương ông ta, kết thành tình thân, thì cũng giải quyết được cái khó xử của mình, từ nay Minh giáo và Võ Đương không còn khúc mắc gì nữa, bèn vái một cái thật sâu nói:

- Giáo chủ ngọc thành chuyện này đủ biết lo lắng cho cha con tôi biết dường nào. Thuộc hạ xin cảm ơn trước.

Tối hôm đó, Trương Vô Kỵ truyền tin đó ra, quần hào lục tục chúc mừng Ân Lê Đình. Dương Bất Hối cả thẹn, ẩn ở trong phòng không ló đầu ra. Trương Tam Phong và Du Đại Nham nghe chuyện đó, lúc đầu cũng hơi kinh ngạc, nhưng lập tức mừng cho Ân Lê Đình. Nói đến hôn kỳ, Ân Lê Đình nói:

- Đợi đại sư ca và anh em về núi rồi, tất cả đoàn tụ, lúc đó hãy tính đến chuyện vui cũng không muộn.

Hôm sau Trương Vô Kỵ cùng Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương, Thiết Quan đạo nhân, Chu Điên, Tiểu Siêu tất cả bọn từ biệt thầy trò Trương Tam Phong, cùng lên đường đi Hoài Bắc.

Dương Bất Hối ở lại núi Võ Đương phục thị Ân Lê Đình. Thời đó chuyện giao tiếp nam nữ tuy nghiêm nhặt nhưng họ đều là người trong võ lâm nên cũng không mấy để ý đến chuyện nhỏ nhặt.

Đoàn người Minh giáo ngày đi đêm nghỉ, theo hướng đông bắc mà đi. Trên đường đâu đâu cũng thấy đất đai hoang phế, dân chúng đói khổ. Miền duyên hải vốn là nơi trù phú màu mỡ, nhưng nay người chết đói đầy đường, dân chúng khốn khó đến cùng cực. Quần hào thương cho nhân dân bị tai kiếp như thế, biết rằng người Mông Cổ tàn ác khốc liệt ắt không còn có thể ở tại trung thổ bao lâu nữa, chính là cơ hội tốt để anh hùng hào kiệt đứng lên chống lại.

Hôm đó đi đến Giới Bài Tập, còn cách Hồ Điệp Cốc không bao xa, đang đi trên đường bỗng nghe tiếng la hét chém giết từ phía trước vọng tới, hai phe nhân mã đang lúc giao tranh. Quần hào giục ngựa chạy lên, qua khỏi một khu rừng rậm, thấy khoảng hơn một nghìn lính Mông Cổ chia thành hai bên đang tấn công một tòa sơn trại. Trên sơn trại phất phới một lá cờ lớn có vẽ hình một ngọn lửa đỏ đang cháy, chính là cờ của Minh giáo. Trong trại nhân số không đông, xem chừng đánh không lại nhưng vẫn cố thủ không chịu thua. Quân Mông Cổ bắn tên như mưa, kêu lớn:

- Bọn phản tặc ma giáo kia, mau mau đầu hàng.

Chu Điên nói:

- Giáo chủ, mình tiến lên chứ?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Phải, mình trước hết tiêu diệt bọn quân quan chỉ huy.

Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương, Chu Điên, Thiết Quan đạo nhân nghe lệnh xông ra, xông thẳng vào quân địch, trường kiếm tung hoành, hai tên bách phu trưởng bị chém ngã trước, kế đến tên thiên phu trưởng chỉ huy đội quân bị Ân Dã Vương một đao giết luôn. Quân Nguyên như rắn mất đầu, lập tức loạn cả lên.

Người trong sơn trại thấy có tiếp viện ở bên ngoài, lớn tiếng reo hò. Cổng trại mở ra, một người đàn ông mặt áo đen cầm trường mâu, xông ra trước tiên, quân Nguyên đều dạt cả ra không ai dám chống đỡ. Chỉ thấy đại hán đó trường mâu lấp loáng một cái là một tên lính Mông Cổ bị đâm chết, rơi ngay xuống ngựa. Quân Nguyên kinh hoảng hô hoán luôn mồm, chạy tứ tán.

Bọn Dương Tiêu thấy thanh niên đó uy phong lẫm lẫm, chẳng khác gì tướng nhà trời, ai nấy đều tấm tắc khen ngợi:

- Quả thực là một tướng quân anh hùng.

Lúc này Trương Vô Kỵ đã nhìn rõ diện mạo viên tướng đó, chính là đại ca Thường Ngộ Xuân, người mà chàng hằng mong nhớ. Chỉ hiềm đang lúc giao tranh, không tiện tiến lên gặp nhau. Người của Minh giáo trước sau giáp công, quân Nguyên chết đến năm sáu trăm người, còn lại không dám ham đánh tiếp, chia nhau ra tìm đường chạy.

Thường Ngộ Xuân cầm ngang ngọn giáo cười lớn, hỏi:

- Anh em ở lộ nào đến tương trợ đó? Thường mỗ thật là cảm kích.

Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Thường đại ca, có nhớ tiểu đệ chăng?

Chàng tung mình chạy lên, nắm chặt lấy tay y. Thường Ngộ Xuân khom lưng phục xuống lạy, nói:

- Giáo chủ huynh đệ, ta tuy là đại ca thực nhưng lại là thuộc hạ của người, quả thực sung sướng không để đâu cho hết.

Thì ra Thường Ngộ Xuân thuộc về Ngũ Hành Kỳ, do Cự Mộc Kỳ cai quản. Việc Trương Vô Kỵ tiếp nhiệm giáo chủ ra sao đã được chưởng kỳ sứ Văn Thương Tùng cho biết rồi. Từ đó đến nay, y cùng anh em dưới quyền ngày ngày trông ngóng Trương Vô Kỵ, không ngờ quân Nguyên lại tiến đến vây đánh. Thường Ngộ Xuân thấy mình thế ít không đánh lại số đông, cố ý làm như khiếp sợ, dụ quân Nguyên vào trại sau đó sẽ xông ra tiêu diệt. Thế nhưng Trương Vô Kỵ và đồng bọn đến tiếp ứng, y liền thừa thế mở cổng xông ra. Y ở trong Minh giáo chức vị không cao, cho nên liền quay sang chào Dương Tiêu, Ân Thiên Chính tất cả mọi người. Quần hào thấy y là anh em kết nghĩa của giáo chủ, không ai dám tỏ vẻ bề trên, chắp tay hỏi thăm, đãi y cực kỳ lễ mạo.

Thường Ngộ Xuân mời tất cả vào trong, giết dê mổ bò, mở một tiệc rượu kể lại hết mọi sự tình. Mấy năm qua Hoài Nam, Hoài Bắc bị hạn hán liên tiếp, dân chúng khổ sở không sao kể xiết. Thường Ngộ Xuân không cách gì sinh nhai, liền tụ tập một số anh em, làm trò lục lâm thảo khấu sống cũng thoải mái. Trong sơn trại lương thực tiền bạc kha khá liền đem ra cứu tế chẩn bần. Quân Nguyên mấy lần tiến đánh đều không làm được gì.

Cả bọn nghỉ lại sơn trại một đêm, hôm sau cùng Thường Ngộ Xuân tất cả đi Hoài Bắc, liệu rằng quân Nguyên mới thua xong, trong vòng một vài tháng chưa thể nào lại tấn công lần nữa.

Vài ngày sau họ đến bên ngoài Hồ Điệp Cốc. Những giáo chúng đến trước nghe tin giáo chủ giá lâm, xếp thành hàng ra khỏi sơn cốc nghênh tiếp. Lúc đó Cự Mộc Kỳ đã ra lệnh cho anh em dưới trướng xây dựng một số nhà lá nhà gỗ trong Hồ Điệp Cốc để cho các lộ giáo chúng có chỗ nghỉ ngơi. Vi Nhất Tiếu, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc đã tới đây từ trước, bẩm rằng chưa tìm ra được tin tức gì về Triệu cô nương cả.

Trương Vô Kỵ tiếp các lộ giáo chúng xong, chuẩn bị tế phẩm, đến mộ vợ chồng Hồ Thanh Ngưu và Kỷ Hiểu Phù thắp hương, nghĩ đến năm xưa lúc ra đi khỏi Hồ Điệp Cốc thê thảm bực nào, còn nay quay trở lại vinh hiển xiết bao, phong quang vô hạn, chẳng khác nào ở một kiếp khác.

Ba ngày sau là đúng ngày rằm tháng tám, trong Hồ Điệp Cốc xây một đài cao, bên trên đốt một ngọn lửa bừng bừng. Trương Vô Kỵ lên đài tuyên bố từ nay xóa bỏ hết các tị hiềm từ trước với các môn phái trung nguyên, cùng ý muốn phản Nguyên kháng Hồ, lại ban bố trở lại giáo qui tôn chỉ hành thiện khử ác, trừ bạo an dân. Các giáo chúng cùng đứng lên, người nào cũng đốt hương cầm trên tay, thề tuân hành lệnh chỉ của giáo chủ quyết không vi phạm.

Hôm đó trên đài lửa bốc ngất trời, khói hương mù mịt, từ xưa tới nay chưa có thời nào Minh giáo thịnh vượng như hôm nay. Các giáo chúng có tuổi thấy khí thế đó, nghĩ đến mấy chục năm nay chia năm xẻ bảy, mấy lần tưởng như sụp đổ đến nơi, mừng quá nhịn không nổi khóc òa lên.

Quá trưa giáo chúng thuộc hạ đến bẩm báo:

- Hạ thuộc Hồng Thủy Kỳ là bọn Chu Nguyên Chương, Từ Đạt xin cầu kiến.

Trương Vô Kỵ mừng lắm, đích thân đi ra cửa đón chào. Chu Nguyên Chương, Từ Đạt cùng bọn Thang Hòa, Đặng Dũ, Hoa Vân, Ngô Lương, Ngô Trinh cung kính đứng ở ngoài cổng, trông thấy Trương Vô Kỵ đi ra, tất cả đều khom lưng hành lễ, nói:

- Tham kiến giáo chủ.

Trương Vô Kỵ vẫn thường nhớ đến ơn cứu mạng năm xưa của Từ Đạt, thấy cả bọn mừng không để đâu cho xiết. Lập tức hoàn lễ, tay trái dắt Chu Nguyên Chương, tay phải nắm Từ Đạt cùng tiến vào trong nhà cùng tất cả ngồi xuống. Mọi người ai nấy xin lỗi rồi mới dám ngồi.

Khi đó Chu Nguyên Chương đã hoàn tục, không còn ăn mặc theo lối nhà sư, nói:

- Bọn thuộc hạ phụng lệnh chỉ của giáo chủ, đi đến Hồ Điệp Cốc, vốn định tới sớm để nghe sai bảo, ngờ đâu giữa đường gặp một chuyện cực kỳ quái lạ, bọn thuộc hạ vội vàng đi theo tra cứu khiến cho lỡ mất hội kỳ, xin được giáo chủ tha tội cho.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Không biết anh em gặp chuyện gì thế?

Chu Nguyên Chương đáp:

- Thượng tuần tháng sáu, chúng tôi nhận được lệnh chỉ của giáo chủ, cả bọn cực kỳ hoan hỉ, anh em đều bàn tính phải đi kiếm món lễ vật gì để mừng giáo chủ. Đất Hoài Bắc đang khổ cực, chẳng có món gì đáng giá, cũng may kỳ hội còn xa, anh em liền lên đường đi Sơn Đông một chuyến. Anh em chúng tôi ngoại rằng quan quân nhận ra được nên giả làm bọn đánh xe lừa, thuộc hạ đóng vai đầu sỏ. Đến phủ Qui Đức, tỉnh Hà Nam chúng tôi gặp một bọn khách thuê xe đi Hà Trạch, Sơn Đông, đi giữa đường, đột nhiên có một bọn người chặn lại, vung đao giơ thương cực kỳ dữ dằn, đuổi hết những người khách trong xe xuống, bảo bọn tôi đi chở khách khác. Lúc đó Hoa huynh đệ đã toan cự lại, Từ huynh đệ liền đưa mắt cho y, bảo y xem rõ tình hình rồi có động thủ cũng chưa muộn. Bọn đó dẫn cả chín cái xe chúng tôi tới một hẻm núi, nơi đó cũng đã có sẵn hơn chục cái xe lớn chờ rồi, thế nhưng ngồi dưới đất lại toàn là sư sãi.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Toàn là sư sãi?

Chu Nguyên Chương đáp:

- Đúng thế. Những hòa thượng đó ai nấy ủ rũ, dáng điệu uể oải, nhưng trong đó có vài người hình dáng không phải tầm thường, người thì thái dương huyệt nổi cao, người thì cao lớn vạm vỡ. Từ huynh đệ liền nói nhỏ cho tôi biết những nhà sư này ai nấy đều võ nghệ cao cường. Bọn người hung ác kia bảo các hòa thượng ngồi lên xe, rồi bắt chúng tôi đi về hướng bắc. Thuộc hạ nghĩ rằng bên trong ắt có gì khác lạ, nên lén dặn các anh em phải đề phòng, tuyệt đối không được làm lộ hình tích. Trên đường đi anh em chúng tôi cố lắng nghe bọn người hung ác kia nói những gì, nhưng bọn đó giữ thật là kín đáo, trước mặt chúng tôi không nói nửa câu. Về sau Ngô Lương huynh đệ thu hết can đảm, nửa đêm mò đến gần cửa sổ nghe trộm, liên tiếp bốn năm đêm, mới dò ra được chút đầu mối, thì ra các nhà sư đó đều ở chùa Thiếu Lâm tại Tung Sơn tỉnh Hà Nam.

Trương Vô Kỵ vốn đã đoán được đôi phần, nhưng cũng "A" lên một tiếng.

Chu Nguyên Chương kể tiếp:

- Ngô Lương huynh đệ lại nghe một trong những gã hung ác kia nói: "Chủ nhân quả thực thần cơ diệu toán, khiến cho ai cũng bái phục. Các cao thủ Thiếu Lâm, Võ Đương sáu môn phái đều lọt vào tay ta hết, từ xưa tới nay đã ai làm được thế bao giờ đâu?". Lại một người khác nói: "Cái đó cũng chưa lấy làm lạ. Nhất tiễn song điêu, cái hay là làm cho các ma đầu của ma giáo cũng bị quàng vào trong". Anh em bảy người chúng tôi giả vờ xuất cung[5], ở bên ngoài nhà xí nho nhỏ bàn tính, nếu như việc này có dính cả bản giáo vào trong may sao anh em mình lại biết, thì phải tra xét cho ra ngành ra ngọn, để trình lên cho giáo chủ biết.

Trương Vô Kỵ nói:

- Các vị tính vậy phải lắm.

Chu Nguyên Chương nói:

- Bọn chúng tôi tiếp tục đi lên miền bắc, càng làm ra vẻ ngu ngốc khờ khạo. Thanh Hòa huynh đệ và Đặng Dũ huynh đệ giả vờ tranh nhau năm tiền, tay chân quờ quạng đánh lẫn nhau, rõ ràng chẳng biết tí võ công nào. Bọn hung ác kia vỗ tay cười ha hả, không còn để ý gì đến chúng tôi. Chúng tôi lại luôn mồm lão gia, cung kính hầu hạ chúng, nịnh bợ đủ điều. Ngô Trinh huynh đệ đã tính đi kiếm một loại thuốc mê nào đó giữa đường cho chúng uống ngã lăn ra, cứu các hòa thượng Thiếu Lâm. Thế nhưng tôi suy nghĩ rồi, việc này đầu dây mối nhợ mình hoàn toàn chưa biết, xem ra bọn hung nhân này đều tinh minh, kỹ lưỡng, võ công cao cường, lỡ như đánh rắn không xong, động ổ động hang, lại làm hỏng hết đại sự cho nên không dám hạ thủ. Đến phủ Hà Gian, lại gặp sáu cái xe lớn, cũng có người áp giải, nhưng trong xe toàn là tục gia nhân. Trong khi ăn cơm, tôi nghe một nhà sư chùa Thiếu Lâm chào một người mới đến là: "Tống đại hiệp cũng ở đây ư?".

Trương Vô Kỵ đứng bật dậy, hỏi dồn:

- Y nói là Tống đại hiệp ư? Người đó hình dáng thế nào?

Chu Nguyên Chương đáp:

- Người đó thân hình cao gầy, độ năm sáu chục tuổi, ba chòm râu dài, tướng mạo thật là thanh nhã.

Trương Vô Kỵ nghe thấy đúng là hình dáng Tống Viễn Kiều, vừa mừng vừa lo, hỏi thêm hình mạo những người khác, quả nhiên Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc cũng trong số đó nên hỏi tiếp:

- Những người đó đều bị thương hay sao? Hay là chân tay bị xiềng bằng xích sắt?

Chu Nguyên Chương đáp:

- Không bị xiềng xích gì cả, cũng không thấy có thương tích, ăn uống nói năng không khác gì người bình thường, chỉ có tinh thần uể oải, đi đứng thì lảo đảo. Vị Tống đại hiệp kia nghe nhà sư Thiếu Lâm hỏi thế, chỉ đành cười gượng, không trả lời. Nhà sư toan hỏi thêm gì nữa, kẻ hung ác áp giải liền đến tách hai người ra. Sau đó hai bên cách xa nhau đến hơn chục dặm, không cùng ăn cùng ngủ, thành ra bọn thuộc hạ cũng không còn gặp lại nhóm Tống đại hiệp kia nữa. Ngày mồng ba tháng bảy, chúng tôi đưa quần tăng phái Thiếu Lâm đến Đại Đô[6].

Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Ồ, đến Đại Đô, quả nhiên là triều đình hạ độc thủ, về sau thế nào?

Chu Nguyên Chương đáp:

- Bọn người hung ác dẫn chúng tôi đưa những nhà sư Thiếu Lâm đến một ngôi chùa lớn ở phía tây, bảo chúng tôi ngủ lại trong đó.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cái miếu đó tên là gì?

Chu Nguyên Chương đáp:

- Khi thuộc hạ vào chùa có ngửng đầu lên nhìn biển ngạch, thấy tên là Vạn An Tự, nhưng cũng vì nhìn mà bị ngay một tên hung ác quất cho một roi. Đêm đó anh em chúng tôi lén bàn nhau, bọn người hung ác kia thể nào cũng phải sát nhân diệt khẩu, không tha mình đâu nên trời tối lập tức chúng tôi trốn đi ngay.

Trương Vô Kỵ nói:

- Sự tình quả là hung hiểm, cũng may bọn hung ác kia không đuổi theo.

Thang Hòa mỉm cười:

- - Chu đại ca cũng đã tính đến nước đó, nên đã sắp đặt sẵn mọi việc. Chúng tôi đi đến các hãng xe lừa ở gần đó bắt bảy tên phu xe, đổi y phục cho bọn họ, sau đó giết luôn cả bảy người trong miếu, mặt mũi đâm chém bầy nhầy, không để cho bọn người hung ác kia nhìn ra được. Sau đó lại giết hết tất cả các phu xe đi cùng, tiền bạc rắc khắp nơi làm như hai bọn tranh nhau tiền bạc giết nhau vậy. Có thế bọn hung nhân quay lại mới khỏi nghi.

Trương Vô Kỵ trong lòng kinh hãi, chỉ thấy Từ Đạt mặt tỏ vẻ bất nhẫn, Đặng Dũ hơi có vẻ xấu hổ, Thanh Hòa nói vẻ mặt đắc ý dương dương, chỉ một Chu Nguyên Chương bình thản làm như không có gì xảy ra cả. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Bọn này ra tay độc ác thật, thật là những tay ghê gớm". Chàng bèn nói:

- Kế đó của Chu đại ca tuy hay thật, nhưng từ nay về sau, chúng ta không nên lạm sát người vô tội.

Đây là huấn dụ của giáo chủ, bọn Chu Nguyên Chương nhất tề đứng lên, khom lưng nói:

- Cẩn tôn giáo chủ lệnh chỉ.

Về sau Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Đặng Dũ, Thang Hòa hành quân giao chiến, quả nhiên tuân theo lệnh của Trương Vô Kỵ, không dám giết người bừa bãi, khiến cho dân tâm qui thuận, làm nên đại nghiệp một đời.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bảy vị của Chu đại ca thám thính được tin tức cao thủ các phái Thiếu Lâm, Võ Đương, công này thật không nhỏ. Đợi sắp đặt xong việc kháng Nguyên khởi nghĩa rồi, chúng ta sẽ đi Đại Đô một chuyến để cứu các người đó ra.

Chàng bàn công việc chung xong, lại cùng bọn Từ Đạt nói chuyện riêng, đến việc năm xưa ăn trộm bò của Trương viên ngoại, cả bọn cùng cười ha hả.

Đêm hôm đó, Trương Vô Kỵ tập họp tất cả giáo chúng, đốt lửa thắp hương, tuyên cáo các nơi đều cùng nổi dậy, chung sức kháng lại Nguyên triều, các lộ giáo chúng phải đỡ đần nhau, khiến cho quân Nguyên phải đôn đáo bôn ba việc lớn ắt sẽ thành.

Sau đó định ra phương sách, giáo chủ Trương Vô Kỵ cùng Quang Minh tả sứ Dương Tiêu, Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu chấp chưởng tổng đàn làm tổng soái cho toàn giáo.

Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính chỉ huy giáo chúng trong Thiên Ưng Kỳ khởi sự tại Giang Nam.

Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thang Hòa, Đặng Dũ, Hoa Vân, Ngô Lương, Ngô Trinh cùng với nhân mã của Thường Ngộ Xuân cùng Tôn Đức Nhai tại Hào Châu, Hoài Bắc khởi binh.

Bố đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc tất lãnh Hàn Sơn Đồng, Lưu Phúc Thông, Đỗ Tôn Đạo, La Văn Tố, Thịnh Văn Úc, Vương Hiển Trung, Hàn Hiệu Nhi khởi binh tại Dĩnh Châu, Hà Nam.

Bành Oánh Ngọc tất lãnh Từ Thọ Huy, Trâu Phổ Vượng, Minh Ngũ khởi sự tại các châu Cám, Nhiêu, Viên, Tín vùng Giang Tây.

Thiết Quan đạo nhân tất lãnh Bố Tam Vương, Mạnh Hải Mã tại các vùng Tương, Sở, Kinh Tương khởi binh.

Chu Điên tất lãnh Chi Ma Lý, Triệu Quân Dụng tại Từ, Tú, Phong, Bái khởi sự.

Lãnh Thiêm cùng các giáo chúng miền Tây Vực, ngăn chặn và chia cắt các đội quân tiếp viện của Mông Cổ từ Tây Vực đến Trung Nguyên.

Ngũ Hành Kỳ thuộc về quyền điều khiển của tổng đàn, nơi nào gặp nguy thì tới đó cứu viện.

Phương sách xếp đặt đó, mười phần đến chín là do Dương Tiêu và Bành Oánh Ngọc đưa ra. Trương Vô Kỵ công bố ra rồi, giáo chúng reo hò vang động. Trương Vô Kỵ nói:

- Chỉ dựa vào sức của một mình bản giáo mà thôi, khó mà có thể lay chuyển được cơ nghiệp đã có hàng trăm năm của Nguyên triều. Do đó cần phải liên lạc với anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, chung sức lo toan mới mong thành công được. Hiện nay các nhân vật đầu não của võ lâm Trung Nguyên đều bị triều đình bắt giữ cả, tổng đàn phải tìm cách cứu ra trước. Ngày mai các anh em rẽ đi ra khắp nơi, gặp cơ hội thì cứ việc giết quân Thát tử, tổng đàn lập tức đi Đại Đô cứu người trước. Hôm nay tất cả anh em vui say một chuyến, sau này không biết đến bao giờ mới gặp lại nhau. Các anh em cần lấy nghĩa khí làm trọng, đại sự trước hết, quyết không nên tranh quyền đoạt lợi, tàn sát lẫn nhau, nếu như có ai giở trò bất nghĩa, tổng đàn quyết không tha thứ.

Mọi người đều lên tiếng đáp ứng:

- Lệnh chỉ của giáo chủ quyết không dám vi phạm.

Tiếng la ó vang cả sơn cốc. Mọi người lập tức trích huyết ăn thề, đốt hương làm chứng, thà chết không phụ đại nghĩa. Đêm hôm đó trăng sáng vằng vặc, các lộ giáo chúng ngồi cả dưới đất, các giáo chúng chấp sự tổng đàn đem bánh nhân chay ra chia cho mọi người. Ai nấy thấy bánh tròn như mặt trăng nên gọi là bánh Trung Thu. Về sau người ta truyền tụng người Trung Hoa ăn bánh Trung Thu để thề giết quân Mông Cổ chính là từ đại hội của Minh giáo mà ra.

Trương Vô Kỵ lại tuyên bố tiếp:

- Bản giáo từ đời trước truyền đến nay, không ăn thịt, không uống rượu. Thế nhưng hiện nay đâu đâu cũng tai ương thành thử gặp gì ăn nấy. Huống chi công việc lớn hàng đầu của anh em ta là khu trừ Thát tử, nếu không ăn thịt cá tinh thần không đủ mạnh, khó có đủ sức chiến đấu. Từ nay trở đi, bãi bỏ qui luật không ăn thịt, không uống rượu trong bản giáo. Chúng ta lập thân xử thế lấy đại tiết làm trọng, ẩm thực cấm kỵ chỉ là thứ yếu.

Cũng từ đó bánh Trung Thu giáo chúng Minh giáo có làm nhân thịt.

Sáng sớm hôm sau, các lộ giáo chúng cáo biệt Trương Vô Kỵ. Ai nấy tuy đều là hào kiệt khẳng khái, nhưng nghĩ đến mai này chiến đấu nơi nơi, biết ai còn ai mất, đại sự nếu như thành, người có mặt hôm nay tại đại hội Hồ Điệp Cốc e rằng còn sống chưa đầy một nửa, nên không khỏi quyến luyến khi chia tay. Lúc đó trước Hồ Điệp Cốc thánh hỏa bốc lên cao, đột nhiên ai đó lớn tiếng hát:

Thiêu đốt thân tàn ta,

Hỏa thánh bốc bừng bừng.

Khi sống có gì vui,

Thì chết có gì khổ?

Lập tức tất cả đều hát theo phụ họa:

Thiêu đốt thân tàn ta,

Hỏa thánh bốc bừng bừng.

Khi sống có gì vui,

Thì chết có gì khổ?

Nguyện hành thiện trừ ác,

Cốt sao cho quang minh.

Bao hỉ lạc bi sầu,

Cũng đều thành cát bụi.

Thương thay cho con người,

Lo buồn sao lắm vậy.

Thương thay cho con người,

Lo buồn sao lắm vậy.

Những câu: "Thương thay cho con người, Lo buồn sao lắm vậy. Thương thay cho con người, Lo buồn sao lắm vậy." vang động cả Hồ Điệp Cốc. Quần hào ai nấy áo mặc trắng tinh, đi tới trước mặt Trương Vô Kỵ khom lưng hành lễ, ngửng đầu hùng dũng mà đi, không quay đầu nhìn lại. Trương Vô Kỵ nghĩ đến bao nhiêu dũng sĩ thế này, trong vòng một hai chục năm máu sẽ thấm đầy một giải Trung Nguyên, nhịn không nổi nước mắt rưng rưng.

Tiếng hát xa dần, tráng sĩ ly tán, Hồ Điệp Cốc mấy hôm qua ồn ào náo nhiệt nay trở lại vắng lặng như xưa, chỉ còn lại Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Chu Nguyên Chương và vài người khác. Trương Vô Kỵ hỏi kỹ chùa Vạn An tọa lạc chỗ nào, hình dáng bọn người hung dữ kia ra sao rồi nói:

- Chu đại ca, ở một giải Hào Tứ này đang đại loạn, không nên đễ lỡ cơ hội khởi sự. Các vị không cần phải đi theo tôi lên Đại Đô làm gì, thôi mình từ biệt nơi đây.

Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân cả bọn cùng nói:

- Xin chúc giáo chủ mã đáo thành công, bọn thuộc hạ chờ đón tin mừng.

Lập tức bái biệt Trương Vô Kỵ, ra khỏi thung lũng lo việc khởi nghĩa.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bọn mình cũng đi thôi. Tiểu Siêu, cô có mang xích, đi lại không tiện, ở lại đây đợi tôi nhé.

Tiểu Siêu rầu rĩ vâng lời, nhưng khi đưa tiễn, đưa đến ba dặm rồi lại thêm ba dặm nữa, vẫn không chịu chia tay. Trương Vô Kỵ nói:

- Tiểu Siêu, cô càng đưa càng xa, coi chừng lúc về lạc đường đó.

Tiểu Siêu hỏi lại:

- Trương công tử lên Đại Đô liệu có gặp Triệu cô nương chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không chừng sẽ gặp đó.

Tiểu Siêu nói:

- Nếu công tử gặp cô ấy, có thể nhờ cô ấy giúp em một việc được không?

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Cô có chuyện gì muốn nhờ?

Tiểu Siêu nhún vai một cái, đáp:

- Công tử mượn Ỷ Thiên kiếm chặt cái dây xích này, chứ không cả đời em sẽ không được tự do nữa.

Trương Vô Kỵ thấy cô gái thần sắc ủ rũ thật đáng thương, trong lòng không nỡ, liền nói:

- Chỉ sợ cô ta không cho mượn đâu, nhất là lại mượn kiếm đem về tận đây.

Tiểu Siêu nói:

- Thế thì... thế thì, công tử đưa em đến trước mặt cô ấy, nhờ cô ta dùng kiếm chặt một nhát, có phải hơn không?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Nói qua nói lại, chẳng qua cô muốn theo tôi lên Đại Đô chứ gì? Dương tả sứ, ông xem có đem cô ta theo được không?

Dương Tiêu biết Trương Vô Kỵ đã nói thế là đã có ý cho cô ta theo nên nói:

- Cái đó cũng không sao, việc cơm nước áo quần đã có cô này lo, chỉ có điều dây xích leng keng sợ người ta chú ý. Đã thế cô ta giả vờ bị bệnh, chỉ ngồi trên xe, bình thời đừng ra ngoài làm gì.

Tiểu Siêu mừng lắm vội nói:

- Đa tạ công tử, đa tạ Dương tả sứ.

Cô quay qua nhìn Vi Nhất Tiếu nói thêm:

- Đa tạ Vi pháp vương.

Vi Nhất Tiếu cười:

- Sao cô lại cảm ơn tôi là sao? Cô coi chừng tôi mà bệnh trở lại là hút máu cô đó.

Nói xong nhe hai hàm răng trắng nhởn, giả vờ làm dữ. Tiểu Siêu biết y chỉ đùa, nhưng cũng không khỏi sợ hãi nói:

- Ông... ông đừng dọa tôi.

Hồi 26

TUẤN MẠO NGỌC DIỆN CAM HỦY THƯƠNG

Miệng không nói nhưng lòng ta vẫn nói,

Mặt không còn nhưng chí chẳng hề suy.

Cái danh Hữu Sứ bỏ đi,

Vào trong hang hổ ở khi chờ thời.

*

* *

Xế trưa hôm đó, ba con ngựa, một chiếc xe cùng lên đường hướng bắc, chẳng bao lâu đã đến kinh đô nhà Nguyên là Đại Đô. Thời đó người Mông Cổ dùng ngựa mà chinh phục nước Tàu, đất đai của họ rộng đến mấy vạn dặm, xưa nay các đế quốc tính theo diện tích không có nước nào lớn bằng. Đại Đô về sau gọi là Bắc Kinh, là nơi nhà vua ở, các tiểu quốc, các sứ thần đến triều cống không biết bao nhiêu mà kể. Bọn Trương Vô Kỵ vừa vào cửa thành đã thấy trên đường rất nhiều người qua lại, một số đông tóc vàng mắt xanh.

Bốn người đi đến phía tây, kiếm một khách điếm nghỉ ngơi. Dương Tiêu chi tiêu rộng rãi, làm như một khách thương buôn bán lớn, gọi ba phòng hạng nhất. Điếm tiểu nhị thấy thế xun xoe đon đả, phục thị rất ân cần.

Dương Tiêu hỏi thăm xem Đại Đô trong thành có cổ tích danh thắng nào, nói chuyện một hồi, làm như vô tình hỏi đến các chùa chiền miếu mạo. Chùa đầu tiên điếm tiểu nhị nói đến là chùa Vạn An:

- Chùa Vạn An có một cái rừng thật lớn, bên trong chùa lại có ba tượng Phật bằng đồng, dù có đi khắp thiên hạ cũng không tìm đâu ra pho tượng thứ tư lớn như thế, ai cũng nên đến xem cho biết. Có điều khách quan thật không may, độ nửa năm nay, trong chùa có các Phật gia tây phiên ở, dân thường không ai dám vào nữa.

Dương Tiêu hỏi:

- Có phiên tăng ở ư? Đến xem cũng không được à?

Tên tiểu nhị le lưỡi, nhìn quanh bốn bề nói khẽ:

- Không phải là tiểu nhân lắm chuyện nhưng khách quan mới đến kinh đô lần đầu, nói năng nên cẩn thận. Những Phật gia tây phiên kia gặp ai thích đánh là đánh, muốn giết là giết, thấy đàn bà con gái xinh đẹp là bắt vào chùa. Đó là do hoàng thượng kim khẩu hạ thánh chỉ cho họ làm. Đâu có ai dám vuốt râu hùm mà lại gần các tây phiên Phật gia đó làm chi?

Các phiên tăng Tây Vực dựa thế người Mông Cổ, hoành hành vô pháp, khinh khi người Hán, Dương Tiêu đã biết từ lâu, có điều không ngờ ngay giữa kinh thành mà không e ngại gì, nên không nói gì thêm với gã tiểu nhị nữa.

Ăn cơm chiều xong, mọi người nhắm mắt nghỉ ngơi một lát, đợi đến canh hai, ba người mới nhảy cửa sổ ra, chạy về hướng tây tìm kiếm. Chùa Vạn An có lầu cao bốn tầng, sau chùa có một tòa bảo tháp mười ba gác nên từ xa đã thấy ngay. Trương Vô Kỵ, Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu ba người thi triển khinh công, chỉ giây lát đã đến trước cửa chùa. Ba người ra hiệu cho nhau, cùng lẻn qua phía bên trái chùa, toan trèo lên bảo tháp, để từ trên cao nhìn xuống quan sát toàn cảnh. Ngờ đâu khi tới cách tháp chừng hai chục trượng, thấy trên tháp có bóng người thấp thoáng, trên mỗi tầng đều có người qua lại tuần tra, dưới chân tháp cũng có đến hai ba chục người canh gác.

Ba người thấy thế, vừa mừng vừa lo, tháp này thủ vệ nghiêm nhặt, các người của phái Thiếu Lâm, Võ Đương hẳn là bị nhốt nơi đây, cũng bõ công đi dò thám. Có điều kẻ địch canh gác cẩn mật như thế, muốn cứu người quả không phải dễ dàng. Huống chi Không Văn, Không Trí, Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê các người ai ai cũng võ công trác tuyệt, vậy mà đều bị bắt cả, hẳn là đối phương có nhiều cao thủ, thủ đoạn lại cũng hơn người, chẳng cần nói thì cũng biết. Trước khi đi, ba người đã bàn tính không thể hành sự cẩu thả, thành thử thấy vậy bèn toan tháo lui.

Ngay lúc đó, trên từng thứ sáu của bảo tháp có ánh lửa lấp loáng, tám chín người cầm đuốc đi chầm chậm đi xuống tầng thứ năm, rồi tầng thứ tư, đến tầng cuối cùng theo cửa chính của bảo tháp đi ra phía chùa. Dương Tiêu vẫy tay, từ bên hông men ra. Trong chùa Vạn An cây nào cây nấy đều là cổ thụ, ba người nấp sau gốc cây, cứ mỗi khi nghe gió thổi lại chạy lên vài trượng. Ba người khinh công tuy cao thật, nhưng cũng sợ bị người ta phát giác, nên cũng phải nhờ đến gió lay, lá rụng mới dám di động.

Cứ như thế khi lên được độ hơn hai chục trượng rồi mới thấy rõ hơn chục người đàn ông mặc áo vàng, trong tay ai cũng có binh khí, áp giải một ông già mặc trường bào, tay áo thụng. Người đó ngẫu nhiên quay đầu lại, Trương Vô Kỵ nhìn rõ mặt chính là chưởng môn phái Côn Lôn Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung, trong lòng không khỏi xốn xang: "Quả nhiên cả Hà Thái Xung cũng ở đây".

Bọn người đó đi vào chùa Vạn An bằng cửa sau, ba người chờ một lát, thấy bốn bề quả không có ai mới theo cửa đó lẻn vào. Ngôi chùa này thật nhiều phòng ốc, qui mô rất lớn, tương tự như chùa Thiếu Lâm, thấy bên trong song cửa một tòa đại điện đèn đuốc sáng trưng, xem chừng Hà Thái Xung bị bắt đem vào đây. Ba người len lén tiến tới, đến bên ngoài điện. Trương Vô Kỵ nằm phục dưới đất, nhìn vào khe hở của cửa sổ. Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu đứng hai bên canh gác, đề phòng bị tập kích. Ba người tuy võ nghệ cao cường, đảm lược lớn, nhưng lúc này đi vào đầm rồng hang hổ, trong bụng không khỏi phập phồng.

Khe cửa rất hẹp, Trương Vô Kỵ chỉ nhìn được nửa thân dưới của Hà Thái Xung, còn bên trong có những ai thì không sao biết được. Chỉ nghe Hà Thái Xung hậm hực nói:

- Ta trúng phải gian kế, lọt vào tay các ngươi, muốn giết thì giết, muốn xẻo thì xẻo, một lời là xong. Còn bắt ép ta làm ưng khuyển cho triều đình thì nhất định là không được, dù có nói ba năm năm năm cũng chỉ phí lời thôi.

Trương Vô Kỵ ngầm gật đầu, nghĩ thầm: "Vị Hà tiên sinh này tuy không phải chính nhân quân tử, nhưng ở lúc nguy nan mà vẫn vững lòng, không mất khí khái của chưởng môn một phái".

Lại nghe tiếng một người đàn ông giọng lạnh như tiền:

- Ngươi nếu cố chấp không đổi, chủ nhân cũng không ép. Thế qui củ ở đây ngươi đã biết chưa?

Hà Thái Xung nói:

- Dù có cả mười ngón tay ta đều bị chặt đứt, cũng không chịu đầu hàng.

Người kia nói:

- Được, để ta nói lại một lượt, nếu ngươi thắng được ba người trong chúng ta thì lập tức thả ngươi ra. Còn như nếu thua, thì sẽ bị chặt đứt một ngón tay, giam thêm một tháng, sẽ hỏi lại xem hàng hay không hàng.

Hà Thái Xung đáp:

- Ta đã đứt mất hai ngón tay rồi, có đứt thêm ngón nữa, thì cũng đã sao? Đưa kiếm cho ta.

Người kia cười khẩy:

- Đợi đến khi ngươi cả mười ngón tay đều đứt hết, lúc ấy mới đầu hàng thì bọn ta cũng chẳng cần cái con người bỏ đi ấy làm gì. Đưa kiếm cho y. Ma Ha Ba Tư, ngươi đấu với y xem nào.

Một người giọng ồm ồm đáp:

- Vâng.

Trương Vô Kỵ ám vận thần công lên ngón tay, nhẹ nhàng moi cái khe hở ra một mảng, thấy Hà Thái Xung tay cầm một thanh kiếm gỗ, mũi kiếm có bọc vải, vừa mềm vừa lụt, không cách nào có thể đả thương người khác được. Còn trước mặt y là một phiên tăng cao to, tay cầm một thanh giới đao sáng loáng. Hai bên binh khí kẻ sắc người cùn khác nhau như thế đâu cần phải tỉ thí, ai mạnh ai yếu đã thấy ngay. Thế nhưng Hà Thái Xung không sợ hãi chút nào, vung thanh kiếm gỗ một cái, nói:

- Xin mời.

Nghe soẹt một cái y đã đâm ra một kiếm khí thế thật là độc địa. Kiếm pháp của phái Côn Lôn, quả nhiên có chỗ độc đáo. Gã phiên tăng Ma Ha Ba Tư kia tuy thân thể to lớn nhưng hành động lại nhanh nhẹn, thanh giới đao liền vung ra, nhát nào cũng nhắm chỗ yếu hại của Hà Thái Xung chém tới. Trương Vô Kỵ chỉ coi mấy chiêu đã ngầm kinh hãi: "Sao Hà tiên sinh bước chân bông bênh, hơi thở dồn dập, dường như nội lực mất hết không còn gì cả?".

Kiếm pháp của Hà Thái Xung tuy tinh diệu, nội lực so với người thường cũng chẳng khác gì, những lợi hại trong kiếm chiêu không sao thi thố được. Được cái là gã phiên tăng võ công kém y hai bực, mấy lần tấn công mãnh liệt đều bị Hà Thái Xung dùng kiếm thuật tinh kỳ chiếm lại tiên cơ. Hai bên đánh tới ngoài năm mươi chiêu, Hà Thái Xung quát lên một tiếng: "Trúng" thanh kiếm từ đông vòng ngược lại phía tây, đâm xéo về trước, nghe cạch một tiếng nhỏ, đã đâm trúng dưới nách gã phiên tăng. Nếu như trong tay y chỉ là một thanh kiếm thông thường, hoặc nội lực không mất, mũi kiếm cũng đã xuyên qua da thịt rồi.

Lại nghe tiếng lạnh lẽo của gã kia nói:

- Ma Ha Ba Tư lui, Ôn Ngọa Nhi lên.

Trương Vô Kỵ nhìn theo tiếng nói, thấy kẻ đó mặt như phủ một lớp khói đen, cằm mọc một chùm râu hoa râm lưa thưa, chính là một trong Huyền Minh nhị lão. Y khoanh tay đứng nhìn, mắt nửa thức nửa ngủ, làm như không quan tâm gì đến chuyện trước mắt.

Chàng nhìn lên trên, thấy trên một cái đôn thấp bọc gấm có một đôi bàn chân mang giày đoạn màu vàng nhạt, đầu giày có đính một hạt minh châu. Trương Vô Kỵ chợt rung động trong lòng, thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn xinh xắn, mắt cá chân tròn trịa, dường như quen quen, chính là đôi bàn chân mà chàng đã nắm được lúc ở Lục Liễu Trang của Triệu Mẫn. Khi chàng gặp lại cô ta trên núi Võ Đương, hai bên là kẻ thù nhưng lúc này nhìn thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn đó, không hiểu vì sao, tự nhiên đỏ mặt tía tai, tim đập thình thịch.

Chỉ thấy Triệu Mẫn đong đưa bàn chân, xem ra nàng đang để hết tâm hết ý vào trận đấu giữa Hà Thái Xung và Ôn Ngọa Nhi. Độ thời gian uống một tuần trà, Hà Thái Xung lại kêu lên: "Trúng", bàn chân Triệu Mẫn liền dậm trên cẩm đôn một cái, Ôn Ngọa Nhi lại thua trận đó rồi. Lão già mặt đen trong Huyền Minh nhị lão lại nói:

- Ôn Ngọa Nhi xuống, Hắc Lâm Bát Phu lên.

Trương Vô Kỵ nghe tiếng Hà Thái Xung thở hổn hển, nghĩ chắc y liên tiếp đánh bại hai người, tốn rất nhiều hơi sức. Chỉ giây lát lại có tiếng kịch đấu nổi lên, gã Hắc Lâm Bát Phu sử dụng một cây thiền trượng vừa to vừa nặng, múa lên gió nổi vù vù, đèn nến trong điện lúc mờ lúc tỏ, bóng người chẳng khác gì mây bay thấp thoáng qua lại nơi chân Triệu Mẫn. Bỗng thấy trong điện tối sầm, mấy ngọn nến đỏ phía bên phải bị gió từ cây thiền trượng làm tắt ngúm, nghe cách một tiếng, thanh kiếm gỗ gẫy làm đôi. Hà Thái Xung thở dài một tiếng, ném kiếm xuống đất, trận này thế là y thua.

Huyền Minh lão nhân hỏi:

- Thiết Cầm tiên sinh, ông đã chịu hàng chưa?

Hà Thái Xung ngang nhiên đáp:

- Ta không chịu hàng, cũng không phục. Nếu như nội lực ta còn, tên phiên tăng kia đâu có phải là đối thủ của ta?

Huyền Minh lão nhân lạnh lùng nói:

- Chặt ngón tay vô danh bên trái của y, tống trở lại tháp.

Trương Vô Kỵ quay đầu lại, Dương Tiêu xua xua tay, ý muốn nói: "Lúc này xông vào điện cứu người, có thể làm lỡ việc lớn". Chỉ nghe tiếng chặt tay trong điện, rịt thuốc, băng bó cầm máu nhưng Hà Thái Xung cũng rất cứng đầu, đến tiếng suýt xoa cũng không hé răng. Bọn người áo vàng lại cầm đuốc giải y trở lại giam trong tháp. Bọn Trương Vô Kỵ nép mình ở góc tường, dưới ánh lửa thấy Hà Thái Xung mặt xanh nhợt, nghiến răng bậm môi, thần sắc cực kỳ tức giận.

Cả đoàn người đó đi xa rồi, bỗng nghe một giọng thanh thoát yểu điệu từ trong điện vọng ra:

- Lộc Trượng tiên sinh, kiếm pháp phái Côn Lôn quả là cao siêu, y đâm trúng Ma Ha Ba Tư một chiêu, trước đó y chém phía bên trái, rồi vòng qua bên phải...

Trương Vô Kỵ hé mắt dòm vào, thấy người đang nói chính là Triệu Mẫn. Nàng vừa nói vừa đi vào giữa điện, tay cầm một thanh kiếm gỗ, bắt chước theo Hà Thái Xung vung kiếm ra. Phiên tăng Ma Ha Ba Tư tay múa song đao, cùng nàng tập luyện.

Huyền Minh lão nhân mặt đen mà Triệu Mẫn gọi là Lộc Trượng tiên sinh kia tên là Lộc Trượng Khách, lên tiếng khen ngợi:

- Chủ nhân quả thật thông minh, chiêu đó sử không sai một li nào.

Triệu Mẫn luyện một lần rồi lại luyện lần nữa, chiêu nào cũng đâm trúng nách Ma Ha Ba Tư, tuy chỉ là kiếm gỗ nhưng đâm mạnh như thế, lần nào cũng trúng cùng một chỗ, xem chừng cũng khá đau. Ma Ha Ba Tư tập trung hết tinh thần ra chiêu cho nàng tập, không dám suýt xoa, cũng chẳng dám né tránh.

Nàng luyện thành thục mấy chiêu đó rồi, lại gọi Ôn Ngọa Nhi ra, tập lại chiêu mà Hà Thái Xung đã sử dụng đánh bại y. Trương Vô Kỵ bây giờ đã rõ, thì ra Triệu Mẫn bắt giam các cao thủ tại đây, cho họ uống thuốc mất hết nội lực, bức bách họ đầu hàng triều đình. Bọn họ dĩ nhiên không hàng, nàng liền sai người ra đấu với họ, nàng ngồi bên quan sát, học trộm các chiêu số tinh diệu của các môn phái. Dụng tâm vừa ác độc, bày kế lại tàn ác khiến người ta phải dựng tóc gáy.

Sau đó Triệu Mẫn lại cùng Hắc Lâm Bát Phu đối luyện, đến lúc sau cùng nàng hơi chần chừ, hỏi lại:

- Lộc Trượng tiên sinh, có phải thế này không?

Lộc Trượng Khách trầm ngâm không đáp, quay đầu lại hỏi:

- Hạc huynh đệ, ngươi nhìn có rõ không?

Từ phía góc trái có tiếng người vọng ra:

- Khổ đại sư thể nào cũng nhớ rõ.

Triệu Mẫn cười:

- Khổ đại sư, làm phiền ông một chút đi ra chỉ cho tôi nào.

Chỉ thấy bên phải đi ra một đầu đà tóc dài đến vai, thân thể cao lớn, mặt có đến bảy tám vết sẹo dài vắt ngang, khiến cho bộ mặt thật của y không còn làm sao nhận nổi. Tóc của y màu đỏ hung hung, xem ra không phải người Trung Thổ. Y không nói một lời, cầm lấy thanh kiếm gỗ trong tay Triệu Mẫn, soẹt soẹt soẹt soẹt đâm luôn mấy nhát vào Hắc Lâm Bát Phu, sử dụng chính là kiếm pháp của phái Côn Lôn.

Người đầu đà được gọi là 'Khổ đại sư" kia bắt chước kiếm chiêu của Hà Thái Xung nhưng cũng không dùng chút nội lực nào, còn gã Hắc Lâm Bát Phu kia thì giở toàn lực ra đấu, đến lúc sau cùng y vung thanh trượng tạt ngang, những ngọn nến lúc trước bị tắt nay đã châm lại cùng tắt phụp. Hà Thái Xung ở chiêu này không né tránh được, đành phải để kiếm gỗ đụng phải thiết trượng, nên bị gãy kiếm chịu thua. Thế nhưng khổ đầu đà liền đổi phương vị, nhẹ nhàng lách qua, chẳng khác gì con nhạn sà xuống chạm mặt nước, điểm vào thiết trượng rồi bay vụt lên.

Bàn tay Hắc Lâm Bát Phu cầm trượng bị kiếm lóc trúng, các huyệt đạo nơi hổ khẩu tê chồn, không cầm vững nữa, bỏ rơi thiết trượng nghe keng một tiếng, những miểng gạch dưới đất văng lên tung tóe.

Hắc Lâm Bát Phu mặt đỏ bừng, biết rằng nếu như kiếm gỗ mà là kiếm thật, tám ngón tay của mình đã đứt lìa, khom lưng nói:

- Bái phục, bái phục.

Y cúi xuống nhặt thiết trượng lên. Khổ đầu đà hai tay cầm thanh kiếm, trả lại cho Triệu Mẫn. Triệu Mẫn cười hỏi:

- Khổ đại sư, chiêu sau cùng đó tinh diệu tuyệt luân, có phải là kiếm pháp phái Côn Lôn không?

Khổ đầu đà lắc đầu. Triệu Mẫn nói tiếp:

- Thảo nào Hà Thái Xung không biết, khổ đại sư, ông dạy cho tôi nhé?

Khổ đầu đà tay không đấu với kiếm, Triệu Mẫn liền dùng kiếm ra chiêu. Luyện đến lần thứ ba, khổ đầu đà hành động nhanh như chớp, không sao tưởng nồi, Triệu Mẫn không sao tấn công được. Tuy kiếm chiêu của nàng có chậm nhưng cứ theo đúng như thế không sai chút nào. Khổ đầu đà xoay người qua, hai tay tống về phía trước, giữ như thế không cử động. Trương Vô Kỵ tấm tắc khen thầm: "Hay thật, quả là cao minh".

Triệu Mẫn lúc ấy vẫn chưa hiểu rõ, nghiêng đầu nhìn tư thế của khổ đầu đà, suy nghĩ một hồi lúc ấy mới rõ, nói:

- Khổ đại sư, nến trong tay ông có binh khí, trượng đó đã đánh trúng vai tôi phải không? Chiêu này hóa giải cách nào?

Khổ đầu đà giơ tay làm hiệu nắm lấy cây gậy, chân trái đá lên, đầu ngẩng cao, ra vẻ đã đoạt được trượng của địch rồi đá y bay đi. Chiêu đó trông như vụng về nhưng lại thật là khéo léo, là một thức ngoại môn công phu cực kỳ cương mãnh. Triệu Mẫn cười nói:

- Hảo sư phụ, dạy ngay cho tôi đi nào.

Thần tình thật là nhõng nhẽo. Trương Vô Kỵ tim đập bình một cái nghĩ thầm: "Cô nội lực chưa đủ, làm sao học chiêu này được? Thế nhưng cô dáng điệu nũng nịu thế, thực khó mà từ chối". Khổ đầu đà giơ tay ra hiệu hai lần, ý muốn nói là: "Cô nội lực không đủ không thể học được". Y xoay mình đi luôn không ngó ngàng gì tới nàng nữa.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Khổ đầu đà võ công cao cường như thế, so ra cũng chẳng kém gì Huyền Minh nhị lão, không biết nội lực y đến đâu nhưng chiêu số thần diệu, quả là một kình địch. Y chỉ ra hiệu mà không nói năng gì, không lẽ y câm chăng? Thế nhưng tai y không điếc. Triệu cô nương đối với y có vẻ kính trọng, có lẽ y là một người lai lịch rất lớn".

Triệu Mẫn thấy khổ đầu đà không chịu dạy mình nữa, nhoẻn miệng cười không tỏ ra tức giận, nói:

- Gọi Đường Văn Lượng của phái Không Động lên đây nào.

Một lát sau, Đường Văn Lượng bị áp giải tới điện. Lộc Trượng Khách lại sai ba người ra đấu với y. Đường Văn Lượng không vì địch nhân dùng binh khí mà thua sút, y tay không đấu chưởng, thắng được hai trận, đến trận thứ ba, đối thủ thúc đẩy nội lực ra, Đường Văn Lượng không cách nào chống cự nổi, nên cũng bị chặt một ngón tay.

Lần này Triệu Mẫn luyện chiêu do Lộc Trượng Khách đứng bên cạnh chỉ điểm. Trương Vô Kỵ lúc này đã nhìn ra ngọn nguồn, Triệu Mẫn vì nội lực không đủ, biết rằng khó lòng mà tốc thành, nên muốn học tất cả các sở trường của các môn phái để thành một cao thủ. Cách đó cũng có thể làm được vì chiêu số luyện đến mức thật tinh vi, có thể bổ túc cho nội công chưa đủ.

Triệu Mẫn luyện xong chưởng pháp rồi nói:

- Gọi Diệt Tuyệt lão ni lên đây.

Một tên trong đội áo vàng liền bẩm:

- Diệt Tuyệt lão ni đã tuyệt thực năm ngày rồi, hôm nay mụ ta lại cứng đầu lạ thường, không chịu tuân lệnh.

Triệu Mẫn cười nói:

- Cứ mặc cho mụ ta chết đói. Hừ, gọi tiểu cô nương Chu Chỉ Nhược của phái Nga Mi lên.

Bọn thủ hạ liền đáp ứng, quay mình đi ra khỏi điện.

Trương Vô Kỵ vẫn mang một nỗi cảm kích cái ơn Chu Chỉ Nhược năm xưa trên sông Hán Thủy ân cần lo lắng cho mình. Lú ở trên Quang Minh Đính, cô ta lại chỉ điểm cho chàng phương vị Dịch kinh, nhờ thế mới phá được đao kiếm liên thủ của hai phái Hoa Sơn, Côn Lôn. Về sau tuy nàng đâm chàng một kiếm, chẳng qua chỉ vì phải tuân nghiêm lệnh sư môn nên chàng không đem lòng oán trách, lúc này nghe Triệu Mẫn cho gọi nàng lên, trong lòng không khỏi thảng thốt.

Một lát sau, một bọn hoàng y áp giải Chu Chỉ Nhược vào trong điện. Trương Vô Kỵ thấy nàng vẫn xinh đẹp như xưa, chỉ hơi tiều tụy so với khi ở trên Quang Minh Đính, tuy bị địch nhân bắt giữ, nhưng vẫn bình thản, tưởng như không còn coi chuyện sống chết vào đâu. Lộc Trượng Khách theo lệ hỏi nàng có chịu hàng không, Chu Chỉ Nhược lắc đầu, không trả lời.

Lộc Trượng Khách đang định cử người ra đấu kiếm với nàng, Triệu Mẫn bỗng nói:

- Chu cô nương, cô tuổi trẻ như thế mà đã là cao đệ trong phái Nga Mi, thực đáng khen ngợi. Nghe nói cô là một đệ tử đắc ý của Diệt Tuyệt sư thái, đã kế thừa được kiếm chiêu tuyệt học của lão nhân gia, có phải vậy không?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Gia sư võ công bác đại tinh thâm, nói đến học kiếm chiêu tuyệt học của lão nhân gia, tiểu nữ tuổi trẻ học vấn nông cạn thực còn xa mới tới được.

Triệu Mẫn cười nói:

- Qui củ ở đây, ai thắng được ba người trong bọn tôi, thì sẽ bình an đưa ra khỏi cửa, không làm khó gì. Tôn sư sao lại quá tự cao thân phận, không chịu hạ mình chỉ dạy cho bọn chúng tôi là sao?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Gia sư thà chết chứ không chịu nhục. Đường đường là chưởng môn phái Nga Mi, đời nào lại chịu cầu xin sống còn dưới tay các người sao? Cô nương nói quả không sai, gia sư coi bọn tiểu nhân âm độc hèn hạ không ra gì, không thể cùng chúng động thủ quá chiêu.

Triệu Mẫn không nổi giận, mỉm cười:

- Thế còn Chu cô nương thì sao?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Tôi tuổi còn nhỏ, có gì dám tự mình quyết định đâu? Sư phụ bảo thế nào thì tôi cứ làm đúng thế.

Triệu Mẫn hỏi:

- Tôn sư bảo cô không động thủ với chúng tôi, có phải thế không? Thế là vì duyên cớ gì?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Kiếm pháp của phái Nga Mi, tuy không dám nói là tuyệt học gì cả, nhưng cũng là võ công của một danh môn chính phái Trung Nguyên, không thể để cho bọn phiên bang Hồ Lỗ vô liêm sỉ học trộm được.

Nàng nói câu đó thần thái thật là nhu mì, nhưng ngôn từ sắc bén, chẳng nể mặt chút nào.

Triệu Mẫn ngạc nhiên, không ngờ dụng tâm của mình lại để Diệt Tuyệt sư thái đoán ra được, nghe Chu Chỉ Nhược nói đến "tiểu nhân âm độc", rồi "vô sỉ chi đồ", không thể không nổi cáu, nghe soẹt một tiếng, thanh kiếm Ỷ Thiên đã cầm trong tay nói:

- Sư phụ ngươi chửi chúng ta là bọn vô sỉ ư? Được, để ta hỏi ngươi, thanh kiếm Ỷ Thiên này rõ ràng là bảo vật gia truyền nhà ta, sao phái Nga Mi lại ăn trộm là sao?

Chu Chỉ Nhược thản nhiên đáp:

- Ỷ Thiên kiếm và Đồ Long đao, trước nay là hai món lợi khí của võ lâm Trung Nguyên, không nghe nói có liên can gì đến bọn phiên bang cả.

Triệu Mẫn mặt đỏ lên, giận dữ nói:

- Hừ, xem ra miệng lưỡi ngươi đáo để lắm. Ngươi nhất định không ra tay phải không?

Chu Chỉ Nhược lại lắc đầu. Triệu Mẫn nói:

- Người khác tỉ thí mà thua, hoặc không chịu động thủ thì ta chặt một ngón tay. Còn con nhãi này chắc nó cho là hoa dung nguyệt mạo cho nên mới kiêu ngạo đến thế, ta cũng chẳng thèm chặt tay nó làm gì.

Nói xong nàng giơ tay chỉ khổ đầu đà nói:

- Để ta làm cho ngươi giống vị đại sư phụ kia, trên mặt rạch hai ba chục nhát kiếm, xem ngươi có còn kiêu ngạo nữa không nào?

Nàng phất tay một cái, hai tên áo vàng liền xông lên, mỗi đứa nắm một bên tay Chu Chỉ Nhược. Triệu Mẫn cười khẩy:

- Muốn rạch mặt ngươi nát như tổ ong, chẳng cần phải sử dụng kiếm pháp tinh diệu của phái Nga Mi làm gì. Chỉ cần mấy miếng mèo quào của ta thôi, để xem có biến ngươi thành xấu như ma được không?

Chu Chỉ Nhược nước mắt doanh tròng, thân hình run rẩy, thấy mũi thanh kiếm Ỷ Thiên chỉ còn cách mặt mình vài tấc, con ác ma này chỉ nhấn một cái, trong nháy mắt mình sẽ chẳng khác gì gã đầu đà quái đản kia ngay. Triệu Mẫn cười hỏi:

- Ngươi có sợ không hả?

Chu Chỉ Nhược không còn dám ương ngạnh, gật đầu. Triệu Mẫn nói:

- Hay lắm, thế là ngươi chịu hàng phải không?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Ta không hàng, ngươi cứ giết ta đi.

Triệu Mẫn cười:

- Ta trước nay chưa từng giết người. Ta chỉ rạch nát mặt ngươi ra thôi.

Ánh sáng lóe lên, trường kiếm trong tay Triệu Mẫn đã đâm vào mặt Chu Chỉ Nhược. Đột nhiên nghe keng một tiếng, một vật từ bên ngoài điện ném vào, đẩy Ỷ Thiên kiếm trệch qua một bên. Ngay lúc đó, cửa sổ vỡ tung, một người phi thân nhảy vào, hai tên đang nắm Chu Chỉ Nhược không hiểu sao bay văng lên. Người đó giơ tay đỡ ngang người Chu Chỉ Nhược, tay phải đánh ra, cùng Lộc Trượng Khách hai bên trao đổi một chưởng nghe bùng một tiếng, mỗi người đều lùi lại hai bước.

Mọi người nhìn kỹ hóa ra chính là giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ. Chàng ra mặt chẳng khác gì tướng nhà trời bay xuống, ai nấy đều kinh hãi giật mình, ngay cả loại cao thủ bậc nhất như Huyền Minh nhị lão cũng không biết trước tí nào. Lộc Trượng Khách nghe thấy trường song bị vỡ, lập tức nhảy lên trước mặt Triệu Mẫn hộ vệ, đánh với Trương Vô Kỵ một chưởng, thế nhưng chân không đứng vững, phải lùi hai bước, toan đề khí tiến lên thì thấy trong ngực nóng ran chẳng khác nào rơi vào trong một lò lửa.

Chu Chỉ Nhược thấy đại họa lâm đầu, đâu ngờ lại có người ra tay cứu. Nàng được Trương Vô Kỵ ôm vào người, ép vào bộ ngực bề thế rắn chắc, mũi ngửi thấy một mùi đàn ông đậm đà, vừa mừng vừa sợ, trong một sát na thấy nhẹ nhàng thơ thới tưởng như muốn ngất đi. Trương Vô Kỵ dùng Cửu Dương thần công đối địch với Huyền Minh thần chưởng của Lộc Trượng Khách, chân khí toàn thân trào lên, Chu Chỉ Nhược trước nay chưa từng đụng chạm với da thịt đàn ông, huống chi người con trai đó lại chính là người nàng ngày đêm mơ tưởng, rày ước mai ao? Trong lòng nàng cảm thấy một niềm vui sướng không đâu kể hết, dù cho kẻ địch bốn bề có xông tới chém xuống nghìn vạn nhát dao, nàng cũng không hề sợ hãi.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu thấy giáo chủ xông vào cứu người, lập tức cũng nhảy vào theo, chia ra đứng giữ hai bên. Thủ hạ của Triệu Mẫn thấy biến cố bất ngờ, lúc đầu cũng hơi rối loạn, nhưng thấy bên địch chỉ có ba người, các võ sĩ canh gác trong ngoài nghe tiếng đáp ứng, biết rằng ngoài ra không còn ai khác nữa, lập tức chia nhau chặn giữ các cửa nẻo, chờ lệnh Triệu Mẫn.

Triệu Mẫn không tỏ ra kinh hãi, cũng không giận dữ, chỉ ngẩn ngơ nhìn Trương Vô Kỵ một cái, rồi đưa mắt xuống khối vàng lấp lánh ở góc phòng. Thì ra khi nàng dùng Ỷ Thiên kiếm rạch mặt Chu Chỉ Nhược, Trương Vô Kỵ ném một vật vào, đẩy mũi kiếm ra, vật đó chính là cái hộp vàng nàng đã tặng cho chàng.

Thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén lạ thường, vừa đụng phải, lập tức chặt đứt đôi cái hộp. Nàng nhìn hai mảnh vỡ một hồi, nói:

- Anh ghét cái hộp đó đến thế, không làm hỏng nó thì chưa vừa lòng hay sao?

Trương Vô Kỵ thấy ánh mắt nàng đầy vẻ u oán, tuyệt nhiên không có vẻ gì trách cứ tức tối, dường như thê thảm không đâu kể xiết, hơi ngẩn ngơ, cảm thấy hối hận, nhỏ nhẹ đáp:

- Tôi không mang ám khí, trong cơn hốt hoảng thò tay vào túi, chỉ có cái hộp đó thôi, thực không có ý gì, mong cô nương tha lỗi.

Ánh mắt Triệu Mẫn sáng lên, hỏi lại:

- Cái hộp này công tử luôn luôn mang theo ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế.

Chàng thấy Triệu Mẫn chăm chăm nhìn mình, còn mình trong tay vẫn ôm Chu Chỉ Nhược, mặt hơi đỏ lên, vội buông tay ra. Triệu Mẫn thở dài nói:

- Tôi không biết Chu cô nương là... là bạn của anh, nếu không đâu có đối xử với cô ta như thế. Thì ra hai người...

Nói đến đây nàng quay đầu nhìn sang chỗ khác. Trương Vô Kỵ nói:

- Chu cô nương và tôi... chưa có gì hết... chỉ là... chỉ là...

Chàng nói hai tiếng "chỉ là", không nói tiếp được nữa. Triệu Mẫn lại đưa mắt nhìn hai mảnh hộp vàng dưới đất, không nói gì nhưng trong ánh mắt, thần sắc cũng chẳng khác gì nói lên nghìn lời. Chu Chỉ Nhược trong bụng hơi hoảng: "Con nữ ma đầu này đối với chàng thật là lưu luyến, không lẽ..."

Trương Vô Kỵ bụng dạ đâu có được sâu sắc như hai cô gái, thần sắc của Triệu Mẫn tuy chàng cũng lờ mờ đôi phần nhưng đâu có hiểu thâm ý bên trong. Chàng chỉ thấy rằng Triệu Mẫn tặng cho mình hộp vàng, hoa ngọc để trị cho Du Đại Nham và Ân Lê Đình khỏi tàn phế, nay làm hỏng nó đi, xem ra có điều không phải, nên rảo bước tới góc điện cúi xuống nhặt hai mảnh hộp lên nói:

- Để tôi đi kiếm thợ hàn nó lại.

Triệu Mẫn mừng rỡ nói:

- Có thật không?

Trương Vô Kỵ gật đầu, nghĩ thầm cả cô lẫn tôi đều thống suất vô số anh hùng hào kiệt, lại quá coi trọng cái hộp chẳng quan trọng chút nào là sao? Cái hộp vàng này mặc dầu tinh vi nhưng đâu có phải quí giá lạ lùng gì, còn cao bên trong thì đã dùng hết, cái hộp không còn dùng vào việc gì nữa, có hỏng cũng chẳng đáng hối tiếc, có hàn lại thì cũng chỉ là chuyện nhỏ nhoi. Chàng thấy trước mắt còn biết bao nhiêu việc lớn phải làm, vậy mà cô gái này cứ hỏi đi hỏi lại chuyện cái hộp, đúng là bụng dạ đàn bà quan tâm đến những vật nho nhỏ nên bỏ luôn hai mảnh đó vào túi.

Triệu Mẫn nói:

- Thế thì đi đi.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến Tống đại sư bá và những người khác chưa cứu được ra, đâu có thể đi được, nhưng bên địch cao thủ đông như kiến, bên mình lại chỉ có ba người, nói đến cứu người thật không phải dễ bèn nói:

- Triệu cô nương, cô bắt giữ cả bọn đại sư bá tôi là vì cớ gì?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Tôi vốn chỉ có lòng tốt muốn bọn họ ra sức cho triều đình cùng hưởng vinh hoa phú quí. Nào ngờ bọn họ cố chấp không nghe, ép họ không xong đành để từ từ khuyên giải.

Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, quay sang tiến đến bên cạnh Chu Chỉ Nhược. Chàng ở trong chốn đầy cao thủ mà đi đến nhặt cái hộp rồi đi về tự nhiên tưởng chừng như chỗ không người. Trương Vô Kỵ lạnh lùng nhìn quét qua một lượt, nói:

- Nếu đã như thế, bọn chúng tôi xin cáo từ.

Nói xong cầm tay Chu Chỉ Nhược, xoay người định ra đi. Triệu Mẫn hậm hực nói:

- Các người muốn đi, tôi cũng không giữ lại làm gì. Thế nhưng nếu công tử muốn dẫn Chu cô nương theo, cũng chẳng thèm nói với tôi một tiếng thì công tử coi tôi là hạng người gì?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cái này quả thực tại hạ khiếm lễ. Triệu cô nương, xin cô thả Chu cô nương để cô ta đi cùng với chúng tôi.

Triệu Mẫn không trả lời, đưa mắt ra hiệu cho Huyền Minh nhị lão. Hạc Bút Ông tiến lên một bước nói:

- Trương giáo chủ đến là đến, đi là đi, muốn cứu ai là cứu, thế thì còn mặt mũi nào bọn già chúng tôi nữa? Nếu ông không lưu lại một tuyệt kỹ, anh em chúng tôi không thể tâm phục được.

Trương Vô Kỵ nhận ngay ra tiếng của Hạc Bút Ông, lửa giận bừng bừng, quát:

- Năm xưa khi ta còn bé, bị ngươi bắt được, tính mệnh tưởng như không còn. Hôm nay ngươi còn mặt dày mày dạn đến nói chuyện với ta nữa sao? Tiếp chiêu.

Nghe vù một tiếng, chàng đã đánh ngay một chưởng vào Hạc Bút Ông. Lộc Trượng Khách mới rồi bị chàng cho nếm mùi đau khổ, biết rằng nếu chỉ một mình Hạc Bút Ông thì không phải là địch thủ của chàng, liền tiến lên đánh ra một chưởng. Trương Vô Kỵ tay phải đánh Hạc Bút Ông, tay trái đánh lòn dưới tay phải, trả lại Lộc Trượng Khách một đòn. Đây là chân lực đấu với chân lực, không ai có thể khéo léo ma mãnh gì được cả. Ba người bốn chưởng đụng nhau, ai nấy đều lảo đảo.

Hôm trước trên núi Võ Đương, Huyền Minh nhị lão song chưởng đánh với Trương Vô Kỵ, hai tay kia liền đánh ngay vào người Trương Vô Kỵ, lần này cũng giở đòn cũ, lại đánh thêm hai chưởng ra. Trương Vô Kỵ đã bị đòn một lần, lẽ nào lại còn đi theo vết xe cũ? Cùi chỏ chàng hơi chìm xuống, thi triển Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, nghe bụp một tiếng lớn, tả chưởng của Hạc Bút Ông liền đánh ngay vào hữu chưởng của Lộc Trượng Khách.

Hai người cùng học một thầy, chưởng pháp giống nhau, công lực ngang ngửa, cả hai liền bị chấn động đến cánh tay rã rời, còn làm cách nào mà hai sư huynh đệ lại đánh lẫn nhau, hai người võ công tuy cao, nhưng cũng không sao hiểu được cái áo diệu bên trong. Hai người còn đang kinh hãi tức tối, song chưởng của Trương Vô Kỵ đã đánh đến nơi. Huyền Minh nhị lão lại hai tay đánh ra, một bên thủ, một bên công, chưởng pháp hai người hoàn toàn khác hẳn hồi nãy. Thế nhưng Trương Vô Kỵ lại vừa dẫn vừa kéo, tả chưởng của Lộc Trượng Khách lại đánh trúng ngay hữu chưởng của Hạc Bút Ông. Càn Khôn Đại Na Di thủ pháp thật là khéo léo, tính toán lại thật là vừa vặn, không ai có thể ngờ nổi.

Huyền Minh nhị lão đều kinh hãi thất sắc, thấy Trương Vô Kỵ đánh ra lần thứ ba, không hẹn mà cùng đưa đơn chưởng ra chống đỡ. Ba người chân lực đụng nhau, Huyền Minh nhị lão thấy chưởng lực đối phương có một luồng thuần dương chân khí cuồn cuộn tuôn ra, khó mà đương cự nổi. Trương Vô Kỵ phát chưởng nhanh như gió, nghĩ đến năm xưa bị Hạc Bút Ông đánh một chưởng, trong mấy năm liền chịu biết bao thống khổ, cho nên chưởng đánh vào Lộc Trượng Khách còn nhẹ tay, còn đối với Hạc Bút Ông thật không nể nang chút nào.

Hơn hai mươi chưởng đánh ra, khuôn mặt xanh của Hạc Bút Ông biết thành đỏ rực. Y lại thấy đối phương đánh tới liền nhứ tay trái định hóa giải, tay phải tiếp theo hết sức đánh ra. Chỉ nghe hai tiếng bộp bộp, chưởng của Hạc Bút Ông trúng ngay vai Lộc Trượng Khách, còn chưởng của Trương Vô Kỵ trúng ngay ngực y. Trương Vô Kỵ chưa muốn lấy mạng đối phương, chưởng đó chỉ mới dùng ba thành chân lực, Hạc Bút Ông thân hình loạng choạng ọe một cái, hộc ra một ngụm máu tươi, khuôn mặt từ đỏ thành tím bầm. Nếu Trương Vô Kỵ thừa thế đánh thêm một chưởng thì y sẽ chết ngay tại đương trường, còn Lộc Trượng Khách vai bị trúng đòn, đau đến mặt mày biến sắc, môi cắn chặt bật cả máu ra.

Huyền Minh nhị lão là hai thủ hạ cao cường nhất của Triệu Mẫn, nào ngờ chưa đầy ba mươi chiêu đã bị thương cả. Các thủ hạ võ sĩ khác ai nấy thất sắc, ngay cả Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cũng kinh ngạc không ngờ. Hai người đã từng chính mắt trông thấy Huyền Minh nhị lão ra tay trên núi Võ Đương, Trương Vô Kỵ trúng chưởng bị thương, ngờ đâu chỉ qua vài tháng lại có thể tiến triển nhanh đến thế. Thế nhưng hai người cũng nghĩ ra ngay, Trương Vô Kỵ ở lại núi Võ Đương vài tháng, một mặt chữa trị cho Du Đại Nham và Ân Lê Đình, một mặt học thêm của Trương Tam Phong những võ công tinh vi áo diệu, thành ra Cửu Dương thần công, Càn Khôn Đại Na Di, với tuyệt học của phái Võ Đương là Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm cả ba dần dần dung hợp thành một. Hai người càng nghĩ càng thấy Trương Tam Phong võ học kỳ tài, quả xứng đáng với bốn chữ "không sao lường nổi".

Huyền Minh nhị lão đấu chưởng bại rồi, cả hai cùng hú lên một tiếng, đồng thới lấy binh khí ra. Lộc Trượng Khách trong tay cầm một thanh đoản trượng đen nhánh, đầu gậy chia ra hai nhánh như chiếc sừng hươu, không biết đúc bằng chất gì. Còn Hạc Bút Ông tay cầm song bút, đầu bút nhọn như mỏ chim hạc, sáng loáng như gương. Hai người đi theo Triệu Mẫn đã lâu, thế nhưng ngay nàng cũng chưa từng thấy họ sử dụng binh khí bao giờ. Ba món binh khí đó đánh ra, chỉ thấy một làn hắc khí, hai làn bạch khí quấn Trương Vô Kỵ vào giữa. Trương Vô Kỵ không mang binh khí, tay chân không quả có bất lợi, nhưng chàng chẳng sợ hãi gì, muốn thử xem võ công mình đến đâu, có thể tay không đánh với hai cao thủ được không.

Huyền Minh nhị lão tự cho mình nội lực thâm hậu, Huyền Minh thần chưởng là tuyệt học trong thiên hạ nên vừa bước ra liền cùng chàng đối chưởng, ngờ đâu Cửu Dương thần công không gì sánh kịp, chỉ vài chục chưởng đã thua. Binh khí của họ chỉ dùng chiêu số kỳ lạ để thắng, tên của hai người chính là do binh khí mà thành, đoản trượng sừng hươu và song bút mỏ hạc, chiêu nào chiêu nấy vô cùng lợi hại, trên đời ít thấy. Trương Vô Kỵ tập trung tinh thần, giữa ba món binh khí lượn qua lượn lại, công thủ dễ dàng nhưng nhất thời chưa nhìn ra đường đi nước bước của đối phương, muốn thắng cũng không phải dễ. Cũng may là Hạc Bút Ông mới bị thương nên ra chiêu chậm đi một chút.

Triệu Mẫn vỗ tay ba tiếng, trong điện ánh sáng lấp loáng, ba người tấn công Dương Tiêu, bốn người tấn công Vi Nhất Tiếu, còn hai người giơ binh khí chế ngự Chu Chỉ Nhược. Dương Tiêu lập tức cướp ngay được một thanh kiếm múa lên như ánh chớp, thoáng một cái đã khiến một người bị thương. Vi Nhất Tiếu cậy mình có khinh công tuyệt thế, dùng Hàn Băng Miên Chưởng đánh ngã hai người. Thế nhưng bên địch người quá đông, đánh ngã một người thì lập tức có hai người tiến lên.

Trương Vô Kỵ bị Huyền Minh nhị lão ngăn chặn, không cách gì có thể phân thân cứu viện. Chàng và Dương Vi ba người muốn chạy thoát, thật không có gì là khó, nhưng muốn cứu Chu Chỉ Nhược thì thật không sao làm được. Đang trong cơn gấp rút, bỗng nghe Triệu Mẫn nói:

- Tất cả ngừng tay.

Tuy tiếng nàng không lấy gì làm lớn nhưng các thủ hạ đều tuân lệnh, vội vàng lùi ra. Dương Tiêu vứt thanh kiếm xuống đất, Vi Nhất Tiếu cũng đoạt được một thanh đơn đao, thuận tay ném trả nguyên chủ, cười lên ha hả. Trương Vô Kỵ thấy một gã cầm đoản đao dí vào lưng Chu Chỉ Nhược, không khỏi lo lắng. Chu Chỉ Nhược buồn bã nói:

- Trương công tử, xin ba vị cứ tự nhiên. Tâm ý của ba vị, tiểu nữ cực kỳ cảm kích.

Triệu Mẫn cười nói:

- Trương công tử, cô gái hoa nhường nguyệt thẹn này, đến tôi cũng thích. Có phải cô ta là ý trung nhân của công tử không?

Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên nói:

- Chu cô nương và tôi biết nhau từ nhỏ. Tại hạ khi còn bé trúng phải Huyền Minh thần chưởng của vị này...

Nói tới đây chỉ vào Hạc Bút Ông:

- ...âm độc vào trong cơ thể, toàn thân khó mà cử động, may nhờ Chu cô nương chăm sóc cho ăn cho uống, cái ân đức đó, không bao giờ quên.

Triệu Mẫn nói:

- Nếu như thế, hai người có cái tình thanh mai trúc mã[1]đấy nhỉ? Anh định lấy nàng làm giáo chủ phu nhân, phải không?

Trương Vô Kỵ mặt lại đỏ lên nói:

- Hung nô chưa diệt, nói gì đến chuyện gia thất.

Triệu Mẫn mặt sầm xuống nói:

- Anh nhất định chống tôi đến cùng, không diệt được tôi thì không được, có phải vậy chăng?

Trương Vô Kỵ lắc đầu nói:

- Cho đến giờ này tôi nào đã biết gì về lai lịch của cô, tuy trước đây có vài lần tranh chấp, nhưng lần nào cũng là do cô tìm đến gây chuyện với Trương Vô Kỵ, đâu có phải Trương mỗ tìm cô nương kiếm chuyện. Chỉ cần cô nương thả sư bá sư thúc cùng các môn phái võ lâm ra, tại hạ cực kỳ cảm kích, không dám có địch ý với cô nương. Huống chi cô còn sai tôi làm ba chuyện, tại hạ nhất định tận tâm kiệt lực, không dám dối dá cho xong.

Triệu Mẫn thấy chàng nói thật thành khẩn, trên mặt liền hiện vẻ vui mừng, chẳng khác gì bông hoa vừa hé nhụy, cười nói:

- Ha, thì ra anh vẫn chưa quên.

Nàng quay sang liếc Chu Chỉ Nhược một cái, nói với Trương Vô Kỵ:

- Nếu cô nương này không phải là ý trung nhân của anh, cũng không phải sư huynh sư muội, vợ chồng chưa cưới, thì nếu tôi có hủy dung mạo cô ta cũng có liên quan gì đến anh...

Nàng đưa mắt một cái, Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông lập tức cầm binh khí đứng chắn ngay trước mặt Chu Chỉ Nhược, còn một hán tử cầm dao sắc, để luôn vào mặt Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ nếu như muốn xông lên cứu người, cái ải Huyền Minh nhị lão chưa dễ qua được. Triệu Mẫn cười nhạt nói:

- Trương công tử, anh có nói thực cho tôi không nào?

Vi Nhất Tiếu đột nhiên ngửa tay ra, nhổ một bãi nước bọt vào lòng bàn tay, giơ ra xoa xoa mấy cái vào gót giày, cười lên ha hả, mọi người chưa biết y định làm trò quỉ gì, bỗng hấy một ánh xanh thấp thoáng. Triệu Mẫn cảm thấy má mình như có ai sờ phải, nhìn lại Vi Nhất Tiếu thì y đã đứng lại chỗ cũ nhưng tay cầm thêm hai thanh đoản đao, không biết lấy được của ai. Triệu Mẫn chợt động tâm, biết rằng không ổn, chẳng dám đưa tay chùi mặt, vội lấy khăn tay ra lau quả nhiên khăn đen sì bùn đất, đúng là nước bọt trộn chất bẩn nơi gót giày của Vi Nhất Tiếu, càng nghĩ càng thêm lợm giọng.

Vi Nhất Tiếu nói:

- Triệu cô nương, cô muốn hủy dung mạo Chu cô nương, cái đó cũng tùy cô. Thế nhưng nếu như cô tâm địa độc ác thế, họ Vi này cũng chẳng bỏ qua đâu. Hôm nay cô rạch một đường trên mặt Chu cô nương, họ Vi này sẽ trả lại gấp đôi, rạch cô hai nhát. Cô rạch hai đường, ta rạch lại bốn đường, cô chặt một ngón tay, ta chặt cô hai ngón.

Y nói đến đây, lấy hai thanh đoản đao trong tay gõ vào nhau nghe keng một tiếng, tiếp:

- Họ Vi này nói được là làm được, Thanh Dực Bức Vương nói ra giữ lời, trước nay chưa bao giờ nói ngoa. Cô đề phòng được sáu tháng, một năm chứ làm sao đề phòng được tám năm, mười năm. Còn cô muốn sai người giết tôi ư, chưa chắc đuổi kịp. Cáo từ nhé!

Chữ "nhé" vừa dứt, y đã biến đâu mất, chỉ nghe hai tiếng phập phập, hai thanh đoản đao đã cắm vào trên cột, tiếp theo "Ối chà" "Ối" hai tiếng, hai tên phiên tăng ngồi phịch xuống, trường kiếm trong tay đã bị Vi Nhất Tiếu đoạt mất từ hồi nào, huyệt đạo trên người cũng bị điểm trúng.

Mấy câu đó Vi Nhất Tiếu nói ra nghe chẳng có ghê gớm, nhưng ai cũng biết y không chỉ dọa xuông, thấy khuôn mặt trắng trẻo của Triệu Mẫn có ẩn nét hồng, trên làn da mịn màng như mỡ đông kia bị Vi Nhất Tiếu quẹt mấy đường đất bẩn. Nếu như trong tay y là một con dao, khuôn mặt nàng ắt đã bị hủy rồi. Thân pháp y nhanh như chớp, không khác gì quỉ mị thì dù có cao thủ như Trương Vô Kỵ cũng phải chịu thua. Nếu chạy đường dài, Trương Vô Kỵ còn có thể dựa vào nội lực mà thắng, nhưng nếu chỉ ở bên trong một gian phòng thì tiến thoái nhanh như thế, thiên hạ không ai có thể hơn y được.

Trương Vô Kỵ cúi mình vái chào, nói:

- Triệu cô nương, hôm nay đắc tội vậy xin cáo từ.

Nói xong dắt tay Dương Tiêu, quay mình đi ra khỏi điện, trong bụng biết rằng Triệu Mẫn bị Vi Nhất Tiếu dọa như thế, ắt không dám giở trò gì với Chu Chỉ Nhược đâu.

Triệu Mẫn nhìn bóng hai người đi khỏi, vừa thẹn vừa tức nhưng không dám ra lệnh cho người giữ lại.

Trương Vô Kỵ và Dương Tiêu về đến khách điếm, Vi Nhất Tiếu đã ngồi chờ sẵn. Trương Vô Kỵ cười nói:

- Vi Bức Vương, hôm nay ông làm cho họ tởn mặt, để biết rằng Minh giáo không phải dễ đối phó.

Vi Nhất Tiếu cười:

- Dọa một tiểu cô nương thì có gì là khó đâu. Nàng ta làm ra vẻ hung thần ác sát nhưng nghe tôi dọa hủy dung mạo, bảo đảm là ba ngày ba đêm sẽ không ngủ được cho mà xem.

Dương Tiêu cũng cười:

- Nàng ta ngủ không được thì thật không hay chút nào, bọn mình đến cứu người lại càng khó khăn thêm.

Trương Vô Kỵ nói:

- Dương tả sứ, nói đến cứu người, ông có diệu kế gì không?

Dương Tiêu ngần ngừ nói:

- Bên mình ở đây chỉ có ba người, huống chi hình tích lại đã bại lộ rồi, chuyện này quả là bó tay thôi.

Trương Vô Kỵ sượng sùng nói:

- Tôi thấy Chu cô nương bị nguy nhịn không nổi nên ra tay thành ra làm hỏng đại sự.

Dương Tiêu nói:

- Đã đến nước đó, ai thì cũng không nhịn nổi thôi. Giáo chủ một mình đánh bại Huyền Minh nhị lão làm cho bọn địch mất hết uy phong, cũng là hay lắm. Huống chi bọn chúng biết được là mình đã đến đây rồi, đối với nhóm Tống đại hiệp ắt không dám vô lễ quá đáng.

Triệu Mẫn đối với Hà Thái Xung, Đường Văn Lượng dày vò nhục nhã như thế, Trương Vô Kỵ nghĩ đến Tống đại sư bá, Du nhị sư bá các người đang nằm trong tay kẻ địch, không khỏi lo lắng rất mực. Ba người bàn thảo một hồi nhưng chưa tìm ra phương cách nào, đành phải chia tay đi ngủ.

Sáng sớm hôm sau, trong giấc ngủ Trương Vô Kỵ nghe dường như ngoài cửa sổ có tiếng động, lập tức tỉnh dậy, vừa mở mắt ra, thấy cánh cửa từ từ mở ra, có người thò đầu vào nhìn chàng. Chàng kinh hãi vén màn lên coi, thấy khuôn mặt đó nhằng nhịt đầy vết sẹo, xấu xí đến ghê người, chính là gã khổ đầu đà. Chàng định thần nhảy từ trên giường xuống, thấy y ngơ ngẩn nhìn mình, nhưng xem ra không có ý ra tay làm hại. Trương Vô Kỵ gọi lớn:

- Dương tả sứ, Vi Bức Vương.

Dương Vi hai người ở phòng bên lên tiếng đáp lại. Chàng cảm thấy yên tâm, thấy khuôn mặt khổ đầu đà đã biến mất sau cửa sổ, vội vàng theo đó nhảy ra, thấy khổ đầu đà đang hấp tấp đi ra khỏi cửa chính. Lúc đó Dương Vi đã đến nơi, thấy bên ngoài không còn kẻ địch nào khác, ba người liền đuổi theo khổ đầu đà. Khổ đầu đà đợi ngay góc đường, thấy ba người ra đến lập tức quay mình chạy về hướng bắc, tuy rảo bước nhưng không chạy. Ba người ra hiệu cho nhau, lập tức theo sau.

Khi đó trời mờ mờ sáng, trên đường còn vắng vẻ nên chẳng mấy chốc đã ra khỏi cửa bắc. Khổ đầu đà tiếp tục đi, rẽ vào một con đường nhỏ, rồi lại đi thêm đến bảy tám dặm, đến một cái gò đầy đá tảng, lúc ấy mới ngừng. Y quay lại vẫy tay ra hiệu cho Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu hai người đứng tránh ra, sau đó ôm quyền chào Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ hoàn lễ, trong bụng nghĩ thầm: "Gã đầu đà này đưa bọn ta đến đây không biết có dụng ý gì? Ở đây chung quanh không có ai, nếu như động võ, y một mình địch với ba người, quả thực vô cùng bất lợi. Xem cách thức của y dường như không có địch ý".

Chàng còn đang tính toán, khổ đầu đà đã gầm gừ, song trảo vồ tới. Y tay trái dùng hổ trảo, tay phải long trảo, mười ngón tay như mười cái móc, thế công cực kỳ mãnh liệt.

Trương Vô Kỵ tay phải vung lên hóa giải chiêu đó hỏi lại:

- Thượng nhân muốn gì? Xin nói rõ tôn ý trước, sau hãy hành động cũng chưa muộn.

Khổ đầu đà không để ý tới, làm như không nghe chàng nói gì, tay trái từ hổ trảo biến thành ưng trảo, tay phải từ long trảo biến thành hổ trảo, một bên đánh vào vai, một bên đánh vào bụng ra tay thật ác độc. Trương Vô Kỵ nói:

- Không lẽ không đánh nhau không được hay sao?

Khổ đầu đà chiêu lại biến ngay, ưng trảo liền thành sư chưởng, hổ trảo đổi ra hạc chủy, một bên đánh ra, một bên mổ tới. Chỉ mới ba chiêu, hai tay y đã biến sáu tư thức liền.

Trương Vô Kỵ không dám coi thường vội vàng thi triển Thái Cực Quyền, thân hình chẳng khác gì nước chảy mây trôi, đấu với y trên đống đá ngổn ngang. Khổ đầu đà chiêu số thật là phức tạp, có khi thì sử dụng võ công hoàn toàn quang minh chính đại, có lúc lại quái dị lạ lùng, toàn là võ công tà phái, rõ là tà chính kiêm tu, uyên bác vô cùng. Trương Vô Kỵ chỉ dùng Thái Cực Quyền để chiến đấu, đến bảy tám mươi chiêu, khổ đầu đà vù một tiếng, đánh một quyền thẳng vào trung cung. Trương Vô Kỵ dùng chiêu Như Phong Tự Bế, vây chặt lấy quyền lực của y, tiếp theo là chiêu Đơn Tiên, tay trái đánh vào lưng, nhưng chưởng đó không dùng nội lực, chỉ đụng tới rồi thu về.

Khổ đầu đà biết chàng hạ thủ lưu tình, nhảy về phía sau, nghiêng đầu nhìn Trương Vô Kỵ một hồi, đột nhiên giơ tay ra hiệu cho Dương Tiêu, muốn mượn thanh trường kiếm đang đeo. Dương Tiêu cởi giây buộc, cả kiếm lẫn bao hay tay thẩy tới trước mặt khổ đầu đà. Trương Vô Kỵ hơi ngạc nhiên thầm hỏi: "Tại sao Dương tả sứ lại đưa binh khí cho kẻ địch mượn là sao?".

Khổ đầu đà rút kiếm ra khỏi bao, ra hiệu cho Trương Vô Kỵ mượn kiếm của Vi Nhất Tiếu. Trương Vô Kỵ lắc đầu, cầm lấy cái vỏ trên tay y, sử chiêu "Thỉnh Thủ", dùng bao kiếm làm kiếm, tay trái thành kiếm quyết, múa vòng qua trước mặt, khổ đầu đà liền xeo xéo đâm lại một nhát. Trương Vô Kỵ đã thấy y dạy kiếm cho Triệu Mẫn, biết y kiếm thuật cực kỳ cao minh, nên sử dụng môn võ chàng nghiền ngẫm tập luyện mấy tháng qua trên núi Võ Đương là Thái Cực Kiếm, tập trung tinh thần tiếp chiến. Chỉ thấy đối phương kiếm chiêu khi nhanh khi chậm, chỗ nào cũng dấu những thế lợi hại, nhưng Trương Vô Kỵ vừa ra chiêu sách giải là y thu kiếm lại ngay, sử qua chiêu khác, làm như chẳng chiêu nào sử dụng đến đầu đến đũa.

Trương Vô Kỵ trong bụng khen thầm: "Nếu sáu tháng trước mình gặp phải y, kiếm pháp mình không phải là địch thủ. So với Bát Tí Thần Kiếm Phương Đông Bạch, khổ đầu đà còn cao hơn một mức".

Chàng nổi lòng yêu tài, không muốn thắng y bằng chiêu số. Khổ đầu đà trường kiếm múa tít lên, sử thế Loạn Phi Phong, lưỡi kiếm dưới ánh mặt trời chẳng khác gì hàng nghìn hàng vạn con rắn vàng đang lồng lộn. Chàng liền nhắm kỹ, đảo ngược cái bao kiếm lại, nghe soẹt một tiếng, bao kiếm đã chụp luôn vào lưỡi kiếm, hai tay khua một vòng nhẹ nhàng nắm ngay hai cổ tay khổ đầu đà, mỉm cười tung mình nhảy vọt về phía sau. Khi đó nếu tay chàng chỉ hơi sử kình thì đã đoạt ngay được thanh trường kiếm. Chiêu này dùng đoạt kiếm thật là hung hiểm, lại cũng thật là khéo léo.

Chàng nhảy về sau, chân chưa chấm đất, khổ đầu đà đã vứt trường kiếm xuống, nghe vù một tiếng đánh ngay một chưởng. Trương Vô Kỵ nghe tiếng gió, biết ngay chưởng này chân lực sung mãn, mạnh mẽ vô cùng, có ý muốn xem y nội công bực nào, chưởng phải xoay lại, đón ngay lấy chưởng của y, chân trái lúc ấy mới đụng đất. Chỉ trong giây lát, nội lực của khổ đầu đà cuồn cuộn tuôn ra, Trương Vô Kỵ liền vận Càn Khôn Đại Na Di cấp thứ bảy, đem nội lực của y dần dần tụ lại, đột nhiên quát lên một tiếng, đánh ngược trở về, không khác nào chiếc hồ tích đầy nước bất ngờ đổ ào đánh vỡ bờ đê, nước cuồn cuộn tuôn ra, bao nhiêu chưởng lực khổ đầu đà đánh tới nay trả lại.

Chiêu đó đem tất cả hơn một chục chưởng của đối phương tụ thành một chưởng đánh ra, trên đời không ai có thể có nội lực mạnh đến thế. Nếu như khổ đầu đà bị trúng chưởng này, ắt sẽ cổ tay, cánh tay, đầu vai, xương sườn tất cả đều gãy nát, đến máu cũng không ọc ra nổi, thành ra một khối thịt bầy nhầy, chết thảm khốc không sao kể xiết.

Khi đó song chưởng hai bên dính chặt vào nhau, khổ đầu đà không cách gì có thể né tránh, Trương Vô Kỵ tay trái liền thò ra nắm ngực y tung lên, thân thể cao to của khổ đầu đà bay vụt lên trời, nghe bình một tiếng lớn, loạn thạch bay tung tóe, chưởng lực ghê gớm đó đã đánh trúng ngay những tảng đá.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu đứng bên thấy tình hình như vậy, cả hai cùng kinh hãi kêu lên. Hai người nghĩ khổ đầu đà cùng giáo chủ tỉ đấu nội lực, ít ra cũng phải thời gian uống một chén trà mới phân cao thấp, đâu ngờ chỉ trong giây lát, đã đến lúc sinh tử quan đầu. Hai người trong bụng tuy có điều muốn nói, nhưng chưa kịp nói ra, đến khi khổ đầu đà bình an rớt xuống, lòng bàn tay hai người đều toát mồ hôi.

Khổ đầu đà hai chân vừa chạm đất, lập tức hai tay để theo hình ngọn lửa đang bốc cháy, đặt lên ngực, cúi mình chào Trương Vô Kỵ, nói:

- Tiểu nhân Quang Minh hữu sứ Phạm Dao, tham kiến giáo chủ. Kính tạ cái ơn tha chết, tiểu nhân vô lễ mạo phạm, mong được tha tội cho.

Y hơn chục năm qua không mở mồm nói, thanh âm không mấy tự nhiên. Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa sợ, gã khổ đầu đà câm này mở miệng nói ra, hóa ra lại là Quang Minh hữu sứ của bản giáo, chuyện đó không sao ngờ được. Chàng vội đưa tay đỡ y lên nói:

- Thì ra là Phạm hữu sứ của bản giáo, thật là mừng không sao kể xiết, người nhà với nhau không cần đa lễ làm gì.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu khi đi theo đến gò loạn thạch đã đoán được ba phần, chỉ hiềm diện mạo Phạm Dao biến đổi quá nhiều, không tiện lên tiếng hỏi. Đến khi y thi triển võ công, hai người đoán ra đến tám chín phần, bây giờ nghe y tự báo tính danh, hai người liền tiến lên, nắm chặt lấy tay y. Dương Tiêu chăm chăm nhìn mặt y một hồi, nước mắt lã chã nói:

- Phạm hiền đệ, ca ca đâu ngờ em lại ra nông nỗi này.

Phạm Dao cũng nắm tay Dương Tiêu nói:

- Đại ca, đa tạ Minh Tôn phù trì, cho mình một vị giáo chủ tài ba đến thế, cho nên anh em mới có dịp gặp gỡ hôm nay.

Dương Tiêu hỏi:

- Huynh đệ sao lại biến thành thế này là sao?

Phạm Dao đáp:

- Nếu như tiểu đệ không tự hủy dung mạo thì làm sao đánh lừa được tên gian tặc Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn?

Ba người nghe rồi mới biết y cố ý hủy khuôn mặt, lẻn vào nằm phục trong phe địch. Dương Tiêu càng thêm thương cảm, nói:

- Huynh đệ, cái đó thật là khổ cho ngươi.

Dương Tiêu, Phạm Dao hai người năm xưa được giới giang hồ gọi tên là "Tiêu Dao nhị tiên", là hai chàng trai tiêu sái đẹp đẽ, Phạm Dao lại tự mình hủy hoại nhan diện đến như thế, phải biết đau lòng đến chừng nào, người thường khó mà làm nổi. Vi Nhất Tiếu trước nay không mấy hòa thuận với Phạm Dao, bây giờ trong lòng cực kỳ cảm kích, phục xuống lạy nói:

- Phạm hữu sứ, Vi Nhất Tiếu này đến hôm nay mới thực sự phục ngươi.

Phạm Dao quì xuống trả lễ, cười nói:

- Vi Bức Vương khinh công độc bộ thiên hạ, còn hơn năm xưa nhiều, khổ đầu đà đêm qua quả thật mở mắt.

Dương Tiêu nhìn quanh bốn bề nói:

- Nơi này cách kinh thành không xa, tai mắt của kẻ địch rất nhiều, bọn mình đến thung lũng phía trước nói chuyện.

Bốn người chạy thêm mươi dặm nữa, đến sau một cái đồi. Ở đây nhìn chung quanh quan sát được cả dặm, không ngại có người nằm ẩn đâu đó nghe trộm, ở xa lại không nhìn thấy tình cảnh đẳng sau gò. Bốn người ngồi xuống, kể lại đầu đuôi khúc nhôi.

Năm xưa khi Dương Đính Thiên đột nhiên mất tích, các cao thủ Minh giáo tranh chấp địa vị giáo chủ, chẳng ai chịu nhường ai, đến thành chia năm xẻ bảy. Phạm Dao thì cho rằng giáo chủ chưa chết, một mình lê bước giang hồ, đi tìm tung tích của Dương Đính Thiên. Qua mấy năm liền không thấy chút dấu vết nào, về sau lại nghĩ hay là Cái Bang làm hại, lén bắt cóc mấy nhân vật trọng yếu của Cái Bang khảo đả bắt phải khai ra, nhưng không tìm được chút đầu mối nào, lại giết chết không ít bang chúng Cái Bang vô tội. Về sau nghe thấy người trong Minh giáo phân tranh, càng lúc càng thêm khốc liệt, lại có người đi tìm y, muốn y đứng lên làm đầu não. Phạm Dao tuyệt nhiên không có ý muốn tranh ngôi giáo chủ, cũng không muốn vướng vào vòng tranh chấp, nên ẩn trốn thật xa, lại e anh em trong Minh giáo gặp được nên để râu dài, giả làm một thư sinh già cả ngao du đó đây, tiêu dao tự tại.

Một hôm y ở Đại Đô gặp phải một người, nhận ra y là sư huynh của giáo chủ phu nhân Thành Côn, không khỏi ngầm kinh hãi. Lúc đó trong võ lâm đang loan truyền tin tức không ít cao thủ bị người giết chết, trên tường để lại hàng chữ: "Kẻ giết người là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn". Y muốn tra xét xem sự thực như thế nào, lại cũng muốn do thám xem tung tích Dương giáo chủ ở Thành Côn, nên đi theo ở xa xa. Y thấy Thành Côn đi vào một tòa tửu lâu, nơi đó đã có hai lão già đợi sẵn, chính là Huyền Minh nhị lão.

Phạm Dao biết Thành Côn võ công cao cường, nên ngồi xa xa giả vờ uống rượu, chỉ nghe loáng thoáng ba người nói chuyện nhưng nghe rõ ràng họ nói câu "cần phải phá hủy Quang Minh Đính". Phạm Dao nghe thấy bản giáo gặp nạn, không thể thõng tay không ngó ngàng gì, nên len lén đi theo, thấy cả ba người vào phủ Nhữ Dương Vương. Về sau lại tra ra là Huyền Minh nhị lão chính là hai cao thủ đứng đầu trong các võ sĩ của vương phủ.

Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ[2] làm quan Thái Úy, chấp chưởng binh mã đại quyền, trí dũng song toàn, là người tài ba nhất trong triều đình. Nghĩa quân vùng Giang Hoài khởi sự bị y đem quân tiễu trừ, mấy lần nổi lên đều thất bại cũng vì Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ điều binh có phương lược. Bọn Trương Vô Kỵ đã nghe tên y từ lâu, nay mới biết bọn Lộc Trượng Khách là thủ hạ của y, tuy không kinh hãi nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên.

Dương Tiêu hỏi:

- Thế Triệu cô nương đó là ai?

Phạm Dao hỏi lại:

- Đại ca thử đoán xem nào?

Dương Tiêu đáp:

- Chẳng lẽ cô ta là con gái của Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ?

Phạm Dao vỗ tay cười:

- Đúng đó, đoán một lần là đúng ngay. Nhữ Dương Vương sinh được một trai một gái, con trai là Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, con gái là cô nương đó, tên Mông Cổ của cô ta là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ. Khố Khố Đặc Mục Nhĩ là thế tử của Nhữ Dương Vương, sau này sẽ tập vương tước, còn cô gái được phong làm Thiệu Mẫn quận chúa. Cả hai người con đều hiếu võ, ai cũng giỏi võ công. Hai người lại thích ăn mặc như người Hán, nói tiếng Hán, lại lấy một cái tên Hán, con trai là Vương Bảo Bảo, con gái là Triệu Mẫn. Triệu Mẫn chính là từ tước hiệu Thiệu Mẫn quận chúa mà ra.

Vi Nhất Tiếu cười:

- Hai anh em nhà này kể cũng lạ, một người họ Vương, một người họ Triệu, nếu như là người Hán mình thì tức cười đến chết được.

Phạm Dao nói:

- Thật ra họ đều thuộc họ Đặc Mục Nhĩ, nhưng tên lại để trước, phong tục của phiên bang là như thế. Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ cũng có tên Hán, ông ta họ Lý.

Nói đến đây cả bốn người cùng cười ồ[3].

Dương Tiêu nói:

- Triệu cô nương dung mạo hình dáng, có thể nói là một mỹ nữ người Hán. Thế nhưng khi nhìn nàng hành sự, tính tình man dã của con gái phiên bang lập tức hiện ra ngay.

Trương Vô Kỵ đến bây giờ mới biết lai lịch của Triệu Mẫn, tuy vẫn biết nàng hẳn là quí nhân trong triều đình nhưng không ngờ lại là quận chúa con gái của vị đại nguyên soái thống lãnh thiên hạ binh mã. Mấy lần chàng đụng độ với cô ta, lần nào cũng bị lép vế không nhiều thì ít, tuy võ công nàng không bằng mình, nhưng mưu lược tâm cơ, biến hóa vô cùng, chàng quyết không phải là địch thủ.

Phạm Dao lại kể tiếp:

- Thuộc hạ vẫn ngầm thám thính, biết Nhữ Dương Vương quyết tâm tiêu diệt hết các môn phái bang hội. Y nghe theo kế của Thành Côn, việc đầu tiên là làm sao tiêu diệt bản giáo. Tôi suy nghĩ rất kỹ, nội bộ của mình đang phân tranh khốc liệt, ngoại địch lại mạnh mẽ như thế, cái họa diệt vong thật ngay trước mắt, muốn tìm cách cứu thì phải làm sao trà trộn vào trong vương phủ, tìm cho ra âm mưu của Nhữ Dương Vương, rồi tùy cơ giải cứu, ngoài cách đó ra, không còn cách nào khác.

Có điều tôi vẫn ngạc nhiên không hiểu được là Thành Côn vốn là sư huynh của Dương giáo chủ phu nhân, lại là sư phụ của Tạ Pháp Vương, vì sao lại đối đầu với bản giáo một cách quyết liệt tàn độc đến thế. Nguyên do bên trong, không thể nào nghĩ ra được, chỉ nghĩ y tham đồ phú quí diệt bản giáo để lập công với triều đình. Tuy những anh em trong bản giáo biết Thành Côn không nhiều nhưng tôi đã gặp y rồi sợ y sẽ nhận ra và mưu tính của tôi sẽ bị bại lộ nên phải nghĩ cách giết y cho được.

Vi Nhất Tiếu nói:

- Đúng là như thế.

Phạm Dao nói tiếp:

- Thế nhưng tên này quả thực giảo hoạt, võ công lại cao siêu, tôi liên tiếp ám toán y ba lần đều không thành công. Lần thứ ba tuy có đâm được y một kiếm, nhưng tôi cũng bị y đánh trúng một chưởng, cũng may mà chạy thoát được không đến nỗi lộ hình tích, nhưng cũng bị trọng thương phải dưỡng bệnh hơn một năm mới khỏi.

Khi đó Nhữ Dương Vương phủ đang toan tính việc tiêu diệt giới giang hồ, tôi nghĩ nếu mình có cải trang thì cũng chỉ được một thời gian. Năm xưa tôi cùng Dương huynh cùng nổi tiếng, trên giang hồ không phải là ít người biết mặt biết tên Tiêu Dao nhị tiên, nếu để lâu thể nào cũng lộ hình tích, đành nghiến răng hủy dung mạo mình, giả làm một đầu đà để tóc, dùng thuốc nhuộm đầu rồi đi sang nước Hoa Thích Tử Mô[4] bên Tây Vực.

Vi Nhất Tiếu lạ lùng hỏi:

- Sang bên Hoa Thích Tử Mô? Đường xa hàng vạn dặm, có liên can gì đến vụ này đâu?

Phạm Dao mỉm cười, đang định trả lời Dương Tiêu đã vỗ tay nói:

- Kế đó hay lắm. Vi huynh, Phạm huynh đệ sang nước Hoa Thích Tử Mô, tìm cách biểu diễn tài năng, các vương công Mông Cổ nhất định thu dụng. Nhữ Dương Vương đang lúc chiêu mộ võ sĩ bốn phương, vua chúa nước Hoa Thích Tử Mô muốn lấy lòng Nhữ Dương Vương thể nào chẳng đưa y sang vương phủ để lập công. Như thế, Phạm huynh đệ thành võ sĩ sắc mục từ bên Hoa Thích Tử Mô cống hiến, dung mạo lại biến đổi rồi, không mở miệng nói năng, Thành Côn dù có tài thánh cũng không nhận ra được.

Vi Nhất Tiếu thở dài một tiếng, nói:

- Dương giáo chủ để Tiêu Dao nhị tiên đứng trên Tứ Đại Pháp Vương, quả thực có mắt. Kế mưu đó Ưng Vương, Bức Vương không thể nào nghĩ ra được.

Phạm Dao đáp:

- Vi huynh khen quá lời. Quả đúng như Dương tả sứ đã liệu, tôi ở Hoa Thích Tử Mô giết sư tử đánh hổ, cũng có chút uy danh, vương công nơi đó liền đưa tôi vào Nhữ Dương Vương phủ. Thế nhưng lúc đó Thành Côn không còn ở trong vương phủ nữa không biết đi đâu.

Dương Tiêu liền thuật sơ qua cho Phạm Dao nghe Thành Côn kết oán với Minh giáo ra sao, lén lên Quang Minh Đính đánh trộm thế nào, rồi gian mưu bị Trương Vô Kỵ nói toạc ra sao, sau đấu nội lực với Ân Dã Vương chết như thế nào.

Phạm Dao nghe xong, ngơ ngẩn xuất thần, mới biết bên trong có nhiều điều uẩn khúc, đứng lên, cung kính nói với Trương Vô Kỵ:

- Giáo chủ, có một chuyện thuộc hạ phải thú tội với giáo chủ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Phạm hữu sứ hà tất quá khiêm tốn như thế.

Phạm Dao nói:

- Thuộc hạ đến Nhữ Dương Vương phủ rồi, để làm cho vương gia tin tưởng, tại nơi phố chợ kinh thành Đại Đô này, chính tay đánh chết ba tên hương chủ của bản giáo để cho mọi người biết bản nhân và Minh giáo đã có thù từ trước.

Trương Vô Kỵ không nói gì, nghĩ thầm: "Tàn sát anh em trong bản giáo là một trong năm điều đại cấm kỵ. Dương tả sứ, tứ pháp vương, ngũ hành kỳ các người tranh đoạt chức vị giáo chủ, tuy đánh nhau dữ dội nhưng không ai dám giết anh em trong Minh giáo. Tội này của Phạm hữu sứ thực không nhỏ, nhưng y bản tâm chỉ muốn hộ giáo, chẳng phải vì tư thù, theo lý thì không thể trách phạt y được". Chàng bèn nói:

- Phạm hữu sứ vì tấm lòng muốn hộ giáo, bản nhân không thể trách cứ được.

Phạm Dao khom mình nói:

- Tạ ơn giáo chủ tha tội.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Vị Phạm hữu sứ này hành sự tàn nhẫn cũng ít ai dám làm. Y dám rạch lên mặt mình bảy tám nhát dao, nếu có giết vài tên hương chủ trong bản giáo chắc y cũng chẳng coi vào đâu. Minh giáo bị người ta gọi là tà ma ngoại đạo, cũng có nguyên do, không biết làm sao mai này y có thể thay đổi cái tà khí đó được?".

Phạm Dao thấy Trương Vô Kỵ bề ngoài nói là "không thể trách cứ", nhưng mặt lại lộ vẻ bất bình, liền giơ tay rút phắt ngay kiếm Dương Tiêu đeo ngang lưng, tay trái vung lên, chặt đứt ngay hai ngón tay phải. Trương Vô Kỵ giật mình hoảng hốt, giơ tay giựt lại thanh kiếm, hỏi:

- Phạm hữu sứ, ông ... ông ...sao thế?

Phạm Dao đáp:

- Tàn sát anh em vô tội trong bản giáo là một trọng tội. Phạm Dao đại sự chưa thành, không thể tự tận, chặt hai ngón tay trước, ngày sau sẽ chặt cái đầu trên cổ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bản nhân đã tha có cái lỗi cũ của Phạm hữu sứ rồi, sao lại còn phải khổ như thế? Thân đang phải lo nhiệm vụ quan trọng ắt phải tòng quyền. Phạm hữu sứ, chuyện này về sau không đề cập nữa.

Chàng vội lấy kim sang ra rịt vào vết thương cho y, tự xé vạt áo mình băng lại, biết người này tính quật cường, nói năng không thể xúc phạm đến y mà đến vẻ mặt cũng không thể khó chịu. Chàng nghĩ đến đó, sợ y sau này tự vẫn tạ tội thật, y đã vì bản giáo mà phải chịu biết bao nhiêu đắng cay, trong lòng hết sức cảm động, đột nhiên quì xuống, nói:

- Phạm hữu sứ, ông lập đại công cho bản giáo, xin nhận một lạy này. Nếu ông còn tự tàn hại thân thể, ấy là bảo tôi vô đức vô năng, không xứng đáng với nhiệm vụ giáo chủ. Ông còn tự mình đâm một kiếm, tôi sẽ đâm tôi hai kiếm. Tôi tuổi trẻ kiến thức nông cạn, không rõ sự tình thành ra không phân biệt được thế nào là tốt thế nào là xấu.

Phạm Dao, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu thấy giáo chủ quì xuống cũng lật đật lạy phục dưới đất. Dương Tiêu gạt lệ nói:

- Phạm huynh đệ, ngươi không nên làm như thế. Bản giáo hưng suy toàn ở một mình giáo chủ, giáo chủ đã ra lệnh, ngươi nhất quyết không được vi phạm.

Phạm Dao lạy tạ nói:

- Thuộc hạ hôm nay tỷ kiếm thí chưởng, đối với giáo chủ dĩ nhiên kính phục lắm rồi. Khổ đầu đà tính tính ngang ngạnh, xin giáo chủ tha tội cho.

Trương Vô Kỵ hai tay đỡ y dậy. Chuyện này qua rồi, hai người trong lòng càng hiểu nhau hơn, không còn gì ngăn cách nữa. Phạm Dao lại kể tiếp những chuyện đã thấy đã nghe trong Nhữ Dương Vương phủ.

Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ thực sự là người có tài dùng binh, tuy nắm binh quyền nhưng triều chính bị kẻ gian chèn ép, lại thêm đương kim hoàng đế hôn ám vô đạo, khiến cho thiên hạ đại loạn, dân tâm công phẫn, toàn nhờ vào công Nhữ Dương Vương đông chinh tây thảo, đánh dẹp nghĩa quân. Thế nhưng diệt xong nơi này thì nơi khác lại nổi lên, không lúc nào yên, Nhữ Dương Vương vì bận chuyện điều binh khiển tướng nên chuyện tiêu diệt các môn phái bang hội phải dẹp qua một bên.

Mấy năm sau, con trai con gái của y khôn lớn, thế tử Khố Khố Đặc Mục Nhĩ theo cha chỉ huy quân, con gái Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ thì thống suất võ sĩ Mông Hán, phiên tăng Tây Vực tấn công các môn phái. Thành Côn đứng bên trong ngầm giúp nàng đưa ra sách lược, nhân dịp lục môn phái vây đánh Quang Minh Đính, Triệu Mẫn liền dẫn các đại cao thủ, mưu toan thừa cơ ngư ông đắc lợi, diệt luôn cả Minh giáo lẫn sáu đại môn phái. Việc hạ độc ở Lục Liễu Sơn Trang chính là vì thế mà ra. Có điều khi đó Phạm Dao phụng mệnh bảo vệ Nhữ Dương Vương nên không tham dự chuyến du hành Tây Vực, cho nên mãi về sau mới biết. Phạm Dao cho biết thêm, y ở phủ Nhữ Dương Vương tuy không lộ hình tích nhưng vì từ Tây Vực đến, Triệu Mẫn cũng không cho y tham gia chiến dịch, có lẽ đó cũng là chủ ý của Thành Côn không chừng.

Triệu Mẫn dùng độc dược các phiên tăng hiến cho nàng là Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, bỏ vào đồ ăn thức uống của sáu đại môn phái từ Quang Minh Đính trở xuống. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán này không sắc, không mùi, bỏ vào nước trà thì ai mà nhận ra cho được? Chất độc dược này một khi phát tác, lập tức toàn thân gân cốt mềm nhũn, một vài ngày sau, tuy có thể hành động như thường nhưng nội lực hoàn toàn không thể phát huy, cho nên các cao thủ của lục đại môn phái viễn chinh Quang Minh Đính chỉ trong vòng một tháng đều bị sa lưới.

Riêng phái Thiếu Lâm thì đoàn người thứ ba do Không Tính chỉ huy kẻ hạ độc sơ xuất bị lộ, hai bên liền giao tranh. Không Tính bị "A Tam" giết chết, những người còn lại không địch nổi Huyền Minh nhị lão, thần tiễn bát hùng cùng bọn "A Đại", "A Nhị", "A Tam" nên chết mất hơn chục người, số còn lại thì bị bắt cả.

Sau đó là tiến đánh ngay các cơ sở căn bản của các môn phái, đầu tiên là phái Thiếu Lâm. Chùa Thiếu Lâm phòng vệ nghiêm mật, muốn lẻn vào hạ độc thật không phải dễ, nếu tại các khách điếm nơi thị trấn trên đường đi bỏ thuốc độc thì dễ dàng hơn. Còn không hạ độc thì chỉ có cách lấy thịt đè người, ỷ đông tấn công vào.

Phạm Dao nói tiếp:

- Quận chúa muốn hạ thủ chùa Thiếu Lâm lại e không đủ người nên mới điều từ Đại Đô tới một nhóm tiếp viện, chính là do tôi dẫn đầu, cũng may là đi bắt bọn sư chùa Thiếu Lâm. Phái Thiếu Lâm trước nay vẫn vô lễ với bản giáo, cho chúng nó nếm mùi đau khổ thật không gì sướng bằng. Nếu có đem bọn sư sãi thối tha của chùa Thiếu Lâm giết sạch, khổ đầu đà này cũng chẳng thèm nhíu mày. Giáo chủ, chắc giáo chủ cũng muốn thế phải không? Ha ha.

Dương Tiêu vội cướp lời:

- Huynh đệ, vậy những pho tượng La Hán bị xoay lại cũng là do tay ngươi phải không?

Phạm Dao cười đáp:

- Tôi thấy quận chúa sai người đục mười sáu chữ sau lưng tượng, ý muốn giá họa cho bản giáo, nên lẻn quay trở lại, xoay các tượng La Hán. Đại ca, các người quả thực tinh tế, vậy mà vẫn nhìn thấy được. Khi đó đại ca có nghĩ là tiểu đệ chăng?

Dương Tiêu đáp:

- Bọn ta suy nghĩ rằng bên trong bọn đối đầu, hình như có một vị cao thủ ẩn bên trong duy hộ bản giáo, nhưng đâu có ngờ được rằng đó là hảo huynh đệ cùng hàng với ta hồi xưa.

Cả bốn người cùng cười ha hả. Dương Tiêu liền nói sơ qua cho Phạm Dao nghe, Minh giáo từ nay quyết định làm hòa với các môn phái khác, bỏ hết hiềm khích để cùng chung sức kháng quân Mông Cổ, do đó muốn cứu các cao thủ ra. Phạm Dao nói:

- Địch đông ta ít, chỉ có bốn người mình thật khó mà làm được việc này. Chi bằng đi tìm giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán cho bọn sư sãi thối tha, ni cô khắm khú, cùng bọn mũi bò uống, đợi chúng nó phục hồi công lực rồi cùng xông ra, đánh cho bọn Thát tử trở tay không kịp, sau đó tất cả chạy ra khỏi Đại Đô.

Minh giáo trước nay vẫn thù nghịch với các phái Thiếu Lâm, Võ Đương và danh môn chính phái nên lời ăn tiếng nói của y với lục môn phái chẳng nể nang tí nào. Dương Tiêu cứ nháy mắt với y luôn nhưng Phạm Dao chẳng hề để ý. Trương Vô Kỵ cũng không coi những tiểu tiết đó ra gì, vỗ tay nói:

- Lời của Phạm hữu sứ đúng lắm, nhưng làm sao có được giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bây giờ?

Phạm Dao nói:

- Tôi trước nay không mở lời, thành thử quận chúa đối với tôi tuy có chút kính nể, nhưng không bao giờ bàn những chuyện quan trọng cả. Chỉ một mình nàng nói, người kia không trả lời nửa câu chẳng mất hứng sao? Huống chi tôi lại từ một tiểu quốc bên Tây Vực sang, nàng ta không coi là kẻ tâm phúc, thành ra giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán ra thế nào tôi không hề hay biết. Tôi chỉ biết là chuyện này trọng đại nên cũng cố gắng để ý. Nếu tôi không nhầm, độc dược và giải được do Huyền Minh nhị lão chia nhau cầm giữ, một kẻ cầm độc dược, một kẻ cầm giải dược, nhưng luôn luôn đổi qua đổi lại.

Dương Tiêu thở dài:

- Cái nàng quận chúa nương nương đó quả thật lắm mưu mẹo, đàn ông con trai bình thường không sao theo kịp. Chẳng lẽ đến cả Huyền Minh nhị lão cô ta cũng chưa tin hẳn hay sao?

Phạm Dao đáp:

- Thứ nhất cô ta không yên tâm, thứ nhì làm như thế càng thêm kỹ càng. Chẳng hạn như mình lúc này định ăn trộm thuốc giải, đâu có biết được đang do Lộc Trượng Khách giữ hay là do Hạc Bút Ông giữ. Hơn nữa, nghe nói thuốc độc và thuốc giải hương vị màu sắc hoàn toàn giống nhau, ngoài người giữ thuốc ra không ai biết được. Người ngoài ăn trộm thuốc giải, không chừng lại lấy nhằm thuốc độc. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán lại có một chỗ rất ghê gớm là người trúng phải thuốc độc rồi, gân cốt mềm nhũn không cử động được, thế nhưng nếu uống thêm thuốc độc lần thứ hai, dù chỉ một tí xíu, lập tức máu chạy ngược lên, ngừng thở chết liền không thuốc gì cứu được.

Vi Nhất Tiếu le lưỡi nói:

- Nếu thế thuốc giải không thể nào lấy nhầm được.

Phạm Dao nói:

- Nói thế nhưng cũng không có gì quan trọng. Bọn mình cứ lấy thuốc của cả Huyền Minh nhị lão, kiếm một tên đệ tử tép riu nào của phái Hoa Sơn, Không Động gì đó cho uống thử, nếu y chết thì là thuốc độc, thế có phải tiện không?

Trương Vô Kỵ biết tà tính của y rất nặng, không coi tính mạng người khác ra gì, chỉ mỉm cười nói:

- Cái đó không được. Thế lỡ mình tốn bao nhiêu công sức lại chỉ ăn cắp được toàn là thuốc độc cả thì sao?

Dương Tiêu vỗ đùi nói:

- Giáo chủ nói vậy phải lắm. Đêm hôm qua mình đến quấy rối như thế, chắc làm cho quận chúa sợ lắm rồi, có thể giữ luôn giải dược ngay bên mình. Theo ý tôi, mình phải tra xét rõ ràng xem ai giữ thuốc giải trước đã, sau đó mới tính kế mà làm.

Y trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Huynh đệ, Huyền Minh nhị lão kia thích cái gì hơn cả?

Phạm Dao cười đáp:

- Lộc hiếu sắc, Hạc hiếu tửu thế thôi chứ chẳng còn thích gì nữa.

Dương Tiêu bèn hỏi Trương Vô Kỵ:

- Giáo chủ, có loại thuốc gì làm cho người ta gân cốt mềm nhũn, giống như là uống phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán chăng?

Trương Vô Kỵ suy nghĩ một chốc, cười nói:

- Nếu muốn cho toàn thân không còn chút hơi sức nào, mơ mơ màng màng buồn ngủ thì không khó, nhưng dùng cho cao thủ thì chỉ được nửa giờ dược lực sẽ hết, còn để được lâu dài như Thập Hương Nhuyễn Cân Tán thì không có cách nào cả.

Dương Tiêu cười đáp:

- Được nửa giờ cũng đủ rồi. Thuộc hạ có một kế này, không biết có dùng được hay không, nhờ giáo chủ xem thế nào. Nói là kế thực không bõ cười. Phạm huynh đệ làm sao dụ được Hạc Bút Ông đi uống rượu, trong rượu bỏ thuốc giáo chủ chế ra. Sau đó Phạm huynh đệ sẽ giải vờ làm dữ nói là trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán của Hạc Bút Ông, lúc đó giải dược ở trong tay ai là mình biết liền, thừa cơ đoạt lấy đem ra cứu người.

Trương Vô Kỵ nói:

- Kế đó có dùng được hay không, cũng còn tùy tính tình Hạc Bút Ông ra sao mới biết được, Phạm hữu sứ ông thấy sao?

Phạm Dao duyệt lại trong óc từ đầu chí cuối một lần, thấy kế đó tuy giản dị nhưng không có gì sơ hở liền nói:

- Tôi xem kế của Dương đại ca có thể làm. Hạc Bút Ông tính tình độc ác, nhưng mưu mẹo khôn ngoan không bằng Lộc Trượng Khách, nếu giải dược mà ở trong người Hạc Bút Ông, tôi võ công tuy không bằng y nhưng có thể đối phó được.

Dương Tiêu nói:

- Thế nếu giải dược ở trong người Lộc Trượng Khách thì sao?

Phạm Dao nhíu mày nói:

- Nếu thì thì khó thật.

Y đứng thẳng lên, tại bên cạnh ngọn đồi đi qua đi lại, một hồi lâu, bỗng vỗ tay một cái nói:

- Nếu như thế, Lộc Trượng Khách khôn ngoan hơn người, đánh lừa y thể nào y cũng nhìn ra được, chỉ có cách nắm đúng chỗ nhược của y. Nếu mình lấy ra để uy hiếp, y tính nặng nhẹ hơn thiệt, có chịu khuất phục hay không mình chưa biết. Đương nhiên chuyện ngang tàng thế này là chuyện mạo hiểm rất lớn, nhưng ngoài cách này ra không còn cách nào hay hơn.

Dương Tiêu hỏi:

- Lão ta có tâm sự gì vậy? Y già người trẻ bụng, có cái thóp nào huynh đệ nắm được chăng?

Phạm Dao đáp:

- Mùa xuân năm nay, Nhữ Dương Vương nạp thiếp, có mời mấy người chúng tôi đến hoa sảnh ăn tiệc. Nhữ Dương Vương muốn khoe người thiếp của mình xinh đẹp nên sai tân nương ra chuốc rượu. Tôi thấy đôi mắt cú vọ của Lộc Trượng Khách nhìn hau háu, mồm chảy nước dãi, dường như thèm muốn lắm.

Vi Nhất Tiếu hỏi:

- Rồi sau ra sao?

Phạm Dao đáp:

- Sau chẳng sao cả, đây là ái thiếp của vương gia, dù y lớn mật đến mấy, cũng chẳng dám giở trò gì.

Vi Nhất Tiếu nói:

- Chỉ nhìn hau háu thì đâu đã tội vạ gì?

Phạm Dao nói:

- Chẳng tội vạ gì thì mình làm cho thành tội vạ. Chuyện này phải nhờ đến Vi huynh thi triển khinh công, đến cướp ái cơ của Nhữ Dương Vương đem về, vứt vào giường của Lộc Trượng Khách. Cha già dê đó mười phần đến tám chín sẽ nhịn không nổi, thể nào cũng làm láo làm lếu một phen. Nếu y có cố gắng gò cương bờ vực, tôi cũng cứ xông vào phòng, khiến cho y có mồm cũng không cãi được, có rửa cũng không sạch tội, chỉ có nước hai tay dâng giải dược lên thôi.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cùng vỗ tay cười nói:

- Cái kế chặn họng này quả là cao minh. Gã Lộc Trượng Khách kia gian ngoan cách mấy cũng sẽ bị ê mặt.

Trương Vô Kỵ vừa tức cười vừa ngại ngùng nghĩ thầm những người thuộc hạ mình hành sự gian trá âm độc, so với các thủ hạ của Triệu Mẫn cũng chẳng khác gì, chỉ điều một bên thiện, một bên ác, hai bên cách biệt rất xa, lấy gậy ông đập lưng ông, có thể nói là dĩ độc công độc. Chàng nghĩ đến đó cũng thấy yên tâm, mỉm cười nói:

- Chỉ có điều làm lụy đến người ái cơ của Nhữ Dương Vương.

Phạm Dao cười đáp:

- Tôi sẽ xông ngay vào phòng, không để cho Lộc Trượng Khách sơ múi gì, thế là xong.

Sau đó bốn người bàn tính cẩn thận, lấy được giải dược rồi sẽ do Phạm Dao đem vào trong tháp, chia cho cao thủ các phái Thiếu Lâm, Võ Đương uống. Trương Vô Kỵ và Vi Nhất Tiếu ở bên ngoài tiếp ứng, một khi thấy Phạm Dao nổi lửa tại chùa Vạn An, thì cũng đốt nhà dân chúng chung quanh, quần hiệp sẽ thừa cơ náo loạn chạy được ra ngoài. Dương Tiêu sẽ mua ngựa trước, dự bị xe cộ chờ sẵn nơi cửa tây, những người chạy ra sẽ chia nhau lên chạy tới Xương Bình gặp lại. Trương Vô Kỵ nghĩ đến chuyện đốt nhà dân chúng, không khỏi làm liên lụy người vô tội, Dương Tiêu nói:

- Giáo chủ, mọi việc không phải lúc nào cũng hai mặt đều chu toàn. Bọn mình cứu được quần hiệp sáu môn phái ra, mai sau nếu đuổi được Thát tử đó là tạo phúc cho muôn vạn dân lành, hôm nay nếu có phải hại vài trăm gia đình, cái đó cũng không đáng gì.

Bốn người kế sách đã định rồi, chia nhau vào thành lo liệu. Dương Tiêu thì đi lo mua ngựa mua xe, Trương Vô Kỵ điều chế một liều thuốc mê. Để cho bớt mùi thuốc, chàng phải thêm ba loại hương liệu để khi trộn vào rượu rồi, uống vào vẫn thấy thơm ngon. Vi Nhất Tiếu đi ra chợ mua một cái túi vải lớn, chờ trời tối sẽ lẻn vào Nhữ Dương Vương phủ cướp người ái cơ của vương gia.

*

* *

Phạm Dao và Huyền Minh nhị lão vì có nhiệm vụ canh chừng các cao thủ của lục đại môn phái nên đều ở luôn trong chùa Vạn An, còn Triệu Mẫn thì ở trong vương phủ, đến tối mới đánh xe tới chùa học võ. Phạm Dao mang thuốc mê về chùa Vạn An, nghĩ đến hơn hai mươi năm qua Minh giáo chia năm xẻ bảy, bây giờ mới có cơ trung hưng, không uổng công lao mình phải chịu muôn vàn khổ sở, trong lòng cảm thấy bồi hồi. Trương giáo chủ võ công cao cường, lại là người thật là nhân nghĩa khiến ai ai cũng tâm phục nhưng vì thiếu cái tính quyết liệt độc địa, không khỏi có tính mềm yếu đàn bà quả là mỹ trung bất túc.

Y ở bênh cánh tây, còn Huyền Minh nhị lão thì ở tại Bảo Tương tinh xá nơi hậu viện. Bình thời y cũng ngại hai gã này, sợ có khi lộ tẩy nên rất ít giao du, thành thử hai bên ở xa xa nhau, lúc này nghĩ đến việc mời Hạc Bút Ông đi uống rượu mà sao không lộ hình tích quả không phải dễ.

Y nhìn về phía sau chùa thấy mặt trời đang ngả về tây, hơn một nửa của mười ba tầng bảo tháp đã khuất nắng, mái ngói lưu ly trên đỉnh cũng nhạt dần. Y chưa biết phải tính sao, chắp hai tay sau lưng đi lững thững về phía hậu viện, đột nhiên ngửi thấy mùi thịt thật thơm từ hàng hiên đối diện với Bảo Tương tinh xá tỏa ra, chính là nơi ở của Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Tồi, hai người trong thần tiễn bát hùng.

Phạm Dao chợt động tâm, đi đến trước sương phòng giơ tay đẩy cửa, mùi thịt liền bay thốc vào mũi. Lý Tứ Tồi đang ngồi xổm dưới đất đang quạt lấy quạt để một cái lò lửa đỏ hồng, trên lò để một cái nồi đất lớn, hương thơm từ đó bay ra. Tôn Tam Hủy thì đang xếp bát dọn đũa, rõ ràng hai tên đang sắp sửa đánh chén.

Hai người thấy khổ đầu đà đẩy cửa bước vào, giật mình kinh hãi, nhìn y mặt mày đăm đăm không khỏi chột dạ. Chúng mới rồi đánh chết một con chó vàng ngoài đường, chặt bốn chân len lén đem về phòng nấu ăn. Chùa Vạn An là chỗ sư sãi thanh tu, ở trong chùa đun thịt chó quả thực không phải. Chuyện này giá như người ngoài nhìn thấy thì cũng không đến nỗi nào nhưng khổ đầu đà này lại là đệ tử nhà Phật, y mà nổi nóng, đánh cho một trận, hai đứa không sao địch lại. Võ công khổ đầu đà đã cao cường, huống chi lại lỗi về phần họ, nếu như bị đòn cũng đáng.

Hai đứa đang phập phồng lo sợ, thấy khổ đầu đà đi đến bên bếp lửa, mở vung ra, nhìn vào rồi hít một hơi dài dường như muốn nói: "Thơm quá, thơm quá!". Y đột nhiên thò tay vào trong nồi, không kể nước đang sôi sùng sục, nhón lấy một miếng thịt, bỏ vào mồm nhai nhồm nhoàm, chỉ giây lát ăn hết sạch. Y liếm môi xem chừng có vẻ ngon lắm khiến Tôn Lý hai người mừng không để đâu cho hết, vội nói:

- Mời khổ đại sư ngồi xuống đây, ngồi xuống đây. Chúng tôi có biết đâu lão nhân gia cũng thích món thịt cầy.

Khổ đầu đà không ngồi, lại thò tay vào nồi bốc thêm một miếng thịt khác, ngồi chồm hổm ngay bên bếp lửa mà ăn. Tôn Tam Hủy muốn lấy lòng y, rót ngay một bát rượu đem đến. Khổ đầu đà cầm bát rượu lên ực một hơi, đột nhiên nhổ toẹt xuống đất, tay trái đưa lên xua xua nơi mũi, ý nói rượu cay quá, uống không vừa miệng, đứng lên tất tả bước ra khỏi phòng.

Tôn Lý hai người thấy y hầm hầm bỏ đi, lại đâm lo, nhưng chẳng mấy chốc lại thấy y tay cầm một bầu rượu lớn quay lại, lúc ấy mới hoàn hồn, vui mừng nói:

- Đúng vậy, đúng vậy. Rượu của chúng tôi không phải loại ngon, khổ đại sư có mỹ tửu đem tới thì thật còn gì bằng.

Hai người vội vàng dọn bàn xếp bát cung kính mời khổ đầu đà ngồi chỗ thượng thủ, đem thịt chó bày đầy một mâm để ngay trước mặt. Khổ đầu đà võ công thật cao cường, là loại đệ nhất trong đám thủ hạ của Triệu Mẫn, bình thời thần tiễn bát hùng đâu có dám vói cao, hôm nay may sao lại mời được y ăn thịt chó, biết đâu lão nhân gia lại vui lòng truyền cho một hai tuyệt chiêu, thật cả đời dùng không hết.

Khổ đầu đà mở chiếc nút gỗ trên đầu hồ lô, rót ra ba bát. Rượu này màu vàng ánh, đặc sánh như mật ong, vừa rót ra đã bốc lên thơm ngát. Tôn Lý hai người cùng reo lên:

- Rượu ngon quá, ngon quá!

Phạm Dao nghĩ thầm: "Không biết Huyền Minh nhị lão có nhà không, nếu như y đi khỏi chưa về thì phen này mình thật phí công". Y cầm bát rượu bở vào nồi nước đang sôi, lúc đó thịt chó nấu đã nhừ, hơi bốc lên càng làm mùi rượu thêm nồng. Tôn Lý thèm nhỏ dãi, đang định cầm rượu lên, khổ đầu đà liền giơ tay ra hiệu đừng vội, bảo hai người bỏ rượu vào hâm trước rồi hãy uống. Ba người thay phiên nhau hâm rượu, mùi bốc ra thơm lừng, Hạc Bút Ông chẳng ở trong chùa thì thôi, nếu không thì dù có cách mấy dãy nhà cũng phải ngửi thấy.

Quả nhiên từ bên phía Bảo Tương tinh xá nghe tiếng mở cửa kẹt một cái rồi nghe tiếng Hạc Bút Ông:

- Rượu ngon quá, ngon quá, hà hà.

Y chẳng khách khí gì liền đi qua sân đẩy cửa bước vào, thấy khổ đầu đà và Tôn Lý ba người ngồi bên bếp lửa uống rượu ăn thịt, đang lúc thích chí. Hạc Bút Ông ngạc nhiên cười nói:

- Khổ đại sư, hóa ra ngài cũng thích món này, đâu có ngờ mình lại là chỗ đồng đạo với nhau.

Tôn Lý hai người vội đứng dậy mời:

- Hạc công công, mời ngài ngồi uống vài chén, đây là mỹ tửu của khổ đại sư, chẳng mấy khi có được.

Hạc Bút Ông liền ngồi ngay trước mặt khổ đầu đà, hai người là khách mà làm như chủ ăn uống thật tận tình, còn Tôn Lý thành ra kẻ hầu bưng thịt rót rượu. Bốn người cao hứng ngồi uống một hồi, người nào cũng ngà ngà say. Phạm Dao nghĩ thầm: "Ta hạ thủ là vừa". Y liền tự rót cho mình một bát đầy, tiện tay để cái bầu rượu nằm xuống. Thì ra y đã khoét rỗng cái nút đậy hồ lô, để bột thuốc Trương Vô Kỵ chế ra vào trong đó, bên ngoài bọc hai lần vải. Bầu rượu nếu để đứng thì bột thuốc không xuống được, bốn người chỉ uống rượu bình thường nhưng một khi để nằm xuống, rượu ngấm qua lần vải làm tan thuốc, rượu trong bình nay biến thành rượu độc. Đáy bầu vốn tròn, để đứng để nằm chẳng ai để ý, huống chi bốn người uống đã một lúc lâu, đang lúc mềm môi hơi men bừng bừng.

Phạm Dao thấy Hạc Bút Ông cầm bát rượu lên uống một hơi cạn sạch liền mở nắp rót thêm rượu cho y. Hạc Bút Ông thấy bát của mình đã đầy, tiện tay cũng châm thêm cho Tôn Lý, thấy bát của khổ đầu đà vẫn còn nguyên nên không rót. Bốn người liền bưng bát lên uống ừng ực.

Chỉ trừ Phạm Dao ra, ba người kia đều uống phải rượu độc. Tôn Lý hai người nội lực kém, độc tửu vừa vào bụng, chỉ giây lát đã thấy chân tay bải hoải, toàn thân rã rời không còn chút hơi sức nào. Tôn Tam Hủy liền nói:

- Tứ đệ, bụng ta sao có gì trục trặc.

Lý Tứ Tồi cũng nói:

- Ta ... ta ... cũng dường như trúng độc.

Lúc này Hạc Bút Ông cũng đã thấy khác, vội vận khí, nội tức sao không đưa lên được, mặt liền biến sắc. Phạm Dao liền đứng ngay lên, mặt hầm hầm, chộp ngực Hạc Bút Ông, miệng ú ớ gầm gừ nhưng không nói ra được. Tôn Tam Hủy sợ hãi nói:

- Khổ đại sư, chuyện gì thế?

Phạm Dao giơ ngón tay chấm vào rượu, viết lên trên bàn năm chữ "Thập Hương Nhuyễn Cân Tán". Tôn Lý hai người đều biết Thập Hương Nhuyễn Cân Tán do Huyền Minh nhị lão cất giữ, thấy tình hình trước mắt xem ra khổ đầu đà và mình đều bị trúng phải thuốc độc này. Hai người đưa mắt nhìn nhau, khom lưng nói với Hạc Bút Ông:

- Hạc công công, anh em chúng tôi đâu có dám mạo phạm với lão nhân gia, xin ngài nương tay cho.

Tôn Lý cho rằng Hạc Bút Ông chắc chỉ muốn ra tay đối phó với khổ đầu đà, hai người chẳng may vướng vào tròng, cùng mắc phải cái vạ giữa đàng chứ đối phó với họ thì cần gì phải dùng đến độc dược.

Hạc Bút Ông cũng kinh ngạc vạn phần, Thập Hương Nhuyễn Cân Tán tháng này do y giữ, rõ ràng cất bên trong cây bút mỏ hạc phía bên trái, hai món binh khí đó là vật bất ly thân, dẫu có kẻ nào muốn trộm thuốc từ trong mình ra thật không sao làm được. Thế nhưng y vừa vận khí thấy không cách gì có thể dụng lực, thì đúng là trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán không sai vào đâu. Thực ra thuốc mê do Trương Vô Kỵ điều chế tuy có mạnh thật nhưng khác xa Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, tình trạng lúc uống vào cũng không giống tí nào. Thế nhưng Hạc Bút Ông chỉ nghe là uống Thập Hương Nhuyễn Cân Tán vào thì gân cốt mềm nhũn, chân tay bải hoải nhưng chính mình chưa hề thử bao giờ, thành ra tuy hai loại thuốc khác nhau xa nhưng y làm sao phân biệt được? Chỉ thấy khổ đầu đà vừa hoảng hốt, vừa giận dữ, còn Tôn Lý hai người đứng bên van xin không ngớt nên không nghi ngờ liền nói:

- Khổ đại sư đừng có nóng, mình là chỗ anh em, tại hạ làm gì có ý gia hại? Chính tôi cũng trúng phải thuốc độc, thân thể rã rời, không biết đứa nào làm trò ma mãnh, thật là lạ.

Phạm Dao lại chấm tay vào rượu viết lên mấy chữ: "Lấy thuốc giải mau". Hạc Bút Ông gật đầu nói:

- Đúng thế, mình uống thuốc giải trước đã, sau đó sẽ tìm tên gian tặc nào giở trò ra tính sổ với nó sau. Giải dược ở bên mình Lộc sư ca, xin khổ đại sư cùng đi với tôi.

Phạm Dao trong bụng mừng thầm, không ngờ kế của Dương Tiêu lại dễ dàng đến thế, biết ngay giải dược đang ở trong tay ai. Y giơ tay nắm cổ tay Hạc Bút Ông, cố ý làm ra vẻ lảo đảo đi về phía Bảo Tương tinh xá. Hạc Bút Ông thấy y dường như đi không nổi, trong bụng mừng thầm: "Gã khổ đầu đà này võ công vốn dĩ cực cao, nhưng chưa bao giờ anh em mình có dịp cùng y so tài cao thấp, xem y trúng độc rồi chân đi không vững, chắc nội lực kém mình xa lắc".

Hai người đi đến trước cửa tinh xá, căn phòng phía nam là của Hạc Bút Ông, còn phòng phía bắc là của Lộc Trượng Khách, thấy phòng phía bắc cửa đóng kín mít. Hạc Bút Ông gọi lớn:

- Sư ca có nhà không?

Lập tức có tiếng Lộc Trượng Khách từ bên trong đáp lời. Hạc Bút Ông giơ tay đẩy cửa, nào ngờ cửa cài then từ bên trong. Y kêu lên:

- Sư ca mở cửa mau, có việc gấp.

Lộc Trượng Khách nói:

- Chuyện gấp cái gì? Ta đang luyện công, ngươi đừng đến quấy rầy có được không?

Hạc Bút Ông và Lộc Trượng Khách cùng học một thầy, không ai kém ai nhưng một là Lộc Trượng Khách vai sư huynh, hai nữa y trí mưu hơn nhiều nên Hạc Bút Ông đối với y có phần tôn kính, nghe giọng y có vẻ không vui không dám réo nữa.

Phạm Dao nghĩ chuyện này không nên dây dưa, một khi thuốc mê tan rồi thì mình sẽ bị lộ tẩy nên chẳng nói chẳng rằng, ghé vai ẩy một cái, then cửa gãy ra, cánh cửa mở toang, nghe tiếng đàn bà kêu rú lên.

Lộc Trượng Khách đang đứng bên cạnh giường, nghe thấy tiếng cửa mở, quay đầu nhìn ra, vẻ mặt cực kỳ sượng sùng. Phạm Dao thấy trên giường có một người đàn bà, toàn thân quấn trong một chiếc chăn mỏng, chỉ hở cái đầu, bên ngoài tấm vải có buộc dây, trông như một cuộn mành mành. Người đàn bà tóc xõa ra ngoài, da dẻ trắng muốt, dung nhan cực kỳ diễm lệ, nhìn ra chính là Hàn thị, người ái cơ Nhữ Dương Vương mới nạp, bụng nghĩ thầm: "Vi Bức Vương quả nhiên giỏi thật, một mình vào ra vương phủ, bắt được Hàn cơ rồi".

Thực ra tuy Nhữ Dương Vương phủ canh gác cẩn mật nhưng tựu trung các võ sĩ chỉ hộ vệ vương gia, thế tử và quận chúa, còn cơ thiếp của Nhữ Dương Vương rất đông nên chẳng ai nghĩ đến việc có người đến cướp đem đi nên phải canh phòng. Hơn nữa Vi Nhất Tiếu đến nhanh như chớp, lại biến hóa thật gọn gàng, vừa vào phủ là vác ngay Hàn cơ đi, thật là thần không hay quỉ không biết. Còn như làm sao bỏ được vào trong phòng Lộc Trượng Khách thật khó hơn nhiều, y phải đợi cả nửa ngày mới gặp được lúc Lộc Trượng Khách ra đi cầu, lẻn vào đặt Hàn cơ lên trên giường, rồi lặng lẽ bỏ đi.

Lộc Trượng Khách trở về thấy có một người đàn bà nằm trên giường, vội vàng nhảy lên mái nhà, nhìn chung quanh bốn bề thì lúc đó Vi Nhất Tiếu đã chạy xa rồi, ngoài phòng Tôn Lý vọng ra tiếng ăn nhậu rức lác, không còn gì khác. Lộc Trượng Khách thấy việc này quả thật quái lạ, nhưng lặng thinh thản nhiên quay về phòng, nhìn lại cô gái kia, không khỏi trố mắt há hốc mồm. Ngày hôm đó vương gia nạp cơ có làm tiệc đãi luôn một số cao thủ hữu danh, nàng Hàn cơ kia lúc kính tửu mủm mỉm cười, Lộc Trượng Khách tuy tuổi đã cao nhưng cũng không khỏi mê mẩn. Y tham dâm hiếu sắc, một đời làm hại không biết bao nhiêu đời đàn bà con gái lương gia, nay thấy Hàn cơ xinh đẹp, trong bụng không khỏi tiếc rẻ, sao không sớm gặp được mỹ nhân. Nếu như trước khi vương gia lấy về mà trông thấy thì làm sao thoát được tay y. Về sau y có nghĩ đến mấy lần nhưng lại kiếm được người mới nên cũng quên đi. Bây giờ không hiểu đâu từ trời rơi xuống nàng Hàn cơ lại nằm ngay trên giường.

Y vừa sợ vừa mừng, suy nghĩ qua lập tức đoán ngay chắc là đại đệ tử Ô Vượng A Phổ biết được tâm ý sư phụ, nên lén đến cướp Hàn cơ đem về. Y thấy nàng thò đầu ra khỏi tấn chăn cuốn, mặt cổ nước da trắng ngần, thấp thoáng bờ vai trần, dường như trên người không mặt quần áo, y bụng phập phồng hỏi nhỏ vì sao nàng lại tới đây. Hỏi luôn mấy câu, Hàn cơ không trả lời, Lộc Trượng Khách bấy giờ mới biết nàng đã bị điểm trúng huyệt đạo, đang toan giơ tay giải huyệt, đột nhiên Hạc Bút Ông đến trước cửa, rồi nghe cửa bị khổ đầu đà phá vỡ.

Biến cố đó thật là bất ngờ, Lộc Trượng Khách tuy rất ư là quỉ quyệt nhưng muốn che đấu cũng không kịp nữa rồi. Y chợt nghĩ ra, e chừng vương gia phát giác ái cơ bị cướp, sai khổ đầu đà đến tróc nã mình, việc đến nước này chỉ còn nước chạy là hơn cả. Chỉ nghe soẹt một tiếng, trượng đầu hươu đã nằm trong tay y, tay trái ôm luôn Hàn cơ lên, toan bề phá cổ sổ nhảy ra.

Hạc Bút Ông kinh hãi kêu lên:

- Sư ca, mau đưa giải dược đây.

Lộc Trượng Khách hỏi lại:

- Cái gì?

Hạc Bút Ông nói:

- Tiểu đệ và khổ đại sư chẳng hiểu vì sao trúng phải chất độc Thập Hương Nhuyễn Cân Tán.

Lộc Trượng Khách ú ớ:

- Ngươi nói sao?

Hạc Bút Ông lại nhắc lại lần nữa, Lộc Trượng Khách lạ lùng hỏi:

- Thập Hương Nhuyễn Cân Tán chẳng phải do ngươi giữ hay sao?

Hạc Bút Ông đáp:

- Tiểu đệ chẳng biết táy máy thế nào cả bốn người đang ngồi uống rượu nhậu nhẹt, đột nhiên cả bọn đều bị trúng độc. Lộc sư ca, mau đem thuốc giải cho bọn tôi uống đi nào.

Lộc Trượng Khách nghe nói thế hồn phách bình tĩnh lại, để Hàn cơ lại trên giường, xoay mặt nàng về bên trong. Hạc Bút Ông vốn biết vị sư ca này tính tình phong lưu, trong phòng y có đàn bà con gái, cũng không lấy gì làm lạ nên chẳng để ý, huống chi Hạc Bút Ông trúng độc rồi, hồn vía lên mây còn hơi đâu mà để ý xem người đó là ai. Dẫu có bình thời y cũng không nhận ra vì hôm đó trong bữa tiệc nơi vương phủ, Hàn cơ bước ra mời rượu chỉ chào một cái rồi đi, Hạc Bút Ông chăm chăm vào việc uống rượu đâu có để ý xem người đàn bà đeo vòng ngọc, mặc áo gấm kia đẹp hay xấu?

Lộc Trượng Khách nói:

- Mời khổ đại sư về phòng Hạc huynh đệ nghỉ ngơi, tại hạ đem thuốc giải tới ngay.

Y vừa nói vừa giơ tay đẩy hai người ra khỏi phòng. Cái đẩy đó khiến cho Hạc Bút Ông lảo đảo, suýt nữa ngã. Phạm Dao cũng loạng choạng bước theo, giả vờ như nội lực cũng mất hết, tuy nhiên y nội lực thâm hậu, gặp ngoại lực tự nhiên sinh ra sức phản kích. Lộc Trượng Khách chỉ giơ tay ra lập tức phát giác sư đệ quả nhiên mất hết nội lực, khổ đầu đà thì giả vờ. Y sợ mình đoán nhầm, lại dụng lực đẩy thêm lần nữa, cả Hạc Bút Ông lẫn khổ đầu đà cùng ngã bổ chửng ra ngoài. Tuy cùng ngã, một người thân thể bông bênh, người kia rơi cái bịch.

Lộc Trượng Khách giả vờ như không cười nói:

- Khổ đại sư, quả thực đắc tội.

Nói rồi y đưa tay ra đỡ, vừa giơ tay đã nắm ngay hai huyệt Hội Tông và Ngoại Quan nơi cổ tay khổ đầu đà. Phạm Dao thấy y ra tay như thế, biết ngay mình đã bị bại lộ, tay trái vung lên, dùng trọng thủ đánh ngay vào huyệt Hồn Môn trên lưng Hạc Bút Ông, để cho y trong một thời gian thân thể uể oải không cử động được. Trong hai đại cao thủ trừ đi một người, còn một đánh một không sợ gì Lộc Trượng Khách. Y cất tiếng cười khẩy mấy tiếng nói:

- Ngươi không muốn sống hay sao mà dám đi trộm ái cơ của vương gia về đây?

Y vừa mở mồm nói, Huyền Minh nhị lão ngạc nhiên đến ngơ ngẩn cả người. Hai người biết khổ đầu đà đã mười lăm, mười sáu năm qua, chưa từng nghe y mở miệng nói một câu nào, vẫn tưởng trời sinh y câm. Lộc Trượng Khách tuy biết y chẳng phải tốt lành gì nhưng không ngờ y lại nói được, nên nghĩ ngay nếu như y cố tình đóng vai câm như thế thì tình cảnh như mình bây giờ ắt phải nguy nan, liền nói:

- Thì ra khổ đại sư không phải câm thật, hơn mười năm nay khổ tâm đóng kịch như thế là do cớ gì?

Phạm Dao đáp:

- Vương gia biết ngươi có bụng không ngay, sai ta giả làm thằng câm để tiện gần ngươi giám sát.

Câu đó đúng ra có rất nhiều sơ hở nhưng lúc này Hàn cơ đang nằm trên giường, Lộc Trượng Khách trong bụng có tà ý, không thể không tin, huống chi y vốn biết rõ Nhữ Dương Vương thích bày chuyện ràng buộc tròng tréo đối với thuộc cấp. Câu đó của Phạm Dao nói ra, Lộc Trượng Khách thấy thót cả ruột liền hỏi:

- Vương gia sai ngươi đến bắt ta ư? Ha ha, khổ đại sư võ nghệ tuy cao nhưng chưa chắc đã bắt Lộc Trượng Khách này giơ tay chịu trói được đâu?

Nói rồi y liền vung lộc trượng lên toan động thủ. Phạm Dao cười nói:

- Lộc tiên sinh, khổ đầu đà tuy võ công không bằng được ông, nhưng chắc hai bên cũng không hơn kém bao nhiêu. Nếu ông muốn đánh bại tôi, e rằng trong một hai trăm chiêu chưa chắc đã thắng. Ông thắng tôi một vài chiêu thì dễ nhưng nếu tính chuyện vừa ôm Hàn cơ đi, lại cứu cả sư đệ, Lộc Trượng Khách chắc gì đã có đủ tài làm chuyện đó.

Lộc Trượng Khách đưa mắt nhìn sư đệ, biết lời của khổ đầu đà chẳng phải ngoa. Y hai sư huynh đệ từ nhỏ học nghệ với nhau, lớn lên cho tới lúc già, mấy chục năm qua chưa rời xa nhau lấy một ngày. Hai người đều không vợ không con, có thể nói coi người kia như chính sinh mạng mình, bảo y bỏ sư đệ chạy lấy một mình, ắt không nỡ nào làm như thế.

Phạm Dao thấy y có vẻ động tâm liền quát gọi Tôn Lý hai người vào phòng, đóng chặt cửa lại nói:

- Lộc tiên sinh, việc này chưa bị bại lộ, cứ tin vào khổ đầu đà này nhất định sẽ che đậy cho ông đến nơi đến chốn.

Lộc Trượng Khách lạ lùng hỏi:

- Làm thế nào mà che đậy được?

Phạm Dao không quay đầu lại, thò tay ngược về sau điểm luôn huyệt câm và huyệt tê của hai gã Tôn Lý, thủ pháp nhanh nhẹn, nhận huyệt chuẩn xác, Lộc Trượng Khách cũng phải ngầm thán phục. Chỉ nghe khổ đầu đà nói tiếp:

- Chính ông không nói ra, lệnh sư đệ chắc chẳng thể nào làm khó sư huynh được, khổ đầu đà là người câm, từ nay vẫn là người câm không nói. Còn hai vị huynh đệ này, khổ đầu đà sẽ giúp ông bằng cách điểm vào tử huyệt để diệt khẩu, cái đó cũng chẳng đáng gì.

Tôn Lý hai người kinh hoàng thất sắc, nghĩ thầm chuyện này vốn dĩ chẳng liên quan gì đến mình, có ngờ đâu chỉ vì vài miếng thịt chó mà tội vạ ở đâu giáng xuống đầu, tuy muốn ngỏ lời van xin nhưng lại mở miệng không được. Phạm Dao lại chỉ vào Hàn cơ nói:

- Còn như cô hầu này, lão nạp đã sẵn hai phương sách. Một là phủi tay phủi chân, đem cô ta và Tôn Lý hai người xách đến chỗ nào vắng vẻ cho mỗi người một đao, báo cho vương gia hay cô nàng và tên đĩ đực Lý Tứ Tồi tằng tịu với nhau, hai đứa bỏ trốn bị khổ đầu đà bắt được, nổi giận giết cả gian phu dâm phụ, giết lây cả tên Tôn Tam Hủy. Cách thứ hai là do chính ông đem cô nàng đi dấu một nơi, về sau nếu có tiết lộ cơ mật cái đó là toàn ở ông cả.

Lộc Trượng Khách không khỏi quay đầu lại nhìn Hàn cơ một cái, thấy ánh mắt nàng đầy vẻ khẩn cầu, rõ là muốn y nhận giải pháp thứ hai. Lộc Trượng Khách nhìn khuôn mặt xinh đẹp trời cho kia, nếu như một đao giết chết quả thật là đáng tiếc, trong lòng rung động liền nói:

- Đa tạ ngươi đã sắp xếp cho ta chu đáo như thế. Vậy ngươi muốn ta làm gì nào?

Y biết rằng khổ đầu đà ắt có chuyện nhờ mình, nếu không chắc chẳn thể nào bỏ qua. Phạm Dao đáp:

- Việc này cũng thật là dễ. Chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái và tôi giao tình rất thâm, cô gái trẻ tuổi họ Chu kia là con tư sinh của tôi với lão ni cô. Cầu ông cho chút giải dược, rồi thả hai người đó ra. Trước mặt quận chúa, một mình lão nạp nhận hết cả, nếu mà có làm liên lụy đến ông thì gia đình khổ đầu đà và Diệt Tuyệt lão ni, trai trộm cắp, gái bán phấn buôn hương, chết không toàn thây, đời đời không được siêu sinh.

Y nghĩ Lộc Trượng Khách tính tình phong lưu, nếu dùng ngay truyện gái trai ra làm cớ thì dễ khiến y tin hơn. Y nghe Dương Tiêu nói anh em Minh giáo rất đông người chết dưới kiếm của Diệt Tuyệt sư thái, nên đặt ra ngay câu chuyện hoang đường hòa thượng ni cô kia. Y cả đời tà tính thành thói, ăn nói hành động không thể nào như một chính nhân quân tử bình thường. Còn như thề thốt "trai trộm cắp, gái bán phấn buôn hương" gì gì nữa, y cũng chẳng để tâm.

Lộc Trượng Khách nghe xong ngẩn người, nhưng lập tức mỉm cười, nghĩ thầm gã đầu đà này mọi chuyện đem ra bức bách mình thì ra là để cứu mụ tình nhân già cùng với đứa con gái, âu cũng là chỗ thường tình, việc này tuy rất nhiều nguy hiểm, nhưng đổi lại được một tuyệt sắc giai nhân, âu cũng đáng. Y thấy khổ đầu đà có chuyện cầu mình, trong bụng cởi được mối lo cười đáp:

- Vậy thì cướp ái cơ của vương gia đem tới đây, chắc cũng là do tay khổ đại sư phải không?

Phạm Dao đáp:

- Chuyện lớn như thế, lẽ nào chỉ tay không đến xin? Cũng phải có gì đền đáp chứ.

Lộc Trượng Khách mừng lắm, nhưng còn e bên ngoài có người nên không dám cười thành tiếng. Đột nhiên y nghĩ lại hỏi thêm:

- Thế thì sư đệ của ta tại sao lại trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán? Độc dược này ngươi ở đâu mà có được?

Phạm Dao đáp:

- Cái đó có khó gì đâu? Lệnh sư đệ hiện đang giữ độc dược, y là người tham ăm thích uống, uống đến lúc ngà ngà, khổ đầu đà ăn cắp gì mà không được?

Lộc Trượng Khách không còn nghi ngại gì nữa liền nói:

- Hay lắm! Khổ đại sư, huynh đệ kết giao bằng hữu với ngươi, ta quyết không bán ngươi mà ngươi cũng đừng đẩy ta vào chỗ khó như thế này nữa.

Phạm Dao chỉ vào Hàn cơ nói:

- Lần tới nếu còn một việc khó mà xinh đẹp như thế này, xin Lộc tiên sinh cứ sắp đặt để đưa khổ đầu đà vào tròng, lão nạp vui vẻ mà nhận ngay.

Hai người nhìn nhau cười, nhưng trong bụng mỗi người một chủ ý. Lộc Trượng Khách ngầm tính toán, chuyện khó khăn trước mắt một khi qua rồi, làm sao xuất kỳ bất ý giết chết gã ác đầu đà này. Phạm Dao biết rằng Lộc Trượng Khách tuy nhất thời bị mình bức bách, nhưng Huyền Minh nhị lão là loại người cỡ nào, bị một vố đau như thế đâu lẽ chịu bỏ qua, chỉ đợi khi an trí Hàn cơ xong xuôi, giải được huyệt cho Hạc Bút Ông rồi, lập tức sẽ kiếm mình động thủ, nhưng khi đó các cao thủ sáu đại môn phái đã cứu xong, mình đã cúp đuôi chạy mất rồi.

Phạm Dao thấy Lộc Trượng Khách chần chừ không chịu đưa thuốc giải ra, nghĩ bụng nếu mình thúc giục, y sẽ càng làm khó thêm, nên ngồi xuống cười nói:

- Lộc huynh sao không giải khai huyệt đạo cho Hàn cơ, cả bọn cùng uống vài chén cho vui? Dưới đèn ngắm mỹ nhân, cái diễm phúc đó mấy kiếp tu dễ gì có được.

Lộc Trượng Khách biết rằng chùa Vạn An người qua kẻ lại, Hàn cơ ở đây thêm khắc nào thì thêm một phần nguy hiểm liền lấy trượng sừng hươu ra, mở một nhánh, lấy một cái chén đổ vào chén một ít bột phấn nói:

- Khổ đại sư, ngươi quả là thần cơ diệu toán, huynh đệ cam chịu lép vế, giải dược đây mau cầm lấy.

Phạm Dao lắc đầu:

- Có chút xíu bột như thế thì làm được trò gì?

Lộc Trượng Khách nói:

- Đừng nói chi cứu hai người, đến sáu bảy người cũng đủ.

Phạm Dao nói:

- Sao ngươi nhỏ mọn thế, cho thêm chút nữa thì đã sao? Nói thực, các hạ túc trí đa mưu, khổ đầu đà này sợ lại bị mắc hỡm nữa.

Lộc Trượng Khách thấy y đòi thêm thuốc giải, đột nhiên khởi nghi nói:

- Khổ đại sư, ngươi định cứu chẳng phải chỉ Diệt Tuyệt sư thái và lệnh ái mà thôi, phải không?

Phạm Dao đang định nói khéo để giải thích cho qua, bỗng nghe bên trong chùa có tiếng chân rầm rập, bảy tám người chạy tới, nghe một người nói:

- Dấu chân đến tận đây, không lẽ Hàn cơ lại ở trong chùa Vạn An chăng?

Lộc Trượng Khách mặt liền biến sắc, chộp ngay cái ly chứa thuốc giải, bỏ ngay vào bọc, cho rằng Khổ đầu đà phục sẵn người ở bên ngoài đợi vừa có giải dược liền phản mình ngay.

Phạm Dao xua tay, bảo y đừng kinh hoảng, lấy một chiếc chăn mỏng chùm lên người Hàn cơ từ đầu đến chân rồi bỏ màn che xuống. Lại nghe một người hỏi:

- Lộc trượng tiên sinh có nhà không?

Phạm Dao chỉ chỉ vào miệng mình, ý muốn nói mình câm, nên bảo Lộc Trượng Khách lên tiếng trả lời. Lộc Trượng Khách lớn tiếng quát:

- Cái gì thế?

Người kia đáp:

- Vương phủ có một cơ nhân bị gian đồ cướp đi, theo dấu kẻ gian thì tới chùa Vạn An.

Lộc Trượng Khách hầm hầm nhìn Phạm Dao, ý muốn nói: "Nếu không phải ngươi cố ý giá họa, với tài nghệ của ngươi làm sao lại có dấu chân được?". Phạm Dao liền nhếch mép cười, giơ tay ra hiệu bảo y đuổi gã này đi, trong bụng nghĩ thầm: "Vi Bức Vương vu vạ tài thật, để dấu chân từ vương phủ tới tận đây".

Lộc Trượng Khách liền cười khẩy đáp:

- Các ngươi không biết chia nhau đi lùng kiếm, tới đây léo nhéo cái gì?

Với địa vị và võ công như y, ai nấy đều hết sức kiêng nể, người kia vội vâng vâng dạ dạ, không dám nói thêm gì nữa, lập tức phân phái anh em tra tìm những vùng chung quanh. Lộc Trượng Khách biết lúc này chung quanh chùa Vạn An có rất đông người tra xét, tuy bọn họ không dám vào phòng mình mà tìm, nhưng ôm được Hàn cơ đi nơi khác để dấu thật không phải dễ, không khỏi nhíu mày hậm hực nhìn khổ đầu đà.

Phạm Dao bỗng nghĩ ngay một kế hạ giọng nói:

- Lộc huynh, chùa Vạn An có một nơi rất tốt, mình tạm dấu cục cưng này, qua một ngày một buổi bên ngoài tra xét dãn ra, lúc đó đem đi cũng chưa muộn.

Lộc Trượng Khách giận dữ nói:

- Trừ phi dấu ngay trong phòng ngươi thì được.

Phạm Dao cười:

- Người đẹp thế dấu ở phòng tôi, lão đầu đà chắc đâu đã không động lòng, Lộc huynh không ghen đấy chứ?

Lộc Trượng Khách hỏi lại:

- Thế ngươi bảo dấu ở đâu?

Phạm Dao mỉm cười giơ tay chỉ ngọn tháp ngoài cửa sổ. Lộc Trượng Khách thông minh cơ cảnh, thoáng cái biết ngay, giơ ngón tay cái lên khen:

- Hay lắm!

Bảo tháp đó là nơi giam giữ các cao thủ lục đại môn phái, tổng quản trông nom chính là đại đệ tử của Lộc Trượng Khách Ô Vượng A Phổ, người khác có nghi là nghi chỗ khác, chứ không ai lại ngờ rằng ái cơ của vương gia lại bị bắt dấu nơi nhà giam canh phòng giới bị cẩn mật này. Phạm Dao hạ giọng nói:

- Lúc này trong viện không có ai, chẳng nên chậm trễ, động thủ ngay đi.

Y cuốn bốn bề cái chăn trên giường lại, dấu kỹ Hàn cơ ở bên trong thành một cái bọc lớn, nhắc lên giao cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách nghĩ thầm ngươi không làm lại đẩy cho mình, ta vừa vác Hàn cơ ra khỏi cửa ngươi liền kêu toáng lên, lúc đó tang chứng rành rành, còn chối cãi vào đâu được nữa, mặt không khỏi biến sắc, không dám đưa tay nhận. Phạm Dao biết bụng dạ y liền nói:

- Đã giúp thì giúp cho trót, tiễn Phật tiễn tận Tây phương, khổ đầu đà hôm nay làm thêm vụ đưa dâu nữa thì đã sao nào? Ai bảo mình có việc phải cầu người làm chi?

Nói xong nhắc cái bọc lên, đẩy cửa bước ra, nói nhỏ:

- Ngươi đi trước dẹp đường, nếu có kẻ nào ngăn trở tra vấn, giết quách nó đi.

Lộc Trượng Khách nghiêng người lách qua, nhưng không dám đưa lưng ngay mặt Phạm Dao, sợ y từ sau đánh lén. Phạm Dao đưa tay khép cửa lại, cõng Hàn cơ đi lên bảo tháp.

Lúc đó đã cuối giờ tuất, ngoại trừ võ sĩ canh gác bảo tháp ra, không còn ai khác. Các võ sĩ thấy Lộc Trượng Khách và Phạm Dao, lập tức khom mình hành lễ, cung kính đứng tránh qua một bên. Hai người chưa đến chân tháp, Ô Vượng A Phổ được thủ hạ báo tin, đã chạy ra nghinh tiếp nói:

- Sư phụ, lão nhân gia hôm nay có hứng hay sao mà lên bảo tháp ngồi chơi?

Lộc Trượng Khách gật đầu, cùng Phạm Dao đang toan tiến lên bỗng nhiên từ chiếc cửa tròn ở phía tây một người bước ra, chính là Triệu Mẫn.

Lộc Trượng Khách có tật giật mình, kinh hoảng không để đâu cho hết, lại tưởng Triệu Mẫn đích thân đem thủ hạ đến bắt y, không biết tính sao chỉ đành thu hết cam đảm cùng Phạm Dao và Ô Vượng A Phổ tiến lên vái chào. Đêm hôm qua bọn Trương Vô Kỵ đến quấy rối, Triệu Mẫn có biết đâu tất cả Minh giáo chỉ có ba người, e ngại họ đem đại đội nhân mã đến tấn công nên muốn đích thân đến tháp xem xét, thấy Phạm Dao ở đây liền mỉm cười nói:

- Khổ đại sư, tôi đang định đi tìm ông đây.

Phạm Dao gật đầu, bình thản như không. Triệu Mẫn nói:

- Tôi muốn ông đi cùng với tôi đến một nơi.

Phạm Dao trong bụng kêu khổ thầm: "Mãi mới dụ được Lộc Trượng Khách vào trong bảo tháp mình sẽ ra tay rồi đoạt lấy giải dược của y thế là thành công, ngờ đâu con nhãi này lại đến đây tìm mình". Đã toan tìm cớ thoái thác không đi, nhưng nhất thời không tìm ra được cách nào, huống chi y lại giả câm, nếu muốn từ chối cũng không nói nên lời được. Tình cấp trí sinh, nghĩ thầm: "Để mặc cho Lộc Trượng Khách tìm cách nào vậy". Y liền chỉ cái bọc trên tay mình, quay sang Lộc Trượng Khách lắc lắc mấy cái. Lộc Trượng Khách hoảng hốt, trong bụng chửi thầm khổ đầu đà hại mình không ít. Triệu Mẫn hỏi:

- Lộc tiên sinh, cái bọc của khổ đầu đà đựng gì thế?

Lộc Trượng Khách đáp:

- À, à, đó là chăn gối của khổ đại sư đấy mà.

Triệu Mẫn lạ lùng hỏi:

- Chăn gối? Khổ đại sư mang chăn gối đi đâu?

Nàng mủm mỉm cười nói tiếp:

- Khổ đại sư thấy tôi tối dạ quá, không chịu thu làm đệ tử, tức mình ôm chăn gối đi không ở nữa đấy ư?

Phạm Dao lắc đầu, tay phải chỉ trỏ lung tung, nghĩ thầm: "Cứ để cho Lộc Trượng Khách nghĩ ra nói láo, mình câm cũng có cái lợi của người câm". Triệu Mẫn trông không hiểu y làm thế nghĩa là sao, chỉ đành nhìn Lộc Trượng Khách chờ y giải thích. Lộc Trượng Khách động linh cơ có ngay một cớ liền nói:

- Chuyện như thế này, tối hôm qua mấy ma đầu của Ma giáo đến phá rối, thuộc hạ e ngại bọn hạ có âm mưu lớn ... biết đâu ... biết đâu ... chúng lại không đến tháp cứu người. Thành thử sư huynh đệ thuộc hạ cùng khổ đại sư quyết định ở ngay trên tháp, tự mình canh phòng để khỏi làm hỏng việc lớn của quận chúa. Cái bọc chăn gối này là đồ ngủ của khổ đại sư.

Triệu Mẫn mừng lắm, cười nói:

- Tôi vẫn định nhờ Lộc tiên sinh và Hạc tiên sinh đích thân trông coi, có điều như thế làm nhọc các ông quá nên không dám mở miệng. Ngờ đâu ba vị lại chia xẻ mối lo với tôi, thật còn gì bằng. Có Lộc Hạc hai vị ở nơi đây trấn giữ, bọn ma đầu đâu có dám héo lánh đến, tôi khỏi phải lên tháp trông coi làm gì. Khổ đại sư theo tôi đi đằng này một chút.

Nói xong nàng nắm tay Phạm Dao. Phạm Dao không còn cách nào khác, nghĩ thầm như lúc này có nói toạc âm mưu của Lộc Trượng Khách thì cũng chẳng đi đến đâu, thứ nữa Hàn cơ đang ở trong tay mình, chưa chắc đã làm cho Triệu Mẫn tin được, đành giao cái bọc lại cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách giơ tay đỡ lấy nói:

- Khổ đại sư, tôi đợi ông ở trên tháp nhé.

Ô Vượng A Phổ nói:

- Sư phụ, để đệ tử mang bọc chăn gối cho.

Lộc Trượng Khách cười đáp:

- Không sao, đây là đồ của khổ đại sư, thầy đang muốn lấy lòng ông ấy tự mình mang lên cũng được.

Phạm Dao nhếch mép cười, giơ tay vỗ vào cái bọc một cái, chính trúng ngay mông của Hàn cơ. Cũng may nàng ta đã bị điểm huyệt nên không thể kêu lên được, nhưng Lộc Trượng Khách cũng sợ đến mặt tái mét, không dám dây dưa thêm nữa, quay sang chào Triệu Mẫn rồi vác Hàn cơ đi lên tháp. Y trong bụng đã tính sẵn, một khi vào trong tháp rồi lập tức lấy chăn mền thật ra đổi ngay, nếu như khổ đầu đà có cáo giác với Triệu Mẫn thì y cũng nhất định chối phắt đi

Hồi 27

BÁCH XÍCH CAO THÁP NHIỆM HỒI TƯỜNG

Tháp cao trăm thước ai người đỡ,

Thù oán bao đời một phút tan.

Tưởng nguy nhưng lại hóa an,

Lục đại môn phái chịu ơn muôn đời.

Phạm Dao bị Triệu Mẫn nắm tay dẫn đi thẳng ra khỏi chùa Vạn An, trong bụng vừa bồn chồn, vừa ngạc nhiên, không biết nàng ta đưa mình đi đâu. Triệu Mẫn đội thêm một cái nón lá để che mái tóc dài, thản nhiên nói:

- Khổ đại sư, mình đi gặp tên tiểu tử Trương Vô Kỵ.

Phạm Dao kinh hoảng, liếc mắt nhìn cô ta thấy mắt nàng long lanh, má ửng hồng bảy phần thẹn thùng, ba phần hoan hỉ xem ra không phải đã khám phá ra chân tướng của y. Khổ đầu đà thấy an tâm, nhớ lại tình cảnh đêm trước ở chùa Vạn An Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai kẻ oan gia đối đầu gặp nhau. Y vừa nghĩ đến hai chữ "oan gia", đột nhiên trong lòng nảy sinh một câu hỏi: "Oan gia ư? Hay là quận chúa có tình ý gì với Trương giáo chủ chăng?". Y nghĩ tiếp: "Nàng ta sao không gọi Huyền Minh nhị lão là kẻ thân tín hơn mà lại bảo mình đi theo? Đúng rồi, chỉ vì mình câm không nói được nên sẽ không tiết lộ bí mật của cô ta". Y bèn gật gù, nở một nụ cười kỳ bí.

Triệu Mẫn làm mặt giận nói:

- Ông cười gì thế?

Phạm Dao biết rằng chớ nên đùa với nàng, bèn hoa chân múa tay ra hiệu, ý nói khổ đầu đà sẽ hết sức bảo vệ cho quận chúa chu toàn, dù phải vào đầm rồng hang hổ cũng nhất quyết đi theo.

Triệu Mẫn không nói gì thêm, đi trước dẫn đường, không bao lâu đã đến trước cửa khách điếm nơi Trương Vô Kỵ đang trú ngụ. Phạm Dao ngầm kinh hãi: "Quận chúa quả thật thần thông quảng đại, mới đây đã tìm ra ngay chỗ giáo chủ đang ở". Y liền đi theo Triệu Mẫn vào trong khách điếm.

Triệu Mẫn hỏi chưởng quĩ:

- Chúng tôi muốn tìm khách quan họ Tăng.

Thì ra Trương Vô Kỵ khi đến ở trọ lại dùng cái tên giả "Tăng A Ngưu", điếm tiểu nhị liền đi vào thông báo.

Trương Vô Kỵ đang đả tọa dưỡng thần, chỉ chờ chùa Vạn An lửa bốc lên là chạy đến tiếp ứng, bỗng nghe có người đến thăm không khỏi ngạc nhiên, ra đến khách đường thấy Triệu Mẫn và Phạm Dao, kêu thầm: "Hỏng rồi, chắc là Triệu cô nương khám phá ra chân tướng của Phạm hữu sứ nên đem y tới đây nói phải quấy với mình chăng?". Chàng đành tiến lên vái chào, hỏi:

- Không biết có Triệu cô nương giá lâm nên thất lễ nghinh tiếp.

Triệu Mẫn nói:

- Nơi đây nói chuyện không tiện, mình đi tìm một quán rượu nhỏ uống với nhau ba chén, có được chăng?

Trương Vô Kỵ đành trả lời:

- Hay lắm.

Triệu Mẫn lại đi trước dẫn đường đi đến một quán rượu nhỏ cách khách điếm chừng năm dãy phố. Trong quán bày biện sơ sài vài cái bàn, trên mỗi bàn để một ống đũa gỗ. Lúc ấy trời đã khuya, trong quán chẳng còn người khách nào. Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai người ngồi đối diện nhau, Phạm Dao ra hiệu mình ra ngoài ngồi uống rượu. Triệu Mẫn gật đầu, sai điếm tiểu nhị đem lên một cái bếp than và ba cân thịt dê sống, thêm hai cân rượu trắng.

Trương Vô Kỵ trong bụng đầy ngờ vực, nghĩ thầm nàng là một quận chúa cao quí như thế, sao lại mời mình đến một cái nhỏ bé tồi tàn dơ dáy như thế này ngồi uống rượu là sao, không biết sắp xếp kế mưu gì. Triệu Mẫn rót ra hai chén rượu, cầm chén của Trương Vô Kỵ lên, nhấp một ngụm, cười nói:

- Trong rượu này không có bỏ thuốc độc đâu, công tử cứ yên tâm uống đừng ngại.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Cô nương gọi tôi đến đây, không biết có chuyện gì dạy bảo?

Triệu Mẫn nói:

- Uống xong ba chén đã rồi mình hãy nói vào chuyện chính. Tôi cạn chén trước mời công tử.

Nói xong nàng nâng ly một hơi cạn sạch. Trương Vô Kỵ cầm chén lên, dưới ánh lửa bập bùng thấy miệng chén còn lưu lại mờ mờ một vết son môi, mũi ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, không biết hương thơm đó từ vết son trên chén hay từ người nàng tỏa ra, lòng không khỏi lâng lâng, vội uống cạn. Triệu Mẫn nói:

- Mình uống thêm hai chén nữa. Tôi biết anh chưa hết nghi ngại nên mỗi chén tôi uống trước một ngụm.

Trương Vô Kỵ biết nàng ngụy kế đa đoan, việc gì cũng nên đề phòng, may là nàng nhắp trước như thế, mình đỡ phải mạo hiểm nên liên tiếp uống cạn ba ly rượu nàng uống dở dang, trong bụng không thấy có gì khác lạ, ngửng lên thấy nàng tủm tỉm cười, hơi rượu khiến nàng hồng hồng đôi má, thật kiều diễm không sao tả xiết. Trương Vô Kỵ không dám nhìn lâu, vội quay đầu sang chỗ khác.

Triệu Mẫn nói nhỏ:

- Trương công tử, anh có biết tôi là ai không?

Trương Vô Kỵ lắc đầu. Triệu Mẫn nói:

- Hôm nay tôi nói cho anh biết, cha tôi là Nhữ Dương Vương hiện đang chấp chưởng binh mã đại quyền đương triều. Tôi là gái Mông Cổ, tên thực là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ. Hoàng thượng phong cho tôi làm Thiệu Mẫn quận chúa. Hai chữ Triệu Mẫn là tên Hán tôi tự đặt cho tôi đó.

Nếu như Phạm Dao không nói qua rồi, Trương Vô Kỵ lúc này ắt không khỏi hết sức lạ lùng, nhưng thấy nàng không dấu diếm gì đem thân phận nói cho mình hay cũng thật ngoài dự liệu, có điều chàng không khéo giả vờ nên không làm ra vẻ ngạc nhiên.

Triệu Mẫn lạ lùng hỏi:

- Sao? Anh biết trước rồi ư?

Trương Vô Kỵ nói:

- Không, làm sao tôi biết được? Thế nhưng tôi thấy một cô gái trẻ tuổi như thế vậy mà có thể sai khiến bao nhiêu là cao thủ võ lâm, thân phận ắt không phải là tầm thường.

Triệu Mẫn xoay xoay nghịch cái chén, một hồi lâu không nói gì, lại cầm bầu rượu lên rót thêm hai chén nữa, chậm rãi nói tiếp:

- Trương công tử, tôi hỏi anh một câu nhé, anh cứ thực lòng mà trả lời tôi. Nếu như tôi đem Chu cô nương giết đi, anh sẽ đối với tôi thế nào?

Trương Vô Kỵ trong bụng kinh hãi, hỏi lại:

- Chu cô nương có đắc tội gì với cô đâu, sao bỗng dưng lại giết cô ta là sao?

Triệu Mẫn đáp:

- Người nào tôi không thích là tôi muốn giết, chứ đâu phải cứ đắc tội với tôi tôi mới giết đâu? Có người thì đắc tội với tôi nhiều lần, tôi lại để yên không giết, chẳng hạn như anh, đắc tội với tôi mấy lần rồi thì sao?

Nàng nói tới đây, ánh mắt long lanh ẩn một nụ cười. Trương Vô Kỵ thở dài, nói:

- Triệu cô nương, tôi đắc tội với cô âu cũng là chuyện bất đắc dĩ. Thế nhưng cô đã tặng cho tôi thuốc để chữa bệnh cho tam sư bá, lục sư thúc tôi, lòng tôi thật là cảm kích.

Triệu Mẫn cười nói:

- Anh nói câu đó có phần dở hơi. Du Đại Nham và Ân Lê Đình bị thương đều do thuộc hạ của tôi gây ra, anh chẳng trách thì thôi, sao lại cảm ơn là sao?

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Tam sư bá của tôi bị thương đã ngoài hai mươi năm, khi đó cô chưa ra đời.

Triệu Mẫn nói:

- Thì do bộ thuộc của cha tôi cũng có khác gì là bộ thuộc của tôi? Anh đừng nói lảng qua chuyện khác: tôi hỏi anh, nếu như tôi giết Chu cô nương, anh sẽ đối với tôi như thế nào? Anh có định giết tôi báo thù cho cô ta không?

Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Tôi cũng không biết nữa.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Sao lại không biết? Anh không chịu nói, có phải không nào?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cha mẹ tôi bị người ta bức tử. Bức tử cha mẹ tôi là phái Thiếu Lâm, phái Hoa Sơn, phái Không Động. Sau này khi tôi lớn lên, thấy mọi việc rõ ràng hơn nhiều, nhưng càng suy nghĩ lại càng chẳng hiểu, thực sự ai là người hại cha mẹ tôi? Không thể nói là Không Trí đại sư, Thiết Cầm tiên sinh những người đó được; cũng không thể bảo là ông ngoại tôi hay cậu tôi; thậm chí cũng không thể nói là những thủ hạ của cô như "A Nhị", "A Tam" hay Huyền Minh nhị lão. Cái lý do nào trời xui đất khiến ra thế, biết bao nhiêu điều tôi không hiểu được. Dẫu như có những người là hung thủ thực chăng nữa, dù tôi có giết hết tất cả thì cũng để làm gì? Cha mẹ tôi có sống lại được đâu. Triệu cô nương, mấy hôm nay tôi chỉ nghĩ rằng nếu tất cả mọi người không giết lẫn nhau, sống hòa bình thân ái làm bạn của nhau chẳng hay hơn ư? Tôi không nghĩ đến chuyện báo thù giết người, cũng mong người khác cũng đừng hại ai giết ai.

Chàng nói một mạch những gì đã nghĩ trong lòng rất lâu, nhưng chưa hề nói cho Dương Tiêu hay, cũng chẳng nói cho Trương Tam Phong biết, cũng không nói cho Ân Lê Đình hay, bỗng nhiên nơi quán rượu nhỏ bé này lại nói cho Triệu Mẫn nghe, những lời đó nói ra rồi chính chàng cũng lấy làm lạ.

Triệu Mẫn thấy chàng nói thật thành khẩn, suy nghĩ một lát nói:

- Đó là tại anh tâm địa nhân hậu, nếu phải tay tôi ư tôi sẽ làm tới nơi tới chốn. Nếu như ai làm hại cha tôi, anh tôi, tôi sẽ giết sạch cả nhà người đó, ngay cả thân thích bằng hữu, phàm người nào y quen biết, tôi sẽ giết sạch không còn một mống.

Trương Vô Kỵ nói:

- Như thế tôi sẽ ngăn không cho cô làm.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Vì sao vậy? Anh về phe kẻ thù của tôi ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cô giết một người, bản thân cô sẽ thêm một phần tội nghiệt. Người bị cô giết, chết đi ra sao thì không biết, cái đó cũng đã xong, thế nhưng còn cha mẹ con cái, vợ chồng anh em người ta đau lòng biết mấy? Về sau mỗi khi cô nghĩ lại, lương tâm cô sẽ không an. Nghĩa phụ tôi giết nhiều người lắm, tôi biết tuy ông không nói ra, nhưng trong lòng thật là hối hận.

Triệu Mẫn không nói, chỉ suy nghĩ về những điều Trương Vô Kỵ vừa nói ra. Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Cô đã giết người bao giờ chưa?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Hiện tại thì chưa, tương lai khi tôi lớn rồi, muốn giết thật nhiều người. Tổ tiên tôi là Thành Cát Tư Hãn đại đế, là Đà Lôi, là Bạt Đô, là Húc Liệt Ngột, là Hốt Tất Liệt đều anh hùng. Tôi chỉ hận mình là con gái, nếu tôi là con trai ư, ha ha, thể nào cũng phải làm một đại sự nghiệp thật là oanh liệt.

Nàng rót thêm một chén rượu, tự mình uống cạn nói:

- Anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nếu như cô giết Chu cô nương, hoặc giả giết bất cứ một người thủ hạ thân cận nào của tôi, tôi sẽ không coi cô là bạn tôi nữa. Tôi sẽ vĩnh viễn không gặp lại cô, nếu có gặp cũng không nói chuyện.

Triệu Mẫn cười:

- Thế ra hiện tại anh coi tôi là bạn của anh ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nếu như trong lòng tôi thù ghét cô, tôi đâu có ngồi uống rượu với cô như thế này. Ôi, tôi chỉ thấy thù ghét một người quả là khó. Tôi bình sinh chỉ ghét một mình Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn, thế nhưng nay y cũng chết rồi, tôi lại thấy thương y, dường như muốn y đừng chết.

Triệu Mẫn nói:

- Nếu như ngày mai tôi chết đi, trong lòng anh sẽ nghĩ sao? Trong bụng anh thể nào chẳng nói: tạ trời tạ đất, con bé điêu ngoa hung ác đại đối đầu kia chết rồi, từ nay ta bớt đi được bao nhiêu là phiền muộn.

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Không, không đâu. Tôi không mong cô chết đâu, hoàn toàn không bao giờ. Vi Bức Vương dọa cô, đòi sẽ rạch mặt cô mấy vết dao, từ đó đến nay tôi nghĩ đi nghĩ lại thật là lo cho cô.

Triệu Mẫn nở một nụ cười, đôi má đỏ lên liền cúi đầu xuống. Trương Vô Kỵ nói:

- Triệu cô nương, cô đừng làm khó chúng tôi nữa, thả hết các cao thủ của lục đại môn phái ra đi, tất cả vui vẻ làm bạn với nhau, chẳng hay lắm sao?

Triệu Mẫn vui mừng nói:

- Hay lắm, chính tôi cũng chỉ muốn như thế. Anh là giáo chủ Minh giáo, một lời nặng như chín cái đỉnh, anh đến nói tất cả qui hàng triều đình. Cha tôi sẽ tâu lên hoàng thượng phong thưởng cho mọi người.

Trương Vô Kỵ chầm chậm lắc đầu nói:

- Người Hán chúng tôi ai ai cũng có một tâm nguyện, muốn người Mông Cổ rút ra khỏi đất của người Hán.

Triệu Mẫn đứng phắt dậy, nói:

- Cái gì? Sao anh dám nói những lời phạm thượng tác loạn như thế, chẳng phải là công nhiên phản loạn hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi vốn dĩ là kẻ phản loạn, không lẽ đến bây giờ cô mới biết hay sao?

Triệu Mẫn nhìn chàng hồi lâu, nét phẫn nộ và kinh ngạc trên mặt dầu dần dịu xuống, trở lại thật ôn nhu, nhưng cũng thật thất vọng, sau cùng ngồi lại xuống ghế nói:

- Tôi cũng sớm biết thế rồi, nhưng bây giờ chính miệng anh nói ra, tôi mới thật là tin hẳn, không còn làm sao hơn được nữa.

Mấy câu đó nàng nói ra nghe thật là đau đớn. Trương Vô Kỵ lòng chùng hẳn đi, dường như không còn chịu nổi cảnh thấy nàng đau lòng như muốn buột miệng nói ra: "Thôi tôi bằng lòng nghe lời cô vậy". Thế nhưng ý nghĩ đó vừa lóe lên là tắt ngay, cố hết sức nhưng không biết nói thế nào để an ủi nàng.

Hai người lặng yên ngồi đối diện nhau một lúc. Trương Vô Kỵ nói:

- Triệu cô nương, đêm đã khuya rồi, để tôi đưa cô về nhé!

Triệu Mẫn nói:

- Đến ngồi thêm với tôi một chút anh cũng không muốn hay sao?

Trương Vô Kỵ vội vàng đáp:

- Không đâu, nếu cô thích ngồi đây uống rượu nói chuyện, tôi sẽ ngồi với cô.

Triệu Mẫn mỉm cười, chậm rãi nói:

- Có lúc tôi nghĩ rằng giá như tôi không phải là gái Mông Cổ, cũng chẳng phải là quận chúa, chỉ là một người như Chu cô nương, là một cô gái người Hán con nhà bình thường, chắc anh sẽ tử tế với tôi hơn. Trương công tử, anh bảo tôi và Chu cô nương ai đẹp hơn?

Trương Vô Kỵ đâu ngờ nàng lại hỏi câu đó, nghĩ thầm con gái phiên bang tính tình sảng trực, không biết môi miếng, dưới ánh đèn thấp thoáng, thấy nàng kiều diễm bội phần, buột miệng nói luôn:

- Dĩ nhiên là cô đẹp.

Triệu Mẫn giơ tay ra đặt lên tay chàng, ánh mắt đầy vẻ vui mừng nói:

- Trương công tử, anh thích hay không thích gặp tôi? Nếu tôi thỉnh thoảng rủ anh ra đây uống rượu, anh có đi không?

Bàn tay Trương Vô Kỵ bị lòng bàn tay mềm mại của nàng đè vào, tim đập thình thình, cố gắng định thần rồi nói:

- Tôi ở lại đây không lâu, chỉ độ vài ngày sẽ xuôi nam.

Triệu Mẫn hỏi:

- Anh về phương nam làm gì?

Trương Vô Kỵ thở dài, nói:

- Tôi chẳng nói thì cô cũng đoán ra được, nhưng nói ra thì cô sẽ nổi giận...

Triệu Mẫn nhìn ra vầng trăng ngoài song cửa, bỗng nói:

- Anh bằng lòng làm cho tôi ba việc, chưa quên chứ?

Trương Vô Kỵ nói:

- Dĩ nhiên là không quên. Xin cô nương cứ việc sai bảo, tôi sẽ tận lực mà làm.

Triệu Mẫn quay đầu lại nhìn thẳng vào mặt chàng nói:

- Bây giờ tôi chỉ mới nghĩ ra một việc thứ nhất. Tôi muốn anh đi với tôi để lấy thanh đao Đồ Long.

Trương Vô Kỵ vốn đã đoán trước, ba việc nàng ta bảo mình làm thể nào cũng rất khó nhưng không ngờ việc đầu tiên là một nạn đề tày trời đến thế. Triệu Mẫn thấy chàng đầy vẻ nghi ngại, nói:

- Làm sao? Anh không chịu à? Chuyện này đâu có đi ngược lại đạo hiệp nghĩa, cũng không phải không thể làm được.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Đao Đồ Long nằm trong tay nghĩa phụ ta, trên giang hồ ai cũng biết rồi, không thể nào nói dối nàng". Chàng bèn nói:

- Đao Đồ Long là của nghĩa phụ tôi, Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp. Tôi làm sao có thể phản bội cha nuôi, lấy đao đó cho cô được?

Triệu Mẫn nói:

- Tôi đâu có bảo anh đến ăn trộm ăn cướp, đánh lừa hay sang đoạt, tôi không phải thực sự muốn có thanh đao này. Tôi chỉ muốn anh đến mượn nghĩa phụ anh, cho tôi nghịch chơi một giờ thôi, sau đó sẽ trả lại ngay. Hai người là cha nuôi, con nuôi, chẳng lẽ mượn một giờ mà không được hay sao? Chỉ mượn xem đâu có phải là lấy luôn, cũng chẳng phải dùng nó đi cướp của giết người, không lẽ cũng đi ngược lại đạo hiệp nghĩa ư?

Trương Vô Kỵ nói:

- Thanh đao đó tuy danh tiếng vang động võ lâm, thực ra có đẹp đẽ gì đâu, chỉ thật là nặng nề, và rất sắc bén thôi.

Triệu Mẫn nói:

- Vậy sao người ta nói "Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng. Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?" Ỷ Thiên kiếm nay ở trong tay tôi rồi, tôi muốn xem thử thanh đao Đồ Long như thế nào. Nếu anh không yên tâm, khi tôi xem thanh đao, anh đứng ngay bên cạnh. Với bản lãnh của anh, tôi đâu có thể cưỡng chiếm không trả lại được.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Cứu được sáu đại môn phái ra rồi, ta vốn định bụng sẽ đi đón nghĩa phụ ngay để mời lão nhân gia giữ chức vụ giáo chủ. Triệu cô nương đã nói là chỉ mượn xem một giờ, tuy không biết chắc nàng ta có ngụy kế gì hay không, nhưng mình hết sức đề phòng, không để cho nàng ta đoạt thanh đao. Có điều nghĩa phụ nói rằng trong thanh đao Đồ Long có bí mật dấu một pho võ công tuyệt học. Khi nghĩa phụ chưa mù đã lấy được thanh bảo đao, thông minh tài nhứ như ông mà vẫn không nghĩ ra được, Triệu cô nương chỉ một giờ đồng hồ thì làm được gì? Huống chi ta và nghĩa phụ xa nhau đã mười năm, ông ta một mình trên hoang đảo đã tìm ra được bí mật trong thanh đao không chừng".

Triệu Mẫn thấy chàng trầm ngâm không trả lời, cười nói:

- Nếu anh không chịu, cũng tùy anh thôi. Tôi sẽ nhờ anh làm một việc khác còn khó hơn thế nhiều.

Trương Vô Kỵ biết cô gái này cực kỳ điêu ngoa giảo hoạt, nếu quả đưa ra một nạn đề e rằng mình sẽ không làm nổi, vội nói:

- Được rồi, tôi bằng lòng đi mượn thanh đao Đồ Long cho cô. Thế nhưng mình nói trước với nhau, cô chỉ được mượn xem một giờ thôi, nếu như có ý chiếm đoạt, tôi không để yên đâu đấy nhé.

Triệu Mẫn cười nói:

- Đúng thế. Tôi không biết sử đao, nặng chình chịch thế tôi lấy làm gì? Dù anh có cung kính hai tay đưa lên cho tôi, tôi cũng chẳng thèm. Vậy bao giờ thì anh khởi hành?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Độ vài ngày nữa.

Triệu Mẫn nói:

- Thế thì càng tốt. Để tôi đi thu xếp, chừng nào anh đi thì đến hẹn trước với tôi.

Trương Vô Kỵ kinh ngạc nói:

- Cô cũng đi nữa ư?

Triệu Mẫn nói:

- Đương nhiên là thế. Nghe nói nghĩa phụ anh ở trên một hòn đảo hoang ở ngoài biển, lỡ như ông ta không chịu về, không lẽ anh đường xa vạn dặm tít mù mượn thanh đao về đây cho tôi xem một giờ rồi lại quay lại trả? Trên đời này có ai lại làm thế bao giờ.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến sóng to gió cả nơi biển bắc, biển cả mênh mông, tìm cho ra được Băng Hỏa đảo quả thật khó khăn vô cùng, nếu như đi đi về về ba lần chẳng đâu vào đâu, thật không cách gì làm nổi. Cô ta nói quả không sai, nghĩa phụ ở nơi hoang đảo đã hai chục năm, chưa chắc đã muốn sống những ngày tàn của cuộc đời nơi Trung Thổ. Chàng bèn nói:

- Trên biển cả sóng gió vô tình, cô phải mạo hiểm như thế làm gì?

Triệu Mẫn đáp:

- Anh mạo hiểm được, sao tôi lại không được?

Trương Vô Kỵ chần chừ nói:

- Liệu cha cô có chịu cho cô đi không?

Triệu Mẫn nói:

- Gia gia bảo tôi thống suất quần hào giang hồ, mấy năm nay tôi chạy đông chạy tây, cha tôi không ngó ngàng gì đến cả.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói "Cha tôi bảo tôi thống suất quần hào giang hồ", trong bụng chột dạ: "Ta đi Băng Hỏa đảo nghênh tiếp nghĩa phụ, không biết năm nào tháng nào mới quay về. Nếu như đây là kế điệu hổ ly sơn của cô ta, nhân dịp mình không có nơi đây đem đại binh đối phó với bản giáo thì sao. Mình không thể không đề phòng, nếu như nàng ta đi chung, thủ hạ của cô ta có điều cấm kỵ, cũng đỡ lo phần nào". Nghĩ vậy bèn gật đầu:

- Thế thì được, khi nào tôi ra đi sẽ đến hẹn với cô.

Câu nói chưa dứt, đột nhiên bên ngoài cửa sổ đỏ rực, tiếng người reo hò từ nơi xa xa truyền đến. Triệu Mẫn chạy lại cửa sổ nhìn ra, kinh hoảng kêu lên:

- Ối chao, bảo tháp của chùa Vạn An bị cháy rồi. Khổ đại sư, khổ đại sư, lại đây mau.

Nàng gọi luôn mấy tiếng, không thấy khổ đầu đà đâu vội chạy ra ngoài cũng chẳng thấy tăm hơi Phạm Dao đâu cả, hỏi chưởng quĩ thì y nói rằng vị đầu đà vừa đến là đi ngay, xem ra cũng đã lâu rồi. Triệu Mẫn cực kỳ lạ lùng, nghĩ đến hồi tối y nở một nụ cười bí hiểm, đôi má không khỏi đỏ bừng, cúi đầu quay lại liếc Trương Vô Kỵ một cái.

Trương Vô Kỵ thấy lửa bốc mỗi lúc một cao, sợ rằng đại sư bá các người công lực chưa khôi phục, bị chết cháy ở trên tháp nên nói:

- Triệu cô nương, xin lỗi tôi phải đi đây.

Nói chưa dứt câu, chàng đã vội vàng chạy ra. Triệu Mẫn gọi:

- Chờ chút nào, để tôi đi với anh.

Thế nhưng khi nàng ra đến cửa thì Trương Vô Kỵ đã chạy đâu mất rồi.

*

* *

Lộc Trượng Khách thấy khổ đầu đà bị quận chúa gọi đi, cảm thấy yên tâm lập tức cõng Hàn cơ đi đến phòng của đệ tử Ô Vượng A Phổ. Bảo tháp chùa Vạn An cả thảy mười ba tầng, cao mười ba trượng. Ba tầng trên cùng để thờ Phật, chứa kinh và xá lợi không ai được ở. Ô Vượng A Phổ là tổng quản trông coi bảo tháp, y ở tầng thứ mười cho tiện việc nhòm ngó chung quanh, khống chế toàn cục.

Lộc Trượng Khách vào trong phòng rồi nói với Ô Vượng A Phổ:

- Ngươi đứng canh ở bên ngoài, không cho ai vào.

Ô Vượng A Phổ vừa ra khỏi cửa, y lập tức đóng chặt cửa phòng, cởi cái bọc cho Hàn cơ ra. Chỉ thấy nàng sợ hãi đến mặt hoa tái mét, ánh mắt đầy vẻ cầu khẩn. Lộc Trượng Khách ôn tồn nói:

- Cô đã đến nơi đây, không có gì phải sợ cả, tôi sẽ đối đãi tử tế.

Y chưa tiện giải huyệt cho nàng ta, sợ cô ta kêu lên thì hỏng việc, nên đặt nàng nằm trên giường Ô Vượng A Phổ, lấy chăn đắp lên, lại lấy thêm một cái mền chèn ở bên cạnh. Nơi Hàn cơ đang ở đây không phải là nơi có thể sàm sỡ được nên y không dám ở lâu, vội vàng ra khỏi phòng dặn Ô Vượng A Phổ không được vào, cũng không được cho ai vào. Y biết tên đại đệ tử này vừa kính vừa sợ mình, quyết không dám trái lời.

Y tính thầm trong bụng: "Việc này nếu muốn cho khổ đầu đà giữ bí mật cho mình, không thể không mua lòng y, chi bằng mình đi thả mụ tình nhân và con gái y ra trước. Cũng may đêm qua giáo chủ ma giáo đến quấy phá, mọi việc lại chính ngay từ Chu cô nương mà ra, mình cứ đổ cho giáo chủ ma giáo cứu Diệt Tuyệt lão ni và Chu cô nương đi, thế là ổn thỏa, quận chúa chắc sẽ không nghi ngờ gì. Tên tiểu ma đầu võ công cao cường như thế, quận chúa sẽ không thể trách mình phòng bị không kỹ càng được".

Các nữ đệ tử phái Nga Mi bị giam ở tầng thứ bảy, riêng Diệt Tuyệt sư thái là địa vị chưởng môn, bị giam một mình tại một căn phòng nhỏ. Lộc Trượng Khách bảo người cai ngục mở cửa cho y vào, thấy Diệt Tuyệt sư thái ngồi xếp bằng trên nền, nhắm mắt tĩnh tu. Bà ta đã tuyệt thực mấy ngày nay, dung nhan tuy có đôi chút tiều tụy nhưng lại đầy vẻ ngạo nghễ ngang tàng.

Lộc Trượng Khách nói:

- Diệt Tuyệt sư thái, khỏe chứ?

Diệt Tuyệt sư thái từ từ mở mắt ra nói:

- Ở nơi đây là đã không khỏe, còn gì phải hỏi?

Lộc Trượng Khách nói:

- Bà ương ngạnh như thế, chủ nhân nói là có để thêm cũng vô dụng nên sai ta đến đưa bà về Tây phương đây.

Diệt Tuyệt sư thái đã quyết chí chọn cái chết bèn nói:

- Hay lắm, không cần phải mất công các hạ động thủ, cho ta mượn một thanh đoản kiếm, để ta lo lấy cũng xong. Xin các hạ gọi đứa học trò Chu Chỉ Nhược của ta lại đây, ta có vài lời trối trăn với nó.

Lộc Trượng Khách quay mình đi ra, sai người dẫn Chu Chỉ Nhược đến, nghĩ thầm: "Hai người mẹ con quả nhiên cũng khác, sao không gọi đại đệ tử đến mà lại chỉ gọi cô ta". Chẳng mấy chốc Chu Chỉ Nhược đã đến phòng sư phụ, Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Lộc tiên sinh, xin ông ra ngoài chờ, ta chỉ nói vài câu là xong.

Chu Chỉ Nhược đợi Lộc Trượng Khách ra khỏi, khép cửa lại, sà vào lòng sư phụ khóc tấm tức. Diệt Tuyệt sư thái vốn tính tình cứng rắn nhưng lúc sinh ly tử biệt này không khỏi thương cảm, nhẹ nhàng đưa tay vuốt tóc nàng.

Chu Chỉ Nhược biết rằng không có thì giờ nói chuyện lâu với sư phụ, liền đem chuyện đêm hôm qua Trương Vô Kỵ đến cứu nàng như thế nào kể lại cho sư phụ nghe. Diệt Tuyệt sư thái nhíu mày, trầm ngâm một hồi nói:

- Tại sao y lại chỉ cứu mình con mà không cứu những người khác? Hôm đó con đâm y một kiếm trên Quang Minh Đính, sao y lại trở ngược cứu con là sao?

Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng nhỏ nhẹ nói:

- Con cũng không biết nữa.

Diệt Tuyệt sư thái giận dữ nói:

- Hừ, tên tiểu tử đó cực kỳ âm hiểm ác độc, y là đại ma đầu của ma giáo, làm gì có lòng tốt bao giờ. Y chính là sắp xếp một cái bẫy để cho con chui đầu vào đó.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Y... y sắp xếp để đưa con vào bẫy ư?

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Chúng ta là tử đối đầu của ma giáo, dưới kiếm Ỷ Thiên của ta không biết bao nhiêu tà ác gian đồ của ma giáo bị bỏ mạng. Lẽ dĩ nhiên ma giáo hận phái Nga Mi thấu xương, sao lại quay ra cứu mình là sao? Tên ma đầu họ Trương kia hẳn là thích con, muốn con bị sa vào vòng tay y nên y sai người giả vờ bắt bọn mình, sau đó cố ý lấy lòng, giả vờ cứu con ra, để con từ nay hết lòng hết dạ nhớ ơn y.

Chu Chỉ Nhược nhỏ nhẹ nói:

- Sư phụ, con xem ra y... y không phải giả đâu.

Diệt Tuyệt sư thái giận quá, quát lên:

- Ngươi lại định đi theo vết của đứa không ra gì Kỷ Hiểu Phù kia hay sao mà lại phải lòng một dâm đồ của ma giáo? Nếu ta công lực không mất, một chưởng đánh chết ngươi là xong.

Chu Chỉ Nhược sợ đến toàn thân run rẩy, nói:

- Đồ nhi không dám thế.

Diệt Tuyệt sư thái gay gắt nói:

- Ngươi quả thực không dám hay lại chỉ mồm mép xuông, đánh lừa sư phụ?

Chu Chỉ Nhược gạt lệ đáp:

- Đồ nhi quyết không dám trái lời dạy dỗ của ân sư.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Vậy con quì xuống lập một trọng thệ xem nào.

Chu Chỉ Nhược y lời, quì xuống không biết nói sao cho phải. Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Con nói như thế này: tiểu nữ là Chu Chỉ Nhược xin thề cùng trời đất, nếu như sau này có lòng ái mộ tên dâm đồ Trương Vô Kỵ giáo chủ của ma giáo, kết thành vợ chồng cùng y, cha mẹ con chết nằm dưới đất xương cốt không yên, sư phụ con Diệt Tuyệt sư thái sẽ thành ma quỉ khiến cho con một đời ngày đêm không ổn, nếu như con sau này sinh con đẻ cái với y, con trai thì đời đời làm đầy tớ, con gái thì đời đời làm gái lầu xanh.

Chu Chỉ Nhược giật mình hoảng sợ, nàng bản tính nhu hòa ôn thuận, chưa bao giờ nghĩ đến chuyện thề một câu độc địa đến thế, không những rủa xả cả đến cha mẹ đã chết rồi, lại rủa xả đến cả sư phụ, luôn cả lời nguyền lây đến con cái mình nhưng thấy sư phụ mắt trừng trừng, hầm hầm nhìn thẳng vào mặt nàng, không khỏi mắt hoa đầu váng, liền y theo lời thầy nói đọc lại một lần.

Diệt Tuyệt sư thái thấy nàng thề độc như thế gương mặt liền dịu lại, ôn tồn nói:

- Ngoan lắm, thôi con đứng lên đi.

Chu Chỉ Nhược nước mắt lã chã tuôn rơi, uể oải đứng lên. Diệt Tuyệt sư thái mặt trầm xuống nói:

- Chỉ Nhược, ta không phải cố ý ép buộc con đâu, chỉ vì muốn tốt lành cho con đấy thôi. Con chỉ là một cô gái còn nhỏ tuổi, từ rày sư phụ đâu có còn để lo cho con nữa, nếu như con lại sa vào bước chân của Kỷ sư tỉ, sư phụ ở dưới cửu tuyền cũng không được an tâm. Huống chi sư phụ muốn con đảm trách trọng nhiệm hưng phục bản phái, không thể lầm lỡ chút nào được.

Nói đến đây bà tháo chiếc nhẫn sắt ở ngón tay vô danh nơi bàn tay trái ra, đứng thẳng dậy nói:

- Nữ đệ tử của phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược quì xuống nghe dụ.

Chu Chỉ Nhược ngạc nhiên, lập tức quì xuống. Diệt Tuyệt sư thái giơ chiếc nhẫn lên cao khỏi đỉnh đầu, nói tiếp:

- Chưởng môn đời thứ ba của phái Nga Mi nữ ni Diệt Tuyệt, kính cẩn truyền chức chưởng môn bản phái cho chưởng môn đời thứ tư Chu Chỉ Nhược.

Chu Chỉ Nhược bị sư phụ ép phải thề độc, đầu óc hỗn loạn bỗng nghe sư phụ truyền chức chưởng môn bản phái cho mình, lại càng hoang mang ngơ ngẩn, kinh hãi đến thừ người ra. Diệt Tuyệt sư thái lại từng tiếng một nói thật rõ ràng:

- Chu Chỉ Nhược, đưa tay trái ra phụng tiếp thiết chỉ hoàn chưởng môn của bản phái.

Chu Chỉ Nhược hoảng hốt giơ tay ra, Diệt Tuyệt sư thái liền đeo chiếc nhẫn vào ngón tay áp út cho nàng. Chu Chỉ Nhược run rẩy nói:

- Sư phụ, đệ tử tuổi trẻ, nhập môn cũng chưa lâu làm sao có thể đảm đương việc lớn được? Lão nhân gia thể nào cũng thoát khỏi cảnh khốn cùng, mà nếu có không ra được thì đệ tử cũng không thể...

Nói đến đây, nàng ôm hai đầu gối sư phụ, khóc òa lên.

Lộc Trượng Khách ở bên ngoài đợi lâu đã thấy khó chịu, nghe tiếng khóc liền đẩy cửa nhìn vào nói:

- Này, hai người nói chuyện xong chưa? Ngày sau còn dài nói lúc nào chẳng được?

Diệt Tuyệt sư thái quát:

- Ngươi léo nhéo cái gì?

Nói xong quay lại Chu Chỉ Nhược:

- Mệnh lệnh sư tôn, con dám trái lời sao?

Nói xong đem giới luật của chưởng môn bản phái nói hết một lượt bắt nàng phải nhớ nằm lòng. Chu Chỉ Nhược thấy trong cách nói của sư phụ như có vẻ trối trăn lời sau cùng, lại càng kinh sợ nói:

- Đệ tử không muốn, đệ tử không đủ tài...

Diệt Tuyệt sư thái gằn giọng nói:

- Ngươi không nghe lời ta, vậy là kẻ khi sư diệt tổ rồi.

Bà thấy Chu Chỉ Nhược nem nép thật tội nghiệp, nghĩ đến chính mình còn thấy là quá to lớn, nay đem gánh nặng trút lên vai đưa học trò nhu thuận yếu đuối này, e rằng nàng không sao làm nổi. Thế nhưng trong các đệ tử của phái Nga Mi chỉ có nàng ngộ tính cao hơn cả, muốn tu tập võ công tối cao, làm rạng rỡ cho môn phái, ngoại trừ nàng ra không một người thứ hai nào thích hợp. Bà nghĩ đến rồi đây con đường đằng đẵng, biết bao gian lao khổ sở đang đón chờ đứa học trò nhỏ bé này, trong lòng không khỏi se lại, giơ tay đỡ nàng lên, ôm vào trong lòng ôn tồn vỗ về:

- Chỉ Nhược, ta sở dĩ đem chức vụ chưởng môn truyền cho con mà không truyền cho các sư tỉ, không phải vì sư phụ thiên vị, chỉ vì phái Nga Mi nữ lưu làm chủ, chưởng môn ắt phải võ công trác tuyệt để có thể đứng vững trước quần hùng trong võ lâm.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Võ công của đệ tử làm sao sánh được với các vị sư tỉ?

Diệt Tuyệt sư thái mỉm cười nói:

- Bọn nó thành công chỉ có hạn, đến mức như hiện nay, không còn tiến thêm bao nhiêu, đó là do thiên tư mà có chứ chẳng phải ý muốn con người. Con hiện nay tuy không bằng các sư tỉ của con, nhưng sau này không biết đâu mà kể. Ôi, không biết đâu mà kể, không biết đâu mà kể, cũng vì ở những chữ ấy.

Chu Chỉ Nhược thần sắc hoang mang, nhìn sư phụ không hiểu ý bà muốn nói gì. Diệt Tuyệt sư thái ghé miệng vào tai nàng nói nhỏ:

- Con đã là chưởng môn của bản phái rồi, ta đem một đại bí mật của môn phái kể cho con nghe.

Tổ sư khai sáng ra môn phái Quách nữ hiệp, vốn là con gái út của đại hiệp Quách Tĩnh. Năm xưa Quách đại hiệp danh chấn thiên hạ, trong đời có hai môn tuyệt nghệ, một là binh pháp hành quân chiến đấu, hai là võ công. Quách phu nhân Hoàng Dung nữ hiệp cực kỳ thông minh cơ trí, bà thấy thế của quân Nguyên quá lớn, thành Tương Dương rồi cũng sẽ không giữ được, hai vợ chồng quyết tâm lấy cái chết để đền nợ nước, ấy là biết không làm được đành giữ tấm lòng son tận trung, nhưng nếu vì thế mà tuyệt nghệ của Quách đại hiệp bị thất truyền, không đáng tiếc lắm hay sao? Huống chi bà nghĩ người Mông Cổ dù nhất thời có chiếm được Trung Quốc, người Hán cũng không cam chịu làm nô lệ mãi mãi. Sau này huyết chiến đất trung nguyên, hai môn binh pháp và võ công kia thể nào chẳng có chỗ đại dụng. Vì thế bà gọi các thợ đúc lành nghề, lấy thanh huyền thiết trọng kiếm của Dương Quá Dương đại hiệp tặng cho Quách tổ sư của bản phái nấu chảy ra, lại thêm thép ròng của người Tây phương đúc thành một thanh đao Đồ Long, một thanh Ỷ Thiên kiếm.

Chu Chỉ Nhược nghe tiếng hai thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên đã lâu, bây giờ mới biết hai thanh đao kiếm này là do mẫu thân của tổ sư bản phái Quách Tương nữ hiệp đúc thành. Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Trước khi đúc đao rèn kiếm, Hoàng nữ hiệp cùng Quách đại hiệp hai người để ra một tháng, chép hết võ công và binh pháp tinh yếu, chia ra dấu trong hai thanh đao và kiếm. Trong đao Đồ Long cất giữ binh pháp, cái tên Đồ Long ý muốn người sau học được binh thư trong đao có thể đuổi được Thát tử, giết được hoàng đế Mông Cổ. Còn trong kiếm Ỷ Thiên thì cất giữ võ học bí cấp, trong đó hai môn quí giá nhất gồm có một bộ Cửu Âm Chân Kinh và một bộ Hàng Long Thập Bát Chưởng chưởng pháp tinh nghĩa, hi vọng hậu nhân tập được võ công trong thanh kiếm, thế thiên hành đạo, vì dân trừ hại.

Chu Chỉ Nhược mở to đôi mắt, càng nghe càng thấy lạ lùng, lại nghe sư phụ kể:

- Vợ chồng Quách đại hiệp đúc đao kiếm xong, đem bảo đao giao cho con trai là Quách công Phá Lỗ, bảo kiếm giao cho Quách tổ sư bản phái. Lẽ dĩ nhiên Quách tổ sư đã từng được cha mẹ dạy võ công rồi, còn Quách công Phá Lỗ thì được truyền thụ binh pháp. Thế nhưng khi thành Tương Dương thất thủ, cả vợ chồng Quách đại hiệp lẫn Quách công Phá Lỗ đều tuẫn nạn. Quách tổ sư tính tình không hợp với võ công của cha, thành thử võ học bản phái không cùng đường với võ công của Quách đại hiệp khi trước.

Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Một trăm năm sau, trong võ lâm biết bao nhiêu sóng gió, đôi đao kiếm đó qua tay đổi chủ nhiều lần. Người sau chỉ biết đao Đồ Long là võ lâm chí tôn, chỉ có kiếm Ỷ Thiên mới đương cự nổi, thế nhưng vì sao mà tôn quí hơn hết thì không ai biết cả. Quách công Phá Lỗ tuẫn quốc từ khi còn thanh niên, không có truyền nhân, thành ra bí mật trong hai thanh đao kiếm chỉ một mình Quách tổ sư bản phái biết mà thôi. Lão nhân gia lúc sinh tiền từng hết tâm hết sức đi tìm thanh đao Đồ Long nhưng không thành công. Đến khi lìa trần mới đem bí mật đó truyền lại cho ân sư ta là Phong Lăng sư thái. Ân sư ta nhận di mệnh của tổ sư đi tìm thanh đao Đồ Long cũng không có kết quả. Lão nhân gia lúc viên tịch lại đem thanh kiếm và di mệnh của tổ sư truyền lại cho ta. Ta tiếp nhiệm chức vụ chưởng môn bản phái chưa lâu thì sư bá ngươi Cô Hồng Tử gây sự với một thanh niên cao thủ của ma giáo, hai bên ước định tỉ võ, một đánh một, không ai có người giúp đỡ. Sư bá ngươi biết đối thủ tuy tuổi còn trẻ, võ công lại rất ghê gớm, nên mới đến mượn thanh Ỷ Thiên kiếm của ta.

Chu Chỉ Nhược nghe tới "thanh niên cao thủ trong ma giáo", trong bụng chột dạ, tự nhiên mặt đỏ lên, nhưng lại nghĩ ngay: "Không phải chàng đâu, e rằng khi đó chàng chưa ra đời nữa".

Lại nghe Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Khi đó ta muốn đi theo để trợ giúp nhưng sư bá ngươi là người hết sức tín nghĩa, nói rằng đã nói trước với ma đầu kia rằng không để cho người thứ ba nào tham dự thành thử kiên quyết không cho ta đi. Trận tỉ thí đó, sư bá ngươi võ công tuy không kém gì đối thủ nhưng gã ma đầu liên tiếp thi hành ngụy kế, sau cùng bị trúng một chưởng vào ngực, kiếm Ỷ Thiên chưa ra khỏi vỏ thì đã bị ma đầu kia đoạt mất.

Chu Chỉ Nhược "A" lên một tiếng, nghĩ đến khi Trương Vô Kỵ đoạt kiếm từ tay Diệt Tuyệt sư thái lúc ở Quang Minh Đính, thì nghe sư phụ kể thêm:

- Gã ma đầu kia liên tiếp cười khẩy nói: "Kiếm Ỷ Thiên nghe danh ghê gớm thế nhưng dưới mắt ta có khác gì đồng nát sắt rỉ đâu". Nói xong y vứt toẹt thanh kiếm xuống đất rồi đi thẳng. Sư bá ngươi nhặt thanh kiếm lên, muốn quay lại núi trả cho ta. Ngờ đâu ông tâm cao khí ngạo, càng nghĩ càng tức không chịu nổi, chỉ mới đi được ba ngày thì ở trên đường ngã bệnh không dậy được, thanh kiếm Ỷ Thiên bị quan phủ lấy mất đem hiến cho triều đình. Con có biết tên ma đầu đã chọc tức sư bá Cô Hồng Tử đó là ai không?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Không...con không biết. Ai thế?

Diệt Tuyệt sư thái đáp:

- Chính là kẻ sau này đã hại đời làm chết Kỷ Hiểu Phù sư tỉ con đại ma đầu Dương Tiêu đó.

Bỗng nghe Lộc Trượng Khách giơ tay gõ cửa nói:

- Xong chưa nào? Ta không đợi thêm được nữa đâu.

Diệt Tuyệt sư thái đáp:

- Không việc gì phải gấp, chỉ một lúc nữa là xong thôi.

Bà điềm nhiên nói với Chu Chỉ Nhược:

- Thời khắc không còn nhiều, ta không nói với con được bao nhiêu nữa. Thanh kiếm Ỷ Thiên sau đó hoàng đế Thát tử ban cho Nhữ Dương Vương, ta đến phủ Nhữ Dương Vương đoạt lại. Lần này bất hạnh thay trúng phải gian kế, thanh kiếm đó vào tay bọn ma giáo.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Không phải đâu, đó là bị cô nương họ Triệu kia đoạt mất đó.

Diệt Tuyệt sư thái trừng mắt nhìn nàng, nói:

- Con bé họ Triệu rõ ràng cùng bọn với ma đầu của ma giáo, không lẽ giờ phút này, con vẫn chưa tin lời sư phụ hay sao?

Chu Chỉ Nhược quả thực khó mà tin như thế nhưng không dám cãi lại lời sư phụ.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Sư phụ muốn con tiếp nhiệm chưởng môn cũng là có thâm ý. Ta kỳ này rơi vào tay bọn gian đồ, anh danh một đời trôi theo giòng nước, thực không còn muốn sống mà ra khỏi cái tháp này. Tên dâm đồ họ Trương kia có tà ý, ắt sẽ không hại tính mạng con, thành thử con có thể giả vờ khứng chịu, thừa cơ đoạt lại thanh Ỷ Thiên kiếm. Còn thanh đao Đồ Long ở trong tay nghĩa phụ y là ác tặc Tạ Tốn. Tên tiểu tử đó dù cách nào cũng không thổ lộ chỗ ở của Tạ Tốn nhưng trên đời này chỉ một người có thể bảo y đi lấy thanh đao đó được thôi.

Chu Chỉ Nhược biết sư phụ nàng nói đây là nói về mình, vừa thẹn thùng vừa e ngại, vừa sợ hãi vừa vui mừng. Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Người đó chính là con đó. Ta muốn con dùng sắc đẹp dụ y lấy được bảo đao bảo kiếm, việc đó quả không phải là đường lối của người hiệp nghĩa. Thế nhưng để thành được đại sự không thể nề tiểu tiết. Con thử nghĩ xem, thanh kiếm Ỷ Thiên nay ở trong tay con bé họ Triệu, còn đao Đồ Long ở trong tay ác tặc Tạ Tốn, chúng nó cùng một phường tồi bại với nhau, nếu như một ngày nào đó đao kiếm tương phùng, lấy được binh pháp võ công của Quách đại hiệp, dùng đó tàn hại dân lành, thiên hạ biết bao nhiêu kẻ vô tội bị bỏ mạng, vợ chồng chia lìa, cha con ly tán, việc đuổi quân Thát tử đã khó lại càng khó hơn.

Chỉ Nhược, ta biết việc này khó tày trời, thực không nỡ để con phải gánh vác, thế nhưng chúng ta một đời học võ cốt để làm gì? Chỉ Nhược, ta vì trăm họ mà cầu khẩn con.

Bà nói tới đây, đột nhiên đứng lên quì hai gối, hướng về Chu Chỉ Nhược phục xuống lạy. Chu Chỉ Nhược kinh hãi không để đâu cho hết, vội vàng quì theo, kêu lên:

- Sư phụ, sư phụ, thầy...

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Bình tĩnh nào, đừng để cho ác tặc bên ngoài kia nghe thấy, con có bằng lòng không? Nếu con không nhận lời, ta sẽ không đứng lên đâu.

Chu Chỉ Nhược lòng rối như tơ vò, trong một thời gian ngắn ngủi như thế, sư phụ bảo nàng làm ba chuyện thật to lớn, trước là lập một lời thề thật độc không được phải lòng Trương Vô Kỵ, kế đến bắt nàng tiếp nhiệm chưởng môn bản phái, sau cùng lại bắt nàng dùng mỹ sắc để dụ dỗ Trương Vô Kỵ hầu lấy được kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long. Ba chuyện ấy trong vòng mười năm mà bảo nàng làm, dẫu nàng tính hạnh ôn nhu cũng đã thấy không làm nổi, huống chi chỉ trong một giây một phút? Nàng thần trí bấn loạn, lúc này người mê đi không còn biết gì nữa.

Đột nhiên nàng thấy môi trên đau nhói, mở mắt ra thấy sư phụ vẫn quì sừng sững ở trước mặt. Chu Chỉ Nhược khóc nói:

- Sư phụ, xin lão nhân gia đứng lên đi.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Vậy con đã bằng lòng làm việc sư phụ cầu ở con chưa?

Chu Chỉ Nhược nước mắt chảy dài lặng lẽ gật đầu nhưng dường như lại muốn ngất đi lần nữa. Diệt Tuyệt sư thái nắm lấy cổ tay nàng, hạ giọng nói:

- Con lấy được kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long rồi, tìm một nơi thật kín đáo, một tay cầm đao, một tay giữ kiếm vận nội lực lên lấy đao kiếm chém vào nhau, cả bảo đao lẫn bảo kiếm sẽ cùng gãy cả, là cách duy nhất lấy được bí cấp dấu bên trong thân đao và lưỡi kiếm, từ nay về sau đao kiếm đã bị hủy rồi. Con có nhớ không?

Bà ta tuy nói rất nhỏ nhưng âm thanh cực kỳ gay gắt. Chu Chỉ Nhược gật đầu.

Diệt Tuyệt sư thái lại tiếp:

- Đây là bí mật tối quan trọng của bản phái, từ thuở Quách đại hiệp truyền lại cho Quách tổ sư tới nay chỉ một mình người chưởng môn được biết. Ai cũng biết đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên đều sắc bén tuyệt luân, dẫu người nào có được cả hai món binh khí này, ai dám mạo hiểm đem bảo đao bảo kiếm chém vào nhau? Con lấy được binh pháp rồi, chọn người nào tâm địa nhân hậu, hết lòng hết dạ với đất nước, đem truyền thụ cho y, bắt y thề phải dùng để đuổi quân Hồ Lỗ. Còn võ công bí cấp thì con tự mình luyện lấy. Hàng Long Thập Bát Chưởng là môn thuần cương mãnh, con không luyện được, chỉ nên luyện công phu Cửu Âm chân kinh.

Cứ như ân sư ta thuật lại di ngôn của Quách tổ sư thì pho Cửu Âm chân kinh này bác đại tinh thâm, vốn không thể mong tốc thành được nhưng vì Hoàng nữ hiệp nghĩ đến việc tru diệt bọn Thát tử hung ác là chuyện thật gấp gáp, sớm ngày nào thiên hạ đỡ khổ ngày nấy cho nên trong bí cấp dấu nơi kiếm Ỷ Thiên có viết mấy chương cốt luyện cho nhanh. Thế nhưng sau khi đã làm xong đại sự, phải đi lại từ đầu cho có căn cơ, công phu gấp gáp kia chỉ dùng được một thời, là do trí tuyệt đính thông minh của Hoàng nữ hiệp sáng tạo ra dùng lúc quyền nghi mà thôi, không phải là võ học chân chính vô địch thiên hạ. Chỗ đó con phải ghi nhớ kỹ trong lòng.

Chu Chỉ Nhược ngơ ngẩn bần thần lặng lẽ gật đầu. Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Cả cuộc đời thầy chỉ có hai tâm nguyện lớn, một là làm sao đuổi được bọn Thát tử lấy lại giang sơn cho người Hán; hai là làm sao cho phái Nga Mi võ công đứng đầu thiên hạ, vượt cả Thiếu Lâm, Võ Đương trở thành môn phái số một của trung nguyên. Hai chuyện đó thật là khó khăn nhưng đến bây giờ thấy có chút hi vọng, chỉ cần con theo đúng lời dặn dò của sư phụ thì chuyện gì rồi cũng xong, ta dù ở nơi cửu tuyền cũng còn cảm kích chịu ơn con.

Bà ta nói tới đây, bỗng nghe bên ngoài có tiếng Lộc Trượng Khách gõ cửa. Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Vào đi.

Cửa mở toang ra, người bước vào không phải là Lộc Trượng Khách mà là khổ đầu đà. Diệt Tuyệt sư thái cũng không ngạc nhiên, nghĩ bọn này đều cá mè một lứa, người nào thì cũng thế thôi liền nói:

- Ngươi đem đứa bé này ra đi.

Bà không muốn tự vẫn trước mặt Chu Chỉ Nhược để nàng khỏi thêm đau lòng. Khổ đầu đà đến gần hạ giọng nói khẽ:

- Đây là thuốc giải, mau uống đi. Đợi đến khi nào bên ngoài có tiếng la hét tất cả cùng xông ra chém giết một lượt.

Diệt Tuyệt sư thái lạ lùng hỏi:

- Các hạ là ai? Sao lại đưa thuốc giải cho ta.

Khổ đầu đà đáp:

- Tại hạ là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo Phạm Dao, trộm được thuốc giải, đặc biệt đến đây cứu sư thái.

Diệt Tuyệt sư thái giận dữ đáp:

- Gian tặc Ma giáo kia, đến giờ này còn đùa cợt với ta nữa sao?

Phạm Dao cười nói:

- Hay nhỉ, nếu như ta đùa cợt với mụ thì thuốc độc uống rồi, thêm thuốc độc nữa, mụ có gan thì uống đi? Thuốc này uống vào bụng một giờ sau ruột đứt ra từng tấc, chết thảm không đâu kể xiết.

Diệt Tuyệt sư thái không thèm nói thêm một tiếng nào, cầm ngay lấy thuốc bột trên tay y há mồm uống ngay vào bụng. Chu Chỉ Nhược kinh hoảng kêu lên:

- Sư phụ... sư phụ...

Phạm Dao giơ một bàn tay ra, quát lên:

- Không được lên tiếng, ngươi cũng uống thuốc độc ngay đi.

Chu Chỉ Nhược sợ quá nhưng đã bị Phạm Dao bóp mồm, đổ thuốc vào miệng, tiếp theo lấy một bình nước tưới vào, thuốc liền trôi ngay xuống họng. Diệt Tuyệt sư thái hoảng hốt nghĩ nếu như Chu Chỉ Nhược chết đi, tất cả những gì mình mưu tính trôi theo giòng nước, nên cố hết sức xông lên, múa chưởng đánh thẳng vào Phạm Dao. Thế nhưng bà ta công lực hoàn toàn mất hết, chưởng đó chiêu số tinh diệu nhưng không có chút hơi sức nào, bị Phạm Dao đẩy nhẹ một cái đã văng vào tường.

Phạm Dao cười nói:

- Tăng chúng Thiếu Lâm, chư hiệp Võ Đương cũng đều uống thuốc độc của ta rồi. Minh giáo hay hay dở, xấu hay tốt một lát nữa thì biết ngay.

Y nói xong cười sằng sặc, quay ra đóng trái cửa phòng lại.

*

* *

Thì ra Phạm Dao hộ tống Triệu Mẫn đến gặp Trương Vô Kỵ, trong lòng khắc khoải làm sao có được thuốc giải nên khi Triệu Mẫn ra lệnh cho y ở ngoài quán rượu chờ nàng, y lập tức đi ngay, chạy thẳng về chùa Vạn An đi lên trên tháp đến tầng thứ mười nơi ngoài phòng của Ô Vượng A Phổ.

Ô Vượng A Phổ lúc đó đang đứng ngoài cửa, vừa thấy y liền cung kính chào một tiếng:

- Khổ đại sư.

Phạm Dao gật đầu, trong bụng cười thầm: "Giỏi thật, tên già họ Lộc làm thầy mà chẳng ra thể thống gì, chui ở trong phòng hú hí với ái cơ của vương gia, lại bắt học trò đứng ngoài canh cửa. Lợi dụng lúc tên này còn đang không biết trời trăng, ta phải xông vào cướp lấy giải dược mới được". Y bèn khom người lại, đi ngang qua người Ô Vượng A Phổ, bất ngờ giơ ngón tay điểm luôn vào huyệt đạo nơi bụng dưới y. Chẳng nói Ô Vượng A Phổ tuyệt nhiên không đề phòng, dẫu y có chăm chăm phòng bị cũng không sao tránh được một chỉ đó. Yếu huyệt của y bị điểm trúng rồi, lập tức đứng trơ trơ không cử động gì được, trong bụng cực kỳ ngạc nhiên, không biết làm gì nên nỗi, gây tội với lão đầu đà câm này. Không lẽ câu "Khổ đại sư" kia chào chưa đủ cung kính hay sao?

Phạm Dao vừa bước vào phòng, nhanh như điện xông luôn tới bên giường, hai chân chưa chấm đất, một chưởng đã đánh luôn vào người nằm ở trên. Y biết Lộc Trượng Khách võ công rất ghê gớm, nếu chưởng này không đánh y trọng thương hai bên sẽ phải đánh nhau một trận chưa biết bên nào sống bên nào chết, bên nào được bên nào thua. Thành thử chưởng đó y sử dụng đủ mười phần kình lực. Chỉ nghe một tiếp bộp, chiếc chăn bị đánh nát, bông bay tứ tán. Y lật mền lên coi, chỉ thấy Hàn cơ mũi mồm ứa máu, người đẹp kia ngọc nát vàng phai còn Lộc Trượng Khách không thấy đâu cả.

Phạm Dao chợt nghĩ ra một kế, vội vàng đi ra ngoài ôm Ô Vượng A Phổ vào, nhét xuống gầm giường, vừa khép cửa lại đã nghe tiếng Lộc Trượng Khách ở bên ngoài gắt lên:

- A Phổ, A Phổ, sao ngươi dám chạy đi đâu?

Thì ra Lộc Trượng Khách đứng bên ngoài phòng giam Diệt Tuyệt sư thái đợi một hồi, nghĩ thầm hai mẹ con mụ kể lể dông dài biết chừng nào mới xong, nhưng vì không dám đắc tội với khổ đầu đà, nên đành để yên, y ngong ngóng nhớ đến Hàn cơ, không còn chịu nổi nữa bèn quay trở lại phòng Ô Vượng A Phổ. Y đến nơi không thấy tên đệ tử ngoan ngoãn kia đâu, trong bụng bực dọc, đẩy cửa bước vào may quá chưa thấy gì khác, Hàn cơ nằm xoay mặt vào trong, trên mình phủ chiếc chăn bông.

Lộc Trượng Khách cầm then cài cửa phòng lại, quay mình cười nói:

- Người đẹp ơi, để ta giải huyệt cho nàng, nhưng nàng không được lên tiếng đấy nhé.

Y vừa nói vừa thò tay xuống dưới chăn, toan mò vào lưng Hàn cơ, đột nhiên cổ tay bị nắm chặt, năm ngón tay ai như gọng kìm bấm ngay vào mạch môn. Y kình lực toàn thân mất hết, không còn chút hơi sức nào nữa. Đột nhiên chăn tung qua, một nhà sư để tóc dài nhảy ra chính là khổ đầu đà.

Phạm Dao tay phải nắm được mạch môn, tay trái nhanh như gió liên tiếp điểm mười chín đại huyệt trên người Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách liền nhũn ra xụm người xuống không còn cử động chút nào nhưng mắt dường như nổ lửa.

Phạm Dao chỉ vào y nói:

- Lão phu đi không đổi họ, ngồi chẳng thay tên, chính là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo, họ Phạm tên Dao đây. Hôm nay ngươi bị ta ám toán, uổng cho ngươi tự cho mình là cơ trí tuyệt luân, thực ra tầm thường ngu độn quá lắm. Nếu lúc này ta giết ngươi, không phải là kẻ anh hùng hảo hán nên tạm cho ngươi sống, nếu ngươi có giỏi thì ngày sau đi kiếm Phạm Dao này báo thù.

Y cao hứng chưa hết, lột luôn quần áo Lộc Trượng Khách không còn một mảnh vải, để y nằm chung với cái xác Hàn cơ, lấy chăn bao ra bên ngoài chùm cả hai người một sống một chết lại.

Sau đó y mới lấy trượng sừng hươu, mở cái nhánh đổ hết thuốc giải đi từng phòng giam, chia cho Không Văn đại sư, Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu mọi người uống. Đợi cho mọi người uống xong thời giờ cũng khá lâu, lại còn mất công giải thích mỗi người ít câu. Sau cùng đi đến phòng của Diệt Tuyệt sư thái, Phạm Dao thấy bà ta không tin đây là thuốc giải đành phải dọa một trận nói là độc dược. Y hận bà giết hại rất nhiều anh em trong Minh giáo nên hù được mấy câu cũng khoái trong lòng.

Y chia thuốc giải xong rồi, cảm thấy đắc ý bỗng nghe thấy dưới chân tháp có tiếng người lao xao, trong đó tiếng của Hạc Bút Ông nghe rõ ràng hơn cả:

- Tên khổ đầu đà là gian tế, mau bắt y xuống đây.

Phạm Dao kêu khổ thầm: "Bỏ mẹ, hỏng rồi, không biết ai cứu tên đó ra vậy?". Vừa thò đầu ra ngoài nhìn xuống dưới chân tháp, thấy Hạc Bút Ông tất lãnh một bầy võ sĩ vây chặt tháp lại, Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Tồi thấy y liền liền bắn hai mũi tên, chửi lớn:

- Ác tặc đầu đà, ngươi hại bọn ta quá đỗi.

Ba người Hạc Bút Ông bị điểm huyệt, vốn dĩ không thể thoát thân, lại nằm trong phòng Lộc Trượng Khách nên đâu có ai dám tự tiện tiến vào. Nào ngờ bọn võ sĩ do Nhữ Dương Vương phủ sai đến chùa Vạn An tra xét, không thấy tung tích ái cơ của vương gia đâu, liền có người nghĩ ngay đến tính tình hiếu sắc tham hoa của Lộc Trượng Khách. Thế nhưng các võ sĩ xưa nay vẫn e ngại y, tuy nghi ngờ việc mất tích của ái cơ vương gia có dính líu đến y nhưng có ai dám vuốt râu hùm? Mãi một lúc sau, người chỉ huy đội võ sĩ là Cáp tổng quản nghĩ ra một kế, sai một tên lính hầu đến gõ cửa phòng Lộc Trượng Khách, Lộc Trượng Khách thân phận cực cao dù có nổi nóng, không lẽ lại trừng phạt một tên tiểu binh như thế. Tên lính gõ cửa mấy lần trong phòng không nghe tiếng đáp lại.

Cáp tổng quản bậm môi, ra lệnh cho tên lính đẩy cửa vào xem có gì khác lạ không. Vừa nhìn vào, y liền thấy Hạc Bút Ông, Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Tồi ba người nằm lăn dưới đất. Lúc đó Hạc Bút Ông vận khí xung huyệt cũng đã giải được ba bốn phần, Cáp tổng quản liền giúp y giải huyệt nên chẳng mấy chốc lại hành động được như thường.

Hạc Bút Ông nộ khí xung thiên, liền tra hỏi xem Lộc Trượng Khách và khổ đầu đà đi đâu, biết được hai người lên trên tháp liền dẫn đám võ sĩ bao vây, lớn tiếng reo hò, gọi khổ đầu đà xuống một phen tử chiến.

Phạm Dao chửi thầm trong bụng: "Muốn tử chiến thì tử chiến, không lẽ họ Phạm này sợ ngươi chắc? Có điều bọn hòa thượng ni cô thối tha uống thuốc chưa bao lâu, nhất thời công lực chưa khôi phục. Tên Hạc Bút Ông đã nghe ta và Lộc Trượng Khách nói chuyện rồi, dù ta có đem lão Lộc này giết đi, cũng không thể diệt khẩu, phải làm sao bây giờ đây?". Y còn bàng hoàng chưa nghĩ ra kế gì, lại nghe Hạc Bút Ông kêu lên:

- Đầu đà chết tiệt kia, ngươi không xuống thì ta lên.

Phạm Dao liền trở vào đem chiếc chăn gói Lộc Trượng Khách và Hàn cơ ra bao lơn, giơ cao lên nói:

- Con hạc già kia, ngươi mà tiến lên tháp một bước, ta sẽ ném con hươu dâm này xuống đó.

Bọn võ sĩ tay giơ cao đuốc, chiếu sáng như ban ngày mặc dù ngọn tháp quá cao, ánh lửa không chiếu tới, nhưng trong ánh sáng bập bùng, vẫn thấp thoáng nhìn thấy mặt Lộc Trượng Khách và Hàn cơ. Hạc Bút Ông kinh hãi, kêu lên:

- Sư ca, sư ca, anh không sao chứ?

Y gọi liên tiếp mấy câu không nghe Lộc Trượng Khách đáp lại tưởng đã bị khổ đầu đà giết chết rồi, trong lòng đau khổ kêu lên:

- Tặc đầu đà, ngươi giết sư ca ta, ta quyết một mất một còn với ngươi.

Phạm Dao liền giải huyệt câm cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách liền lên tiếng chửi:

- Tặc đầu đà, ngươi là gian tế nội ứng ngoại hợp, ta sẽ lăng trì tùng xẻo giết ngươi mới hả...

Phạm Dao chỉ để cho y nói vài câu, lại điểm huyệt câm của y. Hạc Bút Ông thấy sư huynh chưa chết, trong bụng cũng yên chỉ sợ khổ đầu đà ném xuống thật nên không dám tiến đến cửa tháp nữa. Hai bên cứ dây dưa như thế một hồi lâu, Hạc Bút Ông không dám lên cứu sư huynh, còn Phạm Dao thì chỉ mong kéo dài thời khắc, thêm được chút nào hay chút nấy. Y đứng ở lan can cười ha hả nói:

- Hạc lão nhi, sư huynh ngươi thật là mật lớn tày trời, dám đi bắt trộm ái cơ của vương gia về đây. Ta bắt kẻ gian bắt luôn cả đôi, quả tang cả hai người. Ngươi vẫn còn mong che đậy cho sư huynh ngươi hay sao? Tổng quản đại nhân, mau mau bắt lấy gã đó. Hai sư huynh đệ của y phản loạn, tội đó không thể tha được. Ông bắt được y rồi, vương gia thể nào cũng trọng thưởng.

Cáp tổng quản liếc nhìn Hạc Bút Ông, đã toan ra tay nhưng lại không dám. Y thấy khổ đầu đà đột nhiên biết nói, tuy quái lạ thực nhưng rõ ràng nhìn thấy Lộc Trượng Khách và Hàn cơ nằm chung trong một cái chăn, huống chi trước đây vốn đã nghi ngờ nên nay tin cũng phải chín phần mười. Y liền lớn tiếng nói:

- Khổ đại sư, xin mời ông xuống đây, tất cả cùng đến gặp vương gia trình bày ai trái ai phải. Cả ba vị đều là tiền bối cao nhân, tiểu nhân không dám mạo phạm người nào cả.

Phạm Dao vốn là kẻ lớn mật, nghĩ thầm nếu tất cả cùng đến gặp vương gia, để khi phân biện trắng đen trái phải rồi, chư hiệp trên tháp uống thuốc giải cũng đã ngấm, liền kêu lên:

- Hay lắm, hay lắm! Ta đang muốn đi gặp vương gia lãnh thưởng. Tổng quản đại nhân, ông canh chừng tên hạc già này, quyết chớ để y có dịp đào tẩu.

Ngay lúc đó bỗng nghe tiếng vó ngựa rộn rịp, một người cưỡi ngựa chạy vào tiến đến ngay dưới chân tháp. Các võ sĩ trông thấy liền khom lưng hành lễ:

- Tiểu vương gia.

Phạm Dao từ trên tháp nhìn xuống, thấy người đó mặc cẩm bào đội mũ vàng sáng loáng, cưỡi trên một con ngựa trắng cao to, chính là thế tử của Nhữ Dương Vương Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, có tên Hán là Vương Bảo Bảo.

Vương Bảo Bảo gay gắt quát hỏi:

- Hàn cơ đâu? Phụ vương đang nổi cơn lôi đình, sai ta đích thân tới tra xét.

Cáp tổng quản liền tiến lên bẩm báo, nói là Lộc Trượng Khách bắt cóc Hàn cơ, hiện đã bị khổ đầu đà bắt được. Hạc Bút Ông vội nói:

- Tiểu vương gia, đừng nghe y nói năng láo lếu. Tên đầu đà đó là gian tế, y hãm hại sư ca tôi...

Vương Bảo Bảo nhướng mày lên, quát:

- Tất cả xuống đây nói chuyện.

Phạm Dao ở vương phủ đã lâu, biết rằng Vương Bảo Bảo sáng suốt tinh minh không kém gì cha, ngụy kế của mình chỉ lừa được người khác nhưng không lừa nổi y. Một khi xuống chân tháp rồi, chỉ một hai câu là tiểu vương gia biết ngay, hạ lệnh cho võ sĩ vây đánh, riêng Hạc Bút Ông không thôi cũng đã gay go, một mình thoát thân không khó nhưng chư hiệp trên tháp không thể nào cứu ra được. Y liền lớn tiếng nói:

- Tiểu vương gia, tôi bắt được Lộc Trượng Khách rồi, sư đệ y căm hận thấu xương, tôi chỉ xuống tới nơi là y giết tôi ngay.

Vương Bảo Bảo nói:

- Ngươi mau xuống đây, Hạc tiên sinh không dám giết ngươi đâu.

Phạm Dao lắc đầu, cao giọng nói:

- Tôi ở trên tháp thấy yên tâm hơn. Tiểu vương gia, khổ đầu đà này một đời không nói năng, hôm nay việc chẳng đặng đừng phải mở miệng cũng toàn là do tấm lòng son trung nghĩa đối với vương gia. Nếu tiểu vương gia không tin, khổ đầu đà này sẽ nhảy xuống, vỡ đầu chết trước mặt ngài là xong.

Vương Bảo Bảo nghe y nói, mười phần đến bảy tám là láo lếu, rõ ràng có ý diên trì, hạ giọng hỏi nhỏ Cáp tổng quản:

- Y có mưu toan gì mà cố tình lần khân, chẳng lẽ còn chờ ai chăng?

Cáp tổng quản nói:

- Tiểu nhân không biết...

Hạc Bút Ông liền xen vào:

- Tiểu vương gia, tên tặc đầu đà này cướp thuốc giải của sư huynh tôi, muốn cứu bọn phản nghịch đang giam ở trong tháp.

Vương Bảo Bảo nghe liền hiểu ngay, gọi lớn:

- Khổ đại sư, ta biết công lao của ông rồi, mau xuống đây ta sẽ trọng thưởng.

Phạm Dao đáp:

- Tôi bị Lộc Trượng Khách đá hai cái, xương đùi gãy cả, bây giờ không sao cử động được. Tiểu vương gia, xin ngài đợi cho một chút, tôi vận khí chữa thương sẽ xuống ngay.

Vương Bảo Bảo quát lên:

- Cáp tổng quản, ngươi sai người lên cõng khổ đại sư xuống dưới này.

Phạm Dao vội kêu:

- Không được đâu, không được đâu, người nào đụng đến tôi là hai chân sẽ bị phế đó.

Vương Bảo Bảo lúc này không còn hoài nghi gì nữa, thấy Hàn cơ và Lộc Trượng Khách hai người nằm chung trong một cái chăn, dẫu như chưa có chuyện gì, phụ vương cũng không còn có thể giữ nàng hầu đó nữa, liền nói nhỏ:

- Cáp tổng quản, nổi lửa đốt cái tháp đi. Cho người nạp sẵn cung tên, dù ai nhảy ra cũng bắn chết hết.

Cáp tổng quản tuân lệnh truyền xuống, các võ sĩ cung tên sẵn sàng vây quanh ngọn tháp, còn những người khác chạy đi kiếm củi cỏ để đốt lửa. Hạc Bút Ông hoảng quá, kêu lên:

- Tiểu vương gia, sư ca tôi cũng ở trên đó.

Vương Bảo Bảo lạnh lùng đáp:

- Tên đầu đà đó không dám ở trên đó lâu đâu, một khi đốt lửa lên là y phải chạy xuống.

Hạc Bút Ông lập cập nói:

- Lỡ như y vứt sư ca tôi xuống thì làm thế nào? Tiểu vương gia, không thể đốt lửa được.

Vương Bảo Bảo hừ một tiếng không thèm để ý gì đến y. Chỉ trong giây lát, các võ sĩ đã mang củi cỏ và các đồ bén lửa, đốt dưới chân tháp. Hạc Bút Ông là người rất có thân phận trong võ lâm, được Nhữ Dương Vương dùng lễ mời vào phủ, trước nay đối đãi cực kỳ kính trọng, nào ngờ hôm nay vì trúng kế của khổ đầu đà, đến tiểu vương gia cũng chẳng coi y vào đâu. Y thấy tính mạng sư huynh nguy ngập đến nơi, không còn coi tiểu vương gia, đại vương gia ra gì nữa, cầm đôi bút mỏ hạc, nhảy vọt lên gạt hai tên võ sĩ đang châm lửa, huỵch huỵch hai tiếng, hai đứa đó liền văng ra xa.

Vương Bảo Bảo giận lắm, quát lên:

- Hạc tiên sinh, ngươi muốn phạm thượng tác loạn hay sao?

Hạc Bút Ông đáp:

- Tiểu vương gia đừng sai đốt lửa, tôi đâu có dám làm gì.

Vương Bảo Bảo quát lên:

- Châm lửa.

Y phất tay một cái, năm tên phiên tăng áo đỏ từ đằng sau nhảy lên, cầm lấy mấy bó đuốc trong tay các võ sĩ, ném luôn vào đống củi dưới chân tháp. Cỏ củi bén lửa, lập tức cháy lên bùng bùng.

Hạc Bút Ông quýnh quít, cướp một cây giáo của một tên võ sĩ, gạt những củi đang cháy ra. Vương Bảo Bảo quát lên:

- Bắt y.

Năm tên hồng y phiên tăng tay cầm giới đao liền vây Hạc Bút Ông lại. Hạc Bút Ông giận lắm, vứt trường mâu xuống, giơ tay toan cướp giới đao trong tay một phiên tăng. Tên đó không phải tầm thường, giới đao vòng lại chém luôn lên đầu vai y. Hạc Bút Ông đang toan né tránh, đằng sau đã nghe tiếng gió, lại có thêm hai thanh đao chém tới.

Thủ hạ Vương Bảo Bảo có mười tám phiên tăng võ công cao cường, gọi là Thập Bát Kim Cương, chia thành ngũ đao, ngũ kiếm, tứ trượng, tứ bạt. Năm phiên tăng này là Ngũ Đao Kim Cương, nếu một chọi một thì họ kém Hạc Bút Ông xa nhưng cả năm người cùng ra tay, kẻ công người thủ tương trợ lẫn nhau thì uy lực rất lớn. Hạc Bút Ông võ công tuy cao cường nhưng hôm trước bị Trương Vô Kỵ đánh cho bị thương hộc máu, nội lực giảm đi nhiều, lại thêm lửa cháy bừng bừng, tính mạng sư huynh đang nguy cấp, nên trong bụng phập phồng hốt hoảng không thể nào thắng ngay được.

Thủ hạ của Vương Bảo Bảo liên tục thêm củi thêm lửa, càng lúc cháy càng mạnh. Bảo tháp này xây vừa gạch vừa gỗ, chẳng mấy chốc những tầng dưới cùng đã bén lửa cháy lốp bốp rồi. Phạm Dao vội để Lộc Trượng Khách xuống, đến phòng giam chư hiệp phái Võ Đương, kêu lên:

- Thát tử đang đốt tháp, các vị nội lực đã hồi phục chưa?

Chỉ thấy Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu cả bọn đang ngồi xếp bằng vận công, hết sức tập trung tinh thần, không người nào lên tiếng trả lời hiển nhiên đang ở vào lúc sinh tử quan đầu của việc luyện công. Có mấy tên võ sĩ canh giữ tiến lên ngăn trở đều bị Phạm Dao chộp từng tên vứt xuống dưới chân tháp chết tươi. Số còn lại cố xông qua khói lửa chạy xuống dưới.

Một lúc sau, lửa đã bén đến từng thứ tư, những người bị giam nơi đây là phái Hoa Sơn không đợi công lực hồi phục, hốt hoảng chạy lên tầng thứ năm. Lửa vẫn tiếp tục cháy lên cao, khiến cho những người bị giam ở tầng thứ năm là phái Không Động cũng phải chạy lên. Có người chậm chân, quần áo râu tóc bị cháy xém.

Phạm Dao không biết làm cách nào, bỗng nghe có tiếng người gọi:

- Phạm hữu sứ, đón lấy.

Chính là tiếng của Vi Nhất Tiếu. Phạm Dao mừng quá, nhìn theo hướng thanh âm thấy Vi Nhất Tiếu đứng trên nóc hậu viện chùa Vạn An vung tay một cái ném một sợi dây dài qua, Phạm Dao vội vàng giơ tay bắt lấy. Vi Nhất Tiếu nói:

- Ngươi buộc vào lan can để làm một cái cầu dây.

Phạm Dao còn đang loay hoay buộc, Triệu Nhất Thương trong thần tiễn bát hùng liền bắn ra một mũi tên, trúng ngay giữa sợi dây thừng đứt đôi. Cả Phạm Dao lẫn Vi Nhất Tiếu cùng cất tiếng chửi, biết rằng muốn làm cái cầu dây không thể không trừ bọn thần tiễn bát hùng trước. Vi Nhất Tiếu mắng:

- Bắn cái con mẹ ngươi. Đứa nào không ném cung tên đi thì ông giết trước.

Y vừa chửi vừa rút kiếm ra nhảy ngay xuống đất. Chân y chưa chấm đất, năm tên phiên tăng áo xanh lập tức cầm kiếm tiến lên vây lại, chính là Ngũ Kiếm Kim Cương trong thập bát phiên tăng của Vương Bảo Bảo. Năm người đó kiếm vung lên loang loáng, kiếm chiêu quái lạ đấu với Vi Nhất Tiếu.

Hạc Bút Ông vẫn múa đôi song bút mỏ hạc chiến đấu, lớn tiếng kêu:

- Nếu tiểu vương gia không ra lệnh cứu hỏa, ta sẽ không còn nể nang gì nữa đâu.

Vương Bảo Bảo không thèm để ý, bốn tên phiên tăng cầm trượng liền chia nhau ra đứng bốn bên tiểu vương gia, e sợ có người đánh lén. Hạc Bút Ông nóng ruột, song bút đột nhiên sử chiêu Hoành Tảo Thiên Quân, đẩy dạt ba phiên tăng trước mặt, đề khí chạy đến bên chân tháp, năm tên phiên tăng lập tức đuổi theo. Hạc Bút Ông nhún mình một cái đã nắm ngay được mái hiên tầng thứ nhất, năm phiên tăng thấy lửa đang cháy to liền ngừng lại không đuổi theo nữa.

Hạc Bút Ông từng tầng một tiếp tục nhảy lên, đến khi y tới từng thứ tư, Phạm Dao ở trên tầng thứ bảy thò đầu ra trông thấy liền giơ cao Lộc Trượng Khách lớn tiếng nói:

- Hạc lão nhi, mau đứng lại. Ngươi còn đi thêm một bước là ta cho Lộc lão nhi nát bấy ra ngay.

Quả nhiên Hạc Bút Ông không dám tiến thêm kêu lên:

- Khổ đại sư, anh em tôi trước đây không thù oán gì với ông, sao lại làm khó chúng tôi thế? Nếu ông muốn cứu người tình cũ Diệt Tuyệt sư thái và con gái bà ta là Chu Chỉ Nhược thì cứ việc cứu, tôi nhất định không ngăn cản gì.

Diệt Tuyệt sư thái uống thuốc giải của khổ đầu đà rồi, tưởng rằng đó là thuốc độc và mình thể nào cũng chết, lại thấy Chu Chỉ Nhược cũng bị ép đổ thuốc vào mồm, bao nhiêu kỳ vọng tan ra mây khói, trong lòng cực kỳ đau đớn. Đang lúc thương tâm, bỗng nghe dưới tháp tiếng người lao xao, sau đó là Hạc Bút Ông và khổ đầu đà tranh cãi, Vương Bảo Bảo ra lệnh đốt tháp... mọi việc bà ta đều nghe rõ ràng. Diệt Tuyệt sư thái trong bụng lạ lùng: "Không lẽ tên đầu đà trông như quỉ này quả thực muốn cứu mình chăng?". Bà ta liền thử vận khí, lập tức thấy ở đan điền có một luồng hơi ấm xông lên, so với tình hình từ khi trúng độc đến giờ hoàn toàn khác hẳn.

Bà ta không khứng chịu việc Triệu Mẫn gọi ra điện tỉ võ nên nhịn ăn đã sáu bảy ngày, trong dạ dày không còn một chút gì, giải dược vào ruột liền chạy thẳng vào máu cho nên thuốc ngấm nhanh hơn những người khác nhiều. Huống chi bà ta nội lực thâm hậu, còn cao hơn cả Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Hà Thái Xung có lẽ chỉ kém Không Văn thần tăng của phái Thiếu Lâm một chút thôi, thành thử độc tính của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bị thuốc giải làm tiêu tan rất mau, Diệt Tuyệt sư thái chỉ vận khí một hồi, nội lực lập tức tái sinh chưa đến nửa giờ đã khôi phục được năm sáu thành.

Bà ta thấy vậy đang tính vận công gấp rút hơn bỗng nghe Hạc Bút Ông ở bên ngoài la lối: "... Nếu ông muốn cứu người tình cũ Diệt Tuyệt sư thái và con gái bà ta là Chu Chỉ Nhược thì cứ việc cứu, tôi nhất định không ngăn cản gì". Mấy chữ "lão tình nhân" vân vân từng tiếng như tên nhọn đâm vào tai, bà ta nghe không nổi giận sao được, liền bước ra lan can, bực tức quát lên:

- Ngươi nói nhăng nói càn, không biết trước biết sau gì cả là sao?

Hạc Bút Ông liền năn nỉ:

- Lão sư thái, xin bà làm ơn khuyên ông... ông bạn già thả sư huynh tôi ra. Tôi đảm bảo một nhà ba mạng bình an ra khỏi đây. Huyền Minh nhị lão nói một là một, nói hai là hai, không phải là loại nói rồi lại nuốt lời.

Diệt Tuyệt sư thái càng giận thêm, hỏi dồn:

- Cái gì mà một nhà ba mạng?

Phạm Dao tuy đang trong cảnh nguy nan, vẫn cười sằng sặc, thật là đắc ý nói:

- Lão sư thái, tên già đó nói tôi với bà là cựu tình nhân, còn Chu cô nương kia, thì là con tư sinh của hai đứa mình.

Diệt Tuyệt sư thái giận không để đâu cho hết, trong ánh lửa khi mờ khi tỏ, khuôn mặt trông thật đáng sợ, nghiến răng nói:

- Hạc lão nhi, ngươi lên đây, ta với ngươi trao đổi một trăm chưởng rồi hãy tính.

Nếu phải lúc bình thời, nói Hạc Bút Ông lên là y lên ngay, há sợ gì người chưởng môn phái Nga Mi, nhưng phút này sư huynh y rơi vào tay người khác nên không dám ngang tàng, kêu lên:

- Khổ đầu đà, cái đó là chính ngươi nói ra, chứ đâu phải ta bịa đặt đâu.

Diệt Tuyệt sư thái hầm hầm nhìn Phạm Dao, gay gắt hỏi lại:

- Có phải ngươi nói đó không?

Phạm Dao lại cười ha hả, đang định nói châm chọc bà ta mấy câu, bỗng nghe dưới chân tháp có tiếng người lao xao, ghé mắt nhìn xuống, thấy trong ánh lửa có một người thân hình chẳng khác gì bướm vờn hoa chạy qua chạy lại nhanh nhẹn dị thường, giữa đám đông lạng qua lạng lại, tiếng loảng xoảng, loảng xoảng liên tiếp không dứt, binh khí trong tay các phiên tăng, võ sĩ đều rơi xuống đất, chính là giáo chủ Trương Vô Kỵ đã đến nơi.

Trương Vô Kỵ vừa ra tay, năm thanh kiếm trong tay những người vây đánh Vi Nhất Tiếu đều bay đi cả. Vi Nhất Tiếu mừng quá, lạng người đến gần chàng, nói nhỏ:

- Để thuộc hạ đến đốt phủ Nhữ Dương Vương.

Trương Vô Kỵ gật đầu hiểu ngay ý của y, bên mình nơi đây chỉ có vài người, nếu như không cứu kịp quần hào lục đại môn phái ra, đối phương viện binh sẽ đến mỗi lúc một đông. Thanh Dực Bức Vương đến phủ Nhữ Dương Vương phóng hỏa, các võ sĩ sẽ thấy việc bảo vệ vương gia cần hơn, chính là kế điệu hổ ly sơn, phủ để trừu tân[1] thật tuyệt diệu. Chỉ thấy một bóng xanh vụt qua, Vi Nhất Tiếu đã nhảy qua tường chạy mất.

Trương Vô Kỵ thấy tình hình như thế, lớn tiếng hỏi:

- Phạm hữu sứ, ra sao rồi?

Phạm Dao đáp:

- Nguy ngập lắm, đường xuống bị cháy mất rồi, không một ai có thể chạy thoát được cả.

Lúc đó trong số mười tám phiên tăng thủ hạ của Vương Bảo Bảo, đã có mười bốn người tiến đến vây đánh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nghĩ phá giặc phải bắt thủ lãnh trước, có bắt được gã vương công Thát tử đầu đội kim quan kia thì mới có thể ép bọn thuộc hạ dập lửa thả người ra, thành thử chẳng khác gì con cá quẫy mình, lắc người một cái đã vọt ra khỏi bọn phiên tăng, tới ngay trước mặt Vương Bảo Bảo.

Nào ngờ từ phía trái một thanh kiếm đâm tới, hàn quang lạnh người, mũi kiếm chỉ thẳng vào ngực. Trương Vô Kỵ vội vàng lùi lại, chỉ nghe một giọng đàn bà nói:

- Trương công tử, đây là gia huynh, xin đừng đụng đến.

Chỉ thấy người đứng đó thân hình yểu điệu, thanh kiếm trong tay rung động, lưỡi kiếm sáng loáng như nước chính là thanh kiếm Ỷ Thiên, còn người thì mặt đẹp như hoa chính là Triệu Mẫn. Nàng đuổi theo Trương Vô Kỵ đến đây cũng chỉ chậm hơn một bước.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô nương mau hạ lệnh dập lửa cứu người, nếu không tại hạ sẽ phải vô lễ với hai vị đó.

Triệu Mẫn quát lên:

- Thập bát Kim Cương, người này võ công ghê gớm lắm, mau lập thành Kim Cương trận chặn y lại.

Mười tám phiên tăng mới rồi đã nếm mùi đau khổ của Trương Vô Kỵ, chẳng cần quận chúa chỉ điểm cũng đã biết chàng tới bực nào. Chỉ nghe choang một tiếng lớn, tám chiếc thanh la bằng đồng trong tay Tứ Bạt Kim Cương cùng gõ vào nhau, mười tám người chạy qua chạy lại, làm thành một bức tường người chặn ngay trước mặt Vương Bảo Bảo và Triệu Mẫn, đẩy lùi Trương Vô Kỵ ra.

Trương Vô Kỵ thấy mười tám phiên tăng chạy vòng quanh, bộ pháp kỳ lạ, xem ra bên trong còn chất chứa nhiều biến hóa. Chàng đang toan nhảy vào phá trận Kim Cương này xem sao, thì ngay lúc ấy nghe một tiếng bình thật lớn, một chiếc cột từ trên tháp đổ xuống.

Chàng quay đầu lại thấy lửa đã bén đến tầng thứ bảy, trong ánh lửa đỏ rực lem lém có bóng hai người đang đấu với nhau cực kỳ khốc liệt. Đó chính là Diệt Tuyệt sư thái và Hạc Bút Ông, còn trên lan can tầng thứ mười đầy những người của các phái Thiếu Lâm, Võ Đương, những người đó võ công chưa hoàn toàn hồi phục, huống chi tháp cao đến hơn chục trượng, dù có khinh công tuyệt đính mà nội lực không mất chút nào, nhảy xuống cũng chết tươi ngay.

Một ý nghĩ liền nảy vụt ra trong đầu Trương Vô Kỵ: "Trận Kim Cương này không phải trong chốc lát mà phá được, huống chi đánh bại được bọn phiên tăng thì lại có những hảo thủ khác xông lên, muốn bắt người anh của Triệu cô nương thật không phải dễ. Diệt Tuyệt sư thái đấu với Hạc Bút Ông từ nãy giờ không thấy sút kém chút nào, xem chừng võ công đã khôi phục, như thế nhóm đại sư bá nội lực cũng đã có rồi, chỉ điều bảo tháp này quá cao không thể nào nhảy xuống được".

Chàng nghĩ như thế lập tức chạy khắp nơi, hay tay lúc đánh lúc bắt, lúc đập lúc đoạt đánh ngã toàn bộ bọn thần tiễn bát hùng, ngoài ra bọn võ sĩ ai cầm cung tên đều bị chàng hoặc bẻ gãy, hoặc điểm huyệt, đến khi tất cả chung quanh không còn một hảo thủ cung tiễn nào, lúc ấy mới cao giọng nói:

- Các vị tiền bối trên tháp, xin nhảy xuống đây, tại hạ ở dưới này sẽ đỡ cho.

Những người ở trên tháp nghe thế đều ngạc nhiên, nghĩ thầm nơi đây cao đến hơn mười trượng, nhảy xuống thế sẽ mạnh lắm, dù chàng có sức nghìn cân cũng không thể nào đón được. Phái Không Động, phái Côn Lôn liền có người nhao nhao lên:

- Không thể nào được, chớ nên mắc hỡm tiểu tử đó. Y định lừa cho mình nhảy xuống chết nát xương đấy mà.

Trương Vô Kỵ thấy lửa đã bốc lên gần đến các cao thủ rồi, nếu như mọi người không nhảy xuống, thế tất đều chết cháy cả nên lớn tiếng nói:

- Du nhị bá, bác đối với cháu ơn nặng như núi, không lẽ tiểu điệt lại có bụng dạ hại bác hay sao? Bác nhảy xuống trước đi.

Du Liên Châu xưa nay vẫn tin tưởng Trương Vô Kỵ, biết võ công chàng cao cường nhưng không chắc có thể đỡ nổi mình. Tuy nhiên ở lại để bị bị chết thui và ngã xuống chết có khác gì nhau, nên kêu lên:

- Được, để ta nhảy xuống.

Ông liền tung mình, từ cao tháp nhảy vọt ra. Trương Vô Kỵ nhắm kỹ càng, đợi đến khi người ông còn cách mặt đất chừng năm thước, một chưởng nhẹ nhàng đánh ra, trúng ngay vào hông. Trong chưởng đó chàng đã vận dụng môn võ công tuyệt đính Càn Khôn Đại Na Di, cực kỳ khéo léo biến sức từ trên đi xuống trở thành từ trái sang phải.

Thân hình Du Liên Châu văng ngang qua, xa đến mấy trượng. Lúc này công lực ông đã khôi phục được bảy tám thành, vừa xoay mình một cái đã trầm ổn đứng được trên mặt đất, thuận tay một chưởng đánh ra hộc máu một võ sĩ Mông Cổ. Ông lớn tiếng gọi:

- Đại sư ca, tứ sư đệ, mau nhảy xuống đi thôi.

Người trên tháp thấy Du Liên Châu bình an rơi xuống, lớn tiếng reo hò. Tống Viễn Kiều thương con, muốn y thoát hiểm trước, nói:

- Thanh Thư, con nhảy xuống đi.

Tống Thanh Thư từ khi ra khỏi tù thất, lúc nào cũng đứng bên cạnh Chu Chỉ Nhược liền nói:

- Chu cô nương, cô nhảy đi.

Chu Chỉ Nhược công lực chưa hồi phục không thể giúp gì cho sư phụ được, nhưng cũng không muốn một mình chạy thoát, nghe Tống Thanh Thư nói liền lắc đầu:

- Tôi đợi sư phụ tôi.

Lúc đó Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn đã trước sau nhảy xuống, đều được Trương Vô Kỵ thi triển Càn Khôn Đại Na Di thần công xuất chưởng đánh ra, sức rơi thẳng biến thành văng ngang nên ai nấy đều thoát hiểm. Những người đó công lực tuy chưa hoàn toàn hồi phục, nhưng chỉ cần năm sáu thành, cũng đã khiến cho bọn phiên tăng, võ sĩ không sao đương cự nổi.

Bọn Du Liên Châu trong giây lát đã đoạt được binh khí, bao vây hộ vệ cho Trương Vô Kỵ. Thủ hạ của Vương Bảo Bảo và Triệu Mẫn toan xông lên ngăn chặn, đều bị Du Liên Châu, Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn đẩy lui. Trên tháp một người nhảy xuống, bên Trương Vô Kỵ lại có thêm một người tiếp tay. Những người này từ khi bị Triệu Mẫn bắt giam nơi tháp đến nay, ai nấy chịu biết bao nhiêu nhục nhã, biết bao nhiêu người bị chặt ngón tay, bây giờ thoát khỏi lao lung, căm phẫn phát tiết chỉ trong giây lát đã có hơn hai chục võ sĩ bị đánh chết lăn trên mặt đất.

Vương Bảo Bảo thấy tình hình không ổn, truyền lệnh:

- Mau điều đội thân binh cung nỏ của ta lại đây.

Cáp tổng quản đang toan đi ra truyền lệnh của tiểu vương gia, bỗng thấy góc đông nam lửa cháy ngút trời, y hoảng hốt kêu lên:

- Tiểu vương gia, vương phủ đang cháy. Chúng ta quay về bảo vệ vương gia là hơn.

Vương Bảo Bảo cũng lo cho an nguy của phụ thân, không còn lòng dạ nào tính chuyện bắt bọn phản tặc, vội nói:

- Muội tử, ta về phủ trước, em ở lại phải cẩn thận.

Y không đợi Triệu Mẫn trả lời, quay đầu giục ngựa chạy thẳng ra ngoài. Vương Bảo Bảo đi rồi, mười tám kim cương cũng chạy theo, bọn võ sĩ cũng đi đến quá nửa. Những người còn lại thấy vương phủ bị cháy, đâu ngờ chỉ một mình Vi Nhất Tiếu gây ra, lại tưởng bọn phản tặc đã kéo đại đội binh mã đến tấn công nên ai nấy đều kinh hoàng.

Đến lúc này, Tống Viễn Kiều, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc cũng đã nhảy xuống khỏi tháp, hai bên yếu mạnh nay đổi chiều, đến khi Không Văn phương trượng, Không Trí đại sư cùng các cao tăng trong Đạt Ma Đường, La Hán Đường xuống cả rồi, các võ sĩ thủ hạ của Triệu Mẫn không cách gì kháng cự nổi.

Triệu Mẫn nghĩ lúc này mình không chạy cho nhanh, lại bị bên kia bắt được không chừng, lập tức hạ lệnh:

- Tất cả lui ra khỏi chùa Vạn An.

Nàng quay lại nói với Trương Vô Kỵ:

- Chiều ngày mai, tôi lại mời công tử đi uống rượu, nhớ đến nhé.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, chưa kịp trả lời, Triệu Mẫn đã cười đi vào hậu điện của chùa Vạn An. Chỉ nghe Phạm Dao trên tháp cao hô to:

- Chu cô nương, mau nhảy xuống, lửa cháy đến nơi rồi, không nhảy ngay là thành mỹ nhân nướng trui đó.

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Tôi phải theo sư phụ.

Diệt Tuyệt sư thái và Hạc Bút Ông hai bên đánh nhau một trận kịch liệt, mỗi khi khói lửa bén lên thì lại nhảy lên một tầng sau cùng đến tận tầng thứ mười. Bà ta công lực chưa hoàn toàn hồi phục, nhưng lúc này không còn coi sống chết vào đâu, chưởng pháp chỉ công mà không thủ. Hạc Bút Ông một mặt lo cho sư huynh nên phân tâm, hơn nữa bị thương chưa khỏi hẳn, lại mới uống phải thuốc mê, huyệt đạo bị đóng khá lâu nên chân tay không được linh hoạt thành thử hai bên không phân cao thấp. Diệt Tuyệt sư thái nghe tiếng học trò trả lời, kêu lên:

- Chỉ Nhược, con mau nhảy xuống đi, đừng lo cho ta làm gì. Tên giặc già này làm nhục ta quá lắm, không thể để cho y sống được.

Hạc Bút Ông lòng kêu khổ thầm: "Con mụ ni cô này đánh kiểu thí mạng, ta cứu sư huynh mới là cần, không lẽ chết chùm với mụ trong đống lửa này hay sao?". Y liền lớn tiếng nói:

- Diệt Tuyệt sư thái, câu đó là của khổ đầu đà nói chứ có liên quan gì đến ta đâu.

Diệt Tuyệt sư thái liền thu chưởng về, hỏi Phạm Dao:

- Tên đầu đà chết tiệt kia, câu nói điên khùng kia có phải do ngươi nói không?

Phạm Dao cười rung cả mặt nói:

- Câu nói điên khùng nào?

Câu nói đó rõ ràng y muốn cho Diệt Tuyệt sư thái tự miệng mình nói ra một lần: "Y bảo ta và ngươi là người tình cũ, Chu Chỉ Nhược là con tư sinh của ta". Thế nhưng hai câu đó làm sao bà ta có thể nói ra? Tuy nhiên khi nghe Phạm Dao nói thế, bà ta biết là lời Hạc Bút Ông quả không sai, tức đến run lên được.

Hạc Bút Ông thấy Diệt Tuyệt sư thái lưng quay về phía mình, vừa lúc có một đám khói đen ùa tới, đúng là cơ hội bằng vàng nên y liền đánh luôn một chưởng. Chu Chỉ Nhược và Phạm Dao đều nhìn rõ, cùng kêu lên:

- Sư phụ coi chừng.

- Lão ni cô cẩn thận.

Thế nhưng không kịp nữa, Hạc Bút Ông đã đánh trúng ngay lưng bà ta. Huyền Minh thần chưởng lợi hại biết là chừng nào, năm xưa trên núi Võ Đương chỉ có mình Trương Tam Phong có thể đỡ được một chưởng, Diệt Tuyệt sư thái trúng rồi, thân hình lảo đảo, ngã quị xuống. Chu Chỉ Nhược kinh sợ, chạy đến đỡ sư phụ lên.

Phạm Dao giận quá, quát lên:

- Quân tiểu nhân âm độc đê tiện, còn để ngươi làm gì?

Y xách chiếc chăn gói Lộc Trượng Khách và Hàn cơ lên, ném ngay xuống. Hạc Bút Ông tình đồng môn thắm thiết, trong cơn nguy cấp không kịp suy xét, liền nhảy theo để chộp lấy Lộc Trượng Khách. Thế nhưng cái bọc đó văng ra quá xa, Hạc Bút Ông chỉ nắm được một góc, chính y cũng rơi theo.

Trương Vô Kỵ đứng bên dưới, trong khói lửa không nhìn rõ mọi việc bên trên, chỉ thấy một vật lớn từ cao rơi xuống, đâu còn kịp nhìn xem là vật gì, thấp thoáng dường như có người trong đó, còn ở bên ngoài chính là Hạc Bút Ông. Chàng biết y là kẻ gây ra cho mình bao nhiêu khổ sở, ngay cả cái chết của cha mẹ mình cũng có liên quan rất nhiều, nhưng không nỡ thõng tay để cho y bị rơi xuống nát thây, lập tức nhảy tới, hai tay chia ra đánh vào Hạc Bút Ông và cái chăn, mỗi bên văng ra xa hơn ba trượng.

Hạc Bút Ông xoay người một cái đã đứng được, trong bụng kêu thầm: "Nguy hiểm thực". Y không ngờ Vô Kỵ lấy đức báo oán, cứu mạng cho mình, quay qua nhìn đến sư huynh, không khỏi giật mình kinh hãi. Thì ra Trương Vô Kỵ đánh trúng, chiếc chăn tung ra hai người trần truồng như nhộng, rơi ngay vào đống lửa. Lộc Trượng Khách huyệt đạo chưa giải, không cử động được, đầu tóc liền bắt lửa cháy ngay. Hạc Bút Ông kêu lên:

- Sư ca.

Y liền xông vào trong đám lửa bồng Lộc Trượng Khách lên, vừa nhảy ra ngoài, chân chưa vững đã nghe Du Liên Châu quát:

- Nếm một chưởng của ta nào.

Chưởng trái liền đánh luôn vào vai y. Hạc Bút Ông không dám chống đỡ, hạ vai xuống tránh, nhưng Du Liên Châu chưởng đó chưa ra hết tay, vai đã hạ xuống, đánh luôn xuống dưới, nghe bịch một tiếng, khiến y đau đến trán toát mồ hôi. Lúc này việc cứu sư huynh quan trọng hơn, Hạc Bút Ông vội ôm Lộc Trượng Khách phi thân nhảy qua tường.

Ngay khi đó, từ trên tháp một cái cột đang cháy bừng bừng đổ xuống, đè luôn lên xác Hàn cơ, chỉ trong giây lát lửa bao phủ toàn thân. Người đứng dưới tất cả đều kêu lên:

- Mau nhảy xuống, mau nhảy xuống.

Phạm Dao chạy qua né lại cố tránh lửa tạt vào. Cái cột cái của bảo tháp đã bị hủy, gạch ngói tung tóe rơi xuống, đỉnh tháp bắt đầu lung lay, không biết lúc nào đổ ụp xuống. Diệt Tuyệt sư thái gắt lên:

- Chỉ Nhược, con nhảy xuống đi.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Sư phụ nhảy trước đi, con sẽ nhảy theo.

Diệt Tuyệt sư thái đột nhiên vọt tới, đánh thẳng vào vai trái Phạm Dao, quát lên:

- Ác tặc của ma giáo kia, không thể nào tha cho ngươi được.

Phạm Dao cười một tràng dài, tung mình nhảy xuống. Trương Vô Kỵ một chưởng đánh ra, nhẹ nhàng đẩy y vọt sang một bên, khen ngợi:

- Phạm hữu sứ, việc lớn đã xong, công của ông quả thực khó ai bì kịp.

Phạm Dao vừa đứng vững đã nói:

- Nếu không có thần công cái thế của giáo chủ, tất cả mọi người đã thành heo quay trên tháp rồi. Phạm Dao hành sự chẳng đâu vào đâu, có công cán gì?

Diệt Tuyệt sư thái giơ tay ôm Chu Chỉ Nhược, nhảy vọt xuống, đợi còn cách mặt đất chừng một trượng, hai tay vận kình tung lên, ném Chu Chỉ Nhược lên vài thước. Hành động đó khiến cho Chu Chỉ Nhược giống như chỉ từ hơn một trượng rơi xuống, không bị nguy hiểm chút nào trong khi Diệt Tuyệt sư thái rơi xuống càng mạnh thêm.

Trương Vô Kỵ tiến lên, vận Càn Khôn Đại Na Di đẩy vào ngang hông bà ta. Nào ngờ Diệt Tuyệt sư thái không còn muốn sống nữa, cũng không để phải chịu ơn của Minh giáo, thấy chàng tung chưởng đánh ra, thu hết tàn lực toàn thân, đánh ngược lại một chưởng. Hai chưởng đụng nhau, nghe bình một tiếng lớn, chưởng lực của Trương Vô Kỵ bị bà ta làm sai phương hướng, nghe lách cách mấy tiếng, Diệt Tuyệt sư thái đã rơi phịch xuống đất, xương sống gãy thành mấy đoạn. Trương Vô Kỵ cũng bị chưởng của lão ni cô cộng thêm sức rơi từ trên xuống khiến ngực bị chấn động, khí huyết nhộn nhạo phải lùi về sau mấy bước, trong lòng không hiểu tại sao Diệt Tuyệt sư thái lại muốn tự sát.

Chu Chỉ Nhược nhào tới ôm sư phụ khóc lóc:

- Sư phụ, sư phụ.

Các môn đệ phái Nga Mi cũng chạy tới vây quanh Diệt Tuyệt sư thái, náo loạn cả lên. Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Chỉ Nhược, từ nay trở đi, con là chưởng môn bản phái. Điều ta bảo con làm, con chớ... chớ có sai lời, nghe chưa?

Chu Chỉ Nhược khóc đáp:

- Thưa sư phụ vâng, đệ tử quyết không dám quên.

Diệt Tuyệt sư thái nở một nụ cười nhợt nhạt:

- Có thế, ta chết mới nhắm mắt...

Lúc đó Trương Vô Kỵ đã chạy tới, định thăm mạch bà ta, Diệt Tuyệt sư thái liền lật tay, nắm chặt cổ tay chàng, rít lên:

- Dâm đồ của ma giáo kia, nếu ngươi làm ô uế tấm thân thanh bạch của ái đồ ta, dù thành quỉ ta cũng không tha...

Chữ "ngươi" sau cùng chưa ra khỏi miệng, hơi thở đã tuyệt nhưng Diệt Tuyệt sư thái vẫn còn nắm chặt tay Trương Vô Kỵ không buông, năm móng tay bấm vào cổ tay chàng bật cả máu ra.

Phạm Dao kêu lên:

- Tất cả mọi người chạy theo tôi qua đến cửa thành phía tây gặp nhau. Nếu như còn chần chừ, đại đội nhân mã của gian vương kéo đến bây giờ.

Trương Vô Kỵ ôm xác Diệt Tuyệt sư thái lên, nói nhỏ:

- Thôi mình đi.

Chu Chỉ Nhược nhẹ nhàng gỡ mấy ngón tay ân sư ra khỏi cổ tay chàng, đỡ lấy thi thể lão ni cô, không nhìn Trương Vô Kỵ đến một lần, chạy thẳng ra ngoài cửa chùa.

Khi đó cao thủ các môn phái Côn Lôn, Hoa Sơn, Không Động cũng đã chạy khỏi rồi, chỉ còn Không Văn, Không Trí hai vị cao tăng không mất phong phạm tiền bối, bước tới chắp tay vái chào cảm tạ Trương Vô Kỵ, cùng Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu các người nói mấy câu thăm hỏi, sau đó mới đi ra. Trương Vô Kỵ sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thần công giúp cho sáu đại môn phái xuống đất an toàn, nội lực hao phí rất nhiều, sau cùng lại đối chưởng với Diệt Tuyệt sư thái, nguyên khí bị thương tổn trầm trọng, lúc này bước đi không nổi nữa. Mạc Thanh Cốc liền cõng trên lưng, Trương Vô Kỵ vận Cửu Dương thần công, nội lực mới dần dần trở lại.

Khi ấy trời đã hưng hửng sáng, quần hùng đi ra đến cửa tây, đánh đuổi bọn quan binh giữ cửa rồi chạy ra khỏi thành. Chạy được mấy dặm, cả bọn gặp Dương Tiêu đem xe ngựa đến đón, chúc mừng mọi người thoát cơn hoạn nạn.

Không Văn đại sư nói:

- Hôm nay nếu như không được Trương giáo chủ của Minh giáo và các vị cứu giúp thì không biết sáu đại môn phái của Trung Nguyên khí vận sẽ đi về đâu. Đại ân không thể chỉ dùng lời cảm tạ là đủ, kế hoạch lúc này phải làm sao xin Trương giáo chủ đứng ra sắp đặt.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tại hạ kiến thức nông cạn, chẳng dám có chủ ý gì, xin phương trượng chùa Thiếu Lâm phát hiệu thi lệnh cho.

Không Văn đại sư cương quyết từ chối không nhận. Trương Tùng Khê nói:

- Nơi đây cách thành không xa, đêm qua mình quấy phá long trời lở đất ngay trong kinh đô của Thát tử, gian vương đời nào chịu bỏ qua? Đến khi vương phủ dập được lửa rồi, thể nào cũng đem binh mã đuổi theo. Chúng ta nên đi khỏi nơi đây rồi sau đó hãy bàn tính cũng được.

Hà Thái Xung nói:

- Gian vương nếu đem binh đuổi theo thì còn gì bằng, mình sẽ đánh cho chúng một trận tơi bời hoa lá cho hả cơn giận bấy lâu nay.

Trương Tùng Khê nói:

- Hầu hết chúng ta công lực chưa hoàn toàn hồi phục, việc giết Thát tử không phải chỉ một ngày hôm nay, mình nên tránh trước là hơn.

Không Văn đại sư nói:

- Trương tứ hiệp nói phải lắm, nếu hôm nay mình chém giết Thát tử, bên mình thương vong cũng không phải là ít, nên tạm thời tránh đi cũng phải.

Lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm nói ra so với người khác hơn hẳn thành thử không còn ai bàn thêm gì nữa. Không Văn đại sư lại hỏi:

- Trương tứ hiệp, theo như cao kiến của ông, chúng ta nên đi về hướng nào?

Trương Tùng Khê đáp:

- Thát tử sẽ nghĩ mình nếu không đi về hướng nam thì cũng đi về hướng đông nam. Thành ra mình đi ngược lại, đi hướng tây bắc, các vị nghĩ sao?

Mọi người ai nấy ngạc nhiên, Dương Tiêu liền vỗ tay nói:

- Ý kiến của Trương tứ hiệp thật là cao. Phía tây bắc đất rộng người thưa, chỗ nào cũng có núi hoang, muốn tìm chỗ trú ẩn cũng dễ, bọn Thát tử không thể nào ngờ tới được.

Mọi người càng nghĩ càng thấy kế của Trương Tùng Khê rất hay, cùng quay đầu ngựa đi về hướng tây bắc.

Đi được chừng hơn năm chục dặm, quần hiệp ghé lại một thung lũng nghỉ ngơi. Dương Tiêu vốn đã dự bị mọi thứ, lương khô rượu thịt không thiếu món gì. Mọi người kể lại chuyện thoát khỏi nguy khốn vừa qua, đều nói toàn là do Trương Vô Kỵ và Phạm Dao hai người cứu mạng.

Tới đây Chu Chỉ Nhược và các đồng môn phái Nga Mi mới đem xác Diệt Tuyệt sư thái ra hỏa táng. Không Văn, Không Trí, Tống Viễn Kiều, Trương Vô Kỵ tất cả đều đến hành lễ chia buồn. Diệt Tuyệt sư thái là một đại hiệp danh vọng, tuy tính tình hơi khác thường nhưng bình sinh hành hiệp trượng nghĩa, chính khí lẫm lẫm trong võ lâm ai ai cũng kính trọng. Quần đệ tử phái Nga Mi khóc lóc thảm thiết khiến ai nấy đều phải mủi lòng.

Không Văn đại sư lớn tiếng nói:

- Người chết rồi không thể sống lại được, chư hiệp phái Nga Mi nếu cố kế thừa di chí của sư thái, thì người đã chết rồi cũng như còn sống vậy. Lần này chúng ta bị gian nhân hạ độc, ai ai cũng gặp phải cảnh đau lòng, Không Tính sư đệ của bản phái cũng bị Thát tử giết chết, mối thù này không thể không báo, thế nhưng làm thế nào thì mình phải từ từ mà tính.

Không Trí đại sư tiếp lời:

- Sáu đại môn phái của Trung Nguyên vốn coi Minh giáo là thù nghịch, nhưng Trương giáo chủ lấy đức báo oán, ra tay cứu chúng ta, bao nhiều hiềm thù cũ của đôi bên từ nay xóa hết. Từ giờ trở đi tất cả chúng ta đồng tâm hiệp lực, quyết đuổi quân Hồ Lỗ ra khỏi cõi bờ.

Tất cả mọi người đều một lòng như thế. Thế nhưng nói tới chuyện làm sao báo thù, các môn phái bàn ra tán vào mãi không có định kiến nào cả. Sau cùng Không Văn đại sư nói:

- Chuyện này không phải một ngày một buổi có thể quyết định được, chúng ta nên nghỉ ngơi ít ngày, chia tay nhau quay trở về bản sơn. Việc báo thù sẽ cùng thương lượng sau để tìm ra thiện sách.

Mọi người gật đầu khen phải. Trương Vô Kỵ nói:

- Hiện nay đại sự coi như đã xong, tôi có một số việc riêng, phải quay lại Đại Đô một chuyến, xin từ biệt các vị. Từ nay về sau mong rằng mọi người chúng ta cùng nắm tay nhau, một phen sống mái với quân Thát tử.

Quần hào đều hô to:

- Mọi người chúng ta cùng nắm tay nhau, một phen sống mái với quân Thát tử.

Tiếng reo vang trời dậy đất vang mãi trong sơn cốc. Mọi người tiễn chàng ra tận ngoài thung lũng. Trương Vô Kỵ hành lễ cáo từ, Dương Tiêu nói:

- Bao nhiêu anh hùng thiên hạ đều kỳ vọng vào giáo chủ, xin cố gắng bảo trọng tấm thân.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Huynh đệ đã hiểu được điều đó.

Nói xong chàng giục ngựa chạy về hướng nam.

Hồi 28

ÂN ĐOẠN NGHĨA TUYỆT TỬ SAM VƯƠNG

Đứng đầu Tứ Đại Pháp Vương,

Chúa rồng kia lại thiên hương một cành.

Ra tay dứt nghĩa đoạn tình,

Hôm nao huynh muội nay thành người dưng.

*

* *

Khi đến gần Đại Đô, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm đêm qua trận chiến nơi chùa Vạn An rất nhiều thủ hạ, võ sĩ của Nhữ Dương Vương đã biết mặt mình nên đi lại rất là bất tiện. Chàng bèn kiếm một nhà nông mua một bộ quần áo cũ thay vào, đầu đội thêm một chiếc nón, lấy tro than bôi lên cho đầu cổ tay chân đen đúa rồi mới vào thành.

Chàng về đến khách điếm nơi thành phía tây, nhìn quanh bốn bề, trước sau trái phải không thấy có gì khác mới lẻn vào trong, tiến đến phòng của mình. Tiểu Siêu lúc đó đang ngồi bên song cửa, tay cầm một chiếc kim đan, thấy chàng đi vào đang ngạc nhiên nhưng nhận ra ngay, vẻ mặt vui mừng như bông hoa mới nở, cười nói:

- Công tử gia, em lại tưởng anh nhà quê nào vào nhầm phòng, đâu có ngờ là công tử.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Cô làm gì đó? Ở một mình có buồn không?

Tiểu Siêu mặt đỏ lên, dấu chiếc áo đang đan ra sau lưng, thẹn thùng đáp:

- Em đang tập đan áo, chưa cho ai xem được.

Nàng dấu chiếc áo xuống dưới gối, rót trà cho Trương Vô Kỵ uống, thấy chàng mặt đầy bùn than cười nói:

- Công tử có rửa mặt không?

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Tôi cố ý xoa lên mặt nên không cần rửa.

Chàng cầm chén trà lên, trong bụng suy tính: "Triệu cô nương muốn ta đưa nàng đi mượn thanh đao Đồ Long. Đại trượng phu một lời nặng như núi, không thể thất tín cùng người, huống chi chính ta cũng muốn đi mời nghĩa phụ quay về trung thổ. Nghĩa phụ vốn ngại kẻ thù quá nhiều, sau khi mắt bị mù rồi không đối phó nổi. Lúc này quần hào võ lâm đồng tâm kháng Hồ, mọi thù oán riêng tư tất cả đều hòa giải hết. Chỉ cần ta ở bên cạnh lão nhân gia, người ngoài không ai dám động đến một cái lông của cha nuôi ta. Biển cả sóng to gió lớn, cô bé Tiểu Siêu không nên đi cùng. Thôi, được rồi, để ta nhờ Triệu cô nương đem Tiểu Siêu vào gửi trong vương phủ, so với nơi khác còn bình an hơn nhiều".

Tiểu Siêu thấy chàng bỗng nhiên mỉm cười, hỏi:

- Công tử nghĩ gì thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi phải đi đến một nơi xa thật là xa, đem cô theo thật là bất tiện. Tôi vừa nghĩ ra một nơi có thể gửi cô ở nhờ được.

Tiểu Siêu nghe thế mặt liền biến sắc nói:

- Công tử gia, em nhất định đi theo, Tiểu Siêu muốn được ngày ngày hầu hạ công tử.

Trương Vô Kỵ vội khuyên:

- Chuyện đó cũng là để cho cô thôi. Tôi phải đi một nơi thật xa, thật nguy hiểm, không biết đến bao giờ mới quay về.

Tiểu Siêu nói:

- Từ khi ở trong đường hầm nơi Quang Minh Đính, em đã quyết định trong lòng, công tử đi đâu em đi theo tới đó, trừ khi công tử giết em đi thì mới ngăn được em thôi. Hay là công tử chán ghét em, không muốn em ở bên cạnh?

Trương Vô Kỵ nói:

- Không, không đâu. Cô biết tôi rất thích cô, tôi chỉ không muốn cô phải mạo hiểm một cách vô lý thôi. Tôi trở về là sẽ đi kiếm cô ngay.

Tiểu Siêu lắc đầu:

- Chỉ cần ở bên cạnh công tử, dù có nguy hiểm tới đâu em cũng không sờn. Công tử gia dẫn em đi theo nhé?

Trương Vô Kỵ cầm tay Tiểu Siêu nói:

- Tiểu Siêu, tôi cũng không dấu cô nữa làm gì. Tôi nhận lời Triệu cô nương đưa cô ta đi hải ngoại. Biển cả mênh mông, sóng gió ngày này sang ngày khác, phần tôi không đi không được, còn cô mạo hiểm như thế thật chẳng ích lợi gì.

Tiểu Siêu mặt đỏ lên nói:

- Nếu đi chung với Triệu cô nương thì em lại càng cần phải ở bên cạnh công tử.

Nói xong câu đó, trong mắt nàng dường như đã long lanh ngấn lệ. Trương Vô Kỵ nói:

- Cô lại phải đi với tôi là sao?

Tiểu Siêu đáp:

- Cái cô họ Triệu đó tâm địa ác độc, ai biết cô ta sẽ đối với công tử ra sao. Có em đi cùng, ít ra cũng còn có người trông nom công tử.

Trương Vô Kỵ chợt động tâm, tự hỏi: "Không lẽ cô bé này cũng có tình ý với mình chăng?" Chàng thấy lời của cô thật thành khẩn, không khỏi cảm kích, cười nói:

- Được rồi, cô đi theo cũng không sao, trên thuyền sóng to gió cả lúc ấy đừng than khổ.

Tiểu Siêu mừng quá, luôn mồm vâng dạ, nói:

- Nếu như em làm công tử bực mình thì công tử cứ vứt em xuống biển cho cá ăn.

Trương Vô Kỵ cười:

- Làm sao tôi bỏ cô cho đành.

Hai người tuy ở cùng với nhau lâu ngày, có khi trên đường khách xá không tiện, ngủ chung một phòng nhưng Tiểu Siêu biết mình thân phận tôi tớ, còn Trương Vô Kỵ trước nay chưa bao giờ bông đùa chớt nhả, lúc này chàng buột miệng nói ra: "Làm sao tôi bỏ cô cho đành" biết mình lỡ lời không khỏi đỏ mặt, vội quay đầu giả vờ nhìn ra song cửa. Tiểu Siêu cũng nhè nhẹ thở dài, đến ngồi bên cạnh chàng.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Sao cô em lại thở dài thế?

Tiểu Siêu nói:

- Công tử thực sự không bỏ được đâu phải chỉ một người. Chu cô nương của phái Nga Mi, Quận Chúa nương nương của Nhữ Dương Vương phủ, rồi mai này không biết bao nhiêu người nữa, lúc đó trong lòng công tử liệu có còn nhớ đến đứa tớ gái này nữa chăng?

Trương Vô Kỵ đi vòng lại trước mặt nàng chậm rãi nói:

- Tiểu Siêu, em từ trước đến nay đối với tôi tốt biết mấy, chẳng lẽ tôi không biết đến hay sao? Chẳng lẽ tôi lại vong ân phụ nghĩa, không biết người tốt kẻ xấu hay sao?

Chàng nói hai câu đó vẻ mặt đầy trịnh trọng, lời nói thật chân thành. Tiểu Siêu vừa thẹn thùng, lại vừa vui sướng, cúi đầu nói nhỏ:

- Em chẳng mong được công tử đối với em khác gì hơn, chỉ mong được làm một đứa a hoàn suốt đời hầu hạ công tử, cũng đã thỏa nguyện lắm rồi. Đêm qua công tử không ngủ, chắc là mệt lắm, thôi lên giường nghỉ một lát đi.

Nói rồi nàng liền trải chăn, hầu hạ chàng đi nằm, còn mình thì lại ngồi bên cửa sổ, chăm chú đan áo. Trương Vô Kỵ nghe tiếng sợi dây xích nơi cổ tay Tiểu Siêu leng keng như tiếng khánh, cảm thấy trong lòng bình an phẳng lặng, chẳng bao lâu đã thiu thiu ngủ.

Chàng ngủ một mạch đến xế chiều mới dậy, ăn một bát mì rồi nói:

- Tiểu Siêu, tôi đưa cô đến gặp Triệu cô nương, mượn thanh kiếm Ỷ Thiên chặt dây xích ở chân tay cho cô.

Hai người đi ra đường, thấy binh lính Mông Cổ cưỡi ngựa đi qua đi lại, canh phòng thật nghiêm, chắc là vì chuyện đêm qua phủ Nhữ Dương Vương bị đốt, chùa Vạn An đại loạn mà ra. Hai người mỗi khi nghe tiếng chân ngựa lại nép mình vào dưới mái hiên hay góc nhà, không cho lính tuần trông thấy, chẳng mấy chốc đã đến cái quán rượu nhỏ.

Trương Vô Kỵ dẫn Tiểu Siêu tiến vào quán, đã thấy Triệu Mẫn ngồi ở chỗ hai người ngồi hôm qua, cười mủm mỉm đứng lên nói:

- Trương công tử quả là người thủ tín.

Trương Vô Kỵ thấy nàng thần sắc như thường, không có vẻ gì là khó chịu về chuyện đêm qua, nghĩ thầm: "Cô gái này quả là người có bản lãnh, cứ lý mà nói ta sai người giết mất ái cơ của cha cô ta, lại cứu thoát tất cả người của lục đại môn phái cô ta mất bao tâm huyết mới bắt được, đáng lẽ phải giận ta lắm, ngờ đâu vẫn bình tĩnh như không, chẳng biết nàng ta sẽ làm gì đây".

Chàng thấy trên bàn đã bày hai chiếc bát, hai đôi đũa liền cúi chào một cái rồi ngồi xuống còn Tiểu Siêu đứng hầu ở xa xa.

Trương Vô Kỵ vòng tay nói:

- Triệu cô nương, chuyện xảy ra đêm qua, tại hạ quả là đắc tội, mong cô tha lỗi cho.

Triệu Mẫn cười đáp:

- Cái nàng Hàn cơ của gia gia õng a õng ẹo, tôi gặp là chán ngấy. Cảm ơn anh sai người giết đi, mẹ tôi cũng khen anh có tài.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên không ngờ lại ra thế, quả thực ngoài dự liệu. Triệu Mẫn nói tiếp:

- Bọn kia anh cứu ra cũng tốt, còn không họ chẳng qui hàng, tôi có giữ thêm cũng vô dụng. Anh cứu họ ra, mọi người hẳn là cảm kích lắm, từ nay thanh vọng trong võ lâm Trung Nguyên không ai bằng anh được. Trương công tử, để tôi kính mừng anh một chén.

Nói xong cười khúc khích nâng chén rượu lên.

Ngay khi đó, từ ngoài cửa một người bước vào, chính là Phạm Dao. Y tiến đến hành lễ với Trương Vô Kỵ, sau đó cung kính vái Triệu Mẫn, nói:

- Quận chúa, khổ đầu đà xin cáo từ â.

Triệu Mẫn không thèm đáp lễ, lạnh lùng đáp:

- Khổ đại sư, ông đánh lừa tôi thật quá lắm. Quận chúa của ông phen này thật hố to.

Phạm Dao đứng thẳng người lên, ngang nhiên nói:

- Khổ đầu đà họ Phạm tên Dao, là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo. Bản nhân trà trộn vào phủ Nhữ Dương Vương, cũng có lý do mà đến, may được quận chúa dùng lễ kính đãi, hôm nay đến để từ biệt.

Triệu Mẫn vẫn lạnh lùng:

- Ông muốn đi thì đi, việc gì phải đa lễ thế?

Phạm Dao đáp:

- Đại trượng phu hành sự quang minh lỗi lạc, từ nay trở đi, tại hạ là kẻ địch của quận chúa, nếu không cáo từ minh bạch chẳng hóa ra phụ tấm lòng đối đãi lâu nay của quận chúa hay sao?

Triệu Mẫn nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi lại:

- Anh có tài gì mà thủ hạ đối với anh kiệt tâm tận lực đến thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chúng tôi chỉ vì nước, vì dân, vì nhân hiệp, vì nghĩa khí. Phạm hữu sứ với tôi vốn không biết nhau, nhưng mới gặp đã như quen lâu, lấy ruột gan lo liệu cho nhau, cũng chẳng qua cũng chỉ là một chữ "nghĩa" của tình huynh đệ mà ra.

Phạm Dao cười ha hả nói:

- Mấy câu nói đó của giáo chủ chính đã nói lên tâm sự của thuộc hạ. Giáo chủ xin cố bảo trọng tấm thân. Vị quận chúa nương nương này tuy tuổi còn trẻ nhưng lòng dạ tàn độc không phải tầm thường. Giáo chủ tâm địa quá tốt không thể nào sánh được đâu.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Vâng, bản thân tôi không dám khinh suất.

Triệu Mẫn cười:

- Đa tạ khổ đại sư đã ca ngợi.

Phạm Dao quay người đi ra khỏi quán rượu, đi ngang qua Tiểu Siêu, đột nhiên giật mình, trên mặt lộ vẻ kinh ngạc dị thường, chẳng khác gì trông thấy ma quỉ gớm ghiếc, thất thanh kêu lên:

- Ngươi ... ngươi ....

Tiểu Siêu lạ lùng:

- Cái gì thế?

Phạm Dao ngây người nhìn cô ta một hồi, lắc đầu đáp:

- Không phải... không phải ..., tôi nhìn lầm.

Y thở dài một tiếng, thần sắc trở lại bình thường đẩy cửa đi ra, miệng vẫn lẩm bẩm: "Giống quá, giống quá".

Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai người nhìn nhau, không biết y nói giống đây là giống cái gì.

Bỗng nghe từ xa truyền tới mấy hồi còi, ba tiếng dài, hai tiếng ngắn, âm thanh sắc nhọn chói tai. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nhớ lại đây là tiếng còi triệu tập đồng môn của phái Nga Mi, trước đây tại Tây Vực ở cùng đoàn người của phái Nga Mi đã thấy mấy lần họ dùng tiếng còi như thế này để liên lạc, nghĩ thầm: "Tại sao phái Nga Mi lại quay trở lại Đại Đô? Không lẽ họ gặp địch chăng?". Triệu Mẫn nói:

- Đây là phái Nga Mi, dường như họ có chuyện gì gấp, mình đi xem coi thế nào, anh nghĩ sao?

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Cô cũng biết thế à?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Tôi ở Tây Vực dẫn người đuổi theo họ luôn bốn ngày bốn đêm, sau cùng bắt được Diệt Tuyệt sư thái, không lẽ không biết?

Trương Vô Kỵ nói:

- Được, vậy mình đi xem sao. Triệu cô nương, tôi nhờ cô một việc trước, cô cho tôi mượn thanh kiếm Ỷ Thiên một chút.

Triệu Mẫn cười đáp:

- Anh chưa đi mượn đao Đồ Long cho tôi đã mượn thanh kiếm Ỷ Thiên rồi, tính thế quả thực tinh minh.

Nàng cởi thanh kiếm buộc bên hông đưa cho Vô Kỵ. Vô Kỵ cầm lấy, rút kiếm ra khỏi vỏ nói:

- Tiểu Siêu, cô lại đây.

Tiểu Siêu đi đến trước mặt chàng, Trương Vô Kỵ múa kiếm chém xuống, loảng xoảng mấy tiếng nho nhỏ, các khóa xích trên tay chân Tiểu Siêu đứt rời, rơi xuống đất. Tiểu Siêu phục xuống lạy nói:

- Đa tạ công tử, đa tạ quận chúa.

Triệu Mẫn cười nói:

- Cô bé này xinh thật. Giáo chủ hẳn là thích ngươi lắm.

Tiểu Siêu mặt đỏ bừng, mắt sáng lên một niềm vui vô bờ bến. Trương Vô Kỵ tra kiếm vào vỏ, trả lại cho Triệu Mẫn, thấy tiếng còi hiệu của phái Nga Mi chạy thẳng về hướng đông bắc, liền nói:

- Thôi mình đi.

Triệu Mẫn lấy ra một đĩnh bạc nhỏ vứt lên bàn, quay mình ra khỏi tiểu điếm. Trương Vô Kỵ sợ Tiểu Siêu không theo kịp, tay phải nắm lấy tay cô gái, tay trái đỡ ngang lưng, chạy theo sát ngay sau Triệu Mẫn. Chỉ chạy độ hơn chục trượng, chàng thấy thân hình Tiểu Siêu nhẹ lâng lâng, bước chân di động thật là nhanh nhẹn, chàng hơi lạ lùng, tay không đỡ nữa, thấy Tiểu Siêu vẫn đi ngang với mình, trước sau không bị sút kém chút nào. Tuy lúc này chàng chưa thi triển khinh công thượng thừa nhưng chân đã chạy rất nhanh, vậy mà Tiểu Siêu vẫn theo kịp.

Chẳng mấy chốc, Triệu Mẫn đã đi qua mấy đường hẻm vắng vẻ, đến bên ngoài một cái nhà nhỏ có tường vây quanh. Trương Vô Kỵ nghe loáng thoáng bên trong có tiếng đàn bà cãi cọ, biết ngay người của phái Nga Mi đang ở trong đó, liền nắm tay Tiểu Siêu nhảy qua tường, trong đêm tối rơi xuống không một tiếng động. Dưới chân tường cỏ mọc cao, thì ra là một khu vườn hoang. Triệu Mẫn cũng nhảy vào theo, cả ba người nằm phục trong đám cỏ dày.

Ở phía bắc khu vườn có một tòa lương đình đổ nát, bên trong thấp thoáng tụ tập phải đến hai chục người. Có tiếng đàn bà nói:

- Ngươi là đệ tử trẻ nhất của bản môn, nói đến dáng dấp bề ngoài cho chí võ công, chẳng chỗ nào thấy xứng đáng làm chưởng môn ...

Trương Vô Kỵ nhận ra ngay đó là tiếng nói của Đinh Mẫn Quân, liền bò lần trong đám cỏ cao tới gần hơn, đến cách đám người chừng vài trượng mới ngừng lại. Khi đó ánh sao mờ mờ, chỉ thấy một số đông người nhưng khi chàng định thần nhìn kỹ thấy dường như có cả nam lẫn nữ, toàn là đệ tử của phái Nga Mi, ngoài Đinh Mẫn Quân, các đệ tử lớn của Diệt Tuyệt sư thái cũng đều có mặt. Phía bên trái có một người thân hình dong dỏng, quần xanh dài chấm đất, chính là Chu Chỉ Nhược. Giọng của Đinh Mẫn Quân hết sức gay gắt, tiếp tục nói:

- Ngươi nói, ngươi nói ...

Chu Chỉ Nhược chậm rãi nói:

- Đinh sư tỉ nói phải lắm, tiểu muội là một đệ tử trẻ tuổi của bản môn, nói về kinh nghiệm, võ công, tài cán, phẩm hạnh không có mặt nào xứng đáng gọi là chưởng môn bản phái cả. Sư phụ ra lệnh cho tiểu muội đảm đương trọng nhiệm, tiểu muội đã hết sức chối từ, nhưng tiên sư nặng lời trách mắng, bắt tiểu muội phải thề độc không được phụ lời dặn bảo của sư phụ.

Đại đệ tử của phái Nga Mi là Tĩnh Huyền nói:

- Sư phụ anh minh, đã ra lệnh cho Chu sư muội nhận chức vụ chưởng môn, ắt có thâm ý. Chúng ta ai ai cũng chịu ơn của sư phụ tài bồi, phải tôn trọng di chí của lão nhân gia, đồng tâm phò tá Chu sư muội, làm rạng rỡ võ đức của bản môn.

Đinh Mẫn Quân cười khẩy nói:

- Tĩnh Huyền sư tỉ nói sư phụ ắt có thâm ý, bốn chữ "ắt có thâm ý" quả thực đúng rồi. Chúng ta khi ở chùa, người trên tháp, kẻ dưới đất, có ai không chính tai nghe khổ đầu đà và Hạc Bút Ông nói với nhau đâu? Cha mẹ của Chu sư muội là ai, tại sao sư phụ lại đặc biệt hơn hết đối với Chu sư muội, chuyện rành rành ra đó còn gì?

Khổ đầu đà nói với Lộc Trượng Khách Diệt Tuyệt sư thái là người tình cũ của y, Chu Chỉ Nhược là con riêng của hai người, chẳng qua là cái tính tình tà ma ngoại đạo của y, thuận mồm nói đùa cho vui, nhưng Hạc Bút Ông lại công khai nói ra, người ngoài nghe thấy, tuy chẳng ai hoàn toàn tin nhưng cũng không khỏi nghi ngờ vài phần. Chuyện tư tình nam nữ, người đời thường nặng phần tin cái có, mấy ai tin cái không, mà Diệt Tuyệt sư thái thương yêu đặc biệt đối với Chu Chỉ Nhược, các đệ tử đều chẳng hiểu vì đâu, thành thử mấy chữ "con gái riêng" giải thích ổn thỏa hơn cả. Mọi người nghe Đinh Mẫn Quân đề cập đến chuyện đó, ai nấy lặng yên không trả lời.

Chu Chỉ Nhược run run đáp:

- Đinh sư tỉ, nếu như chị không bằng lòng việc tiểu muội tiếp nhiệm chưởng môn, thì cứ nói thẳng ra. Còn chuyện chị nói năng bậy bạ, làm bại hoại thanh dự một đời của sư phụ, cái đó tội gì? Tiên phụ của tiểu muội họ Chu, là một người chèo thuyền trên sông Hán Thủy, không biết chút võ công nào. Tiên mẫu họ Tiết, tổ tiên cũng là thế gia, gốc người ở Tương Dương, khi thành Tương Dương bị vỡ chạy về phía nam, luân lạc không nơi nương tựa, kết duyên với cha tiểu muội. Tiểu muội may được Trương chân nhân của phái Võ Đương tiến dẫn nên được vào làm môn hạ phái Nga Mi, còn trước đó chưa bao giờ gặp sư phụ bao giờ. Sư tỉ chịu đại ân của sư phụ, hôm nay lão nhân gia vừa về Tây phương, đã mở miệng ăn nói những lời như thế, còn ... còn ...

Nàng nói tới đây, âm thanh nghẹn ngào, nước mắt lã chã rơi xuống, không nói thêm được nữa. Đinh Mẫn Quân cười khẩy:

- Ngươi tiếp nhiệm chưởng môn bản phái nhưng chưa được đồng môn công nhận, thân phận mình còn mù mờ đã toan tác oai tác phúc, nói ta không phải, làm bại hoại thanh dự sư phụ, tội này tội nọ. Ngươi định trị tội ta chăng? Vậy ta hỏi ngươi: ngươi đã chịu lời dặn dò của sư phụ kế thừa chưởng môn, sao không lập tức quay về núi Nga Mi? Sư phụ tạ thế, công việc bản phái biết bao nhiêu, chuyện gì cũng cần có người chưởng môn để giải quyết. Tại sao ngươi lại một thân một mình quay lại Đại Đô, thế là cớ gì?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Sư phụ giao cho tiểu muội một việc hết sức quan trọng, tiểu muội không về Đại Đô không được.

Đinh Mẫn Quân hỏi lại:

- Chuyện đó là chuyện gì? Ở đây chỉ toàn là đồng môn bản phái, không người ngoài nào, sao ngươi không nói rõ ra đi?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Đó là một chuyện tối bí mật của bản phái, trừ người chưởng môn ra, không thể nói cho ai khác.

Đinh Mẫn Quân lại cười khẩy:

- Gớm nhỉ, gớm nhỉ? Chuyện gì ngươi cũng đổ lên đầu ba chữ "chưởng môn nhân", tưởng đánh lừa được ai chăng? Này ta hỏi ngươi: bản phái và ma giáo thù sâu như bể, đồng môn chúng ta biết bao nhiêu người táng mạng ở tay ma giáo, còn giáo chúng ma giáo chết dưới kiếm Ỷ Thiên của sư phụ cũng không phải là ít. Sư phụ sở dĩ qua đời, cũng chỉ vì không muốn chịu giáo chủ ma giáo ra tay đỡ cho. Vậy mà tro tàn của sư phụ chưa lạnh, ngươi đã đi tìm tên tiểu dâm tặc họ Trương, hiện là đại ma đầu giáo chủ của ma giáo là sao?

Mấy câu sau cùng Trương Vô Kỵ nghe vào tai mà choáng váng. Ngay lúc đó, chàng thấy một ngón tay mềm mại của ai quẹt quẹt vào má mấy cái, chính là Triệu Mẫn ở bên cạnh trêu chàng. Trương Vô Kỵ mặt đỏ ửng lên, nghĩ thầm: "Không lẽ Chu cô nương đi tìm ta thật chăng?".

Chỉ nghe Chu Chỉ Nhược bẽn lẽn nói:

- Sư tỉ ... lại nói quấy nói quá ...

Đinh Mẫn Quân lớn tiếng đáp:

- Ngươi còn chối nữa ư? Ngươi bảo mọi người về núi Nga Mi trước, chúng ta hỏi ngươi quay lại Đại Đô có chuyện gì, ngươi ấp úng không chịu nói ra. Các đồng môn biết có chuyện không phải mới lén theo ngươi, ngươi hỏi cha ngươi là khổ đầu đà chỗ ở của tiểu dâm tặc, tưởng bọn ta không biết hay sao? Ngươi đến khách điếm kiếm tên tiểu dâm tặc, tưởng bọn ta không biết hay sao?

Mụ ta hết "tiểu dâm tặc" này đến "tiểu dâm tặc" khác, Trương Vô Kỵ vốn tốt nhịn nhưng cũng bực mình, đột nhiên thấy trên cổ có ai phà một hơi, biết ngay là Triệu Mẫn lại trêu mình nữa. Đinh Mẫn Quân nói tiếp:

- Ngươi muốn kiếm ai nói chuyện, muốn tằng tịu với ai, người ngoài ai rỗi hơi để ý tới làm gì. Thế nhưng tên tiểu dâm tặc họ Trương này là kẻ sinh tử đối đầu của bản phái, vậy mà đêm hôm qua tất cả chạy ra khỏi Đại Đô, trên đường đi, sao ngươi vẫn còn nhìn y đắm đuối? Y đi đâu, mắt ngươi liếc theo đó, cái đó chẳng phải là ta đặt điều mà đồng môn ai ai cũng chính mắt trông thấy cả. Hôm trước trên Quang Minh Đính, tiên sư bảo ngươi đâm y một kiếm, y chẳng tránh né thì thôi, còn cười tít mắt lên với ngươi. Còn ngươi thì cũng liếc mắt đưa tình, chỉ rạch một đường như gãi ngứa. Kiếm Ỷ Thiên sắc bén là thế, sao đâm y không chết? Nếu hai đứa chẳng chuyện nọ chuyện kia, có ai mà tin cho được?

Chu Chỉ Nhược khóc òa lên, nói:

- Ai liếc mắt đưa tình bao giờ? Chị đừng có đem mấy tiếng khó nghe đó ra để vu hãm người khác.

Đinh Mẫn Quân cười khan một tiếng nói:

- Ta nói khó nghe, thế sao những gì ngươi làm không bảo khó coi? Thế ngươi nói năng dễ nghe lắm đấy? Hứ, thế lúc đó ngươi hỏi người chưởng quĩ thế nào? "Xin lỗi ngài, ở đây có vị khách họ Trương nào không? Ồ, chừng hai mươi tuổi, thân hình cao cao, hoặc giả ông ta không dùng họ Trương, dùng họ khác cũng nên".

Mụ ta eo éo, bắt chước giọng ngập ngừng của Chu Chỉ Nhược, giơ chân múa tay, cố làm cho ra vẻ yểu điệu, khiến người khác nghe phải nổi da gà. Trương Vô Kỵ trong lòng giận dữ, nghĩ thầm con mụ Đinh Mẫn Quân này là đứa điêu ngoa tai ác nhất trong phái Nga Mi, Chu Chỉ Nhược hiền lành yếu đuối, không thể nào là địch thủ của mụ được, nhưng nếu mình đứng ra che chở cho Chu Chỉ Nhược, trước là việc riêng của phái Nga Mi, người ngoài không tiện xen vào, thứ nữa như thế càng đẩy Chu Chỉ Nhược vào thêm bất lợi, nên thấy nàng bị dồn ép tới tận chân tường mà mình đành chịu bó tay.

Phái Nga Mi đại đa số đệ tử tuân theo di mệnh của sư phụ, nhận Chu Chỉ Nhược là chưởng môn, nhưng nay nghe Đinh Mẫn Quân lời nói sắc bén, nói ra hợp với thế thái nhân tình đều nghĩ thầm: "Sư phụ và ma giáo kết oán quá sau xa, nhưng Chu sư muội và giáo chủ ma giáo có liên hệ quả không tầm thường, ví như nàng đem bản phái bán đứt cho ma giáo thì biết làm sao đây?".

Lại nghe Đinh Mẫn Quân nói tiếp:

- - Chu sư muội, ngươi do Trương chân nhân của phái Võ Đương dẫn nhập làm môn hạ của sư phụ, còn tên tiểu dâm tặc Minh giáo kia lại chính là con trai của Trương ngũ hiệp. Bên trong có âm mưu gì quái lạ, nào ai biết đâu?

Mụ ta cao giọng nói:

- Chúng vị sư huynh, sư tỉ, sư đệ, sư muội, sư phụ tuy có di ngôn ra lệnh cho Chu sư muội tiếp nhiệm chưởng môn, thế nhưng lão nhân gia không thể nào ngờ được người vừa viên tịch, tro tàn chưa lạnh thì người chưởng môn bản phái đã lẻn đi kiếm ngay giáo chủ ma giáo để tư tình. Việc đó có liên hệ trọn đại đến sự hưng suy tồn vong của bản phái, nếu như tiên sư có mặt hôm nay, lão nhân gia ắt sẽ chọn người chưởng môn khác. Di chí của sư phụ là làm sao bản phái phát dương quang đại, quyết chẳng thể nào mong muốn phái Nga Mi bị tiêu diệt bởi tay ma giáo. Cứ theo ý kiến tiểu muội, chúng ta nên kế thừa di chí của tiên sư, xin Chu sư muội giao lại thiết chỉ hoàn chưởng môn, chúng ta sẽ chọn một vị sư tỉ tài đức vẹn toàn, tiếng tăm võ công đều trội hơn tất cả đồng môn đứng ra giữ chức chưởng môn.

Mụ nói xong, trong đám đồng môn có đến sáu bảy người phụ họa. Chu Chỉ Nhược nói:

- Tiểu muội nhận mệnh lệnh của sư phụ, tiếp nhiệm chưởng môn bản phái, chiếc nhẫn sắt này quyết không giao lại. Tiểu muội quả thực không ham chức chưởng môn, nhưng đã từng lập trọng thệ trước sư phụ, quyết sẽ không ... quyết sẽ không phụ lòng lão nhân gia ủy thác.

Mấy câu đó dường như không có chút uy lực nào cả, có những đồng môn trước kia chẳng ở phe nào, nghe nàng nói thế không khỏi thầm lắc đầu. Đinh Mẫn Quân gay gắt nói:

- Cái nhẫn sắt chưởng môn kia, ngươi có chịu giao ra hay không? Hai giới luật nghiêm trọng nhất của môn qui bản phái là khi sư diệt tổ và dâm tà vô sỉ ngươi đều đã phạm thì có còn đủ tư cách để chưởng lý môn hộ của phái Nga Mi nữa chăng?

Triệu Mẫn ghé môi để sát tai Trương Vô Kỵ, nói nhỏ:

- Chu cô nương của anh nguy mất rồi! Anh gọi tôi một tiếng "hảo tỉ tỉ", tôi sẽ ra mặt giải vây cô ta cho.

Trương Vô Kỵ trong lòng rung động, biết cô gái này túc trí đa mưu, ắt có diệu kế giúp cho Chu Chỉ Nhược thoát cảnh khó khăn, nhưng nàng ta còn nhỏ hơn mình mấy tuổi, phải hạ mình gọi nàng bằng chị không nhục nhã lắm ư. Chàng còn đang do dự, Triệu Mẫn nói tiếp:

- Anh không gọi cũng không sao, tôi đi đây.

Trương Vô Kỵ chẳng cách nào hơn, đành ghé tai nàng gọi một tiếng:

- Hảo tỉ tỉ.

Triệu Mẫn cười khúc khích, đang toan nhảy ra, trong đình đã có người phát giác. Đinh Mẫn Quân quát lên:

- Ai đó? Sao dám lén lút ở đó nghe lén?

Đột nhiên bên ngoài tường vọng vào mấy tiếng ho khan, tiếng một thiếu nữ trong trẻo hỏi:

- Đêm khuya thanh vắng, phái Nga Mi các ngươi ở đó lén lút làm cái gì?

Một làn gió theo mấy cái bóng lướt vào, bên ngoài lương đình đã có thêm hai người. Hai người đó dưới bóng trăng, Trương Vô Kỵ nhìn rõ ràng, một lão bà già cả, tay cầm quài trượng, chính là Kim Hoa bà bà, còn một cô gái thân hình yểu điệu, mặt mày xấu xí, chính là cô em họ của Trương Vô Kỵ Châu Nhi A Ly, con gái của Ân Dã Vương.

Hôm đó Vi Nhất Tiếu bắt được Châu Nhi, chưa kịp lên Quang Minh Đính thì hàn độc phát tác, cố nhịn không hút máu nàng, chịu không nổi ngã ra đất, về sau được Chu Điên cứu tỉnh, đi tìm Châu Nhi thì không còn thấy bóng dáng đâu. Trương Vô Kỵ từ khi chia tay với nàng vẫn thường tưởng đến, không ngờ giờ phút này nàng lại xuất hiện, chàng mừng quá suýt nữa thì lên tiếng gọi.

Đinh Mẫn Quân lạnh lùng nói:

- Kim Hoa bà bà, bà đến đây làm gì?

Kim Hoa bà bà hỏi lại:

- Sư phụ ngươi có ở đây không?

Đinh Mẫn Quân đáp:

- Tiên sư mới viên tịch tối hôm qua, bà ở ngoài tướng nghe trộm đã lâu, sao biết rồi mà còn hỏi?

Kim Hoa bà bà thất thanh kêu lên:

- A, Diệt Tuyệt sư thái đã viên tịch rồi đấy. Làm sao mà chết? Sao không đợi gặp ta một lần? Ôi chao, thật tiếc quá, tiếc quá ...

Bà ta chưa nói dứt câu đã gập người xuống ho sù sụ. Châu Nhi nhè nhẹ đấm lưng bà lão, nhìn Đinh Mẫn Quân cười khẩy nói:

- Ai thèm đến nghe lén chuyện của chúng bay? Ta và bà đi đi ngang qua đây, nghe thấy léo nhéo xí xố liên tu bất tận, nhận ra tiếng ngươi nên vào xem ra thế nào. Bà bà hỏi ngươi, ngươi không nghe à? Sư phụ ngươi vì sao mà chết?

Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:

- Cái đó có liên can gì đến ngươi? Tại sao ta lại phải nói cho ngươi nghe?

Kim Hoa bà bà thở một hơi dài, chậm rãi nói:

- Ta bình sinh động thủ với người, chỉ thua sư phụ ngươi một lần. Cái đó chẳng phải vì võ công chiêu số không bằng, mà chỉ vì thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén quá. Ta mấy năm nay nguyện sẽ tìm ra một thanh bảo đao, để cùng với sư phụ ngươi phân cao thấp một lần nữa. Lão bà đi khắp chân trời góc bể, nhưng cũng không đến nỗi uổng công, đã được một người bạn cũ cho mượn đao để sử dụng. Ta nghe thấy phái Nga Mi bị triều đình bắt giam tại chùa Vạn An, định bụng đến cứu thầy ngươi ra, để hai bên tỉ đấu bằng bản lãnh chân thực, nà ngờ hôm nay đến đây, chùa Vạn An đã thành một đống gạch vụn. Ôi! Mệnh đã định rồi, Kim Hoa bà bà đời này không rửa được cái nhục bị thua. Diệt Tuyệt sư thái ôi là Diệt Tuyệt sư thái, sao mụ không chết trễ hơn một bữa nửa ngày?

Đinh Mẫn Quân nói:

- Nếu sư phụ ta lúc này nếu có còn tại nhân thế thì ngươi bất quá lại thua thêm một lần nữa thôi, để cho ngươi không còn bụng dạ nào ...

Đột nhiên nghe bốp bốp bốp bốp bốn tiếng thật ròn, Đinh Mẫn Quân mắt hoa đầu váng, lảo đảo muốn ngã, bị Kim Hoa bà bà xoạc cẳng xuống tấn đánh cho bốn cái liền. Mọi người thấy bà ta ốm yếu ho hen, luôn mồm húng hắng nào ngờ ra tay lại nhanh đến thế, thủ pháp lại hết sức quái dị, bốn cái tát đó khiến cho Đinh Mẫn Quân không có cách nào kháng cự hay tránh né. Bà ta đứng cách Đinh Mẫn Quân vốn đến cả hai trượng, trong nháy mắt vụt đến bên cạnh, đánh bốn cái xong lại quay về, hành động không khác gì ma quỉ.

Đinh Mẫn Quân vừa sợ vừa tức, rút phắt kiếm ra, xông lên chỉ vào Kim Hoa bà bà nói:

- Con mụ ăn mày kia, bộ ngươi không muốn sống hay sao?

Kim Hoa bà bà dường như không nghe mụ ta chửi mắng, còn thanh kiếm trong tay coi như không thấy, chỉ chậm rãi hỏi:

- Sư phụ ngươi vì cớ gì mà chết?

Giọng nói buồn thiu, dường như trong lòng chán chường hết sức. Mũi kiếm trong tay Đinh Mẫn Quân bất quá chỉ cách yết hầu bà ta chừng ba thước, nhưng vẫn không dám đâm vào, chỉ chửi:

- Mụ ăn mày, việc gì ta phải nói cho ngươi nghe?

Kim Hoa bà bà thở dài một tiếng, lẩm bẩm nói một mình: "Diệt Tuyệt sư thái, bà một đời anh hùng, đáng là một nhân vật xuất quần bạt tụy trong võ lâm. Vậy mà khi thác đi, trong đám đệ tử chẳng có đứa nào đứng ra tiếp nhiệm chưởng môn hay sao?".

Tĩnh Huyền sư thái tiến lên một bước, chắp tay hành lễ nói:

- Bần ni Tĩnh Huyền, tham kiến bà bà. Tiên sư lúc viên tịch có di mệnh cho Chu Chỉ Nhược Chu sư muội tiếp nhiệm chưởng môn. Thế nhưng trong bản phái vẫn có một số đồng môn chưa phục. Tiên sư nay đã viên tịch rồi khiến cho bà bà không được thỏa lòng, âu cũng là cái số như thế còn biết nói sao bây giờ? Chưởng môn bản phái chưa định xong thành thử không thể cùng bà bà ước hội được. Thế nhưng phái Nga Mi là một môn phái lớn trong võ lâm, không thể nào làm mất uy danh của tiên sư. Bà bà có điều gì dạy bảo, xin cứ cho biết, sau này người chưởng môn bản phái ắt sẽ theo qui củ võ lâm giải quyết cho xong. Còn như bà bà tự thị mình là bậc tiền bối, cưỡng bức khinh khi chúng tôi, phái Nga Mi tuy hôm nay gặp phải đại nạn nhưng cũng sẽ theo bà bà đến cùng, dù phải máu chảy khu vườn hoang này, cùng lắm đến chết thì thôi.

Những câu đó rạch ròi có lý, không ngang tàng mà cũng không luồn cúi, cả Trương Vô Kỵ lẫn Triệu Mẫn đều ngầm tấm tắc khen là đanh thép. Kim Hoa bà bà ánh mắt sáng lên nói:

- Thì ra lúc tiên sư viên tịch cũng đã truyền lại di mệnh, định người kế nhiệm chức chưởng môn, thế thì hay lắm. Vậy là vị nào đó? Xin cho gặp mặt.

Lời nói của bà ta lúc này so với khi nói chuyện với Đinh Mẫn Quân có vẻ khách sáo hơn nhiều. Chu Chỉ Nhược tiến lên thi lễ nói:

- Bà bà vạn phúc. Chưởng môn đời thứ tư của phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược, xin chào bà bà.

Đinh Mẫn Quân lớn tiếng nói:

- Sao không biết xấu, tự phong cho mình làm chưởng môn đời thứ tư của bản phái.

Châu Nhi cười khẩy:

- Vị Chu tỉ tỉ này tốt lắm, hồi ta ở Tây Vực vẫn thường được Chu tỉ tỉ thăm nom. Chị ta không đáng làm chưởng môn, không lẽ ngươi mới đáng hay sao? Ngươi mà còn nói quấy quá trước mặt bà bà, ta sẽ thưởng cho ngươi thêm vài cái tát.

Đinh Mẫn Quân giận quá, rút phắt trường kiếm đâm luôn vào ngực Châu Nhi. Châu Nhi nghiêng người qua, giơ chưởng đánh luôn vào mặt Đinh Mẫn Quân. Thân pháp của nàng y hệt của Kim Hoa bà bà, nhưng ra tay thì chậm hơn nhiều. Đinh Mẫn Quân lập tức hụp đầu xuống tránh nên kiếm của mụ ta không trúng Châu Nhi. Kim Hoa bà bà cười nói:

- Con bé này, ta dạy ngươi bao nhiêu lần, cái chiêu dễ thế vẫn học chưa xong. Xem cho kỹ đây này.

Bà ta vung tay phải ra, thuận thế tát luôn vào mặt Đinh Mẫn Quân một cái, tiếp theo tát trái vào má bên kia, thuận chiều tát qua má phải, lại qua bên trái, bốn cái cái nào cũng rõ ràng, ai cũng nhìn thấy thật rõ ràng nhưng Đinh Mẫn Quân tưởng như có ai dùng sức giữ chặt, chân tay không cử động được. Mụ ta bị bốn chưởng hoàn toàn không né tránh gì được cả, cũng may là Kim Hoa bà bà không vận nội kình lên tay nên mụ chưa bị trọng thương. Châu Nhi cười nói:

- Bà bà, thủ pháp đó con học được rồi, nhưng không có đủ nội kình như bà bà thôi. Để con thử lại.

Đinh Mẫn Quân bị nội lực của Kim Hoa bà bà giữ chặt, thấy Châu Nhi lại vả vào mặt mình, tức tối dường như muốn ngất đi. Đột nhiên Chu Chỉ Nhược lạng người tiến lên, tay trái đưa ra, đỡ chưởng của Châu Nhi lại, nói:

- Xin chị ngừng tay.

Nàng quay lại nói với Kim Hoa bà bà:

- Bà bà, Tĩnh Huyền sư tỉ chúng tôi mới đây đã nói rõ, đồng môn bản phái lúc này tuy võ học chưa tinh thâm được bằng bà bà, nhưng không chịu để cho bà bà muốn lăng nhục thế nào cũng được.

Kim Hoa bà bà cười nói:

- Con mụ họ Đinh kia mồm năm miệng mười, hở môi ra là không phục ngươi làm chưởng môn, ngươi lại còn ra đỡ cho y thị hay sao?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Việc bên trong môn phái chúng tôi, không liên can gì đến người ngoài. Tiểu nữ được tiên sư trối trăn, tuy bản lãnh thấp kém, nhưng quyết không để ai làm nhục đến môn nhân trong bản phái.

Kim Hoa bà bà cười:

- Giỏi lắm, giỏi lắm, giỏi lắm.

Bà ta mới nói ba tiếng "giỏi lắm" đã nổi cơn ho sù sụ. Châu Nhi liền lấy ra một viên thuốc đưa ra, Kim Hoa bà bà liền cầm lấy nuốt luôn, thở dốc một hồi, đột nhiên hai chưởng cùng tung ra, một tay để ngay ngực Chu Chỉ Nhược, một tay đè luôn lên lưng, ép chặt thân hình nàng giữa hai bàn tay, những nơi ấn vào đều là đại huyệt chí mạng.

Chiêu đó tung ra thật là quái dị, Chu Chỉ Nhược lúc này võ công tuy chưa nhiều nhưng cũng học được ba phần chân truyền của Diệt Tuyệt sư thái, không ngờ bị đối phương khống chế ngay các đại huyệt nơi ngực và lưng, khiến nàng sợ đến mặt tái mét, không nói ra được lời nào. Kim Hoa bà bà thản nhiên nói:

- Chu cô nương, cô là chưởng môn mà võ công sao quá tầm thường. Không lẽ sư tôn mang trọng nhiệm gánh vác phái Nga Mi giao cho một cô gái liễu yếu dào tơ như cô hay sao? Ta xem ra quá nửa là cô thổi phồng lên thôi.

Chu Chỉ Nhược định thần nghĩ thầm: "Lúc này bà ta chỉ cần nhả nội kình là tâm mạch ta bị chấn đoạn, chết ngay tại chỗ. Ta làm cách nào để khỏi làm mất uy phong của sư phụ đây?". Nàng nghĩ đến thầy, dũng khí lập tức tăng gia gấp trăm lần, giơ tay ra nói:

- Đây là thiết chỉ hoàn của chưởng môn phái Nga Mi, do chính tiên sư đeo vào tay tiểu nữ, không lẽ còn giả hay sao?

Kim Hoa bà bà cười rộ nói:

- Lúc nãy sư tỉ ngươi có nói, Nga Mi là một môn phái lớn trong võ lâm. Lời đó xem ra cũng đúng, thế nhưng chỉ bằng chút bản lãnh như nhà ngươi mà có thể làm chưởng môn một phái lớn trong võ lâm hay sao? Xem ra các ngươi nên nghe lời ta dạy bảo là hơn.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Kim Hoa bà bà, tiên sư tuy đã viên tịch nhưng phái Nga Mi không phải vì thế mà bị tiêu diệt. Tiểu nữ rơi vào tay bà bà rồi, muốn giết thì giết, chứ đừng tưởng đến chuyện ép tôi làm điều không nên không phải. Bản phái bị hãm vào gian kế của triều đình, bị giam trong tháp nhưng có ai chịu đầu hàng đâu? Chu Chỉ Nhược này tuy chỉ là một đứa con gái tuổi thì trẻ, sức thì yếu nhưng đã gánh vác trọng nhiệm trên vai vốn đã chẳng coi sống chết vào đâu rồi.

Trương Vô Kỵ thấy nàng lưng và ngực đã bị Kim Hoa bà bà đè tay lên, sống chết chỉ còn là một hơi thở nhưng vẫn hiên ngang, chỉ e Kim Hoa bà bà nổi giận lên sẽ lấy mạng nàng không chừng. Trong cơn nguy cấp, chàng toan nhảy ra cứu nhưng Triệu Mẫn đã đoán được bụng dạ chàng, nắm cánh tay lay lay mấy cái ý nói đừng nóng.

Lại nghe Kim Hoa bà bà cười ha hả nói:

- Diệt Tuyệt sư thái quả nhiên có mắt thật. Cô tiểu chưởng môn này võ công tuy kém nhưng tính hạnh lại cứng cỏi. Ôi, quả là thế võ công kém còn luyện được cho giỏi chứ núi sông dễ đổi, bản tính khó thay.

Thực ra lúc này Chu Chỉ Nhược sợ đã đến mất hồn vía, chỉ vì nghĩ đến sư phụ khi lâm chung mang trọng nhiệm ủy thác cho mình nên cố gắng ngang tàng, không chịu khuất phục đấy thôi.

Các đồng môn phái Nga Mi vốn không coi Chu Chỉ Nhược ra gì, nhưng lúc này thấy nàng không kể tư hiềm, dám đứng ra bảo vệ Đinh Mẫn Quân, đến lúc bị địch uy hiếp vẫn không làm mất thanh danh bản phái, ai nấy đều mang lòng kính phục. Thanh trường kiếm trong tay Tĩnh Huyền rung một cái, huýt mấy tiếng còi, người của phái Nga Mi lập tức dãn ra, rút binh khí, bao vây tòa lương đình lại. Kim Hoa bà bà cười nói:

- Làm gì đấy?

Tĩnh Huyền đáp:

- Bà bà bắt giữ chưởng môn phái Nga Mi là có ý gì?

Kim Hoa bà bà ho mấy tiếng, nói:

- Các ngươi tưởng cậy đông mà thắng được hay sao? Ha ha, dưới mắt Kim Hoa bà bà này, dù có đông gấp mười cũng có khác gì bao nhiêu?

Đột nhiên bà ta bỏ Chu Chỉ Nhược ra, thân hình rung động vọt đến ngay trước mặt Tĩnh Huyền, ngón tay trỏ và ngón tay giữa đâm vào hai mắt. Tĩnh Huyền vội múa kiếm lên chém vào hai cánh tay, chỉ nghe "hự" một tiếng, một đồng môn sư muội đứng kế bên đã ngã gục. Kim Hoa bà bà giả vờ tấn công Tĩnh Huyền nhưng chân trái đã đá trúng huyệt đạo nơi hông của một nữ đệ tử phái Nga Mi. Chỉ thấy thân hình bà ta bay qua bay lại thoăn thoắt trong lương đình, cánh tay áo phất phới, thỉnh thoảng lại khúc khắc ho mấy tiếng, trường kiếm của phái Nga Mi đâm ra nhưng không ai trúng nổi vạt áo bà ta, trong nam nữ đệ tử đã có đến bảy tám người bị đánh trúng huyệt đạo ngã xuống. Thủ pháp đả huyệt của bà ta cũng thật lạ lùng, người trúng đòn ai nấy đều kêu rống lên. Trong giây lát, trong khu vườn hoang tiếng kêu la hết người nọ tới người kia thật ghê rợn, ai nghe thấy cũng phải rùng mình.

Kim Hoa bà bà vỗ tay một cái quay trở vào lương đình nói:

- Chu cô nương, võ công của phái Nga Mi so với Kim Hoa bà bà thì thế nào?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Võ công bản phái lẽ dĩ nhiên phải cao hơn bà bà rồi. Năm xưa bà bà bị đánh bại dưới kiếm của tiên sư, không lẽ bà quên rồi sao?

Kim Hoa bà bà giận dữ đáp:

- Diệt tuyệt lão ni ỷ vào thanh kiếm sắc bén, đâu có tính được?

Chu Chỉ Nhược hỏi lại:

- Bà bà cứ theo lương tâm nói một câu, nếu như tiên sư và bà bà hai người tay không đấu với nhau thì ai thua ai được?

Kim Hoa bà bà trầm ngâm một hồi nói:

- Không biết nữa. Ta đã định để xem tôn sư và ta ai mạnh ai yếu, chính thế mà hôm nay mới tới Đại Đô. Ôi, Diệt Tuyệt sư thái đã viên tịch rồi, trong võ lâm lại mất đi một cao nhân. Tre già đã tàn rồi, măng mới lại chưa mọc, phái Nga Mi từ nay sẽ suy đồi.

Bảy đệ tử phái Nga Mi nằm ngoài kia kêu la không ngớt càng làm chứng cho lời của Kim Hoa bà bà. Tĩnh Huyền và những đệ tử lớn tuổi cố sức xoa bóp cho bọn họ được máu huyết lưu thông nhưng không thấy công hiệu chút nào, xem ra chỉ một mình Kim Hoa bà bà mới có thể giải được.

Trương Vô Kỵ năm xưa đã từng chữa cho biết bao nhiêu người bị Kim Hoa bà bà đả thương, biết rằng bà lão này ra tay rất ác độc, trên giang hồ ít thấy ai như thế. Chàng định nhảy ra cứu chữa nhưng nghĩ lại: "Nếu mình ra giúp Chu cô nương thì lại đắc tội với Châu Nhi. Biểu muội đối với ta rất tốt, lại là chỗ cốt nhục chí thân, ta đâu có thể bên dày bên mỏng cho được?".

Chỉ nghe Kim Hoa bà bà nói:

- Chu cô nương, ngươi đã phục chưa?

Chu Chỉ Nhược cứng đầu cứng cổ đáp:

- Võ công bản phái sâu như biển cả, không thể chỉ một sớm một chiều mà thành tựu được. Chúng tôi tuổi còn trẻ, biết rằng không bằng bà bà nhưng ngày sau tiến triển, đâu có biết đến đâu cho cùng.

Kim Hoa bà bà cười đáp:

- Giỏi nhỉ! Giỏi nhỉ! Vậy thì Kim Hoa bà bà này xin cáo từ. Đợi đến khi các ngươi võ công tiến triển không biết thế nào cho cùng sẽ quay lại giải huyệt cho bọn kia cũng được.

Nói xong dắt tay Châu Nhi, quay mình đi ra. Chu Chỉ Nhược nghĩ đến nỗi khổ của đồng môn, một giờ một phút còn chịu không nổi, Kim Hoa bà bà một khi đi mất rồi, chỉ e họ đau đến chết mất, vội nói:

- Bà bà hãy khoan đã. Xin giải huyệt cho những vị sư tỉ sư huynh đồng môn này đi.

Kim Hoa bà bà nói:

- Muốn ta giải cứu cũng chẳng khó khăn gì. Từ nay trở đi, Kim Hoa bà bà và đứa học trò này đi đến đâu, người của phái Nga Mi phải tránh ra tìm đường khác mà đi.

Chu Chỉ Nhược nghĩ thầm: "Ta vừa mới làm chưởng môn đã gặp ngay đại địch thế này. Nếu như bằng lòng chịu khuất phục như thế, phái Nga Mi còn đứng trong võ lâm làm sao được? Không lẽ phái Nga Mi này lại bị hủy diệt trong tay ta ư?".

Kim Hoa bà bà thấy nàng còn đang lưỡng lự không trả lời, cười nói tiếp:

- Ngươi không muốn thanh danh phái Nga Mi bị đắm chìm thì cũng chẳng sao, ngươi đưa thanh kiếm Ỷ Thiên cho ta dùng, ta sẽ giải cứu đồng môn cho.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Thầy trò chúng tôi trúng phải gian kế của triều đình bị giam nơi cao tháp, thanh Ỷ Thiên kiếm còn ở trong tay chúng tôi sao được?

Kim Hoa bà bà vốn không nghĩ ra chuyện đó, chuyện đòi mượn kiếm xem ra chắc như cua gạch, nay nghe Chu Chỉ Nhược nói vậy, mặt đầy vẻ thất vọng, đột nhiên hậm hực nói:

- Nếu ngươi muốn bảo toàn thanh danh phái Nga Mi, thì không bảo vệ được tính mạng của mình ...

Nói xong lấy trong bọc ra một viên thuốc, nói:

- Đây là thuốc độc Đoạn Trường Liệt Tâm, ngươi uống đi thì ta cứu bọn kia cho.

Chu Chỉ Nhược nghĩ đến lời trối trăn của sư phụ mà đứt từng tấc ruột, nghĩ thầm: "Thầy ta bảo ta đánh lừa Trương công tử, chuyện đó ta vốn không thể nào làm được, có sống cũng chịu biết bao dày vò, chi bằng chết đi là hơn, một việc xong thì mọi việc cũng xong không còn gì phải lo lắng nữa". Nàng nghĩ thế tay run run cầm viên thuốc độc. Tĩnh Huyền kêu lên:

- Chu sư muội, không được uống.

Trương Vô Kỵ thấy tình thế nguy cấp, toan nhảy ra ngăn cản, Triệu Mẫn liền ghé tai chàng nói thầm:

- Ngốc ơi là ngốc! Thuốc giả đấy, có phải thuốc độc đâu.

Trương Vô Kỵ còn đang ngạc nhiên thì Chu Chỉ Nhược đã bỏ viên thuốc vào mồm nuốt luôn. Bọn Tĩnh Huyền liền nhao nhao lên, tất cả xông vào Kim Hoa bà bà toan động thủ. Kim Hoa bà bà nói:

- Giỏi lắm, quả là có cốt khí, viên thuốc độc này không phát tác ngay đâu. Chu cô nương, ngươi đi theo ta, ngoan ngoãn nghe lời, nếu như lão bà vui lòng, không chừng sẽ cho ngươi thuốc giải.

Nói xong đi đến chỗ những đồng môn phái Nga Mi bị điểm huyệt, vỗ vào mỗi người mấy cái. Những người đó liền hết đau ngay, ai nấy vô cùng cảm kích, có người nói:

- Đa tạ chưởng môn.

Kim Hoa bà bà cầm tay Chu Chỉ Nhược, dịu dàng nói:

- Con ngoan lắm, đi theo ta, bà bà không ngược đãi con đâu.

Chu Chỉ Nhược chưa kịp trả lời, thấy một luồng kình lực cực mạnh nhấc lên, thân hình lập tức bay bổng. Tĩnh Huyền kêu lên:

- Chu sư muội ...

Người ni cô xông ra toan ngăn trở, bỗng thấy có một luồng chỉ phong đâm tới, chính là Châu Nhi ở bên cạnh dùng ngón tay tấn công. Tĩnh Huyền tay trái vung lên chặn lại, không ngờ chỉ đó chỉ là hư chiêu, nghe bộp một cái, tát trúng ngay mặt Đinh Mẫn Quân, môn "Chỉ Đông Đả Tây" ấy chính là võ học của Kim Hoa bà bà.

Chỉ nghe Châu Nhi cười khanh khách, đã nhảy vọt qua tường mà đi. Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Mau đuổi theo!

Một tay chàng nắm Triệu Mẫn, một tay chàng dắt Tiểu Siêu, ba người cùng vượt tường ra ngoài. Bọn Tĩnh Huyền thấy trong đám cỏ có ẩn ba người ai nấy đều kinh ngạc. Khinh công của Kim Hoa bà bà và Trương Vô Kỵ cao siêu biết bao, đến khi người của phái Nga Mi nhảy được lên trên tường, cả sáu người đã chìm vào trong bóng đêm không biết đi về hướng nào.

Trương Vô Kỵ đuổi theo được chừng mươi trượng, Kim Hoa bà bà chân không chậm lại quát lên:

- Đệ tử của phái Nga Mi vẫn còn có kẻ dám đuổi theo Kim Hoa bà bà, ha ha, quả cũng gớm thật.

Triệu Mẫn quát:

- Mau thả chưởng môn bản phái ra.

Nàng thân hình lạng một cái, vọt lên mấy trượng, thanh kiếm Ỷ Thiên đã đâm luôn vào sau lưng Kim Hoa bà bà. Chiêu "Kim Đính Phật Quang"[1] chính là một chiêu đích truyền của phái Nga Mi, nàng học được từ các nữ đệ tử phái Nga Mi nơi chùa Vạn An, nhưng vì không được xem Diệt Tuyệt sư thái thi triển, thành thử không mấy tinh diệu.

Kim Hoa bà bà thấy tiếng binh khí xé gió ở sau lưng, liền buông Chu Chỉ Nhược ra, vội xoay người lại. Triệu Mẫn cổ tay lách một cái, dùng ngay chiêu "Thiên Phong Cạnh Tú"[2]. Kim Hoa bà bà biết món binh khí trong tay nàng chính là bảo kiếm Ỷ Thiên, trong lòng vừa mừng vừa sợ, liền tiến lên vươn tay toan cướp lấy. Hai bên trao đổi mấy chiêu, Kim Hoa bà bà đã tiến đến sát bên mình Triệu Mẫn, mấy ngón tay đang định chộp vào cổ tay cầm kiếm của nàng, nào ngờ Triệu Mẫn liền vòng kiếm lại, sử một chiêu "Thần Đà Tuấn Túc"[3] của phái Côn Lôn.

Kim Hoa bà bà thấy nàng là một cô gái trẻ tuổi, tay lại cầm kiếm Ỷ Thiên, sử dụng đích truyền kiếm pháp của phái Nga Mi nên vẫn tưởng nàng là người của phái Nga Mi. Để đối phó với Diệt Tuyệt sư thái, bà ta đã nghiên cứu kiếm pháp phái Nga Mi mấy năm qua, thấy Triệu Mẫn sử qua mấy chiêu, nghĩ nàng công lực chắc chẳng đến đâu nên đã tính toán rõ ràng, một khi tiến được đến gần nàng thì ắt sẽ đoạt được thanh kiếm. Nào ngờ cô gái này đột nhiên đổi qua Côn Lôn kiếm pháp, Kim Hoa bà bà nếu như không định tâm trước thì kiếm pháp phái Côn Lôn bà ta có coi vào đâu, chỉ vì chiêu này quá ư bất ngờ, nên dù võ công cao cường nhưng cũng sợ đến toát mồ hôi, vội lăn xuống đất mới tránh thoát được. Tuy thế tay áo bên trái cũng đã bị mũi kiếm rạch một đường mất một miếng lớn.

Kim Hoa bà bà vừa sợ vừa tức, lại xông lên. Triệu Mẫn biết võ công mình kém bà ta quá xa, không dám sách chiêu, chỉ múa thanh Ỷ Thiên kiếm, đâm trái chém phải, lách qua đông lượn qua tây, lúc thì kiếm pháp của phái Không Động, lúc thì của phái Hoa Sơn, vừa sử xong chiêu "Đại Mạc Phi Sa"[4] của phái Côn Lôn, lại ra ngay chiêu "Kim Châm Độ Kiếp" trong Đạt Ma kiếm pháp của phái Thiếu Lâm. Chiêu nào cũng là tinh hoa của các môn phái, chiêu nào cũng đầy uy lực, lại thêm thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén khiến Kim Hoa bà bà bụng kinh ngạc vô cùng, nhất thời chưa có cách nào tới gần được.

Châu Nhi xem lại càng gấp gáp, vội cởi thanh kiếm đeo bên hông ra ném cho Kim Hoa bà bà. Triệu Mẫn tấn công bảy tám thế liền, đến chiêu thứ chín, Kim Hoa bà bà không còn cách nào khác phải vung kiếm gạt ra, nghe soẹt một tiếng, trường kiếm đã gãy làm hai.

Kim Hoa bà bà mặt liền biến sắc, nhảy vọt ra ngoài, quát hỏi:

- Con nhãi kia, ngươi là ai?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Sao mụ không rút đao Đồ Long ra?

Kim Hoa bà bà giận dữ đáp:

- Nếu ta có đao Đồ Long trong tay, ngươi làm sao đỡ được tám chiêu, mười chiêu? Ngươi có giỏi thì đi theo ta thử một phen xem nào?

Triệu Mẫn cười nói:

- Nếu như mụ có được đao Đồ Long thì hay lắm. Ta sẽ ở Đại Đô chờ mụ, để mụ đi lấy đao Đồ Long về đấu nữa.

Kim Hoa bà bà nói:

- Ngươi quay đầu lại cho ta nhìn rõ mặt nào.

Triệu Mẫn liền nghiêng người, le lưỡi, mắt trái nhắm, mắt phải mở, nhăn mặt méo mồm thành một người thật quái dị để trêu Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà giận quá, nhổ toẹt một bãi xuống đất, ném thanh kiếm gãy đi, hai tay dắt Châu Nhi và Chu Chỉ Nhược đi mất.

Trương Vô Kỵ nói:

- Mình mau đuổi theo.

Triệu Mẫn đáp:

- Cái đó cũng không gấp gì, anh cứ để tôi. Tôi bảo đảm là Chu cô nương không sao đâu.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Sao cô lại nhắc tới đao Đồ Long?

Triệu Mẫn đáp:

- Tôi nghe bà ta nói nơi khu vườn hoang là đã đi khắp chân trời góc biển, sau cùng đã mượn được của người quen cũ một thanh bảo đao, muốn đấu với kiếm Ỷ Thiên của Diệt Tuyệt sư thái. "Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?". Muốn tranh phong với kiếm Ỷ Thiên chỉ có đao Đồ Long thôi, không lẽ bà ta đã mượn được của Tạ tiền bối nghĩa phụ anh thanh đao này? Khi tôi múa kiếm đấu với bà ta chỉ cốt ép cho bà ta rút đao ra. Thế nhưng bà ta không có đao bên người, lại bảo tôi đi theo bà ta để thử, xem chừng đã biết được đao Đồ Long ở nơi đâu nhưng không lấy được đấy thôi.

Trương Vô Kỵ trầm ngâm rồi đáp:

- Kể cũng lạ thật.

Triệu Mẫn nói:

- Tôi chắc là bà ta ra bờ bể, giương buồm đi tìm thanh đao. Mình phải làm sao chặn trước đừng để một người hai mắt đã mù, tâm địa lại nhân hậu như Tạ lão tiền bối bị bà ta lừa dối.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói đến câu sau cùng, nhiệt huyết trào lên, vội nói:

- Đúng lắm, đúng lắm.

Chàng lúc trước nhận lời Triệu Mẫn đi mượn thanh đao Đồ Long, chỉ vì lời nói của kẻ đại trượng phu đáng giá nghìn vàng, không thể nuốt lời, lúc này nghĩ đến Kim Hoa bà bà gây khó khăn cho nghĩa phụ mình lại hận không có cánh để bay ra cứu giúp.

Sau đó Triệu Mẫn dẫn hai người đến trước vương phủ, dặn dò người canh cửa một hồi. Tên vệ sĩ đó luôn mồm vâng dạ, quay mình đi vào, chẳng bao lâu dắt ra chín con tuấn mã, xách theo một bọc vàng bạc đưa cho nàng. Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu ba người cưỡi ba con ngựa, còn sáu con kia dẫn theo thay đổi, chạy về hướng đông.

Sáng sớm hôm sau, chín con ngựa đều đã mỏi mệt chịu không nổi. Triệu Mẫn liền đưa kim bài điều động binh mã của Nhữ Dương Vương cho quan địa phương, đổi lấy chín con ngựa khác nên tới khuya hôm đó đã đến bờ biển.

Triệu Mẫn cưỡi ngựa chạy thẳng vào huyện thành, ra lệnh cho quan huyện cấp tốc chuẩn bị một chiếc thuyền đi biển kiên cố nhất, trên thuyền chuẩn bị đà công, thủy thủ, lương thực, nước ngọt, binh khí, áo lạnh cho thật đầy đủ. Ngoài ra, các thuyền bè lập tức đuổi cả về phía nam, chung quanh bờ biển năm mươi dặm không cho một chiếc thuyền nào được đậu cả. Kim bài của Nhữ Dương Vương đưa đến, một tên quan huyện nho nhỏ lẽ nào dám trái lệnh? Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn và Tiểu Siêu ở lại vệ môn uống rượu chờ tin. Chưa tới một ngày, quan huyện đến báo cho hay mọi thứ đã sắp đặt hoàn bị.

Ba người đến bờ biển nhìn chiếc thuyền, Triệu Mẫn không khỏi dậm chân kêu lên:

- Hỏng rồi.

Thì ra chiếc thuyền đang đậu nơi đó là một chiếc hải thuyền thật lớn, cao hai tầng, đầu thuyền và hai bên mạn có gắn súng, chính là một chiếc pháo thuyền của quân Mông Cổ. Năm xưa người Mông Cổ đem đại quân viễn chinh Nhật Bản nên tập họp rất nhiều thuyền bè, không ngờ bị một cơn bão, bao nhiêu tàu bè bị đắm hết, việc đông chinh tan ra bọt nước. Thế nhưng qui củ của thuyền bè từ đó đã thành hình. Triệu Mẫn tính toán trăm sự đều hay, chỉ có một điều sơ sót, không ngờ gã huyện quan nhận lệnh xong muốn tâng công, chạy ngay đi gặp thủy sư mượn một chiếc pháo thuyền. Lúc này trên thuyền lương thực, nước uống đã dự bị đầy đủ cả, chung quanh mấy chục dặm thuyền bè theo lệnh Nhữ Dương Vương truyền xuống đã xuôi nam cả không còn một chiếc nào. Triệu Mẫn chỉ đành cười gượng, ra lệnh cho các thủy thủ lấy lưới cá treo đầy lên các khẩu thần công, trên thuyền để thêm vài chục sọt cá tươi, làm như chiến thuyền cũ không còn dùng nữa nên đã sửa lại thành thuyền đánh cá.

Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu thay quần áo mặc thành thủy thủ, dùng dầu màu bôi lên mặt cho vàng vọt, dán thêm mấy chiếc ria mép, trông không ai còn nhận biết được. Ba người lên thuyền ngồi chờ Kim Hoa bà bà đến nơi.

Nàng Thiệu Mẫn quận chúa kia liệu sự như thần, quả nhiên đến tối, một chiếc xe lớn đã chạy đến bến, Kim Hoa bà bà dắt Châu Nhi và Chu Chỉ Nhược xuống hỏi thuê thuyền. Thủy thủ trên thuyền đã được Triệu Mẫn dặn trước nên đều từ chối, nói đây là pháo thuyền cũ nay sửa thành thuyền đánh cá, chỉ đi chài lưới chứ không chở khách, đến lúc Kim Hoa bà bà đưa ra hai đĩnh vàng trả công, gã đầu nậu mới miễn cưỡng nhận lời. Kim Hoa bà bà dẫn Châu Nhi và Chu Chỉ Nhược lên thuyền rồi lập tức truyền lệnh giương buồm ra khơi.

Trên biển cả mênh mang không bờ bến, một chiếc thuyền lênh đênh theo hướng đông nam mà đi. Thuyền đi được hai ngày, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn hai người ở dưới khoang nhìn ra cửa sổ, chỉ thấy mặt trời mọc lên buổi sáng, mặt trăng lặn xuống ban đêm ở phía tay trái, hiển nhiên thuyền đang đi về phương nam. Khi đó trời đã vào đầu mùa đông, gió bấc thổi mạnh, buồm căng gió trôi băng băng.

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn hai người bàn với nhau mấy lần: "Nghĩa phụ tôi ở tại Băng Hỏa đảo miền cực bắc, mình muốn kiếm ông ta phải đi về hướng bắc mới phải, sao lại đi ngược về hướng nam?". Lần nào Triệu Mẫn cũng trả lời: "Kim Hoa bà bà ắt có điều gì quái lạ, huống chi lúc này gió nam không thổi, có muốn lên phương bắc cũng không sao được".

Đến chiều ngày thứ ba, đà công đi xuống khoang bẩm lại cho Triệu Mẫn, nói là Kim Hoa bà bà rất thuần thục với hải trình này, vùng nào có cồn cát, vùng nào có đảo san hô, so với đà công còn biết rõ hơn nhiều. Trương Vô Kỵ đột nhiên chợt nghĩ ra, nói:

- Hay là bà ta quay về Linh Xà đảo?

Triệu Mẫn hỏi:

- Linh Xà đảo nào?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Ông chồng của Kim Hoa bà bà ở tại đảo Linh Xà tên là Ngân Diệp tiên sinh, nay đã qua đời. Kim Hoa, Ngân Diệp của đảo Linh Xà, không lẽ cô chưa nghe tới hay sao?

Triệu Mẫn cười khúc khích, nói:

- Anh lớn hơn tôi mấy tuổi, chuyện trên chốn giang hồ có vẻ rành quá nhỉ?

Trương Vô Kỵ cũng cười đáp:

- Tà ma ngoại đạo Minh giáo chắc chắn là phải biết những chuyện rỗi của chốn giang hồ hơn quận chúa nương nương chứ.

Hai người vốn là tử địch, mỗi bên chỉ huy một nhóm hào kiệt, đánh nhau mấy trận kịch liệt nhưng nay ở dưới khoang thuyền với nhau mấy ngày, nói năng không cần giữ ý, lại có chung một kẻ địch là Kim Hoa bà bà nên xa cách giữa hai người mỗi lúc một giảm thiểu. Đà công xuống bẩm báo rồi chỉ sợ Kim Hoa bà bà biết được nên lại vội quay về buồng lái. Triệu Mẫn cười nói:

- Đại giáo chủ, vậy phiền ngài kể lại chuyện Kim Hoa, Ngân Diệp của đảo Linh Xà uy chấn thiên hạ như thế nào kể lại cho con bé quê mùa kém cỏi này nghe có được không?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Nói ra thật xấu hổ, Ngân Diệp tiên sinh là người như thế nào, thực tình tôi cũng không biết. Còn Kim Hoa bà bà thì tôi đã phải đối phó với mụ ta một lần.

Chàng bèn kể lại ở Hồ Điệp Cốc học nghề thuốc với Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu ra sao, các người của những môn phái bị Kim Hoa bà bà hạ độc sống dở chết dở thế nào phải đến Hồ Điệp Cốc nhờ chữa bệnh, chàng được Hồ Thanh Ngưu chỉ điểm mới chữa khỏi cho họ, rồi Kim Hoa bà bà đấu võ với Diệt Tuyệt sư thái bị thua ra sao, về sau hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu, Vương Nạn Cô bị Kim Hoa bà bà hạ thủ kể hết mọi chuyện cho nàng nghe.

Chàng nghĩ đến Hồ Thanh Ngưu tuy tính khí có điều quái đản, nhưng đối với mình chẳng có điều gì không phải, nhớ lại xác hai vợ chồng bị giết treo trên cây, không khỏi rưng rưng nước mắt. Chàng lại kể sơ qua việc Châu Nhi muốn bắt mình lên đảo Linh Xà làm bạn, chàng cắn vào tay cô ta một cái ra sao. Chàng cũng không hiểu tại sao mình lại chỉ thuật sơ lược vụ này, hay là chuyện đó có vẻ gì bất nhã chăng.

Triệu Mẫn chăm chú nghe không nói một lời, mặt đầy vẻ trịnh trọng nói:

- Lúc đầu tôi chỉ nghĩ là bà bà này là một người võ công cực kỳ cao siêu thôi, không ngờ bên trong lại còn rất nhiều chuyện ân oán qua lại. Nghe anh nói chuyện, lão bà bà này không phải là kẻ dễ đối phó, chúng mình phải hết sức cẩn thận mới được.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Quận chúa nương nương văn võ kiêm toàn, dưới tay lại biết bao nhiêu kỳ tài dị sĩ, đối phó với một mình Kim Hoa bà bà, có gì mà không được?

Triệu Mẫn cười:

- Có điều là trên biển cả mênh mông, không làm sao mà gọi các võ sĩ, phiên tăng thủ hạ của tôi tới được.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế mấy người nấu bếp, thủy thủ giương buồm chẳng phải là cao thủ hạng nhất trên chốn giang hồ hay mới chỉ là hạng nhì?

Triệu Mẫn ngạc nhiên, cười khanh khách nói:

- Bội phục, bội phục. Đại giáo chủ quả thật tinh đời, không thể nào dấu nổi chuyện gì.

Thì ra khi nàng quay về vương phủ lấy tiền và ngựa, đã ngầm dặn vệ sĩ điều động một số hạ thuộc chạy gấp ra bờ biển chờ lệnh, đến nơi chỉ chậm hơn bọn Trương Vô Kỵ nửa ngày. Những người này không tham dự cuộc chiến nơi chùa Vạn An, cũng chưa gặp Trương Vô Kỵ bao giờ, chia ra kẻ giả làm nhà bếp, thủy thủ. Thế nhưng người đã học võ, thần tình cử chỉ đều sẽ lộ ra, dù cho hết sức che dấu, nhưng Trương Vô Kỵ nhìn vào là đã biết ngay.

Triệu Mẫn nghe chàng nói thế, nghĩ thầm nếu như Trương Vô Kỵ đã nhìn ra, Kim Hoa bà bà hiểu biết rộng rãi, mèo già hóa cáo, chắc đã sớm biết rồi. Cũng may bên mình người nhiều thế mạnh, Trương Vô Kỵ võ công cao cường, dù có biết hay không biết cũng thế thôi, nếu như phải động thủ, cả bà ta lẫn Châu Nhi cũng chỉ hai người không có gì phải ngại. Còn nếu như bà ta chưa nhìn ra thì mình cứ tiếp tục giả trang cũng không sao.

Trong mấy ngày qua, mối lo nhất của Trương Vô Kỵ là việc Chu Chỉ Nhược uống viên thuốc của Kim Hoa bà bà rồi chất độc đã phát tác chưa. Triệu Mẫn biết rõ bụng dạ chàng, thấy chàng nhíu mày liền sai người lên sàn thuyền giả vờ bưng trà rót nước, xem xét động tĩnh, mỗi lần quay về đều nói Chu cô nương hành động, ngôn ngữ chẳng có gì khác lạ, xem ra không có triệu chứng gì trúng độc cả. Sau mấy lần như thế, Trương Vô Kỵ cũng an tâm phần nào.

Chàng ngồi tĩnh tọa ở một góc khoang, nghĩ đến tình cảnh lúc trước nơi tuyết địa, Châu Nhi bầu bạn với mình thế nào, đến khi bị Hà Thái Xung, Võ Liệt, Đinh Mẫn Quân vây đánh cố đòi về gặp mình một lần, chính chàng trước mặt bọn Hà Thái Xung cũng từng lớn tiếng nói: "Từ nay trở đi, anh sẽ hết lòng yêu thương bảo vệ em, lo lắng cho em, dù ai đến gây khó dễ cho em, dù người đó tài ba ghê gớm thế nào đến khinh khi em, anh sẻ xả thân để bảo vệ cho em được chu toàn. Anh mong em được bình yên vui vẻ, quên đi những bất hạnh khổ đau từ trước". Chàng nghĩ đến những câu đó không khỏi mặt đỏ bừng.

Triệu Mẫn nói:

- Hứ, anh lại nghĩ đến Chu cô nương rồi phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đâu có.

Triệu Mẫn nói:

- Gớm, anh muốn nghĩ thì nghĩ, muốn không nghĩ thì không nghĩ, không lẽ tôi kiểm soát được sao? Đàn ông con trai việc gì phải dấu diếm.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi dấu cô làm chi? Nói cho cô hay, tôi không nghĩ đến Chu cô nương đâu.

Triệu Mẫn nói:

- Nếu như anh nghĩ đến khổ đầu đà, Vi Nhất Tiếu thì bộ mặt anh đâu có thế. Những người đó mặt mày quái đản, không lẽ khi anh nghĩ đến lại ra vẻ vừa ôn nhu, vừa bẽn lẽn hay sao?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Cô quả thật là lợi hại, người khác nghĩ đến ai xấu hay đẹp cô cũng biết nữa. Nói thực cho cô hay, người mà tôi nghĩ đến đây lại chẳng xinh đẹp chút nào cả.

Triệu Mẫn thấy chàng nói rất thành khẩn, mỉm cười không lý đến nữa. Dù nàng thông minh thế nào cũng không thể tưởng tượng nổi người chàng đang nghĩ đến lại chính là cô gái xấu xí Châu Nhi đang ở trên sàn thuyền kia.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến Châu Nhi đang luyện môn công phu âm độc Thiên Châu Vạn Độc Thủ nên diện mạo sưng vù, nổi u từng cục, đêm qua ở nơi vườn hoang chàng xem ra còn tệ hơn trước. Nghĩ đến đây chàng không khỏi buông tiếng thở dài, môn tà môn công phu đó càng luyện thêm e rằng cơ thể tâm tính đều hỏng cả. Chàng lại nghĩ đến lúc Ân Lê Đình nói chàng rơi xuống vực chết rồi, Châu Nhi phục xuống đất khóc lóc thật thảm thiết, trong lòng không khỏi cảm kích. Chàng từ khi lên Quang Minh Đính, ngày cũng như đêm, nếu không phải luyện công thì cũng bôn ba với Minh giáo, có mấy khi được yên tĩnh để nghĩ xem trong lòng mình như thế nào? Tuy cũng có khi nhớ đến Châu Nhi, cũng từng hỏi Vi Nhất Tiếu, cũng bảo Dương Tiêu sai người tìm kiếm chung quanh Quang Minh Đính, nhưng đều không thấy cô nàng đâu cả, bây giờ mới tự trách thầm: "Châu Nhi đối với ta tốt như thế, sao mình lại lạnh nhạt bạc bẽo với nàng như vậy? Sao trong bao lâu nay, dường như ta chẳng hề nghĩ tới nàng chút nào?". Từ khi làm giáo chủ Minh giáo, mọi việc riêng tư chàng đều bỏ qua một bên không hề tính đến.

Triệu Mẫn đột nhiên hỏi:

- Anh lại hối hận chuyện gì chăng?

Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, đột nhiên trên sàn thuyền truyền xuống tiếng la hét, một hồi sau có thủy thủ chạy xuống bẩm báo:

- Trước mặt có đất liền, lão bà bà bảo chúng tôi dong thuyền đến.

Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ nhìn qua cửa sổ, thấy cách vài dặm có một hòn đảo lớn cây cối xanh tươi, có mấy ngọn núi cao vươn thẳng lên trời. Chiếc thuyền no gió, chạy băng băng về phía trước. Chỉ chừng một bữa ăn, thuyền đã đến đảo. Phía đông hòn đảo núi đá chạy thẳng xuống biển, không có bãi cạn thành thử chiến thuyền tuy chìm dưới nước sâu nhưng vẫn đậu được ngay cạnh bờ.

Chiến thuyền đậu nơi bến chưa xong, bỗng nghe từ phía trên núi vọng xuống một tiếng rống thật lớn, trung khí sung túc, cực kỳ uy mãnh. Nghe thấy thế Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa lo, tiếng đó thật là quen thuộc, chính là do nghĩa phụ chàng là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hú lên.

Hai người cách biệt mười năm, xem ra hùng phong của ông vẫn như xưa chàng không vui mừng sao được? Chàng không kịp suy nghĩ tại sao Tạ Tốn đang ở Băng Hỏa đảo nơi cực bắc lại đến được nơi đây, cũng chẳng nghĩ đến việc Kim Hoa bà bà có thể nhìn ra được chân tướng mình, liền vội vàng theo cầu thang đi lên sau thuyền, nhìn về phía sơn cương nơi phát ra tiếng hú.

Chỉ thấy bốn người đàn ông tay cầm binh khí, đang vây đánh một người thân thể cao to. Người đó tay không nghinh địch, chính là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Chỉ thoáng nhìn, Trương Vô Kỵ thấy nghĩa phụ hai mắt đã mù, lại một chọi bốn, tay không chống với bốn món binh khí nhưng không kém sút chút nào. Chàng chưa bao giờ được thấy nghĩa phụ động thủ với ai, lúc này chỉ coi vài chiêu, trong bụng mừng thầm: "Năm xưa Kim Mao Sư Vương uy chấn thiên hạ, quả thật danh bất hư truyền. Nghĩa phụ ta quả võ công còn cao hơn Thanh Dực Bức Vương, có thể ngang với ông ngoại ta chứ không kém". Bốn người kia võ công cũng khá cao cường, từ trên thuyền nhìn về mỏm núi không rõ mặt mũi, nhưng thấy áo quần lam lũ, lưng đeo túi vải, hẳn là người của Cái Bang. Bên cạnh còn có thêm ba người đứng tiếp ứng.

Chỉ nghe một người lên tiếng nói:

- Giao thanh đao Đồ Long ra ... tha cho ngươi khỏi chết ... bảo đao thế mạng ...

Gió núi thổi ra truyền tiếng của y lúc được lúc mất, vì khoảng cách khá xa nên nghe không rõ ràng nhưng cũng hiểu được bọn này đang muốn đoạt thanh đao Đồ Long. Tạ Tốn cười ha hả nói:

- Đao Đồ Long ở ngay bên cạnh ta đây, bọn giặc thối tha của Cái Bang kia, có giỏi thì cứ đến mà lấy.

Tuy miệng nói mà chân tay ông ta ra chiêu vẫn không chậm lại chút nào. Kim Hoa bà bà thân hình nhún một cái đã nhảy lên trên bờ, ho khúc khắc mấy tiếng, nói:

- Quần hiệp Cái Bang giáng lâm đảo Linh Xà, sao không đến nói chuyện với lão bà, lại đến làm phiền quí khách của đảo, ý muốn gì đây?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Đảo này quả nhiên là Linh Xà đảo, nghe giọng của Kim Hoa bà bà, xem ra nghĩa phụ ta là khách bà ta mời đến? Năm xưa nghĩa phụ nhất định không chịu rời Băng Hỏa đảo để về Trung Nguyên, sao Kim Hoa bà bà lại mời ông ta đến đây được? Làm sao Kim Hoa bà bà biết được chỗ ở của nghĩa phụ ta?". Trong chốc lát trong đầu chàng nổi lên không biết bao nhiêu là nghi hoặc.

Bốn người trên đỉnh núi thấy chủ nhân hòn đảo đã đến, chỉ mong thanh toán Tạ Tốn cho xong nên thế công càng thêm gấp gáp. Họ có ngờ đâu đó chính là đại kỵ trong võ học, Tạ Tốn hai mắt đã mù, toàn do tiếng gió từ binh khí của địch mà biện vị để đối phó. Bốn người ra tay càng nhanh, phong thanh càng nhiều, Tạ Tốn cười ha hả một hồi dài, bình một quyền đã đánh trúng ngực một tên, người đó rú lên một tiếng, từ sơn cương lăn xuống, đầu vỡ tan, óc văng tung tóe.

Một người lược trận đứng bên ngoài liền quát:

- Lui ra.

Y nhẹ nhàng đấm ra một quyền, quyền lực dường như có như không, khiến Tạ Tốn không thể nào nhận được đường đi. Quả nhiên quyền đầu đến cách thân hình Tạ Tốn mấy tấc ông mới hay biết, vội vàng ra chiêu, chân tay luống cuống, cực kỳ hốt hoảng. Ba người đánh khi nãy vừa tránh ra, một lão già đứng ngoài liền gia nhập cuộc chiến. Người đó cũng dùng phương pháp đánh như người kia, xuất chưởng khinh nhu, chỉ trong mấy chiêu, Tạ Tốn đã lạng quạng suýt nữa thì trúng hiểm chiêu.

Kim Hoa bà bà quát lên:

- Quí trưởng lão, Trịnh trưởng lão, Kim Mao Sư Vương mắt không được sáng, các ngươi giở thủ đoạn đê hèn như thế, uổng cho hai tiếng anh hùng trong chốn giang hồ.

Bà ta một mặt nói, tay vẫn cầm gậy chạy lên núi. Trông người bà ta run rẩy già cả như thế, tưởng như bị gió núi thổi rơi xuống vực đến nơi nhưng thân hình di động cực kỳ nhanh nhẹn. Chỉ thấy bà ta điểm đầu gậy xuống đất một cái, thân hình đã phất phới vọt lên, chỉ nhún nhẩy mấy lần đã đến lưng chừng núi. Châu Nhi lẽo đẽo chạy theo, nhưng bị cách một quãng xa.

Trương Vô Kỵ lo cho an nguy của nghĩa phụ cũng đã chạy vọt lên núi. Triệu Mẫn chạy lên ghé tai nói nhỏ:

- Có lão bà đó rồi, Sư Vương không bị nguy hiểm gì đâu, anh không cần phải ra tay, ẩn tàng hình tích là hơn.

Trương Vô Kỵ gật đầu, chạy đằng sau Châu Nhi. Lúc này chàng chỉ thấy đằng sau Châu Nhi, thân hình yểu điệu, nếu không nhìn mặt nàng ai chẳng bảo là một tuyệt sắc giai nhân, đâu có kém Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, hay Tiểu Siêu chút nào? Chàng nghĩ như thế lại tự trách mình: "Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, nghĩa phụ ngươi đang gặp nguy nan, ngươi lại đi lo nhìn đàn bà con gái, trong bụng khen chê tướng mạo thân hình đẹp hay không đẹp là sao?".

Bốn người chỉ chốc lát đã đến đỉnh sơn cương, thấy Tạ Tốn ra chiêu thật ngắn, chỉ thủ mà không công, đợi khi quyền cước địch nhân đến gần mới dùng tiểu cầm nã thủ sách giải. Lối đánh đó tuy có thể tự bảo vệ được nhưng muốn thắng địch thì lại thật khó. Trương Vô Kỵ đứng dưới một cây tùng lớn, thấy cha nuôi mặt đầy vết nhăn, đầu tóc đã bạc khá nhiều, so với khi chia tay thì già hẳn đi, chắc là hơn chục năm qua một mình nơi hoang đảo, sống qua ngày thật là gian nan, trong lòng chàng không khỏi chua xót, ngực nóng ran lên, muốn chạy ra thay ông đánh bại kẻ địch, cha con nhận nhau. Triệu Mẫn biết tâm ý chàng, lấy tay cào vào lòng bàn tay, lắc đầu.

Bỗng nghe Kim Hoa bà bà nói:

- Quí trưởng lão, Âm Sơn Chưởng Đại Cửu Thức của nhà ngươi nổi tiếng trên giang hồ, sao lại ma mãnh lén lút làm như miên chưởng là sao? Còn Trịnh trưởng lão sao cũng chẳng ra gì, đem Hồi Phong Phất Liễu Quyền dấu ở bên trong Bát Quái Quyền, Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp đâu có biết được ... khụ khụ ..

Tạ Tốn không nhìn thấy chiêu thức của địch nhân, đối địch mười phần khó khăn, hai gã Quí Trịnh lại cực kỳ giảo hoạt, lúc ra chiêu cố ý biến thức để ông không thể nhận ra. Kim Hoa bà bà nói câu đó ra, Tạ Tốn lập tức có chủ định, đợi quyền pháp của Trịnh trưởng lão vừa tới chỗ sắp biến đổi, liền đánh vù ra một quyền, trúng ngay quyền vừa đánh tới, Trịnh trưởng lão phải lùi hai bước mới gượng lại được. Quí trưởng lão ở bên cạnh vội vàng múa quyền bảo vệ khiến cho Tạ Tốn không thể truy kích.

Trương Vô Kỵ nhìn lại hai trưởng lão của Cái Bang, thấy Quí trưởng lão lùn lùn mập mập, mặt mày hồng hào trông chẳng khác gì gã đồ tể, còn Trịnh trưởng lão thì ốm yếu khô gầy, mặt xanh như tàu lá, trông đúng là kẻ ăn mày không sai vào đâu được. Hai người trên lưng đều đeo tám cái túi vải. Đứng xa xa là một thanh niên tuổi chừng ba mươi, cũng ăn mặc theo lối Cái Bang, nhưng quần áo sạch sẽ, trên lưng cũng đeo tám cái túi. Tuổi y còn trẻ như thế mà đã lên đến trưởng lão tám túi trong Cái Bang, quả thực là hiếm có. Đột nhiên nghe gã nói:

- Kim Hoa bà bà, bà đã nói trước là không giúp Tạ Tốn, câu nói đó chẳng lẽ không tính hay sao?

Kim Hoa bà bà lạnh lùng nói:

- Các hạ cũng là trưởng lão trong Cái Bang hay sao? Tha lỗi cho lão bà mắt kém, chưa từng biết đến.

Người kia đáp:

- Tại hạ mới nhập Cái Bang chưa lâu, bà bà dĩ nhiên không biết. Tại hạ họ Trần, thảo tự Hữu Lượng.

Kim Hoa bà bà lẩm bẩm nói một mình:

- Trần Hữu Lượng? Trần Hữu Lượng? Chưa từng nghe đến.

Chỉ nghe tiếng kêu la vang động, cánh tay trái Trịnh trưởng lão đã bị Tạ Tốn đánh trúng một quyền, ba tên đệ tử Cái Bang đứng ngoài liền cầm binh khí xông vào vây đánh. Ba tên này võ công không bằng được Trịnh Quí hai trưởng lão, đúng ra thì chỉ thêm vướng chân vướng tay nhưng Tạ Tốn từ khi mắt mù đến giờ chưa từng động thủ quá chiêu với ai, thành ra kinh nghiệm lâm địch không có, hôm nay lần đầu gặp phải cường địch, địch nhân ngoài quyền cước còn thêm binh khí, âm thanh hỗn tạp, khó mà phân biệt phương vị nên chỉ trong phút chốc đầu vai đã trúng ngay một quyền.

Trương Vô Kỵ thấy tình hình nguy cấp đang toan ra tay, Triệu Mẫn nói nhỏ:

- Không lẽ Kim Hoa bà bà không ra tay cứu?

Trương Vô Kỵ hơi chần chừ, chỉ thấy Kim Hoa bà bà chống gậy đứng xem, miệng cười khẩy, không có vẻ gì muốn ra tay cứu viện. Ngay lúc đó, đùi bên trái của Tạ Tốn lại bị Trịnh trưởng lão đá trúng một cái thật mạnh khiến ông loạng choạng tưởng như muốn ngã.

Trong tay Trương Vô Kỵ đã hờm sẵn bảy viên đá sỏi, lúc này không còn nhẫn nại thêm được nữa, tay phải vung ra, bảy viên sỏi chia ra bắn vào năm người. Đá chưa tới nơi, bỗng thấy một làn hắc quang lóe lên, nghe soẹt một tiếng, ba món binh khí lập tức gãy đôi, trong năm người có bốn kẻ bị chém ngang lưng đứt thành tám khúc, văng ra tứ phía rơi xuống triền núi, riêng Trịnh trưởng lão chỉ bị đứt một cánh tay phải nằm lăn ra đất, trên lưng lại bị hai viên sỏi của Trương Vô Kỵ bắn trúng. Bốn gã bị chém chết kia cũng mỗi người bị trúng một viên nhưng vì bị đao chém trước, trúng đá sau thành thử Trương Vô Kỵ xuất thủ quả là thừa.

Biến cố đó xảy ra quá nhanh, ai nấy trong lòng kinh hãi. Chỉ thấy trong tay Tạ Tốn đã cầm một thanh đại đao đen sì, chính là thanh đao Đồ Long được người đời xưng là "võ lâm chí tôn". Ông ta thu đao về đứng ở trên đỉnh núi, uy phong lẫm lẫm, chẳng khác gì tướng nhà trời. Trương Vô Kỵ từ bé đã thấy thanh đao này rồi, nhưng không ngờ nó sắc bén uy mãnh đến thế. Kim Hoa bà bà lẩm bẩm:

- Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long! Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long!

Trịnh trưởng lão một cánh tay bị đứt, kêu rống lên như lợn bị chọc tiết. Trần Hữu Lượng mặt trắng bệch, lớn tiếng nói:

- Tạ đại hiệp võ công cái thế, thật là bội phục. Vị Trịnh trưởng lão kia xin cho xuống núi, tại hạ nguyện đền mạng cho y vậy xin Tạ đại hiệp cứ việc ra tay.

Lời nói ra ai nấy đều cảm động, không ngờ người này nghĩa khí thâm trọng đến thế, Trương Vô Kỵ trong lòng không khỏi thầm ngưỡng phục. Tạ Tốn nói:

- Trần Hữu Lượng, Ôi, ngươi quả thực là hảo hán, cứ ôm gã họ Trịnh này đi đi, ta không làm khó gì ngươi đâu.

Trần Hữu Lượng nói:

- Tại hạ xin cảm tạ đại ân tha cho không giết, thế nhưng Cái Bang có năm người chết dưới tay Tạ đại hiệp, nếu như trong vòng mười năm tại hạ học võ thành công, sẽ quay lại để báo ân trả oán mối thù này.

Tạ Tốn nghĩ thầm mình chỉ cần tiến lên một bước, bảo đao vung lên người này ắt khó mà thoát chết, trong lúc cực kỳ nguy hiểm như thế này mà vẫn còn dám nói đến chuyện sau này tầm cừu, quả là người hết sức can đảm, nên ông liền nói:

- Lão phu nếu như sống thêm được mười năm, xin được lãnh giáo.

Trần Hữu Lượng lại vòng tay hướng về Kim Hoa bà bà hành lễ nói:

- Cái Bang xâm nhập quí đảo, xin tạ tội.

Y cúi xuống ôm Trịnh trưởng lão lên, hiên ngang đi xuống chân núi.

Kim Hoa bà bà trừng mắt nhìn Trương Vô Kỵ, lạnh lùng hỏi:

- Lão già kia, thủ pháp đả huyệt của ngươi giỏi nhỉ? Sao ngươi lại ném ra tới bảy viên đá là sao? Có phải một viên định bắn vào Trần Hữu Lượng, còn một viên dành cho ta phải không?

Trương Vô Kỵ thấy bà ta nhìn ra ý định của mình bắn tới bảy viên sỏi, nhưng chưa nhìn ra bộ mặt thật, thành thử không trả lời, chỉ mỉm cười. Kim Hoa bà bà gay gắt nói tiếp:

- Lão già kia, tôn tính đại danh là gì? Sao lại giả làm thủy thủ đi theo lão bà, là cớ làm sao? Ngươi giở trò trước mặt lão bà bộ không muốn sống nữa ư?

Trương Vô Kỵ không quen nói láo, ngẩn người ra không biết trả lời sao cho phải.

Triệu Mẫn giả vờ khàn khàn đáp:

- Bọn ta Cự Kình bang vốn kiếm cơm ăn trên mặt biển, lâu nay không có tiền tiêu. Lão bà bà chịu trả giá cao, nên đành chở khách một chuyến. Vị huynh đệ này thấy bọn Cái Bang cậy đông hà hiếp người nên ra tay tương trợ, cũng là hảo ý thôi. Đâu ngờ Tạ đại hiệp võ công cao cường đến thế, bọn ta hóa ra thành người đa sự.

Nàng sửa giọng đàn ông nhưng vẫn the thé chói tai, cũng may là hóa trang kỹ lưỡng, mặt mày vàng vọt già cả, Kim Hoa bà bà chưa nhìn ra sơ hở nào. Tạ Tốn xua tay trái một cái nói:

- Đa tạ! Ôi, Kim Mao Sư Vương thật là hổ xuống đồng bằng[5] nay lại để đến cả Cự Kình bang giúp đỡ. Xa cách chốn giang hồ hai chục năm, trong võ lâm có bao người tài giỏi xuất hiện, ta còn quay về làm gì?

Ông nói mấy câu cuối cùng, giọng dường như tiêu tan ý chí, thật là cảm khái thê lương. Vừa rồi Trương Vô Kỵ bắn bảy viên sỏi ra, kình lực mạnh mẽ, trên đời hiếm có, Tạ Tốn nghe thật rõ ràng, kinh hãi không ngờ trong võ lâm nay lại có người ghê gớm đến thế, còn mình toàn nhờ thanh bảo đao Đồ Long mới thoát được bọn chuột nhắt kia vây đánh. Nhớ lại hơn hai mươi năm trước kia, ông một mình hùng phong trấn nhiếp quần hào nơi Vương Bàn Sơn đảo mà tưởng như ở kiếp nào.

Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, tiểu muội biết ông không muốn người ngoài giúp đỡ thành thử chẳng ra tay, tam ca không trách chứ?

Trương Vô Kỵ thấy bà ta gọi nghĩa phụ mình là "tam ca", cảm thấy ngạc nhiên, không biết ông đứng hàng thứ ba, nhưng xem tuổi tác, Kim Hoa bà bà xem ra còn già hơn. Lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:

- Có gì mà trách hay không trách? Lần này bà về Trung Nguyên, có nghe ngóng được tin tức gì của thằng bé Vô Kỵ của tôi không?

Trương Vô Kỵ trong lòng chấn động, cảm thấy bàn tay mềm mại bóp chặt tay mình, biết Triệu Mẫn không muốn mình đứng ra nhận. Vừa rồi chàng không nghe lời nàng bắn sỏi cứu viện, tuy cũng mạo muội nhưng vì quan thiết quá đáng không muốn nghĩa phụ bị người ta hiếp đáp, còn bây giờ có kiên nhẫn thêm một chút, cũng không có gì đáng lo cả.

Kim Hoa bà bà nói:

- Không có.

Tạ Tốn thở dài một tiếng, một lúc sau mới nói:

- Hàn phu nhân, chúng ta vốn là chỗ anh em, xin bà đừng lừa dối kẻ mù lòa này. Thằng con Vô Kỵ của tôi, có thực còn sống trên đời hay không?

Kim Hoa bà bà còn đang lưỡng lự chưa biết trả lời sao, Châu Nhi đột nhiên nói:

- Tạ đại hiệp ...

Kim Hoa bà bà vội giơ tay trái ra nắm chặt cổ tay nàng, trừng mắt nhìn khiến Châu Nhi không dám nói tiếp. Tạ Tốn hỏi:

- Ân cô nương, cô nói đi, nói đi! Có phải bà bà muốn lừa tôi, phải không?

Châu Nhi hai hàng nước mắt ròng ròng chảy xuống, Kim Hoa bà bà giơ tay phải lên để lên trên đỉnh đầu nàng, Châu Nhi chỉ nói một câu không hợp ý bà ta sẽ nhả nội lực ra là nàng chết ngay. Châu Nhi nói:

- Tạ đại hiệp, bà bà không lừa đại hiệp đâu, lần này chúng tôi về Trung Nguyên không nghe tin tức gì của Trương Vô Kỵ cả.

Kim Hoa bà bà nghe nàng nói thế mới bỏ tay ra khỏi đầu nàng nhưng vẫn nắm chặt cổ tay. Tạ Tốn nói:

- Như thế các ngươi nghe được tin tức gì? Minh giáo ra sao? Những anh em cũ bây giờ thế nào rồi?

Kim Hoa bà bà đáp:

- Không biết nữa. Chuyện trên giang hồ tôi không hỏi tới làm gì. Tiểu muội chỉ đi tìm gã đầu đà giết hại chồng tôi để thanh toán thôi, rồi đi tìm Diệt tuyệt lão ni của phái Nga Mi báo thù một kiếm lúc trước, còn những chuyện khác, lão bà này đều để ngoài tai.

Tạ Tốn giận dữ nói:

- Giỏi nhỉ, Hàn phu nhân, hôm trước nơi Băng Hỏa đảo bà nói với tôi những gì? Bà bảo vợ chồng Trương ngũ đệ vì không chịu thổ lộ nơi tôi đang ẩn mình, bị người ta ép phải tự vẫn trên núi Võ Đương, còn thằng bé Vô Kỵ thành kẻ mồ côi không ai trông nom, lưu lạc giang hồ, đến đâu cũng bị người ta lăng nhục, thê thảm không để đâu cho hết, có phải thế không?

Kim Hoa bà bà nói:

- Đúng thế.

Tạ Tốn nói tiếp:

- Bà lại bảo y bị người ta đánh một Huyền Minh thần chưởng, ngày đêm khổ sở dày vò, chính bà gặp y tại Hồ Điệp Cốc, bảo y đi đảo Linh Xà nhưng nó không chịu, có phải thế không?

Kim Hoa bà bà đáp:

- Đúng thế, nếu tôi nói sai thì trời tru đất diệt, Kim Hoa bà bà không bằng những kẻ vô lại trên chốn giang hồ, chồng tôi chết rồi cũng không yên ổn.

Tạ Tốn gật đầu nói:

- Ân cô nương, còn cô thì nói sao?

Châu Nhi đáp:

- Cháu nói là lúc đó hết sức khuyên y lên đảo Linh Xà, y đã không nghe, ngược lại còn cắn cháu một cái. Trên lưng bàn tay cháu vẫn còn vết răng đây, lời đó không thể nào sai được. Cháu ... cháu vẫn nhớ y lắm.

Bàn tay Triệu Mẫn đang nắm Vô Kỵ bỗng bóp một cái, đưa mắt lườm y, ánh mắt vừa có vẻ chế riễu, vừa có vẻ giận dỗi, dường như muốn nói: "Anh dấu tôi giỏi ghê! Thì ra cô nương này biết anh từ bao giờ, hai người lại còn bao nhiêu là chuyện khác nữa". Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên, nghĩ đến mối tình lạ lùng của Châu Nhi đối với mình, vừa cảm thấy êm đềm, vừa cảm thấy chua xót.

Đột nhiên Triệu Mẫn cầm tay Trương Vô Kỵ đưa lên mồm cắn lên lưng bàn tay chàng một cái rõ đau. Bàn tay Trương Vô Kỵ máu ứa ra nhưng lực đề ngự của Cửu Dương thần công trong cơ thể lập tức bật ra khiến miệng nàng cũng máu chảy ròng ròng. Tuy thế hai người đền cố nhịn không kêu.

Trương Vô Kỵ quay qua nhìn Triệu Mẫn, không hiểu sao nàng tự nhiên lại cắn mình, thấy ánh mắt nàng đầy vẻ vui sướng, đôi má ửng hồng như hoa mùa xuân, tuy trên miệng có gắn bộ râu giả nhưng vẫn không dấu được vẻ xinh tươi khiến chàng lòng đầy ngờ vực, không hiểu vì sao.

Tạ Tốn nói tiếp:

- Giỏi nhỉ! Hàn phu nhân, tôi chỉ vì lo lắng cho thằng bé Vô Kỵ cô đơn khổ sở nên mới vạn dặm xa xôi từ Băng Hỏa đảo về lại Trung Nguyên. Bà đã bằng lòng đi nghe ngóng tin tức thằng bé cho tôi, sao không giữ lời?

Trương Vô Kỵ hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi, bây giờ mới hay nghĩa phụ tuy biết đâu đâu cũng có kẻ thù, nhưng lại không nề nguy hiểm quay lại Trung Nguyên hóa ra cũng chỉ vì mình. Kim Hoa bà bà nói:

- Hôm đó chúng ta đã nói rõ rồi, tôi đi tìm Trương Vô Kỵ cho ông, ông cho tôi mượn thanh đao Đồ Long. Tạ tam ca, nếu ông cho tôi mượn đao, lão bà này một lời nặng như núi, ắt sẽ đi dò hỏi tin tức thiếu niên đó cho ông.

Tạ Tốn lắc đầu:

- Bà cứ tìm Vô Kỵ lại đây, lập tức tôi đưa đao cho bà mượn.

Kim Hoa bà bà lạnh lùng đáp:

- Ông không tin tôi ư?

Tạ Tốn nói:

- Chuyện ở trên đời này khó nói lắm. Thân thiết như cha con, anh em cũng có khi còn không tin được nhau nữa là.

Trương Vô Kỵ biết ông nhớ lại chuyện Thành Côn, trong lòng không khỏi chua xót. Kim Hoa bà bà nói:

- Thế sao ông lại không cho tôi mượn đao trước đi?

Tạ Tốn nói:

- Tôi thả cho Trần Hữu Lượng của Cái Bang hạ sơn, từ nay đảo Linh Xà này không một ngày nào yên, không biết bao nhiêu kẻ thù trong võ lâm tới đây kiếm tôi gây sự. Kim Mao Sư Vương nay đâu còn như ngày xưa, ngoài thanh đao Đồ Long này ra, không còn biết nương tựa vào đâu, ha ha ...

Ông ta đột nhiên cười khan mấy tiếng, quay sang hỏi:

- Hàn phu nhân, vừa rồi năm người vây đánh tôi, ngay cả vị hảo hán của Cự Kình bang cũng cầm sẵn trong tay bảy viên sỏi, không lẽ bà không có ý hại tôi hay sao? Bà chỉ mong tôi táng mạng dưới tay bọn Cái Bang, thế là tiến lên thu lợi. Tạ Tốn mắt tuy mù nhưng lòng đâu đã mù. Hàn phu nhân, tôi hỏi lại bà một câu: Tạ Tốn đến đảo Linh Xà vốn thật là kín đáo, làm sao người của Cái Bang lại biết được?

Kim Hoa bà bà nói:

- Tôi cũng đang muốn tìm hiểu cho rõ ràng tại sao.

Tạ Tốn giơ tay búng lên thanh đao Đồ Long một cái, đút trở lại vào trong trường bào, nói:

- Bà không chịu đi tìm Vô Kỵ cho tôi, cái đó cũng tùy bà thôi. Tạ Tốn này sẽ trở lại giang hồ, làm cho một trận nghiêng trời lệch đất.

Nói xong ông ngửng mặt lên trời hú lên một tiếng dài, nhảy vọt lên theo phía triền núi phía tây chạy xuống. Chỉ thấy bước chân ông ta nhanh nhẹn, chạy thẳng về một ngọn núi ở phía bắc. Trên núi đó có một cái lều tranh trơ trọi, hẳn là nơi ở của ông ta.

*

* *

Kim Hoa bà bà đợi Tạ Tốn đi rồi, quay lại trừng mắt nhìn Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn quát:

- Cút đi.

Triệu Mẫn dắt tay Trương Vô Kỵ, lập tức xuống núi, trở lên thuyền. Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi muốn đi thăm nghĩa phụ.

Triệu Mẫn đáp:

- Khi nghĩa phụ anh ra đi, mắt Kim Hoa bà bà lộ hung quang, anh không thấy sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi không sợ bà ta.

Triệu Mẫn nói:

- Tôi xem trên đảo này có rất nhiều điều ngụy bí. Người của Cái Bang sao lại tụ tập nơi đây là sao? Kim Hoa bà bà làm sao biết được nơi ở của nghĩa phụ anh? Làm sao kiếm ra được Băng Hỏa đảo? Bên trong quả có nhiều chỗ chưa hiểu được. Anh tới một chưởng đánh chết Kim Hoa bà bà không có gì khó nhưng những điều đó sẽ không bao giờ có câu trả lời minh bạch.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi đâu có định giết Kim Hoa bà bà, chì vì nghĩa phụ nhớ tôi quá, tôi phải đi gặp ông ta ngay.

Triệu Mẫn lắc đầu:

- Hai người xa cách nhau mười năm, đợi thêm một hai ngày thì đã sao. Trương công tử, để tôi nói cho anh nghe, bọn mình phải đề phòng Kim Hoa bà bà là chuyện dĩ nhiên rồi, nhưng cũng còn phải đề phòng luôn cả Trần Hữu Lượng.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Gã Trần Hữu Lượng ư? Người này thật là nghĩa khí, quả là một trang hán tử.

Triệu Mẫn nói:

- Trong bụng anh có thật sự nghĩ thế không? Anh không đánh lừa tôi đấy chứ?

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Đánh lừa cô ư? Gã Trần Hữu Lượng cam chịu chết thay cho Trịnh trưởng lão, cái đó quả thật là hiếm có.

Triệu Mẫn chăm chăm nhìn chàng, thở dài một tiếng nói:

- Trương công tử ơi là Trương công tử, anh là giáo chủ Minh giáo, muốn thống suất bao nhiêu là anh hùng hào kiệt, mưu toan việc lớn, lại dễ bị người ta đánh lừa đến vậy, thì làm sao được?

Trương Vô Kỵ càng ngạc nhiên hỏi lại:

- Người ta đánh lừa?

Triệu Mẫn nói:

- Gã Trần Hữu Lượng kia rõ ràng đánh lừa Tạ đại hiệp, mắt anh nhìn từ đầu chí cuối vậy mà không thấy hay sao?

Trương Vô Kỵ nhảy nhổm lên:

- Y lừa nghĩa phụ tôi?

Triệu Mẫn nói:

- Khi đó Tạ đại hiệp vung đao lên một cái, cao thủ Cái Bang bốn chết một bị thương, gã Trần Hữu Lượng kia võ công có cao cách mấy cũng chưa chắc tránh nổi một nhát chém của đao Đồ Long. Ở vào hoàn cảnh đó, nếu không tiến lên đánh thí mạng thì chỉ còn cách quì xuống van xin. Thế nhưng anh thử nghĩ, Tạ đại hiệp không muốn cho hành tung của mình bị người ta biết được, Trần Hữu Lượng dù có rập đầu ba trăm cái cũng chưa chắc đã khiến cho ông ta mềm lòng, trừ việc giả vờ nhân hiệp trọng nghĩa, còn có cách nào khác đâu?

Nàng vừa nói vừa thoa lên vết thương trên lưng bàn tay Vô Kỵ một chút thuốc cao, lấy khăn tay của mình buộc lại. Trương Vô Kỵ nghe nàng giải thích cảnh ngộ của Trần Hữu Lượng, xem ra không sai chút nào, nhưng nghĩ lại lúc đó Trần Hữu Lượng hiên ngang trình bày, trong lối nói không có chút gì là giả dối, chàng không khỏi bán tín bán nghi.

Triệu Mẫn nói tiếp:

- Thôi được, tôi hỏi anh thêm câu này: Khi Trần Hữu Lượng nói với Tạ đại hiệp mấy câu đó, hai tay y làm gì, hai chân y làm gì?

Khi Trương Vô Kỵ nghe Trần Hữu Lượng nói, lúc thì chàng nhìn vào mặt y, lúc thì quay qua nhìn nghĩa phụ, đâu có để ý tay chân y ra sao nhưng toàn thân y vẫn nhìn thấy hết, người ngoài không nhắc đến thì chàng cũng chẳng nhớ ra nhưng Triệu Mẫn bây giờ hỏi đến, hình ảnh đó lại quay trở lại nên nói:

- Ồ, gã Trần Hữu Lượng đó tay phải hơi giơ lên, tay trái giơ ngang, chính là chiêu "Sư Tử Bác Thố"[6], còn hai chân y ư? Ồ, đúng rồi, đó là "Hàng Ma Thích Đẩu Thức". Hai chiêu đó đều là quyền pháp của phái Thiếu Lâm, cũng không phải là chiêu gì tệ hại đâu. Chẳng lẽ y giả vờ cầu tình với nghĩa phụ tôi nhưng lại định bụng đánh lén hay sao? Chuyện đó xem ra không đúng, hai chiêu đó đâu có thể dùng được.

Triệu Mẫn cười khẩy nói:

- Trương công tử, lòng dạ con người trên đời này hiểm ác anh chẳng biết gì cả. Dẫu cho Trần Hữu Lượng võ công cao cường đến mấy, đánh lén Tạ đại hiệp đâu có thể thành công? Người đó thông minh cơ trí, quả là một nhân tài hạng nhất, sao lại không biết như thế? Nếu việc y giả vờ nghĩa khí thâm trọng kia bị Tạ đại hiệp khám phá ra, không tha mạng cho y, ở vào chỗ y đang đứng lúc đó thì chiêu "Hàng Ma Thích Đẩu Thức" đá vào ai? Còn chiêu "Sư Tử Bác Thố" kia chộp người nào?

Trương Vô Kỵ chỉ nghĩ đến chuyện tốt cho người khác chưa bao giờ tìm hiểu gian kế của Trần Hữu Lượng ra sao, nay Triệu Mẫn đề cập đến, trong óc chợt bừng lên, lưng toát mồ hôi, run run nói:

- Y ... y định đá vào Trịnh trưởng lão, còn giơ tay định chộp Ân cô nương.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Đúng rồi. Y định là đá Trịnh trưởng lão vào Tạ đại hiệp, tiếp theo chộp luôn người có tình thanh mai trúc mã, cắn tay ước định với anh là Ân cô nương đẩy về phía Tạ đại hiệp, như thế sẽ hoãn lại được một chút để y có cơ hội chạy thoát thân. Tuy nhiên Tạ đại hiệp thần công cái thế, tay cầm bảo đao, kế đó chưa chắc đã thành công nhưng trừ cách đó ra không còn biện pháp nào khác. Nếu như là tôi, cũng chỉ làm như y thôi, cho đến lúc này tôi cũng chưa nghĩ ra được cách nào khác cả. Người này chỉ trong khoảnh khắc mà đã mưu mẹo như thế, quả là một nhân vật ghê gớm.

Nói xong nàng tấm tắc khen mãi. Trương Vô Kỵ càng nghĩ càng thấy e ngại, trên đời này lòng người hiểm độc, chàng từ bé đã chứng kiến nhiều, nhưng người ghê gớm như Trần Hữu Lượng, quả là ít thấy, một lát sau mới nói:

- Triệu cô nương, cô chỉ nhìn qua đã thấy ngay mưu kế của y, xem ra cô cũng chẳng kém gì đâu.

Mặt Triệu Mẫn sầm xuống, hỏi:

- Anh định mỉa mai tôi đấy chăng? Nói cho anh hay, nếu anh ngại tôi tâm địa hiểm ác thì tránh xa tôi ra là hơn.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Chẳng cần phải thế. Cô đã sử dụng ngụy kế nhiều lần với tôi rồi, việc gì tôi cũng phải đề phòng cho chắc.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Anh bảo anh đề phòng? Thế sao tôi bôi thuốc độc lên lưng bàn tay anh, anh không biết?

Trương Vô Kỵ kinh hãi, quả nhiên vết thương thấy hơi ngứa xem ra có gì khác lạ, vội vàng cởi khăn ra, giơ tay đưa lên mũi ngửi, kêu lên:

- Ối chao!

Chàng biết là Triệu Mẫn đã bôi Khứ Hủ Tiêu Cơ Cao lên tay mình, là loại thuốc cao để tiêu trừ thịt bị thối, tuy không phải là thuốc độc nhưng bôi lên sẽ làm cho vết thương càng loét ra sâu thêm. Loại thuốc này vốn dĩ có mùi hăng hăng, Triệu Mẫn trộn với son môi, lại dùng khăn tay bao lại, mùi thơm át cả mùi thuốc khiến chàng không nhận ra. Trương Vô Kỵ vội chạy ra sau thuyền lấy nước rửa sạch, Triệu Mẫn đi theo, cười khúc khích giúp chàng vẩy nước lên. Trương Vô Kỵ đẩy cô gái ra, hậm hực nói:

- Tránh xa tôi ra, nghịch ác thế chưa đủ hay sao? Cô tưởng tôi không biết đau ư?

Triệu Mẫn cười khanh khách nói:

- Thật đúng là lấy oán báo ơn, tôi sợ anh đau nhiều nên mới làm ra thế.

Trương Vô Kỵ không thèm để ý đến nàng, mặt hầm hầm quay về trong khoang thuyền, nhắm mắt lại. Triệu Mẫn cũng đi theo sau, gọi khẽ:

- Trương công tử.

Trương Vô Kỵ giả vờ ngủ, Triệu Mẫn lại gọi thêm hai tiếng nữa, chàng vẫn làm thinh. Cô gái thở dài:

- Nếu biết thế tôi bôi thuốc độc thật cho anh chết luôn còn hơn là để anh không ngó ngàng gì tới tôi.

Trương Vô Kỵ mở mắt ra nói:

- Cái gì mà "lấy oán báo ơn", cô nói thử xem nào?

Triệu Mẫn cười nói:

- Nếu tôi giải thích cho anh chịu phục thì làm sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô mồm năm miệng mười, tôi làm sao nói lại cô được.

Triệu Mẫn lại cười:

- Anh chưa nghe tôi nói gì mà đã không tin rồi, có biết đâu tôi chỉ vì tốt bụng với anh đấy thôi.

Trương Vô Kỵ hứ một tiếng nói:

- Trên đời này ai có ai lại tốt bụng như cô? Chẳng duyên cớ gì cắn chảy máu tay tôi ra thì cũng còn được, lại còn bôi thuốc độc lên, quả thật tôi không chịu nổi lòng tốt của cô nữa.

Triệu Mẫn nói:

- Ừ, thế tôi hỏi anh: tôi cắn anh đau hơn hay anh cắn Ân cô nương đau hơn?

Trương Vô Kỵ mặt mày bẽn lẽn nói:

- Cái ... cái đó lâu lắm rồi, nhắc tới làm gì?

Triệu Mẫn nói:

- Tôi cứ nhắc đến. Tôi hỏi anh anh đừng có lảng qua chuyện khác.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thì cứ coi như tôi cắn Ân cô nương đau hơn đi. Thế nhưng cô ta nắm tay tôi, lúc đó võ công tôi không bằng, không thể nào thoát thân được, trẻ con gấp rút hoảng hốt chỉ đành cắn một cái. Còn cô đâu có phải trẻ con, tôi cũng đâu có nắm tay cô bắt cô đi lên đảo Linh Xà?

Triệu Mẫn cười:

- Lạ nhỉ, lúc đó cô ta nắm tay anh muốn anh đi lên đảo Linh Xà, anh nhất định không đi. Thế sao lúc này người ta không mời anh, anh lại lót tót đi theo là sao? Hay là người lớn rồi lòng cũng lớn theo, cái gì cũng biến đổi cả.

Trương Vô Kỵ mặt lại đỏ lên, cười nói:

- Cái này là cô bảo tôi đi đấy chứ.

Triệu Mẫn nghe chàng nói thế cũng thấy thẹn thùng, lòng dâng lên một nỗi êm đềm, tưởng như Trương Vô Kỵ muốn nói: "Cô ta bắt tôi đi, tôi thà chết cũng không đi, còn cô bảo tôi đi thì tôi đi ngay".

Hai người lặng yên không ai nói thêm câu nào, ánh mắt vừa chạm nhau, vội vàng quay đầu ra chỗ khác. Triệu Mẫn cúi đầu nói nhỏ:

- Thôi được, để em nói cho nghe, năm xưa anh cắn Ân cô nương một cái, thế mà bao lâu nay cô ấy vẫn khắc khoải nhớ thương anh, em nghe cô ta nói thế cũng sợ người khác quên mình. Thành ra em cắn anh một cái, cũng chỉ cốt để anh đừng bao giờ quên em cả.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói thế, hiểu ngay thâm ý của Triệu Mẫn, trong lòng cảm động nhưng không dám nói ra lời. Triệu Mẫn nói tiếp:

- Em nhìn vết sẹo trên lưng bàn tay cô ta, thấy anh cắn sâu lắm. Em nghĩ vết cắn càng sâu, thì nhớ càng lâu nên cũng định cắn anh thật đau nhưng lòng không nỡ, còn cắn nhè nhẹ thì lại sợ anh rồi sẽ quên em thôi. Nghĩ đi nghĩ lại, chỉ còn nước cắn anh một cái, sau đó bôi "Khứ Hủ Tiêu Cơ Tán" để cho vết thương loét ra to hơn.

Trương Vô Kỵ nghe thấy thật tức cười, nghĩ lại nàng làm ra như thế cũng chỉ vì cảm tình sâu xa đối với mình, thở dài một tiếng, ôn tồn nói:

- Tôi cũng không trách cô đâu. Thế ra chính tôi mới là kẻ "lấy oán báo ơn". Cô đối với tôi như thế, dù có thế nào chăng nữa, tôi cũng không bao giờ quên cô cả.

Triệu Mẫn đang ôn nhu bẽn lẽn, nghe chàng nói vậy, ánh mắt liền lộ vẻ tinh quái, cười hỏi:

- Anh nói "em đối với tôi như thế" là nói em tốt với anh hay là em không tốt với anh? Trương công tử, em đối với anh nhiều điều không ra gì, còn đã có gì tốt với anh đâu.

Trương Vô Kỵ nói:

- Từ nay về sau cô đối với tôi tốt là được rồi.

Chàng cầm tay nàng đưa lên môi, cười nói:

- Để tôi cắn một cái cho cô suốt đời không quên tôi.

Triệu Mẫn đột nhiên hổ thẹn, vội giựt tay chạy ra khỏi khoang thuyền. Nàng vừa mở cửa đụng ngay phải Tiểu Siêu đứng đó, giật mình nghĩ thầm: "Ôi chao, những gì ta nói với chàng con tiểu a đầu này nghe thấy hết, xấu hổ muốn chết được". Mặt nàng đỏ bừng vội vàng chạy lên trên sàn.

Tiểu Siêu đến trước mặt Trương Vô Kỵ nói:

- - Công tử gia, em thấy Kim Hoa bà bà và cô gái xấu xí kia mới đi ra, hai người trên lưng ai cũng vác một cái bọc to, không biết họ làm trò quỉ gì.

Trương Vô Kỵ ồ một tiếng, từ nãy giờ chàng cùng Triệu Mẫn nói chuyện đùa với nhau toàn chuyện riêng tư, nay thấy Tiểu Siêu không khỏi xấu hổ, mặt ngẩn ra một lát mới nói:

- Có phải họ đi về căn nhà nhỏ ở hòn núi phía bắc chăng?

Tiểu Siêu đáp:

- Không phải, hai người đi về hướng bắc thật nhưng không trèo lên núi, dường như đang tranh cãi điều gì. Kim Hoa bà bà xem chừng có vẻ bực tức lắm.

Trương Vô Kỵ chạy xuống đằng sau, thấy Triệu Mẫn ở xa xa nơi đầu thuyền đứng thẫn thờ nhìn ra biển. Chàng nghe tiếng sóng bập bềnh vỗ vào mạn thuyền, cũng thấy trong lòng dạt dào, trồi lên hụp xuống không sao bình tĩnh được. Một hồi thật lâu, khi vầng thái dương đã chìm hẳn xuống những đợt sóng ở phía tây, cây cối trên đảo dần dần thẫm lại, bấy giờ chàng mới quay vào trong khoang thuyền.

Trương Vô Kỵ ăn cơm tối xong, quay sang nói với Triệu Mẫn và Tiểu Siêu:

- Tôi đi thăm dò nghĩa phụ, hai cô ở lại thuyền để khỏi đông người khiến Kim Hoa bà bà có thể phát giác được.

Triệu Mẫn nói:

- Vậy anh chờ thêm một canh nữa cho thật tối rồi hãy đi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Được.

Chàng mong nhớ nghĩa phụ, trong lòng nóng như lửa đốt, một canh đó thật là khó chịu. Đợi đến khi chung quanh tối đen cả, chàng liền đứng dậy, mỉm cười nhìn Tiểu Siêu và Triệu Mẫn, dợm bước ra khỏi khoang thuyền. Triệu Mẫn cởi thanh Ỷ Thiên kiếm đeo ở lưng ra nói:

- Trương công tử hãy đeo thanh kiếm này phòng thân.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên nói:

- Cô cứ giữ lấy đi.

Triệu Mẫn nói:

- Không, anh đi chuyến này em không an tâm.

Trương Vô Kỵ cười:

- Có gì mà không an tâm?

Triệu Mẫn nói:

- Em cũng không nói ra được. Kim Hoa bà bà kỳ quái không biết thế nào, Trần Hữu Lượng cũng nhiều ngụy kế, chẳng biết nghĩa phụ anh có tin anh là "thằng bé Vô Kỵ" hay không nữa ... Ôi, hòn đảo này tên là Linh Xà, không chừng lại còn những độc vật ghê gớm, huống chi thêm ...

Nàng nói tới đây, nín bặt không thêm gì nữa. Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Huống chi cái gì?

Triệu Mẫn đưa tay mình lên, giả vờ như cắn một cái, cười hì hì, mặt đỏ lên. Trương Vô Kỵ biết nàng nói tới biểu muội Ân Ly, xua xua tay, đi ra cửa khoang. Triệu Mẫn gọi to:

- Đón lấy.

Nói rồi nàng thẩy thanh kiếm Ỷ Thiên lại cho Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ đón lấy thanh kiếm, trong lòng bồi hồi: "Nàng thật chẳng tiếc gì với ta, đến thanh kiếm Ỷ Thiên cũng đưa cho mượn". Chàng bèn gài thanh kiếm ra sau lưng, đề khí chạy tới mỏm núi ở phía bắc. Nhớ tới lời Triệu Mẫn, Vô Kỵ sợ trong cỏ có độc trùng rắn rít nên chỉ bước vào những nơi trống trải. Chỉ chừng uống xong một chén trà chàng đã đến chân núi, ngửng đầu nhìn lên thấy căn lều tối thui không đèn đóm gì cả, nghĩ thầm: "Nghĩa phụ chắc đi ngủ rồi". Thế nhưng chàng lại nghĩ ngay: "Lão nhân gia hai mắt đã mù, có cần gì đến đèn đuốc?". Ngay lúc đó, từ bên lưng chừng núi phía trái vọng qua tiếng người nói chuyện rì rầm. Chàng nép mình xuống, theo hướng âm thanh lần tới nhưng lại không nghe thấy gì nữa.

Vừa lúc đó một trận gió bấc thổi tới khiến có cây cỏ xào xạc. Trương Vô Kỵ nhân tiếng gió vội vàng chạy vọt lên, thấy cách trước mặt chừng bốn, năm trượng tiếng Kim Hoa bà bà hạ giọng nói thật nhỏ:

- Sao chưa ra tay? Ngươi còn chần chừ gì nữa?

Ân Ly đáp:

- Bà bà làm thế này, xem chừng ... xem chừng không phải với bạn bè xưa. Tạ đại hiệp giao tình với bà mấy chục năm mới tin ở bà mà từ Băng Hỏa đảo về Trung Nguyên.

Kim Hoa bà bà cười khẩy:

- Hắn tin ta ư? Ngươi nói lạ nhỉ? Nếu quả thực y tin ở ta, sao không cho ta mượn thanh đao? Y về Trung Nguyên cốt để đi tìm nghĩa tử, có liên quan gì đến ta đâu nào!

Trong bóng đêm chỉ thấy mờ mờ bóng Kim Hoa bà bà khom lưng xuống, đột nhiên nghe keng một tiếng nho nhỏ như tiếng kim châm chạm vào đá núi, một lúc sau, lại có một tiếng như thế nữa. Trương Vô Kỵ lạ lùng nhưng sợ bị hai người phát giác nên không dám tiến lên nhìn cho rõ ràng. Lại nghe Ân Ly nói:

- Bà bà muốn đoạt thanh bảo đao sao không ra mặt giao chiến để khỏi mất đi thân phận anh hùng. Việc đang làm đây nếu như truyền ra chốn giang hồ, chẳng bị người ta sỉ tiếu hay sao? Diệt Tuyệt sư thái nay đã chết rồi, bà bà còn muốn lấy thanh đao làm gì nữa?

Kim Hoa bà bà giận quá, đứng thẳng người lên, gay gắt nói:

- Con nhãi kia, năm xưa ai cứu ngươi thoát khỏi bàn tay cha ngươi? Bây giờ ngươi khôn lớn, không còn nghe lời bà bà dặn dò nữa phải không? Gã Tạ Tốn kia không bà con thân thích gì với ngươi hết, sao ngươi cứ nhất định phải bênh y chầm chập là sao? Ngươi thử nói duyên cớ cho bà bà nghe xem nào?

Tuy giọng điệu chì chiết thế nhưng âm thanh vẫn rất nhỏ dường như sợ rằng trên đỉnh núi Tạ Tốn có thể nghe thấy được. Thực ra từ đó đến đây khoảng cách rất xa, nếu không dùng nội lực đẩy tiếng nói đi, dù có lớn tiếng kêu gào chưa chắc đã nghe thấy.

Ân Ly cầm cái bao trong tay ném phịch xuống đất, nghe leng keng leng keng một hồi, rồi lùi lại ba bước. Kim Hoa bà bà gắt lên:

- Gì thế? Ngươi đủ lông đủ cánh muốn bay đi phải không?

Tuy trời tối mịt, Trương Vô Kỵ vẫn nhìn thấy đôi mắt bà ta sáng quắc như điện đầy vẻ uy hiếp. Ân Ly nói:

- Bà bà, con quyết không quên ơn cứu mạng, ơn dạy dỗ võ công của bà bà. Thế nhưng Tạ đại hiệp là ... là nghĩa phụ của y.

Kim Hoa bà bà cười khan mấy tiếng, nói:

- Sao trên đời này lại có đứa ngu si đến như ngươi. Tên tiểu tử họ Trương kia đã rơi xuống vực sâu vạn trượng ở Tây Vực rồi, chính tai ngươi nghe thấy Võ Liệt, Võ Thanh Anh kể lại. Thế nhưng ngươi vẫn còn chưa tin hẳn, lại bắt cóc chúng tới đây khảo vấn thêm nữa, họ đã nói hết cả rồi, không lẽ còn giả hay sao? Đến bây giờ đến xương cốt của tiểu tử họ Trương cũng đã thành tro bụi, sao vẫn còn canh cánh không quên y là sao?

Ân Ly đáp:

- Bà bà, sao trong lòng con không sao quên y được. Hẳn là, như bà bà đã nói là ... là oan nghiệt kiếp trước đấy chăng?

Kim Hoa bà bà thở dài một tiếng, nói:

- Chẳng nói gì năm xưa thằng bé đó không chịu theo ngươi lên đảo Linh Xà, dẫu có cùng ngươi thành vợ thành chồng thì nó cũng chết rồi, còn chờ gì nữa? Cũng may nó chết sớm, chứ như hôm nay còn sống thấy ngươi hình dạng như thế này, làm sao còn yêu ngươi được? Lúc đó ngươi thấy y yêu thương người khác, trong bụng sẽ nghĩ sao?

Mấy câu đó giọng bà ta trở lại ôn hòa. Ân Ly lặng thinh không nói, hẳn là không biết phải trả lời sao. Kim Hoa bà bà lại nói tiếp:

- Chẳng nói chi người khác, riêng Chu cô nương của phái Nga Mi ta bắt giữ kia, xinh đẹp như thế, gã họ Trương nhìn thấy lẽ nào không động tâm? Ngươi giết Chu cô nương hay là giết tên tiểu tử ấy? Hừ hừ, nếu như ngươi không luyện cái môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ thì cũng là một tuyệt sắc giai nhân, nhưng bây giờ thì cái gì cũng đã xong cả rồi.

Ân Ly nói:

- Người đó chết rồi, tướng mạo con cũng đã hủy, còn gì để nói nữa đâu? Thế nhưng Tạ đại hiệp là nghĩa phụ của anh ta, bà bà ơi, mình không nên đụng chạm tới ông ta. Bà bà, con chỉ xin bà bà một chuyện thôi, còn việc gì con nghe bà bà cả.

Nói tới đây nàng quì xuống. Trương Vô Kỵ trong lòng lạ lùng: "Ta lên làm giáo chủ Minh giáo, việc đó đã chấn động võ lâm, sao hai người lại không biết gì cả là sao? Ôi, đúng rồi, chắc là họ đi lên Băng Hỏa đảo đón nghĩa phụ ta, đi về mất một thời gian dài, lần này lên Đại Đô rồi quay lại ngay, chẳng lai vãng với ai cả cho nên tên ta không hề nghe đến".

Kim Hoa bà bà trầm ngâm một hồi nói:

- Thôi được, ngươi đứng lên đi.

Ân Ly mừng rỡ nói:

- Đa tạ bà bà.

Kim Hoa bà bà nói:

- Ta nhận lời ngươi không giết y, nhưng thanh đao Đồ Long không lấy không được ...

Ân Ly nói:

- Thế thì ...

Kim Hoa bà bà liền cắt ngang, quát lên:

- Không được lôi thôi gì nữa, đừng để cho ta phải bực mình.

Nói xong giơ tay một cái, nghe keng một tiếng. Chỉ thấy bà ta hai tay giơ lên liên tiếp, mỗi lúc một xa, tiếng leng keng liên miên bất tuyệt còn Ân Ly ngồi trên một tảng đá, ôm mặt khóc rấm rứt.

Trương Vô Kỵ thấy nàng đối với mình sâu đậm như thế, trong lòng cực kỳ cảm kích. Một lúc sau, Kim Hoa bà bà ở cách xa khoảng mươi trượng quát lên:

- Đem lại đây.

Ân Ly không còn cách nào khác hơn, đành xách hai cái túi lên chạy lại phía Kim Hoa bà bà. Trương Vô Kỵ tiến lên mấy bước, cúi đầu xem, kinh hãi không để đâu cho hết, thấy cứ cách hai ba thước lại có một cái kim dài chừng bảy tám tấc cắm trên mặt đá, đầu nhô lên sáng lấp lánh bén nhọn lạ thường. Chàng càng nghĩ càng ghê người, hẳn là Kim Hoa bà bà sẽ đến khiêu chiến với Kim Mao Sư Vương nhưng sợ không địch lại, bắn ám khí thì sợ Tạ Tốn sẽ nghe tiếng gió mà tránh được, nên cắm kim châm dưới đất, vô thanh vô tức, chỉ cần dụ được ông ta tiến vào vùng đã dàn sẵn, người mù cả hai mắt làm sao đề phòng? Chàng lửa giận bốc lên nhịn không nổi, giơ tay toan nhổ các kim ra để cho âm mưu của bà ta xôi hỏng bỏng không nhưng chợt nghĩ lại: "Mụ ác bà này gọi nghĩa phụ ta là Tạ tam ca, ngày xưa giao tình của hai người hẳn không phải tầm thường. Để đến khi mụ đoạn tình với nghĩa phụ ta rồi, ta sẽ bước ra phá quỉ kế của bà ta. Hôm nay trời cho Trương Vô Kỵ này ở đây quyết không để cho nghĩa phụ bị thương tổn".

Nghĩ thế chàng bèn ngồi bó gối đằng sau tảng đá, đợi xem biến chuyển ra sao. Bỗng nghe trong tiếng gió núi dường như có lá rơi, một kẻ khinh công cao cường đang lặng lẽ tiến tới. Chàng quay đầu nhìn lại, thấy gã kia lấp ló đi tới, chính là tên trưởng lão Cái Bang Trần Hữu Lượng, tay cầm loan đao nhưng lấy vải bao lại cho khỏi sáng. Chàng nghĩ thầm Triệu Mẫn liệu không sai, gã này quả không phải là người tốt.

Chỉ nghe Kim Hoa bà bà thở dài một tiếng nói:

- Tạ tam ca, có tên cẩu tặc không sợ chết đi kiếm ông đó.

Trương Vô Kỵ giật mình không ngờ Kim Hoa bà bà lợi hại đến thế, chẳng lẽ tung tích của mình bà ta đã biết rồi chăng, cứ theo lý thì không thể nào biết được. Chỉ thấy Trần Hữu Lượng nằm phục trong đám cỏ không động đậy chút nào. Trương Vô Kỵ lại nhún mình mấy cái đã tiến lên thêm vài trượng nữa. Chàng muốn càng gần bên nghĩa phụ càng tốt để phòng Kim Hoa bà bà đột nhiên giở ngụy kế cứu viện không kịp.

Qua một lúc nữa, một bóng người cao lớn từ căn nhà nhỏ trên đỉnh núi bước ra, chính là Tạ Tốn. Ông từ từ đi xuống, còn cách Kim Hoa bà bà chừng vài trượng liền đứng lại, không nói một lời. Kim Hoa bà bà nói:

- Ha ha, Tạ tam ca, ông đối với cố nhân thì nhất mực đề phòng, còn đối với người ngoài thì lại quá cả tin. Hôm nay ông thả Trần Hữu Lượng ra, bây giờ gã lại đến kiếm ông đó.

Tạ Tốn lạnh lùng cười nói:

- Minh thương dị đóa, ám tiễn nan phòng[7]. Tạ Tốn này một đời lúc nào chả bị người ta lợi dụng. Tên Trần Hữu Lượng kia đến kiếm tôi để làm gì thế?

Kim Hoa bà bà nói:

- Cái bọn tiểu nhân gian xảo đó, nói tới làm gì? Sáng hôm nay khi ông tha mạng cho y, có biết tay chân y chuẩn bị chiêu thức gì không? Hai tay y thành thế Sư Tử Bác Thố, còn chân tập trung sức lực toan ra chiêu Hàng Ma Thích Đẩu Thức, ha ha, ha ha.

Bà ta nói nghe thanh tao dễ nghe nhưng tiếng cười lại như tiếng cú rúc, trong đêm vắng thật là thê lương. Tạ Tốn ngạc nhiên, biết lời Kim Hoa bà bà không phải là giả, chỉ vì mắt mù nên ông không nhìn thấy những gì Trần Hữu Lượng làm. Ông thản nhiên nói:

- Tạ Tốn này bị người ta lừa dối đâu phải chỉ mới lần đầu. Cái bọn tiểu nhân đó trên giang hồ bao nhiêu mà chẳng có, giết thêm một đứa hay ít đi một đứa có gì khác đâu? Hàn phu nhân, nếu như bà còn coi là bạn của tôi, lúc đó thấy lại để mặc, lúc này lại nói cho tôi nghe, có ý chọc tức tôi hay sao?

Nói tới đây, đột nhiên tung mình nhảy lên nhanh như chớp tới ngay trước mặt Trần Hữu Lượng. Trần Hữu Lượng kinh hãi vung đao lên chém, Tạ Tốn tay trái giơ ra đoạt luôn thanh đao, bốp bốp bốp tát cho y ba cái liền, tay phải nắm cổ giơ lên nói:

- Nếu lúc này ta giết ngươi, có khác gì giết con gà, nhưng Tạ Tốn đã nói trước, hẹn với ngươi mười năm nữa quay lại kiếm ta. Nếu còn để ta gặp lần nữa trên hòn đảo này ta sẽ lấy cái mạng chó của ngươi ngay.

Ông giơ tay vứt y ra ngoài. Nơi Trần Hữu Lượng sắp rơi xuống chính là nơi cắm đầy kim, một khi đụng đất thể nào cũng bị kim đâm phải, gian kế của Kim Hoa bà bà bố trí suốt đêm qua sẽ bị lộ mất. Bà ta liền phi thân tới trước, giơ quài trượng điểm vào hông y một cái, đẩy vọt y ra ngoài mấy trượng, quát lên:

- Ngươi mà còn đặt chân lên đảo Linh Xà này một bước, ta sẽ giết một trăm tên ăn mày của Cái Bang. Kim Hoa bà bà này nói là giữ lời, hôm nay thưởng cho ngươi một bông kim hoa trước.

Mụ giơ tay lên, một điểm vàng lấp lánh, nghe cạch một tiếng một bông kim hoa đã trúng ngay huyệt Giáp Xa trên má Trần Hữu Lượng khiến y không nói năng gì được để khỏi tiết lộ chuyện cơ mật. Trần Hữu Lượng giơ tay ôm má, vội chạy xuống núi.

Khi đó Tạ Tốn chỉ còn cách vùng cắm kim chừng vài trượng, thành ra Trương Vô Kỵ lại ở đằng sau lưng ông ta. Nội công Trương Vô Kỵ cao hơn Trần Hữu Lượng nhiều, chàng nín hơi khiến Kim Hoa bà bà và Tạ Tốn không hề hay biết chàng nằm ngay bên cạnh.

Kim Hoa bà bà quay lại khen:

- Tạ tam ca, ông dùng tai thay mắt không kém chút nào, từ nay trùng chấn hùng phong tung hoành trên giang hồ thêm hai chục năm nữa.

Tạ Tốn nói:

- Ta đâu có nghe được Sư Tử Bác Thố và Hàng Ma Thích Đẩu Thức? Chỉ cần biết tin của thằng con Vô Kỵ thôi ta có chết cũng nhắm mắt. Tạ Tốn này nợ máu ngập đầu, chết hẳn phải thảm khốc lắm nói gì chuyện tung hoành trên chốn giang hồ?

Kim Hoa bà bà cười nói:

- Hộ giáo pháp vương của Minh giáo, giết vài mạng người có kể vào đâu? Tạ tam ca, ông đưa thanh đao Đồ Long cho tôi mượn đi.

Tạ Tốn lắc đầu không trả lời. Kim Hoa bà bà lại nói:

- Nơi đây hình tích đã lộ rồi, ông không còn ở lại được nữa. Để tôi đi tìm một nơi kín đáo, đưa ông đến ở vài tháng, tôi mang thanh đao Đồ Long đi đánh thắng đại địch phái Nga Mi rồi, sẽ hết sức đi tìm Trương công tử. Với bản lãnh của tôi, đem Trương công tử đến gặp ông không phải là chuyện khó.

Tạ Tốn lại lắc đầu. Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, ông có còn nhớ đến tám chữ Tứ Đại Pháp Vương, Tử Bạch Kim Thanh chăng? Nghĩ lại năm xưa chúng ta cùng ở dưới quyền Dương giáo chủ, Ưng Vương Ân nhị ca, Bức Vương Vi tứ ca, thêm ông và tôi, hoành hành thiên hạ, có ai dám chống trả đâu? Đến nay con hổ tuy có già nhưng hùng tâm đâu đã mất, sao ông lại để cho người ta khinh khi đứa em gái Tử Sam này mà không ra tay giúp là sao?

Trương Vô Kỵ giật mình: "Nghe bà ta nói, chẳng lẽ bà ta là Tử Sam Long Vương, đứng đầu trong tứ đại pháp vương của bản giáo? Sao trên đời này lại có chuyện lạ thế bao giờ? Tại sao bà ta lại gọi Vi Bức Vương là tứ ca?".

Chỉ nghe Tạ Tốn bùi ngùi nói:

- Chuyện cũ nay còn nhắc lại làm gì? Già cả rồi, ai cũng già cả rồi.

Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, tôi già nhưng mắt đâu đã hoa, chẳng lẽ không thấy hai mươi năm qua võ công ông tiến triển rất nhiều hay sao? Ông việc gì phải khiêm tốn? Mình còn sống được bao lâu nữa trên cõi đời này? Cứ theo tiểu muội, nhân khi tứ đại pháp vương của Minh giáo chưa ai chết, lại liên thủ giang hồ làm một sự nghiệp thật là oanh liệt.

Tạ Tốn thở dài:

- Ân nhị ca và Vi tứ đệ lúc này chắc gì còn sống. Nói riêng Vi tứ đệ, hàn độc trong cơ thể y khó mà trừ, chỉ sợ không còn trên đời này nữa.

Kim Hoa bà bà cười nói:

- Cái đó ông nói sai rồi. Tôi nói thực ông nghe, Bạch Mi Ưng Vương và Thanh Dực Bức Vương cả hai đều đang ở trên Quang Minh Đính.

Tạ Tốn lạ lùng:

- Hai người về Quang Minh Đính rồi ư? Làm gì thế?

Kim Hoa bà bà nói:

- Cái đó chính mắt A Ly trông thấy. A Ly là cháu ngoại của Ân nhị ca, vì đắc tội với phụ thân nên cha nó định giết nó. Lần thứ nhất chính tôi cứu thoát, lần thứ hai thì Vi tứ ca cứu thoát. Vi tứ ca đem nó lên Quang Minh Đính, giữa đường bị tôi lẻn bắt đi. A Ly, ngươi kể lại chuyện sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Đính cho Tạ công công nghe nào!

Ân Ly bèn đem chuyện nàng thấy ở Tây Vực kể sơ qua cho Tạ Tốn nghe, nhưng vì chưa lên đến Quang Minh Đính đã bị Kim Hoa bà bà mang đi rồi nên những gì xảy ra trên Quang Minh Đính không hề hay biết. Tạ Tốn càng nghe càng nóng ruột, hỏi dồn:

- Rồi sau ra sao? Rồi sau ra sao?

Cuối cùng ông giận dữ nói:

- Hàn phu nhân, tuy bà vì chuyện hôn nhân mà bất hòa với anh em, nhưng khi bản giáo bị nạn sao đành tụ thủ bàng quan? Dương giáo chủ là nghĩa phụ của bà, năm xưa đãi bà ra sao bà không còn nghĩ gì tới nữa hay sao? Bà xem Ân nhị ca và Vi tứ đệ, Ngũ Tản Nhân và Ngũ Hành Kỳ ai ai cũng lên Quang Minh Đính cả đấy thôi?

Kim Hoa bà bà lạnh lùng đáp:

- Tôi không có được thanh đao Đồ Long, thì vẫn chỉ là bại tướng dưới tay Diệt Tuyệt lão ni của phái Nga Mi thôi, dẫu lên Quang Minh Đính cũng còn mặt mũi nào mà động thủ với mụ ta đâu, chẳng lẽ lên để xin tha mạng?

Hai người lặng yên, một lát sau Tạ Tốn mới hỏi:

- Làm cách nào bà lại biết chỗ ở của tôi, sao trước nay vẫn không chịu nói thật? Người của phái Võ Đương cho bà hay ư?

Kim Hoa bà bà đáp:

- Người của phái Võ Đương làm sao mà biết được? Vợ chồng Trương Thúy Sơn bị cưỡng ép, thà tự vẫn chứ không chịu nói nơi ở của ông, người phái Võ Đương dĩ nhiên không thể nào biết. Được, hôm nay tôi cũng chẳng dấu ông làm gì nữa. Tôi ở Tây Vực gặp một gã tên là Võ Liệt, y vốn là con cháu của Võ Tam Thông, truyền nhân của Đoàn gia nước Đại Lý năm xưa. Trời xui đất khiến làm sao, tôi nghe y nói với con gái bị tôi bắt nọn, dùng cực hình khiến y phải cung khai ra chỗ ở của ông.

Tạ Tốn trầm ngâm một hồi mới nói:

- Tên họ Võ đó gặp được thằng Vô Kỵ con tôi phải không? Chắc là y đánh lừa trẻ con mới tìm ra được cái bí mật đó.

Trương Vô Kỵ nghe đến đây, trong lòng hết sức hổ thẹn, nghĩ đến năm xưa mình ở Chu gia trang bị hai cha con Chu Trường Linh, Chu Cửu Chân lừa dối, dùng ngụy kế khiến mình phải thổ lộ chân tình, nếu như vì thế mà nghĩa phụ rơi vào tay gian nhân, thật mình dù có chết vạn lần cũng không chuộc được. Nghĩa phụ tuy mắt đã mù nhưng suy tính mọi chuyện cũng chẳng khác gì chính mắt trông thấy.

Lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:

- Lục đại môn phái vây đánh Minh giáo không phải chuyện nhỏ, bản giáo rồi sau ra sao?

Kim Hoa bà bà nói:

- Minh giáo hưng suy tồn vong không còn liên quan gì đến lão bà cả. Năm xưa trên Quang Minh Đính, ai ai cũng làm khó tôi, ông có quên chứ tôi lúc nào cũng nhớ rất rõ. Lúc đó chỉ có Dương giáo chủ và Tạ tam ca là tốt với tôi thôi, tôi không quên đâu.

Tạ Tốn nói:

- Ôi, tư oán là chuyện nhỏ, hộ giáo là chuyện lớn. Hàn phu nhân, lòng dạ bà như thế hẹp hòi quá.

Kim Hoa bà bà giận dữ nói:

- Ông là nam tử hán đại trượng phu, còn tôi là đàn bà tính khí hẹp hòi. Năm xưa tôi phá môn xuất giáo đã thề không liên quan gì đến Minh giáo nữa. Nếu không vì thế thì gã Hồ Thanh Ngưu đâu có coi tôi là người ngoài? Sao y lại muốn tôi phải quay về Minh giáo mới chịu chữa độc cho Ngân Diệp tiên sinh? Hồ Thanh Ngưu bị tôi giết đó, Tử Sam Long Vương đã phạm đại giới của Minh giáo rồi, tôi còn liên hệ gì đến Minh giáo đâu?

Tạ Tốn lắc đầu nói:

- Hàn phu nhân, tôi hiểu lòng dạ bà lắm. Bà định mượn đao Đồ Long của tôi, miệng nói là để đối phó với phái Nga Mi, nhưng thực ra là để đối phó với Dương Tiêu, Phạm Dao. Bà lúc nào cũng chăm chăm lẻn vào bí đạo trên Quang Minh Đính, vì thế nên tôi không thể nào cho bà mượn thanh đao Đồ Long được.

Kim Hoa bà bà ho khúc khắc mấy tiếng rồi nói:

- Tạ tam ca, năm xưa tôi với ông võ công ai cao hơn ai?

Tạ Tốn đáp:

- Tứ đại pháp vương mỗi người có sở trường riêng.

Kim Hoa bà bà nói:

- Hiện nay đôi mắt ông hỏng rồi, so với lão bà thì thế nào?

Tạ Tốn ngang nhiên đáp:

- Bà định cậy mạnh đoạt đao, có phải thế chăng? Tạ Tốn có thanh đao Đồ Long trong tay cũng thay thế được đôi mắt.

Ông thở một hơi dài, tiến lên một bước, đôi mắt mù hướng về phía Kim Hoa bà bà, thần uy lẫm lẫm. Ân Ly thấy vậy hãi sợ vội lùi về sau mấy bước. Kim Hoa bà bà vẫn khom lưng đứng đó, tay chống quài trượng, thỉnh thoảng lại ho mấy tiếng, xem ra Tạ Tốn chỉ cần vung đao lên chém xuống là bà ta đứt làm đôi ngay. Tuy nhiên bà ta vẫn lặng thinh không cử động, tưởng như không coi Tạ Tốn vào đâu. Trương Vô Kỵ đã thấy bà ta ra tay mấy lần, nhanh nhẹn tuyệt luân, lại còn có phần ngụy bí quái dị hơn cả Vi Nhất Tiếu chẳng khác gì quỉ mị, yêu ma. Lúc này bà ta đứng đối diện với Tạ Tốn, một người đang sắp sửa bung ra tấn công thế như giương cung tuốt kiếm hết sức căng thẳng, còn người kia vẫn nhàn nhã đứng đợi, thản nhiên như không.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm bà ta còn được xếp hạng trên cả ông ngoại, nghĩa phụ và Vi Bức Vương, võ công ắt phải cực kỳ lợi hại, khiến chàng không khỏi lo thầm cho Tạ Tốn.

Chỉ nghe bốn bề gió rít vù vù, xen lẫn tiếng sóng biển truyền tới, trong tình thế hung hiểm như thế này càng thêm vẻ thê lương. Hai người đứng đó cách nhau chỉ chừng hơn một trượng nhưng không ai dám ra tay trước.

Qua một lúc lâu, Tạ Tốn bỗng nói:

- Hàn phu nhân, hôm nay bà ép tôi phải động thủ, vi phạm lời thế kết nghĩa năm xưa của tứ đại pháp vương, Tạ Tốn này quả thật là khó xử.

Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, ông xưa nay vẫn là người bụng dạ từ bi, quả thật trước đây tôi không ngờ nổi bao nhiêu nhân vật thành danh, anh hùng hào kiệt lại do tay ông giết chết.

Tạ Tốn thở dài:

- Tôi vì quá thương cha mẹ vợ con chết thảm muốn báo thù nên việc gì cũng làm. Trong đời tôi việc đau lòng nhất là đã đánh liên tiếp mười ba quyền, giết chết Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm.

Kim Hoa bà bà kinh hoảng nói:

- Không Kiến thần tăng quả thực bị ông đánh chết đấy ư? Ông luyện thành võ công ghê gớm đến thế từ bao giờ?

Bà ta vốn tự tin mình sẽ có thể đối phó được với Tạ Tốn nhưng lúc này xem chừng e sợ. Tạ Tốn nói:

- Bà đừng sợ. Không Kiến thần tăng chỉ chịu đòn mà không đánh trả lại, ông ta muốn đem Phật pháp quảng đại vô biên để hóa giải tà ma ngoại đạo.

Kim Hoa bà bà hừ một tiếng nói:

- Có thế chứ, lão bà không bằng được Không Kiến thần tăng, ông chỉ mười ba quyền đánh chết ông ta thì chỉ cần chín, mười quyền là đánh chết được tôi rồi.

Tạ Tốn lùi lại một bước, giọng nói đột nhiên biến thành ôn hòa:

- Hàn phu nhân, ngày trước nơi Quang Minh Đính bà đối với tôi thật là chí tình. Hồi đó người ca ca này bị bệnh, nội tử lại mới sinh người còn yếu, không dậy được. Bà hết lòng hết sức lo cho tôi hơn một tháng trời, tôi lúc nào cũng ghi nhớ trong tim.

Ông giơ tay phủi trên bộ trường bào nói tiếp:

- Tôi ở hải ngoại mặc bằng da thú, bà may cho tôi áo quần, bên ngoài bên trong chỗ nào cũng vừa vặn, đủ biết tình nghĩa với nhau ở trên Quang Minh Đính vẫn còn. Thôi bà đi đi, từ nay trở đi, mình đừng gặp lại nhau nữa là xong. Tôi chỉ cần bà loan truyền tin tức ra ngoài bảo thằng Vô Kỵ con tôi đến đảo này gặp tôi một chuyến, người anh này thật là cảm ơn đại đức.

Kim Hoa bà bà cười buồn nói:

- Ông vẫn còn nhớ đến tình nghĩa ngày xưa. Không dấu gì ông, từ khi Ngân Diệp đại ca chết đi, tôi đã coi nhân tình thế thái nhẹ lắm rồi, chỉ vì còn mấy món oán thù phải trả cho xong nên tôi không đành lòng mà chết để theo Ngân Diệp đại ca về dưới suối vàng. Tạ tam ca, trên Quang Minh Đính biết bao nhiêu người, dù võ công cao siêu, cơ mưu hơn người nhưng đứa em này chẳng coi vào đâu, chỉ nể trọng riêng một mình Tạ tam ca, ông có biết tại sao không?

Tạ Tốn ngẩng lên nhìn trời, trầm tư một lúc lắc đầu nói:

- Tạ Tốn này tầm thường kém cỏi, chẳng hiểu sao hiền muội lại có bụng nể nang.

Kim Hoa bà bà tiến lên mấy bước, giơ tay phủi một tảng đá lớn chậm rãi ngồi xuống nói:

- Năm xưa trên Quang Minh Đính, chỉ có Dương giáo chủ và Tạ tam ca là tiểu muội coi hợp mắt thôi. Khi cô em này gá nghĩa với Ngân Diệp tiên sinh chỉ có hai người không trách là tôi lấy lầm người.

Tạ Tốn cũng ngồi xuống nói:

- Hàn đại ca tuy không phải là người trong bản giáo nhưng rất anh hùng. Các anh em điều nọ tiếng kia, lòng dạ quả có hẹp hòi. Ôi, lục đại phái vây đánh Quang Minh Đính, không biết chúng huynh đệ có sao không?

Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, ông ở hải ngoại nhưng lòng vẫn hướng về trung thổ, lòng khắc khoải không quên được anh em cũ. Cuộc đời này mấy chục năm chỉ trong chớp mắt đã trôi qua, việc gì mà phải quá lo cho người khác làm gì?

Hai người lúc này chỉ cách nhau vài ba thước, hơi thở của người kia cũng nghe được. Tạ Tốn thấy Kim Hoa bà bà mỗi lần nói lại húng hắng ho liền nói:

- Năm xưa bà ở Bích Thủy Hàn Đàm bị lạnh phổi, dây dưa mãi đến bây giờ cũng chưa khỏi hẳn hay sao?

Kim Hoa bà bà nói:

- Mỗi khi trời lạnh thì lại ho nhiều. Ôi, ho mấy chục năm nay cũng quen đi. Tạ tam ca, tôi nghe ông hơi thở không đều, có phải vì luyện Thất Thương Quyền mà bị thương nội tang chăng? Ông phải cố gắng giữ gìn sức khỏe.

Tạ Tốn nói:

- Đa tạ hiền muội quan hoài.

Đột nhiên ông ngẩng đầu lên nói với Ân Ly:

- A Ly, cháu lại đây.

Ân Ly đi đến trước mặt Tạ Tốn gọi:

- Tạ công công!

Tạ Tốn nói:

- Cháu dùng toàn lực đâm ta một chỉ xem nào.

Ân Ly ngạc nhiên đáp:

- Cháu không dám.

Tạ Tốn cười nói:

- Thiên Châu Vạn Độc Thủ của cháu đâu có làm ta bị thương được, cứ việc sử kình đâm ta đi. Ta chỉ muốn thử xem công lực cháu đến đâu thôi.

Ân Ly vẫn khăng khăng:

- Hài nhi không dám.

Nàng nói tiếp:

- Tạ công công, ông và bà bà năm xưa kết nghĩa tri giao, chuyện gì mà chẳng nói phải quấy với nhau được? Hai bên tranh với nhau thanh đao để làm gì?

Tạ Tốn buồn bã cười nói:

- Cháu cứ đâm ta một chỉ xem nào.

Ân Ly không còn cách nào khác, lấy khăn tay ra bao đầu ngón tay trỏ lại, đâm vào đầu vai Tạ Tốn. Chỉ nghe "Ối chao" một tiếng, nàng đã ngã ngửa về sau, văng xa đến hơn một trượng, rơi phịch xuống đất, toàn thân xương cốt như muốn gãy rời.

Kim Hoa bà bà thản nhiên như thường, chậm rãi nói:

- Tạ tam ca, sao bụng dạ ông độc ác thế, sợ tôi có thêm một người giúp đỡ nên ra tay trừ trước phải không?

Tạ Tốn không trả lời, trầm ngâm một hồi nói:

- Đứa bé này bụng dạ thật tốt, nó đâm tôi chỉ dùng hai ba thành lực, ngón tay lại bọc khăn không dùng Thiên Châu Vạn Độc Thủ để làm tôi bị thương. Tốt lắm, tốt lắm, nếu không phải thế, Thiên Châu Vạn Độc Thủ trở ngược về tim, giờ phút này ắt không toàn mạng nữa rồi.

Trương Vô Kỵ nhe mấy câu đó, trên lưng chảy mồ hôi lạnh, thấy nghĩa phụ nói rằng muốn thử công lực của Ân Ly, nếu như nàng dùng toàn lực đâm vào thì đã chết rồi. Người trong Minh giáo lòng dạ độc ác, nghĩa phụ là người hiền như thế cũng không tránh khỏi. Chàng có biết đâu Tạ Tốn và Kim Hoa bà bà giao thiệp với nhau đã bao nhiêu năm, hai bên đều biết rõ bụng dạ của người kia, nói mấy câu thăm hỏi xong là sẽ ra tay ác đấu quyết chẳng dung tình, Kim Hoa bà bà có thêm Ân Ly trợ giúp cực kỳ bất lợi nên ông dùng kế trừ trước đi cho xong.

Tạ Tốn nói:

- A Ly, sao ngươi lại tốt với ta như thế?

Ân Ly đáp:

- Ông ... ông là nghĩa phụ của anh ta, cũng là ... cũng là vì anh ta mà đến đây. Trên đời này, chỉ còn ông và cháu hai người là còn nhớ đến anh ta mà thôi.

Tạ Tốn "A" lên một tiếng nói:

- Không ngờ cháu lại tốt với thằng Vô Kỵ của ta đến như thế, vậy mà ta lại định giết cháu. Cháu lại đây.

Ân Ly gượng đứng lên, cố gắng mon men tới chỗ Tạ Tốn. Tạ Tốn ghé miệng sát vào tai nàng nói:

- Để ta truyền cho cháu một pho Nội Công tâm pháp do ta tham ngộ trên Băng Hỏa đảo, có thể nói là tập đại thành võ công của cả đời ta.

Ông không đợi Ân Ly nhận lời, liền đem tâm pháp từ đầu đến cuối đọc cho nàng nghe một lượt. Ân Ly nhất thời chưa hiểu rõ, chỉ cố gắng ghi nhớ trong lòng. Tạ Tốn sợ nàng không nhớ hết, lại đọc lại hai lần nữa, hỏi thêm:

- Nhớ được chưa?

Ân Ly đáp:

- Cháu nhớ rồi.

Tạ Tốn nói:

- Cháu tu tập năm năm thì có thể tiểu thành. Nhưng cháu có biết dụng ý của ta truyền cho cháu là sao không?

Ân Ly đột nhiên khóc òa lên nói:

- Cháu ... cháu biết rồi. Có điều ... có điều cháu không làm được.

Tạ Tốn gay gắt hỏi lại:

- Cháu biết cái gì? Sao lại không làm được?

Nói xong ông giơ tay trái lên, nêu như Ân Ly nói sai một câu lập tức sẽ đập xuống giết nàng ngay. Ân Ly hai tay ôm mặt nói:

- Cháu biết ông muốn cháu đi tìm Vô Kỵ, đem công phu này truyền lại cho anh ấy. Cháu biết ông muốn cháu luyện thành võ công thượng thừa rồi sẽ che chở cho anh ta, để khỏi ai hiếp đáp, có điều ... có điều ...

Nàng nói hai câu "có điều" rồi lại sụt sùi khóc. Tạ Tốn đứng lên quát hỏi:

- Có điều làm sao? Có phải thằng con Vô Kỵ của ta đã gặp chuyện không hay rồi ư?

Ân Ly sà vào lòng ông, khóc nức nở:

- Anh ấy ... anh ấy sáu năm trước, tại Tây Vực ... tại Tây Vực đã ngã xuống vực sâu chết rồi.

Tạ Tốn bàng hoàng, run rẩy nói:

- Có ... có thật không?

Ân Ly khóc nói:

- Đúng như thế. Hai cha con Võ Liệt chính mắt trông thấy anh ta táng mạng. Cháu đã dùng Thiên Châu Vạn Độc Thủ điểm lên người họ bảy lần, bảy lần cứu họ tỉnh lại, lần nào cũng nói y như thế, chắc là không nói láo đâu.

Khi Ân Ly thuật lại cái chết của Trương Vô Kỵ, đáng lẽ Kim Hoa bà bà ra tay ngăn lại nhưng chợt nghĩ ra, Tạ Tốn một khi nghe thấy nghĩa tử chết rồi, tâm thần ắt sẽ hỗn loạn, giao đấu sẽ thêm ba phần hung dữ nhưng sẽ kém đi ba phần cẩn thận, càng dễ dụ vào trận địa cương châm hơn, thành thử chỉ đứng bên cạnh mỉm cười, không nói gì hết.

Tạ Tốn ngửng đầu lên trời rú lên một tiếng dài, hai hàng nước mắt ròng ròng chảy xuống hai bên má. Trương Vô Kỵ thấy nghĩa phụ và biểu muội hai người vì mình mà đau lòng như thế, nhịn không nổi toan nhảy ra giải thích bỗng nghe Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, cậu con nuôi Trương công tử của tam ca nay đã tạ thế, ông giữ thanh đao Đồ Long ấy có ích gì? Chi bằng cho tôi mượn có hơn không?

Tạ Tốn nghẹn ngào nói:

- Bà đánh lừa tôi quá lắm. Muốn lấy bảo đao, hãy lấy mạng tôi trước.

Ông nhẹ nhàng đẩy Ân Ly qua một bên, soẹt một tiếng đã xé rách vạt áo trước vứt về phía Kim Hoa bà bà, cái đó gọi là "Cát Bào Đoạn Nghĩa". Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ta phải tiến ra ngay nói rõ mọi chuyện để cho hai người khỏi tổn thương nghĩa khí một cách chẳng đâu vào đâu". Vừa ngay lúc đó bỗng nghe từ trong đám cỏ cao nơi phía trái vọng lại tiếng thở của ai đó, khoảng cách đã xa, hơi lại nhẹ, nếu không phải tai Trương Vô Kỵ thật thính thì không thể nào phát giác nổi. Chàng nghĩ ngay: "Thì ra Kim Hoa bà bà lại còn ngầm mai phục người giúp đỡ. Ta chưa có thể ra mặt lúc này được". Chỉ nghe tiếng đao vù vù, Tạ Tốn đã đấu với Kim Hoa bà bà.

Tạ Tốn múa thanh đao chẳng khác gì một con rồng đen quấn quít chung quanh thân mình, biến hóa như thần. Kim Hoa bà bà e ngại thanh đao quá sắc bén, chỉ chạy vòng quanh xa xa, mỗi khi Tạ Tốn có chỗ sơ hở, bà ta không hãi sợ gì liền xông vào tấn công, đến khi ông ta thu đao về chém, lại cực kỳ khéo léo tránh vụt ra ngoài. Hai người rất quen thuộc võ công của đối phương, thành thử trong một hai trăm hiệp chưa thể nào phân cao thấp được. Tạ Tốn dựa vào thanh đao Đồ Long sắc bén, còn Kim Hoa bà bà coi thường ông ta mắt mù không thấy, hai người đều khai thác cái sở trường của mình để mong thủ thắng, tuyệt nhiên không lý gì đến chiêu số hay nội lực.

Đột nhiên vụt vụt hai điểm vàng lấp lánh, Kim Hoa bà bà đã ném ra hai đóa kim hoa. Tạ Tốn vung thanh đao Đồ Long lên, hai bông hoa đều dính vào lưỡi đao. Thì ra bông hoa vàng đúc bằng thép, bên ngoài mạ vàng, còn thanh đao Đồ Long đúc bằng huyền thiết có từ tính rất mạnh, gặp sắt là hút ngay. Bông kim hoa đó chính là ám khí thành danh của Kim Hoa bà bà, khi phóng ra biến hóa trăm chiều, dẫu cho Tạ Tốn mắt có còn tinh cũng phải xuất toàn lực mới tránh né được. Nào ngờ thanh đao Đồ Long này lại là khắc tinh của ám khí, Kim Hoa bà bà bên trái bên phải ném luôn tám bông hoa vàng, đều bị thanh đao hút hết. Khi đó ánh trăng suông mờ mờ, bóng đêm thảm đạm, tám bông hoa dính trên thanh đao đen sì, khi múa lên chẳng khác nào một đàn đom đóm đang lập lòe bay lượn trên không.

Đột nhiên Kim Hoa bà bà ho một tiếng, ném ra một nắm ám khí, phải đến mười sáu mười bảy đóa kim hoa, cốt để cho đao của Tạ Tốn hút được hoa bên đông thì không hút được bông hoa bên tây. Tạ Tốn vung tay áo lên, cuốn được bảy tám bông, còn tám bông khác dính trên đao Đồ Long, quát lớn:

- Hàn phu nhân, bà xưng là Tử Sam Long Vương, tên đó kỵ với thanh đao này, nếu con ham đánh tiếp e rằng không có lợi đâu.

Kim Hoa bà bà thấy lạnh người, phàm người học võ, tính mạng cầm bằng treo trên đầu đao mũi kiếm nên rất kiêng những gì kỵ với mình, bà ta tự xưng "Long Vương" mà thanh đao nào lại tên là "Đồ Long" quả thực chẳng hay chút nào. Nghĩ thế bà ta trầm giọng cười khẩy:

- Biết đâu Sát Sư Trượng của tôi lại giết được con sư tử mù trước thì sao?

Nghe vù một tiếng vung trượng đánh ra. Tạ Tốn hạ vai né tránh, đột nhiên chân bước hụt, "A" lên một tiếng, trượng đó đã đánh trúng đầu vai, tuy lực đạo đã giảm quá nửa nhưng cũng không phải nhẹ.

Trương Vô Kỵ mừng thầm suýt nữa reo lên. Chàng thấy Tạ Tốn cố ý giả vờ né tránh không kịp để bị trúng một gậy trong bụng tính thầm: "Nghĩa phụ chỉ cần bắn những bông hoa trong tay áo ra, tiếp theo đao Đồ Long sử chiêu "Thiên Sơn Vạn Thủy" chém liên tiếp, Kim Hoa bà bà không dám đỡ thế đao sắc bén, ắt phải né qua bên trái, liên tiếp hai lần sẽ không còn lùi được nữa, khi đó nghĩa phụ dùng nội lực hất những bông hoa trên thanh đao Đồ Long ra bắn thẳng vào, Kim Hoa bà bà không còn đường tránh né ắt sẽ trọng thương".

Chàng vừa nghĩ thế, quả nhiên thấy ánh sáng vàng thấp thoáng, Tạ Tốn đã đem tất cả các bông kim hoa trong tay áo ném ra, Kim Hoa bà bà phải nghiêng qua bên trái. Trương Vô Kỵ đột nhiên nghĩ ra một chuyện kêu thầm: "Chao ôi, không xong rồi, Kim Hoa bà bà tương kế tựu kế".

Lú này trong người chàng võ học bao la, hai đại cao thủ kia công thủ tiến thoái, đều nằm trong tính toán của chàng cả, chỉ thấy Tạ Tốn ra chiêu "Thiên Sơn Vạn Thủy" múa tít thanh đao chém xuống, Kim Hoa bà bà lại lùi qua bên trái. Tạ Tốn quát lên một tiếng, bắn vụt tất cả những bông kim hoa đang dính trên bảo đao ra. Kim Hoa bà bà kêu lên "Ối chà" một tiếng, chân không vững, phải lùi về sau mấy bước.

Tạ Tốn là người rất quyết liệt, đã cát bào đoạn nghĩa rồi ra tay không còn nể nang chút nào, liền tung mình nhảy lên, múa đao chém xuống, đột nhiên nghe Ân Ly thảng thốt kêu lên:

- Coi chừng, có kim nhọn dưới chân.

Tạ Tốn nghe tiếng kêu, giật mình kinh hãi nhưng thu về không còn kịp nữa, chỉ nghe mấy tiếng vụt vụt, hơn chục bông hoa vàng đã bị Kim Hoa bà bà bắn tới. Bà ta liệu chừng Tạ Tốn đang ở trên lưng chừng trời, không có cách gì né tránh, khi rơi xuống hai chân thể nào cũng đạp trúng kim châm. Tạ Tốn không biết tính sao, chỉ còn nước múa đao gạt những bông hoa ra, bỗng nghe dưới chân hai tiếng tách tách, chân ông ta đã đạp tới đất rồi nhưng an nhiên không sao cả.

Ông cúi xuống giơ tay mò thử thấy bốn phía trên đá chỗ nào cũng có cắm kim nhọn dài chừng bảy tám tấc, sắc bén lạ thường. Chỉ riêng nơi ông ta hạ chân xuống thì bốn chiếc kim đã bị ai dùng đá bắn văng đi, nghe kình lực của kẻ trịch thạch trừ kim kia, chính là thanh niên của Cự Kình bang ném bảy viên sỏi lúc ban ngày. Người này ở bên cạnh coi hai bên giao đấu mà mình không hề hay biết chút nào, nếu không được y ra tay cứu thì chân mình ắt đã bị thương nặng, chỉ còn nằm đó cho Kim Hoa bà bà chém giết thôi. Ý niệm đó nổi lên trong đầu, Tạ Tốn không khỏi lưng toát mồ hôi lạnh.

Hai người cùng thi hành khổ nhục kế, Tạ Tốn đầu vai bị đánh một trượng, còn Kim Hoa bà bà cũng bị trúng hai đóa kim hoa, tuy vết thương đều không phải là yếu hại, nhưng chịu đựng kình lực đối phương cũng không phải dễ. Kim Hoa bà bà ho mấy tiếng, quay qua chỗ Trương Vô Kỵ đang ẩn núp nói:

- Tiểu tử của Cự Kình bang kia, ngươi lại can thiệp vào chuyện của lão bà, mau để tên cho ta biết.

Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, đột nhiên một ánh vàng lấp lánh, Ân Ly hự lên một tiếng đã bị ba đóa kim hoa bắn trúng ngay nơi yếu hại trên ngực. Thì ra Kim Hoa bà bà thấy Trương Vô Kỵ võ công ghê gớm, nếu mình trừng trị Ân Ly, y thể nào cũng ngăn trở, nên một mặt nói chuyện với chàng, thưa dịp không phòng bị ném kim hoa ra.

Trương Vô Kỵ kinh hãi, phi thân nhảy tới, đang ở trên không bắt luôn hai bông hoa khác của Kim Hoa bà bà, khi rơi xuống đất ôm luôn Ân Ly vào lòng. Ân Ly thần trí vẫn còn tỉnh táo, thấy một người đàn ông râu ria ôm mình, vội vàng đẩy ra, nhưng vừa mới dùng sức đã hộc ra mấy ngụm máu. Trương Vô Kỵ hiểu ý, vội vàng giơ tay xoa mặt mình mấy cái, gạt hết những râu ria và hóa trang, để lộ bộ mặt thật ra. Ân Ly ngạc nhiên kêu lên sững sờ:

- A Ngưu ca ca, anh đấy ư?

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Chính ta đây.

Ân Ly bấy giờ mới cảm thấy yên tâm, lập tức bất tỉnh. Trương Vô Kỵ thấy nàng bị thương nặng, không dám nhổ những bông kim hoa cắm trên người ra, lập tức điểm các huyệt Thần Phong, Linh Khư, Bộ Lang, Thông Cốc để bảo vệ tâm mạch. Chỉ nghe Tạ Tốn lớn tiếng nói:

- Các hạ hai lần ra tay giúp đỡ, Tạ Tốn thật muôn vàn cảm ơn đại đức.

Trương Vô Kỵ nghẹn ngào:

- Nghĩa ... nghĩa ... hà tất ...

Hồi 29

TỨ NỮ ĐỒNG CHU HÀ SỞ VỌNG

Tình này ví xẻ làm tư,

Bốn người bốn vẻ biết chừa cho ai.

Riêng em anh để trên vai,

Lưng anh cõng một, hai tay hai nàng.

*

* *

Ngay lúc đó, bỗng nghe từ phía sau hai tiếng leng keng lạ lùng, ba người từ đâu chạy vụt tới. Thoạt nhìn Trương Vô Kỵ thấy ba người đó mặc áo bào trắng rộng thùng thình, hai người thân hình thật cao còn bên trái là một người đàn bà. Ba người quay lưng về phía mặt trăng thành thử không nhìn rõ diện mạo của họ nhưng người nào trên chéo áo đều có thêu hình một ngọn lửa, hẳn là người trong Minh giáo. Mỗi người cầm trong tay hai hắc bài dài chừng hai thước giơ lên, người cao nhất trong bọn lớn tiếng nói:

- Thánh hỏa lệnh của Minh giáo đã đến, hộ giáo Long Vương, Sư Vương sao chưa quì xuống nghinh tiếp còn đợi tới bao giờ?

Giọng nói cứng ngắc cực kỳ khó nghe. Trương Vô Kỵ giật mình nghĩ thầm: "Trong di ngôn của Dương giáo chủ có nói, thánh hỏa lệnh của bản giáo bị thất lạc từ đời Thạch giáo chủ thứ ba mươi mốt, sao nay lại ở trong tay ba người này? Không biết có phải là thánh hỏa lệnh thực không? Ba người này phải chăng cũng là đệ tử bản giáo?".

Kim Hoa bà bà nói:

- Bản nhân vốn đã phá môn xuất giáo, bốn chữ Hộ Giáo Long Vương đừng nói đến nữa. Các hạ tôn tính đại đanh là gì? Thánh hỏa lệnh đó thực hay giả đó? Ở đâu mà có được?

Người kia quát lớn:

- Nếu mụ đã phá môn xuất giáo thì còn lôi thôi gì nữa.

Kim Hoa bà bà lạnh lùng đáp:

- Kim Hoa bà bà từ trước tới nay chưa ai dám nói nặng một câu, năm xưa Dương giáo chủ còn tại thế cũng kính nể ba phần. Ngươi là cái thá gì ở trong Minh giáo mà dám phách lối đối với ta?

Đột nhiên ba người kia cùng lao vụt tới gần, ba cánh tay trái cùng chộp vào Kim Hoa bà bà. Quài trượng của Kim Hoa bà bà vung lên, quét luôn vào ba người kia, không ngờ những người đó di chuyển thế nào không biết, thân hình đã biến đổi sang vị trí khác. Gậy của Kim Hoa bà bà đánh vào chỗ không, lại bị ba người đó vươn tay phải ra nắm luôn vào sau ót, vung tay một cái ném luôn bà ta ra ngoài xa.

Võ công của Kim Hoa bà bà cao cường như thế, dẫu có ba cao thủ lợi hại nhất trong thiên hạ vây đánh cũng không thể nào chỉ một chiêu đã chộp được ném ra ngoài. Thế nhưng ba người áo trắng này bộ pháp thật quái dị, ra tay lại nhịp nhàng ăn khớp, chẳng khác gì một người có ba đầu sáu tay khiến Trương Vô Kỵ không khỏi "Ối" lên một tiếng. Ba người đó vừa di chuyển qua chàng đã nhìn rõ, người cao nhất mặt đầy râu mắt biếc, một người nữa râu vàng mũi khoằm, còn người đàn bà tóc đen không khác gì người Trung Hoa nhưng tròng mắt rất nhạt dường như không có màu, mặt trái soan, chừng ngoài ba mươi tuổi, tuy trông lạ lùng nhưng tướng mạo thật là xinh đẹp. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Thì ra ba người này đều là người Hồ, thảo nào giọng cứng ngắc, nói câu nào cũng đều đều nghe như đọc thuộc trong sách".

Lại nghe gã râu xồm lớn tiếng nói:

- Thấy thánh hỏa lệnh cũng như thấy giáo chủ, Tạ Tốn sao không quì xuống nghinh tiếp?

Tạ Tốn đáp:

- Ba vị là ai? Nếu là đệ tử bản giáo, Tạ Tốn này phải biết chứ, còn nếu không phải người trong Minh giáo, thánh hỏa lệnh có liên quan gì đến các vị đâu?

Gã râu xồm nói:

- Minh giáo từ đâu mà ra?

Tạ Tốn đáp:

- Khởi nguyên từ Ba Tư.

Người râu xồm nói:

- Đúng thế, đúng thế! Ta là Lưu Vân Sứ của tổng giáo Ba Tư, còn hai người này là Diệu Phong Sứ và Huy Nguyệt Sứ. Bọn ta phụng mệnh của tổng giáo giáo chủ, từ Ba Tư đến trung thổ.

Tạ Tốn và Trương Vô Kỵ đều ngạc nhiên. Trương Vô Kỵ đã đọc cuốn Minh Giáo Lưu Truyền Trung Thổ Ký của Dương Tiêu viết, biết rằng quả thực Minh giáo từ Ba Tư truyền sang, xem ra ba người này đúng là người Hồ ở Ba Tư, võ công thân pháp như thế hẳn không phải giả. Gã râu vàng Diệu Phong Sứ nói:

- Giáo chủ chúng ta nghe tin giáo chủ chi phái bên Trung Thổ mất tích, các đệ tử tàn sát lẫn nhau, bản giáo ngày càng suy vi nên sai Vân Phong Nguyệt ba sứ giả đến để chỉnh đốn lại giáo vụ. Tất cả các giáo chúng từ trên xuống dưới đều phải nghe lệnh, không được sai xẩy.

Trương Vô Kỵ mừng thầm: "Tổng giáo chủ đã có lệnh truyền đến, quả thật đáng mừng. Mình hiểu biết nông cạn nay phải đảm trách trọng nhiệm, có thể làm lỡ đại sự".

Tạ Tốn nói:

- Minh giáo Trung Thổ tuy xuất phát từ Ba Tư thật nhưng đứng một mình thành riêng một cõi đã mấy trăm năm qua, trước nay không hề chịu sự quản thúc của tổng giáo Ba Tư. Ba vị đến Trung Thổ, Tạ Tốn này rất lấy làm mừng nhưng quì nghinh gì gì đó không biết do đâu mà ra?

Gã râu xồm Lưu Vân Sứ liền lấy hai miếng hắc bài gõ vào nhau, nghe keng một tiếng, thanh âm không phải tiếng kim khí mà cũng không phải ngọc khí, cực kỳ lạ lùng, nói:

- Đây là thánh hỏa lệnh của Minh giáo Trung Thổ. Giáo chủ họ Thạch đời trước không cẩn thận làm mất ra ngoài, nay bọn tay lấy lại được. Trước nay thấy thánh hỏa lệnh cũng như thấy giáo chủ, Tạ Tốn còn chưa chịu nghe lệnh ư?

Khi Tạ Tốn gia nhập Minh giáo thì thánh hỏa lệnh đã thất lạc từ lâu cha từng thấy bao giờ nhưng thánh hỏa lệnh đó lạ lùng thần kỳ ra sao đã từng nghe tiếng, trong kinh thư điển tịch của Minh giáo cũng có nhắc đến, nay nghe âm thanh lạ lùng kia, biết rằng những người này quả thực đang cầm thánh hỏa lệnh của bản giáo, huống chi ba người này vừa ra tay đã chộp được Kim Hoa bà bà ném ra ngoài người thường quyết không sao làm được nên không còn hoài nghi gì nữa, nói:

- Tại lạ tin lời tôn giá nhưng không biết có điều chi sai khiến?

Lưu Vân Sứ tay trái phất một cái, Diệu Phong Sứ, Huy Nguyệt Sứ cùng y ba người lập tức nhảy tới, chỉ nhô lên hụp xuống hai lần đã nhảy tới ngay bên cạnh Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà liền ném hoa vàng ra, chia ra bắn vào ba sứ giả. Ba người đó liền né qua đông lạng qua tây tránh được, còn Huy Nguyệt Sứ nhảy ngay tới trước giơ ngón tay đâm vào yết hầu Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà vung quài trượng lên chặn lại, rồi đánh trả luôn, đột nhiên thân hình bay bổng, thì ra lưng bà ta đã bị Lưu Vân Sứ và Diệu Phong Sứ nắm được, nhắc lên cao. Huy Nguyệt Sứ tiến lên ba bước, vỗ luôn vào ngực và bụng bà ta ba chưởng, tuy không nặng nhưng Kim Hoa bà bà không còn cử động gì được nữa.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ba người này nhô lên hụp xuống, thân pháp đó không có gì là ghê gớm chỉ có điều ba người phối hợp thật là nhịp nhàng. Huy Nguyệt Sứ dụ địch ở phía trước, hai người còn lại thần xuất quỉ một bắt giữ Kim Hoa bà bà. Nếu tính võ công từng người xem ra còn kém Kim Hoa bà bà. Người kia vỗ ba chưởng tuy không phải là đả huyệt nhưng công hiệu cũng không khác gì phép điểm huyệt của Trung Thổ".

Lưu Vân Sứ giơ Kim Hoa bà bà lên, rung tay một cái đã ném bà ta ngay trước mặt Tạ Tốn nói:

- Sư Vương, giáo qui của bản giáo là đã nhập giáo rồi thì suốt đời không được từ bỏ. Người này khai là đã phá môn xuất giáo là phản đồ của Minh giáo, ngươi hãy chém đầu y thị trước đi.

Tạ Tốn ngạc nhiên nói:

- - Minh giáo Trung Thổ trước nay không có luật lệ đó.

Lưu Vân Sứ lạnh lùng nói:

- Từ nay trở đi Minh giáo Trung Thổ phải nghe hiệu lệnh của tổng giáo Ba Tư. Xuất giáo bạn đồ có để cũng chỉ gây thêm mầm họa, mau mau trừ khử đi.

Tạ Tốn ngang nhiên đáp:

- Tứ vương của Minh giáo tình nghĩa chẳng khác gì anh em. Hôm nay bà ta tuy đối với Tạ mỗ vô tình nhưng Tạ mỗ quyết không vô nghĩa, không thể ra tay làm hại bà ta được.

Diệu Phong Sứ cười ha hả nói:

- Người Trung Thổ dây dưa nhùng nhằng thật là lắm chuyện. Kẻ đã xuất giáo không giết đi là sao? Thế là nghĩa lý gì? Thật là kỳ quái không sao hiểu được.

Tạ Tốn dáp:

- Tạ mỗ giết người không chớp mắt nhưng không giết bạn bè đồng giáo.

Huy Nguyệt Sứ nói:

- Ngươi không thể không giết y thị. Nếu như ngươi không tuân lệnh, bọn ta sẽ giết ngươi trước.

Tạ Tốn đáp:

- Ba vị vừa đến Trung Thổ, trước hết đã bức bách Kim Mao Sư Vương giết Tử Sam Long Vương, có phải định ra oai dọa người đấy chăng?

Huy Nguyệt Sứ nhoẻn một nụ cười nói:

- Ngươi hai mắt đã mù nhưng lòng lại sáng nhỉ. Mau động thủ đi.

Tạ Tốn ngẩng đầu lên trời cười một hồi dài, âm thanh vang dội trong sơn cốc rồi lớn tiếng nói:

- Kim Mao Sư Vương quang minh lỗi lạc, không nói gì đến việc chẳng sát hại bằng hữu, dẫu cho người này có là kẻ thâm thù đại oán nhưng đã bị các ngươi bắt giữ rồi, không còn sức kháng cự, Tạ mỗ cũng chẳng nỡ nào chém thêm một đao đâu!

Trương Vô Kỵ nghe lời nói đầy hào khí của Tạ Tốn không khỏi kính phục nghĩa phụ đồng thời nẩy sinh ác cảm với ba sứ giả của Minh giáo Ba Tư. Lại nghe Diệu Phong Sứ nói:

- Giáo đồ của Minh giáo, thấy thánh hỏa lệnh cũng như thấy giáo chủ, ngươi dám phản giáo chăng?

Tạ Tốn ngang nhiên đáp:

- Tạ mỗ hai mắt đã mù hơn hai chục năm nay, dẫu các ngươi để thánh hỏa lệnh ngay trước mắt mỗ cũng không trông thấy, "kiến thánh hỏa lệnh như kiến giáo chủ" có ý nghĩa gì đâu?

Diệu Phong Sứ giận dữ nói:

- Được, vậy là ngươi quyết tâm phản giáo phải không?

Tạ Tốn dáp:

- Tạ Tốn này không dám phản giáo, thế nhưng giáo chỉ của Minh giáo là hành thiện khử ác, lấy nghĩa khí làm trọng. Tạ Tốn thà đầu rơi xuống đất nhưng nhất định không làm chuyện chẳng ra gì.

Kim Hoa bà bà tuy không cử động được nhưng mỗi câu mỗi chữ Tạ Tốn nói ra đều lọt vào tai. Trương Vô Kỵ biết nghĩa phụ mình sống chết chỉ còn trong nháy mắt nên len lén bỏ Ân Ly xuống. Lưu Vân Sứ nói:

- Người trong Minh giáo không tuân theo thánh hỏa lệnh đều phải giết không chừa một ai.

Tạ Tốn quát lên:

- Bản nhân là hộ giáo pháp vương, dẫu cho giáo chủ muốn giết ta cũng phải khai đàn bẩm rõ với trời đất cùng các vị minh tôn, nói rõ tội trạng.

Diệu Phong Sứ cười hì hì đáp:

- Minh giáo ở Ba Tư tốt đẹp biết bao, qua đến Trung Thổ sao lại đẻ ra lắm luật lệ thối tha đến thế.

Ba sứ giả liền cùng hú lên xông đến. Tạ Tốn múa thanh đao Đồ Long hộ vệ trước mặt, ba sứ giả tấn công liên tiếp ba lần đều không sao đến gần được. Huy Nguyệt Sứ lạng người tiến lên, tay trái cầm lệnh bài đập lên đỉnh đầu Tạ Tốn. Tạ Tốn vung đao lên gạt, nghe keng một tiếng thật là quái lạ, thanh đao Đồ Long dẫu vật gì cứng rắn mấy cũng chém gãy nhưng không chặt đứt được thánh hỏa lệnh. Ngay trong một chớp mắt, Lưu Vân Sứ lách qua bên trái, dùng lệnh bài đánh ngay vào đùi Tạ Tốn. Tạ Tốn vừa loạng choạng, Diệu Phong Sứ liền xoay thánh hỏa lệnh đánh vào sau lưng. Đột nhiên cổ tay y bị ai nắm chặt, lệnh bài trên tay đã bị ai cướp mất. Y kinh hãi quay đầu lại thấy một thanh niên đã cầm trong tay thánh hỏa lệnh bài.

Trương Vô Kỵ nhảy tới cướp thánh hỏa lệnh bài nhanh nhẹn vô tỉ, xảo diệu tuyệt luân. Lưu Vân Sứ và Diệu Phong Sứ vừa sợ vừa tức, liền chia ra hai bên xông tới. Trương Vô Kỵ thân hình nghiêng qua bên trái tránh né, không ngờ nghe bịch một cái đã bị Huy Nguyệt Sứ đánh một lệnh bài vào sau lưng.

Thánh hỏa lệnh đó làm bằng một kim loại quái dị, cứng rắn vô cùng, chàng bị đánh trúng thấy mắt tối sầm tưởng chừng muốn ngất đi. Cũng may thần công hộ thể lập tức phát sinh uy lực, chàng lập tức cố trấn nhiếp tâm thần, nhảy luôn tới trước ba bước. Ba sứ giả Ba Tư cũng đuổi theo vây lại, Trương Vô Kỵ tay phải cầm lệnh bài đánh nhứ vào Lưu Vân Sứ một cái, tay trái vươn ra đã cướp được thánh hỏa lệnh trong tay Huy Nguyệt Sứ. Ngờ đâu Huy Nguyệt Sứ vừa buông ra liền nhấn xuống một cái, đầu bên kia của thánh hỏa lệnh bật lên nghe bạch một cái trúng ngay cổ tay Trương Vô Kỵ. Năm ngón tay chàng liền tê dại, phải buông chiếc lệnh bài đã cướp được trong tay, Huy Nguyệt Sứ vươn tay ra chộp ngay lấy.

Từ khi Trương Vô Kỵ luyện thành Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, sau lại được Trương Tam Phong chỉ điểm thêm những tinh diệu trong Thái Cực Quyền đến giờ chàng chưa gặp địch thủ nào ngờ nay lại bị một người đàn bà đánh trúng liên tiếp, lần sau nếu không nhờ có hộ thể thần công thì cổ tay e đã gãy rồi. Chàng kinh hãi không dám cùng địch nhân đối công, chỉ đứng yên chăm chú quan sát cho rõ ràng chiêu số của họ như thế nào.

Ba sứ giả của Ba Tư thấy chàng hai lần trúng đòn nhưng dường như không hề bị thương cũng ngạc nhiên khôn cùng. Diệu Phong Sứ đột nhiên cúi đầu, dùng đầu làm chùy lao vào người Trương Vô Kỵ. Lối đánh này vốn là đại kỵ trong võ học, dùng bộ phận quan trọng nhất của mình xông vào địch thủ. Trương Vô Kỵ đứng yên không cử động biết chiêu này của y trông thì có vẻ vụng về nhưng thực ra rất tinh diệu, ắt phải có hờm sẵn một chiêu khác rất lợi hại, đợi đầu y đến còn cách thân hình chừng một thước mới lùi lại một bước. Ngay lúc dó Lưu Vân Sứ nhảy vọt lên trên không, nhắm ngay đầu chàng hạ xuống. Chiêu này thực là quái dị, dùng mông đít tấn công đối phương, võ học thiên hạ tuy đa dạng thật nhưng chưa có đường lối nào lại dùng một chiêu số vừa vô dụng, vừa vụng về như thế. Trương Vô Kỵ vẫn bình tĩnh như thường, lách qua một bên, đột nhiên thấy đau nhói trên ngực, hóa ra đã bị Diệu Phong Sứ dùng cùi chỏ thúc vào, nhưng y cũng bị Cửu Dương thần công dội ngược ra, phải lùi lại ba bước, rồi lại thêm ba bước nữa, những tưởng đã đứng vững nhưng lại phải lùi thêm ba bước nữa.

Ba sứ giả Ba Tư ngạc nhiên biến sắc, hai thanh thánh hỏa lệnh trong tay Huy Nguyệt Sứ liền quét ngang, còn Lưu Vân Sứ bỗng nhiên nhảy lộn ba vòng. Trương Vô Kỵ không hiểu họ định làm gì, trong bụng nghĩ mình nên tránh đi là hơn, liền lách qua bên trái một bước, thấy trước mắt một luồng bạch quang lấp loáng, vai bên phải đã bị Lưu Vân Sứ dùng thánh hỏa lệnh đánh trúng một đòn thật nặng. Chiêu đó chàng không thể nào ngờ được, trước khi ra tay không hề có một triệu chứng nào, mà Lưu Vân Sứ rõ ràng đang lộn mèo trên không tại sao đột nhiên lại tung lệnh bài đánh trúng vai chàng được? Trương Vô Kỵ còn đang kinh hãi, không dám ham đánh, huống chi vai trúng đòn kỳ này khá đau, dẫu đã có Cửu Dương thần công đẩy bật ra rồi nhưng cũng buốt nhói tới tận xương. Tuy nhiên chàng biết nếu mình lùi ra, tính mạng nghĩa phụ ắt sẽ nguy nên vội vàng hít một hơi dài, nghiến răng phi thân nhảy tới, giơ chưởng đánh vào ngực Lưu Vân Sứ.

Lưu Vân Sứ cũng đồng thời nhảy tới trước, hai thanh thánh hỏa lệnh trên tay gõ vào nhau nghe keng một tiếng, Trương Vô Kỵ cảm thấy choáng váng, thân hình đang ở trên không lập tức rơi tụt xuống, thấy ngang hông đau nhói lên, thì ra đã bị Diệu Phong Sứ đá trúng rồi. Chỉ nghe bình một tiếng, Diệu Phong Sứ ngã ngửa về sau nhưng thánh hỏa lệnh trong tay Huy Nguyệt Sứ cũng đã đánh trúng cánh tay phải Trương Vô Kỵ.

Tạ Tốn ở bên cạnh nghe thấy hết, biết rằng thanh niên của Cự Kình bang kia liên tiếp gặp nguy nan, chỉ cố hết sức chống đỡ, tiếc rằng mình mắt lại mù không có cách gì tiến lên tiếp viện được, trong lòng cực kỳ sốt ruột, nếu như một mình mình đối địch thì còn nghe tiếng gió phân biện đường đi nước bước của binh khí, quyền cước đối phương, nhưng nếu tiến lên hiệp lực thì làm sao biết được đường quyền nào là của bạn, binh khí nào của địch? Nếu ông vung đao Đồ Long lên chẳng may chém chết bên bạn chẳng hóa ra hối hận lắm sao? Tạ Tốn bèn lớn tiếng nói:

- Thiếu hiệp mau mau chạy thoát thân, đây là chuyện của Minh giáo không có liên can gì đến các hạ. Hôm nay thiếu hiệp đến giúp, Tạ Tốn này cảm kích khôn cùng.

Trương Vô Kỵ ấp úng đáp:

- Tôi ... tôi ... Sư Vương mau chạy đi thôi, cứ nghe tôi, mau chạy đi ...

Chàng thấy Lưu Vân Sứ vung lệnh bài đập tới, chàng liền lấy thánh hỏa lệnh trong tay gạt ra, hai thanh thánh hỏa lệnh đụng nhau, nghe cạch một tiếng chẳng khác gì mặt trống vỡ, cây gỗ mục thanh âm cực kỳ khó nghe. Lưu Vân Sứ tay cầm không vững, thánh hỏa lệnh bay vọt lên không, Trương Vô Kỵ nhảy lên vừa toan cướp lấy, đột nhiên nghe soẹt một tiếng, lưng áo đã bị Huy Nguyệt Sứ xé toạc một mảng lớn. Móng tay nàng ta cào trúng lưng Vô Kỵ rách mấy đường dài, cảm thấy hơi rát, chỉ chậm một chút thì thánh hỏa lệnh đã bị Lưu Vân Sứ chộp lại được rồi.

Sau mấy chiêu, Trương Vô Kỵ đã biết công lực ba người này so với mình người nào cũng kém xa, chỉ vì võ công cực kỳ quái dị, lại thêm binh khí thần kỳ, nguy hiểm nhất là ba người liên thủ, trận pháp không ra trận pháp, bài bản không ra bài bản, vừa ngụy bí vừa âm độc không sao lường được phải đánh ngã được một người trong bọn họ thì trận chiến hôm nay mới có cơ thủ thắng. Thế nhưng nếu chàng đánh một người thì hai người kia ắt đầu đuôi tiếp ứng, quyền pháp biến đổi, khiến cho không cách nào phá được ba người liền tay nhau, ngược lại còn bị thánh hỏa lệnh đánh trúng hai lần. Cũng may là ba sứ giả Ba Tư mỗi lần đánh trúng người chàng đều bị phản kích mạnh mẽ, khiến cho họ cũng chùn bước không dám dùng quyền cước đụng vào đối phương.

Tạ Tốn quát lên một tiếng, ôm thanh Đồ Long đao vào ngực nhảy vào trận chiến, đến bên cạnh Trương Vô Kỵ nói:

- Thiếu hiệp, dùng đao.

Ông cầm thanh đao thẩy lại cho chàng, Trương Vô Kỵ nghĩ đến thần uy của thanh đao có thể đẩy lui đại địch liền nhận lấy. Tạ Tốn chân trái điểm một cái nhảy vọt về phía sau, ngay lúc đó lưng đã bị Diệu Phong Sứ đấm một quyền mạnh đến nỗi ông tưởng như lục phủ ngũ tạng của mình đều đảo lộn. Quyền đó không một chút hình tích nào khiến Tạ Tốn không sao biện nhận được tiếng gió.

Trương Vô Kỵ múa đao chém vào Lưu Vân Sứ, Lưu Vân Sứ liền giơ hai thanh thánh hỏa lệnh ra đỡ, hai tay kẹp một cái, lệnh bài dính chặt vào thanh đao Đồ Long. Trương Vô Kỵ thấy lòng bàn tay rung động mạnh, đao Đồ Long suýt nữa thì tuột khỏi tay, hết sức kinh hãi vội vàng vận kình giữ lại. Lưu Vân Sứ dùng thánh hỏa lệnh để cướp binh khí địch thủ, ra tay là trúng, chưa bao giờ hụt lần này không cướp nổi thanh đao Đồ Long cũng hết sức ngạc nhiên. Huy Nguyệt Sứ rú lên một tiếng thanh thoát, hai thanh thánh hỏa lệnh trong tay y thị cũng kẹp luôn vào đao Đồ Long, tứ lệnh đoạt đao khiến uy lực càng thêm mạnh mẽ.

Trương Vô Kỵ trên người đã bảy tám chỗ trúng đòn, tuy chỉ toàn là vết thương nhẹ nhưng cũng làm cho nội lực giảm đi nhiều, lúc này thấy một nửa người nóng bừng, tay phải cầm đao rung rung. Chàng biết thanh đao này quan hệ mật thiết với tính mạng nghĩa phụ, tuy Tạ Tốn không biết chân tướng chàng là ai nhưng đã đưa cho chàng mượn, thật là một cử chỉ hào khí can vân, nếu như mình để mất thì còn mặt mũi nào mà nhìn người cha nuôi nữa? Chàng liến quát lên một tiếng, Cửu Dương thần công trong người cuồn cuộn tuôn ra. Lưu Vân Sứ, Huy Nguyệt Sứ hai người mặt đều biến sắc, Diệu Phong Sứ thấy tình hình không xong, thanh thánh hỏa lệnh còn lại trong tay cũng đè luôn lên thanh đao Đồ Long.

Trương Vô Kỵ một mình địch ba nhưng thấy không suy yếu chút nào, trong bụng mừng thầm, nếu như mình không cướp được một thanh thánh hỏa lệnh của Diệu Phong Sứ thì cả sáu thanh lệnh bài cùng kẹp vào ắt sẽ khó khăn hơn nhiều. Lúc này bốn người đã đến lúc đấu nội lực, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm nếu các ngươi dùng nội lực đấu với mình là lấy đoản chống trường, chàng nào có sợ gì đâu? Trong giây lát cả bốn người đứng yên không ai động đậy cố vận nội công. Đột nhiên Trương Vô Kỵ thấy ngực đau nhói, tưởng như bị một vật gì thật nhọn đâm vào.

Mũi nhọn đó đâm vào ngực đi thẳng vào trong tim phổi, tay Trương Vô Kỵ liền lỏng ra, thanh đao Đồ Long bị năm chiếc thánh hỏa lệnh hút mất. Chàng gặp đại biến nhưng không hoảng hốt chút nào, thuận tay rút luôn thanh Ỷ Thiên kiếm đeo trên hông dùng ngay chiêu Viên Chuyển Như Ý trong Thái Cực Kiếm pháp, vạch xéo một vòng tròn, cùng đâm vào bụng ba sứ giả Ba Tư. Ba người kia vừa toan nhảy về sau tránh né, Trương Vô Kỵ đã gài thanh kiếm vào trong bao, vươn tay ra đoạt lại thanh đao Đồ Long. Bốn giai đoạn, mất đao, rút kiếm, trả kiếm, đoạt đao thủ pháp cực kỳ nhanh nhẹn chẳng khác gì một ánh chớp, chính là công phu của cấp thứ bảy trong Càn Khôn Đại Na Di.

Ba sứ giả Ba Tư cùng "Ồ" lên một tiếng, hết sức lạ lùng. Họ nội lực kém xa Trương Vô Kỵ nên vừa mở miệng, ba thanh thánh hỏa lệnh liền bị thanh đao Đồ Long hút chặt. Ba người vội vận nội kình giữ lại, thành thế kéo co không bên nào hơn bên nào. Đột nhiên trên ngực Trương Vô Kỵ lại bị đâm nhói một cái nhưng lần này chàng đã đề phòng, bảo đao không tuột khỏi tay. Hai lần bị đâm đó tưởng như hữu hình nhưng lại không phải, một luồng hàn khí luồn qua Cửu Dương thần công hộ thể, xuyên thẳng vào nội tạng. Chàng biết ba sứ giả Ba Tư này nội lực cực kỳ âm hàn, tập trung vào một điểm theo thánh hỏa lệnh truyền đi, vượt qua luồng nội lực cứng rắn của chàng mà vào. Vốn dĩ chí âm công chí dương chưa chắc thắng nổi Cửu Dương thần công, có điều thần công của chàng tỏa ra toàn thân, còn âm kình kia tụ lại nhỏ như sợi tóc mà luồn vào nên chống đỡ hết sức khó khăn. Cái đó cũng chẳng khác gì một đứa trẻ con, một người đàn bà vẫn có thể dùng một kim thêu đâm lủng da của một con voi to lớn. Âm kình vào trong người chàng lập tức biến mất nhưng cũng khiến chàng đau buốt đến xương.

Huy Nguyệt Sứ liên tiếp sử dụng hai lần nội kình "Thấu Cốt Châm", thấy đối phương chống đỡ không cần phải phí một chúc khí lực nào rất lấy làm ngạc nhiên. Diệu Phong Sứ tuy tay trái để không nhưng kình lực toàn thân đã dồn qua bên tay phải, tay trái cũng không khác gì tê liệt. Trương Vô Kỵ biết rằng nếu cứ để dây dưa, địch nhân cứ dùng âm kình chọc tới hết lần này qua lần khác chàng sẽ chịu không nổi, thực không có cách nào đối phó. Chàng nghe tiếng thở của Tạ Tốn mỗi lúc một thêm dồn dập, ông ta đang tới gần, biết ông đang muốn đánh ngã địch để giúp mình. Lúc này bốn người nội kình đã trải rộng ra khắp toàn thân nên Tạ Tốn đánh vào kẻ địch cũng không khác gì đánh vào Trương Vô Kỵ cho nên chần chừ không dám ra tay.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Tình thế nguy hiểm thế này, chi bằng bảo nghĩa phụ chạy thoát trước là hơn". Chàng bèn lớn tiếng nói:

- Tạ đại hiệp, võ công của ba sứ giả Ba Tư tuy kỳ lạ thật nhưng tại hạ thoát thân không lấy gì làm khó. Xin đại hiệp tránh đi trước, tại hạ chạy theo, sẽ phụng hoàn bảo đao sau.

Ba sứ giả Ba Tư thấy chàng đang hết sức chống đỡ mà vẫn có thể mở miệng nói thản nhiên như thường, trong bụng hết sức kinh hãi. Tạ Tốn nói:

- Cao tính đại danh của thiếu hiệp là gì?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm giờ phút này không thể nào hai người nhận nhau, nếu không nghĩa phụ vì quá yêu thương mình sẽ nhất định cùng sống chết với ba sứ giả Ba Tư để bảo vệ cho mình nên đáp:

- Tại hạ họ Tăng, tên A Ngưu. Tạ đại hiệp sao chưa chạy đi chẳng lẽ không tin nổi tại hạ, sợ lấy mất bảo đao hay sao?

Tạ Tốn cười ha hả nói:

- Tăng thiếu hiệp chẳng cần phải dùng lời để khích Tạ mỗ làm gì. Ta với các hạ lấy bụng dạ đo lường nhau, Tạ Tốn này ở vào tuổi gần đất xa trời còn được kết giao với một bằng hữu như thiếu hiệp, quả là một việc cực kỳ sung sướng. Tăng thiếu hiệp, Tạ mỗ định dùng Thất Thương Quyền để đánh người đàn bà này, ta vừa phát kình thì các hạ lập tức bỏ đao rút tay về ngay.

Trương Vô Kỵ biết Thất Thương Quyền của nghĩa phụ rất lợi hại, chàng chỉ cần buông đao cho địch nhân là Tạ Tốn sẽ một quyền đánh chết Huy Nguyệt Sứ ngay. Thế nhưng nếu xảy ra như thế, bản giáo sẽ có mối thâm thù với tổng giáo Ba Tư, chính mình vẫn khăng khăng khuyên nhủ anh em đồng giáo là phải lấy hòa mục làm trọng, nay lại không hỏi đầu đuôi đánh chết sứ giả Ba Tư thì còn làm giáo chủ Minh giáo thế nào được? Chàng vội đáp:

- Hãy khoan.

Quay sang nói với Lưu Vân Sứ:

- Tất cả tạm thời ngừng tay, tại hạ có mấy lời muốn nói cho rõ cùng quí vị.

Lưu Vân Sứ gật đầu, Trương Vô Kỵ nói:

- Tại hạ có liên hệ với Minh giáo hết sức mật thiết, ba vị lại mang thánh hỏa lệnh đến đây, vậy là khách quí của tại hạ, mới đây vô lễ quả thật đắc tội. Tất cả chúng mình cùng thu nội lực về, ngừng tay không đấu nữa được không?

Lưu Vân Sứ liên tiếp gật đầu. Trương Vô Kỵ mừng lắm, lập tức thu kình lực về, ôm thanh đao Đồ Long vào ngực, thấy ba sứ giả Ba Tư cũng đồng thời thu lực về, bất ngờ một luồng âm hàn nhọn như dao, sắc như kiếm, bén như tên, mạnh như dùi đâm thẳng vào huyệt Ngọc Đường trên ngực chàng.

Luồng âm hàn đó tuy vô hình vô chất nhưng khi đâm vào cơ thể cũng chẳng khác gì đao kiếm, Trương Vô Kỵ lập tức ngừng thở bế khí, toàn thân không thể cử động gì được, trong đầu xoay chuyển bao nhiêu ý niệm: "Sau khi ta chết rồi, nghĩa phụ chắc khó thoát khỏi độc thủ, không ngờ sứ giả của Ba Tư lại không đếm xỉa gì đến tín nghĩa. Biểu muội Ân Ly liệu có sống được không? Triệu cô nương và Chu cô nương sẽ ra sao? Tiểu Siêu, ôi, cô bé thật đáng thương! Sự nghiệp kháng Nguyên cứu dân của bản giáo sẽ đi về đâu?". Chỉ thấy Lưu Vân Sứ giơ thanh thánh hỏa lệnh lên đập lên đầu chàng. Trương Vô Kỵ vội vận nội lực xung kích huyệt Ngọc Đường trên ngực đang bị điểm nhưng vẫn chậm mất một bước.

Đột nhiên có tiếng đàn bà kêu lên:

- Đại đội nhân mã Minh giáo Trung Thổ đã kéo đến rồi.

Lưu Vân Sứ ngạc nhiên, cánh tay cầm thánh hỏa lệnh giơ lên ngừng lại trên không chưa đánh xuống. Chỉ thấy một bóng màu xám nhanh như điện xẹt tới, rút phắt thanh kiếm Ỷ Thiên bên hông Trương Vô Kỵ, cả người lẫn kiếm lao vào Lưu Vân Sứ. Trương Vô Kỵ tuy không cử động được nhưng vẫn nhìn thấy rõ ràng, người đó chính là Triệu Mẫn, mừng quá nhưng lại kinh hãi không sao kể xiết. Thì ra nàng sử dụng là một sát chiêu của phái Côn Lôn tên là Ngọc Toái Côn Cương cốt để mình và kẻ địch cùng chết một lượt. Trương Vô Kỵ tuy không biết tên chiêu này nhưng biết rằng nàng dùng kiếm ra chiêu, kiếm Ỷ Thiên sắc bén như thế Lưu Vân Sứ ắt sẽ bị nàng đâm chết nhưng chính nàng cũng khó thoát khỏi độc thủ của địch.

Lưu Vân Sứ thấy kiếm thế ghê gớm quá, không nói gì ba sứ giả liên thủ mà tự mình bảo vệ cũng không xong, trong cơn nguy cấp liền giơ thánh hỏa lệnh dùng sức gạt ra, tiếp theo không kể sống chết lăn ngay xuống đất. Chỉ nghe thấy một tiếng keng, thánh hỏa lệnh đã gạt được Ỷ Thiên kiếm ra nhưng má bên trái cũng thấy mát rượi, chẳng biết mình thế nào đến khi đứng lên được giơ tay sờ má mới thấy dấp dính đau đớn lạ lùng, một mảng râu lẫn thịt trên mặt đã bị kiếm hớt đi, nếu thánh hỏa lệnh không phải là kỳ vật gạt được thanh kiếm ra thì một nửa cái đầu đã bị chém đứt.

Trương Vô Kỵ đi đến gặp Tạ Tốn, Triệu Mẫn nghĩ đến Kim Hoa bà bà gian trá ngụy bí, Trần Hữu Lượng lại có vẻ đáng nghi không yên tâm nên cũng len lén đi theo. Nàng biết mình khinh công không phải là loại thượng thừa, chỉ đi gần một chút là sẽ bị phát giác ngay, nên chỉ theo ở xa xa. Đến khi Trương Vô Kỵ ra tay đấu với ba sứ giả Ba Tư nàng mới đám đến gần, tới lúc Trương Vô Kỵ tỉ đấu nội công với ba người, nàng trong lòng mừng thầm, nghĩ thầm ba người Hồ này võ công tuy quái lạ nhưng làm sao hồn hậu bằng Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ. Đột nhiên Trương Vô Kỵ mở miệng kêu gọi hai bên ngừng tay, Triệu Mẫn đang định lên tiếng bảo chàng cẩn thận thì đối phương đã sử dụng Âm Phong Đao khiến Vô Kỵ ngã lăn ra đất. Trong cơn nguy cấp, Triệu Mẫn không kể sống chết xông ra rút được thanh kiếm Ỷ Thiên ra liền sử dụng ngay một chiêu của phái Côn Lôn nàng học được ở chùa Vạn An xả mệnh tấn công.

Triệu Mẫn chỉ một chiêu đã đánh bật được Lưu Vân Sứ ra, nhưng kiếm Ỷ Thiên cũng bật lại một vòng, cắt đứt một nửa chiếc mũ đội trên đầu để lộ mái tóc dài đen nhánh. Trường kiếm của nàng vòng xéo qua, cả người lao luôn vào Diệu Phong Sứ, thành ra Ỷ Thiên kiếm lại còn ở đằng sau. Chiêu này tên là Nhân Quỉ Đồng Đồ là một tuyệt chiêu của phái Không Động, cùng một kiểu như chiêu Ngọc Toái Côn Cương của phái Côn Lôn, đều là những chiêu khi biết mình thua nên cùng địch nhân ngọc đá đều vỡ cả. Lối đánh đó cực kỳ thảm khốc, các phái Thiếu Lâm, Nga Mi là võ công Phật môn không có những loại như vậy. Ngọc Toái Côn Cương và Nhân Quỉ Đồng Đồ không phải là những chiêu chuyển bại thành thắng, trong cái chết tìm cái sống mà chỉ cốt sao lưỡng bại câu thương, cùng về địa phủ. Hôm trước cao thủ hai phái Côn Lôn, Không Động bị bắt giam bị làm nhục, khi tỉ võ công lực mất cả rồi không cách nào có thể thắng nên một số người tính tình cứng cỏi liều sử hai chiêu này nhưng vì nội kình mất hết, muốn thí mạng cũng không sao làm được nên Triệu Mẫn đã ghi nhớ trong lòng.

Diệu Phong Sứ thấy nàng ra những thế ghê gớm như vậy, hết sức kinh hãi toàn thân lạnh ngắt đứng sững như trời trồng. Người này võ công tuy cao nhưng lại nhát gan, thấy chiêu này không có cách gì chống đỡ kinh sợ cực điểm nên đành đứng yên chịu chết.

Thân hình Triệu Mẫn lao vào thánh hỏa lệnh của Diệu Phong Sứ rồi, cổ tay rung một cái trường kiếm nhắm ngay ngực y đâm tới. Chiêu này trước lấy lấy thân mình xông vào binh khí của địch nhân, dù đao hay kiếm, dù thương hay phủ khi đụng phải thân mình rồi cũng phải chựng lại một chút, mình liền múa kiếm đâm tới, dù địch võ công cao cường cũng khó mà thoát được. Diệu Phong Sứ thấy chiêu này lợi hại quá, sợ đến đứng chết trân. Cũng may trong tay y chỉ là một khối sắt dài chừng một thước không có mũi nhọn nên Triệu Mẫn lao vào rồi cũng không bị thương, trường kiếm vừa đâm ra thì sau lưng đã bị Huy Nguyệt Sứ ôm chặt.

Ba sứ giả Ba Tư liên thủ nghinh địch, phối hợp rất là chặt chẽ không có thể chê vào đâu được. Triệu Mẫn vừa xông ra đã dùng hai chiêu thí mạng để đánh, khiến cho trận pháp của tam đại cao thủ hỗn loạn nên đến bây giờ Huy Nguyệt Sứ mới từ đằng sau ôm được nàng. Thế ôm đó tưởng như không có gì kỳ lạ thực ra rất chính xác, không sai một li, ứng biến thật nhanh chẳng khác gì sao băng. Kiếm đó của Triệu Mẫn tuy lợi hại thật nhưng đâm chưa tới Diệu Phong Sứ thì đằng sau đã bị níu lại. Nàng biết là không xong, thuận theo thế Huy Nguyệt Sứ kéo mình về sau liền quay kiếm đâm ngược vào bụng của mình.

Chiêu kiếm đó rất là mạnh mẽ chính là một chiêu của phái Võ Đương tên là Thiên Địa Đồng Thọ, không phải do Trương Tam Phong sáng tạo mà do Ân Lê Đình khổ tâm nghĩ ra, cốt là để được cùng Dương Tiêu chết chung một lượt. Từ khi Kỷ Hiểu Phù chết đi, trong lòng chỉ còn một ý niệm duy nhất là làm sao giết được Dương Tiêu nhưng tự biết mình không thể nào địch lại, sư phụ tuy là thiên hạ đệ nhất cao thủ nhưng tư chất ngộ tính của ông ta không thể nào học được ba bốn thành của thầy, chỉ mong sao giết được Dương Tiêu rồi mình cũng chẳng muốn sống nữa nên ở trên núi Võ Đương tự nghĩ ra mấy thế đánh thí mạng.

Khi Ân Lê Đình lén tập luyện những thế kiếm đó bị sư phụ bắt gặp, Trương Tam Phong chỉ đành thở dài, biết khó mà có thể khuyên giải nên đặt cho chiêu kiếm này cái tên Thiên Địa Đồng Thọ, ý nói người dẫu chết đi tinh thần không hủ nát thì cũng để lại mãi mãi đến muôn đời, là một chiêu kiếm tự giết mình để giữ được điều nhân, bỏ mạng sống để thu được điều nghĩa, thật là vừa bi thương vừa hùng tráng. Đại đệ tử của Ân Lê Đình tại chùa Vạn An dùng chiêu này được Phạm Dao xông ra cứu kịp. Triệu Mẫn bây giờ lại đem ra sử dụng, chính là chiêu dùng để giết chết kẻ đang ở đằng sau ôm chặt lấy mình, kiếm sắc sẽ đâm qua bụng mình vào bụng kẻ địch, Huy Nguyệt Sứ làm sao tránh được?

Ví như Diệu Phong Sứ chưa sợ đến chết đứng hay Lưu Vân Sứ đứng gần ngay bên, với lối đánh ba người liền thành một khối như thế may ra còn có thể cứu được hai người đàn bà. Chỉ thấy thanh Ỷ Thiên đang sắp sửa đâm lút vào bụng của cả Triệu Mẫn lẫn Huy Nguyệt Sứ thì ngay trong đường tơ kẽ tóc đó, Trương Vô Kỵ vận nội lực xung huyệt đã thành công, vươn tay ra cướp luôn thanh kiếm.

Triệu Mẫn cố vùng ra một cái thoát khỏi vòng tay Huy Nguyệt Sứ đang ôm, phản ứng cực kỳ thần tốc, cầm luôn thánh hỏa lệnh trong tay Trương Vô Kỵ ném ra xa, nghe keng một tiếng rơi vào ngay trận địa cắm đầy kim của Kim Hoa bà bà.

Thánh hỏa lệnh đó ba người Ba Tư coi chẳng khác gì tính mệnh, Lưu Vân Sứ và Huy Nguyệt Sứ không còn dám tiếp tục đối địch với Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn, cũng chẳng thèm để ý đến Diệu Phong Sứ sống chết ra sao, vội vàng nhảy đi tìm. Hai người chạy được hơn một trượng đã đạp vào trong bãi kim nhọn. Huy Nguyệt Sứ thét lên một tiếng, cô nàng đã đạp phải một mũi chông. Ánh trăng mờ, gió thổi mạnh, cỏ cao đến gối thật khó mà nhìn cho ra thánh hỏa lệnh và kim cắm bên dưới, hai người vừa nhổ kim ra vừa mò tay tìm lệnh bài. Diệu Phong Sứ như từ một giấc mơ tỉnh dậy, kêu lên kinh hoàng cũng vội chạy đến.

Triệu Mẫn vì muốn cứu tính mạng Trương Vô Kỵ, ba chiêu kiếm tung ra nhanh như cắt không còn kịp suy nghĩ gì nữa, lúc này bình tâm lại một chút, càng nghĩ càng thấy rùng mình, kêu "Ôi" lên một tiếng sà luôn vào lòng Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ giơ tay ôm lấy nàng trong lòng hết sức cảm động, biết rằng ba sứ giả Ba Tư một khi kiếm được thánh hỏa lệnh rồi thể nào cũng quay lại ngay nên vội nói:

- Thôi mình chạy đi.

Chàng quay lại trả thanh đao cho Tạ Tốn, ôm Ân Ly đang bị thương nặng lên nói với Tạ Tốn:

- Tạ đại hiệp, trước mắt mình nên tránh đi một chút.

Tạ Tốn nói:

- Đúng thế.

Ông cúi xuống giải khai huyệt đạo cho Kim Hoa bà bà. Trương Vô Kỵ nghĩ bụng Kim Hoa bà bà qua cơn chết hụt này, ắt phải xóa hết hiềm thù cùng Tạ Tốn.

Bốn người chạy được mấy trượng, Trương Vô Kỵ nghĩ tuy Ân Ly là biểu muội của mình nhưng dẫu sao nam nữ thụ thụ bất thân, nên giao lại Ân Ly cho Kim Hoa bà bà bồng. Triệu Mẫn đi trước dẫn đường, kế đến là Kim Hoa bà bà và Tạ Tốn, Trương Vô Kỵ đi cuối phòng địch nhân truy kích. Chàng quay đầu lại thấy ba sứ giả Ba Tư vẫn đang lom khom trong đám cỏ cao tìm kiếm. Chàng phen này bị thua to, nghĩ lại những chuyện hung hiểm vừa rồi, cũng thấy hổ thẹn, lại không biết Ân Ly bị thương nặng như thế có thể cứu sống được không.

Ngay khi đang chạy, bỗng nghe Tạ Tốn gầm lên một tiếng dữ dội, giơ quyền đánh thẳng vào lưng Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà xoay tay lại đỡ, đồng thời ném Ân Ly xuống đất. Trương Vô Kỵ kinh hãi, phi thân nhảy tới. Tạ Tốn quát lên:

- Hàn phu nhân, sao bà lại ra tay định giết Ân cô nương?

Kim Hoa bà bà lạnh lùng đáp:

- Ông giết hay không giết tôi là chuyện của ông. Tôi giết hay không giết nó là chuyện của tôi, ông có quyền gì can thiệp vào?

Trương Vô Kỵ nói:

- Có tôi ở đây thì không để cho ai tùy tiện giết người đâu.

Kim Hoa bà bà nói:

- Tôn giá hôm nay rỗi hơi xen vào chuyện người khác chưa đủ hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chuyện này chưa chắc đã là chuyện rỗi hơi đâu. Ba sứ giả Ba Tư chỉ chốc lát là quay lại ngay, sao bà còn không mau chạy đi?

Kim Hoa bà bà hứ một tiếng, chạy về hướng tây, đột nhiên vung tay ném ngược lại ba đóa kim hoa nhắm sau cổ Ân Ly phóng tới. Trương Vô Kỵ giơ tay búng ra, nghe keng keng keng ba tiếng, ba bông hoa bay trở lại Kim Hoa bà bà, tiếng đi rít trên không, xem ra còn mạnh hơn cả dùng cung nõ mà bắn. Lần trước khi chàng ôm Ân Ly đã xóa bỏ hết những râu ria trên mặt, Kim Hoa bà bà đã nhìn rõ diện mạo của chàng, nay thấy thanh niên này nội công thâm hậu đến thế, không dám đưa tay ra bắt, vội vàng nằm mọp xuống đất để tránh. Ba đóa hoa bay xẹt ngang lưng bà ta, xé rách lưng áo ba đường dài, bà ta sợ đến tim đập thình thịch không dám quay đầu lại nữa.

Trương Vô Kỵ bồng Ân Ly lên, bỗng nghe Triệu Mẫn rên một tiếng, cúi gập người xuống, hai tay ôm bụng. Chàng vội vàng chạy đến hỏi:

- Em sao thế?

Chỉ thấy bàn tay nàng đầy những máu, rỉ cả ra những kẽ tay. Thì ra nàng sử chiêu Thiên Địa Đồng Thọ, đã rạch phải bụng rồi. Trương Vô Kỵ kinh hãi thất sắc, vội hỏi:

- Bị thương có nặng không?

Bỗng nghe Diệu Phong Sứ đang ở trong bãi kim reo lên:

- Tìm thấy rồi, tìm thấy rồi.

Triệu Mẫn nói:

- Mặc kệ em, mau chạy đi, chạy đi.

Trương Vô Kỵ giơ tay ôm nàng lên, theo hướng chân núi chạy xuống. Triệu Mẫn nói:

- Xuống dưới thuyền, nhổ neo đào tẩu.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế.

Chàng một bên ôm Ân Ly, một bên ôm Triệu Mẫn chạy xuống. Tạ Tốn chạy theo sau trong lòng lạ lùng: "Thanh niên này quả thực ghê gớm, hai tay ôm hai người mà còn chạy nhanh đến thế".

Trương Vô Kỵ lòng rối như tơ vò, nếu một trong hai thiếu nữ trên tay bị thương không cứu được thì đều là mối hận cả đời. Cũng may chàng vẫn thấy hai người còn ấm, không có dấu hiệu gì đang lạnh dần.

Ba sứ giả Ba Tư tìm được thánh hỏa lệnh rồi, lại đuổi theo nhưng ba người đó khinh công không bằng được Trương Vô Kỵ, so với Tạ Tốn cũng kém xa. Trương Vô Kỵ chạy gần đến thuyền, lớn tiếng nói:

- Thiệu Mẫn quận chúa có lệnh: Các thủy thủ giương buồm nhổ neo, lập tức khai thuyền.

Khi chàng và Tạ Tốn lên được thuyền thì buồm đã kéo lên. Tuy nhiên người lái thuyền phải đợi chính miệng Triệu Mẫn ra lệnh nên chạy lên hỏi ý kiến. Triệu Mẫn mất máu quá nhiều, chỉ thều thào nói:

- Nghe ... nghe lệnh Trương công tử ... là được ...

Người tiêu công liền lái thuyền ra, khi ba sứ giả Ba Tư chạy đến bên bờ thì thuyền đã cách bờ đến mấy chục trượng.

Trương Vô Kỵ đem Ân Ly và Triệu Mẫn đặt nằm trong khoang thuyền, có Tiểu Siêu ở bên giúp đỡ, cởi áo hai người để lộ vết thương ra. Trương Vô Kỵ xem xét thương thế, thấy trên bụng Triệu Mẫn bị một vết thương sâu đến nửa tấc, máu chảy tuy nhiều nhưng không đến nỗi nguy đến tính mạng. Ân Ly thì bị ba đóa kim hoa toàn chỗ yếu hại, Kim Hoa bà bà ra tay rất nặng cứu được hay không cũng thật khó mà biết. Chàng liền rắc thuốc buộc vết thương cho cả hai người. Ân Ly vốn dĩ đã hôn mê bất tỉnh từ lâu không còn biết gì nữa, còn Triệu Mẫn nước mắt rưng rưng, Trương Vô Kỵ hỏi trong người ra sao, nàng chỉ bặm môi không trả lời.

Tạ Tốn nói:

- Tăng thiếu hiệp, Tạ mỗ xa rời nhân thế nay vô tình trở về Trung Thổ, lại quen biết được một người bạn nghĩa khí thâm trọng như các hạ, quả thật vui mừng ngoài dự liệu.

Trương Vô Kỵ đỡ ông ngồi trên ghế trong khoang thuyền, quì phục xuống lạy, khóc nói:

- Nghĩa phụ, hài nhi Vô Kỵ bất hiếu, không đến đón cha sớm hơn được khiến cho cha phải chịu biết bao nhiêu khổ sở.

Tạ Tốn giật mình hoảng hốt, lắp bắp:

- Cậu ... cậu nói gì thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Hài nhi chính là Trương Vô Kỵ đây.

Tạ Tốn làm sao tin cho nổi, vẫn ấp úng:

- Cậu ... cậu nói sao?

Trương Vô Kỵ liền đọc:

- Quyền học chi đạo tại ngưng thần, ý tại lực tiên năng chế thắng[1] ...

Chàng cứ thao thao bất tuyệt đọc thuộc lòng, toàn là võ học yếu quyết Tạ Tốn đã từng dạy chàng trên Băng Hỏa đảo. Đọc được chừng hai chục câu, Tạ Tốn vừa mừng vừa sợ nắm chặt hai tay chàng, run run nói:

- Con ... con có thực là thằng bé Vô Kỵ của ta không?

Trương Vô Kỵ đứng lên, ôm chặt lấy ông, đem mọi chuyện quan trọng kể lại, nhưng việc lên làm giáo chủ Minh giáo thì chàng tạm thời không đề cập đến để nghĩa phụ khỏi phải theo tôn ti mà hành lễ với mình. Tạ Tốn tưởng như đang trong một giấc mơ, lúc này không còn không tin nữa chỉ nhắc đi nhắc lại:

- Thật ông trời có mắt, thật ông trời có mắt.

Bỗng nghe từ phía đuôi thuyền các thủy thủ kêu lên:

- Thuyền địch đang đuổi theo.

Trương Vô Kỵ chạy lên sau thuyền nhìn ra, thấy thuyền địch nhiều buồm thân nhẹ càng lúc càng gần, trong lòng hoang mang không biết phải làm sao cho phải, nghĩ thầm chỉ còn cách để cho ba sứ giả Ba Tư lên thuyền rồi dụ họ vào khoang đấu một trận nữa, đưa mắt tìm chỗ chật hẹp cốt ba người kia không thể liên thủ. Chàng bèn dời Triệu Mẫn và Ân Ly sang một bên, lên khoang trên xách hai cái neo sắt lớn đem xuống để làm vật cản để cho các sứ giả Ba Tư phải từng người một đấu với mình.

Chàng sắp đặt xong, đột nhiên nghe ùm một tiếng lớn, thuyền chao qua một bên, nước biển bốc vọt lên cao, tạt cả vào sàn thuyền. Thủy thủ đằng sau kêu lên:

- Thuyền địch khai pháo, thuyền địch khai pháo.

Phát đạn đó bắn vào bên hông cũng may chưa trúng. Triệu Mẫn quay về phía Trương Vô Kỵ vẫy tay, nói nhỏ:

- Thuyền mình cũng có súng đó.

Câu đó khiến Trương Vô Kỵ nhớ ra, lập tức chạy lên trên sàn chỉ huy các thủy thủ gỡ các vật che đậy các cỗ súng, nhồi thuốc lắp đạn, châm mồi bắn trả. Chỉ nghe bình một tiếng lớn, một phát đạn đã bắn ra. Thế nhưng những thủy thủ đó đều là võ sĩ thủ hạ của Triệu Mẫn cải trang, võ công tuy cao, hải chiến lại không biết gì, thành thử viên đạn bắn ra rơi ngay giữa hai chiếc thuyền, nước văng lên cao cả mấy trượng nhưng thuyền địch không lay động chút nào. Thế như thuyền địch thấy đối phương cũng có đại pháo không còn dám tiến tới gần nữa. Một lát sau, thuyền địch lại bắn thêm một quả đạn nữa, trúng ngay đầu thuyền, thuyền liền bốc hỏa.

Trương Vô Kỵ liền chỉ huy các thủy thủ dội nước dập lửa, bỗng thấy tầng trên một ngọn lửa bốc ra. Chàng hai tay bưng một thùng nước, đạp tung cửa khoang hắt luôn vào, ngọn lửa liền tắt ngúm. Trong đám khói mù mịt chàng nhìn thấy một thiếu nữ ướt mèm nằm sóng soài trên giường, chính là Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ vứt thùng xuống, chạy vào trong phòng hỏi gấp:

- Chu cô nương, có sao không?

Chu Chỉ Nhược đầu tóc đầy những nước, hình dáng thật là thảm hại, trong cơn nguy cấp bỗng thấy chàng xuất hiện, kinh ngạc không đâu kể xiết. Nàng vừa cử động hai tay, lập tức có tiếng loảng xoảng. Thì ra chân tay nàng đều bị Kim Hoa bà bà dùng xích sắt khóa chặt, Trương Vô Kỵ vội chạy xuống tầng dưới lấy thanh Ỷ Thiên kiếm lên chặt đứt xích. Chu Chỉ Nhược nói:

- Trương giáo chủ, sao ... sao giáo chủ lại đến được nơi đây?

Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, thân thuyền lại dao động đữ đội khiến nàng loạng choạng sà luôn vào lòng chàng. Trương Vô Kỵ vội giơ tay ra đỡ, ánh lửa từ ngoài cửa sổ chiếu vào, thấy khuôn mặt tái nhợt của nàng ửng hồng, lại thêm mấy giọt nước trông thật xinh đẹp thanh nhã, tưởng như một nàng tiên vừa dưới nước hiện lên. Trương Vô Kỵ định thần, nói:

- Thôi mình đi xuống khoang dưới.

Hai người ra khỏi cửa khoang thấy thuyền chòng chành dữ dội, thì ra khi địch bắn vào đã làm gãy nát bánh lái, ngay cả người tài công cũng bị văng xuống biển chết rồi. Người thuyền trưởng hoảng hốt, vội đích thân đến nhồi thuốc bắn trả, chỉ mong trúng thuyền địch cho chìm nên đổ thật đầy, dùng thiết côn nén thật chặt. Y chỉnh khẩu súng ngóc lên cao, đốt dây mồi. Chỉ thấy một ánh lửa lóe lên, một tiếng nổ vang trời, cỗ đại pháo vỡ tan, mảnh sắt văng tung tóe, cả viên thuyền trưởng lẫn các thủy thủ đứng chung quanh đều tan xác, máu thịt bay tứ phía. Chỉ vì viên thuyền trưởng muốn cho sức nổ thật mạnh nên nhồi quá nhiều thuốc súng thành thử vỡ luôn khẩu thần công.

Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược chạy lên trên sàn thuyền thấy chung quanh chỗ nào cũng có lửa cháy, chỉ chốc lát là chìm, thấy ở bên hông có buộc một chiếc thuyền con vội kêu lên:

- Chu cô nương, mau nhảy xuống thuyền nhỏ đi ...

Lúc này Tiểu Siêu đã ôm được Ân Ly, Tạ Tốn bồng Triệu Mẫn từ khoang dưới chạy lên. Tiếng nổ vừa rồi khiến cho đáy thuyển thủng một lỗ lớn, nước biển liền ùa vào như thác. Trương Vô Kỵ đợi Tạ Tốn, Tiểu Siêu đã xuống thuyền nhỏ rồi, vung kiếm chặt đứt dây buộc, nghe bạch một tiếng chiếc thuyền rơi luôn xuống biển. Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng nhảy xuống, đúng ngay giữa thuyền, cầm luôn hai mái giầm ra sức bơi ra.

Khi đó chiếc chiến thuyền lửa đã bốc cao chiếu đỏ cả một vùng biển. Trương Vô Kỵ toàn lực chèo thuyền, nghĩ thầm chỉ cần bơi ra được vùng lửa không soi tới, ba sứ giả Ba Tư không nhìn thấy thuyền tưởng rằng mọi người đã chết hết trong biển cả rồi sẽ không đuổi theo nữa. Tạ Tốn cũng cầm một mảnh ván chèo phụ.

Chiếc thuyền nhỏ lướt đi trên mặt biển, chỉ trong chốc lát đã ra khỏi vùng lửa chiếu tới. Chỉ thấy chiếc đại chiến thuyền kia từng tiếng nổ vang, thuốc nổ trên thuyền không ngừng bùng lên, chiếc thuyền Ba Tư không dám đến gần chỉ neo lại xa xa quan sát. Một số võ sĩ của Triệu Mẫn thông thạo thủy tính, cố bơi lại gần thuyền địch cầu cứu đều bị người Ba Tư dùng cung tên bắn chết.

Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn không dám ngừng tay, nếu như trên đất liền gặp ba sứ giả Ba Tư đuổi tới còn liều tử chiến một phen, bây giờ nơi biển cả mênh mông này, địch nhân chỉ cần bắn một phát đại bác, dẫu chỉ cách chiếc thuyền vài trượng thôi, sóng ụp vào thể nào cũng lật. Cũng may hai người nội lực thâm hậu, chèo đến nửa đêm cũng chưa tỏ vẻ gì mỏi mệt.

Đến khi trời sáng lại thấy mây đen kéo đầy trời, bốn bề sương mù xám xịt. Trương Vô Kỵ mừng rỡ nói:

- - Sương mù này thật tốt, chỉ thêm nửa ngày nữa, kẻ địch không thể nào kiếm thấy chúng ta được.

Nào ngờ đến quá trưa hôm đó, gió bỗng thổi mạnh, rồi mưa như trút. Chiếc thuyền nhỏ bị gió thổi trôi giạt về hướng nam. Lúc này trời đang vào mùa đông, quần áo ai nấy ướt đẫm, Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn nội lực thâm hậu không đến nỗi nào, còn Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu mỗi lần gió bấc thổi đến, lại run lập cập hàm răng đánh vào nhau lách cách. Thế nhưng trên thuyền chẳng có gì khác không ai có thể nghĩ được cách nào cho bớt lạnh. Khi đó mấy chiếc giầm không ai chèo nữa, bốn người cởi giày làm gàu tát nước mưa trong thuyền ra.

Tạ Tốn nay gặp được Trương Vô Kỵ trong lòng hết sức vui mừng, tuy trước mắt đầy hiểm nguy nhưng chẳng coi vào đâu, trong mưa gió vẫn nói cười như không. Tiểu Siêu tính tình ngây thơ, cũng cười đùa vui vẻ, chỉ riêng Chu Chỉ Nhược vẫn lặng yên không nói lời nào, thỉnh thoảng ánh mắt chạm phải Trương Vô Kỵ, lập tức quay đầu sang chỗ khác. Tạ Tốn nói:

- Vô Kỵ, năm xưa ta cùng cha mẹ con dong thuyền ra biển xuất dương, giữa đường bị một trận bão, so với trận bão hôm nay ghê gớm hơn nhiều. Bọn ta về sau lên được băng sơn, bắt hải cẩu ăn thịt. Có điều hồi đó là gió nam, thổi chúng ta đến miền cực bắc băng sơn tuyết địa, còn hôm nay lại là gió bắc, không lẽ ông trời thấy Tạ Tốn này không hợp nhãn, nên đày ta đến chỗ Nam cực tiên ông, sống ở đó thêm hai chục năm nữa hay sao? Ha ha, ha ha!

Ông ta cười một tràng rồi nói tiếp:

- Năm xưa cha mẹ con một nam một nữ, trai tài gái sắc, đúng là duyên trời se, còn nay con lại mang theo tới bốn cô gái, thế là thế nào đây? Ha ha, ha ha!

Chu Chỉ Nhược mặt đỏ bừng, cúi đầu xuống, còn Tiểu Siêu vẫn bình thản nói:

- Tạ lão gia tử, cháu chỉ là con tiểu a đầu hầu hạ công tử thôi, không tính vào trong đó được.

Triệu Mẫn tuy bị thương nặng nhưng cũng đã tỉnh, đột nhiên nói:

- Tạ lão gia tử, ông mà còn nói nhăng nói cuội nữa, đợi tôi khỏi rồi, tôi sẽ nắm tai ông đánh cho một trận.

Tạ Tốn le lưỡi, cười nói:

- Gớm cô này ghê thật.

Ông ta bỗng ngừng lại không cười nữa, trầm ngâm rồi nói:

- Ồ, đêm qua cô đánh thí mạng ra ba chiêu, chiêu thứ nhất là chiêu Ngọc Toái Côn Cương của phái Côn Lôn, chiêu thứ hai là chiêu Nhân Quỉ Đồng Đồ của phái Không Động, còn chiêu thứ ba, hừ, lão già này quê mùa dốt nát, không nghĩ ra là chiêu nào.

Triệu Mẫn trong bụng kinh hãi thầm: "Thảo nào Kim Mao Sư Vương năm xưa danh chấn thiên hạ, đại náo một phen khiến chốn giang hồ nghiêng trời lệch đất. Hai mắt ông ta không nhìn thấy, thế mà cũng đoán ra được hai chiêu ta sử dụng, quả đúng là danh bất hư truyền".

Nàng liền nói:

- Chiêu thứ ba có tên là Thiên Địa Đồng Thọ của phái Võ Đương, hình như là chiêu số mới sáng tác lão gia tử không biết là phải.

Giọng nàng lúc này thật là cung kính. Tạ Tốn thở dài:

- Cô hết sức cứu Vô Kỵ, quả thực tốt lắm, nhưng việc gì phải thí mạng như thế? Hử, việc gì phải thí mạng như thế?

Triệu Mẫn ấp úng:

- Anh ấy ... anh ấy ...

Nói đến đây nàng dừng lại, ngập ngừng không muốn nói tiếp, nhưng sau cùng nhịn không nổi nghẹn ngào:

- Anh ấy ... ai bảo anh ấy ... ôm Ân cô nương tình tứ ... tình tứ đến thế, tiểu nữ cũng chẳng còn muốn sống làm gì!

Nàng nói hết câu, nước mắt ròng ròng chảy xuống. Bốn người nghe thấy cô gái trẻ tuổi này thổ lộ tâm sự không khỏi ngạc nhiên, đâu ai biết rằng Triệu Mẫn là gái Mông Cổ, yêu ai thì nói là yêu, ghét ai thì nói là ghét, không vờ vĩnh che đậy, khác hẳn gái Trung Thổ vốn thấm nhuần lễ giáo khuôn sáo. Hơn nữa đang lúc trên thuyền, chung quanh biển cả mênh mông, mưa như trút, bất cứ lúc nào thuyền cũng có thể bị đắm, sống chết chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc, nên không còn gì để phải kiêng dè.

Trương Vô Kỵ nghe Triệu Mẫn nói mấy câu đó trong lòng cực kỳ xúc động: "Triệu cô nương vốn là đại địch của ta, lần này ta theo nàng ra hải ngoại, chủ ý vốn để nghinh tiếp nghĩa phụ về, đâu ngờ nàng lại mang một mối thâm tình với ta đến thế". Chàng không cầm lòng nổi giơ tay ra nắm tay nàng, ghé miệng vào tai nói nhỏ:

- Từ nay dù thế nào cũng không được làm vậy nữa, nghe chưa?

Triệu Mẫn vừa nói ra, chợt thấy ăn năn nghĩ thầm mình là con gái không biết giữ gìn lời ăn tiếng nói, những chuyện như thế lẽ nào lại chính miệng thốt ra để cho chàng coi thường mình? Bây giờ nàng nghe lời ân cần trách cứ của Trương Vô Kỵ, vừa mừng vừa sợ, vừa thẹn vừa yêu, trong lòng biết bao ngọt ngào êm ấm, cảm thấy tối qua ba lần vào sinh ra tử, hôm nay trên biển cả phiêu bạt lênh đênh cũng không phải là uổng phí.

Mưa một trận to rồi cũng tạnh dần nhưng mây đen thì mỗi lúc một nhiều. Bỗng nghe một tiếng quẫy mạnh, một con cá ước chừng ba mươi cân từ dưới nước nhảy lên, Tạ Tốn giơ tay trái ra chộp luôn vào bụng cá, bắt ngay vào trong thuyền. Ai nấy đều lên tiếng reo hò, Tiểu Siêu rút trường kiếm đem cá ra mổ bụng đánh vảy, cắt thành từng miếng. Mọi người ai nấy đói lòng, nhưng cá sống thật tanh, cố gắng mãi mới ăn được. Riêng Tạ Tốn ăn thật ngon lành, ông ở trên hoang đảo hơn hai mươi năm, món gì cũng đã ăn qua nói gì đến cá sống? Huống chi cá sống nếu nhai lâu một chút, sau cái mùi vị tanh tanh sẽ thấy ngon ngọt lạ thường.

Sóng gió trên biển lặng dần, mọi người ăn cá xong nhắm mắt dưỡng thần, hôm qua một ngày một đêm kịch đấu, ai nấy đều cực kỳ mỏi mệt. Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu tuy không giao đấu nhưng bị kinh hãi cũng không phải là ít. Biển cả lay động con thuyền chẳng khác gì nằm võng đu đưa, trên thuyền cả sáu người trước sau đều thiếp đi.

Mọi người ngủ một giấc dài, phải đếm ba giờ sau mới dậy. Tạ Tốn tuổi già tỉnh trước, nghe tiếng thở của năm người trai gái nhịp nhàng cùng với tiếng gió biển. Triệu Mẫn và Ân Ly bị thương rồi, hơi thở xem ra dồn dập, Chu Chỉ Nhược thì nhẹ và dài, còn Trương Vô Kỵ giữa mỗi lần hô hấp, lúc đứt quãng lúc liên tục, không rõ ràng khiến Tạ Tốn ngầm kinh dị: "Thằng bé này nội lực thật là thâm hậu, ta bình sinh chưa gặp bao giờ". Riêng Tiểu Siêu hơi thở lúc nhanh, lúc chậm, rõ ràng nàng luyện một môn võ công hết sức lạ lùng, Tạ Tốn nhíu mày, nghĩ thầm: "Quả thật là lạ lùng, không lẽ con bé này là ...".

Đột nhiên Ân Ly quát lên:

- Tên tiểu tử Trương Vô Kỵ kia, sao không lên đảo Linh Xà với ta?

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu nghe tiếng hét đó đều choàng tỉnh. Lại nghe nàng ta nói tiếp:

- Ta ở một mình trên đảo, tịch mịch cô đơn ... sao ngươi không đến chơi với ta? Ta ngày đêm khổ sở nhớ thương ngươi, ngươi ... ngươi ở dưới âm có biết cho chăng?

Trương Vô Kỵ giơ tay sờ đầu nàng, thấy hầm hập như một lò than, biết là nàng bị thương nặng lên cơn sốt, nói mê nói sảng. Tuy chàng y thuật tinh thâm, nhưng trong chiếc thuyền nhỏ không thuốc men cũng đành chịu bó tay, đành xé một mảnh áo, thấm nước đắp lên trán cho bớt nóng.

Ân Ly vẫn nói tiếp tục nói lảm nhảm, đột nhiên kinh hoảng kêu lên:

- Cha ơi, cha ... cha đừng giết mẹ con, đừng giết mẹ con ... Dì hai là do con giết đó, cha giết con đi, không liên quan gì đến mẹ con cả ... Mẹ ơi, mẹ chết rồi! Con làm hại mẹ rồi! Hu hu ... hu hu ...

Nàng cất tiếng khóc thật là thương tâm. Trương Vô Kỵ nhỏ nhẹ nói:

- Châu Nhi, Châu Nhi, em tỉnh lại đi. Cha em đâu có ở đây, đừng sợ.

Ân Ly giận dữ nói:

- Cha em không ra gì, em có sợ cha em đâu. Tại sao ông ấy lại lấy vợ hai, vợ ba? Một người đàn ông lấy một vợ chưa đủ hay sao? Cha ơi, cha thay lòng đổi dạ, có mới nới cũ, lấy hết người này đến người khác, làm khổ mẹ con quá, làm khổ lây cả con nữa! Ông không phải là cha tôi, ông là kẻ bạc tình, là đại ác nhân!

Trương Vô Kỵ bỗng giật mình kinh hoảng, sợ đến mặt mày tái mét. Thì ra mới rồi chàng mơ một giấc mơ thật đẹp, thấy mình lấy được Triệu Mẫn, lại lấy cả Chu Chỉ Nhược. Khuôn mặt sưng phù của Ân Ly cũng biến thành đẹp, luôn cả Tiểu Siêu cũng lấy mình luôn. Ban ngày ban mặt chàng đâu có dám nghĩ tới, nhưng trong giấc ngủ lại thành sự thực, thấy cả bốn cô nào nào cũng tốt, mình không thể bỏ người nào. Khi chàng an ủi Ân Ly, trong đầu vẫn mơ màng nghĩ tới những phút giây vui sướng ấy.

Bây giờ chàng nghe Ân Ly trách mắng phụ thân, nghĩ lại chuyện kể hồi trước, nàng không chịu để cho mẹ bị khinh khi nên giết chết ái thiếp của cha, mẹ nàng vì thế mà phải tự vẫn, chính cậu chàng là Ân Dã Vương đã toan một đao giết chết con ruột mình. Câu chuyện luân thường đại biến, thảm khốc kia cũng chỉ vì Ân Dã Vương không chung tình với một người lại năm thê bảy thiếp mà ra. Chàng quay qua nhìn Triệu Mẫn, lại liếc Chu Chỉ Nhược một cái, nghĩ đến giấc mộng không khỏi thẹn thùng.

Ân Ly lại nằm mơ nói lảm nhảm một hồi, đột nhiên đổi giọng van xin:

- Vô Kỵ, anh đi với em đi, đi với em đi. Anh cắn lưng bàn tay em một cái nhưng em chẳng giận anh chút nào. Em nguyện một đời hầu hạ anh, chiều chuộng anh, coi anh như chủ của em vậy. Nếu anh thấy em xấu xí, em sẽ hủy hết võ công để cho anh vui lòng, bỏ hết chất nhện độc để anh thấy em vẫn như hồi mới gặp nhau ...

Câu đó nàng nói thật dịu dàng, uyển chuyển, Trương Vô Kỵ nghĩ đến cô em họ tính khí thất thường, vui buồn thay đổi, tuy bề ngoài lạ lùng như trong lòng đầy vẻ ôn nhu. Lại nghe nàng nói tiếp:

- Vô Kỵ, em đi khắp nơi tìm anh, đủ mọi chân trời góc biển, nghe được tin mới biết anh ở Tây Vực rơi xuống hang núi chết rồi, em đau lòng không còn muốn sống nữa. Ở Tây Vực em gặp một thanh niên tên là Tăng A Ngưu, y võ công cao cường, tính hạnh cũng tốt, anh ta bảo sẽ lấy em làm vợ.

Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu đều biết Tăng A Ngưu chính là tên giả của Trương Vô Kỵ, không hẹn mà cùng quay lại nhìn chàng. Trương Vô Kỵ mặt đỏ như gấc chín, hết sức bối rối thấy ba cô gái nhìn mình bằng cặp mắt lạ lùng, chỉ hận không nhảy xuống biển ngay được chờ cho Ân Ly tỉnh lại mới quay trở lên.

Lại nghe Ân Ly lẩm bẩm nói tiếp:

- Cái anh A Ngưu đó nói với em rằng: "Cô nương, tôi thành tâm thành ý, mong được lấy cô làm vợ, chỉ mong cô đừng cho rằng tôi không xứng đáng thôi". Y lại nói: "Từ nay trở đi, anh sẽ hết lòng yêu thương bảo vệ em, lo lắng cho em, dù ai đến gây khó dễ cho em, dù người đó tài ba ghê gớm thế nào đến khinh khi em, anh sẻ xả thân để bảo vệ cho em được chu toàn. Anh mong em được bình yên vui vẻ, quên đi những bất hạnh khổ đau từ trước". Vô Kỵ, cái anh A Ngưu đó nhân phẩm còn tốt hơn anh nhiều, võ công giỏi hơn cả Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi. Thế nhưng trong lòng em đã có một tên tiểu quỉ lang tâm đoản mệnh rồi, nên em không nhận lời anh ta. Anh chết sớm, em sẽ ở vậy thủ tiết cùng anh. Vô Kỵ, anh thử xem, A Ly đối với anh tốt hay không tốt? Năm xưa anh coi thường em, bây giờ trong lòng anh có hối hận hay không?

Lúc đầu Trương Vô Kỵ nghe nàng kể lể những gì mình nói với cô ta thấy thật là xấu hổ nhưng càng nghe càng thêm cảm động, tự nhiên nước mắt ròng ròng. Lúc này sương mù cũng đã tan đi, một vầng trăng non chiếu xuống Ân Ly nằm nghiêng nghiêng, chỉ thấy thân hình thon thả của nàng. Lại nghe nàng nói nho nhỏ:

- Vô Kỵ, anh ở chốn u minh có tịch mịch lắm không? Có cô đơn không? Em theo bà bà đi đến Băng Hỏa đảo ở bắc hải tìm đón nghĩa phụ anh về, sau đó sẽ lên núi Võ Đương quét dọn cúng tế mộ phần cha mẹ anh, rồi sẽ đến Tây Vực nơi đỉnh núi tuyết anh táng mệnh nhảy xuống, để bầu bạn với anh. Có điều em phải đợi cho bà bà trăm tuổi rồi chứ không thể theo anh sớm hơn để bà bà ở lại một mình lênh đênh khổ sở. Bà bà đối với em tốt lắm, nếu không có bà bà cứu cho thì cha em đã giết em rồi. Em vì cha nuôi của anh mà phải phản lại bà bà, chắc là bà bà hận em lắm. Em chỉ muốn thật tốt với bà bà thôi, Vô Kỵ, anh nghĩ có phải không?

Câu nói đó dường như nàng muốn trần tình với Trương Vô Kỵ. Trong lòng nàng, Trương Vô Kỵ đã là quỉ ở dưới âm, những câu nói hết sức ôn nhu dịu dàng với một hồn ma, nơi một chiếc thuyền lênh đênh trong đêm vắng, dưới ánh trăng suông, quả thật thê lương.

Nàng nói tiếp câu nọ xọ câu kia, chỗ này một câu chỗ kia một câu, lúc thì hoảng hốt kêu la, lúc thì giận dữ chửi bới, câu nào cũng nói lên tâm trạng vô cùng bi thương, thống khổ. Những câu nói mê lảm nhảm ấy nhỏ dần rồi nàng lại ngủ thiếp đi. Năm người không ai nói một câu, mỗi người một tâm sự, nghe tiếng sóng bập bềnh nơi mạn thuyền, thấy rằng chỉ có gió mát trăng trong là mãi mãi thôi, còn mối âu lo của con người không bao giờ dứt.

Đột nhiên một giọng ca thật nhẹ nhàng, thật phiếu diểu vang lên trên mặt biển:

Cõi trần kẻ trước người sau,

Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay.

Hôm nay chỉ biết hôm nay,

Trăm năm thấm thoát đã hay một đời.

Mấy ai thọ được bảy mươi,

Thời gian như nước chảy xuôi qua cầu.

Chính là tiếng hát của Ân Ly trong giấc mơ cất lên. Trương Vô Kỵ nghe xong giật mình, nhớ lại trên con đường hầm nơi Quang Minh Đính khi bị Thành Côn đóng mất lối ra, không còn cách nào thoát thân, Tiểu Siêu cũng đã hát lên khúc hát này. Chàng đưa mắt nhìn Tiểu Siêu, dưới ánh trăng cũng thấy cô gái đang say đắm ngẩn ngơ nhìn mình.

Hồi 30

ĐÔNG TÂY VĨNH CÁCH NHƯ SÂM THƯƠNG

Dẫu cho xa cách muôn trùng,

Thân tuy hai ngả nhưng lòng không chia.

*

* *

Ân Ly hát khúc hát đó rồi, sau đó lại thêm một bài khác, lần này tiếng ca hết sức ngụy bí, không giống điệu hát Trung Thổ chút nào, nghe cho kỹ thấy từ ý cũng giống như khúc hát của Tiểu Siêu:

Đến như nước chảy xuôi khe,

Đi như gió cuốn biết về nơi nao.

Cuộc đời như thể chiêm bao,

Về đâu rồi sẽ ra sao bây chừ?

(Lai như lưu thủy hề, thệ như phong.

Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung)

Nàng cứ hát đi hát lại hai câu ấy mãi, càng lúc càng nhỏ dần, đến khi tiếng hát lẫn vào tiếng sóng, tiếng gió không còn nghe thấy gì nữa. Mọi người nghĩ đến sinh tử vô thường, cõi nhân sinh như nước sông chảy mãi không hiểu từ đâu mà đến, dẫu cho anh hùng hào kiệt cũng không ai qua khỏi được cái chết, có khác gì gió mát kia chẳng biết thổi về nơi nào. Trương Vô Kỵ thấy bàn tay nhỏ nhắn của Triệu Mẫn lạnh như băng nằm trong tay mình hơi run rẩy.

Tạ Tốn bỗng nói:

- Khúc hát Ba Tư này là do Hàn phu nhân dạy cho cô ta đó, một buổi chiều hơn hai mươi năm trước, ta ở trên Quang Minh Đính đã từng nghe rồi. Ôi, đâu có ngờ Hàn phu nhân lại tuyệt tình đến thế, ra tay hạ độc thủ với con bé đến thế này.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Lão gia tử, Hàn phu nhân làm sao biết hát khúc hát Ba Tư, hay vốn là bài ca của Minh giáo chăng?

Tạ Tốn đáp:

- Minh giáo truyền từ Ba Tư, khúc hát Ba Tư này có uyên nguyên với Minh giáo nhưng không phải là bài ca của Minh giáo. Bài hát này là do một vị thi nhân rất nổi tiếng của Ba Tư hơn hai trăm năm trước đây tên là Nga Mặc làm, nghe nói người Ba Tư ai ai cũng biết cả. Năm xưa khi ta nghe khúc hát này thấy hay quá nên có hỏi Hàn phu nhân về lai lịch của bài ca, bà ta có kể rõ ràng đầu đuôi cho ta nghe.

Ngày đó đại triết gia của Ba Tư là Dã Mang mở trường dạy học, môn hạ có ba đệ tử kiệt xuất: Nga Mặc giỏi về văn học, Ni Nhược Mâu giỏi về chính trị còn Thôi Sơn giỏi về võ công. Ba người hợp tính nhau nên cùng thề ước nếu giàu sang sẽ không quên nhau. Về sau Ni Nhược Mâu đường mây rong ruổi được làm Thủ tướng của Giáo Vương. Hai người bạn cũ cũng tới, Ni Nhược Mâu xin với Giáo Vương phong quan chức cho Thôi Sơn. Nga Mặc không muốn làm quan, chỉ xin một món tiền bổng hàng năm để có thì giờ nghiên cứu thiên văn lịch số, uống rượu ngâm thơ. Ni Nhược Mâu mọi việc đều ưng thuận, đối xử thật hậu hĩ.

Ngờ đâu Thôi Sơn vẫn mang hùng tâm không chịu ở dưới người khác, âm mưu phản loạn. Việc y làm thất bại bèn kết tụ đồng đảng vào trong núi thành một thủ lãnh tông phái uy chấn thiên hạ, gọi là phái Y Tư Mỹ Lương chuyên ám sát giết người. Thời Thập Tự Quân, người Tây Vực khi nói đến tên Sơn Trung lão nhân Thôi Sơn, không ai là không kinh sợ. Thời đó vua các nước Tây Vực bị chết về tay các thủ hạ của Thôi Sơn không biết bao nhiêu mà kể.

Hàn phu nhân nói rằng, bên phía cực tây ngoài biển khơi có một đại quốc, tên là Anh Cách Lan, vua nước đó là Ái Đức Hoa có lỗi với Sơn Trung lão nhân bị y sai người hành thích. Quốc vương bị trúng dao tẩm thuốc độc, may nhờ vương hậu xả thân cứu chồng, hút chất độc ở vết thương ra, nhờ thế nhà vua mới thoát chết. Thôi Sơn chẳng kể gì đến ân nghĩa ngày xưa, lại sai người giết chết Thủ tướng Ba Tư là Ni Nhược Mâu. Khi sắp chết, Thủ tướng ngâm bài thơ của Nga Mặc, chính là hai câu "Đến như nước chảy hề, đi như gió, Ai biết về đâu hề, rồi ra sao?". Hàn phu nhân cũng có nói rằng về sau võ công của Sơn Trung Lão Nhân do Minh giáo học được. Ba sứ giả Ba Tư võ công quái dị lạ lùng, có lẽ học từ Sơn Trung lão nhân.[1]

Triệu Mẫn hỏi:

- Tạ lão gia, tính tình của Hàn phu nhân cũng chẳng khác gì Sơn Trung lão nhân. Ông đối xử với bà ta hết tình hết nghĩa vậy mà bà ta lại âm mưu hại ông.

Tạ Tốn thở dài:

- Ở trên đời này con người lấy oán báo đức là chuyện thật là bình thường, có gì lạ đâu?

Triệu Mẫn cúi đầu suy nghĩ một lát nói:

- Hàn phu nhân được đứng đầu tứ vương của Minh giáo, sao võ công không có gì là cao cường hơn lão gia cả. Đêm hôm qua bà ta động thủ với ba sứ giả Ba Tư, sao không thấy sử dụng Thiên Châu Vạn Độc Thủ là sao?

Tạ Tốn ngạc nhiên:

- Thiên Châu Vạn Độc Thủ? Hàn phu nhân đâu có biết sử dụng. Bà ta là một tuyệt sắc mỹ nhân, quí dung nhan còn hơn tính mạng của mình đời nào lại luyện công phu đó.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược đều ngạc nhiên, nghĩ thầm tướng mạo Kim Hoa bà bà xấu xí, cứ như hiện nay mà nói, dù có trẻ lại ba bốn chục tuổi, cũng không thể nào gọi là "tuyệt sắc mỹ nhân". Bà ta mũi thì thấp, môi thì dày, mặt vuông bành bành, tai xòe ra đón gió, khuôn mặt đó có cách nào mà thay đổi được. Triệu Mẫn cười nói:

- Lão gia tử, tiểu nữ chẳng thấy Kim Hoa bà bà đẹp ở chỗ nào cả.

Tạ Tốn nói:

- Sao thế? Tử Sam Long Vương đẹp như tiên trên trời, hơn hai mươi năm trước là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm, bây giờ dù tuổi có cao, nhưng dáng dấp năm xưa hẳn cũng vẫn còn ... ôi, tiếc thay ta lại không còn nhìn được nữa.

Triệu Mẫn thấy ông ta nói hết sức trịnh trọng, xem ra bên trong có điều gì bí ẩn, bà lão lưng còng bệnh hoạn xấu xí kia, không lẽ đã có thời là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm, nói gì cũng không thể nào tin được liền hỏi lại:

- Tạ lão gia danh chấn giang hồ, võ công cao cường, chẳng cần phải nói đến. Bạch Mi Ưng Vương tự mình sáng lập một ngành, cùng lục đại môn phái chống trả, tranh hùng võ lâm hơn hai chục năm, Thanh Dực Bức Vương thần xuất quỉ một, hôm trước nơi chùa Vạn An dọa sẽ hủy dung mạo tiểu nữ, bây giờ nghĩ lại vẫn còn kinh hãi. Kim Hoa bà bà võ công tuy cao, mưu trí tuy sâu nhưng được đứng trên ba vị xem ra có điều bất xứng, không hiểu vì duyên cớ gì?

Tạ Tốn nói:

- Đó là Ân nhị ca, Vi tứ đệ và ta ba người tình nguyện nhường bà ta đấy chứ.

Triệu Mẫn nói:

- Vì sao thế?

Đột nhiên nàng cười lên khanh khách nói:

- Hay là vì bà ta là thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, người anh hùng không qua nổi cửa ải người đẹp, ba vị đại hào kiệt cam tâm đứng sau bóng quần hồng?

Nàng là gái phiên bang, không chấp nê lễ mạo tôn ti, trong lòng nghĩ sao liền chẳng ngại ngùng gì mở miệng nói đùa Tạ Tốn. Tạ Tốn không nổi giận, thở dài:

- Cam tâm bái phục dưới bóng quần hồng, đâu phải chỉ có ba người thôi đâu? Khi đó dù trong hay ngoài Minh giáo, mong được lọt vào mắt xanh của nàng Đại Ỷ Ti nói là hàng trăm người cũng còn là ít.

Triệu Mẫn nói:

- Đại Ỷ Ti? Có phải đó là Hàn phu nhân không? Cái tên sao kỳ lạ vậy?

Tạ Tốn nói:

- Bà ta từ Ba Tư đến, đó là tên Ba Tư.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược đều giật mình cùng kêu lên:

- Bà ta là người Ba Tư ư?

Tạ Tốn lạ lùng:

- Không lẽ các ngươi không nhìn ra sao? Bà ta là con lai Trung Quốc - Ba Tư, tuy con ngươi và tóc đen nhưng mắt sâu, mũi cao, da trắng như tuyết khác xa gái Trung Nguyên, thoạt nhìn là nhận ra ngay.

Triệu Mẫn nói:

- Không đâu, không đâu! Mũi bà ta thì tẹt, mắt thì hí, khác xa với gì ông mô tả. Trương công tử, chàng nghĩ có phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế! Không lẽ bà ta cũng như khổ đầu đà, cố ý hủy dung mạo mình chăng?

Tạ Tốn hỏi lại:

- Khổ đầu đà là ai thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đó là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo Phạm Dao.

Chàng liền đem chuyện Phạm Dao tự hủy dung mạo để trà trộn vào phủ Nhữ Dương Vương thuật sơ qua cho Tạ Tốn nghe. Tạ Tốn thở dài:

- Việc đó Phạm huynh làm thật là đau lòng nhưng cũng thật đơn côi, có công to với bản giáo, người thường làm sao có được. Ôi, có lẽ phần lớn cũng vì Hàn phu nhân mà ra chăng?

Triệu Mẫn nói:

- Thôi Tạ lão gia đừng nói vòng vo nữa, kể cho chúng tôi nghe từ đầu chí cuối nào.

Tạ Tốn hừ một tiếng, ngửng đầu lên trời, xuất thần hồi lâu mới chậm rãi nói:

- Hơn hai mươi năm trước đây, lúc đó Minh giáo dưới quyền thống lãnh của Dương giáo chủ, thật là hưng vượng. Hôm đó đột nhiên có ba sứ giả người Hồ từ Ba Tư đến đỉnh Quang Minh, mang theo một lá thư từ giáo chủ tổng giáo bên Ba Tư yết kiến Dương giáo chủ. Trong thư có viết là tổng giáo Ba Tư có một vị Tịnh Thiện sứ giả vốn là người gốc Trung Hoa, đã đến ở bên Ba Tư từ lâu, gia nhập Minh giáo, lập được nhiều công lao, lấy một người đàn bà Ba Tư làm vợ, sinh được một đứa con gái. Vị Tịnh Thiện sứ giả kia mới chết cách đây một năm, khi lâm chung lòng nhớ về cố quốc nên để lại di ngôn muốn con gái được trở về Trung Thổ. Giáo chủ tổng giáo tôn trọng di chí ấy nên sai người đưa con gái ông ta về Quang Minh Đính, nhờ Minh giáo Trung Thổ chăm lo chiếu cố cho. Dương giáo chủ liền bằng lòng ngay, mời cô gái đó vào.

Thiếu nữ kia vừa bước chân vào sảnh đường, lập tức căn phòng bừng sáng, thấy nàng xinh đẹp tuyệt trần không ai sánh kịp. Khi nàng uyển chuyển phục xuống vái chào Dương giáo chủ, trong sảnh đường tả hữu Quang Minh sứ giả, ba pháp vương, Ngũ Tản Nhân, Ngũ Hành Kỳ sứ không ai là không chấn động. Ba sứ giả Ba Tư hộ tống nàng ở lại Quang Minh Đính một đêm, qua hôm sau liền bái biệt, còn người con gái xinh đẹp Ba Tư Đại Ỷ Ti kia ở lại trên Quang Minh Đính.

Triệu Mẫn cười nói:

- Tạ lão gia, lúc ấy lão gia cũng mê cô gái xinh đẹp người Ba Tư kia, phải không? Đừng có xấu hổ, cứ thực thà nói cho chúng tôi nghe đi.

Tạ Tốn lắc đầu:

- Không đâu! Khi đó ta mới vừa lấy vợ, đang trong thời kỳ mặn nồng, vợ ta lại mới mang thai, ta làm gì có tình ý khác được?

Triệu Mẫn "A" lên một tiếng, cảm thấy mình hơi lỡ lời. Nàng biết vợ con Tạ Tốn đều bị Thành Côn giết hại, lúc này vô ý đề cập đến, không khỏi chạm đến vết thương lòng của ông ta, vội nói:

- Đúng thế, đúng thế! Thảo nào Hàn phu nhân có nói, năm xưa bà ta lấy Ngân Diệp tiên sinh, trên Quang Minh Đính ai ai cũng phản đối, chỉ có Dương giáo chủ và lão gia là tốt với bà ấy thôi. Chắc là phu nhân của Dương giáo chủ không những đã xinh đẹp mà cũng lại ghê gớm lắm nên đấng trượng phu mới nem nép một bề.

Tạ Tốn nói:

- Dương giáo chủ khẳng khái hào hiệp, Đại Ỷ Ti tuổi tác chỉ đáng con gái ông ta. Huống chi tổng giáo giáo chủ Ba Tư đã gửi gấm ông ta chiếu cố, Dương giáo chủ đối với cô ta hết lòng hết dạ, quyết không thể nào có ý khác được. Dương giáo chủ phu nhân là sư muội của sư phụ ta Thành Côn, là sư cô của ta. Dương giáo chủ đối với phu nhân cực kỳ yêu thương kính trọng.

Thành Côn giết toàn thể gia đình Tạ Tốn, tuy trong tâm khảm thù hận càng lúc càng sâu nhưng khi đề cập đến tên Thành Côn, ông chỉ nhắc qua đến thôi không khác gì nhắc tới một người bình thường. Triệu Mẫn nói:

- Khổ đầu đà Phạm Dao nghe nói khi còn trẻ là một thanh niên thật đẹp trai, chắc là mê nàng Đại Ỷ Ti lắm nhỉ?

Tạ Tốn gật đầu:

- - Quả đúng là yêu một khắc mà tình đà muôn kiếp, gặp một lần mà suốt đời khắc sâu trong tâm khảm. Thực ra đâu phải chỉ một mình Phạm huynh, kẻ nhìn thấy nàng Đại Ỷ Ti xinh đẹp mà không động lòng chắc chẳng bao nhiêu. Thế nhưng giáo qui Minh giáo rất nghiêm nhặt, ai ai cũng lấy lễ mà đãi, những người muốn cầu thân với Đại Ỷ Ti đều là những thanh niên chưa vợ. Ngờ đâu Đại Ỷ Ti đối với ai cũng lạnh như tiền, hoàn toàn không giả vờ chút nào, dẫu là ai nếu lộ tình ý đều bị nàng ta mắng cho một trận, khiến cho người đó thẹn không còn đất đứng không còn dám tơ tưởng gì nữa. Sư cô ta Dương phu nhân có ý tác hợp, muốn ghép nàng với Phạm Dao thành vợ chồng. Đại Ỷ Ti nhất mực cự tuyệt, nói mãi nàng liền vung kiếm thề trước mặt mọi người quyết ý không lấy chồng, nếu bị ép uổng thà chết còn hơn. Từ đó trở đi ai ai cũng nản lòng chẳng còn dám nghĩ chuyện làm quen với nàng nữa.

Qua được nửa năm, một ngày kia có một người từ đảo Linh Xà ở ngoài khơi đến, tự xưng họ Hàn, tên là Thiên Diệp, là con trai của kẻ thù Dương giáo chủ khi trước, lên Quang Minh Đính để báo cừu cho cha. Mọi người thấy gã họ Hàn kia là một thanh niên tướng mạo không có gì đặc biệt khác thường, vậy mà dáng ngang nhiên một thân một mình lên Quang Minh Đính thách đấu với Dương giáo chủ không khỏi cười ồ lên. Tuy nhiên Dương giáo chủ lại rất trịnh trọng, tiếp như khách quí, mở đại tiệc thết đãi. Sau khi ăn uống rồi ông mới nói cho tất cả các anh em nguyên do vì đâu. Thì ra năm xưa Dương giáo chủ cùng cha y hai người nói năng không hợp sinh ra động thủ, đánh một chưởng Đại Cửu Thiên Thủ khiến đối phương bị trọng thương, ngã gục xuống không đứng lên nổi. Khi đó cha y có nói là ngày sau ắt sẽ báo mối thù đó, nhưng biết võ công mình không thể nào bì kịp, nếu không sai con trai ắt sẽ sai con gái đến tầm cừu. Dương giáo chủ nói: "Bất kể dù là con trai con gái gì chăng nữa, ta cũng nhường trước ba chiêu". Người kia nói: "Không cần phải nhường chiêu, nhưng tỉ võ thế nào thì phải do con ta định đoạt". Dương giáo chủ khi đó liền bằng lòng. Việc qua đã hơn mười năm, Dương giáo chủ không còn nghĩ gì đến nữa, nào ngờ người con trai của họ Hàn hôm nay lại đến đây.

Mọi người ai cũng nghĩ rằng, kẻ hiền lành chẳng ai đến, đã đến chắc chẳng ra gì, người này dám một thân một mình lên Quang Minh Đính, ắt phải có tài nghệ kinh người. Thế nhưng võ công của Dương giáo chủ cực kỳ cao cường, có thể nói là vô địch trong thiên hạ, chỉ trừ Trương chân nhân của phái Võ Đương ra, khó mà có ai thắng được ông ta một chiêu nửa thức. Gã họ Hàn kia được bao nhiêu tuổi, dù ba người, năm người như y cùng xông lên, Dương giáo chủ cũng chẳng coi vào đâu. Chỉ đáng lo là không biết y ra đề mục khó khăn gì.

Ngày hôm sau, gã Hàn Thiên Diệp trước mặt mọi người nói rõ ước ngôn khi xưa, cốt chặn trước Dương giáo chủ, để ông không thể nuốt lời, sau đó mới đưa đề mục tỉ đấu ra. Y muốn cùng Dương giáo chủ cùng nhảy vào trong Bích Thủy Hàn Đàm trên Quang Minh Đính để so tài cao thấp.

Lời y vừa nói ra, mọi người ai nấy kinh hãi đến thất thần. Bích Thủy Hàn Đàm nước lạnh thấu xương, dẫu ngay nắng hạ cũng chẳng một ai dám xuống, huống chi lúc này lại chính giữa mùa đông? Dương giáo chủ võ công tuy cao nhưng lại không biết bơi, chỉ nhảy vào trong Bích Thủy Hàn Đàm, chẳng cần tỉ võ cũng đủ đông cóng, chết đuối ngay. Khi đó ở trong Thánh Hỏa Sảnh, quần hào ai cũng lên tiếng chửi rủa.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chuyện đó thật là khó xử, đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Dương giáo chủ năm xưa đã bằng lòng chấp thuận cho họ Hàn kia là phương cách tỉ võ do con y lựa chọn, vị Hàn Thiên Diệp tiền bối chọn thủy chiến, cứ theo lý thì Dương giáo chủ không thể nào từ chối được.

Triệu Mẫn đưa tay nắm lấy tay chàng, véo nhẹ một cái, mỉm cười nói:

- Đúng thế, đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Giáo chủ Minh giáo thân phận cao quí dường nào, không lẽ nói rồi lại nuốt lời, thất tín với thiên hạ? Đã nhận lời rồi là phải làm cho xong.

Nàng nói đây là nói về Trương Vô Kỵ, nhắc lại lời thề ước giữa hai người. Tạ Tốn làm sao biết được chuyện đó, nói:

- Chính là như thế. Hôm đó Hàn Thiên Diệp lớn tiếng nói: "Tại hạ một mình lên trên đỉnh Quang Minh này, nguyên không mong sống sót mà xuống núi. Các vị anh hùng hào kiệt có thể đem tại hạ loạn đao phân thây, ngoại trừ người trong Minh giáo ra, trên giang hồ có ai biết đấy là đâu. Tại hạ chỉ là một gã vô danh tiểu tốt, có giết đi cũng chỉ một người, có gì đáng nói? Các vị muốn giết thì cứ tiến lên động thủ.

Mọi người nghe y nói thế, không ai còn dám nói thêm câu nào. Dương giáo chủ trầm ngâm một hồi rồi nói: "Hàn huynh đệ, tại hạ năm xưa quả có ước hẹn cùng lệnh tôn. Hảo hán tử phải cho quang minh lỗi lạc, vụ đấu võ này tại hạ nhận thua. Huynh đệ muốn xử trí thế nào, cũng nguyện tuân theo". Hàn Thiên Diệp lật cổ tay một cái, trong tay y đã cầm một thanh chủy thủ sáng loáng, để ngay vào tim mình nói: "Con dao găm này là di vật của tiên phụ, tại hạ chỉ xin Dương giáo chủ cúi lạy con dao này ba lạy".

Quần hùng nghe thế, không ai là không phẫn nộ, đường đường là giáo chủ Minh giáo sao lại chịu để cho người ta làm nhục đến thế? Thế nhưng Dương giáo chủ đã nhận thua rồi, cứ theo qui củ giang hồ, không thể không để cho đối phương xử trí. Tình thế trước mắt ai cũng rõ, Hàn Thiên Diệp phen này lên đây thí mạng, nhận ba lạy của Dương giáo chủ rồi, y sẽ lập tức đâm con dao vào tim để khỏi chết dưới tay quần hào Minh giáo.

Khi đó trong đại sảnh im phăng phắc không ai nói một lời. Quang Minh tả hữu sứ Tiêu Dao nhị tiên, Bạch Mi Ưng Vương Ân nhị ca, Bành Oánh Ngọc hòa thượng mọi người bình thời vốn là những kẻ túc trí đa mưu, nhưng trước nạn đề này, không có cách nào khác. Hành động đó của Hàn Thiên Diệp rõ ràng muốn bức tử Dương giáo chủ để trả mối thù năm xưa cha y bị trọng thương phải quì xuống, rồi sau sẽ tự sát.

Ngay trong lúc khẩn bách vạn phần đó, Đại Ỷ Ti đột nhiên lách khỏi đám đông tiến ra, nói với Dương giáo chủ: "Gia gia, người ta có được đứa con trai có hiếu, không lẽ cha lại không đứa con gái có lòng? Vị Hàn gia này vì cha mà báo thù, để con thay cha tiếp y vài chiêu. Chuyện đời trước để đời trước lo, chuyện đời sau để đời sau lo, không thể nào làm loạn vai vế được".

Mọi người ai nấy ngạc nhiên: "Sao nàng ta lại gọi Dương giáo chủ là gia gia?". Thế nhưng hiểu ngay nàng ta mạo xưng là con gái của giáo chủ cốt để giải tỏa cho ông khỏi cảnh nguy khốn, ai nấy nghĩ thầm: "Xem hình dáng cô ta yểu điệu thướt tha gió thổi cũng ngã thế kia, không hiểu có biết võ nghệ gì không? Nếu như có biết thì cũng không cao cường, nói gì đến chuyện nhảy vào Bích Thủy Hàn Đàm thủy chiến".

Dương giáo chủ chưa kịp trả lời, Hàn Thiên Diệp đã cười khẩy nói: "Cô nương nếu như thay cha tiếp chiêu, không có gì là không được. Thế nhưng nếu cô nương thua, tại hạ vẫn yêu cầu Dương giáo chủ cúi lạy thanh chủy thủ của tiên phụ ba cái". Y thấy nàng Đại Ỷ Ti xinh đẹp yếu đuối nên nào có coi ra gì? Đại Ỷ Ti đáp: "Nếu như tôn giá thua thì sao?". Hàn Thiên Diệp nói: "Lúc đó muốn đâm chém, muốn lăng trì gì cũng xin chịu cả". Đại Ỷ Ti nói: "Được, vậy thì mình đi ra Bích Thủy Hàn Đàm". Nói xong nàng đi trước dẫn đầu. Dương giáo chủ vội vàng xua tay nói: "Không được, việc này không liên quan gì đến con". Đại Ỷ Ti nói: "Thưa cha, cha đừng lo". Nói xong nàng nhẹ nhàng quì xuống vái lạy. Cái lễ đó hẳn là nàng nhận Dương giáo chủ làm cha nuôi.

Dương giáo chủ biết nàng đã có chủ định, ngoài việc đó ra ông không còn cách nào khác, nên đành phải để nàng lo liệu. Tất cả mọi người cùng đi ra Bích Thủy Hàn Đàm nơi phía dưới chân núi. Lúc đó gió bấc đang thổi mạnh, mới đến bên hồ đã thấy lạnh buốt, những người nội lực hơi kém đều chịu không nổi. Nước trong hồ đã kết thành một lớp băng dầy, nhìn vào chỉ thấy xanh biếc, sâu không thấy đáy.

Dương giáo chủ nghĩ không nên để cho Đại Ỷ Ti vì mình mà phải bỏ mạng, ngang nhiên nói: "Con gái ngoan! Lòng tốt của con cha ghi nhớ trong lòng, để cha ra tiếp cao chiêu của Hàn huynh". Nói xong ông cởi áo khoác ngoài, cầm một thanh đơn đao, quyết ý nhảy vào trong đầm nước, rồi sẽ không bao giờ ra nữa. Đại Ỷ Ti nở một nụ cười đáp: "Cha ơi! Con sinh trưởng lớn lên nơi bờ biển, bơi lội nào có kém ai". Nói xong rút trường kiếm ra phi thân nhảy vào trong hồ đứng trên mặt băng, giơ mũi kiếm vẽ trên mặt hồ một vòng tròn ước chừng hai thước, chân trái đạp xuống, nghe soẹt một tiếng nhỏ, đã đạp mặt băng tụt xuống, cả người chìm luôn vào trong hồ.

Khi đó trên mặt biển gió bấc lạnh ngắt thổi tới lay động quần áo mọi người, Tạ Tốn nói tiếp:

- Đứng bên bờ Bích Thủy Hàn Đàm nhìn vào, hôm nay nghĩ lại tưởng chừng như việc chỉ mới hôm qua. Đại Ỷ Ti hôm đó mặc một chiếc áo màu tím nhạt, nàng đứng trên mặt băng quả thật chẳng khác gì lăng ba tiên nữ[2], đột nhiên không một tiếng động chui tuột xuống nước, quần hào đứng ngoài không ai là không kinh ngạc. Hàn Thiên Diệp thấy thân thủ của nàng nhảy vào trong hồ, nét cuồng ngạo trên mặt lập tức biến mất, tay cầm chủy thủ cũng nhảy luôn vào.

Bích Thủy Hàn Đàm nước màu xanh lục, đứng bên trên không ai nhìn thấy tình hình hai người giao đấu ra sao, chỉ thấy mặt nước dao động không ngớt, một lúc sau, mặt nước lặng dần nhưng chỉ một lát nước lại quấy lên lần nữa. Quần hào Minh giáo ai nấy âu lo, thấy hai người xuống nước đã lâu, dưới hồ làm sao chịu nổi lâu như thế? Lại một hồi nữa, đột nhiên một luồng máu đỏ từ dưới nước nổi lên, ai nấy càng thêm lo sợ, chẳng hiểu có phải Đại Ỷ Ti bị thương chăng?

Bỗng nghe cách một tiếng, Hàn Thiên Diệp từ dưới lỗ băng nhảy vọt lên, thở hổn hển. Mọi người thấy y ra trước, ai nấy kinh hãi, cùng hỏi dồn: "Đại Ỷ Ti đâu? Đại Ỷ Ti đâu?". Chỉ thấy y hai tay không, thanh chủy thủ cắm trên ngực, hai bên má có hai đường cắt dài.

Mọi người còn đang kinh dị, Đại Ỷ Ti chẳng khác gì một con cá bay vọt lên khỏi nước, trường kiếm hộ thân, ở trên không nhẹ nhàng lượn một vòng rồi mới rơi xuống mặt băng. Quần hùng lớn tiếng reo hò, Dương giáo chủ tiến lên cầm tay nàng, cao hứng không để đâu cho hết. Có ai ngờ đâu, người con gái thiên kiều bách mị kia công phu dưới nước lại cao siêu đến thế. Đại Ỷ Ti liếc nhìn Hàn Thiên Diệp nói: "Gia gia, người này bơi lội giỏi lắm, thương cho lòng hiếu thảo vì cha báo thù của y, tội vô lễ với giáo chủ, gia gia tha cho y nhé?". Dương giáo chủ dĩ nhiên nhận lời, ra lệnh cho thần y Hồ Thanh Ngưu chữa bệnh cho Hàn Thiên Diệp.

Tối hôm đó trên Quang Minh Đính mở đại tiệc ăn mừng, ai ai cũng bảo Đại Ỷ Ti là đại công thần của Minh giáo, nếu không có nàng đứng ra giải vây, tên tuổi một đời của Dương giáo chủ đành trôi theo dòng nước. Sau đó sắp xếp chức vụ, Dương phu nhân tặng cho nàng mỹ hiệu "Tử Sam Long Vương", đứng ngang hàng cùng Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương. Ba người bọn ta tình nguyện nhường nàng đứng đầu tứ vương, vì quả thật công lao của Đại Ỷ Ti hôm đó, so với tam vương từ trước đến nay hơn hẳn. Từ đó ba người hộ giáo pháp vương chúng ta cùng nàng huynh muội kết nghĩa, nàng gọi ta là Tạ tam ca.

Ngờ đâu sau trận chiến ở Bích Thủy Hàn Đàm, kết cục lại không ai ngờ tới được. Hàn Thiên Diệp tuy thua nhưng không hiểu vì sao lại chiếm được trái tim của Đại Ỷ Ti. Có lẽ vì ngày ngày nàng đến xem tình hình y ra sao, nơi giường bệnh, từ thương hại mà thành thương yêu, thù hận biến sang cảm tình, đến khi Hàn Thiên Diệp khỏi hẳn, Đại Ỷ Ti đột nhiên thưa với giáo chủ cho nàng kết hôn với y.

Mọi người nghe được tin ấy, kẻ thì đau lòng thất vọng, người thì phẫn nộ bừng bừng. Gã Hàn Thiên Diệp kia trước đây bức bách giáo chủ khiến người trong Minh giáo hận y không để đâu cho hết, hộ giáo pháp vương của bản giáo sao lại lấy y được? Có người tính tình nóng nảy liền chỉ ngay mặt y mắng chửi. Đại Ỷ Ti tính tình cứng cỏi, cầm kiếm đứng ngay cửa sảnh, lớn tiếng nói: "Từ nay trở đi, Hàn Thiên Diệp là phu quân của ta. Người nào làm nhục Hàn lang thì hãy ra thử với trường kiếm của Tử Sam Long Vương". Mọi người thấy việc ra như thế, chỉ đành hậm hực bỏ đi.

Khi Đại Ỷ Ti thành hôn với Hàn Thiên Diệp, có đến quá nửa anh em không đến uống rượu mừng. Chỉ có Dương giáo chủ và ta cảm kích việc nàng đứng ra giải vây nên ra sức giúp nàng sắp đặt và giải hòa để việc cưới xin xuông xẻ, không xảy ra chuyện gì rắc rối.

Thế nhưng khi Hàn Thiên Diệp muốn gia nhập Minh giáo, vì số người chống đối quá nhiều, Dương giáo chủ không tiện làm ngược với ý của số đông. Chẳng bao lâu sau, vợ chồng Dương giáo chủ đột nhiên mất tích, người trên Quang Minh Đính ai cũng hoang mang. Mọi người đổ ra tứ phía tìm kiếm, một đêm kia Quang Minh hữu sứ Phạm Dao bắt gặp Hàn phu nhân Đại Ỷ Ti từ trong đường hầm đi ra.

Trương Vô Kỵ giật mình hỏi lại:

- Bà ta từ trong bí đạo đi ra ư?

Tạ Tốn đáp:

- Đúng thế. Giáo qui của Minh giáo cực kỳ nghiêm nhặt, đường hầm này chỉ một mình giáo chủ được phép ra vào mà thôi. Phạm Dao vừa tức giận vừa kinh hãi liền tiến lên tra vấn. Hàn phu nhân nói: "Tôi đã phạm phải trọng tội của bản giáo, muốn đâm muốn chém gì cũng đành cam chịu". Tối hôm đó đại hội quần hào, Hàn phu nhân cũng chỉ một câu đó nói ra mà thôi. Hỏi nàng đi vào trong bí đạo làm gì, nàng bảo không muốn nói láo nhưng cũng không muốn nói ra sự thực; hỏi đến Dương giáo chủ đi đâu, nàng bảo nàng không biết, còn chuyện lẻn vào đường hầm thì một mình làm, một mình chịu nói nhiều vô ích. Nếu theo lý, nếu nàng không tự vẫn thi cũng phải tự chặt một cánh tay, nhưng một là Phạm Dao tình cũ chưa quên, hết sức che chở cho nàng, hai là ta đứng bên cạnh trần tình nên quần hào nghị tội chỉ giam cấm mười năm để ăn năn sám hối. Ngờ đâu Đại Ỷ Ti cãi lại: "Dương giáo chủ không có ở đây, không ai quản thúc gì tôi được".

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Nghĩa phụ, Hàn phu nhân lẻn vào bí đạo làm gì thế?

Tạ Tốn nói:

- Chuyện này nói ra thật là dài, trong Minh giáo chỉ một mình ta biết mà thôi. Khi đó ai cũng nghi nàng có dính líu với việc vợ chồng Dương giáo chủ thất tung nhưng ta cực lực chống chế hai việc không có gì liên hệ. Nơi Thánh Hỏa Sảnh trên Quang Minh Đính quần hào nói mãi cũng không đến đâu, sau cùng Hàn phu nhân đành phải phá môn xuất giáo, nói là từ nay về sau, không còn liên quan gì đến Minh giáo Trung Thổ nữa. Nàng ta là người đầu tiên ra khỏi Minh giáo, ngay hôm đó cùng Hàn Thiên Diệp lặng lẽ xuống núi không biết đi đâu.

Về sau trong Minh giáo các anh em tìm Dương giáo chủ không ra, qua vài năm sau tranh nhau ngôi giáo chủ, sự việc mỗi lúc một thêm bi đát. Bạch Mi Ân nhị ca cũng rời Quang Minh Đính tự sáng lập ra Thiên Ưng giáo. Ta hết sức khuyên giải, ông ta khăng khăng không nghe hai bên lại còn hục hặc. Hai mươi năm trước nơi Vương Bàn Sơn đảo, Thiên Ưng giáo dương đao lập uy, Kim Mao Sư Vương đến đây phá cho tan nát, trước là cướp lấy thanh đao Đồ Long, sau là để cho hả mối hận năm trước, cốt để cho Ân nhị ca mất mặt, cho ông ta hiểu rằng ra khỏi Minh giáo rồi chưa chắc đã đi đến đâu. Ôi, hôm nay nghĩ lại, ta không khỏi thấy mình nhỏ nhen quá!

Ông ta thở dài một tiếng, trong tiếng thở dài bao hàm không biết bao nhiêu điều đau lòng của ký vãng, bao nhiêu chuyện sóng gió trên giang hồ. Mọi người lặng yên hồi lâu không ai nói gì. Triệu Mẫn nói:

- Lão gia tử, sau này Kim Hoa, Ngân Diệp hai người uy chấn giang hồ, sao người trong Minh giáo lại không nhận ra? Ngân Diệp tiên sinh hẳn là Hàn Thiên Diệp, về sau tại sao trúng độc mà chết?

Tạ Tốn nói:

- Những chuyện bên trong đó ta hoàn toàn không biết gì cả. Có lẽ vợ chồng đó hành tẩu giang hồ hết sức tránh mặt người trong Minh giáo.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng vậy. Kim Hoa bà bà sau này không muốn gặp người trong Minh giáo. Khi lục đại môn phái vây đánh Minh giáo, bà ta tuy có đến Quang Minh Đính nhưng không lên núi tiếp tay.

Triệu Mẫn ngẫm nghĩ rồi tiếp:

- Lạ là Tử Sam Long Vương dung nhan xinh đẹp tuyệt trần sao lại biến đổi trở thành xấu xí như thế? Xem ra khuôn mặt không bị hủy hoại chút nào cả.

Tạ Tốn đáp:

- Ta đoán là bà ta dùng một phương pháp gì rất khéo léo thay đổi khuôn mặt. Hàn phu nhân trước nay hành sự rất kỳ quái, thực ra cũng vì có chuyện khổ tâm không nói cho ai được. Bà ta cứ phải trốn tránh tổng giáo Ba Tư truy tầm, nào ngờ rồi sau cũng không sao thoát được.

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cùng hỏi:

- Sao tổng giáo Ba Tư lại đi lùng kiếm bà ta làm gì?

Tạ Tốn nói:

- Đây là chuyện đại bí mật của Hàn phu nhân, đáng lẽ không nên nói ra. Nhưng ta mong các ngươi quay lại đảo Linh Xà cứu bà ta nên không thể không nói.

Triệu Mẫn kinh hãi kêu lên:

- Mình quay lại đảo Linh Xà ư? Làm sao đánh lại ba sứ giả Ba Tư?

Tạ Tốn không trả lời chỉ bắt đầu kể lại:

- - Mấy trăm năm nay, giáo chủ Minh giáo Trung Thổ đều do đàn ông đảm nhiệm, nhưng giáo chủ tổng giáo Ba Tư lại là đàn bà, mà phải là con gái chưa chồng còn là xử nữ. Trong kinh điển của tổng giáo có qui định một cách trịnh trọng rằng phải do thánh xử nữ đảm nhiệm giáo chủ thì mới duy trì được sự trinh khiết thần thánh của Minh giáo. Mỗi một giáo chủ khi tiếp nhiệm xong đều tuyển trong số con cái của các viên chức cao cấp trong tổng giáo ba người con gái, gọi là "thánh nữ". Khi các thánh nữ này nhận chức có thề rằng sẽ du hành tứ phương, vì Minh giáo lập công tích đức. Sau khi giáo chủ từ trần các trưởng lão trong tổng giáo sẽ tập họp, suy xét công lao trong ba người thánh nữ ai cao ai thấp, rồi sẽ chọn người công đức cao nhất lên tiếp nhiệm giáo chủ. Nếu trong ba thánh nữ kia ai bị mất trinh thì sẽ bị tội thiêu sống, dẫu cho trốn đến chân trời góc bể họ cũng sai người đuổi theo bắt cho kỳ được để bảo tồn trinh thiện của thánh giáo ...

Ông vừa kể tới đây, Triệu Mẫn thất thanh kêu lên:

- Không lẽ Hàn phu nhân là một trong ba thánh nữ của tổng giáo chăng?

Tạ Tốn gật đầu:

- Chính thế! Trước khi Phạm Dao phát hiện bà ta lén vào bí đạo, thì ta đã bắt gặp rồi. Hàn phu nhân coi ta là tri kỷ nên đem tất cả mọi chuyện nói cho ta nghe. Khi nàng đấu với Hàn Thiên Diệp trong Bích Thủy Hàn Đàm, hai người thịt da đụng chạm, sau lại an ủi nhau trên giường bệnh để thành mối tình oan nghiệt. Nàng biết là sẽ có ngày tổng giáo sai người sang kiếm nên chỉ mong lập được đại công chuộc tội. Bà ta lén vào bí đạo, cốt là tìm kiếm "Càn Khôn Đại Na Di" võ công tâm pháp, tâm pháp này tổng giáo thất lạc đã lâu, nhưng Minh giáo bên Trung Thổ vẫn còn giữ được. Tổng giáo sai nàng lên Quang Minh Đính chính là vì lẽ đó.

Trương Vô Kỵ "A" lên một tiếng, dường như chàng thấy có điều gì mù mờ không ổn, nhưng là chuyện gì, ngay lúc này chưa nghĩ ra. Chỉ nghe Tạ Tốn nói tiếp:

- Hàn phu nhân mấy lần lẻn vào bí đạo, nhưng vẫn không tìm thấy võ công tâm pháp đó. Khi ta biết chuyện rồi liền nghiêm nghị răn đe là việc đó phạm phải đại qui của Minh giáo, khó có thể khoan dung ...

Triệu Mẫn xen vào:

- A, tôi hiểu rồi. Hàn phu nhân phá môn xuất giáo cốt để có thể tiếp tục lẻn vào đường hầm vì bà ta không còn là người trong Minh giáo Trung Thổ nữa, không bị ước thúc bởi qui luật vào ra bí đạo.

Tạ Tốn nói:

- Triệu cô nương thông minh thật. Thế nhưng Quang Minh Đính là cơ sở trọng địa của bản giáo, đâu thể để người ngoài ra vào tùy ý? Lúc đó ta đã đoán được dụng ý của bà ta rồi nên sau khi Hàn phu nhân hạ sơn, ta đích thân canh giữ cửa đường hầm, ba lần nàng lén lên núi lần nào cũng gặp ta nên không dám tiếp tục nữa.

Tạ Tốn suy nghĩ một hồi rồi hỏi:

- Phục sắc của ba sứ giả Ba Tư có khác gì với Minh giáo Trung Thổ chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Bọn họ đều mặc áo bào trắng, bên góc áo có thêu một ngọn lửa đang cháy ... Ồ, áo bào có riềm màu đen, cái đó là điểm khác biệt duy nhất.

Tạ Tốn vỗ vào mạn thuyền nói:

- Đúng rồi, tổng giáo giáo chủ qua đời. Người Tây Vực dùng màu đen là màu tang, áo bào trắng thêu viền đen là để tang đó. Bọn họ đang tuyển lập tân giáo chủ nên mới đường xa vạn dặm tới Trung Thổ, truy tìm Hàn phu nhân.

Trương Vô Kỵ nói:

- Hàn phu nhân nếu từ Ba Tư đến ắt phải biết võ công quái dị của ba sứ giả, sao lại chỉ mới một chiêu đã bị bọn họ bắt rồi?

Triệu Mẫn cười nói:

- Sao anh ngốc thế. Hàn phu nhân giả vờ đó, bà ta muốn che dấu thân phận mình nên không để lộ ra là mình biết võ công Ba Tư, theo như em nghĩ, nếu như Tạ lão gia tử nghe lệnh ba sứ giả giết bà ta, Hàn phu nhân thể nào cũng có cách thoát thân.

Tạ Tốn lắc đầu:

- Bà ta không chịu để lộ thân phận thì đúng rồi. Thế nhưng sau khi bị ba sứ giả Ba Tư đánh trúng huyệt đạo vẫn còn có thể thoát thân thì chưa chắc. Hàn phu nhân thà để ta một đao chém chết còn hơn chịu cái khổ hỏa thiêu.

Triệu Mẫn nói:

- Tiểu nữ tưởng Minh giáo Trung Thổ đã là tà giáo, ai ngờ Minh giáo Ba Tư lại còn tà hơn. Sao lại cứ phải gái còn trinh mới làm giáo chủ được? Sao lại đem thánh nữ thất trinh ra thiêu sống là sao?

Tạ Tốn gắt lên:

- Tiểu cô nương chỉ nói lăng nhăng. Giáo phái nào cũng có qui luật nghi điển truyền từ đời này sang đời khác. Hòa thượng ni cô không được lấy vợ lấy chồng, không được ăn mặn thì chẳng phải qui luật là gì? Thế cái đó tà hay không tà?

Đột nhiên nghe tiếng răng Ân Ly lách cách đập vào nhau, người run cầm cập. Trương Vô Kỵ vội vàng sờ đầu cô ta thấy nóng hầm hập, rõ ràng là đang bị hàn nhiệt giao công, bệnh tình cực kỳ nguy ngập. Chàng liền nói:

- Nghĩa phụ, hài nhi nghĩ mình chắc phải quay trở lại đảo Linh Xà. Ân cô nương thương thế không phải nhẹ, phải tìm thuốc cứu chữa ngay. Thôi mình cứ hết sức mà làm, nếu không cứu được Hàn phu nhân thì cũng cứu được Ân cô nương.

Tạ Tốn nói:

- Đúng vậy. Cô gái này đối với con tình sâu ý nặng lẽ nào lại không cứu? Chu cô nương, Triệu cô nương, hai cô ý ra sao?

Triệu Mẫn đáp:

- Thương thế của Ân cô nương quan trọng hơn, còn vết thương của tôi không lấy gì làm nặng. Nhưng nếu không trở lại Linh Xà đảo thì làm cách nào khác được?

Chu Chỉ Nhược chỉ thản nhiên nói:

- Lão gia tử bảo quay lại thì tất cả cùng quay lại.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chờ cho sương mù tan hết, nhìn thấy trăng sao mới có thể biết phương hướng được. Nghĩa phụ, gã Lưu Vân Sứ kia lộn hai vòng trên không là có thể dùng thánh hỏa lệnh đả thương con, thế là duyên cớ vì đâu?

Sau đó hai người cùng nghiên cứu võ công gia số của ba sứ giả Ba Tư, sở học của Triệu Mẫn rất rộng rãi, thỉnh thoảng cũng góp ý vào nhưng bàn luận một hồi lâu vẫn không tìm ra được yếu chỉ của công phu ba người kia liên thủ ra sao.

Sương mù trên biển mãi đến khi mặt trời mọc mới tan dần. Trương Vô Kỵ nói:

- Mình từ phương bắc trôi xuống phương đông nam, bây giờ đi ngược lên tây bắc mà tìm.

Chàng cùng Tạ Tốn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu bốn người luân lưu chèo thuyền. Điều khiển chiếc thuyền nhỏ xông pha các đợt sóng trên biển cả thực không phải dễ dàng, may nhờ Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn nội lực thâm hâu, còn Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu cũng ngang ngửa nhau, chèo thuyền cũng chẳng khác gì đang luyện võ công.

Chèo như thế mấy ngày liền, chiếc thuyền nhỏ cứ theo hướng tây bắc mà tiến. Cũng trong mấy ngày đó, Tạ Tốn nhíu mày suy nghĩ võ công quái dị của ba sứ giả Ba Tư, ngoài việc hỏi lại Trương Vô Kỵ vài câu, không nói thêm một lời nào. Đến chiều ngày thứ sáu, bỗng nhiên Tạ Tốn tra hỏi thật kỹ công phu phái Nga Mi mà Chu Chỉ Nhược học được, Chu Chỉ Nhược cứ sự thực trình bày. Hai người một hỏi một đáp, nói chuyện đến tận khuya. Tạ Tốn xem ra thất vọng nói:

- Võ công của cả ba phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi đều có quan hệ với Cửu Dương Chân Kinh, cùng một đường với Trương Vô Kỵ thuộc lộ dương cương. Nếu như có Trương Tam Phong chân nhân ở đây, với sở học vừa dương cương vừa âm nhu bao gồm của ông ta liên thủ với Trương Vô Kỵ, thì mới có thể âm dương phối hợp, đánh bại được Ba Tư tam sứ. Thế nhưng nước xa không cứu được lửa gần, Hàn phu nhân nếu như lọt vào tay của ba sứ giả Ba Tư thì thật không biết sao đây?

Chu Chỉ Nhược đột nhiên hỏi:

- Lão gia tử, nghe nói một trăm năm trước trong võ lâm có vị cao nhân tinh thông Cửu Âm Chân Kinh, có thực như thế chăng?

Khi còn ở trên núi Võ Đương, Trương Vô Kỵ đã từng nghe thái sư phụ nói tới tên Cửu Âm Chân Kinh, biết rằng cha của sáng phái tổ sư phái Nga Mi Quách Tương là đại hiệp Quách Tĩnh, Thần Điêu đại hiệp Dương Quá đều học được võ công trong Cửu Âm Chân Kinh nhưng công phu tập luyện quá ư gian nan, Quách Tương dẫu là con ruột của Quách Tĩnh mà cũng không học được. Nay nghe Chu Chỉ Nhược hỏi đến, chàng nghĩ thầm: "Không lẽ sáng phái tổ sư của phái Nga Mi có truyền lại công phu trong Cửu Âm Chân Kinh chăng?".

Tạ Tốn nói:

- Các bậc cố lão có truyền lại như thế nhưng không một ai biết thật giả ra sao. Nếu như hiện nay có ai học được những tài nghệ thần kỳ của môn võ công đó, liên thủ với Trương Vô Kỵ đối phó với địch thì chỉ ra tay là trừ được Ba Tư tam sứ giả ngay.

Chu Chỉ Nhược "Ồ" lên một tiếng nhưng không hỏi thêm nữa. Triệu Mẫn hỏi:

- Chu cô nương, phái Nga Mi có ai biết những võ công ấy chăng?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Nếu phái Nga Mi có được thần công đó, tiên sư đã không táng mạng tại chùa Vạn An.

Diệt Tuyệt sư thái sở dĩ lìa trần, đầu dây mối nhợ cũng do Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược hết sức căm ghét nàng, bao nhiêu ngày mưa gió ngồi chung trên một con thuyền nhưng không hề trao đổi với nhau một câu nào. Lúc này Triệu Mẫn hỏi ngay Chu Chỉ Nhược nên nàng liền nói móc lại một câu. Chu Chỉ Nhược tính tình dịu dàng, trước nay chưa từng nói với ai một câu đốp chát như thế bao giờ, Triệu Mẫn nghe nhưng không nổi giận, chỉ mỉm cười.

Trương Vô Kỵ vẫn không ngừng chèo thuyền đột nhiên nhìn về phía xa xa kêu lên:

- Xem kìa, xem kìa. Đằng kia có ánh lửa.

Mọi người nhìn theo hướng mắt chàng, quả nhiên tại hướng tây bắc nơi chân trời giáp biển có ánh lửa lấp lánh. Tạ Tốn tuy không nhìn thấy gì, nhưng tâm trạng cũng vừa mừng vừa lo như những người khác, vội cầm chiếc mái chèo cố sức bơi.

Ánh lửa kia trông thì không xa, thực ra trên biển khơi, phải cách đến mấy chục dặm. Hai người chèo một hồi lâu mới tới gần được một chút. Trương Vô Kỵ thấy nơi ánh lửa có những ngọn núi mờ mờ, chính là đảo Linh Xà liền nói:

- Mình về đến nơi rồi.

Tạ Tốn bỗng thảng thốt kêu lên "Ối chà" một tiếng, hỏi:

- Có phải ở đảo Linh Xà lửa bốc lên cao chăng? Không lẽ bọn họ đang định thiêu sống Hàn phu nhân?

Chỉ nghe lịch bịch mấy tiếng, Tiểu Siêu đã ngã lăn ra sàn thuyền. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội nhảy tới đỡ nàng dậy, thấy cô gái hai mắt nhắm nghiền bất tỉnh, vội xoa bóp huyệt đạo nơi nhân trung để cứu nàng dậy, hỏi:

- Tiểu Siêu, cô sao thế?

Tiểu Siêu hai mắt rưng rưng, nói:

- Em nghe nói thiêu sống người, nên em ... em ... sợ quá.

Trương Vô Kỵ an ủi cô ta:

- Cái đó chỉ là Tạ lão gia đoán thế thôi, chưa chắc đã là sự thật. Nếu ví phỏng như Hàn phu nhân lạc vào tay bọn chúng, chúng mình bây giờ đến nơi, chắc cũng còn có thể cứu kịp.

Tiểu Siêu nắm lấy tay chàng, cầu khẩn:

- Công tử, em cầu xin công tử ra tay cứu mạng cho Hàn phu nhân.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tất cả chúng mình sẽ hết sức để làm chuyện đó.

Nói rồi chàng quay lại đuôi thuyền, cầm mái giầm lên ra sức chèo, so với lúc trước nhanh hơn nhiều. Tiểu Siêu cũng cầm mái chèo tuy tay run run nhưng cũng cố gắng chèo tiếp. Triệu Mẫn đột nhiên hỏi:

- Trương công tử, có hai việc em nghĩ đã lâu nhưng vẫn chưa hiểu rõ, mong chàng chỉ giáo.

Trương Vô Kỵ tự nhiên thấy nàng ăn nói có vẻ khách sáo như thế, lạ lùng hỏi:

- Chuyện gì thế?

Triệu Mẫn nói:

- Hôm trước bên ngoài Lục Liễu Trang, tiểu muội sai người tấn công lệnh ngoại công, Dương tả sứ các vị, chính Tiểu Siêu cô nương này đã điều động nhân mã chống trả. Quả thật đúng là tướng đã mạnh ắt quân chẳng yếu, một tiểu a đầu của giáo chủ Minh giáo mà cũng đã tài ba đến thế, quả thật lạ kỳ ...

Tạ Tốn vội vàng xen vào:

- Cái gì mà giáo chủ Minh giáo?

Triệu Mẫn cười nói:

- Lão gia tử, bây giờ nói ra cho ông biết cũng vừa, công tử con nuôi của lão gia chính là đường đường giáo chủ Minh giáo, ông ngược lại là thuộc hạ của anh ta đó.

Tạ Tốn bán tín bán nghi, không biết nói sao cho phải. Triệu Mẫn liền đem việc Trương Vô Kỵ làm sao đảm nhận chức vụ giáo chủ Minh giáo thuật sơ qua, nhưng nhiều chi tiết nàng không biết. Trương Vô Kỵ bị Tạ Tốn hỏi gặng, không cách gì dấu diếm được nữa, đành phải kể lại lục đại phái vây đánh Quang Minh Đính ra sao, mình làm sao ở trong bí đạo học được Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp thế nào. Tạ Tốn mừng quá, đứng phắt dậy, phục xuống lạy ngay trên thuyền nói:

- Thuộc hạ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, tham kiến giáo chủ.

Trương Vô Kỵ vội vàng quì xuống hoàn lễ nói:

- Nghĩa phụ bất tất đa lễ. Dương giáo chủ có di mệnh để nghĩa phụ tạm nhiếp chức vụ giáo chủ, hài nhi đang lo không đảm trách nổi việc lớn, may sao nghĩa phụ yên lành trở về, đúng là phúc của bản giáo. Sau khi mình về đến Trung Thổ rồi, chức vị giáo chủ xin nghĩa phụ tiếp nhiệm cho.

Tạ Tốn thản nhiên nói:

- Cha nuôi con tuy đã trở về nhưng hai mắt đã mù, hai chữ "yên lành" không còn đúng nữa. Thủ lãnh của Minh giáo làm sao có thể do người mắt kém đảm nhiệm? Triệu cô nương, trong lòng cô có hai chuyện gì chưa rõ ràng?

Triệu Mẫn nói:

- Tiểu nữ định hỏi Tiểu Siêu cô nương, kỳ môn bát quái, âm dương ngũ hành do ai dạy cô đó? Cô còn nhỏ như thế làm sao lại học được những công phu lạ lùng vậy?

Tiểu Siêu đáp:

- Đó là võ công gia truyền của tôi, không bõ quận chúa nương nương cười cho.

Triệu Mẫn lại hỏi:

- Lệnh tôn là ai? Con gái đã thế, cha mẹ ắt phải là cao thủ tiếng tăm vang dậy thiên hạ.

Tiểu Siêu đáp:

- Gia phụ mai danh ẩn tính, đâu đáng để quận chúa phải hỏi? Không lẽ quận chúa lại định chặt hai ngón tay tôi để ép cho tôi phải lộ võ công ra hay sao?

Nàng tuổi còn nhỏ thế nhưng đối với Triệu Mẫn không chịu kém câu nào, nói đến chuyện chặt ngón tay, ý muốn khơi dậy mối thù của Chu Chỉ Nhược. Triệu Mẫn mỉm cười, quay sang hỏi với Trương Vô Kỵ:

- Trương công tử, tối hôm đó tại quán rượu nơi Đại Đô lần thứ hai mình gặp nhau, khổ đầu đà Phạm Dao đến chào từ biệt tiểu muội, khi y gặp Tiểu Siêu cô nương, có nói hai câu gì?

Trương Vô Kỵ vốn đã quên chuyện đó rồi, nghe nàng hỏi tới, nghĩ lại bèn nói:

- Khổ đại sư hình như nói là tướng mạo Tiểu Siêu giống một người nào mà ông ta quen.

Triệu Mẫn nói:

- Đúng thế. Anh thử đoán xem khổ đại sư nói Tiểu Siêu giống ai?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi làm sao đoán được?

Hai người còn đang nói chuyện, chiếc thuyền đã đến gần đảo Linh Xà, thấy bên phía tây hòn đảo một dãy thuyền lớn, trên mỗi chiếc buồm trắng đều có thêu một ngọn lửa đỏ lớn, trên các cột buồm treo những giải vải màu đen. Trương Vô Kỵ nhíu mày nói:

- Tổng giáo Ba Tư quả thực mất công, đưa người sang đây không phải là ít.

Triệu Mẫn nói:

- Mình chèo thuyền ra phía sau đảo, kiếm một nơi kín đáo nào lên đảo để khỏi bị bọn họ phát giác.

Trương Vô Kỵ gật đầu:

- Đúng thế.

Thế nhưng chỉ mới bơi được ba bốn trượng, đột nhiên trên đại thuyền có tiếng tù và u u, tiếp theo là bình bình hai tiếng, hai quả đạn đại bác bắn ra, một viên rơi ở bên trái chiếc thuyền con, còn viên kia rơi ở bên phải làm tung lên hai cột nước khiến cho chiếc thuyền chòng chành dường như muốn lật. Trên thuyền lớn có người kêu to:

- Thuyền kia mau chèo lại đây, nếu không nghe lệnh sẽ bị bắn chìm ngay.

Trương Vô Kỵ trong bụng kêu khổ thầm, biết rằng hai phát đạn kia địch chỉ mới thị uy, cố ý bắn sang hai bên, bây giờ hai bên gần nhau như thế, địch nhân điều chỉnh thật dễ dàng, chỉ cần một viên đạn trúng thuyền thì cả sáu người không ai có thể sống sót. Thành thử chàng đành chầm chậm bơi thuyền tới. Ba khẩu đại pháo trên thuyền lớn cũng chầm chậm quay đầu nhắm đúng vào thuyền nhỏ. Đợi đến khi thuyền nhỏ đã tới sát, người trên thuyền lớn liền thả thang dây. Trương Vô Kỵ nói:

- Bọn mình lên trên tùy cơ đoạt thuyền.

Tạ Tốn mò thấy thang dây leo lên trước nhất. Chu Chỉ Nhược không nói lời nào, cúi xuống ôm Ân Ly, leo lên, kế đó là Tiểu Siêu. Trương Vô Kỵ ôm Triệu Mẫn, leo lên sau cùng. Chỉ thấy trên thuyền rất đông người người nào cũng tóc vàng mắt biếc, thân thể cao lớn đều là người Hồ xứ Ba Tư nhưng bọn sứ giả Vân Phong Nguyệt ba người không có trong số đó.

Một người Ba Tư biết nói tiếng Trung Quốc liền hỏi:

- Các người là ai? Đến đây làm gì?

Triệu Mẫn nói:

- Chúng tôi đi thuyền bị bão, thuyền chìm nhờ các vị cứu cho.

Gã Ba Tư nửa tin nửa ngờ, quay lại nói với một người thủ lãnh ngồi trên ghế ngay chính giữa sàn thuyền vài câu tiếng Ba Tư. Người thũ lãnh đó liền nói xí xố mấy câu với đám thủ hạ.

Tiểu Siêu đột nhiên nhảy tới, giơ chưởng đánh luôn vào tên thủ lãnh. Người đó kinh hãi vội vàng tránh qua, chộp luôn cái ghế đang ngồi đập luôn vào Tiểu Siêu. Trương Vô Kỵ không ngờ Tiểu Siêu chẳng nói chẳng rằng ra tay động thủ ngay, lạng người một cái đã vọt lên ba trượng giơ tay điểm luôn huyệt đạo gã thủ lãnh, mấy chục người Ba Tư trên thuyền liền loạn cả lên, hò hét rút binh khí ra vây cả bọn lại. Những người này ai cũng biết võ công nhưng so với ba sứ giả Phong Vân Nguyệt thì kém xa. Trương Vô Kỵ tay trái đỡ Ân Ly, tay phải đông điểm một cái tây đánh một chưởng. Tạ Tốn cũng múa thanh đao Đồ Long, Chu Chỉ Nhược huy động trường kiếm, thêm vào Tiểu Siêu thân hình linh động, chỉ trong giây lát, đã thanh toán hết mấy chục người Ba Tư trên thuyền. Hơn một chục người bị chém nằm lăn trên sàn thuyền, bảy tám người rớt xuống biển, còn lại bao nhiêu đều bị điểm huyệt cả.

Ngay lúc đó trên biển có tiếng kêu la rầm rĩ, tiếng tù và vang động khắp nơi, các thuyền còn lại của người Ba Tư đều tiến tới, những người trên thuyền toan nhảy qua đấu với bọn Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ xách gã thủ lãnh Ba Tư nhảy lên đà treo buồm, lớn tiếng nói:

- Kẻ nào lên thuyền là ta đánh chết gã này ngay.

Chỉ thấy thuyền chung quanh tiếng người bàn tán xôn xao, tuy câu nói của Trương Vô Kỵ họ nghe không hiểu gì cả nhưng không một ai dám nhảy lên thuyền, hẳn là người bị bắt kia hẳn có địa vị khá cao, đối phương e ngại nên chưa dám tấn công sang.

Trương Vô Kỵ nhảy trở xuống, đang định thả gã thủ lãnh ra bỗng nghe đằng sau keng một tiếng, vội vàng tránh qua, đá ngược trở lại, thấy trước mặt một thanh thánh hỏa lệnh đánh tới, bên trái lại một thanh khác quét ngang. Trương Vô Kỵ kêu khổ thầm, không ngờ Phong Vân tam sứ lại nhanh như thế, kêu lên:

- Tất cả lui vào trong khoang thuyền.

Chàng liền giơ gã thủ lãnh lên đỡ một thanh lệnh bài, Huy Nguyệt Sứ vội vàng rút về nhưng vì quá vội vã nên hạ bàn để hở, Trương Vô Kỵ chân liền quét qua, đá trúng ngay đùi cô ta. Lưu Vân, Diệu Phong hai sứ giả ở hai bên liền xông vào khiến cho cú đá của Trương Vô Kỵ chưa hết chân đã phải thu lại. Hai bên đánh được tám chín chiêu, thánh hỏa lệnh của Diệu Phong Sứ đánh xéo từ dưới lên, chiêu số hết sức quái dị, suýt nữa đánh trúng bụng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ vội hạ gã thủ lãnh Ba Tư xuống, chiêu của Diệu Phong Sứ thật là cổ quái, nhưng bàn tay Trương Vô Kỵ hạ xuống thật khéo léo, nghe bạch một tiếng, thánh hỏa lệnh liền đập ngay mặt viên thủ lãnh Ba Tư. Phong Vân tam sứ kinh hoàng kêu lên, mặt mày biến sắc, cùng nhảy vọt về sau, trao đổi mấy câu tiếng Ba Tư, đột nhiên cúi chào viên thủ lãnh trong tay Trương Vô Kỵ, thần sắc hết sức cung kính rồi quay trở về thuyền.

Chỉ thấy tiếng loa chỗ này kêu lên u u, chỗ kia kêu lên u u, một chiếc thuyền lớn từ từ tiến đến, trên mũi thuyền cắm mười hai lá cờ lớn thêu bằng chỉ vàng. Đầu thuyền có để mười hai chiếc ghế bành lót da hổ, trong đó một chiếc để trống, còn mười một chiếc kia có người ngồi. Chiếc thuyền đó đến gần lập tức ngừng lại. Triệu Mẫn thấy chiếc ghế bành da hổ bỏ trống kia đứng hàng thứ sáu, trong bụng nghĩ ngay ra liền nói:

- Người mà mình bắt được ăn mặc giống như những người đang ngồi trên thuyền kia, xem ra là một trong mười hai đại thủ lãnh của họ, vị trí đứng hàng thứ sáu.

Tạ Tốn nói:

- Mười hai đại thủ lãnh? Ồ, thì ra mười hai Bảo Thụ Vương của tổng giáo đều đến Trung Thổ quả thật vô cùng quan trọng.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Mười hai Bảo Thụ Vương là gì thế?

Tạ Tốn đáp:

- Trong tổng giáo Ba Tư, dưới giáo chủ có mười hai đại kinh sư [3] gọi là Thập Nhị Bảo Thụ Vương, thân phận địa vị tương đương với tứ đại pháp vương của Minh giáo Trung Thổ. Mười hai Bảo Thụ Vương này thứ nhất Đại Thánh, thứ hai Trí Tuệ, thứ ba Thường Thắng, thứ tư Chưởng Hỏa, thứ năm Cần Tu, thứ sáu Bình Đẳng, thứ bảy Tín Tâm, thứ tám Trấn Ác, thứ chín Chính Trực, thứ mười Công Đức, mười một Tề Tâm, mười hai Câu Minh. Mười hai Bảo Thụ Vương này lấy việc tinh thông giáo nghĩa, kinh điển làm chính nhưng không hẳn võ công đã cao cường. Người này đứng hàng thứ sáu vậy là Bình Đẳng Bảo Thụ Vương.

Trương Vô Kỵ ngồi xuống bên cột buồm, để Bình Đẳng Vương nằm ngang trên đầu gối, người này vị trí trong tổng giáo Ba Tư cực cao, cả bọn sống chết thoát hiểm hay không đều do ở ông ta. Chàng cúi xuống thấy má bên trái ông ta sưng vù, cũng may vết thương không phải là chí mệnh. Có lẽ Diệu Phong Sứ một lệnh bài đánh ra, thấy không xong nên vội thu lực về, hoặc giả nội công người này cũng tương đương nên có kình lực đề ngự.

Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu gom những người Ba Tư trên sàn lại, những người nào chết rồi thì kéo vào khoang sau, còn ai chưa chết thì để thành một hàng. Chỉ thấy khoảng hơn một chục thuyền Ba Tư vây chung quanh, các khẩu đại pháo đều chĩa vào thuyền Trương Vô Kỵ đang ngồi, trên các mạn thuyền đều đầy người Ba Tư, dưới ánh lửa đao kiếm lấp loáng, đông nghẹt không biết là bao nhiêu. Trương Vô Kỵ kinh hãi thầm, không nói gì các khẩu đại pháo bắn tới, chỉ cần những người này cùng xông vào, dẫu chàng có ba đầu sáu tay cũng không cách gì chống trả, dù có tuyệt đính võ công thoát thân được thì cũng không thể nào bảo vệ chu toàn những người còn lại. Ân Ly và Triệu Mẫn hai người bị thương nguy hiểm hơn hết.

Chỉ nghe một người Ba Tư cao giọng nói bằng tiếng Trung Quốc:

- Kim Mao Sư Vương nghe đây: Tất cả mười hai Bảo Thụ Vương của tổng giáo đều có mặt ở đây cả. Ngươi đắc tội với tổng giáo, các Bảo Thụ Vương đều đồng ý tha cho, mau mau thả các giáo hữu tổng giáo về rồi dong thuyền đi ngay.

Tạ Tốn cười đáp:

- Tạ mỗ đâu phải là đứa trẻ lên ba, bọn ta vừa thả những tù binh này về, đại pháo trên thuyền các ngươi liền bắn vào thì sao?

Người kia giận dữ nói:

- Nếu các ngươi không thả liệu đại pháo chúng ta không bắn được ư?

Tạ Tốn trầm ngâm một hồi nói:

- Ta có ba điều kiện, nếu bên quí vị bằng lòng, chúng ta sẽ cung kính giao trả các giáo hữu tổng giáo lên bờ.

Người kia hỏi:

- Điều kiện gì?

Tạ Tốn đáp:

- Từ nay tổng giáo và Minh giáo Trung Thổ phải tương thân tương kính, không bên nào xâm phạm bên nào.

Người kia nói:

- Hừ, còn điều thứ hai?

Tạ Tốn nói tiếp:

- Các ngươi giao Đại Ỷ Ti qua đây, tha cho tội bà ta thất trinh, từ nay không được truy cứu nữa.

Người kia giận dữ nói:

- Việc này không thể được. Đại Ỷ Ti phạm vào đại qui của tổng giáo, phải chịu tội thiêu sống, có liên quan gì đến Minh giáo Trung Thổ các ngươi đâu? Còn điều kiện thứ ba?

Tạ Tốn nói:

- Điều kiện thứ hai nếu không bằng lòng, việc gì phải hỏi đến điều thứ ba?

Người kia nói:

- Được rồi, ví thử như bằng lòng điều kiện thứ hai, điều kiện thứ ba nói ta nghe thử nào.

Tạ Tốn nói:

- Điều kiện thứ ba ư? Chuyện này rất dễ dàng. Các ngươi đem một chiếc thuyền nhỏ đi theo thuyền của chúng ta. Đi khoảng năm mươi dặm, nếu như bọn ta không thấy thuyền lớn các ngươi đuổi theo, sẽ đem những người bị bắt thả xuống thuyền nhỏ, muốn đi đâu thì đi.

Người kia giận dữ nói:

- Nói quấy nói quả, nói quấy nói quả.

Bọn Tạ Tốn nghe rồi ai nấy ngạc nhiên, không hiểu y định nói gì. Triệu Mẫn cười nói:

- Gã này học nói tiếng Trung Quốc nhưng học chưa đi đến đâu. Y định bảo mình "nói quấy nói quá" lại nói thành "nói quấy nói quả".

Tạ Tốn và Trương Vô Kỵ nghĩ nàng nói không sai, tuy cục thế đang lúc gay go nhưng cũng nhịn không nổi cười sằng sặc. Người nói câu "nói quấy nói quả" kia là người đứng cuối cùng trong mười hai Bảo Thụ Vương là Câu Minh Vương, thấy bọn Tạ Tốn cười càng giận thêm, huýt một tiếng còi, cùng người thứ mười một là Tề Tâm Vương nhảy qua bên thuyền.

Trương Vô Kỵ liền tiến lên, tả chưởng đánh vào ngực Tề Tâm Vương nhưng Tề Tâm Vương không né tránh, giơ tay trái chộp lên đầu chàng. Trương Vô Kỵ thấy chưởng của mình sẽ đánh tới ngực y trước, nào ngờ Câu Minh Vương ở bên cạnh song chưởng cùng đánh ra đỡ ngay chưởng của chàng, còn năm ngón tay của Tề Tâm Vương vẫn vồ lên đầu Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ tiến lên một bước, tránh được, nào ngờ hai người công thủ liền lạc, chẳng khác gì một người bốn tay bốn chân. Ba người nhanh như chớp đã trao đổi liền bảy tám chiêu.

Trương Vô Kỵ trong bụng kinh hãi thầm, hai người này tuy so với Phong Vân tam sứ không bằng nhưng võ công mười phần quái dị, rất giống Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, nhưng khi sử dụng lại biến đổi khác hẳn, không thể mò ra được chút đầu mối nào, mặc dầu chiêu số ác liệt khéo léo không bằng được Càn Khôn Đại Na Di. Hai người đánh chẳng khác gì người điên ngẫu nhiên học được Càn Khôn Đại Na Di nhưng học chưa đến đâu, thần trí hỗn loạn, đánh đấm lung tung thành ra không biết cách nào mà chống đỡ.

Thế nhưng hai người liên thủ hết sức khít khao, cũng không khác gì Phong Vân tam sứ. Trương Vô Kỵ hết sức đề ngự nhưng chỉ ngang tay, hi vọng đánh thêm hai ba chục chiêu nữa sẽ chiếm được thượng phong. Ngay khi đó, Phong Vân tam sứ cùng hú lên, nhảy vọt lên thuyền, xông cả vào định cướp lại Bình Đẳng Vương để chuộc cái tội lỡ tay đánh trúng y.

Tạ Tốn liền cầm Bình Đẳng Vương lên quay ngang, làm thành một vòng tròn thật lớn. Phong Vân tam sứ lần này làm sao dám tấn công một cách khinh suất, chỉ né qua né lại tìm sơ hở để xông vào.

Bỗng nghe Câu Minh Vương hự lên một tiếng, trúng một ngọn cước ngã lăn xuống. Trương Vô Kỵ cúi xuống định bắt sống y, Lưu Vân Sứ và Huy Nguyệt Sứ hai người cầm lệnh bài nhảy tới, còn Diệu Phong Sứ ôm được Câu Minh Vương nhảy trở về thuyền. Lần này Tề Tâm Vương và Vân Nguyệt hai sứ liên thủ, phối hợp không được chặt chẽ như ba người Phong Vân Nguyệt, chỉ đánh vài hiệp, xem chừng khó mà thủ thắng nên cùng hú lên một tiếng nhảy ngược trở về thuyền.

Trương Vô Kỵ định thần rồi nói:

- Những người này giống như từng học Càn Khôn Đại Na Di nhưng lại học không đúng, quả thực rất khó đối phó.

Tạ Tốn nói:

- Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp của bản giáo vốn gốc ở Ba Tư. Mấy trăm năm trước truyền vào Trung Thổ rồi, ngay tại bản quốc Ba Tư lại bị thất truyền, cứ như Đại Ỷ Ti nói thì chỉ còn sót lại những phần thô thiển chẳng đâu vào đâu, nên họ sai nàng trở lại Quang Minh Đính để lén lấy lại tâm pháp.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bọn họ căn cơ võ công thật là nông cạn, quả đúng là chỉ mới học được chút ít bên ngoài, nhưng vận dụng lại hết sức khéo léo. Hiển nhiên bên trong có điều gì hết sức quan trọng mà mình chưa tìm ra. Ôi, trong Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp cấp thứ bảy có một số con chưa luyện tới, không lẽ lại là ở trong chỗ này?

Nói xong chàng ngồi xuống sàn thuyền, ôm đầu suy nghĩ. Bọn Tạ Tốn không ai dám nói năng gì sợ chàng không tập trung được tinh thần. Đột nhiên Tiểu Siêu hoảng hốt kêu lên "Ối chà" một tiếng, Trương Vô Kỵ ngẩng đầu lên nhìn thấy Phong Vân tam sứ áp giải một người ra trước mặt mười một Bảo Thụ Vương. Người đó lưng còng, tay chống gậy chính là Kim Hoa bà bà. Người ngồi ở ghế thứ hai là Trí Tuệ Bảo Thụ Vương lên tiếng hỏi mấy câu, Kim Hoa bà bà nghiêng đầu la lớn:

- Ngươi nói gì ta không hiểu?

Trí Tuệ Vương cười khẩy một tiếng, đứng phắt dậy, giơ tay trái ra, đã lột ngay nắm tóc bạc trên đầu Kim Hoa bà bà xuống, lộ ra mái tóc đen nhánh. Kim Hoa bà bà vừa nghiêng qua bên phải tránh, tay phải của Trí Tuệ Vương đã thò ra lột một lớp da trên mặt bà ta. Bọn Trương Vô Kỵ ai nấy đều nhìn rõ, lớp da Trí Tuệ Vương lột kia chỉ là một mặt nạ, trong nháy mắt Kim Hoa bà bà đã biến thành một người đàn bà da trắng như mỡ đông, mắt to má hồng, xinh đẹp không đâu kể xiết.

Đại Ỷ Ti bị y vạch lộ bộ mặt thật, đành vứt quài trượng xuống, chỉ cười nhạt không nói gì. Trí Tuệ Vương nói mấy câu, bà ta liền dùng tiếng Ba Tư đáp lại. Hai người một hỏi một trả lời, nhưng xem thần sắc những Bảo Thụ Vương mỗi lúc một thêm trịnh trọng. Triệu Mẫn đột nhiên hỏi:

- Tiểu Siêu cô nương, họ nói gì thế?

Tiểu Siêu khóc nói:

- Quận chúa thật thông minh, chuyện gì cũng biết hết nhưng sao không ngăn đừng để Tạ lão gia nói ra?

Triệu Mẫn lạ lùng hỏi:

- Ngăn đừng nói cái gì?

Tiểu Siêu nói:

- Bọn họ vốn không biết Kim Hoa bà bà là ai cả, về sau biết được bà ta là Tử Sam Long Vương nhưng đâu có biết Tử Sam Long Vương lại là thánh nữ Đại Ỷ Ti. Bà bà khổ tâm cũng chỉ mong đánh lừa được bọn họ. Tạ lão gia đề cập đến điều kiện thứ hai là yêu cầu họ thả thánh nữ Đại Ỷ Ti ra, tuy có lòng tốt nhưng không lừa được Trí Tuệ Bảo Thụ Vương. Tạ lão gia mắt không nhìn thấy nên không biết Kim Hoa bà bà hóa trang thật hay, che dấu được mọi người. Triệu cô nương, cô nhìn thấy rõ như thế không lẽ không nghĩ ra sao?

Kỳ thực khi Triệu Mẫn nghe Tạ Tốn kể chuyện biết được Kim Hoa bà bà chính là thánh nữ Đại Ỷ Ti của tổng giáo Ba Tư nhưng lại không nghĩ ra là dưới mắt người Ba Tư thì chưa biết chân diện mục của bà ta thế nào. Nàng định lên tiếng cãi lại nhưng thấy giọng nói của Tiểu Siêu thật là bi thương, xem ra giữa nàng và Kim Hoa bà bà có một liên quan thật mật thiết nên chỉ nói:

- Tiểu Siêu muội tử, tôi quả thực không nghĩ đến. Nếu như có ý gia hại Kim Hoa bà bà thì trời không cho tôi được chết yên chết lành.

Tạ Tốn lại càng ăn năn, không nói lên một lời nào nhưng trong bụng đã định thầm dù cho tính mạng mình không còn cũng nhất quyết cứu cho được Đại Ỷ Ti thoát hiểm. Tiểu Siêu khóc nói:

- Bọn họ trách cứ Kim Hoa bà bà nói sao dám lấy chồng, lại phản giáo, muốn ... muốn đem ra thiêu sống.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tiểu Siêu, cô đừng quá hốt hoảng, một khi có cơ hội, tôi sẽ nhảy qua cứu bà bà ngay.

Chàng gọi là "bà bà" kỳ thực lúc này đã nhìn thấy bản lai diện mục của Tử Sam Long Vương rồi, tuy đã trung niên, nhưng phong tư yểu điệu chẳng khác gì Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược xem chỉ đáng chị của Tiểu Siêu thôi. Tiểu Siêu nói:

- Không được, không được đâu. Mười một Bảo Thụ Vương lại thêm Phong Vân tam sứ giả, công tử đấu không lại, có qua chỉ thêm uổng mạng, lúc này họ đang bàn tính làm sao cướp lại Bình Đẳng Vương đó.

Triệu Mẫn hậm hực nói:

- Hừ, dẫu Bình Đẳng Vương có sống sót mà về trên mặt có in mấy hàng chữ cũng xấu hổ đến chết được.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Trên mặt có in hàng chữ ư?

Triệu Mẫn nói:

- Gã sứ giả râu vàng kia dùng thánh hỏa lệnh đánh trúng má y ... A! Tiểu Siêu!

Đột nhiên nàng nghĩ ra một chuyện vội hỏi:

- Tiểu Siêu muội tử, cô có biết chữ Ba Tư không?

Tiểu Siêu đáp:

- Có biết.

Triệu Mẫn nói:

- Cô xem đây, trên mặt Bình Đẳng Vương có in những chữ gì?

Tiểu Siêu nâng đầu Bình Đẳng Vương lên nhìn trên má y, thấy má y sưng vù, trên có in ba hàng chữ Ba Tư. Thì ra trên những thánh hỏa lệnh đều có khắc chữ, Diệu Phong Sứ đánh nhầm Bình Đẳng Vương nên chữ trên thánh hỏa lệnh in lên mặt y. Có điều chỗ thánh hỏa lệnh chạm vào mặt chỉ chừng ngang hai tấc, dài ba tấc nên những hàng đó chữ có chữ không.

Khi Tiểu Siêu đi cùng với Trương Vô Kỵ vào trong bí đạo nơi Quang Minh Đính, nàng đã từng đọc Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp mấy lần, tuy chưa được Trương Vô Kỵ chỉ bảo, tự mình cũng chưa tập luyện nhưng môn võ công tâm pháp đó nàng nhớ rất kỹ. Khi Trương Vô Kỵ trong đường hầm học tới cấp thứ bảy gặp chỗ nghi nan bỏ qua không luyện, Tiểu Siêu từng ghi nhớ hết, bây giờ đọc những hàng chữ trên mặt Bình Đẳng Vương nàng chợt kêu lên:

- Cái này là Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp.

Trương Vô Kỵ lạ lùng:

- Cô bảo đây là Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp ư?

Tiểu Siêu nói:

- Không, không phải. Em vừa thoạt nhìn tưởng là thế nhưng hóa ra không phải. Dịch thành tiếng Trung Quốc ý tứ như sau: "muốn phải thì trước, muốn trái thì sau, ba giả bảy thật, trong không sinh có" ... rồi cái gì "trời vuông đất tròn ..." bên dưới không đọc rõ nữa.

Mấy hàng chữ đó chẳng qua chỉ độ mươi chữ nhưng Trương Vô Kỵ nghe rồi chẳng khác nào đầy trời mây đen, nay có một làn chớp lóe lên, tuy rằng ánh sáng qua rồi bốn bề lại tối đen như mục, nhưng mấy ánh chớp đó cũng khiến chàng nhìn được phương hướng mà đi nên lẩm bẩm đọc:

- Ứng tả tắc hậu, tu hữu nãi tiền...

Cố hết sức nghĩ cho ra mấy câu khẩu quyết đó làm sao phối hợp được với võ công Càn Khôn Đại Na Di, có lúc tưởng như đã nghĩ ra, nhưng rồi lại không phải, xem ra hai bên không ăn khớp với nhau. Đột nhiên Tiểu Siêu kêu lên:

- Công tử, để ý! Bọn họ truyền lệnh, Phong Vân tam sứ tới tấn công công tử, còn Cần Tu Vương, Trấn Ác Vương, Công Đức Vương qua đoạt lại Bình Đẳng Vương.

Tạ Tốn liền cầm Bình Đẳng Vương giơ lên ngang ngực, vứt thanh đao Đồ Long cho Vô Kỵ nói:

- Con dùng đao chém thật hăng.

Triệu Mẫn cũng giao thanh Ỷ Thiên kiếm cho Chu Chỉ Nhược. Hai nàng bây giờ cùng hội cùng thuyền, sát cánh nghinh địch là trên hết. Trương Vô Kỵ nhận lấy thanh đao Đồ Long, đầu óc đâu đâu cắm luôn vào lưng, miệng vẫn lẩm bẩm:

- Tam hư thất thực, vô trung sinh hữu ...

Triệu Mẫn nóng ruột kêu lên:

- Chàng ngốc ơi, bây giờ đâu còn là lúc nghiền ngẫm võ công, mau mau chuẩn bị nghinh địch đi thôi.

Nói chưa dứt lời, Cần Tu, Trấn Ác, Công Đức tam vương đã tung mình nhảy qua, giơ chưởng tấn công Tạ Tốn. Ba người đó sợ làm Bình Đẳng Vương bị thương cho nên không dùng binh khí, chỉ sử dụng quyền chưởng, nếu một người nào nắm được Bình Đẳng Vương là ra sức kéo về. Chu Chỉ Nhược thủ tại bên cạnh Tạ Tốn, mỗi khi nguy cấp thì lại giơ kiếm đâm vào Bình Đẳng Vương. Như thế Cần Tu Vương, Trấn Ác Vương không thể không xuất chưởng tấn công Chu Chỉ Nhược để kiếm của nàng khỏi đâm vào người đồng bọn.

Ở mé bên kia, Trương Vô Kỵ cùng ba sứ giả tụ lại một chỗ. Bốn người mấy lần đụng tay, ai nấy đều nếm mùi kình lực của Trương Vô Kỵ nên không còn ai dám thờ ơ nữa. Chỉ qua mấy hiệp, Huy Nguyệt Sứ đánh ra một lệnh bài, cứ theo đúng đạo lý võ học, chiêu đó phải đánh vào vai trái Trương Vô Kỵ, nào ngờ thánh hỏa lệnh ở trên không lại quay vòng lại một cách kỳ lạ, nghe bạch một tiếng trúng ngay sau cổ chàng.

Trương Vô Kỵ bị đau nhói nhưng trong đầu lập tức hiểu ra, kêu lên:

- Muốn trái thì sau, muốn trái thì sau! Đúng rồi! Đúng rồi!

Chỉ trong khoảnh khắc chàng vỡ lẽ ngay, những gì Phong Vân tam sứ sử dụng đây chẳng qua chỉ là công phu nhập môn của Càn Khôn Đại Na Di cấp thứ nhất, nhưng trên thánh hỏa lệnh có khắc những biến hóa lạ lùng, khiến cho càng thêm rắc rối. Chàng vừa nghĩ ra, bốn câu khẩu quyết Tiểu Siêu đọc lên lập tức minh bạch, nhưng cái gì "thiên phương địa viên" thì chàng chưa hiểu được định bụng phải tìm cách đọc được những chữ khắc trên thánh hỏa lệnh để thông hiểu tinh yếu võ công của Ba Tư.

Chàng liền rú lên một tiếng dài, hai tay thi triển cầm nã, "tam hư thất thực" đoạt luôn hai thanh thánh hỏa lệnh trên tay Huy Nguyệt Sứ, rồi tiếp theo "vô trung sinh hữu" lại cướp được hai thánh hỏa lệnh của Lưu Vân Sứ. Hai người còn đang ngơ ngẩn, Trương Vô Kỵ đã bỏ luôn bốn chiếc thánh hỏa lệnh vào trong túi, hai tay nắm cổ hai người, ném ra ngoài.

Tất cả những người Ba Tư liền xí xố ầm cả lên, Diệu Phong Sứ cũng vội vàng nhảy trở về thuyền. Lúc này Trương Vô Kỵ đã rõ được yếu quyết của họ, tuy rất hữu hạn, nhưng võ công của Diệu Phong Sứ đối với chàng không còn gì là kỳ bí nữa, tay phải thò ra đã nắm ngay được chân trái y, lôi y từ trên không về, giơ tay cướp luôn hai thanh thánh hỏa lệnh còn lại, cầm luôn người y đập xuống đầu Trấn Ác Vương. Tam vương kinh hãi, vung tay một cái nhảy luôn trở về. Trương Vô Kỵ điểm huyệt Diệu Phong Sứ, ném xuống dưới chân.

Chàng đắc thắng phen này thật là đột ngột nên chỉ khoảnh khắc đang từ thế yếu chuyển sang thế mạnh, cả bọn vô cùng mừng rỡ, hỏi nguyên do. Trương Vô Kỵ cười nói:

- Nếu không vì trời xui đất khiến trên má Bình Đẳng Vương bị trúng một đòn thì mình thật là khốn khổ. Tiểu Siêu, cô hãy dịch những chữ trên thánh hỏa lệnh này cho tôi nghe, mau đi, mau đi.

Mọi người nhìn vào những thánh hỏa lệnh, thấy không phải kim loại mà cũng không phải ngọc đá, cứng rắn vô cùng, sáu lệnh bài cái dài cái ngắn không đều nhau, trông như trong mà không trong, ở giữa mờ mờ hình ngọn lửa bốc lên, sắc lấp lánh thật là đẹp đẽ. Trên mỗi thanh lệnh bài khắc rất nhiều chữ Ba Tư, không nói đến tìm hiểu cho kỹ, chỉ dịch qua một lần cũng đã mất rất nhiều thời giờ.

Thế nhưng Trương Vô Kỵ biết rằng muốn thoát ra khỏi được cái khốn cảnh hiện thời, không thể nào không tìm hiểu cho ra nguyên ủy của võ công Ba Tư nên quay sang nói với Chu Chỉ Nhược:

- Chu cô nương, nhờ cô cầm Ỷ Thiên kiếm ghìm vào cổ Bình Đẳng Vương. Nghĩa phụ, nhờ cha nhứ đao Đồ Long vào cổ Diệu Phong Sứ để kéo dài thời giờ.

Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược gật đầu đáp ứng. Tiểu Siêu cầm sáu thanh thánh hỏa lệnh lên, thấy thanh lệnh bài ngắn nhất trên khắc ít chữ nhất, lại đen sì trông không đẹp mắt chút nào, dịch từng câu cho Vô Kỵ nghe. Trương Vô Kỵ nghe xong không hiểu gì cả, cố gắng suy nghĩ nhưng không rõ nghĩa càng thêm hoảng hốt. Triệu Mẫn nói:

- Tiểu Siêu muội tử, cô giải thích thanh thánh hỏa lệnh đánh vào Bình Đẳng Vương trước.

Câu nói đó khiến Tiểu Siêu bừng tỉnh, vội vàng coi các chữ khắc thấy thanh dài thứ hai hợp nghĩa vội vàng giải thích cho Vô Kỵ nghe, lần này chàng mười phần hiểu đến bảy tám. Đợi đến khi giải nghĩa xong, giải thích tiếp thanh dài nhất, Trương Vô Kỵ nghe qua vài câu mừng rỡ nói:

- Tiểu Siêu, văn tự trong sáu thanh thánh hỏa lệnh này, càng dài thì càng dễ. Những thanh này đều là công phu nhập môn cả.

Thì ra những thánh hỏa lệnh này là do Sơn Trung Lão Nhân Thôi Sơn ngày xưa đúc thành, trên khắc võ công tinh yếu một đời của y. Cả sáu thánh hỏa lệnh lẫn Minh giáo cùng truyền vào Trung Thổ một lúc, trước đây vẫn dùng làm lệnh phù của giáo chủ nhưng về sau, Minh giáo Trung Thổ không còn ai biết tiếng Ba Tư nữa. Mấy chục năm trước, thánh hỏa lệnh bị người của Cái Bang đoạt mất, lại do thương nhân Ba Tư mua được, nên quay trở về Minh giáo Ba Tư. Tổng giáo Ba Tư nghiên cứu văn tự trên đó mấy chục năm qua nên những người có võ công kha khá trong tổng giáo tiến bộ rất nhiều. Thế nhưng võ công khắc trên đó bác đại tinh thâm nên ngay cả người giỏi nhất là Đại Thánh Bảo Thụ Vương cũng chỉ học được ba bốn thành.

Còn như Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, trước đây vốn là hộ giáo thần công của Minh giáo Ba Tư nhưng môn đó người thường không thể tu tập được. Giáo chủ Minh giáo Ba Tư lại qui định chỉ do xử nữ đảm nhiệm, trước nay vốn chỉ là những cô gái võ công tầm thường nên tâm pháp truyền xuống rất là hữu hạn, ngược lại Minh giáo bên Trung Quốc lại còn giữ được toàn phần. Minh giáo Ba Tư kết hợp chưa tới một thành còn lại của Càn Khôn Đại Na Di với hai ba thành của võ công thánh hỏa lệnh thành một môn võ công kỳ dị cổ quái.

Trương Vô Kỵ ngồi xếp bằng nơi đầu thuyền, còn Tiểu Siêu đem thánh hỏa lệnh từng câu từng chữ dịch lại cho chàng nghe. Võ học trong thánh hỏa lệnh này vốn dĩ thật là kỳ diệu, thế nhưng nhất pháp thông, vạn pháp thông, những học vấn thâm áo đến chỗ cùng cực thì cũng đều qui về một mối. Trương Vô Kỵ thông hiểu Cửu Dương thần công, Càn Khôn Đại Na Di, lại thêm đạo lý Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm của phái Võ Đương. Võ công thánh hỏa lệnh tuy có kỳ lạ thật, nhưng cũng chỉ là đỉnh cao của sở học bàng môn tả đạo, nói đến tinh thâm rộng rãi so ra kém xa ba môn võ học kia. Trương Vô Kỵ nghe Tiểu Siêu dịch xong cả sáu thanh thánh hỏa lệnh trong nhất thời chỉ nhớ được sáu bảy phần, biết rõ ràng thì lại chỉ được năm sáu phần, nhưng như thế thôi võ công của các Bảo Thụ Vương và Phong Vân tam sứ, dưới mắt chàng nay đã rõ như ban ngày không còn gì mù mờ nữa.

Chàng hết tâm hết ý để vào việc nghiên cứu võ học hết giờ này sang khắc khác, không còn biết đến chuyện gì chung quanh nhưng Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược thì nóng ruột vô cùng. Bọn họ thấy Đại Ỷ Ti chân tay đã bị xích chặt, mười một Bảo Thụ Vương cùng họp bàn, Bảo Thụ Vương thứ mười một cởi trường bào ra, thay bằng nhuyễn giáp, những người chung quanh đưa ra mười một món binh khí hình dáng quái dị. Kế đến những người Ba Tư dàn ra trước sau trái phải đầy tay cầm cung tên, nhắm thẳng vào mình, lại đến mười tên Ba Tư tay cầm búa dùi nhảy xuống nước, chỉ cần thủ lãnh hạ lệnh là bơi đến đục chìm thuyền.

Bỗng Đại Thánh Bảo Thụ Vương ngồi chính giữa quát lớn một tiếng, chung quanh bốn bên trống đánh liên hồi, tù và thổi lên rầm rĩ. Trương Vô Kỵ kinh hoảng ngửng đầu nhìn lên thấy mười một Bảo Thụ Vương đều mặc áo giáp vàng sáng chói, tay cầm binh khí, nhảy lên trên thuyền. Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược tay cầm đao kiếm để vào cổ Bình Đẳng Vương và Diệu Phong Sứ. Mười một vương kia nhìn thấy thế, tuy đã nhảy lên đầu thuyền rồi nhưng không dám đến gần mà tản ra thành hình bán nguyệt, mắt lăm lăm tìm cơ hội xông vào. Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn thấy mười một người đó hình dáng hung hăng, thân thể to lớn đều không khỏi khiếp sợ.

Trí Tuệ Vương nói bằng tiếng Trung Quốc:

- Chúng mày mau mau thả giáo hữu chúng tao ra thì ta tha cho chúng mày khỏi chết. Những giáo hữu này bọn tao có khác gì con heo con chó, chúng bay kề đao vào cổ họ đâu có ích gì? Chúng bay có giỏi thì đem bọn họ giết đi. Trong thánh giáo Ba Tư những người như thế có cả nghìn cả vạn, giết một hai người đâu có sao.

Triệu Mẫn nói:

- Chúng mày đừng có lớn lối, định đánh lừa chúng tao. Chúng tao biết rồi, hai người này một người là Bình Đẳng Bảo Thụ Vương, một người là Diệu Phong Sứ trong Minh giáo địa vị rất cao. Mày bảo y là heo là chó là nói sai rồi, sai thật là sai.

Gã Trí Tuệ Vương học tiếng Trung Hoa toàn ở trong sách vở nên những tiếng "chúng mày" "bọn tao" đều là dùng những tiếng của bọn hạ lưu. Triệu Mẫn bắt chước giọng điệu của y khiến cho Tạ Tốn các người nghe thấy, dẫu đang trong cảnh nguy hiểm nhưng cũng nhịn không nổi phải mỉm cười.

Trí Tuệ Vương nhíu mày rồi nói:

- Trong thánh giáo có cả thảy ba trăm sáu mươi Bảo Thụ Vương, Bình Đẳng Vương đứng thứ ba trăm năm mươi chín. Bọn tao có một nghìn hai trăm sứ giả, gã Diệu Phong Sứ này võ công tầm thường, chẳng ra quái gì, chúng bay mau mau đem nó giết đi.

Triệu Mẫn đáp:

- Hay lắm, hay lắm. Các bạn cầm đao kiếm, mau đem hai gã vô dụng này giết đi.

Tạ Tốn đáp:

- Tuân lệnh.

Ông giơ thanh đao Đồ Long lên, nghe vù một tiếng chém hớt ngang đầu Bình Đẳng Vương, chỉ cách không quá nửa tấc, một mảng lớn tóc bị cắt đứt gió biển thổi vào bay tứ tán. Tạ Tốn lại giơ đao lên chém bên trái một nhát, bên phải một nhát xuống hai bên vai Bình Đẳng Vương.

Hai nhát dao đó ai cũng tưởng sẽ chặt đứt hai cánh tay y nhưng khi đao vừa chạm vào người thì cổ tay hơi nghiêng đi, cắt đứt mỗi bên tay áo một mảnh. Ba nhát dao đó bộ vị chuẩn xác, chẳng nói gì người mù, đến như người mắt sáng cũng thật là khó mà làm được.

Bình Đẳng Vương chết đi sống lại, sợ tưởng như muốn ngất xỉu. Mười một Bảo Thụ Vương lẫn Phong vân tam sứ giả ai ai cũng há hốc mồm le lưỡi. Triệu Mẫn lại nói:

- Chúng bay đã thấy võ công Minh giáo Trung Thổ rồi. Đây là Kim Mao Sư Vương, ở Minh giáo đứng hàng thứ ba nghìn năm trăm lẻ chín, chúng bay nếu ỷ đông, sau này Minh giáo Trung Thổ sẽ đến Ba Tư trả thù, đánh cho tan tành tổng đàn chúng bay, chúng bay không đánh lại đâu, mau mau chịu thua đi là vừa.

Trí Tuệ Vương biết là Triệu Mẫn không nói thực nhưng nhất thời không biết làm sao. Gã Đại Thánh Bảo Thụ Vương bỗng nói vài câu, Tiểu Siêu kêu lên:

- Trương công tử, bọn họ định đục thuyền.

Trương Vô Kỵ hơi kinh hoảng, nếu như thuyền chìm, mọi người không ai biết bơi ắt sẽ bị bắt cả, vội nhún một cái đã vọt tới trước mặt Đại Thánh Vương. Trí Tuệ Vương quát lên:

- Mày làm gì đó?

Hai bên Công Đức Vương và Chưởng Hỏa Vương một người cầm roi, một người cầm chùy cùng xông lại. Lúc này Trương Vô Kỵ đã hiểu được võ công của Ba Tư rồi, không tránh né cũng không lách qua, chỉ vươn hai tay ra, nắm đúng ngay yết hầu của hai vương. Chỉ nghe keng một tiếng, thiết tiên của Công Đức Vương đã đụng phải bát giác chùy của Chưởng Hỏa Vương, lửa bắn tung tóe còn hai người thì bị chàng nắm trúng yếu huyệt, lôi sềnh sệch về. Trong lúc nhốn nháo, Trương Vô Kỵ lại liên tiếp đá ra bốn cái, hai ngọn cước đá văng hai thanh đao trong tay Tề Tâm Vương và Trấn Ác Vương, còn hai cú đá văng Cần Tu Vương và Câu Minh Vương xuống biển.

Một Bảo Thụ Vương thân hình cao gầy liền xông tới, hai tay cầm hai đoản kiếm, đâm vào ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ lại tung chân lên, đá vào cổ tay y. Người đó đột nhiên chập tay lại đâm vào bụng Trương Vô Kỵ. Chiêu đó biến hóa thật là linh động, Trương Vô Kỵ vội nhảy về sau mới tránh được. Thì ra y là Thường Thắng Bảo Thụ Vương, là người võ công cao cường nhất trong mười hai người của tổng giáo Ba Tư. Trương Vô Kỵ liền khóa huyệt đạo của Công Đức và Chưởng Hỏa ném hai người vào khoang thuyền rồi lại tiến lên đấu tiếp với song kiếm của Thường Thắng Vương. Người này tuy cũng là một trong mười hai vương nhưng võ công cao siêu những người khác không sao bì kịp. Trương Vô Kỵ công ba chiêu, thủ ba chiêu, ba lần tiến, ba lần thoái, trong bụng khen thầm: "Gã Ba Tư Hồ nhân này giỏi thật".

Chàng hiểu được võ công trên thánh hỏa lệnh nhưng chưa từng luyện tập lại gặp ngay cường địch, một mặt nhớ lại những gì mới biết, một mặt giao đấu với Thường Thắng Vương. Trong khoảng mười chiêu đầu, chàng chỉ nhờ vào nội lực thâm hậu, chiêu số xảo diệu để giữ sao cho được ngang tay không thắng không bại, đến hai mươi chiêu sau, bí quyết trên thánh hỏa lệnh phối hợp với Càn Khôn Đại Na Di càng lúc càng thuần thục, Thường Thắng Vương được tiếng là 'thường thắng" xưa nay chưa gặp đối thủ, lúc này bị đối phương ép cho bó chân bó tay, y chưa từng bị như thế bao giờ khiến cho vừa kinh dị, vừa sợ hãi. Đấu đến hơn ba chục chiêu, Trương Vô Kỵ tiến lên một bước, đột nhiên ngồi phịch xuống sàn, ôm chặt lấy đùi Thường Thắng Vương. Chiêu quái dị này vốn ghi trong thánh hỏa lệnh là công phu hết sức cao thâm, Thường Thắng Vương tuy biết nhưng chưa dám sử dụng bao giờ. Trương Vô Kỵ vừa ôm được mười ngón tay liền bấm ngay hai huyệt Trung Đô, Trúc Tân là phương pháp điểm huyệt của Trung Thổ. Nửa người bên dưới của Thường Thắng Vương liền tê dại, đành thở dài để cho bị bắt.

Trương Vô Kỵ bỗng nổi lòng yêu tài của y bèn nói:

- Ngươi võ công giỏi lắm. Ta không muốn ngươi bị mất tiếng, mau mau đi về.

Nói xong chàng buông tay ra, Thường Thắng Vương vừa cảm kích vừa xấu hổ, nhảy trở về thuyền. Đại Thánh Vương thấy Thường Thắng Vương hết sức chiến đấu mà vẫn thua, Công Đức Vương và Chưởng Hỏa Vương lại rơi vào tay địch, dẫu có đục chìm thuyền thì ném chuột cũng vỡ đồ, bốn người bọn Bình Đẳng Vương cũng chết hết, liền ra lệnh gọi tất cả trở về thuyền mình.

Triệu Mẫn lớn tiếng nói:

- Chúng bay mau mau chấp thuận ba điều kiện của Kim Mao Sư Vương đem Đại Ỷ Ti đưa qua bên này.

Chín người Bảo Thụ Vương còn lại liền chụm đầu thương nghị một hồi, Trí Tuệ Vương nói:

- Ba điều kiện đó bọn ta có thể chấp thuận được, thế nhưng thanh niên kia võ công đúng là cùng phái với Ba Tư chúng ta, y học ở đâu thế bọn ta không hiểu rõ.

Triệu Mẫn cố nhịn cười, giả vờ nghiêm trang đáp:

- Chúng bay không hiểu rõ, không thông suốt, không biết tí gì, không đâu vào đâu. Vị công tử thanh niên này là đệ tử thứ tám của Quang Minh sứ giả bản giáo. Y còn bảy sư huynh, bảy sư đệ sắp đến rồi, khi đó thì tan tành loạn xạ, chúng bay chẳng sướng lắm sao, ô hô ai tai.

Trí Tuệ Vương vốn rất thông minh nhưng Hoa ngữ chưa được giỏi, Triệu Mẫn nói y chỉ hiểu bảy tám phần, cũng đoán được nàng khoác lác, suy nghĩ một chút rồi nói:

- Được, để cho đem Đại Ỷ Ti qua thuyền.

Hai tên giáo đồ Ba Tư liền dẫn Đại Ỷ Ti đưa qua bên thuyền Trương Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược rung trường kiếm một cái, leng keng hai tiếng chặt đứt ngay các khóa ở chân tay bà ta. Hai tên giáo đồ Ba Tư thấy kiếm sắc bén đến thế, sợ đến mất mật, vội vàng nhảy trở về thuyền.

Trí Tuệ Vương nói:

- Chúng mày mau mau khai thuyền, đi về Trung Thổ. Bọn tao sẽ cho thuyền nhỏ đi theo chúng mày.

Trương Vô Kỵ vòng tay nói:

- Minh giáo Trung Thổ vốn xuất phát từ Ba Tư, quí vị và chúng tôi tình như anh em, hôm nay hiểu lầm nhau, mong các vị đừng để bụng. Mai này có dịp mời lên Quang Minh Đính, hai bên uống chén rượu chung vui. Những điều sai sót, xin tạ lỗi cùng quí vị.

Trí Tuệ Vương cười ha hả nói:

- Mày võ giỏi lắm, bọn tao thật là kính phục. Học mà được luyện tập, chẳng sướng lắm sao? Có bạn từ xa đến chơi, chẳng sướng lắm sao? Tan tành loạn xạ, chẳng sướng lắm sao?[4]

Trương Vô Kỵ khi mới nghe y dẫn chứng hai câu trong sách, nghĩ thầm người này đã biết được lời Khổng Tử, quả không phải dễ không ngờ y liền nối theo hai câu học của Triệu Mẫn, nhịn không nổi phải phì cười. Triệu Mẫn nói:

- Câu mày nói hay lắm. Kẻ man di như Ba Tư mà biết thế thật là hiếm có. Chúc chúng mày đa phúc đa thọ, sống lâu thêm nhục, họa đến tổ tiên, không bệnh cũng chết.

Trí Tuệ Vương chỉ hiểu được "đa phúc đa thọ", nghĩ chắc những chữ sau cũng đều là những câu chúc tụng, cười hì hì, luôn mồm "đa tạ, đa tạ".

Trương Vô Kỵ sợ Triệu Mẫn cao hứng quá không biết sẽ giở thêm những trò điêu ngoa cổ quái gì khác, mình đang ở nơi giữa bầy lang hổ, đêm dài lắm mộng, chạy thoát sớm lúc nào hay lúc nấy nên vội vàng kéo neo, chuyển bánh lái, giương buồm cho thuyền từ từ dong ra. Những người Ba Tư ở chung quanh thấy chàng kéo neo dương buồm, một mình làm bằng cả chục người khác, thần lực kinh người đều lớn tiếng reo hò. Chỉ thấy dây buộc theo một chiếc thuyền nhỏ ném qua, Trương Vô Kỵ liền bắt lấy buộc nơi đuôi tàu kéo theo từ từ đi ra mỗi lúc một xa. Trong chiếc thuyền nhỏ chỉ có hai người, một nam một nữ, chính là Lưu Vân Sứ và Huy Nguyệt Sứ.

Trương Vô Kỵ cầm tay lái, cho thuyền đi về hướng tây, thấy các thuyền lớn của Ba Tư không đuổi theo, đi được mấy dặm, nhìn lại hướng Linh Xà đảo thấy thuyền địch chỉ còn nhỏ tí vẫn ở yên đó nên cũng an tâm.

Chàng bèn nhờ Tiểu Siêu giữ tay lái, vào trong khoang xem xét bệnh tình Ân Ly, thấy nàng nửa tỉnh nửa mê nằm thiêm thiếp, tuy không thấy bớt chút nào nhưng cũng không nặng thêm, nghĩ thầm trong chiếc thuyền lớn của Ba Tư có khi kiếm được thuốc men không chừng.

Đại Ỷ Ti đứng nơi đầu thuyền nhìn ra biển, nghe tiếng bước chân Trương Vô Kỵ đi lên trên sàn nhưng cũng không quay lại. Trương Vô Kỵ nhìn từ sau lưng thấy bà ta thật xinh đẹp, mái tóc dài bay phất phơ để lộ chiếc cổ trắng như ngọc, Tạ Tốn bảo là năm xưa được xưng đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm quả thật không sai, nghĩ đến khi ở trên Quang Minh Đính nơi Bích Thủy Hàn Đàm, tà áo tím phất phới như hoa, cầm thanh kiếm sáng loáng như tuyết thật quả điên đảo bao nhiêu anh hùng hào kiệt.

Thuyền đi đến chiều, tính ra phải cách đảo Linh Xà đến một trăm dặm, nhìn về phương đông, trên biển không thấy một cánh buồm nào, quả thực tổng giáo Ba Tư bị ép buộc không dám đuổi theo. Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ, mình đã tha bọn họ ra được chưa?

Tạ Tốn đáp:

- Được rồi, bọn họ dẫu muốn đuổi theo cũng đuổi không kịp nữa.

Trương Vô Kỵ liền giải huyệt cho Bình Đẳng, Công Đức, Chưởng Hỏa tam vương luôn cả Diệu Phong Sứ, luôn mồm xin lỗi, thả cho họ về chiếc thuyền nhỏ kéo theo sau đuôi. Diệu Phong Sứ nói:

- Những thánh hỏa lệnh đó do bọn ta trông coi, đánh mất tội nặng lắm, xin giao lại cho.

Tạ Tốn nói:

- Thánh hỏa lệnh là lệnh phù của giáo chủ Minh giáo Trung Thổ, hôm nay vật về chủ cũ, làm sao lại có thể giao cho ngươi được.

Diệu Phong Sứ cứ nằng nặc đòi lại nhất định không chịu thôi. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm hôm nay mình phải làm cho y tâm phục, khỏi dây dưa rắc rối về sau liền nói:

- Nếu bọn ta giao lại cho ngươi, các ngươi bản lãnh thấp kém làm sao giữ được. Nếu như bị người ta cướp mất với ở trong tay Minh giáo thì cái nào hơn?

Diệu Phong Sứ nói:

- Người ngoài làm sao có thể cướp được?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nếu ngươi không tin, để thử thì biết.

Chàng giao lại sáu thanh thánh hỏa lệnh cho Diệu Phong Sứ. Y mừng quá chỉ nói được một câu: "Đa tạ". Trương Vô Kỵ tay trái móc nhẹ một cái, tay phải kéo về, lại lấy lại cả sáu chiếc lệnh bài.

Diệu Phong Sứ kinh hãi, giận dữ nói:

- Ta cầm chưa chặt, cái đó không tính.

Trương Vô Kỵ cười:

- Thế thử thêm lần nữa cũng có sao.

Chàng lại giao thánh hỏa lệnh lại cho y. Diệu Phong Sứ để bốn chiếc lệnh bài vào túi, trong tay cầm hai chiếc, thấy Trương Vô Kỵ giơ tay ra cướp, thánh hỏa lệnh bên trái liều đánh vào cổ tay chàng. Trương Vô Kỵ lật tay một cái, đã bắt được cánh tay y, cầm luôn hất lên, hai chiếc lệnh bài đụng nhau, nghe keng một tiếng chấn động cả người. Nội lực hùng hậu của Trương Vô Kỵ theo tay y mà truyền ra, Diệu Phong Sứ hai tay tê chồn, toàn thân mất hết hơi sức chẳng khác gì bị bại liệt vội rụt tay về để thánh hỏa lệnh rơi xuống sàn.

Trương Vô Kỵ bèn thò tay vào bọc y lấy bốn chiếc thánh hỏa lệnh trước sau đó mới nhặt hai lệnh bài trên sàn thuyền nói:

- Thế nào? Ngươi có muốn thử thêm lần nữa hay không?

Diệu Phong Sứ mặt tái ngắt, chỉ lẩm bẩm:

- Ngươi không phải là người, ngươi là ma quỉ, ngươi là ma quỉ.

Y định nhảy trở về thuyền nhỏ, nhưng trượt chân lảo đảo muốn ngã. Lưu Vân Sứ liều nhảy tới bồng y trở về. Chiếc thuyền nhỏ liền dựng buồm lên, Công Đức Vương cầm dây buộc, hai tay kéo một cái, nghe soẹt một tiếng đứt ngay, hai chiếc thuyền liền tách ra. Trương Vô Kỵ vòng tay nói:

- Đắc tội thật nhiều xin các vị lượng thứ cho.

Bọn Công Đức Vương mắt người nào cũng hầm hầm đầy thù hận không ai đáp lại lời nào. Chiếc thuyền lớn thuận gió trôi về hướng tây, hai chiếc thuyền xa nhau dần. Đột nhiên Đại Ỷ Ti kêu lên:

- Bọn giặc này giỏi thật.

Bà ta nhảy vụt xuống biển, Trương Vô Kỵ kinh hoảng vội vàng chuyển tay lái. Chỉ thấy một dòng máu từ dưới biển nổi lên, rồi ở cách một quãng lại có một dòng máu khác, trong giây lát tất cả đếm được sáu đốm máu. Nghe sạch một tiếng, Đại Ỷ Ti từ dưới biển vọt lên, trên miệng ngậm một thanh đoản đao, tay phải cầm tóc một người Ba Tư. Trương Vô Kỵ vội vàng quay thuyền lại đón nhưng vì chiếc thuyền quá lớn, muốn quay đầu lại mà không phải hạ buồm đành phải đánh một vòng thật lớn mới từ từ đến gần. Tử Sam Long Vương bơi lội ở dưới biển không khác gì cá, chẳng mấy chốc đã đến bên thuyền, tay nắm vào dây neo nhún một cái, thân hình bay vọt lên, luôn cả gã Ba Tư kia cũng cùng vọt lên trên sàn thuyền.

Cả bọn ai nấy lạnh người biết người Ba Tư có bụng chơi ác, đợi bọn Công Đức Vương qua được thuyền nhỏ rồi liền lấy chiếc buồm che đi cho người bơi lội giỏi lặn xuống bên cạnh thuyền, định đục cho chìm thuyền của Trương Vô Kỵ. May là Tử Sam Long Vương nhìn thấy những bọt hơi của bọn người lặn dưới nước nhảy xuống biển giết được sáu tên, lại còn bắt sống một đứa.

Bà ta đang định tra hỏi gã Ba Tư bỗng nghe một tiếng nổ lớn nơi đuôi thuyền, khói đen bốc lên. Chiếc thuyền chòng chành như trúng phải đạn đại bác, đuôi thuyền gỗ bay tứ tán. Bọn Trương Vô Kỵ thấy một làn hơi nóng phả vào mặt, vội vàng nằm phục xuống.

Đại Ỷ Ti kêu lên:

- Bọn này gian ác thật.

Bà ta chạy ra khoang sau thấy đuôi thuyền bị thủng một lỗ lớn, chiếc bánh lái đã bay mất không biết nơi đâu, nước biển theo lỗ thủng đổ vào ào ào. Đại Ỷ Ti dùng tiếng Ba Tư hỏi gã bị bắt mấy câu rồi giơ tay lên đập xuống, đầu gã nát bấy, giơ chân đá luôn xuống biển nói:

- Tôi chỉ tưởng họ toan đục thuyền, đâu có ngờ họ lại buộc thuốc nổ vào bánh lái.

Bấy giờ chiếc thuyền của bọn Công Đức Vương đi đã xa, Đại Ỷ Ti dù bơi có giỏi thế nào chăng nữa cũng không thể nào đuổi kịp. Cả bọn yên lặng nhìn nhau, đành bó tay không làm gì khác được. Triệu Mẫn buồn bã đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, nghĩ thầm: "Thuyền địch chẳng mấy chốc sẽ đuổi đến nơi, mình thật chết không có đất mà chôn".

Chiếc thuyền đó thân thật lớn, trong một giờ một khắc chưa thể nào chìm hết được. Ngay lúc đó, Đại Ỷ Ti bỗng quay sang xí xố nói với Tiểu Siêu mấy câu tiếng Ba Tư, Tiểu Siêu cũng dùng tiếng Ba Tư đáp lại, hai người một hỏi một trả lời, thần sắc biến đổi bất định. Chỉ thấy Tiểu Siêu đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, đôi má ửng hồng cực kỳ e thẹn. Đại Ỷ Ti lại gay gắt hỏi dồn. Hai người nói chuyện thật lâu, dường như tranh biện chuyện gì, về sau Đại Ỷ Ti lại như khuyên nhủ Tiểu Siêu nhận lời làm việc gì đó, nhưng nàng chỉ nhất quyết lắc đầu không chịu. Sau cùng nàng đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, thở dài một tiếng, nói vài ba câu. Đại Ỷ Ti giang tay ôm nàng vào lòng không ngừng hôn hít cô gái, hai người nước mắt cùng chảy xuống như mưa. Tiểu Siêu thút thít khóc mãi không thôi, còn Đại Ỷ Ti thì ngọt ngào an ủi nàng.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược ba người ngơ ngác, không hiểu chuyện gì. Triệu Mẫn ghé tai Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Anh xem, hai người trông giống nhau quá.

Trương Vô Kỵ bàng hoàng, thấy Đại Ỷ Ti và Tiểu Siêu cùng có bộ mặt trái soan cực kỳ thanh tú, mũi cao da trắng, ánh mắt long lanh, khuôn mặt phải giống nhau đến sáu bảy phần. Có điều khuôn mặt Tiểu Siêu, nét người Hồ Ba Tư chỉ còn còn loáng thoáng, còn Đại Ỷ Ti thoạt nhìn là biết ngay không phải người Trung Thổ. Chàng nhớ lại khổ đầu đà Phạm Dao khi ở tiểu điếm nơi Đại Đô khi thấy Tiểu Siêu đã nói mấy câu: "Giống quá, giống quá", thì ra giống đây là nói Tiểu Siêu giống Tử Sam Long Vương. Vậy Tiểu Siêu là em gái bà ta chăng? Hay là con ruột?

Trương Vô Kỵ lại nghĩ ngay đến cha con Dương Tiêu, Dương Bất Hối lúc nào cũng đề phòng Tiểu Siêu, mỗi khi chàng hỏi tại sao lại đối với một cô bé con mà có phần ngại ngùng như đối phó với đại địch, Dương Tiêu chỉ trả lời rất mù mờ. Bây giờ chàng mới rõ ràng, Dương Tiêu cũng nhìn thấy dung mạo Tiểu Siêu giống Tử Sam Long Vương, có điều không có chứng cớ, lại thấy Trương Vô Kỵ có ý bênh vực cô ta thành thử không tiện nói thẳng. Đến như Tiểu Siêu cố ý méo mồm, nhăn mũi cố ý giả làm một cô gái xấu xí, cũng là cốt để che đậy đấy thôi.

Đột nhiên chàng nghĩ ra một việc: "Tiểu Siêu trà trộn lên Quang Minh Đính để làm gì? Sao nàng lại biết được cửa ra vào bí đạo, hẳn là do Tử Sam Long Vương sai nàng đến, cốt để đánh cắp Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp. Nàng chịu làm một tì nữ hầu hạ ta, chung sống với nhau đến cả hai năm qua, ta có bao giờ đề phòng đâu, pho tâm pháp này chính nàng đã đọc qua rồi, sau này nếu như có sao lại, thật dễ dàng như lấy đồ trong túi. Chao ôi! Ta vẫn tưởng nàng là một cô bé ngây thơ, ngờ đâu nàng cũng đầu những mưu mô tâm kế. Hai năm qua ta khác gì người trong mộng, sa vào bẫy của nàng mà có biết gì đâu! Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, ngươi vốn cả tin người, đâu đâu cũng bị người ta lừa dối, đến ngay một con tiểu a đầu cũng đem ngươi ra đùa trên tay được". Chàng nghĩ đến đây, không khỏi trào lên một nỗi căm ghét.

Ngay lúc đó, Tiểu Siêu lại đưa mắt nhìn chàng. Trương Vô Kỵ thấy trong ánh mắt nàng nhu tình vô hạn, không thể nào bảo là giả dối được, trong lòng bỗng nổi lên một nỗi dạt dào, nghĩ đến khi chiến đấu với lục đại môn phái trên Quang Minh Đính, nàng đã xả thân bảo vệ cho mình, hai năm qua chăm chút hầu hạ, mình nghi ngờ nàng như thế không oan uổng lắm sao? Chàng còn đang ngần ngừ, chiếc thuyền lắc mạnh một cái, chìm xuống thêm một khoảng lớn.

Đại Ỷ Ti nói:

- Trương giáo chủ, các vị không việc gì phải kinh hoàng. Đợi thuyền của người Ba Tư tới đây, tôi và Tiểu Siêu ắt có biện pháp đối phó. Tử Sam Long Vương tuy là phận nữ nhi nhưng cũng biết ai làm người ấy chịu, không dám để cho quí vị bị liên lụy đâu. Trương giáo chủ và Tạ tam ca đãi tôi ơn nặng tày non, Đại Ỷ Ti lúc này xin được cảm tạ.

Nói xong bà ta phục xuống lạy, Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn vội vàng hoàn lễ, nghĩ thầm: "Bọn người Ba Tư hành sự độc ác, thể nào cũng đem bà ta ra thiêu sống, chắc cũng không tha gì bọn mình".

Chiếc thuyền vẫn từ từ chìm xuống, nước đã vào đến trong khoang. Trương Vô Kỵ ôm Ân Ly, Chu Chỉ Nhược ôm Triệu Mẫn, cùng trèo lên đà cột buồm. Tiểu Siêu bỗng chỉ tay về hướng đông, khóc òa lên. Mọi người nhìn theo hướng tay nàng, thấy tận tít mù khơi những cánh buồm lấm chấm. Một hồi lâu sau, bóng những chiếc buồm đó lớn dần, chính là hơn một chục chiếc thuyền lớn của Ba Tư đã đuổi tới.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Nếu như ta là Đại Ỷ Ti, thà rằng nhảy xuống biển chết còn hơn là chịu bị bắt đem hỏa thiêu". Tuy nhiên thần sắc bà ta vẫn bình tĩnh thản nhiên, không có vẻ gì kinh hãi chàng không khỏi bội phục: "Bà ta đứng đầu trong tứ đại pháp vương, quả không phải tầm thường. Nghĩ lại năm xưa Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương là những hào kiệt lớn tuổi đã thành danh, còn bà ta chỉ là một cô gái trẻ măng, vậy mà lại đứng trên cả ba người, đâu phải chỉ vì công lao một ngày mà được, cũng phải có chỗ hơn người".

Khi thấy đoàn thuyền Ba Tư mỗi lúc một gần, chàng nghĩ thầm: "Ta đắc tội với các Bảo Thụ Vương không phải nhỏ, nếu rơi vào tay họ thì khó mà mong sống được. Chỉ có điều phải nghĩ cách làm sao để nghĩa phụ, Triệu cô nương, Chu Chỉ Nhược, biểu muội được an toàn. Tiểu Siêu hỡi Tiểu Siêu, ôi! Thà rằng để em đối với ta bất nghĩa chứ không thể nào ta đối với em bất nhân".

Đoàn thuyền Ba Tư tới gần, các khẩu đại pháo trên thuyền đều chĩa thẳng vào cột buồm chiếc thuyền đang chìm, khi còn cách chừng hai chục trượng thì lập tức hạ buồm thả neo. Trí Tuệ Vương cười ha hả cực kỳ đắc ý, kêu lên:

- Chúng mày có chịu hàng chưa?

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Nghĩa sĩ Trung Thổ, thà chết không khuất phục, sao lại đầu hàng? Ngươi có giỏi thì dùng võ công xem ai hơn ai thua nào.

Trí Tuệ Vương cười nói:

- Đại trượng phu đấu trí không đấu sức, mau mau đưa tay chịu trói đi.

Đại Ỷ Ti bỗng nhiên lớn tiếng nói mấy câu tiếng Ba Tư, giọng nói hết sức nghiêm chính. Trí Tuệ Vương ngạc nhiên, cũng đáp lại bằng tiếng Ba Tư. Hai người nói qua nói lại đến hơn chục câu, rồi gã Đại Thánh Vương cũng chen vào hỏi thêm. Nói thêm mấy câu nữa, thuyền lớn liền thả xuống một chiếc thuyền nhỏ, có tám tên thủy thủy chèo thuyền, bơi qua. Đại Ỷ Ti nói:

- Trương giáo chủ, tôi và Tiểu Siêu qua bên kia trước, xin quí vị chờ đây giây lát.

Tạ Tốn gằn giọng nói:

- Hàn phu nhân, Minh giáo Trung Thổ đãi bà không bạc. Hưng suy an nguy của bản giáo đều ở một mình Vô Kỵ mà thôi, nếu bà bán rẻ chúng tôi, cái mạng Tạ Tốn này không đáng nói, thế nhưng nếu như hại đến một cái lông, sợi tóc của Vô Kỵ, Tạ Tốn dẫu thành ma cũng không tha cho bà đâu.

Đại Ỷ Ti cười khẩy nói:

- Con nuôi ông là vàng là ngọc, còn con gái tôi thì là đất là bùn hay sao?

Nói xong cầm tay Tiểu Siêu, nhẹ nhàng nhẩy một cái rơi ngay xuống chiếc thuyền con. Tám tên thủy thủ chèo nhanh như bay, quay về thuyền của người Ba Tư. Mọi người nghe bà ta nói câu đó, đều ngạc nhiên. Triệu Mẫn nói:

- Tiểu Siêu quả đúng là con gái bà ta.

Nhìn theo xa xa thấy Đại Ỷ Ti và Tiểu Siêu lên chiếc thuyền lớn, đứng ở đầu thuyền, cùng các Bảo Thụ Vương nói chuyện, còn chiếc thuyền của mình vẫn chìm dần, chiếc cột buồm từng tấc, từng tấc từ từ hạ xuống.

Tạ Tốn thở dài:

- Không phải người cùng chủng tộc với mình, tâm hồn cũng khác xa. Vô Kỵ con ơi, ta quen nhầm Hàn phu nhân, còn con thì quen nhầm Tiểu Siêu. Vô Kỵ, đại trượng phu lúc co lúc duỗi, mình cố gắng chịu đựng cái nhục nhất thời, để tìm cách chạy trốn. Trên vai con đảm đương gánh nặng, nghìn vạn dân trăm họ Trung Nguyên, ai ai cũng mong Minh giáo phất ngọn nghĩa kỳ, khu trừ Thát tử. Khi nào thời cơ đến, con cứ một mình thoát thân, đừng phải lo gì cho ai cả. Con đứng đầu của một giáo phái, nặng nhẹ lớn bé phải biết phân biện cho rõ ràng.

Trương Vô Kỵ còn trầm ngâm chưa trả lời, Triệu Mẫn đã hứ một tiếng nói:

- Cái mạng mình còn lo chưa xong, nói gì Thát tử với không Thát tử. Ông bảo người Mông Cổ tốt hay người Ba Tư tốt?

Chu Chỉ Nhược từ nãy vẫn không nói năng gì đột nhiên chen vào:

- Tiểu Siêu đối với Trương công tử tình ý thâm trọng, quyết không thể nào phản bội mình đâu.

Triệu Mẫn nói:

- Thế cô không thấy Tử Sam Long Vương nằng nặc bức bách cô ta hay sao? Tiểu Siêu lúc đầu không chịu, nhưng sau bị ép quá, rồi cũng phải chịu, còn giả vờ khóc lóc một hồi nữa.

Lúc này cột buồm chỉ còn cách mặt biển chừng hơn một trượng, mỗi lần sóng biển tạt vào, nước bắn lên khiến ai nấy mặt mày ướt đẫm. Triệu Mẫn đột nhiên cười nói:

- Trương công tử, cả bọn cùng chàng chết chung một chỗ càng tốt. Tiểu Siêu gian trá âm hiểm nên không được chết chung với chúng mình.

Câu nói đó vốn là một câu nói đùa, nhưng bên trong tình nghĩa thật triền miên. Trương Vô Kỵ nghe thật cảm động, nghĩ thầm: "Ta không lấy được tất cả một lượt, nhưng cùng ba cô chết chung một chỗ, cũng không uổng chút nào". Chàng quay lại nhìn Triệu Mẫn, rồi lại nhìn Chu Chỉ Nhược, rồi nhìn xuống Ân Ly trong lòng mình. Ân Ly lúc này vẫn hôn mê chưa tỉnh, còn Triệu Chu hai nàng má đỏ hồng, thêm những giọt nước lấm tấm trên mặt chẳng khác gì những giọt sương trên bông hoa buổi sớm, nàng họ Triệu tươi tắn như nụ hồng, còn nàng họ Chu tú lệ như chi lan, khiến đột nhiên chàng thấy trong lòng thật bình an vui sướng.

Bỗng thấy trên hơn một chục chiếc thuyền Ba Tư tiếng hoan hô vang dậy. Cả bọn Trương Vô Kỵ giật mình, cùng chăm chú nhìn qua thấy trên tất cả mọi chiếc thuyền người Ba Tư đều quì phục xuống sàn, hướng về chiếc thuyền lớn hành lễ. Trên chiếc thuyền lớn các Bảo Thụ Vương cũng quì xuống tại đầu thuyền, chính giữa một người ngồi trên ghế, trông hình như là Tiểu Siêu nhưng vì quá xa nên nhìn không rõ. Cả bọn kinh nghi bất định, không biết bọn người Ba Tư đang làm trò quái quỉ gì. Bọn người Hồ hoan hô một chặp rồi đứng cả lên nhưng vẫn không ngừng xí xố, giọng điệu cực kỳ sung sướng, dường như có chuyện gì thật vui mừng.

Một lúc sau, chiếc thuyền nhỏ lại quay lại, trong thuyền ngồi chính là Tiểu Siêu. Nàng vẫy tay nói:

- Trương công tử, xin tất cả các vị cùng lên chiếc thuyền lớn. Minh giáo Ba Tư quyết không làm hại các vị đâu.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Sao vậy?

Tiểu Siêu đáp:

- Các vị qua rồi sẽ biết. Nếu như có ý làm hại thì Tiểu Siêu ăn nói làm sao với Trương công tử?

Tạ Tốn đột nhiên hỏi:

- Tiểu Siêu, cô lên làm giáo chủ của Minh giáo Ba Tư, phải không?

Tiểu Siêu cúi đầu không trả lời. Một lúc sau, đôi mắt to ứa ra hai hàng lệ trong như ngọc. Ngay khi đó, tai Vô Kỵ bỗng ù đi, mọi việc tiền nhân hậu quả chàng cũng đoán được bảy tám phần, trong lòng cực kỳ đau đớn, lại vô cùng cảm kích, nói:

- Tiểu Siêu, mọi sự em gánh chịu chẳng qua cũng chỉ vì tôi.

Tiểu Siêu nghiêng đầu qua, không dám nhìn thẳng vào mặt chàng. Tạ Tốn thở dài:

- Đại Ỷ Ti có đứa con như thế, không hổ cho anh danh một đời của Tử Sam Long Vương. Vô Kỵ, thôi mình qua đi.

Nói xong ông nhảy xuống thuyền trước. Kế đến Chu Chỉ Nhược bồng Ân Ly nhảy xuống theo, Trương Vô Kỵ cũng ôm Triệu Mẫn xuống thuyền.

Tám tên thủy thủ quay thuyền lại, bơi về hướng chiếc thuyền lớn. Khi còn cách chiếc thuyền chừng mươi trượng, các Bảo Thụ Vương đã cùng khom mình nghinh tiếp giáo chủ. Tất cả lên trên đại hạm rồi, Tiểu Siêu dặn dò mấy câu, lập tức có người cung kính dâng lên khăn lau mặt, đồ ăn rồi dẫn mọi người vào phòng thay quần áo ướt.

Trương Vô Kỵ thấy căn phòng chàng vào cực kỳ rộng rãi, trong phòng đầy ngọc ngà châu báu, bày biện thật nhiều đồ quí giá, còn đang lau người nghe kẹt một tiếng cửa phòng mở ra, một người tiến vào chính là Tiểu Siêu. Nàng cầm trên tay một chiếc quần lót, một trường bào nói:

- Công tử, để em hầu chàng thay quần áo.

Trương Vô Kỵ trong lòng chua xót, nói:

- Tiểu Siêu, em bây giờ giáo chủ của tổng giáo rồi, nói đúng ra tôi còn ở dưới quyền em nữa, việc gì phải làm những việc này?

Tiểu Siêu năn nỉ:

- Công tử, đây là lần cuối cùng. Từ nay hai đứa mình đông tây xa xôi vạn dặm, không biết có còn bao giờ gặp lại nhau không, dẫu em có muốn hầu hạ chàng một lần nữa, cũng không còn được.

Trương Vô Kỵ đau lòng không nói nên lời, chỉ đành để nàng như vẫn thường làm, thay áo, cài khuy, thắt dây lưng, rồi lấy chiếc lược ra chải đầu cho chàng.

Trương Vô Kỵ thấy nàng nước mắt rưng rưng, đột nhiên trong lòng khích động, giơ tay ôm tấm thân thon nhỏ của cô gái vào lòng. Tiểu Siêu "A" lên một tiếng, thân thể run rẩy, Trương Vô Kỵ hôn lên trên đôi môi nàng một cái, nói:

- Tiểu Siêu, lúc đầu tôi lại tưởng em lừa dối tôi, đâu có ngờ em đối với tôi sâu đậm đến thế.

Tiểu Siêu nép đầu vào bộ ngực nở nang của Vô Kỵ, nói nhỏ:

- Công tử, lúc đầu em quả có lừa dối chàng thật. Mẹ em vốn là một trong ba thánh nữ của tổng giáo, được phái sang Trung Thổ tích lập công đức để rồi trở về Ba Tư, tiếp nhiệm chức vụ giáo chủ. Ngờ đâu mẹ em gặp cha em rồi, tình ý không dứt ra được nữa, đành phải phản giáo để cùng cha em thành hôn. Mẹ em biết tội mình rất nặng, nên đem chiếc nhẫn thánh xử nữ bằng bảo thạch bảy màu truyền lại cho em, sai em trà trộn lên Quang Minh Đính ăn trộm Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp. Công tử, chuyện đó em đã dấu chàng nhưng trong lòng em, em chưa bao giờ làm điều gì không phải với anh. Em đã nguyện rằng em chẳng màng chức vụ giáo chủ Minh giáo Ba Tư, chỉ mong được làm một đứa tôi đòi, cả đời hầu hạ anh, vĩnh viễn không bao giờ xa anh thôi. Em cũng đã từng nói cho chàng hay rồi, có phải không? Chàng cũng đã bằng lòng như thế, có phải không?

Trương Vô Kỵ gật đầu, ôm tấm thân nhỏ nhắn của Tiểu Siêu để lên lòng, lại cúi xuống hôn nàng lần nữa. Đôi môi mềm mại của cô gái ướt đẫm nước mắt, vừa ngọt ngào, vừa cay đắng. Tiểu Siêu lại nói:

- Em đã nhớ hết Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp nhưng quyết không vì có lòng phản bội anh. Nếu không phải vì ngày hôm nay ở vào đường cùng, em chẳng bao giờ nói ra cả ...

Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng nói:

- Bây giờ thì anh biết rồi.

Tiểu Siêu ngậm ngùi nói tiếp:

- Khi em còn bé, thấy mẹ em ngày đêm không an, lúc nào cũng sợ hãi, cố gắng che dấu dung nhan của mình, hóa tang thành một bà già xấu xí. Mẹ em lại không cho em được ở gần, đem gửi một người khác nuôi, hai ba năm mới đến gặp em một lần. Lúc đó em cũng đã hiểu rồi, mẹ em cực kỳ mạo hiểm để cùng cha em thành hôn. Công tử, nếu như hôm nay không gặp chuyện thế này, chẳng nói chức vụ giáo chủ, ngay cả làm nữ hoàng toàn thế giới em cũng chẳng màng.

Nói đến đây hai má nàng đỏ hồng lên như bốc lửa. Trương Vô Kỵ thấy người con gái chàng đang ôm trong tay người nóng rực lên, trong lòng xúc động, bỗng nghe tiếng của Đại Ỷ Ti từ ngoài vọng vào:

- Tiểu Siêu, nếu con không khắc chế được tình dục, ấy là làm hại tính mệnh của Trương công tử đó.

Thân hình Tiểu Siêu run lên, nàng vội trườn ra ngoài nói:

- Công tử, từ nay trở đi chàng đừng nhớ tới em làm gì. Ân cô nương theo mẹ em lâu ngày, đối với chàng tình thật sâu đậm, quả xứng đôi vừa lứa với anh.

Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Bọn mình tấn công ra, bắt giữ một hai Bảo Thụ Vương, ép họ phải thả mình về đảo Linh Xà.

Tiểu Siêu buồn bã lắc đầu nói:

- Lần này họ có kinh nghiệm rồi, Tạ đại hiệp, Ân cô nương tất cả mọi người đều có người Ba Tư kề dao vào cổ, mình chỉ động đậy, là họ lập tức giết ngay.

Nói xong nàng mở cửa khoang ra, thấy Đại Ỷ Ti đứng tại bên ngoài, hai người Ba Tư cầm trường kiếm đứng ngay sau lưng. Hai người đó khom lưng chào Tiểu Siêu, nhưng mũi kiếm vẫn để ngay lưng Đại Ỷ Ti không rời.

Tiểu Siêu ngang nhiên đi tới trên sàn, Trương Vô Kỵ đi theo phía sau, quả nhiên thấy Tạ Tốn cả bọn đều có võ sĩ Ba Tư đứng sau lưng cầm kiếm uy hiếp. Tiểu Siêu nói:

- Công tử, ở đây có linh dược trị thương của Ba Tư, chàng lấy mà chữa cho Ân cô nương.

Nói xong dùng tiếng Ba Tư dặn dò mấy câu, Công Đức Vương liền lấy ra một bình thuốc cao đưa cho Trương Vô Kỵ. Tiểu Siêu lại nói:

- Em ra lệnh cho người đưa các vị về Trung Thổ, thôi mình từ biệt nhau nơi đây. Tiểu Siêu thân ở Ba Tư nhưng ngày ngày cầu cho công tử được phúc thể khang ninh, mọi việc như ý.

Nàng nói nhưng giọng nghẹn ngào, Trương Vô Kỵ nói:

- Em ở nơi hang hùm miệng sói, mọi việc nên cẩn thận.

Tiểu Siêu gật đầu ra lệnh cho thuộc hạ chuẩn bị thuyền bè. Tạ Tốn, Ân Ly, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược từng người đi qua. Tiểu Siêu đem đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên giao lại cho Trương Vô Kỵ, nở một nụ cười tê tái, giơ tay vẫy chào.

Trương Vô Kỵ không biết phải nói sao, chỉ đứng xuất thần giây lát rồi nhảy lên thuyền. Chiếc thuyền lớn của Tiểu Siêu đang đứng có tiếng tù và u u vang động, hai bên cùng giương buồm lên, mỗi lúc một xa dần. Thế nhưng vẫn thấy Tiểu Siêu đứng ở đầu thuyền, đăm đăm nhìn về hướng Trương Vô Kỵ. Khoảng biển giữa hai người càng lúc càng xa, chiếc thuyền của nàng chỉ còn là một cái chấm nhỏ, sau cùng biển cả mênh mông, tiếng gió thổi vào buồm tưởng như mang theo cả tiếng ai nức nở, nghẹn ngào.

Hồi 31

ĐAO KIẾM TỀ THẤT NHÂN VÂN VONG

Giấc Nam Kha khéo bất bình,

Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.[1]

Ngỡ rằng một mối tình chung,

Ngẩn ngơ ai biết vân mòng nào đâu?

Ân Ly được đắp thuốc cao của người Ba Tư rồi nhưng cơn sốt vẫn không giảm, nói mê lảm nhảm không ngừng. Nàng ở trên biển mấy ngày, bệnh rồi lại thêm gió lạnh, thuốc kia chỉ dùng để trị ngoại thương, không trị được nội phong tà. Trương Vô Kỵ trong lòng lo lắng, đến ngày thứ ba trông thấy nơi xa xa phía đông có một hòn đảo nhỏ liền bảo người lái thuyền quay về hướng đó.

Mọi người lên trên đảo rồi, tinh thần thấy thoải mái hơn. Hòn đảo đó chỉ độ vài dặm, đầy những bụi cây thấp và hoa cỏ. Trương Vô Kỵ nhờ Chu Chỉ Nhược trông coi Ân Ly, Triệu Mẫn rồi đi lách hoa vạch cỏ xem có loại thuốc nào không. Thế nhưng trên đảo hoa cỏ khác với Trung Thổ nhiều, phần lớn chàng không biết. Trương Vô Kỵ càng đi càng xa, đến lúc tối mịt mới kiếm được có một vị, đành phải quay về, đem vị thuốc đó nhai nát mớm cho Ân Ly.

Sáu người ngồi quanh đống lửa, ăn cơm chiều xong, bốn bề hoa hương lay động, cây cỏ mát mẻ, khác hẳn khi ở trên thuyền bó chân bó cẳng, ai nấy đều cảm thấy thoải mái. Ân Ly cũng đã bớt nhiều nói:

- A Ngưu ca ca, đêm nay mình ngủ tại đây đi, đừng trở lại thuyền.

Câu dó nói ra ai cũng khen phải. Mọi người thấy hòn đảo nhỏ này cây cối xanh tươi, nước trong mát, không có hung cầm mãnh thú gì nên ai nấy an tâm nằm ngủ.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, Trương Vô Kỵ đứng lên chỉ mới đi được một bước, thấy loạng choạng như muốn ngã, hai chân dường như không còn hơi sức, từ trước tới nay chưa hề bị như thế bao giờ, chàng dụi mắt nhìn ra không thấy chiếc thuyền Ba Tư, trong bụng hoảng hốt, chạy vội ra mé biển nhìn khắp nơi không còn thấy tăm hơi đâu nữa.

Chàng kinh hãi không biết đâu mà kể kêu lên:

- Nghĩa phụ có sao không?

Chàng không nghe Tạ Tốn trả lời vội chạy đến nơi cha nuôi nằm, thấy ông ta đang ngủ say nên cũng an tâm. Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Ân Ly ba người ngủ tại một nơi xa sau một tảng đá, chàng vội chạy đến coi, thấy Chu Chỉ Nhược nằm đối diện với Ân Ly, còn Triệu Mẫn không có ở nơi đó. Chàng vừa thoạt nhìn thấy mặt Ân Ly đầy những máu, vội cúi xuống coi, thấy mặt nàng bị vật gì sắc bén rạch đến mươi đường, đã hôn mê từ bao giờ, vội đưa tay thăm mạch nàng, may sao vẫn còn đập nhè nhẹ. Nhìn qua Chu Chỉ Nhược thấy mái tóc dài xinh đẹp của nàng bị cắt một mảng lớn, tai trái cũng bị cắt một vết máu vẫn còn chảy chưa ngừng nhưng trên mặt lại nở một nụ cười dường như đang mơ một giấc mộng đẹp, dưới ánh ban mai trông như một đóa hải đường hé nở, xinh đẹp vô cùng.

Chàng trong bụng kêu khổ liên tiếp, vội gọi:

- Chu cô nương, tỉnh đậy. Chu cô nương, tỉnh dậy.

Chu Chỉ Nhược vẫn không tỉnh. Trương Vô Kỵ đưa tay lay vai nàng, Chu Chỉ Nhược mở miệng ngáp dài rồi lại quay qua ngủ tiếp. Trương Vô Kỵ biết nàng bị trúng phải thuốc mê, đêm qua xảy ra nhiều chuyện quái đản, mình tuyệt nhiên không biết tí gì, bây giờ toàn thân không còn chút hơi sức nào, đúng là trúng độc rồi không còn nghi ngờ gì nữa.

Chàng gọi mãi Chu Chỉ Nhược vẫn không tỉnh vội vàng chạy qua chỗ Tạ Tốn, kêu lên:

- Nghĩa phụ, nghĩa phụ.

Tạ Tốn mơ mơ hồ hồ ngồi dậy hỏi:

- Cái gì thế?

Trương Vô Kỵ nói:

- Chết rồi, mình trúng phải gian kế.

Chàng đem việc thuyền Ba Tư đi mất, Chu Chỉ Nhược và Ân Ly bị thương ra sao lược thuật lại cho Tạ Tốn nghe. Tạ Tốn kinh hãi hỏi lại:

- Còn Triệu cô nương thì sao?

Trương Vô Kỵ buồn bã đáp:

- Không thấy cô ta đâu cả.

Chàng hít một hơi, hơi vận nội tức, thấy chân tay mềm uột, không có thể sử dụng kình lực được chút nào, liền buột miệng nói:

- Nghĩa phụ, mình bị người ta hạ độc Thập Hương Nhuyễn Cân Tán.

Việc các cao thủ lục đại phái bị Triệu Mẫn dùng Thập Hương Nhuyễn Cân Tán đánh ngã rồi bị bắt cả về chùa Vạn An ở Đại Đô, Trương Vô Kỵ đã thuật cho Tạ Tốn nghe qua nên ông hiểu ngay, vội đứng dậy thấy mình chân tay cũng bồng bềnh không còn chút hơi sức nào, cố gắng định thần rồi hỏi:

- Thế còn đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên cũng bị cô tay lấy luôn cả rồi ư?

Trương Vô Kỵ nhìn chung quanh, không thấy đao kiếm đâu cả, trong bụng căm tức khôn cùng, tưởng như muốn khóc được, không ngờ rằng Triệu Mẫn lợi dụng lúc mình bị nguy khốn thế này, lại còn lạc tỉnh hạ thạch[i], ra tay thi hành gian kế như thế này.

Chàng đứng xuất thần một hồi, lại lo cho thương thế của Ân Ly, vội chạy về chỗ Ân Chu hai nàng, lay lay Chu Chỉ Nhược nàng vẫn hôn mê không tỉnh, nghĩ thầm: ?Ta nội lực thâm hậu hơn cả cho nên tỉnh sớm hơn hết, kế tới là nghĩa phụ. Chu cô nương so với hai người mình kém xa, xem ra giờ này chưa thể nào tỉnh lại được?. Chàng bèn xé một mảnh áo lau vết máu trên mặt Ân Ly, thấy mặt nàng bị bảy tám đường nho nhỏ, hiển nhiên là dùng Ỷ Thiên kiếm rạch mặt. Ân Ly sau khi bị Kim Hoa bà bà Tử Sam Long Vương đả thương, độc dịch của những con nhện chất chứa trong cơ thể theo máu chảy ra hết nên phù thũng trên mặt đã giảm đi rất nhiều, nét tú lệ khi còn trẻ mấy ngày nay quay trở lại phần nào, nay mặt lại bị rạch mấy đường khiến cho trông thật hãi hùng.

Trương Vô Kỵ vừa đau lòng lại vừa căm tức, nghiến răng nói:

- Triệu Mẫn ơi Triệu Mẫn, nếu có ngày ngươi rơi vào tay ta, Trương Vô Kỵ này mà còn tha thì không kể là người.

Chàng lấy lại bình tĩnh vội chạy vào trong núi kiếm những loại thảo dược cầm máu, nhai đắp lên mặt Ân Ly, đắp cả đầu và tai cho Chu Chỉ Nhược. Chu Chỉ Nhược ngáp dài một cái, mở mắt ra, thấy chàng đang giơ tay sờ đầu mình, thẹn đỏ cả mặt, lấy tay đẩy chàng ra, hờn dỗi nói:

- Anh ... anh làm gì thế ...

Nói chưa dứt câu nàng dường như cảm thấy đau, giơ tay lên sờ, kêu ?A? một tiếng kinh hoảng, nhảy dựng lên hỏi:

- Sao thế này?

Đột nhiên hai đầu gối nhũn xuống, rơi phịch vào lòng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ tay đỡ, an ủi nàng:

- Chu cô nương đừng sợ.

Chu Chỉ Nhược nhìn thấy hình dung ghê rợn của Ân Ly, vội đưa tay sờ mặt mình, kinh hãi hỏi:

- Mặt ... mặt em có bị như thế không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không đâu, cô chỉ bị thương nhẹ thôi.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Có phải bọn ác đồ Ba Tư làm đấy chăng? Em ... em sao chẳng biết gì cả?

Trương Vô Kỵ thở dài, buồn bã nói:

- E rằng ... e rằng do Triệu cô nương làm đó. Tối hôm qua khi ăn uống nàng bỏ thuốc độc.

Chu Chỉ Nhược bần thần một hồi, giơ tay sờ lên tai, khóc òa lên. Trương Vô Kỵ vỗ về:

- Cũng may cô bị thương không lấy gì làm nặng, tai chỉ bị khuyết một chút lấy tóc che lại người ngoài không ai thấy gì đâu.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Lại còn nói tới tóc ư? Tóc em cũng đâu còn nữa.

Trương Vô Kỵ nói:

- Trên đỉnh có mất chút da tóc hai bên chải qua che lại cũng được ...

Chu Chỉ Nhược nói dỗi:

- Tại sao em lại phải lấy tóc hai bên che lại? Đến lúc này anh cũng vẫn còn hết sức chống chế cho Triệu cô nương của anh.

Trương Vô Kỵ bị nàng bắt bẻ liền cãi lại:

- Tôi đâu có bênh cô ta đâu. Cô ta độc ác, hại Ân cô nương ra nông nỗi này, tôi ... tôi sẽ không tha cho cô ta được.

Chàng nhìn thấy mặt mày Ân Ly thành như thế, tự nhiên nước mắt ròng ròng chảy xuống. Gặp phải cảnh này, Trương Vô Kỵ bàng hoàng bối rối, ngồi xuống vận công thấy mình bị trúng độc không phải là ít. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán này chỉ có thuốc giải của Triệu Mẫn mới giải được thôi nhưng lúc này chỉ còn cách đem nội công chống lại chất độc, liền vận nội tức, từ từ hút các chất độc từ tứ chi vào đan điền, cố gắng ngưng tụ, sau đó mới đẩy từng chút từng chút ra khỏi cơ thể.

Chàng vận công hơn một giờ sau thấy kiến hiệu, trong bụng cũng hơi an tâm nhưng có điều phương pháp đó lấy Cửu Dương thần công làm căn bản, không cách nào có thể truyền thụ cho Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược làm theo, chỉ còn nước đợi đến lúc chàng trừ sạch rồi sẽ giúp Tạ, Chu hai người loại trừ chất độc.

Phương pháp đó nói thì có vẻ giản dị nhưng lúc thực hành lại trăm điều phiền phức, đến ngày thứ bảy chàng chỉ mới loại được độ ba phần. Cũng may là chất độc này chỉ làm cho người ta không sử dụng nội kình được nhưng không làm hại cho cơ thể.

Mấy ngày đầu Chu Chỉ Nhược bực dọc lắm, nhưng về sau cũng quen dần đi, giúp Tạ Tốn bắt cá săn chim, nhóm lửa nấu đồ ăn. Nàng sống một mình trong một cái hang nơi phía đông hòn đảo, ở cách xa bọn Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ trong lòng hơi sượng sùng, cái họa Triệu Mẫn cũng toàn ở mình mà ra. Triệu cô nương rõ ràng là quận chúa Mông Cổ, là kẻ tử địch của Minh giáo, không biết bao nhiêu cao nhân trong võ lâm từng bị nàng gia hại, vậy mà mình không đề phòng chút nào, quả thực ngu không để đâu cho hết. Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược không oán trách gì chàng, đến một câu cũng không nhắc tới khiến chàng lại càng khó chịu, có lúc nhìn vào mắt nàng dường như muốn nói: ?Chỉ vì anh bị sắc đẹp của Triệu Mẫn làm cho mê hoặc nên mới ra nông nỗi này?.

Thế nhưng thương thế của Ân Ly mỗi lúc một nặng. Hòn đảo này ở về biển Nam, quá nửa những cây cỏ Y Kinh của Hồ Thanh Ngưu không đề cập tới, tuy chàng tinh thông y dược biết bệnh của Ân Ly có thể chữa được nhưng không có thuốc men. Khổ nổi trên đảo cây cối lại chỉ toàn là những bụi thấy nhỏ, chỉ có thể dùng làm củi đun chứ không có thể kết thành bè để mạo hiểm vượt biển. Nếu chàng không biết y thuật thì chỉ lo lắng mà thôi, còn trong tình cảnh này thật chẳng khác gì dao nhọn ngày đêm đâm nhoi nhói vào tim. Một buổi chiều, chàng nhai một ít dược thảo dùng cho hạ sốt, mớm cho Ân Ly, thấy nàng không nuốt nổi, trong lòng chua xót, nước mắt lã chã rơi trên mặt cô gái.

Ân Ly đột nhiên mở mắt ra, mỉm cười nói:

- A Ngưu ca ca, anh đừng quá đau khổ. Em muốn được xuống dưới âm đi kiếm tên tiểu quỉ chết non lòng lang Trương Vô Kỵ. Em sẽ nói với y rằng trên trần thế có một người là A Ngưu ca ca, đối với em thật là tử tế, so với ngươi Trương Vô Kỵ gấp nghìn gấp vạn lần.

Trương Vô Kỵ nghẹn ngào không biết phải nói sao, có nên nói cho nàng biết mình chính là Trương Vô Kỵ hay chăng. Ân Ly lại nắm tay chàng nói:

- A Ngưu ca ca, trước sau em vẫn không nhận lời lấy anh, anh có giận em không? Em nghĩ chắc chỉ vì anh muốn em vui lòng, cho nên nói dối em thế thôi. Em tướng mạo xấu xí, tính tình lại quái đản, sao anh lại muốn lấy em?

Trương Vô Kỵ dáp:

- Không đâu, anh không nói dối em đâu. Em là một cô gái tình sâu ý nặng, mong được lây em là nguyện vọng bình sinh của anh. Để khi nào em khỏi rồi, mọi việc mình tính toán xong cả thì sẽ làm lễ cưới, em nghĩ có phải không?

Ân Ly giơ tay nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt Trương Vô Kỵ, lắc đầu nói:

- A Ngưu ca ca, em không thể nào lấy anh được đâu. Tâm hồn em đã sớm hứa lấy tên lang tâm hung ác Trương Vô Kỵ kia rồi ... A Ngưu ca ca, em có điều hơi sợ, khi xuống dưới âm rồi, không biết có gặp lại y không? Y có đối xử với em hung hăng như trước kia chăng?

Trương Vô Kỵ thấy nàng ăn nói tỉnh táo, hai má ửng hồng, trong lòng kinh hãi ngầm: ?Đây là hiện tượng hồi quang phản chiếu, không lẽ hôm nay là ngày cuối cùng của nàng sao??. Chàng ngẩn ngơ xuất thần, không nghe nàng nói gì cả. Ân Ly nắm chặt tay chàng, hỏi lại một lần nữa. Trương Vô Kỵ nhỏ nhẹ đáp:

- Y vĩnh viễn đối với em thật tử tế, coi em chẳng khác gì báu vật.

Ân Ly hỏi:

- Liệu có được bằng một nửa anh đối với em không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nói có trời đất, Trương Vô Kỵ thành tâm thành ý yêu thương em, y đã sớm hối hận việc hồi đó y dữ dằn với em rồi. Y ... y đối với em, thật chẳng khác gì anh đối với em, không khác một tí nào.

Ân Ly thở hắt ra, miệng mỉm cười:

- Nếu ... nếu thế thì em cũng an tâm ...

Bàn tay nàng cầm Trương Vô Kỵ từ từ lỏng ra, hai mắt nhắm nghiền, sau cùng hơi thở ngừng bặt. Trương Vô Kỵ ôm xác nàng trong tay, nghĩ thầm đến khi nàng tắt hơi cũng vẫn chưa biết mình là Trương Vô Kỵ. Trong bao nhiêu ngày qua, nàng hôn mê nên không cách nào chàng có thể nói cho Ân Ly hay chân tướng của mình, đến lúc lâm chung nàng tỉnh lại một chút thì không còn kịp nữa. Thực ra đã đến nước này, nói hay không nói có khác gì nhau. Chàng đau khổ, khóc không thành tiếng chỉ nghĩ thầm: ?Nếu không phải vì Triệu Mẫn làm nàng bị thương trên mặt, bệnh tình của nàng chưa hẳn đã không chữa nổi. Nếu Triệu Mẫn không bỏ rơi mình trên hoang đảo này, chỉ vài ngày là về đến Trung Nguyên, mình đã có cách cứu được nàng?. Chàng hậm hực nói lên thành tiếng:

- Triệu Mẫn ơi, ngươi lòng dạ có khác gì rắn rết, có ngày ngươi vào tay ta, Trương Vô Kỵ nhất quyết không tha cho ngươi đâu?.

Bỗng từ sau lưng có tiếng người lạnh lùng nói:

- Để xem khi anh thấy khuôn mặt như hoa như ngọc của cô ta, xem anh có dám hạ thủ hay không.

Chàng quay lại thấy Chu Chỉ Nhược đứng trong gió, khuôn mặt đầy vẻ khinh thường. Chàng vừa đau lòng, vừa xấu hổ nói:

- Tôi đã thề trước xác của biểu muội, nếu không đích tay tru diệt yêu nữ, Trương Vô Kỵ này không còn mặt mũi nào sống trong trời đất nữa.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Có thế mới là một người con trai có chí khí chứ.

Nàng tiến lên, ngồi sụp xuống bên cạnh xác của Ân Ly khóc lóc một hồi. Tạ Tốn nghe tiếng khóc, lần theo tiếng mà đến, biết được Ân Ly đã chết cũng không khỏi thương tâm. Trương Vô Kỵ đi đến bên bóng râm cạnh vách núi đào một cái huyệt. Trên đảo đất thịt thật nông, chỉ mới hai thước đã đến một lớp đá hoa cương, trong tay lại không có cuốc xẻng gì, đành phải bỏ Ân Ly vào trong chiếc hố nông đó, đến khi định lấp đất lên, nhìn thấy khuôn mặt sưng vù của nàng đầy vết máu, nghĩ thầm: ?Nếu đổ đất đá lên e rằng làm nát mặt nàng mất?. Chàng bèn bẻ mấy cành cây xếp lên người nàng rồi mới nhè nhẹ xếp đá lên tưởng như dẫu nàng đã chết rồi nhưng vẫn còn cảm giác, nên sợ đá đè xuống làm nàng đau. Chàng lại bẻ một thân cây, bóc lớp vỏ đi, dùng con dao găm của Ân Ly khắc lên trên khúc gỗ: "Ái thê Châu Nhi Ân Ly chi mộ", bên dưới khắc thêm "Trương Vô Kỵ cẩn lập". Chàng chôn cất xong rồi, năm phục xuống khóc lóc. Chu Chỉ Nhược khuyên nhủ:

- Ân cô nương đối với anh một tấm chung tình, anh đối với nàng cũng nhân nghĩa tột cùng rồi. Chỉ cần anh đừng quên những điều đã thề hôm nay, giết Triệu Mẫn báo cừu cho nàng, Ân gia muội tử ắt cũng mỉm cười nơi chín suối.

Trương Vô Kỵ đau lòng khiến bao nhiêu chất độc ngưng tụ nơi đan điền lại tan ra hết, phí mất mấy ngày công phu, lại phải từ từ ngưng tụ lại, đến lúc đẩy được hết chất độc ra cũng mất đến hơn mười ngày nữa. Trên hòn đảo khí hậu nóng bức, trái cây dại rất nhiều, tha hồ hái nên không sợ đói, sống qua ngày không có gì là gian nan. Chu Chỉ Nhược biết Trương Vô Kỵ đau lòng vì cái chết của Ân Ly, lại căm giận tính gian trá của Triệu Mẫn, thêm tội nghiệp cho Tiểu Siêu phải ra đi nên càng hết lòng hết sức dịu ngọt với chàng để mong bù lại.

Trương Vô Kỵ vận thần công giúp Tạ Tốn khu trừ hết chất độc rồi, định giúp cho Chu Chỉ Nhược nhưng nghĩ lại phương pháp loại trừ chất độc này, một chưởng đặt vào sau lưng đối phương, một chưởng đè vào trên bụng, hai người thanh niên nam nữ, làm sao lại có thể đụng da chạm thịt như thế được? Thế nhưng nếu không vận công bằng cách này thì không thể nào đem Cửu Dương Chân Khí trút vào người nàng cho nên mấy ngày liền vẫn trù trừ không biết tính sao.

Chiều hôm đó Tạ Tốn bỗng nói:

- Vô Kỵ, con thử nghĩ xem mình sẽ phải ở trên đảo này bao lâu?

Trương Vô Kỵ bần thần đáp:

- Cái đó cũng khó nói lắm, chỉ mong có thuyền bè nào đi ngang qua cứu mình đưa về Trung Thổ.

Tạ Tốn nói:

- Hơn một tháng nay, con có thấy ở xa xa có bóng dáng chiếc thuyền nào không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không thấy.

Tạ Tốn nói:

- Thế đó! Không chừng ngày mai có thuyền đến đây, mà cũng có thể một trăm năm nữa không ai đến cả.

Trương Vô Kỵ thở dài:

- Hòn đảo hoang này chơ vơ trên biển cả, không phải nằm trên đường đi của thuyền bè, mình làm thế nào để về được Trung Thổ quả thật là mờ mịt.

Tạ Tốn nói:

- Hừ, thuốc giải thật không biết làm sao mà có. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán nằm trong cơ thể, trừ việc tay chân bải hoải không hơi sức, có còn hại gì khác không?

Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu không lâu thì cũng không hại gì bao nhiêu nhưng nếu để chất độc xâm nhật vào thịt xương, nếu để lâu tạng phủ không thể nào không thương tổn.

Tạ Tốn nói:

- Vậy ư? Sao con không tìm cách nào trừ khử chất độc cho Chu cô nương? Con nói con và Chu cô nương biết nhau từ nhỏ, năm xưa khi con bị trúng hàn độc của Huyền Minh thần chưởng, cô ta từng có ơn với con. Một thục nữ ôn nhu đức hạnh như thế, kiếm đâu cho ra? Hay là con chê cô ấy không được đẹp?

Trương Vô Kỵ vội đáp:

- Không, không phải đâu. Chu cô nương mà còn không đẹp thì trên đời này còn ai mới đẹp nữa?

Tạ Tốn nói:

- Vậy ta đứng ra làm chủ hôn cho con lấy cô ta làm vợ. Cái hủ lễ nam nữ thụ thụ bất thân kia không còn gì phải cấm kỵ nữa.

Chu Chỉ Nhược đứng bên nghe hai người nói chuyện, bỗng thấy nói đến mình, thẹn đỏ bừng cả mặt, liền đứng dậy toan chạy đi. Tạ Tốn nhảy tới giang hai tay chặn nàng lại cười nói:

- Không được đi đâu, không được đi đâu. Hôm nay ta nhất định làm mối cho hai cô cậu rồi.

Chu Chỉ Nhược hờn dỗi nói:

- Tạ lão gia tử đừng đùa cợt nữa. Mình phải tìm cách nào quay về Trung Thổ, ai lại nói những chuyện lăng nhăng ấy bao giờ?

Tạ Tốn cười ha hả nói:

- Trai lấy vợ gái lấy chồng là chuyện chung thân đại sự, sao lại bảo là chuyện lăng nhăng? Vô Kỵ, cha mẹ con ở trên hoang đảo cũng tự mình bái trời đất thành hôn. Hai người đó nếu khi xưa không phá cái lệ của thế tục, thì hôm nay làm gì có tên tiểu tử này? Huống chi hôm nay lại có nghĩa phụ con đứng chủ hôn. Hay là con không thích Chu cô nương? Hay con không muốn khu trừ chất độc trong cơ thể cô ta chăng?

Chu Chỉ Nhược ôm mặt toan chạy nữa, Tạ Tốn nắm áo cô ta kéo lại cười nói:

- Cô chạy đi đâu? Chẳng lẽ ngày mai mình không gặp nhau nữa à? À, ta biết rồi, cô không muốn gọi lão già mù này là bố chồng chứ gì?

Chu Chỉ Nhược vội nói:

- Không, không, không phải đâu. Tạ lão gia tử là hào kiệt đời nay ...

Tạ Tốn nói:

- Thế là cô bằng lòng chứ gì?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Không, không.

Tạ Tốn nói:

- Chắc cô thấy đứa con nuôi tôi không ra gì phải không?

Chu Chỉ Nhược im lặng giây lát mới nói:

- Trương công tử võ công trác tuyệt, danh dương giang hồ. Được ... được người chồng như thế, còn mong gì hơn nữa? Có điều ... có điều ...

Tạ Tốn nói:

- Có điều sao?

Chu Chỉ Nhược háy Trương Vô Kỵ một cái nói:

- Anh ấy ... anh ấy trong lòng thích là thích Triệu cô nương, cháu biết lắm mà.

Tạ Tốn nghiến răng nói:

- Con tiểu tiện nhân Triệu Mẫn hại mình đến nước này, không lẽ Vô Kỵ vẫn còn chấp mê chưa tỉnh hay sao? Vô Kỵ, ngươi tự mình nói ra ta nghe nào.

Trương Vô Kỵ trong lòng bối rối, nghĩ đến nụ cười giọng nói của Triệu Mẫn chỗ nào cũng khiến rung động lòng người, giá như lấy được nàng chung sống với nhau đếu răng long đầu bạc thì thật là mãn nguyện, thế nhưng lại chuyển qua nhớ tới gương mặt nát bấy của Ân Ly, đầy vết kiếm máu me vội nói:

- Triệu cô nương là kẻ thù của tôi, tôi muốn giết cô ta để báo thù cho biểu muội.

Tạ Tốn nói:

- Thấy chưa, Chu cô nương có còn nghi ngờ gì nữa không?

Chu Chỉ Nhược nói nhỏ:

- Cháu vẫn chưa yên tâm. Trừ phi ... trừ phi lão gia bảo anh ấy ... phải thề đi. Nếu không thà cháu để cho chất độc phát ra mà chết chứ không chịu để cho anh ấy giúp cháu khu trừ chất độc.

Tạ Tốn nói:

- Vô Kỵ, mau thề đi.

Trương Vô Kỵ quì xuống nói:

- Tôi Trương Vô Kỵ nếu như quên mối thù của biểu muội thì trời đất không tha.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Em muốn anh nói cho rõ ràng, đối với Triệu cô nương ra sao?

Tạ Tốn nói:

- Vô Kỵ, con nói cho rõ ra chứ ?trời đất không tha? mơ hồ quá.

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Yêu nữ Triệu Mẫn ra công gắng sức phục vụ hoàng đế Thát tử, làm khổ bách tích, hại cả nghĩa sĩ võ lâm, lại ăn trộm bảo đao của nghĩa phụ, làm hại biểu muội Ân Ly. Trương Vô Kỵ nếu còn sống ngày nào thề sẽ không quên mối thù đó, nếu như vi phạm xin trời hại tôi.

Chu Chỉ Nhược cười nhạt nói:

- Chỉ sợ lúc đó anh lại không nỡ ra tay thôi.

Tạ Tốn nói:

- Thôi ta bảo đây, chọn ngày không bằng gặp ngày, mình là giang hồ hào kiệt, đâu có nệ gì mấy chuyện lễ nghi lôi thôi phiền phức, chi bằng hai đứa hôm nay bái đường thành thân cho xong đi. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán này trừ được sớm ngày nào tốt ngày nấy.

Trương Vô Kỵ vội nói:

- Không được! Nghĩa phụ, Chỉ Nhược, xin hai người nghe tôi nói một lời. Ân cô nương đối với tôi tình thâm ý trọng, từ bé cô ta đã mong mỏi lấy tôi làm chồng, còn tôi trong lòng cũng muốn lấy nàng làm vợ, tuy hai người chưa có cưới xin nhưng cũng có cái tình phu phụ. Nàng chết xác còn chưa lạnh, lẽ nào tôi đã đi lấy người khác cho đành?

Tạ Tốn trầm ngâm rồi nói:

- Con nói thế cũng phải, vậy thì ý con ra sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cứ như ý hài nhi, hôm nay con sẽ cùng Chu cô nương đính ước hôn nhân để giúp nàng trừ độc chữa thương cho tiện. Nếu trời cho mình về được Trung Thổ, đợi khi hài nhi giết được Triệu Mẫn, đoạt lại đao Đồ Long trả về cho nghĩa phụ, lúc đó sẽ kết hôn với Chu cô nương, có thế mới vẹn cả đôi bề.

Tạ Tốn cười đáp:

- Con tính thế thật là gọn. Thế nhưng nếu như tám năm, mười năm mình chưa về được Trung Thổ thì sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Ba năm sau, dù mình có rời khỏi đảo này hay không, lúc đó cũng xin nghĩa phụ chủ trì hôn sự cho hài nhi.

Tạ Tốn gật đầu, quay sang hỏi Chu Chỉ Nhược:

- Chu cô nương, cô tính sao?

Chu Chỉ Nhược cúi đầu không trả lời, một lát sau mới nói:

- Tiểu nữ chỉ là một đứa con gái cô khổ lênh đênh, tự mình làm gì có chủ ý? Mọi sự xin nhờ lão gia tử định đoạt cho.

Tạ Tốn cười ha hả nói:

- Hay lắm, hay lắm, ba người mình một lời là xong. Hai đứa chúng bay bây giờ là vị hôn phu phụ, không còn gì phải úy kỵ nữa. Vô Kỵ, thôi con trừ độc cho đứa con dâu của ta đi.

Nói xong ông hùng dũng đi về phía sau núi. Trương Vô Kỵ nói:

- Chỉ Nhược, nỗi đau lòng của anh em có rộng lượng tha thứ được không?

Chu Chỉ Nhược mỉm cười:

- Cũng chỉ vì em xấu xí cho nên chàng mới duỗi ra, chứ nếu phải là Triệu cô nương xem, chỉ sợ tối hôm nay đã ...

Nàng nói tới đây quay đầu ra chỗ khác, không muốn nói thêm nữa. Trương Vô Kỵ đột nhiên động tâm, tự hỏi: "Khi cả bọn còn trên cùng một chiếc thuyền trôi bồng bềnh, ta đã từng si tâm vọng tưởng, cưới cả bốn nàng. Thế nhưng trong lòng ta thực sự yêu thương lại là con yêu nữ vô ác bất tác, âm độc giảo hoạt kia. Ta thật không đáng gọi là anh hùng hào kiệt khi mê luyến nữ sắc, chẳng biết đâu là thiện đâu là ác?.

Chu Chỉ Nhược quay lại thấy chàng đứng ngơ ngẩn xuất thần, nên đứng lên toan đi ra chỗ khác. Trương Vô Kỵ giơ tay nắm tay nàng kéo một cái, không ngờ Chu Chỉ Nhược công lực chưa hồi phục, chân không có chút hơi sức nào, lảo đảo ngã luôn vào lòng chàng, vùng vẫy mãi không đứng lên được, hờn dỗi nói:

- Rồi cả đời em sẽ bị anh hiếp đáp thôi.

Trương Vô Kỵ thấy nàng nhõng nhẽo thật là dễ thương, giơ tay ôm lấy thân hình mảnh dẻ của Chu Chỉ Nhược, nói nhỏ:

- Chỉ Nhược, hai đứa mình lúc nhỏ gặp nhau ở sông Hán Thủy một lần, đâu ngờ có ngày hôm nay. Trên đỉnh Quang Minh, anh một mình đấu với hai phái Côn Lôn, Hoa Sơn tứ lão, nhờ có em chỉ điểm những chỗ sơ hở mới cứu được mạng. Khi đó anh chỉ cảm kích lòng em quan hoài chứ nào có dám nghĩ xa nghĩ gần gì đâu.

Chu Chỉ Nhược tựa vào lòng chàng nói:

- Hôm đó em đâm anh một kiếm, không lẽ anh không giận em sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Em không đâm ngay giữa tâm khẩu anh, cũng đủ biết em có tình ý ngầm với anh rồi.

Chu Chỉ Nhược hứ một tiếng, mặt đỏ lên nói:

- Nếu biết thế, hôm đó em đâm ngay giữa tim cho xong, để khỏi sau này không biết bao năm bao tháng bị anh ăn hiếp, bị anh chọc giận.

Trương Vô Kỵ ôm hai vai nàng xiết chặt nói:

- Từ nay trở đi anh chỉ có yêu em hơn, chiều em hơn thôi. Hai đứa mình vợ chồng là một, lẽ nào anh lại còn chọc giận em.

Chu Chỉ Nhược nghiêng người qua, nhìn thẳng vào mặt chàng nói:

- Nếu như em có làm điều gì sai lầm, đắc tội với anh, anh có đánh em, mắng em, giết em không?

Mặt Trương Vô Kỵ và mặt nàng chỉ cách nhau vài tấc, thấy nàng hơi thở thơm như lan, nhịn không nổi hôn lên má nàng một cái nói:

- Con người ôn nhu văn vẻ, đoan trang hiền thục như em, làm gì có chuyện sai lầm?

Chu Chỉ Nhược nhẹ nhàng vuốt ve cổ chàng nói:

- Dẫu có là thánh nhân cũng còn có lúc sai lầm. Em từ nhỏ không được cha mẹ dạy dỗ, không khỏi có lúc hồ đồ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu quả như em có điều gì sai lầm thì anh sẽ từ từ khuyên bảo.

Chu Chỉ Nhược hỏi:

- Có thực sự anh đối với em không bao giờ thay lòng đổi dạ chăng? Nhất định sẽ không giết em chăng?

Trương Vô Kỵ lại hôn một lần nữa trên trán nàng, ôn tồn nói:

- Em đừng có nghĩ lăng nhăng, làm gì có chuyện đó được.

Chu Chỉ Nhược giọng run run nói:

- Em muốn anh chính miệng hứa với em.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Được rồi, anh đối với em quyết không thay lòng đổi dạ, cũng sẽ không bao giờ giết em.

Chu Chỉ Nhược chăm chăm nhìn thẳng vào Trương Vô Kỵ nói:

- Em không muốn chàng hi hi ha ha, em muốn chàng nói một cách nghiêm chỉnh kìa.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Gớm, không biết trong cái đầu bé nhỏ này đang nghĩ chuyện gì thế này.

Chàng nghĩ thầm: "Thật ra ta đối với biểu muội, với Tiểu Siêu, với Triệu Mẫn ai ai cũng có tình cả khiến nàng không yên bụng. Thế nhưng từ nay trở đi có còn thế nữa hay chăng??. Chàng bèn ngừng không cười nữa, trang nghiêm nói:

- Chỉ Nhược, em là vợ yêu quí của anh. Trước đây anh lòng nọ dạ kia, mong em đừng trách. Từ nay trở đi, anh đối với em một lòng một dạ, dẫu em có sai sót điều gì anh cũng không nói nặng em đâu.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Vô Kỵ ca ca, chàng là nam tử hán đại trượng phu, mong chàng nhớ những gì hôm nay nói với nhau.

Nàng đưa tay chỉ lên trời:

- Có vầng trăng kia làm chứng cho đôi ta.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng thế, em nói quả không sai. Vầng trăng sáng kia làm chứng cho hai đứa mình.

Chàng ôm Chu Chỉ Nhược vào lòng, nhìn vầng trăng ở cuối trời nói:

- Chỉ Nhược, một đời anh bị biết bao nhiêu người lừa dối, khi còn nhỏ thật là dễ tin cho nên chịu đau khổ chẳng kể sao cho xiết, đến nay cũng không còn nhớ hết được nữa. Chỉ có khi anh ở trên Băng Hỏa đảo cùng với cha anh, mẹ anh và nghĩa phụ, lúc đó là không có ai gian trá xảo quyệt thôi. Ngay khi anh vừa về đến Trung Thổ, gặp ngay một gã ăn mày đùa với con rắn, y dụ anh thò đầu nhìn vào trong cái túi, ngờ đâu y chụp ngay lên đầu bắt anh. Anh có ngờ đâu bọn mình cùng sống chết, chung hoạn nạn đến cái đảo nho nhỏ này, vậy mà Triệu cô nương ngay đêm đó đã hạ độc mình rồi?

Chu Chỉ Nhược cười nói:

- Anh đúng là:

Hoàng Hà mong đến cho bằng được,

Đến rồi chép miệng hỡi than ôi.

Trương Vô Kỵ bỗng thấy trong lòng thật là hạnh phúc, nói:

- Chỉ Nhược, từ nay em mãi mãi và người bạn đời của anh, trước nay em đối với anh thật hết lòng, nếu mai này mình có dịp được về Trung Nguyên, em sẽ giúp anh đề phòng tiểu nhân gian ác. Được một người vợ hiền như em, anh sẽ tránh được bao nhiêu chuyện phiền toái trong đời.

Chu Chỉ Nhược lắc đầu:

- Em là đứa con gái thật là vô tích sự, chẳng có tài cán gì lại thật ngu xuẩn. Không nói gì em kém xa lắc người thông minh tuyệt đính như Triệu cô nương, đến người tâm cơ sâu sắc như Tiểu Siêu, cũng gấp nghìn vạn lần em rồi. Chu cô nương của anh chỉ là một con bé khờ khạo thật thà, không lẽ đến bây giờ anh mới biết hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Anh chỉ cần một trung hậu hiền từ như em, không lừa dối anh là được rồi.

Chu Chỉ Nhược quay đầu sang gục vào lòng chàng, nhỏ nhẹ nói:

- Vô Kỵ ca ca, em được kết duyên thành vợ thành chồng với anh, trong lòng quả thật sung sướng không để đâu cho hết, chỉ mong chàng đừng thấy em ngu độn vô tích sự mà coi thường em, hiếp đáp em thôi. Em ... em sẽ hết tâm hết sức để hầu hạ săn sóc anh.

Ngay hôm sau Trương Vô Kỵ bắt đầu vận Cửu Dương thần công lên để giúp Chu Chỉ Nhược khu trừ chất độc, mới đầu thấy thật không ngờ nàng lại trúng độc rất nhẹ, nghĩ thầm có lẽ nàng ăn uống ít ỏi nên không bị nặng như Tạ Tốn. Thế nhưng đến ngày thứ bảy, bỗng thấy trong cơ thể nàng có một luồng khí âm hàn nổi lên, chống lại với Cửu Dương thần công của chàng, Chu Chỉ Nhược tuy hết sức khắc chế nhưng cũng không dễ dàng có thể đưa Cửu Dương chân khí và trong người.

Trương Vô Kỵ hết sức kinh ngạc, vội hỏi nghĩa phụ. Tạ Tốn trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Việc này ta cũng không hiểu được. Có lẽ từ trước đến nay phái Nga Mi thầy dạy đều là đàn bà, lối tập thiên về âm nhu chăng?

Trương Vô Kỵ gật đầu đồng ý. Cũng may Chu Chỉ Nhược và chàng hai người trình độ khác nhau quá xa, chàng chỉ thúc đẩy thần công liền đè ngay được âm kình của nàng xuống, nhưng vận công như thế so với khi chữa độc cho Tạ Tốn lại phí công hơn nhiều.

Trương Vô Kỵ cũng biết âm kình của nàng hiện nay tuy còn yếu nhưng mai sau một khi thành tựu rồi sẽ mạnh không biết đâu mà lường bèn khen ngợi:

- Chỉ Nhược, tôn sư Diệt Tuyệt sư thái quả thực là hào kiệt một đời. Nội công bà ta truyền cho em, pháp môn thực là cao thâm, mãi bây giờ anh mới biết đấy. Nếu như em tập môn công phu này, mai sau cũng chẳng kém gì Cửu Dương thần công của anh đâu, chưa biết bên nào hơn bên nào.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Anh đừng có phỉnh em. Võ công phái Nga Mi làm sao sánh được với Cửu Dương thần công hay Càn Khôn Đại Na Di của Trương đại giáo chủ?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Em trời sinh đôn hậu, tuy võ công chiêu số học chưa nhiều nhưng căn cơ nội công rất tốt. Thái sư phụ của anh có nói rằng, võ công càng về sau càng liên quan nhiều đến tư chất mỗi người, không hẳn cứ người thông minh lanh lợi là đạt được võ công đến cảnh giới cao siêu. Cứ như nghe nói phụ thân của sáng phái tổ sư Quách nữ hiệp của quí phái là Quách Tĩnh đại hiệp, tư chất vốn rất chậm chạp nhưng võ công đạt tới trình độ xưa nay hiếm có. Chính thái sư phụ của anh cũng có nói rằng võ công ông chưa chắc đã đạt đến trình độ của Quách đại hiệp năm xưa đâu. Nội công của phái Nga Mi xem ra còn cao hơn cả nội công phái Võ Đương, cứ như anh thấy thì mai này em có khi còn thành tựu hơn cả tôn sư Diệt Tuyệt sư thái nữa là khác.

Chu Chỉ Nhược lườm chàng một cái, giận dỗi nói:

- Anh muốn lấy lòng em cứ gì phải nói em võ công giỏi. Em chỉ mong học được một hai thành của sư phụ em thì cũng đã thỏa nguyện rồi. Nếu sau này anh dạy em một vài ngón Cửu Dương thần công hay Càn Khôn Đại Na Di thì em thật là cảm kích.

Trương Vô Kỵ trầm ngâm chưa trả lời, Chu Chỉ Nhược liền nói:

- Hay là anh bảo em không xứng đáng làm đồ đệ của Trương đại giáo chủ?

Trương Vô Kỵ nói:

- Không đâu. Anh thấy nội công của em và sở học của anh hoàn toàn khác hẳn, dường như còn ngược với nhau là khác. Nếu em muốn học công phu của anh là một điều hết sức nguy hiểm.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Anh không chịu dạy thì cũng không sao. Học võ không xong thì cùng lắm chẳng đi đến đâu, có gì mà bảo là nguy hiểm?

Trương Vô Kỵ nghiêm mặt đáp:

- Không, không! Cửu Dương thần công của anh là thuần túy dương cương, còn nội công phái Nga Mi em đang tập lại thuộc môn thuần âm nhu. Nếu như quả em luyện môn công phu của anh, âm dương hai bên cùng trộn lẫn với nhau, trừ người võ học kỳ tài như thái sư phụ anh thì mới có thể đến mức thủy hỏa tương tế, cương nhu tương điệu mà thôi, ngoài ra nếu chỉ sai sẩy một bước là sẽ lâm vào đại họa tẩu hỏa nhập ma ngay. Ôi, đợi cho khi nào nội công của em đại thành rồi thì Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp của anh em có thể học được.

Chu Chỉ Nhược cười nói:

- Đó là em nói đùa với anh đấy thôi. Sau này giây phút nào em cũng ở bên anh, võ công của anh hay của em có gì phân biệt đâu? Em vốn tính lười biếng đểnh đoảng mà Cửu Dương thần công của anh chắc là cực kỳ khó khăn, dẫu anh có ép em phải luyện, em ngại khó chưa chắc đã làm.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói thế, trong lòng thật là êm đềm ấm áp.

Cứ như thế hai người tình ý triền miên quên cả thời giờ, chẳng mấy chốc đã qua mấy tháng, Chu Chỉ Nhược thấy nội công đã hoàn toàn hồi phục, thân thể không thấy triệu chứng gì khác lạ, xem ra độc tính đã hoàn toàn loại trừ được rồi.

Ngày hôm đó bên phía đông hòn đảo, mấy cây đào nở hoa hết sức đẹp đẽ, Trương Vô Kỵ bẻ mấy cành, đem cắm trước mộ Ân Ly. Chàng thấy tấm biển khắc ?Ái thê Châu Nhi Ân Ly chi mộ? nằm trên mặt đất, không biết bị giống dã thú nào húc đổ. Chàng bèn nhặt lên cắm trở lại cho ngay ngắn, nghĩ đến biểu muội một đời khốn khổ, xem ra chưa từng được hưởng phúc một ngày nào.

Chàng còn đang đau lòng, bỗng nghe ngoài biển hải âu kêu xáo xác, ngửng đầu lên, thấy ở đằng xa một chiếc thuyền buồm đang căng gió chạy tới, chàng thật mừng không để đâu hết, vội kêu lên:

- Nghĩa phụ, Chỉ Nhược, có thuyền đến kìa, có thuyền đến kìa!

Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược nghe tiếng kêu, trước sau chạy dến bên chàng. Chu Chỉ Nhược run run nói:

- Sao lại có thuyền nào đến cái đảo hoang này làm gì?

Trương Vô Kỵ nói:

- Quả thực lạ lùng, không lẽ là thuyền của bọn hải tặc chăng?

Không tới nửa giờ sau, chiếc thuyền đã đậu ngay ngoài khơi, hạ neo ngừng lại, thả một chiếc thuyền con xuống chèo về hướng đảo. Ba người Trương Vô Kỵ đứng chờ bên bờ biển, thấy những thủy thủ trên thuyền đều ăn mặc theo lối quan quân Mông Cổ, Trương Vô Kỵ chợt động tâm nghĩ thầm: ?Không lẽ Triệu cô nương lương tâm nổi dậy nên quay lại chăng??. Chàng liếc nhìn Chu Chỉ Nhược thấy đôi lông mày xinh đẹp của nàng hơi nhíu lại, ngực phập phồng hiển nhiên trong lòng cũng đang xúc động mạnh.

Chỉ trong giây lát chiếc thuyền nhỏ đã đến bờ, năm thủy thủ đi lên, đi đầu là một tên quan thủy sư hướng về Trương Vô Kỵ khom lưng chào nói:

- Chẳng hay vị này có phải là Trương công tử Trương Vô Kỵ chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chính thị, quan trưởng là ai thế?

Người kia nghe thấy Trương Vô Kỵ tự nhận mình, mặt mày hết sức mừng rỡ nói:

- Tiểu nhân tiện danh là Bạt Tốc Đài, hôm nay tìm thấy công tử, quả thực may mắn biết chừng nào. Tiểu nhân nhận lệnh cấp trên nghênh tiếp Trương công tử và Tạ đại hiệp trở về Trung Thổ.

Y chỉ nói đến tên Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn mà không nói gì đến Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ nói:

- Trưởng quan từ xa đến thật là khó nhọc nhưng không biết do lệnh ai sai khiến?

Bạt Tốc Đài nói:

- Tiểu nhân là thuộc hạ của thủy sư đề đốc Đạt Hoa Xích Lỗ trú phòng ở Phúc Kiến, nhận lệnh tướng quân Bột Nhĩ Đô Tư đến đây nghinh tiếp. Bột Nhĩ Đô Tư sai cả thảy là tám chiếc thuyền, suốt một dọc biển ngoài khơi các tỉnh Mân Triết Việt đi tìm Trương công tử và Tạ đại hiệp, không ngờ tiểu nhân là người lập được công đầu.

Nghe giọng y xem ra cấp trên của y có hứa rằng ai tìm được sẽ có thăng thưởng. Trương Vô Kỵ nghe y đề cập đến những tên tuổi các tướng lãnh Mông Cổ chàng đều không biết nên chắc rằng những người đó cũng nhận lệnh từ Triệu Mẫn nên hỏi lại:

- Thế ông có biết quí thượng ti được lệnh ai sai đi đón tôi không?

Bạt Tốc Đài đáp:

- Bột Nhĩ Đô Tư tướng quân dặn rằng Trương công tử là đại đại quí nhân, lại là anh hùng hào kiệt đương thời, nếu tìm thấy rồi phải hết sức hầu hạ cho chu đáo. Còn như tại sao đi đón, tiểu nhân chức vụ thấp kém không được tướng quân nói cho biết.

Chu Chỉ Nhược xen vào:

- Có phải là do Thiệu Mẫn quận chúa chăng?

Bạt Tốc Đài ngạc nhiên nói:

- Thiệu Mẫn quận chúa? Tiểu nhân chưa từng có phúc được gặp bao giờ.

Chu Chỉ Nhược lạnh lùng nói:

- Cái gì mà có phúc hay không có phúc?

Bạt Tốc Đài nói:

- Thiệu Mẫn quận chúa là đệ nhất mỹ nhân Mông Cổ, không, phải là thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, văn võ toàn tài, là thiên kim của Nhữ Dương Vương gia. Tiểu nhân làm gì có phúc được thấy kim diện của quận chúa?

Chu Chỉ Nhược chỉ hừ một tiếng, không nói thêm nữa. Trương Vô Kỵ nói với Tạ Tốn:

- Nghĩa phụ, như vậy thì mình lên thuyền đi thôi.

Tạ Tốn nói:

- Vậy mình qua bên hang núi bên kia lấy ít vật phẩm tùy thân rồi hãy lên thuyền, xin trưởng quan chờ nơi đây một chút.

Bạt Tốc Đài nói:

- Xin để cho tiểu nhân và anh em thủy thủ mang hành lý giùm cho ba vị.

Tạ Tốn cười nói:

- Bọn ta làm gì có hành lý? Không dám phiền đến các vị.

Ông nắm tay Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược đi qua sau núi nói:

- Triệu Mẫn tự nhiên sai người đi đón chúng ta về, bên trong ắt có âm mưu, các ngươi nghĩ mình phải đối phó thế nào?

Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ, cha nghĩ xem Triệu ... cha nghĩ xem Triệu Mẫn cô ta ... cô ta có ở trên thuyền không?

Tạ Tốn đáp:

- Nếu như con tiểu yêu nữ đó có ở trên thuyền thì lại càng dễ xử. Bọn mình chỉ cần ăn uống cho cẩn thận, đừng để cho y thị giở trò gì.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng thế, bọn mình mang theo cá ướp muối, trái cây khô lên thuyền, lấy thêm nước uống, không ăn uống món gì ở trên thuyền cả.

Tạ Tốn nói:

- Ta xem Triệu Mẫn chắc không có ở trên thuyền đâu. Có lẽ y thị theo kế sách của bọn Ba Tư, dụ cho bọn mình lên trên thuyền đợi thuyền ra đến ngoài biển khơi thì chiến thuyền Mông Cổ sẽ xuất hiện, khai pháo bắn chìm thuyền của mình.

Trương Vô Kỵ trong lòng đau đớn, run run nói:

- Nàng ta ... nàng ta dụng tâm độc ác đến thế ư? Nàng cứ bỏ mặc mình trên hòn đảo nhỏ này, sống chết mặc bay, vĩnh viễn không trở lại Trung Thổ được thì cũng xong. Ba người mình đã làm gì hại cô ta đâu?

Tạ Tốn cười khẩy nói:

- Con đem thả hết bao nhiêu cao thủ của lục đại môn phái y thị bắt giữ tại chùa Vạn An, không lẽ cô ta không giận? Hơn nữa, giáo chủ Minh giáo mất tích, thể nào anh em trong bản giáo chẳng đổ đi tìm kiếm, không lẽ tìm không ra hòn đảo này? Chỉ có cho chúng ta thân chìm đáy nước, thế mới gọi là nhổ cỏ tận rễ thôi.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bắn chìm thuyền mình? Như thế bon quan binh Mông Cổ Bạt Tốc Đài cũng chết theo sao?

Tạ Tốn cười ha hả, đột nhiên thở dài nói:

- Vô Kỵ hài nhi, những người chấp chưởng quân quốc trọng nhiệm, có ai nghĩ tới sinh mạng người khác đâu? Nếu tâm địa nhân từ như con thì làm sao người Mông Cổ có thể hoành hành bốn bể, quét sạch các nước khác được? Từ xưa tới nay, những đại anh hùng lập nên công danh đều phải tùy thời mà quyết đoán, giết ai là giết. Chẳng nói gì đến quan binh, cho đến cha mẹ con cái mình cũng còn chẳng coi vào đâu nữa là.

Trương Vô Kỵ ngơ ngẩn một hồi, buồn bã nói:

- Nghĩa phụ nói phải lắm.

Chàng biết rằng xưa nay người Mông Cổ đối với kẻ địch hết sức tàn bạo, nghĩ họ đối với bộ thuộc chắc là thương yêu, bây giờ nghe Tạ Tốn nói thế, không khỏi bàng hoàng, việc trở về Trung Thổ thống suất hào kiệt Trung Nguyên đuổi quân Thát tử đưa đất nước đến thái bình, quả thật ngoài khả năng của mình.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Nghĩa phụ, như vậy mình phải làm sao đây?

Tạ Tốn hỏi lại:

- Thế cô con dâu của ta có diệu kế gì?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Vậy thì mình đừng lên thuyền nữa, nói với bọn quan binh Mông Cổ là mình ở đây thích lắm, không muốn quay về Trung Nguyên.

Tạ Tốn cười nói:

- Đúng là người ngờ nghệch, ý tưởng cũng ngốc nghếch theo. Bọn mình không lên thuyền, địch nhân nhất định sẽ không tha mình. Nếu như mình giết hết bọn quan binh này, bộ họ không phái đến thêm một chục chiếc khác hay sao? Huống chi Trung Nguyên có biết bao nhiêu việc lớn Vô Kỵ phải về lo liệu, làm sao mình có thể chết già nơi đảo hoang này?

Khuôn mặt xinh đẹp của Chu Chỉ Nhược đỏ lên, nói nhỏ:

- Vậy thì để nghĩa phụ tính sao thì tính, bảo sao chúng con nghe vậy.

Tạ Tốn trầm ngâm nói:

- Vậy thì mình cứ thế này thế này.

Chu Chỉ Nhược và Vô Kỵ hai người nghe xong đều gật đầu khen phải. Trương Vô Kỵ đi đến mộ của Ân Ly lâm râm khấn vái một hồi, nhỏ nước mắt từ biệt, rồi mới lên thuyền. Chu Chỉ Nhược trên đảo ăn không ngồi rồi đã đẽo gọt rất nhiều con rối bằng gỗ, người có ngựa có nay đem gói thành một bọc to đeo trên lưng. Trương Vô Kỵ cũng đi tuần hết một vòng trong ngoài thuyền, quả nhiên không có Triệu Mẫn ở đó, trên thuyền xem ra cũng không người nào đáng gờm, quan binh, thủy thủ dường như không một ai biết võ công.

Khi thuyền đã nhổ neo giương buồm rồi, mới đi được vài dặm, Trương Vô Kỵ liền vung tay một cái, đã bắt ngay được cổ tay Bạt Tốc Đài, tay kia rút ngay thanh đao đeo nơi hông y ra, kề ngay vào cổ, quát lên:

- Ngươi phải nghe lời ta, bảo lái thuyền quay qua hướng đông.

Bạt Tốc Đài kinh hãi, run run nói:

- Trương công ... công tử, tiểu ... tiểu nhân đâu có dám đắc tội với ngài.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Ngươi cứ theo lời ta mà làm, nếu sai lời ta chém đầu ngươi trước.

Bạt Tốc Đài vội đáp:

- Vâng, vâng.

Y quát lên ra lệnh:

- Lái ... lái thuyền, mau ... mau lái về hướng đông.

Người tiêu công theo đúng thế mà quay mũi thuyền qua. Chiếc thuyền vòng trở lại qua hòn đảo đi thẳng về hướng đông. Trương Vô Kỵ lại quát:

- Người Mông Cổ các ngươi định mưu hại ta, ta biết hết mưu kế của chúng bay rồi, mau mau khai ra. Nếu mà nói láo thì coi chừng mất mạng.

Nói xong chàng giơ chưởng lên, vỗ vào mạn thuyền một cái, gỗ bay tung tóe, đã vỡ ngay một mảng lớn. Những quan binh trên thuyền trông thấy như thế ai nấy đều kinh hãi. Bạt Tốc Đài nói:

- Xin công tử lượng xét cho: tiểu nhân phụng lệnh thượng ti đi đón công tử trở về, không có ý gì khác. Tiểu nhân ... tiểu nhân chỉ mong lập được chút công lao, được cấp trên thăng thưởng, quả không dám có ý gì xấu xa.

Trương Vô Kỵ thấy y giọng nói thành khẩn, xem chừng không phải giả trá nên bỏ tay y ra đi đến đầu thuyền, tay trái cầm một chiếc neo sắt, tay phải cũng cầm một chiếc neo khác, quát lên:

- Chúng bay nhìn cho rõ này.

Hai tay vung lên. Hai chiếc neo cùng bay vọt lên trên không. Cả bọn quan binh ai nấy rú lên kinh hoảng. Đợi đến khi hai chiếc neo rơi xuống, Trương Vô Kỵ liền sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, hai tay một đẩy một hất, hai chiếc neo lại vọt lên. Chàng làm như thế ba lần mới nhẹ nhàng bắt lại, vứt hai chiếc neo trở về đầu thuyền.

Người Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa mà lấy thiên hạ rất kính phục những người vũ dũng, thấy chàng võ công kinh người đều phục xuống lạy, không một ai còn dám có lòng dạ nào khác nữa.

Người tiêu công cứ theo đúng lệnh của Trương Vô Kỵ giữ theo hướng đông mà đi liên tiếp ba ngày đến khi ra hẳn ngoài biển khơi chỉ còn thấy chung quanh sóng nước mênh mông đến tận chân trời. Tạ Tốn liệu chừng những pháo thuyền Triệu Mẫn điều khiển cũng chỉ tại một dải Mân Việt tuần hành, lúc này thuyền đã đi xa ra ngoài đại dương, không thể nào gặp pháo thuyền được nữa, nên đến ngày thứ năm liền bảo lái thuyền lên phía bắc.

Đi lên hướng bắc liên tiếp hơn hai chục ngày nữa, dẫu Triệu Mẫn có thông minh thế nào cũng không thể nào đoán được thuyền đang ở đâu, lúc đó mới bảo lái thuyền về hướng tây trở về Trung Thổ. Hơn một tháng đó, bọn Trương Vô Kỵ chỉ dùng đồ ăn thức uống mang theo và bắt cá dưới biển ăn sống, tuyệt đối không đụng chạm chút nào đến thực phẩm trên thuyền.

Một hôm kia khoảng giữa trưa thì thấy phía tây có đất liền. Bọn quan binh Mông Cổ đi trên thuyền đã lâu nay thấy đất liền ai nấy đều mừng rỡ. Đến chiều tối hôm đó chiếc thuyền lớn đã đậu vào bờ rồi. Nguyên một dải đó đều là đá núi, nước biển rất sâu, thuyền đậu được sát bờ. Tạ Tốn nói:

- Vô Kỵ, con lên trên bộ xem coi nơi đây là đâu?

Trương Vô Kỵ vâng lời phi thân nhảy lên bờ. Chàng chạy một hồi chỉ thấy đâu đâu cũng là núi rừng cây cối rậm rạp, dưới đất tuyết đóng băng còn đang tan, thật là lầy lội. Xa thêm một quãng cây cối càng lúc càng nhiều, cây nào cây nấy đều là cổ tùng cao ngất trời xanh, mấy người ôm không xuể. Chàng nhảy lên một cây cao, thấy chung quanh chỉ là cây cối không thấy bến bờ, ở giữa khu rừng này không một vết chân người. Chàng nghĩ thầm dù mình có đi thêm cũng thế mà thôi nên đành phải quay trở về thuyền.

Chàng chạy vừa mới tới bến đã nghe tiếng người kêu la thảm thiết, âm thanh cực kỳ ghê rợn, chính từ chiếc thuyền vọng ra. Chàng kinh hãi vội chạy tới, nhảy lên đầu thuyền. Chỉ thấy trên thuyền xác người la liệt, đều là thi thể quan binh Mông Cổ, từ Bạt Tốc Đài trở xuống đều chết hết, còn Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược đứng đó nhưng không thấy tung tích địch nhân đâu. Trương Vô Kỵ kinh hãi hỏi:

- Nghĩa phụ, Chỉ Nhược, hai người không sao chứ? Địch nhân chạy về hướng nào?

Tạ Tốn hỏi lại:

- Địch nhân nào? Con thấy có tung tích kẻ địch ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không, thế bọn người Mông Cổ này ...

Tạ Tốn đáp:

- Do ta và Chỉ Nhược giết đó.

Trương Vô Kỵ càng kinh ngạc nói:

- Không ngờ bọn Thát tử vừa mới về đến Trung Thổ đã dám có ý hại người rồi.

Tạ Tốn nói:

- Bọn chúng đâu có dám nổi lòng gia hại mình, đó là ta giết chúng để bịt miệng đấy thôi. Những người này chết hết rồi, Triệu Mẫn không thể nào biết được mình đã về đến Trung Thổ. Từ nay nàng ta ở ngoài sáng còn mình ở trong tối, kiếm cô ta báo thù dễ dàng hơn biết bao nhiêu.

Trương Vô Kỵ bỗng thấy lòng tái tê, lặng người không nói nên lời. Tạ Tốn thản nhiên nói:

- Sao thế? Con trách ta hành động quá ư tàn nhẫn chăng? Quan binh Thát tử là kẻ địch của mình, làm sao có thể đối với chúng bằng tấm lòng bồ tát được?

Trương Vô Kỵ không nói, nghĩ đến những người này ân cần hầu hạ mình trong bấy lâu nay, không dám sơ sót chút nào, tuy là địch thật nhưng giết sạch họ như thế trong lòng vẫn thấy xót xa. Tạ Tốn nói:

- Người đời thường nói: Bụng dạ nhỏ nhen không phải là người quân tử nhưng kẻ không độc địa thì cũng chẳng đáng mặt trượng phu. Ta chẳng hại người người cũng sẽ hại ta. Triệu Mẫn đối với chúng ta như thế, mình cũng phải gậy ông đập lưng ông.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nghĩa phụ nói phải lắm.

Tuy nói thế nhưng khi nhìn lại thấy bọn Bạt Tốc Đài xác nằm la liệt chàng không khỏi ngậm ngùi rơi lệ. Tạ Tốn nói:

- Cho một mồi lửa đốt chiếc thuyền này đi. Chỉ Nhược, tra xét các xác chết lấy hết tiền bạc, thêm ba món binh khí phòng thân.

Hai người đốt thuyền xong nhảy lên bờ. Chiếc thuyền đó rất to cháy đến nửa đêm mới tắt lửa, luôn cả các xác chết cũng chìm luôn xuống nước. Trương Vô Kỵ thấy xong xuôi mọi việc sạch sành sanh không còn chút dấu vết gì, nghĩ thầm nghĩa phụ tuy hành sự độc ác thật nhưng quả thực là tay giang hồ lão luyện mình không thể nào sánh được.

Ba người tìm kiếm chỗ ngủ cho qua đêm, sáng hôm sau băng rừng theo hướng nam mà đi. Đi đến ngày thứ hai thì gặp bảy tám người đi hái sâm, hỏi ra mới biết đây là đất Liêu Đông ở quan ngoại, cách núi Trường Bạch không xa bao nhiêu.

Đến khi chi tay cùng bọn người đào sâm rồi, Chu Chỉ Nhược liền hỏi:

- Nghĩa phụ, có cần phải giết bọn người này diệt khẩu chăng?

Trương Vô Kỵ quát lên:

- Chỉ Nhược, em nói gì đó? Những người đi đào sâm này có biết mình là ai. Không lẽ từ nay mình đi đường gặp ai cũng giết sạch hay sao?

Chu Chỉ Nhược bối rối mặt đỏ bừng, trong đời Trương Vô Kỵ chưa từng nói với nàng gay gắt như thế bao giờ. Tạ Tốn nói:

- Cứ theo ý ta thì cũng nên giết hết bọn người hái sâm này. Thế nhưng giáo chủ không muốn sát hại nhiều, mình nên tìm cách thay đổi quần áo cho khỏi lộ tung tích.

Ba người vội vàng đi ngay, nhưng phải mất hai ngày sau mới ra khỏi khu rừng. Lại đi thêm một ngày nữa mới gặp một nhà nông dân, Trương Vô Kỵ lấy tiền ra xin mua quần áo của nhà đó. Thế nhưng nhà này quá ư nghèo khổ, không có đâu quần áo dư để nhường cho họ, đi hỏi đến bẩy tám nhà ba người mới mua được ba bộ quần áo hết sức dơ dáy. Chu Chỉ Nhược xưa nay vốn tính sạch sẽ, ngửi thấy mùi hôi tích tụ lâu năm dường như muốn mửa. Thế nhưng Tạ Tốn lại vui sướng vô cùng, bảo hai người lấy bùn đất trét lên mặt mũi. Trương Vô Kỵ nhìn xuống nước soi thấy mình đã biến thành một gã ăn mày đất Liêu Đông, Triệu Mẫn dù có đứng ngay trước mặt cũng chưa chắc nhìn ra.

Cả bọn tiếp tục đi về hướng nam, vượt qua trường thành, hôm đó đến một thị trấn lớn. Ba người đến một đại tửu lâu trong thành, Trương Vô Kỵ lấy ra một đĩnh bạc chừng ba lượng, để lên trên quầy nói:

- Đợi bọn ta ăn uống xong xuôi hãy tính toán sau.

Chàng ngại rằng mình quần áo lam lũ, người chủ quán không chịu đem đồ ăn lên. Nào ngờ gã chưởng quĩ hết sức cung kính đứng ngay dậy, hai tay cầm đĩnh bạc trả lại nói:

- Quí ngài quang lâm tiểu điếm, có vài chén rượu nhạt, cơm thô, đâu có đáng gì? Xin để chúng tôi bao biện cho.

Trương Vô Kỵ hết sức ngạc nhiên, ngồi xuống rồi ghé tai hỏi nhỏ Chu Chỉ Nhược:

- Trên người mình có điểm gì sơ hở chăng? Sao gã chưởng quĩ lại không chịu nhận tiền?

Chu Chỉ Nhược nhìn kỹ diện mạo hình dung quần áo ba người, trông đúng là ba kẻ ăn mày, có lộ hình tích chút nào đâu? Tạ Tốn nói:

- Ta nghe giọng nói của gã chưởng quĩ xem chừng có vẻ sợ sệt, mình cứ cẩn thận thì hơn.

Bỗng nghe có tiếng chân lên cầu thang, bảy người đi lên, thật khéo làm sao, cũng ăn mặc như lối ăn mày. Bảy người đó đến trước cửa sổ khệnh khạng ngồi xuống. Điếm tiểu nhị liền chạy tới cung kính chào hỏi, miệng hết ngài nọ ngài kia, làm như bọn chúng là quan lớn quan bé không chừng. Trương Vô Kỵ nhìn thấy những tên ăn xin này, đứa thì mang trên lưng năm cái túi vải, có đứa mang sáu cái, đều là những đệ tử có vị trí tương đối khá cao trong Cái Bang.

Điếm tiểu nhị vừa chạy đi, chưa kịp mang lên các món rượu thịt bọn này gọi thì lại có thêm sáu bảy tên đệ tử Cái Bang khác lên lầu nữa. Chỉ trong chốc lát, trên tửu lâu lục tục đi lên có đến trên ba mươi tên bang chúng Cái Bang, trong đó có ba người lưng đeo bảy cái bị.

Trương Vô Kỵ bấy giờ hiểu ra, thì ra hôm nay người trong Cái Bang tụ hội ở đây, chưởng quĩ tưởng ba người cũng là trong Cái Bang nên hạ giọng nói nhỏ với Tạ Tốn:

- Nghĩa phụ, mình nên tránh ra khỏi nơi đây, để khỏi gây ra rắc rối, người Cái Bang đến đây không phải là ít.

Ngay lúc đó, điếm tiểu nhị đem lên một đĩa thịt bò to, một con gà quay lại thêm năm cân rượu trắng. Tạ Tốn trong bụng đang đói, mấy tháng nay chưa được ăn bữa nào cho ra hồn, ngửi thấy mùi gà quay, chân tay bủn rủn nói:

- Bọn mình cứ lặng thinh ăn uống, để xem bọn chúng làm gì?

Nói xong bưng chén lên, uống ực ngay một nửa ly rượu đế nghĩ thầm: ?Quả thật trời còn thương, Tạ Tốn này lưu lạc hải ngoại hơn hai mươi năm qua, mãi đến hôm nay mới lại biết mùi vị rượu như thế nào?. Rượu đó cay xè chẳng có gì ngon, chỉ là loại thường nhưng vào miệng ông ta cũng có khác gì quỳnh tương, cam lộ.

Ông ta khà một tiếng, thấy thật là sung sướng ngon lành, liền uống cạn ngay cả chén, đột nhiên hạ giọng nói:

- Cẩn thận, có hai người bản lãnh ghê gớm lắm đang lên.

Trương Vô Kỵ nghe kỹ tiếng bước chân lên cầu thang, quả nhiên hai người đó võ công thật cao cường. Hai người đó vừa lên đến bậc cuối, nghe lạch cạch rào rào một loạt, tất cả các bang chúng Cái Bang đều đứng lên. Tạ Tốn giơ tay ra hiệu, ba người cũng đứng lên nghinh đón. Ba người ngồi trong một góc nhỏ, khi tất cả mọi người đều ngồi thì cũng không có gì lạ nhưng khi tất cả đứng lên ba người vẫn ngồi yên bất động thì e rằng sẽ loạn lên ngay.

Trương Vô Kỵ thấy một người thân hình tầm thước, tướng mạo thanh tú, ba chòm râu dài, ngoài việc ăn mặc theo lối ăn mày ra, thần tình dáng điệu chẳng khác gì một nhà nho chưa đỗ đạt. Người đi sau mặt bành bành, râu xồm vểnh ra, tướng mạo cực kỳ hung mãnh, nếu như đen thêm một chút thì thật chẳng khác gì Chu Thương, người cầm đại đao đứng bên cạnh Quan Công.

Hai người đó tuổi đều khoảng trên năm mươi, râu cũng đã lốm đốm bạc, trên lưng mang đến chín cái túi vải. Chín cái bị đó chẳng qua chỉ để chứng tỏ thân phận của họ mà thôi vì rất nhỏ, khó có thể đựng gì được.

Trương Vô Kỵ trong bụng nghĩ thầm: ?Cái Bang vẫn được coi là bang lớn nhất trên giang hồ, ta từng nghe thái sư phụ nói rằng, ngày xưa bang chủ Cái Bang là Hồng Thất Công nhân hiệp trượng nghĩa, võ công cao siêu, dù trong bạch đạo hay hắc đạo cũng đều kính phục. Về sau Hoàng bang chủ, Gia Luật bang chủ cũng đều là những nhân vật tài ba hơn người, nhưng mấy chục năm nay không có ai chủ trì thành thử thanh vọng kém trước kia xa. Bang chủ hiện nay Sử Hỏa Long rất ít xuất hiện trên giang hồ, không biết người đó ra sao. Hai người này trên lưng đeo đến chín cái bị, trong Cái Bang trừ bang chủ ra, họ là người cao cấp nhất. Hôm trước trên đảo Linh Xà, những người trong Cái Bang toan cướp bảo đao Đồ Long của nghĩa phụ không biết có liên quan gì đến hai người này không??.

Kỳ này đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên bị Triệu Mẫn ăn trộm rồi nhưng sáu thanh thánh hỏa lệnh vẫn còn ở trong bọc của Vô Kỵ, không bị mất, có lẽ vì Triệu Mẫn e ngại võ công chàng quá cao siêu, sợ sau khi trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bản lãnh vẫn còn nên không dám mò vào trong túi chàng. Trương Vô Kỵ lúc này thấy người của Cái Bang đông đảo không dám xem thường, đưa tay vào bọc sờ sáu thanh lệnh bài.

Hai người cửu đại trưởng lão kia liền đi tới một chiếc bàn lớn ngay chính giữa ngồi xuống đó. Bọn người Cái Bang lục tục ngồi xuống, bắt đầu ăn uống, thò tay bốc đồ ăn, bưng tô lên húp canh, thật là hỗn tạp. Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn chăm chú nghe xem hai người trưởng lão chín túi kia nói gì. Ngờ đâu họ chỉ ăn cơm uống rượu, trừ những câu thù tạc kiểu như ?mời bác một chén? hay ?thịt bò này thật ngon? ra không hề nói gì đến việc chính cả.

Đến khi hai gã đầu lĩnh kia ăn uống xong xuôi xuống lầu rồi, bọn người Cái Bang cũng đều cơm no rượu say, lần lượt đi cả. Tạ Tốn đợi bọn ăn mày đi hết mới nói nhỏ:

- Vô Kỵ, con thấy sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Người của Cái Bang tụ hội nơi đây rất đông, nhất định không phải chỉ gặp nhau ăn nhậu một phen rồi thôi. Con đoán rằng buổi tối họ thể nào cũng tụ tập tại một nơi vắng vẻ bàn chuyện chính.

Tạ Tốn gật đầu:

- Ắt là như thế. Cái Bang xưa nay vẫn đối địch với bản giáo, lên đốt Quang Minh Đính có bọn này dự phần vào, lại còn sai người đến toan cướp đao Đồ Long của ta. Mình phải làm sao thám thính cho rõ ràng, xem họ có toan tính gian kế gì với bản giáo chăng.

Ba người xuống lầu đến trả tiền cho chưởng quĩ. Chưởng quĩ hết sức ngạc nhiên, nói sao cũng không dám nhận. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Cái Bang làm loạn khiến hàng quán tửu lâu phải sợ đến thế, ăn uống không phải trả tiền. Chỉ một điểm đó thôi cũng đủ biết ngày thường bọn chúng hoành hành không còn coi vương pháp là gì?.

Ba người kiếm một tiểu khách điếm để nghỉ ngơi. Tuy trong thị trấn ăn mày rất nhiều nhưng xưa nay ăn mày có ở khách điếm bao giờ đâu nên họ không gặp một nhân vật Cái Bang nào. Tạ Tốn nói:

- Vô Kỵ, ta mắt không nhìn được, đi thám thính tin tức thật là bất tiện, còn Chỉ Nhược võ công không cao, có đi theo con cũng chẳng giúp được gì, thôi con chịu khó đi một mình là hơn cả.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chính là như thế.

Chàng ở trong khách điếm nghỉ ngơi rồi đi ra. Thế nhưng trong thị trấn chàng đi suốt cả các con đường từ nam chí bắc không gặp một đệ tử Cái Bang nào cả. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Sao chỉ chưa đầy nửa giờ mà các đệ tử Cái Bang không còn một ai, chắc họ đi chưa xa đâu?. Chàng bèn đi vào một tiệm bán đồ tạp hóa, trợn mắt lên, đấm mạnh xuống mặt quầy một cái, quát lớn:

- Này chưởng quĩ, các anh em ta đi về hướng nào thế?

Các người trong tiệm thấy bộ dạng chàng thật là hung thần ác sát, tưởng là một tên ăn mày dữ tợn trong Cái Bang, ai nấy đều khiếp sợ mất vía, trong đó có một tên liều lĩnh nhất chỉ về hướng bắc, cười cầu tài nói:

- Các bằng hữu trong quí bang đều đi về hướng này. Đại gia uống chén trà nhé?

Trương Vô Kỵ quát:

- Không uống. Ai thèm uống thứ trà thổ tả của chúng bay?

Chàng quay mình hung hăng đi về hướng bắc, trong bụng cười thầm. Chàng đi ra khỏi thị trấn không xa, thấy bên trái con đường có bóng người thấp thoáng trong đám cỏ, một tên đệ tử Cái Bang thò đầu lên, xem bộ dạng dường như toan quát hỏi chuyện gì. Trương Vô Kỵ gia tăng cước bộ, chạy vụt qua. Tên đệ tử Cái Bang giơ tay dụi mắt, tưởng mình mắt hoa, sao vừa thấy có bóng người, trong chớp mắt đã không còn thấy đâu nữa.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm đường đi Cái Bang ắt bố trí người canh gác, giới bị sâm nghiêm nên liền thi triển khinh công, nhắm hướng bắc mà chạy. Những đệ tử Cái Bang bố trí canh phòng tại các gốc cây, bụi cỏ, khe núi, hốc đá không người nào thoát khỏi cặp mắt chàng, lại hóa thành các dấu chỉ đường đến mục tiêu. Chạy đến bốn năm dặm đường thì thấy cứ năm ba bước lại có một người đứng gác, mỗi lúc một dầy. Những người này tuy võ công không cao nhưng ở vào lúc thanh thiên bạch nhật mà tránh được hết không để họ nhìn thấy thực không phải dễ. Sau cùng chàng đành bỏ đường cái chạy loanh quanh lòng vòng đi tới.

Trước mắt thấy một con đường mòn đi về hướng một toàn miếu lớn nằm ở lưng chừng núi, liệu chừng bọn ăn mày chắc tụ tập nơi đây, chàng liền đề khí chạy tới góc đông bắc, rồi lại vòng qua hướng tây, qua khỏi tên ăn mày đứng gác lẻn đến bên hông miếu. Chỉ thấy ở đằng trước có một tấm biển trên đề ?Di Lặc Phật Miếu? bốn chữ lớn, miếu mạo trang nghiêm thật là hùng vĩ.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Kỳ này những nhân vật trọng yếu trong Cái Bang đến không phải là ít, nếu như ta trà trộn vào trong bọn chúng thể nào cũng bị phát giác?. Chàng nhìn quanh bốn bề, thấy đằng trước đại điện phía bên trái có một cây cổ tùng, bên phía phải có một cây lão bách, hai cây đó cao sừng sững vọt lên hơn mái nhiều, cành lá xum xuê, có thể ẩn thân được. Chàng vòng qua sau điện, phi thân lên trên mái nhà, bò lần đến bên hiên nhẹ nhàng nhảy lên, như một làn khói vào trên đỉnh cây tùng, từ một cành lớn nhìn xuống, kêu thầm: ?May quá? thấy dưới điện trống trải có thể nhìn khắp lượt.

Dưới đại điện ngồi la liệt bang chúng Cái Bang, ít ra cũng phải hơn ba trăm người. Tất cả bọn họ đều ngồi quay vào trong, thành ra khi chàng nhảy lên cây không ai hay biết. Bên trong điện trải năm chiếc bồ đoàn còn để trống chưa có ai, hiển nhiên đang chờ ai đó. Trong điện tuy ngồi đến ba bốn trăm người nhưng không một tiếng động, khác hẳn khi ồn ào tranh ăn tại tửu lâu. Chàng nghĩ thầm: ?Cái Bang danh tiếng mấy trăm năm qua, gần đây tuy có suy đồi nhưng những qui củ đời trước vẫn còn được ít nhiều. Việc hỗn loạn khi ngồi ăn uống nơi quán rượu chẳng qua chỉ là thói quen thường ngày. Xem ra các trưởng lão trong bang ước thúc bang chúng, chấp pháp thật là nghiêm cẩn?.

Ngay chính giữa đại điện là một pho tượng Phật Di Lặc, phanh ngực để lộ cái bụng phệ, miệng cười toe toét trông thật hiền hòa dễ thân cận. Trương Vô Kỵ còn đang tính toán đánh giá bỗng nghe trong điện một người hô lên:

- Chưởng Bát long đầu đến.

Tất cả bọn ăn mày liền đứng lên. Gã trưởng lão chín túi trông như một nhà nho kia tay cầm một chiếc bát mẻ, từ từ đi ra, đứng ở phía bên phải. Người kia lại hô tiếp:

- Chưởng Bổng long đầu đến.

Gã trưởng lão chín túi hình dáng như Chu Thương kia hai tay bưng một chiếc gậy sắt, hùng dũng đi ra, đứng vào phía bên trái. Người đó lại hô tiếp:

- Chấp Pháp trưởng lão đến.

Một người ăn mày già thân hình bé nhỏ đi ra, tay cầm một mảnh trúc vỡ, bước chân nhẹ nhàng, khi đi không có chút bụi nào bay lên. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Người này khinh công cao cường thật, chỉ kém Vi Bức Vương một chút thôi?. Lại có người hô to:

- Truyền Công trưởng lão đến.[ii]

Lần này một người ăn mày già râu tóc bạc phơ đi ra, hai tay không, xem thân hình bộ pháp không thể đoán được ông ta tài nghệ võ công nông sâu đến bực nào. Bốn lão ăn mày già kéo bốn chiếc bồ đoàn lùi lại phía sau, chỉ còn lại một chiếc duy nhất nơi chính giữa, cùng khom lưng cất tiếng:

- Xin mời đại giá bang chủ.

Trương Vô Kỵ trong bụng hơi chấn động: ?Nghe nói bang chủ Cái Bang là Kim Ngân Chưởng Sử Hỏa Long, trong võ lâm rất ít người biết được y mặt mũi thế nào, không biết là loại người ra sao??.

Trong đại điện tất cả các ăn mày đều cúi mình, một lúc sau từ sau bức bình phong có tiếng chân người, một đại hán hùng dũng đi ra. Y thân thể phải cao đến hơn sáu thước, cực kỳ to lớn, mặt mày hồng hào, trông ra dáng một đại quan thân hào, đến giữa đại điện, đứng chắp tay sau lưng. Quần cái cùng hô lên:

- Tọa hạ đệ tử, tham kiến bang chủ đại giá.

Gã bang chủ Cái Bang Sử Hỏa Long kia liền xua tay nói:

- Miễn lễ. Các anh em khỏe cả chứ?

Cả bọn ăn mày cùng đáp:

- Bang chủ an hảo.

Đợi cho Sử Hỏa Long chễm chệ trên cái bồ đoàn chính giữa rồi, cả bọn mới trước sau ngồi xuống. Sử Hỏa Long quay sang nói với Chưởng Bát long đầu:

- Ông huynh đệ, ngươi đem chuyện Kim Mao Sư Vương và đao Đồ Long nói cho tất cả cùng nghe.

Trương Vô Kỵ nghe nói đến ?Kim Mao Sư Vương và đao Đồ Long?, trong lòng xúc động, vội để hết tâm nghe ngóng. Chưởng Bát long đầu đứng lên, quay sang cúi chào bang chủ rồi đứng thẳng trở lại nói:

- Này các anh em, ma giáo và bản bang hai bên tranh đấu đã sáu chục năm qua, tích oán thật là nhiều. Gần đây ma giáo lập một tân giáo chủ tên là Trương Vô Kỵ. Trong chúng ta có người tham dự chiến dịch vây đánh Quang Minh Đính từng thấy đó chỉ là một thanh niên ngốc nghếch chẳng hiểu biết gì. Cái thứ trẻ con miệng còn hôi sữa, chim chửa ra ràng như thế làm được việc gì? Sao có thể kháng cự với một người hùng tài vĩ lược như Sử bang chủ của bản bang?

Bọn ăn mày cùng vỗ tay reo hò vang dậy, còn Sử Hỏa Long mặt mày nhơn nhơn ra chiều đắc ý. Chưởng Bát long đầu nói tiếp:

- Có điều lập tân giáo chủ rồi, cục diện vốn dĩ tứ phân ngũ liệt, tàn sát lẫn nhau của ma giáo liền đổi thay, trở thành một mối lo tâm phúc đại họa của bản bang. Gần một năm nay, các ma đầu của ma giáo nổi lên khắp nơi, một giải Hoài Tứ có Hàn Sơn Đồng, Chu Nguyên Chương, một giải Lưỡng Hồ có bọn Từ Thọ Huy, liên tiếp đánh bại Nguyên binh, chiếm được rất nhiều đất đai, phải nói là cũng đã lớn lao lắm. Nếu như bọn chúng thành được đại sự, đuổi được quân Thát tử, chiếm lấy thiên hạ, thì lúc đó mấy chục vạn anh em bản bang, thật quả chết không có đất mà chôn.

Cả bọn ăn mày giận dữ gào lên:

- Quyết không để cho chúng thành công.

- Cái Bang thề sống chết tới cùng với bọn ma giáo.

- Ma giáo nếu chiếm được thiên hạ thì anh em mình sống sao cho nổi?

- Đánh Thát tử thì ai cũng muốn nhưng quyết không để cho giáo chủ ma giáo lên ngôi hoàng đế.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Không ngờ mình ở hải ngoại mới có vài tháng, anh em đã làm được nhiều chuyện đến thế. Cái Bang lo lắng không phải là không có lý do. Cái Bang nhân chúng đông đảo, trong bang hào kiệt cũng không phải là ít, nếu được liên thủ cùng với họ kháng Nguyên, đại sự sẽ dễ dàng hơn nhiều. Việc như thế này làm cách nào cùng họ bỏ hết hiềm xưa, biến địch thành bạn??.

Chưởng Bát long đầu đợi cho tiếng la ó của các bang chúng dịu xuống mới nói tiếp:

- Sử bang chủ trước nay vốn ở Liên Hoa sơn trang tĩnh dưỡng, đã lâu không bước chân vào giang hồ nhưng nay gặp chuyện đại sự không thể không đứng ra chủ trì. Cũng thật đúng là trời phù hộ cho chúng ta, trưởng lão tám túi Trần Hữu Lượng làm quen được với một đệ tử phái Võ Đương, biết được một tin hết sức quan trọng.

Y cao giọng gọi lớn:

- Trần trưởng lão.

Phía sau tường có người đáp lời:

- Có đây.

Hai người dắt tay nhau đi ra. Một người chừng độ ba mươi tuổi, thần tình láu lỉnh, chính là người Tạ Tốn đã tha mạng trên đảo Linh Xà. Còn người kia chừng hăm bảy, hăm tám, tướng mạo tuấn tú, chính là Tống Thanh Thư, con trai của Tống Viễn Kiều.

Khi Trương Vô Kỵ nghe nói ?Trần Hữu Lượng làm quen được với một đệ tử phái Võ Đương?, tin chắc chỉ là một đệ tử tầm thường nào đó của sư bá sư thúc, không ngờ lại là người số một trong đệ tử đời thứ ba, nghĩ thầm: ?Tống sư ca vì cớ gì lại dây dưa với đám ăn mày này??. Nhưng chàng lại nghĩ ngay: ?Phái Võ Đương và Cái Bang vốn cùng phe hiệp nghĩa, hai bên giao hảo cũng không có gì là lạ?.

Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư trước hết hành lễ với Sử Hỏa Long, sau đó quay sang vái chào Truyền Công, Chấp Pháp hai trưởng lão, Chưởng Bát, Chưởng Bổng hai long đầu, cuối cùng vòng tay ôm quyền chào tất cả bọn ăn mày ngồi ở dưới. Chưởng Bát long đầu nói:

- - Trần trưởng lão, ngươi đem mọi việc từ đầu chí cuối kể cho tất cả các anh em nghe.

Trần Hữu Lượng nắm tay Tống Thanh Thư nói:

- Tất cả các anh em, vị Tống Thanh Thư Tống thiếu hiệp đây, là công tử của Tống Viễn Kiều Tống đại hiệp, người kế thừa chức chưởng môn của phái Võ Đương trong tương lai còn vào ai khác được nữa. Gã ma giáo giáo chủ Trương Vô Kỵ có thể nói là sư đệ của Tống thiếu hiệp, cho nên mọi việc trong ma giáo, Tống thiếu hiệp rõ như lòng bàn tay. Mấy tháng trước đây, Tống thiếu hiệp có nói cho tôi hay, đại ma đầu của ma giáo là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đã về đảo Linh Xà ngoài biển Đông ...

Chấp Pháp trưởng lão liền xen vào:

- Người trong võ lâm hết sức ra công truy tìm Kim Mao Sư Vương, mấy chục năm nay không ai biết được y ở đâu, sao Tống thiếu hiệp đột nhiên biết được? Lão phu mong được thỉnh giáo.

Trương Vô Kỵ trong lòng vẫn mang một nỗi nghi vấn: ?Tử Sam Long Vương từ nơi cha con Võ Liệt mà biết được nơi ở của nghĩa phụ ta nên lên đón ông ta xuôi Nam về đảo Linh Xà, việc này cực kỳ kín đáo, làm sao người trong Cái Bang lại biết được, nên đã sai người lên trên đảo đoạt đao??. Việc đó chàng đã cùng Tạ Tốn bàn thảo mấy lần nhưng vẫn không sao tìm ra lý lẽ, bây giờ nghe Chấp Pháp trưởng lão hỏi đến nên càng chú tâm nghe.

Trần Hữu Lượng nói:

- May nhờ hồng phúc bang chủ, cái duyên đó thật cực kỳ khéo léo. Ở biển Đông có một người tên là Kim Hoa bà bà không hiểu vì sao biết được tung tích của Tạ Tốn. Lão bà bà này sinh trưởng trên biển cả, thuần thục việc tàu bè, nên đã tìm ra được hòn đảo hoang nơi Tạ Tốn ở miền cực bắc đón y về đảo Linh Xà. Trên đảo Linh Xà đó có cầm tù hai cha con tên là Võ Liệt, Võ Thanh Anh là truyền nhân của một phái võ học Đoàn Nam Đế nước Đại Lý. Hai cha con thừa cơ Kim Hoa bà bà trở về Trung Nguyên, giết kẻ cai ngục chạy trốn, đến Sơn Đông bị nguy nan may được Tống thiếu hiệp cứu thoát, nên nói cho nghe mọi chuyện, thành ra Tống thiếu hiệp mới biết được tung tích của Tạ Tốn.

Chấp Pháp trưởng lão gật đầu:

- Ồ, thì ra là thế.

Trong lòng Trương Vô Kỵ cũng tự nhủ thầm: ?Cha con Võ Liệt không phải là người đàng hoàng tử tế, năm xưa Chu Trường Linh và y hai người khổ tâm bày mưu kế để dụ cho ta nói ra chỗ ở của nghĩa phụ. Nhưng cũng may là Tử Sam Long Vương biết được chỗ ở của nghĩa phụ ta, đời nay nói đến bơi lội và thông thạo hàng hải, có lẽ ít ai hơn được Tử Sam Long Vương, nếu không phải do bà ta ra công, trên biển cả mênh mông, ai đủ bản lãnh để kiếm cho được Băng Hỏa đảo? Nếu như cha mẹ ta sống lại, cũng chưa chắc làm được, đủ biết trong chốn mờ mịt kia cũng có ý trời sắp đặt?.

Trần Hữu Lượng nói tiếp:

- Huynh đệ và Tống thiếu hiệp giao tình sống chết có nhau, được tin đó, lập tức cùng Quí, Trịnh hai trưởng lão tám túi, cùng năm đệ tử bảy túi, lập tức tìm đến đảo Linh Xà ý định bắt sống Tạ Tốn, đoạt lấy thanh đao Đồ Long hiến cấp bang chủ. Nào ngờ ma giáo đại đội nhân mã đã đến đảo Linh Xà rồi. Tuy bọn chúng tôi hết sức tử chiến nhưng ít không chống nổi số đông, Quí trưởng lão và bốn đệ tử bảy túi vì bang tuẫn nạn. Tình hình chiến đấu trên đảo Linh Xà thế nào, xin Trịnh trưởng lão bẩm lại với bang chủ.

?Gã Trịnh trưởng lão thân thể tàn phế kia liền ở trong đám người đứng dậy, kể lại Minh giáo và Cái Bang giao chiến thế nào trên đảo Linh Xà. Y không nói người của Cái Bang vây đánh Tạ Tốn, mà lại bảo là người của Minh giáo thật đông, bọn họ chỉ có mấy người nhưng anh dũng chống trả, sau cùng Trần Hữu Lượng xả thân vì đại nghĩa cứu tính mạng y. Giọng y thật là khẳng khái hiên ngang, nước bọt văng tung tóe, nói Tạ Tốn bị chính khí của Trần Hữu Lượng làm cho khuất phục, thành ra không dám động thủ.

Bọn ăn mày trong đại điện nghe thế hết sức khích động, cùng lớn tiếng reo hò. Truyền Công trưởng lão nói:

- - Trần huynh đệ trí dũng song toàn, lại có lòng nghĩa khí như thế, quả thực hiếm lắm thay.

Trần Hữu Lượng khom lưng đáp:

- Huynh đệ nhờ được bang chủ và các trưởng lão giáo huấn, vì đại nghĩa của bản bang thì dẫu nhảy vào nước sôi, xông vào lửa cũng không dám từ nan. Chuyện nhỏ nhặt đó, lại được Trịnh trưởng lão nhọc lòng khen ngợi, khiến cho huynh đệ cảm thấy lòng không an.

Quần cái thấy y khiêm tốn như thế, không nhận là công của mình, lại càng hoan hô không ngớt. Trương Vô Kỵ ngồi trên cành cây càng nghe càng bực, nghĩ thầm gã này thật là hèn hạ đáng khinh, việc sờ sờ rõ ràng mãi hữu cầu sinh, vậy mà lại biến thành trượng nghĩa cứu người. Có điều y khéo léo che đậy, khiến Trịnh trưởng lão cũng không thấy một chút sơ hở nào, quả thực là một kẻ đại gian hùng. Chàng nghĩ đến đây bỗng thấy trong lòng chua xót: ?Ngụy kế của tên gian tặc này, lúc đó chính nghĩa phụ cũng bị y đánh lừa, ta cũng bị y đánh lừa, chỉ không che dấu được Tử Sam Long Vương và Triệu cô nương thôi, Triệu cô nương thông minh đa tài, vậy mà nhân phẩm lại ...?

Chấp Pháp trưởng lão đứng lên lạnh lùng nói:

- Biết bao nhiêu anh em trong bản bang bị ma giáo giết hại, món huyết hải thâm cừu này, làm sao chúng ta có thể bỏ qua cho được?

Bọn ăn mày lớn tiếng kêu gào:

- Chúng ta nhất định phải báo thù cho Quí trưởng lão.

- San bằng Quang Minh Đính, quét sạch quần ma!

- Xẻ thây Trương Vô Kỵ, xẻ thây Tạ Tốn!

- Bản bang và ma giáo quyết không đội trời chung, gặp tên nào giết tên nấy!

- Xin bang chủ mau mau ra lệnh, tất cả đệ tử Cái Bang cùng xông lên tiêu diệt ma giáo!

Chấp Pháp trưởng lão quay sang nói với Sử Hỏa Long:

- Bang chủ, việc báo thù rửa hận, phải làm thế nào xin bang chủ chỉ thị.

Sử Hỏa Long nhíu mày:

- Việc này ư, là việc đại sự của bản bang, hừ hừ, mình phải bàn tính lâu dài. Ngươi ra lệnh cho các đệ tử từ bảy túi trở xuống tạm thời lui ra, bọn mình thảo luận cho kỹ càng.

Chấp Pháp trưởng lão đáp lời:

- Vâng.

Y quay sang quát lớn:

- Phụng lệnh bang chủ: đệ tử từ bảy túi trở xuống, lui ra khỏi đại điện, chờ ở ngoài miếu.

Bọn ăn mày liều cả tiếng đáp lời, quay sang bọn Sử Hỏa Long khom mình hành lễ, rồi cùng ra khỏi cửa điện. Trong đại điện lúc này chỉ còn các thủ lãnh từ tám túi trở lên mà thôi. Trần Hữu Lượng tiến lên một bước, cúi mình nói:

- Khải bẩm bang chủ, vị Tống Thanh Thư Tống huynh đệ này quả cũng có chút công lao đối với bản bang, nếu như bang chủ thương tình, cho y được gia nhập Cái Bang, với địa vị thân phận của y, sau này thể nào cũng lập được công lớn đối với bản bang.

Tống Thanh Thư nói:

- Cái đó, dường như ... không ...

Y vừa nói tới chữ ?không?, đôi mắt sắc như dao của Trần Hữu Lượng liền nhìn trừng trừng vào mặt y. Tống Thanh Thư thấy bộ dạng đó, lập tức cúi đầu, không dám nói gì thêm. Sử Hỏa Long nói:

- Thế thì hay lắm. Tống Thanh Thư đầu nhập bang chúng ta, tạm thời giữ chức vị đệ tử sáu túi, dưới quyền thống suất của trưởng lão tám túi Trần Hữu Lượng. Vậy phải tuân thủ bang qui của Cái Bang, hết lòng hết sức phục vụ, có công được thưởng, sai lầm bị tội.

Mắt Tống Thanh Thư lóe lên một vẻ oán hận, nhưng vội vàng hết sức khắc chế, tiến lên quì xuống lạy tạ Sử Hỏa Long nói:

- Đệ tử Tống Thanh Thư, khấu đầu tham kiến bang chủ. Đa tạ bang chủ khai ân, ban cho chức vụ đệ tử sáu túi.

Sau đó y tiếp tục ra mắt các trưởng lão khác. Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Tống huynh đệ, ngươi đã gia nhập bản bang, từ nay phải chịu tuân theo bang qui ước thúc. Ngày sau dù ngươi có lên làm chưởng môn phái Võ Đương, nhưng vẫn phải tuân theo hiệu lệnh của bản bang. Chuyện đó ngươi biết rồi chứ?

Giọng nói của y cực kỳ nghiêm nghị, Tống Thanh Thư nói:

- Vâng.

Chấp Pháp trưởng lão nói tiếp:

- Bản bang và phái Võ Đương tuy cũng đều là hiệp nghĩa, nhưng dẫu sao hai bên cũng khác đường. Chức chưởng môn phái Võ Đương mai sau thể nào chả vào tay ngươi, cớ gì lại cam tâm gia nhập bản bang là sao? Việc này phải nói cho rõ ràng.

Tống Thanh Thư liếc Trần Hữu Lượng một cái, nói:

- Trần trưởng lão đãi đệ tử có ân nghĩa rất lớn, đệ tử kính phục con người của y nên cam tâm theo hầu dưới trướng.

Trần Hữu Lượng cười nói:

- Nơi đây cũng chẳng có ai người ngoài, có nói ra cũng chẳng sao cả. Chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái chết đi, người kế nhiệm là một cô gái xinh đẹp, tên là Chu Chỉ Nhược. Cô nương này có tình thanh mai trúc mã với Tống huynh đệ, vốn đã có ước định hôn nhân, ngờ đâu lại bị đại ma đầu của ma giáo là Trương Vô Kỵ ép uổng phải theo y đưa ra hải ngoại. Tống huynh đệ phẫn uất không chịu nổi, mới cầu cứu đến đệ tử. Huynh đệ bèn vỗ ngực khẳng khái bảo đảm sẽ giúp y đoạt lại cô gái họ Chu.

Trương Vô Kỵ càng nghe càng tức lộn ruột, nghĩ thầm: ?Tên này nói năng đặt điều, làm gì có chuyện đó bao giờ??. Chàng nhịn không nổi đã toan nhảy vào đại điện, nói rõ thị phi, nhưng sau cùng cũng cố dằn cơn giận, tiếp tục nghe thêm.

Sử Hỏa Long cười ha hả nói:

- Xưa nay anh hùng vốn khó mà qua được cửa mỹ nhân, cái đó cũng không có gì là lạ. Một người là chưởng môn Võ Đương, một người là chưởng môn Nga Mi, không những môn đương hộ đối, mà lại trai tài gái sắc, hai bên thật xứng đôi vừa lứa.

Chấp Pháp trưởng lão hỏi thêm:

- Nếu Tống huynh đệ gặp cảnh trớ trêu đó, sao không nhờ Trương chân nhân và Tống đại hiệp giải quyết?

Trần Hữu Lượng nói:

- Tống huynh đệ có nói rằng, tên tiểu tặc Trương Vô Kỵ kia vốn là con trai của Trương Thúy Sơn phái Võ Đương. Trương Tam Phong bình sinh rất thương yêu Trương Thúy Sơn, nên gần đây phái Võ Đương dường như có ý bắt tay với ma giáo, Trương Tam Phong và Tống đại hiệp không muốn gây chuyện với họ. Xem ra lúc này võ lâm Trung Nguyên chỉ còn bản bang là đủ sức kháng cự ngang tay với ma giáo mà thôi.

Chấp Pháp trưởng lão gật đầu:

- Thì ra là thế, chỉ cần diệt được ma giáo, giết quách tiểu tử Trương Vô Kỵ, tâm nguyện của Tống huynh đệ làm gì mà chẳng xong.

Trương Vô Kỵ ẩn trong tàn cây, nghĩ lại trước đây tại sa mạc bên Tây Vực, trên đỉnh Quang Minh, điệu bộ Tống Thanh Thư đối với Chu Chỉ Nhược quả thật khác lạ, bây giờ mới thấy rõ ràng y có tình ý với nàng ta, trong lòng hơi ngạc nhiên: ?Đệ tử Võ Đương muốn gia nhập Cái Bang, không phải là không được nhưng trước hết phải bẩm rõ cho thái sư phụ và Tống sư bá biết đã. Y vì một người con gái mà phản bội sư môn, phản bội phụ thân, nhân phẩm chẳng ư thấp kém lắm sao? Huống chi Chỉ Nhược đối với ta một tấm chân tình, Tống Thanh Thư dẫu có được Cái Bang giúp đỡ, cũng đâu dễ gì ép nàng thuận theo cho được? Tống đại ca tên tuổi sớm nổi trên giang hồ, đáng được gọi là anh tài đời sau của phái Võ Đương, cớ sao hồ đồ như vậy??.

Trần Hữu Lượng nói tiếp:

- Khải bẩm bang chủ, đệ tử ở vùng phụ cận Đại Đô có bắt được một nhân vật trọng yếu trong ma giáo, tên này có liên quan đến đại nghiệp của bản bang, xin bang chủ phát lạc.

Sử Hỏa Long vui mừng nói:

- Mau dẫn lên đây.

Trần Hữu Lượng vỗ tay ba lần, nói:

- Đem tên ma đầu đó lên.

Từ sau điện đi lên bốn tên bang chúng Cái Bang, tay cầm binh khí, áp giải một người bị trói quặt tay ra sau lưng. Trương Vô Kỵ nhìn thấy người đó, thấy thanh niên này độ chừng hai mươi, tướng mạo rất quen thuộc, chàng nhớ đã từng gặp tại đại hội Minh giáo tại Hồ Điệp Cốc nhưng không nhớ được họ tên. Người đó mặt hết sức căm phẫn, đi ngang qua chỗ Trần Hữu Lượng đột nhiên há mồm, nhổ toẹt một bãi nước bọt vào mặt. Trần Hữu Lượng nghiêng người qua né tránh, tát trái một cái, trúng ngay mặt người nọ, mặt y liền sưng vù lên ngay. Những đệ tử Cái Bang áp giải ở đằng sau liền xô vào lưng, quát lớn:

- Gặp bang chủ, mau quì xuống, khấu đầu.

Người đó lại khạc một tiếng, nhổ toẹt một bãi đờm nhắm ngay mặt Sử Hỏa Long. Người đó lúc này ở ngay cạnh Sử Hỏa Long, bãi đờm đó kình lực rất mạnh, Sử Hỏa Long vội hụp xuống nhưng không tránh kịp, nghe bộp một tiếng, trúng ngay giữa trán. Trần Hữu Lượng liền đá quét qua, người đó ngã liền. Y lập tức sấn tới che trước mặt Sử Hỏa Long, chỉ vào mặt thanh niên kia quát lớn:

- Cuồng đồ lớn mật, ngươi không muốn sống hay sao?

Người kia chửi lại:

- Ông đây lọt vào tay chúng mày, vốn không mong sống mà trở về nữa rồi.

Nhân dịp Trần Hữu Lượng tiến lên che ngang, Sử Hỏa Long liền đưa tay chùi mặt. Trần Hữu Lượng lùi lại hai bước nói:

- Khải bẩm bang chủ, tên tiểu tử này là cao thủ hạng nhất trong ma giáo, võ công xem ra còn cao hơn cả tứ đại pháp vương, mình không thể coi thường.

Trương Vô Kỵ nghe những lời đó, thoạt đầu hơi ngạc nhiên nhưng hiểu ngay, Trần Hữu Lượng cố ý thổi phồng võ công người này chỉ cốt chữa thẹn cho bang chủ. Có điều Sử Hỏa Long là bang chủ Cái Bang, vậy mà không tránh nổi bãi đờm đó, quả thực không hợp tình chút nào, mà khi y bị nhục nhã như vậy, lại không tỏ vẻ gì tức giận, trái lại có vẻ luống cuống kinh hãi. Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Trần huynh đệ, người này là ai?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Y tên là Hàn Lâm Nhi, con trai của Hàn Sơn Đồng.

Trương Vô Kỵ thầm gật đầu: ?Đúng rồi, hôm ở đại hội nơi Hồ Điệp Cốc, y luôn luôn đứng ở đằng sau cha, không nói chuyện với ta, thành thử mình không nghĩ ra tên của y được?. Chấp Pháp trưởng lão vui mừng nói:

- À, thì ra y là con của Hàn Sơn Đồng. Trần huynh đệ, công lao của ngươi to lắm đó. Khải bẩm bang chủ: Hàn Sơn Đồng mấy năm nay liên tiếp đánh bại quân Nguyên, uy danh lừng lẫy, bọn đại tướng dưới tay y như Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân đều là những nhân vật lợi hại trong ma giáo. Bọn ta bắt được tên tiểu tử này làm con tin, lo gì Hàn Sơn Đồng không nghe lệnh của bản bang.

Hàn Lâm Nhi liền ngoạc mồm chửi:

- Con mẹ chúng bay đừng mơ tưởng hão. Cha ta là bậc anh hùng hào kiệt, lẽ nào để bọn vô sỉ chúng bay uy hiếp? Cha ta chỉ nghe lệnh một mình Trương giáo chủ mà thôi. Bọn Cái Bang chúng bay vọng tưởng tranh hùng cùng Minh giáo, thật không biết lượng sức mình. Còn tên bang chủ thối tha nhà ngươi, không đáng xách dép cho giáo chủ chúng ta.

Trần Hữu Lượng cười hì hì nói:

- Hàn huynh đệ, chú em nói Trương giáo chủ của quí giáo anh hùng đến thế, bọn chúng ta thật hết sức ngưỡng mộ, mong được gặp lão nhân gia một lần. Vậy chú em đưa bọn ta đến giới thiệu được chăng?

Hàn Lâm Nhi nói:

- Trương giáo chủ còn phải đảm đương đại sự, đến ngay huynh đệ trong bản giáo cũng chẳng dễ gì được gặp, đâu có rỗi hơi mà gặp các ngươi?

Trần Hữu Lượng cười nói:

- Trên giang hồ ai ai cũng nói là Trương Vô Kỵ đã bị quân Nguyên bắt được ở Đại Đô, chém đầu làm gương rồi đem thủ cấp đi bêu ở khắp nơi, sao ngươi còn huênh hoang khoác lác được nữa?

Hàn Lâm Nhi nổi sùng, rống lên một tiếng, quát lớn:

- Ngươi nói thối bỏ mẹ, Thát tử bắt được Trương giáo chủ hồi nào? Dẫu có thiên quân vạn mã vây quanh, giáo chủ chúng ta cũng ra vào như chơi. Trương giáo chủ có đến Đại Đô thật, nhưng là đi đến cứu các nhân vật võ lâm sáu đại môn phái ra, làm chó gì có chuyện bêu đầu làm gương? Cái mồm ngươi đừng có ăn mắm ăn ròi nói láo.

Trần Hữu Lượng không tức giận, vẫn cười khì nói tiếp:

- Thì trên giang hồ người ta vẫn đồn thế, bọn ta lẽ nào không tin. Cả nửa năm nay chỉ nghe nói những người trong Minh giáo như Hàn Sơn Đồng, Từ Thọ Huy, rồi nào là Chu Nguyên Chương, hòa thượng Bành Oánh Ngọc, nhưng có ai nghe đến Trương Vô Kỵ nào đâu? Thành ra chắc chắn y chết rồi không còn nghi ngờ gì nữa.

Hàn Lâm Nhi mặt đỏ gay, gân xanh nổi cả trên trán, lớn tiếng nói:

- Cha ta và bọn Từ Thọ Huy đều nghe lệnh giáo chủ mà hành sự, sao có thể sánh ngang vai với Trương giáo chủ được?

Trần Hữu Lượng chép miệng thản nhiên nói:

- Gã Trương Vô Kỵ kia võ công thì kể cũng khá, nhưng lại có tướng chết non, có người lấy số cho y, nói sống không qua được đầu năm nay ...

Ngay lúc đó, đột nhiên một cành nơi cây cổ bách trước miếu hơi rung động, trong điện mọi người không ai hay biết, nhưng Trương Vô Kỵ đã nghe thấy mấy tiếng thở từ nơi cành cây vọng ra, nhưng người kia lập tức nén xuống, giữ hơi lại liền. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Thì ra nơi cây cổ bách có ai ẩn náu trong đó. Người này đến trước ta, vậy mà lâu nay ta không phát giác, võ công của y không phải tầm thường?. Chàng chăm chú nhìn qua cây bách, trong đám tàn cây rậm rạp, thấy có một dải áo xanh. Người kia lẩn mình thật khéo, lá cây và áo cùng màu, nếu không phải Trương Vô Kỵ mắt thật tinh thực khó mà nhìn thấy được.

Chỉ nghe Hàn Lâm Nhi giận dữ nói:

- Trương giáo chủ tâm địa nhân hậu, trời cao tất phù hộ cho ông ta. Ông ta tuổi còn trẻ, có sống thêm cả trăm tuổi cũng chưa thấm gì.

Trần Hữu Lượng thở dài:

- Thế nhưng trên đời này biết thế nào mà lường. Nghe nói ông ta bị gian nhân hãm hại, nên bị triều đình bắt được giết mất rồi. Nói đúng ra thì cũng phải thôi, ai đã gặp Trương Vô Kỵ cũng đều nói y không thể nào qua được ba tám hai mươi tư tuổi...

Bỗng thấy từ cây bách một bóng xanh thấp thoáng, một người đã nhảy xuống đất, quát lên:

- Trương Vô Kỵ ở đây, ai bảo ta chết non đâu nào?

Nói chưa dứt câu, thân hình đã vọt vào trong điện. Chưởng Bổng long đầu đứng ở cửa điện liền vung hai tay ra chộp vào sau gáy y, người kia nhẹ nhàng nghiêng người tránh được. Chỉ thấy y áo xanh, mũ vuông, thần thái phiêu dật, mặt trắng như ngọc, mắt trong như nước, chính là Triệu Mẫn ăn mặc giả trai. Trương Vô Kỵ thấy Triệu Mẫn ra mặt, trong lòng chấn động, vừa kinh hoảng vừa giận dữ, vừa thương nhớ vừa vui mừng, không khỏi ?Ồ? lên một tiếng. Tuy nhiên bọn ăn mày trong đại điện đang hết sức đề phòng Triệu Mẫn, nên không ai nghe thấy tiếng chàng thảng thốt kêu lên.

Người trong Cái Bang không ai biết mặt Trương Vô Kỵ, chỉ biết là giáo chủ Minh giáo là một thanh niên tuổi chừng đôi mươi, võ công cực kỳ cao cường, thấy Triệu Mẫn nhẹ nhàng tránh được một trảo của Chưởng Bổng trưởng lão, quả thực đúng là cao thủ hạng nhất, nên ai cũng nghĩ đúng là giáo chủ Minh giáo đến thực rồi nên đều rúng động.

Thế nhưng Trần Hữu Lượng thấy diện mạo người này quá xinh đẹp, tuổi lại trẻ, trong giọng nói có vẻ kiều mị, so với hình mạo người trên giang hồ đồn đãi về Trương Vô Kỵ xem ra không giống, nên quát lên:

- Trương Vô Kỵ chết rồi, sao lại có kẻ nào giả mạo thò ra đây?

Triệu Mẫn giận dữ đáp:

- Trương Vô Kỵ sống sờ sờ ra, sao ngươi cứ mở miệng nguyền rủa là thế nào? Trương Vô Kỵ hồng phúc tề thiên, trường mệnh bách tuế, dẫu cho các ngươi có chết sạch rồi, y cũng còn sống thêm tám chục năm nữa.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói mấy câu đó giọng có vẻ buồn buồn, chắc là nghĩ đến việc bỏ rơi mình trên hoang đảo, lương tâm không khỏi cắn rứt, nhưng lại nghĩ ngay: ?Thứ người tàn nhẫn vô tình kia, làm gì còn có lương tâm mà bảo cắn rứt? Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, sao lòng ngươi cứ day dứt không quên, lúc nào cũng nghĩ điều tốt cho nàng là thế nào??.

Trần Hữu Lượng nói:

- Ngươi đích thực là ai?

Triệu Mẫn đáp:

- Ta là giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ. Sao ngươi dám bắt giữ thủ hạ anh em của ta, mau mau thả ra, có chuyện gì thì thanh toán với bản nhân được rồi.

Đột nhiên bên cạnh một người cười khẩy nói:

- Triệu Mẫn cô nương, người khác không biết cô, còn Tống Thanh Thư này không lẽ không biết? Khải bẩm bang chủ: cô gái này là con gái của Nhữ Dương Vương. Dưới tay cô ta rất nhiều cao thủ, cần phải đề phòng.

Chấp Pháp trưởng lão liền chúm môi huýt một tiếng, quát lên:

- Chưởng Bổng trưởng lão, ngươi dẫn anh em ra ngoài miếu nghinh địch, phòng địch nhân tấn công vào.

Chưởng Bổng long đầu đáp lời chạy ra, chỉ giây lát đông tây nam bắc bốn phía chỗ nào cũng có tiếng của bang chúng Cái Bang kêu la om xòm. Triệu Mẫn thấy tình hình như thế mặt hơi biến sắc, hai tay vỗ một cái, từ đầu tường nhảy xuống hai người, chính là Huyền Minh nhị lão Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông. Chấp Pháp trưởng lão quát lớn:

- Bắt chúng nó.

Lập tức bốn tên đệ tử bảy túi liền xông lên chia ra vây đánh Lộc Hạc hai người. Huyền Minh song lão võ công cực cao, chỉ trong ba chiêu, bốn tên Cái Bang bảy túi đều bị thương. Người râu tóc bạc phơ Truyền Công trưởng lão liền đứng lên, vù một chưởng đánh thẳng vào Hạc Bút Ông, tiếng gió phần phật thật là uy mãnh. Hạc Bút Ông liền trả lại một chiêu Huyền Minh thần chưởng. Chỉ nghe bình một tiếng, hai chưởng đụng nhau. Trao đổi đến chưởng thứ ba, Truyền Công trưởng lão xem chừng núng thế.

Phía bên kia Lộc Trượng Khách múa cây trượng sừng hươu, đánh với Chấp Pháp trưởng lão và Chưởng Bát long đầu hai người, nhất thời chưa phân cao thấp. Chưởng Bổng long đầu thấy Truyền Công trưởng lão mặt đỏ gay, phải lùi dần từng bước, không khỏi ngạc nhiên, nghĩ thầm Truyền Công trưởng lão công lực thâm hậu, là cao thủ số một của bản bang, sao lại không địch nổi lão già này? Khi thấy ông ta trao đổi đến chưởng thứ năm, tiếng thở hồng hộc, bộ râu trắng bay phất phới, xem ra đã đến nước cùng, dẫu biết ông ta xưa nay đối địch không muốn người khác tiếp tay, nhưng ở vào tình trạng này, không thể để ông ta chết dưới tay kẻ địch, nên giơ thiết bổng lên, nhắm ngay chân Hạc Bút Ông vụt ngang một cái.

Ngay khi Huyền Minh nhị lão vừa đến, Triệu Mẫn đã toan rút lui nhưng lại bị Trần Hữu Lượng rút trường kiếm ra chặn lại. Triệu Mẫn khi ở chùa Vạn An đã học được rất nhiều tinh túy của sáu đại môn phái, liền vung tay đâm luôn ra ba kiếm, một chiêu Hoa Sơn kiếm pháp, một chiêu Côn Lôn kiếm pháp, còn chiêu thứ ba là Không Động kiếm pháp. Chiêu thứ tư nàng sử dụng là Kim Đính cửu thức của phái Nga Mi. Trần Hữu Lượng kinh hãi, không cách gì có thể chống đỡ kịp, kiếm của Triệu Mẫn liền vòng lại đâm thẳng vào ngực y. Bỗng nghe keng một tiếng, từ bên trái một thanh kiếm vung ra gạt thanh kiếm của nàng ra ngoài, người xuất chiêu chính là Tống Thanh Thư.

Trong đại điện mọi người giao đấu với nhau, Trương Vô Kỵ ngồi trên cây tùng nhìn thấy rõ ràng từng chiêu một. Chỉ thấy Tống Thanh Thư thi triển kiếm pháp Võ Đương, vừa kín đáo, vừa độc địa, quả thực đã được chân truyền của Tống Viễn Kiều. Trần Hữu Lượng từ bên hông liền tấn công vào, Triệu Mẫn tuy mới tập luyện nhiều tuyệt chiêu nhưng dẫu sao cũng hỗn tạp không tinh thuần, huống chi lại một địch hai, thành thử lâm vào tình trạng đỡ gạt thì nhiều mà tấn công thì ít.

Trương Vô Kỵ sốt ruột, lại cảm thấy hơi lạ lùng: ?Sao nàng ta lại chỉ sử dụng một thanh kiếm tầm thường là sao? Nếu rút Ỷ Thiên kiếm ra thì binh khí của đối phương ắt gãy ngay, ra khỏi trùng vi một cách dễ dàng?. Thế nhưng nhìn nàng áo quần mỏng manh, thân hình mảnh dẻ, lưng không thể nào có dấu thanh kiếm Ỷ Thiên được. Trương Vô Kỵ lo lắng một hồi, không khỏi tự trách mình: ?Trương Vô Kỵ, con tiểu yêu nữ này là hung thủ giết chết biểu muội ngươi, ngươi lại lo lắng cho nàng ta là sao? Thế chẳng hóa ra đối với biểu muội chẳng ra gì, mà còn chẳng coi nghĩa phụ và Chỉ Nhược vào đâu nữa?.

Hai bên đấu được một lúc, Cái Bang lại có thêm mấy cao thủ khác xông vào, còn Triệu Mẫn thì không thấy có thêm thủ hạ tới giúp. Lộc Trượng Khách thấy tình hình không xong, kêu lên:

- Quận chúa nương nương, sư đệ, chúng ta lui ra ngoài sân, thừa cơ bỏ chạy.

Triệu Mẫn nói:

- Hay lắm. Tên họ Trần này hủy báng Trương công tử, nói chàng chết non chết chém, ta không thể tha y được, các vị trừng trị y một mẻ cho đích đáng.

Huyền Minh nhị lão cùng nói:

- Tuân mệnh. Xin quận chúa lùi ra trước, tên tiểu tử đó cứ để cho chúng tôi lo.

Triệu Mẫn lại nói:

- Gã Hàn Lâm Nhi đối với Trương công tử hết lòng trung nghĩa, các ngươi tìm cách cứu y ra.

Lộc Trượng Khách đáp:

- Xin quận chúa cứ đi trước một bước, việc cứu người, anh em chúng tôi tùy cơ mà làm.

Ba người trong khi cường địch vây đánh, nói chuyện ra đi và cứu người, thật chẳng coi đối phương vào đâu. Trong đại điện càng lúc đánh nhau càng hăng, bang chủ Cái Bang Sử Hỏa Long đứng một góc, trước sau không nói một lời. Truyền Công, Chấp Pháp hai người nghe Triệu Mẫn và Huyền Minh nhị lão đối đáp, lập tức hạ lệnh cho thuộc hạ chặn các nẻo đường.

Đột nhiên Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông đánh giạt đối phương ra một bên, xông tới phía Sử Hỏa Long, thân pháp cực kỳ thần tốc, xem ra Sử Hỏa Long khó mà chống đỡ. Nào ngờ khi Triệu Mẫn và nhị lão đối đáp, Trần Hữu Lượng đã tính tới chuyện họ sẽ lấy tiến làm thoái nên đi trước một nước, đã vòng qua đứng bên cạnh Sử Hỏa Long. Chưởng lực của Huyền Minh nhị lão chưa đến, Trần Hữu Lượng đã đẩy vào vai Sử Hỏa Long, xô y vào phía sau tượng Phật Di Lặc. Huyền Minh nhị lão đánh ra, nghe ầm một tiếng thật lớn, pho tượng vỡ tan tành lớp đất bên ngoài, ngả nghiêng muốn đổ.

?Hạc Bút Ông tiến lên thêm một bước, đánh thêm hai chưởng nữa, một nửa trên của pho tượng vĩ đại đó liền ngã xuống. Bọn ăn mày kinh hoàng kêu la om xòm, nhảy nhót tránh né. Triệu Mẫn nhân cơ hội đang đại loạn, nhảy luôn ra ngoài sân. Tống Thanh Thư và Chưởng Bổng long đầu một kiếm một gậy cùng tung ra, đánh đuổi theo lưng. Ra đến cửa miếu, lại thêm ba chiếc côn tạt vào đều nhắm vào ngang chân Triệu Mẫn mà đánh. Triệu Mẫn vừa phải tránh cả trường kiếm của Tống Thanh Thư lẫn gậy sắt của Chưởng Bổng long đầu, lại phải tránh cả ba cây gậy đập tới dưới chân, nhưng chỉ thoát được hai thanh mà không né được cây gậy thứ ba, thấy bắp chân đau nhói, đã bị quất trúng rồi, đứng không vững, ngã bổ nhào về trước. Tống Thanh Thư liền quay ngược cán kiếm lại, gõ luôn vào sau ót Triệu Mẫn, toan đánh nàng bất tỉnh để tiện bề bắt sống.

Cán kiếm chỉ còn cách đầu nàng chừng nửa thước, ngờ đâu cây gậy sắt trong tay Chưởng Bổng long đầu liền đưa ra, gạt ngay thanh trường kiếm của Tống Thanh Thư chệch ra, rồi một bóng người bay vụt lên, nhảy vọt qua tường ra ngoài. Tống Thanh Thư quay đầu lại hỏi:

- Sao mình lại tha cho cô ta đào tẩu?

Chưởng Bổng long đầu giận dữ nói:

- Sao ngươi lại chặn bổng của ta là thế nào?

Tống Thanh Thư đáp:

- Chính ông lấy bổng hất cán kiếm của tôi, còn nói ...

Chưởng Bổng long đầu quát lên:

- Nói nhiều vô ích, mau đuổi theo.

Hai người cùng nhảy qua tường, thấy nơi góc tường nằm gục một tên đệ tử bảy túi, xương đùi gãy lìa, không dậy nổi. Chưởng Bổng long đầu hỏi:

- Con yêu nữ đó chạy về hướng nào?

Bảy tên đệ tử Cái Bang đứng gác bên ngoài cùng đáp:

- Không có ai cả, chẳng thấy người nào hết.

Chưởng Bổng long đầu giận dữ nói:

- Rõ ràng có người từ trong tường nhảy ra ngoài, mắt chúng bay mù hết cả hay sao?

Một tên đệ tử sáu túi đưa tay đỡ tên đệ tử bảy túi gãy chân lên nói:

- Chỉ thấy có vị đại ca này nhảy tường ra, ngoài ra không còn một ai khác.

Chưởng Bổng long đầu gãi đầu gãi tai, quay sang hỏi tên đệ tử bảy túi:

- Ngươi tại sao lại nhảy qua tường ra ngoài làm gì?

Tên đệ tử bảy túi mếu máo đáp:

- Đệ tử ... đệ tử bị người ta chộp cổ quăng ra ngoài đấy chứ. Con yêu nữ đó thủ pháp thật là quái dị.

Chưởng Bổng long đầu quay sang hầm hầm nhìn Tống Thanh Thư quát lớn:

- Vừa rồi ngươi lấy cán kiếm gạt bổng ta ra là có ý gì? Ngươi vừa mới gia nhập bản bang đã giở trò xanh vỏ đỏ lòng là sao?

Tống Thanh Thư vừa sợ vừa tức nói:

- Đệ tử vừa dùng cán kiếm gõ con yêu nữ kia, long đầu đại ca liền dùng bổng gạt kiếm của đệ tử ra, thế là con yêu nữ chạy mất.

Chưởng Bổng long đầu giận quá nói:

- Làm sao có chuyện đó được. Ta gạt kiếm ngươi ra làm cái gì? Ta ở trong bang mấy chục năm nay, thân cư cao vị Chưởng Bổng long đầu, không lẽ lại ra tay giúp người ngoài? Ta hỏi ngươi lần nữa, sao ngươi không dùng mũi kiếm đâm y thị, mà lại xoay cán kiếm, giả vờ gõ xuống là sao? Hừ hừ, mắt ta đã hoa đâu, làm sao đánh lừa ta được.

Tống Thanh Thư ở trong phái Võ Đương, tuy là một đệ tử trẻ tuổi thuộc đời thứ ba, nhưng môn hạ Võ Đương ai ai cũng biết y là chưởng môn trong tương lai, thành thử ngay cả Du Liên Châu, Trương Tùng Khê những vị sư thúc cũng hết sức nể nang, trước nay chưa nói nặng y nửa câu bao giờ. Y cao ngạo thành thói, tuy biết Chưởng Bổng long đầu trong bang chức vị cao hơn một tên đệ tử mới gia nhập như y nhiều, nhưng việc này rõ ràng bên kia trái lè, làm sao có thể nhịn chịu tiếng oan nên liền nói:

- Bốn chữ ?xanh vỏ đỏ lòng? không phải gặp ai cũng nói được. Long đầu đại ca trách mắng như thế phải có người làm chứng. Đệ tử rõ ràng vừa gõ cán kiếm xuống, đại ca lấy bổng gạt qua, ban ngày ban mặt chỗ đông người, không lẽ không ai trông thấy.

Chưởng Bổng long đầu nghe y nói thế, có ý như đổ cho mình ?xanh vỏ đỏ lòng?, thả Triệu Mẫn chạy thoát, y tính vốn nóng như lửa, liền quát lên:

- Thằng nhãi này không biết kính trọng bề trên, chắc ngươi ỷ vào thanh thế của phái Võ Đương phải không?

Nói xong nhắm đầu Tống Thanh Thư đập ngay một gậy, trong cơn nóng giận, kình lực cực kỳ cương mãnh. Tống Thanh Thư tức quá không nhịn nổi, giơ trường kiếm lên gạt ra. Kiếm bổng chạm nhau, nghe choang một tiếng, tóe ra mấy đốm lửa. Tống Thanh Thư thấy hổ khẩu ngâm ngẩm đau, Chưởng Bổng long đầu quát lớn:

- Họ Tống kia, ngươi dám phạm thượng tác loạn, có phải là do kẻ địch phái đến bản bang để nằm vùng chăng?

Vừa nói vừa đập luôn một gậy nữa. Từ cửa miếu một người xông vào, giơ kiếm lên đẩy lệch thiết bổng ra ngoài nói:

- Long đầu đại ca, xin đừng nổi nóng.

Người đó chính là trưởng lão tám túi Trần Hữu Lượng. Y hỏi tiếp:

- Con yêu nữ Triệu Mẫn đâu rồi?

Chưởng Bổng long đầu thở hồng hộc chỉ vào Tống Thanh Thư nói:

- Chính nó thả ra chứ ai.

Tống Thanh Thư vội nói:

- Không đâu, chính là long đầu đại ca thả đó.

Hai người đang tranh cãi, Huyền Minh nhị lão đã nhảy từ miếu ra, nhìn quanh quất không thấy Triệu Mẫn, biết nàng đã chạy thoát rồi, cùng phá lên cười ha hả, bốn chưởng tung ra, đánh gục luôn bốn tên đệ tử Cái Bang. Đến khi Truyền Công trưởng lão và Chấp Pháp trưởng lão cả bọn chạy ra đuổi đánh, tiếng cười của hai người đã cách xa hàng chục trượng, không cách gì theo kịp.

Thì ra khi Trương Vô Kỵ thấy Tống Thanh Thư xoay cán kiếm lại đánh vào sau ót Triệu Mẫn, cái đánh đó chưa biết nặng nhẹ ra sao, nhẹ thì mê man bất tỉnh, nặng thì đánh nàng chết ngay tại chỗ, không còn kịp suy nghĩ gì thêm, từ trên cây cổ tùng nhảy xuống, sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thần công, ở phía sau đẩy vào cây gậy của Chưởng Bổng long đầu tạt qua gạt trường kiếm của Tống Thanh Thư. Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp của chàng vốn dĩ đã luyện đến mức thần diệu vô cùng, mấy tháng qua trên hoang đảo thì giờ nhàn rỗi, lại nghiên cứu thánh hỏa lệnh bí quyết theo bản dịch của Tiểu Siêu, hai bên kết hợp lại, còn cao minh gấp mười võ công kỳ bí của ba sứ giả Ba Tư.

Đến lúc này chàng đem ra sử dụng, tài nghệ cao cường như Chưởng Bổng long đầu và Tống Thanh Thư cao siêu là thế mà cũng không cách gì nhìn ra được. Chưởng Bổng long đầu chỉ nghĩ là Tống Thanh Thư đưa kiếm gạt gậy mình ra, còn Tống Thanh Thư thì thấy rõ ràng Chưởng Bổng long đầu lấy gậy phang vào kiếm của mình. Trương Vô Kỵ nhân dịp hai người còn đang kinh ngạc, tay trái vung ra chộp ngay một tên đệ tử bảy túi, ném luôn ra ngoài. Chưởng Bổng long đầu và Tống Thanh Thư thấy bóng người đó vượt qua tường, tưởng là Triệu Mẫn đã nhảy qua bỏ chạy rồi, cùng đuổi theo, Trương Vô Kỵ liền ôm luôn Triệu Mẫn nhảy lên mái nhà.

Ban ngày ban mặt vốn dĩ khó có thể che dấu hình tích, nhưng bọn ăn mày ào ào như một đàn ong đang chạy theo Chưởng Bổng long đầu và Tống Thanh Thư ra ngoài cửa miếu. Người võ công cao thì đang vây đánh Huyền Minh nhị lão, võ công hơi kém thì đang lo chạy thoát thân, cả bọn trước sau loạn thành một bầy tuy có rất nhiều người hoa mắt, thấy một vật gì nhảy qua đầu vọt ra, nhưng đúng lúc đó tượng Phật Di Lặc trong đại điện đổ xuống, bụi bay mù mịt thành một lớp dày thành ra không một ai trông thấy cả.

Triệu Mẫn đúng lúc nguy nan được người cứu thoát, thân hình nằm trong hai cánh tay rắn chắc, tưởng như đằng vân giá vụ bay lên nóc miếu. Nàng quay đầu lại, dưới ánh mặt trời chiếu vào, thấy người đó mày rậm mắt sáng, chính là Trương Vô Kỵ. Nàng dường như không tin nổi đôi mắt của mình, thảng thốt kêu lên:

- Chàng đấy ư?

Trương Vô Kỵ vội vàng giơ tay bịt miệng Triệu Mẫn, nhìn quanh quất chung quanh, thấy trước sau trái phải miếu Di Lặc chỗ nào cũng đầy bang chúng Cái Bang, muốn cứu Triệu Mẫn thoát thân không có gì là khó nhưng chàng lại muốn xem Cái Bang đang toan tính chuyện gì đối với Minh giáo, Tống sư ca của phái Võ Đương lại gia nhập Cái Bang rồi, nếu không dò xét cho minh bạch, chỉ lo thoát thân thì thật đáng tiếc. Chàng thấy Tống Thanh Thư và Chưởng Bổng long đầu tranh biện, gã ăn mày già mắt lộ hung quang, trong Cái Bang có rất nhiều tay gian hiểm, không chừng Tống Thanh Thư bị trúng phải độc thủ của y, huống chi Hàn Lâm Nhi son sắt một lòng trung nghĩa không thể không cứu. Chỉ thấy đại điện bụi bay mù, chàng bèn tính chuyện chạy vào trong miếu tìm cách trốn tránh.

Trương Vô Kỵ bèn vọt lên trước, bám vào xà nhà chuồn mình xuống dưới, hai chân đeo vào đà ngang, tiếp theo co đùi rút một cái đã chui ngay vào phía sau một pho tượng Phật. Trong điện lúc này chỉ còn mấy tên đệ tử Cái Bang bị thương vì pho tượng đổ trúng đang nằm rên la dưới đất, còn Hàn Lâm Nhi không biết đã bị dẫn đi đâu.

Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn chung quanh chưa tìm thấy chỗ nào có thể ẩn náu cho ổn thỏa. Triệu Mẫn giơ tay chỉ vào một chiếc trống da lớn treo lủng lẳng trên một cái giá gỗ, cách mặt đất phải đến hơn một trượng, đối chọi với chiếc chuông lớn ở phía bên kia. Trương Vô Kỵ hiểu ngay ra, men theo tường đến sau chiếc trống nhún mình nhảy lên, tay phải giơ ngón trỏ rạch ngang qua, nghe soẹt một tiếng nhỏ, chiếc mặt trống đã bị cắt một vạch dài. Chàng đưa chân móc vào chiếc giá gỗ, tay lại rạch một đường dọc, hai vết cắt thành hình chữ thập rồi ôm Triệu Mẫn chui tọt vào bên trong.

Chiếc trống đó tuy lớn thật nhưng hai người chui vào cũng không thể nào cử động được. Triệu Mẫn gục đầu vào người Trương Vô Kỵ, thở hổn hển. Chiếc trống này chế tạo đã lâu, trong bụng trống đầy bụi bậm, trong mùi ẩm mốc Trương Vô Kỵ lại nhận thấy hương thơm nhè nhẹ của Triệu Mẫn tỏa ra, trong lòng vừa yêu vừa giận, trong lòng không biết bao nhiêu điều muốn trách cứ nàng nhưng khổ nỗi nơi đây không thể nào mở miệng, chỉ thấy thân hình Triệu Mẫn tựa vào lòng mình thật mềm mại, mái tóc xõa cả vào mặt chàng. Chàng bỗng dưng kinh hãi nghĩ thầm: ?Ta ra tay cứu cô ta đã là bậy quá rồi, sao lại còn cùng nàng quá thân cận như thế này??. Chàng đưa tay đẩy đầu Triệu Mẫn ra, không cho nàng tựa đầu vào vai mình nữa. Triệu Mẫn bực bội, lấy cùi chỏ thúc vào ngực chàng. Trương Vô Kỵ mượn sức đánh sức, đưa kình lực nàng thúc vào bật ngược trở lại, Triệu Mẫn bị đau, nhịn không nổi phải kêu lên. Vô Kỵ đã liệu trước nên giơ tay bịt mồm nàng lại. Chỉ nghe tiếng Chấp Pháp trưởng lão ở dưới điện vọng lên:

- - Khải bẩm bang chủ, địch nhân đã đào tẩu mất tăm mất dạng, thuộc hạ vô năng, không bắt nổi chúng, xin bang chủ phạt tội.

Sử Hỏa Long đáp:

- Thôi miễn! Địch nhân võ công thật cao cường, mọi người ai cũng thấy cả. Con mẹ nó, cả bọn mình đều xui xẻo, chẳng phải một mình trưởng lão mà thôi đâu.

Chấp Pháp trưởng lão đáp:

- Đa tạ bang chủ.

Kế đến là Chưởng Bổng long đầu tố cáo Tống Thanh Thư thả kẻ địch chạy mất, Tống Thanh Thư cứ một mực cãi, hai bên ai cũng cố giữ phần phải về mình, trong điện thành to tiếng. Sử Hỏa Long nói:

- Trần huynh đệ, khi đó ngươi thấy ra sao?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Khải bẩm bang chủ: Chưởng Bổng long đầu là nguyên lão của bản bang, lời nói tất không thể nào sai. Thế nhưng Tống huynh đệ thành tâm gia nhập bản bang, con yêu nữ họ Triệu lại là kẻ đối đầu của y, không thể nào lại định tâm thả cho y thị chạy được. Cứ như ngu kiến của huynh đệ, võ công của con yêu nữ kia quái dị, chắc là thị mượn sức đánh sức, lấy thiết bổng của long đầu đại ca, gạt thanh kiếm của Tống huynh đệ ra. Trong cơn hỗn loạn hai bên không ai thấy ai thành ra hiểu lầm.

Trương Vô Kỵ trong bụng khen thầm: ?Tên Trần Hữu Lượng này quả thực ghê gớm, y không nhìn thấy tình hình ra sao, chỉ đoán mà mười phần cũng đúng được tám chín?. Lại nghe Sử Hỏa Long nói:

- Lời đó xem có lý lắm. Hai vị huynh đệ đều vì bản bang mà ra sức, đừng để chuyện này làm tổn thương hòa khí anh em.

Chưởng Bổng long đầu mặt vẫn hầm hầm nói:

- Dù cho y ...

Trần Hữu Lượng không đợi y nói hết câu liền xen vào:

- Tống huynh đệ, long đầu đại ca đức cao vọng trọng, dẫu có trách lầm ngươi, cũng phải thành tâm nghe lời giáo huấn. Ngươi mau xin lỗi long đầu đại ca đi.

Tống Thanh Thư không còn biết làm gì hơn, đành phải tiến lên thi lễ nói:

- Long đầu đại ca, mới rồi tiểu đệ đã lầm lỗi, xin đại ca lượng thứ cho.

Chưởng Bổng long đầu tuy trong bụng còn tức lắm, nhưng phải cố nén chỉ hừ một tiếng nói:

- Thôi được.

Lời nói của Trần Hữu Lượng tuy rằng có vẻ trách cứ Tống Thanh Thư nhưng y đã nói: ?Triệu Mẫn lấy thiết bổng của long đầu đại ca, gạt thanh kiếm của Tống huynh đệ ra? rồi thêm: ?... long đầu đại ca đức cao vọng trọng, dẫu có trách lầm ngươi, cũng phải thành tâm nghe lời giáo huấn?, đều có ý nói Chưởng Bổng long đầu sai quấy, các trưởng lão trong Cái Bang ai cũng nhận ra. Thế nhưng gần đây Trần Hữu Lượng là người được bang chủ hết sức nể vì, nói đâu Sử Hỏa Long cũng nghe theo nên không ai dám thêm bớt gì.

Sử Hỏa Long nói:

- Trần huynh đệ, vừa rồi con yêu nữ đến quấy phá là con gái của Nhữ Dương Vương. Ma giáo vốn đối đầu với triều đình, sao chúng ta nói tới tiểu ma đầu Trương Vô Kỵ, mắc mớ gì mà yêu nữ cái con mẹ nó lại thò đầu ra là sao?

Trần Hữu Lượng còn đang ngẫm nghĩ, Chưởng Bát long đầu liền nói:

- Tôi thấy con quận chúa Thát tử kia mắt rưng rưng, thần sắc cực kỳ tức tối. Trần huynh đệ rủa sả giáo chủ ma giáo, con quận chúa đó làm như mình rủa sả cha anh nó không bằng, thật không thể nào hiểu nổi.

Tống Thanh Thư nói:

- - Khải bẩm bang chủ: tình tiết bên trong thuộc hạ hiểu rõ.

Sử Hỏa Long nói:

- Vậy Tống huynh đệ nói nghe thử nào.

Tống Thanh Thư đáp:

- Tuy ma giáo đối nghịch với triều đình nhưng con tiểu yêu nữ quận chúa này lại say mê Trương Vô Kỵ, chỉ mong lấy được y thôi thành ra hết sức bênh vực y.

Cả bọn ăn mày nghe thế đều ?A? lên một tiếng, ai nấy không ngờ nổi việc lại như thế. Trương Vô Kỵ nằm trong cái trống nghe rõ ràng, tim cũng đập thình thịch, tự hỏi mình: ?Có thực thế không? Có thực thế không??. Triệu Mẫn quay đầu lại, đôi mắt long lanh nhìn chàng. Tuy trong cái trống tối tăm nhưng nhãn quang Trương Vô Kỵ sắc bén, chỉ một chút ánh sáng đã thấy đôi mắt nàng nhu tình vô hạn, không khỏi bồi hồi, giơ tay ôm vai nàng kéo sát vào lòng, toan hôn lên đôi môi anh đào của nàng một cái. Đột nhiên chàng nhớ lại cái chết thảm khốc của Ân Ly, tình yêu đổi ngay thành thù hận, bàn tay đang nắm trên vai Triệu Mẫn bèn bóp lại. Tuy chàng không sử dụng toàn lực nhưng Triệu Mẫn cũng đã chịu không nổi, chỉ thấy mắt tối sầm, đau đến muốn ngất đi, muốn bắt chước Ân Ly mắng một câu: ?Đồ tiểu quỉ lang tâm đoàn mệnh?. Thế nhưng nàng hết sức nén lại không phát ra tiếng nhưng nước mắt đã nhỏ xuống ròng ròng, rơi trên lưng bàn tay Trương Vô Kỵ, rồi tuôn xuống quần áo. Thế nhưng Trương Vô Kỵ lòng dạ vẫn trơ trơ không để ý đến.

Lại nghe Trần Hữu Lượng hỏi thêm:

- Làm sao ngươi biết? Có chuyện quái lạ như vậy sao?

Tống Thanh Thư hậm hực đáp:

- Tên Trương Vô Kỵ kia tướng mạo cũng bình thường thôi, không có vẻ gì là anh tuấn tiêu sái, chỉ học được tà thuật của ma giáo, giỏi tài mê hoặc đàn bà con gái, không biết bao nhiêu gái tơ đã lọt vào cạm bẫy của y.

Chấp Pháp trưởng lão gật đầu:

- Đúng thế, bọn dâm tà trong ma giáo quả có cái thuật hái hoa, đàn ông đàn bà gì cũng đều biết hết. Nữ đệ tử Kỷ Hiểu Phù của phái Nga Mi, cũng vì trúng phải tà thuật của Dương Tiêu mà thành thân bại danh liệt. Phụ thân Trương Vô Kỵ là Trương Thúy Sơn, cũng bị yêu pháp của con gái Bạch Mi Ưng Vương làm cho khốn đốn. Con bé quận chúa Thát tử kia chắc trúng phải tà pháp hái hoa của tên tiểu ma đầu rồi, thất thân cùng y, ván đã đóng thuyền, gạo thổi thành xôi, đành rơi vào chốn bùn nhơ không sao rút ra được nữa.

Tất cả bọn người trong Cái Bang đều gật đầu cho là đúng. Truyền Công trưởng lão nghĩa khí bừng bừng, hậm hực nói:

- Những kẻ bại hoại như thế trên giang hồ phải truy diệt cho kỳ hết, nếu không đàn bà con gái nhà lương thiện không biết bao nhiêu người bị tên tiểu dâm tặc đó làm cho ô uế.

Sử Hỏa Long le lưỡi, chóp chép miệng, cười hềnh hệch:

- Con mẹ nó, tên tiểu dâm tặc Trương Vô Kỵ đó thật là diễm phúc.

Trương Vô Kỵ tức đến toàn thân run rẩy, chàng đến nay vẫn còn là đồng tử nhưng từ khi Diệt Tuyệt sư thái mồm năm miệng mười mắng là dâm tặc, khiến chàng tẩy cũng không sạch, quả thật oan mà không cách nào biện bạch. Cái chuyện Triệu Mẫn thất thân cùng chàng, ván đã đóng thuyền vân vân không biết từ đâu ra, nghĩ đến chuyện đó, đột nhiên kinh hãi: ?Triệu cô nương và ta hai người ôm nhau ở trong này, nhất định không thể để cho bọn chúng biết được, nếu không những lời đó lại càng thêm có chứng cớ để vu hãm?.

Lại nghe Truyền Công trưởng lão nói:

- Nếu như Chu Chỉ Nhược cô nương của phái Nga Mi lạc vào tay tên dâm tặc đó, ắt là trinh tiết khó mà giữ cho được. Tống huynh đệ, chuyện này ngươi cũng đừng để tâm làm gì, bọn ta nhất định sẽ giúp ngươi đoạt lại người vợ yêu, không để cho chuyện của Kỷ Hiểu Phù xảy ra thêm một lần nữa.

Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Đại ca nói đúng lắm. Phái Võ Đương năm xưa không bảo vệ nổi Ân Lê Đình, nay lại không lo được cho Tống Thanh Thư. Tống huynh đệ đầu nhập bản bang, nếu mình cũng không làm cho y hả được cơn giận, không giúp y hoàn thành tâm nguyện thì tại sao cái danh chưởng môn phái Võ Đương lại không màng, đi làm một đệ tử sáu túi của Cái Bang làm gì?

Cả bọn Cái Bang đều lớn tiếng reo hò, thề quyết xẻ thây tên dâm tặc Trương Vô Kỵ, đoạt lại vợ cho Tống Thanh Thư. Triệu Mẫn ghé vào tai Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Ngươi đúng là tên tiểu dâm tặc đáng chết.

Câu nói đó dường như giận hờn, lại như khen ngợi, nói ra thật là êm ấm, Trương Vô Kỵ nghe rồi lòng bỗng rộn ràng, nhất thời ý loạn tình mê, thật là phiền não: ?Giá như nàng đừng gian trá hiểm độc giết chết biểu muội ta, một đời được ở bên nàng, thật không còn cầu gì hơn nữa?.

Chỉ nghe Tống Thanh Thư ấm ứ tạ ơn bọn ăn mày, Chấp Pháp trưởng lão lại hỏi thêm:

- Tên dâm tặc đó làm sao dan díu được với quận chúa Thát tử, ngươi có biết không?

Tống Thanh Thư nói:

- Những chi tiết bên trong người ngoài quả thật không sao biết cho hết được. Hôm đó tiểu yêu nữ tất lãnh võ sĩ triều đình, lên núi Võ Đương bắt thái sư phụ của tiểu đệ, nhưng vừa thấy mặt tên dâm tặc đó liền ngoan ngoãn rút lui ngay, cái đại họa của phái Võ Đương lập tức tiêu giải. Tam sư thúc của tiểu đệ Du Đại Nham hơn hai mươi năm trước bị người ta đánh gãy chân tay, cũng được tiểu yêu nữ tặng thuốc cho tên dâm tặc nối được vết thương.

Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Thì ra thế đó, xưa nay phái Võ Đương vẫn là cái gai trong mắt triều đình, quận chúa Thát tử nếu không phải thắm thiết lắm với mối gian tình kia đến quên cả cội nguồn, quyết không thể nào lại tặng thuốc giúp cho kẻ địch. Nếu nói cho cùng, tên tiểu dâm tặc đó tuy nhân phẩm không đoan chính nhưng đối với thái sư phụ và các sư thúc bá cũng còn chút tình hương hỏa.

Tống Thanh Thư nói:

- Ồ, tiểu đệ nghĩ y cũng không hoàn toàn vong bản đâu.

Trần Hữu Lượng nói:

- Khải bẩm bang chủ: huynh đệ nghe những điều Tống huynh đệ nói bỗng nảy ra một kế, có thể chế phục được tên tiểu dâm tặc đó khiến cho ma giáo phải hoàn toàn nghe lệnh của bản bang.

Sử Hỏa Long vui mừng nói:

- Trần huynh đệ nếu như có diệu kế, mau nói cho mọi người nghe nào.

Trần Hữu Lượng đáp:

- Nơi đây tai mắt nhiều, tuy đều là anh em trong nhà cả nhưng sợ tiết lộ cơ mật.

Trong đại điện tiếng xì xào liền im bặt, tiếng chân rầm rập, có đến hơn chục người đi ra khỏi điện, ắt rằng chỉ còn lại những nhân vật thủ lãnh chức phận tối cao trong Cái Bang mà thôi. Trần Hữu Lượng nói:

- Việc này nhất định không thể nào tiết lộ phong thanh, Tống huynh đệ, hai vị long đầu đại ca, mình tra xét trước sau một vòng xem có ai nghe lén không nào.

Chỉ nghe hai tiếng vụt vụt, Chưởng Bổng long đầu và Chưởng Bát long đầu đã nhảy lên mái nhà, còn Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư tại trước điện sau điện tra xét kỹ lưỡng, ngay cả sau các pho tượng, các màn che, sau biển ngạch chỗ nào cũng ngó qua.

Trương Vô Kỵ ngầm phục Triệu Mẫn tâm cơ mẫn tiệp, trong đại điện trừ cái trống lớn này ra, quả không còn chỗ nào có thể ẩn náu được. Bốn người tra xét xong, quay trở lại điện, Trần Hữu Lượng hạ giọng nói:

- Việc này hoàn toàn do ở Tống huynh đệ mà thôi.

Tống Thanh Thư ngạc nhiên:

- Tôi ư?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Đúng thế, Chưởng Bát long đầu, nhờ đại ca phối chế mấy thang ?Ngũ Độc Thất Tâm Tán?, giao cho Tống huynh đệ đem về núi Võ Đương, lén bỏ vào đồ ăn thức uống của Trương chân nhân và Võ Đương chư hiệp. Bọn mình ở chân núi tiếp ứng, sau khi thành công rồi, bắt giữ Trương chân nhân và Võ Đương chư hiệp, dùng đó làm chỗ uy hiếp, lo gì tên tiểu tặc Trương Vô Kỵ không nghe lời bản bang?

Sử Hỏa Long là người đầu tiên vỗ tay khen hay:

- Diệu kế, diệu kế!

Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Kế này hay lắm. Ngũ Độc Thất Tâm Tán của bản bang cực kỳ lợi hại, nếu như hạ độc Trương Vô Kỵ, bọn ma giáo phòng phạm nghiêm mật, không dễ gì được. Còn Tống huynh đệ là đệ tử Võ Đương, muốn bắt giữ người của phái Võ Đương, giặc trong nhà còn phòng làm sao được, thật là thần không hay quỉ không biết, thể nào chẳng xong.

Tống Thanh Thư trù trừ đáp:

- Cái này ... cái này ... bảo huynh đệ hạ độc gia phụ, thật không thể nào làm được.

Trần Hữu Lượng nói:

- Ngũ Độc Thất Tâm Tán là linh dược của bản bang, chỉ làm cho người ta tạm thời thần trí mơ hồ, không tổn thương tính mạng. Lệnh tôn Tống đại hiệp là người hiệp nghĩa, bọn chúng tôi vốn hết sức kính trọng, quyết không dám làm hại đến một sợi lông của lão nhân gia.

Tống Thanh Thư vẫn không chịu nhận lời, nói:

- Huynh đệ gia nhập bản bang, việc chưa được thái sư phụ và gia phụ chấp thuận trước, sau này nếu biết ra, thể nào cũng trách phạt thật nặng, huynh đệ chưa biết làm cách nào cho qua đây. Tuy thế bản bang vốn dĩ cũng theo con đường hiệp nghĩa, so với tông chỉ của phái Võ Đương không khác bao nhiêu, cho nên cũng không phải là tội lớn. Thế nhưng bảo làm chuyện bất hiếu phạm thượng như vậy, huynh đệ nhất quyết không thể nào tuân theo được.

Trần Hữu Lượng nói:

- Huynh đệ nghĩ như thế là chưa thông. Xưa nay muốn làm đại sự không thể nề tiểu tiết, người xưa vì đại nghĩa phải bỏ cả người thân cũng đã có rồi, huống chi chúng ta vốn chỉ muốn đối phó với ma giáo, bắt giữ Võ Đương chư hiệp cốt chỉ là kế sách để kiềm chế tên tiểu dâm tặc Trương Vô Kỵ mà thôi. Năm xưa sáu đại môn phái vây diệt Quang Minh Đính, phái Võ Đương chẳng phải là hết sức làm đấy sao?

Tống Thanh Thư đáp:

- Huynh đệ nếu như làm việc này, một là lương tâm không an, hai là trên giang hồ người người sẽ sỉ mắng, còn mặt mũi nào mà sống trong trời đất nữa?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Vừa rồi ta đã chẳng bảo các trưởng lão tám túi lui ra đấy sao? Cớ gì phải khám xét trước sau trên dưới thật kỹ càng? Chính vì sợ chuyện này lộ ra ngoài đấy thôi. Tống huynh đệ, ngươi sau khi bỏ thuốc rồi, chính mình cũng giả vờ hôn mê, bọn ta cũng trói ngươi lại, cùng với thái sư phụ ngươi, phụ thân và các sư thúc ở chung một chỗ, còn ai nghi cho ngươi được? Trừ bảy người trong chúng ta đây, trên đời này còn một ai hay biết nữa? Chúng ta thì chỉ còn bội phục ngươi là một anh hùng có thể đảm đương đại sự, ai dám chê cười?

Tống Thanh Thư trầm ngâm chốc lát, rụt rè nói:

- Bang chủ và Trần đại ca đã ra lệnh, tiểu đệ quả không dám từ chối, huống chi tiểu đệ mới gia nhập bản bang, đang muốn có dịp lập công, dẫu có nhảy vào chảo đang sôi, lao vào lửa đang cháy cũng phải tận tâm kiệt lực. Có điều người ta sống trên đời, hiếu nghĩa là gốc, sai tiểu đệ đến làm hại gia phụ, thì nói sao cũng không dám phụng mệnh.

Trong Cái Bang xưa nay vốn cực kỳ tôn trọng chữ ?hiếu?, mọi người nghe y nói thế, đều thấy không tiện cưỡng ép thêm. Trần Hữu Lượng đột nhiên cười khẩy một tiếng nói:

- Kẻ dưới làm chuyện phạm thượng, là chuyện đại kỵ đối với người trong võ lâm chúng ta, chẳng cần Tống huynh đệ nói, ta cũng biết rồi. Thế nhưng không biết Mạc thất hiệp với Tống huynh đệ liên quan ra sao? Ông ta vai vế cao hay là ngươi vai vế cao?

Tống Thanh Thư không trả lời, một lúc sau bỗng nói:

- Được, nếu như bang chủ và các vị đã ra lệnh như thế, tiểu đệ đành phải tuân theo. Nhưng các vị phải nhận lời trước, không được làm tổn thương gia phụ mảy may, cũng không được làm nhục ông ta. Nếu không tiểu đệ thà thân bại danh liệt, chứ quyết không làm chuyện sai quấy bất hiếu đâu.

Sử Hỏa Long, Trần Hữu Lượng cả bọn lấy làm mừng rỡ. Trần Hữu Lượng nói:

- Chuyện đó thì chắc chắn là đồng ý rồi. Tống huynh đệ cùng chúng ta gọi nhau là anh em, Tống đại hiệp là tôn trưởng của cả bọn, dù cho Tống huynh đệ chẳng nói đến, chúng ta với lão nhân gia cũng phải đối đãi như phận cháu con.

Trương Vô Kỵ trong lòng nghi vấn: ?Tống sư ca khăng khăng không nhận lời, sao Trần Hữu Lượng vừa nhắc đến Mạc sư thúc thì Tống sư ca không dám từ chối nữa, bên trong ắt phải có chuyện gì khúc mắc. Xem ra chỉ còn hỏi thẳng Mạc thất thúc mới biết rõ đầu đuôi?.

Chỉ nghe Chấp Pháp trưởng lão và Trần Hữu Lượng thì thầm thương lượng, sau khi hạ độc Trương Tam Phong và anh em Tống Viễn Kiều rồi, quần cái sẽ xông lên núi tiếp ứng ra sao. Mỗi khi Trần Hữu Lượng nói đến đâu, Sử Hỏa Long đều mở mồm khen ngợi: ?Hay lắm, diệu kế?.

Chưởng Bát long đầu nói:

- Lúc này đang mùa lạnh, ngũ độc nằm phục dưới đất, tiểu đệ phải đi tới chân núi Trường Bạch đào ngay, chậm thì một tháng, ít thì hai mươi ngày là sẽ điều hợp thành Ngũ Độc Thất Tâm Tán. Độc trùng đào dưới băng tuyết lên độc tính không lộ ra, uống phải không thể nào biết được, để đối phó với các cao thủ hạng nhất thì thật không gì tốt bằng.

Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Trần huynh đệ, Tống huynh đệ hai vị, đi theo Chưởng Bát long đầu đến núi Trường Bạch chế thuốc, bọn chúng ta xuôi nam trước, một tháng nữa mình gặp nhau ở Lão Hà Khẩu. Hôm nay là mồng tám tháng chạp rồi, đến mồng tám tháng giêng mình gặp nhau.

Y nói tiếp:

- Còn tên Hàn Lâm Nhi rơi vào tay ta, thật là hữu dụng, xin Chưởng Bổng long đầu để tâm canh chừng, phòng bọn ma giáo đoạt lại. Bọn mình chia nhau mà đi để tránh tai mắt của địch.

Sau đó cả bọn lần lượt cáo từ bang chủ, Chưởng Bát long đầu và Trần Hữu Lượng, Tống Thanh Thư ba người đi trước về hướng bắc. Chỉ trong giây lát, cả bọn ăn mày đều đi khỏi miếu Di Lặc không còn một ai.

Hồi 32

OAN MÔNG BẤT BẠCH SẦU DỤC CUỒNG

Một khi sửa mũ vườn đào,

Dẫu không hái trộm ai nào tin cho.

Trương Vô Kỵ nghe tiếng bọn ăn mày đi đã xa, trong miếu không còn động tĩnh gì nữa, mới từ trong cái trống nhảy ra. Triệu Mẫn cũng nhảy ra theo, sửa lại áo quần, vừa mừng vừa giận lườm chàng một cái. Trương Vô Kỵ giận dữ nói:

- Hứ, cô vậy mà còn mặt mũi nhìn đến tôi nữa ư?

Triệu Mẫn sụ mặt xuống nói:

- Cái gì? Tôi đắc tội với Trương đại giáo chủ ở chỗ nào?

Dung mạo Trương Vô Kỵ như có phủ một làn sương mỏng, quát lên:

- Cô lấy cắp thanh kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long tôi không nói đến. Cô bỏ rơi tôi trên hoang đảo, tôi cũng không trách. Thế nhưng Ân cô nương thân bị trọng thương, sao cô lại còn hạ độc thủ? Thứ đàn bà lòng dạ ác độc như cô trên đời này thật ít có.

Nói đến đây, bi phẫn không dằn nổi, chàng liền tiến lên một bước xoạc cẳng xuống tấn tát cho nàng bốn cái liền. Triệu Mẫn làm sao tránh nổi chưởng của Trương Vô Kỵ? Chỉ nghe bốp bốp bốp bốp bốn tiếng thật kêu, hai má nàng sưng vù lên ngay. Triệu Mẫn vừa đau vừa tức, nước mắt chảy ròng ròng, nghẹn ngào nói:

- Anh bảo tôi ăn cắp kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long, có ai thấy không? Ai bảo là tôi hạ độc thủ với Ân cô nương, anh bảo người ấy ra đối chất với tôi xem nào.

Trương Vô Kỵ càng thêm cáu tiết, lớn tiếng nói:

- Được, để tôi cho cô xuống dưới âm phủ đối chất với cô ta.

Chàng vung tay trái, câu tay phải bóp cổ nàng, hai tay sử kình, Triệu Mẫn không thở được, giơ ngón tay đâm vào ngực chàng. Thế nhưng chỉ đó như trúng phải bông gòn, kình lực mất tiêu chẳng thấy tăm hơi, trong giây lát mặt nàng tím bầm ngất đi không còn biết gì nữa.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến mối thù của Ân Ly, đã toan giết Triệu Mẫn cho hả giận nhưng khi thấy nàng như thế, trong lòng không nỡ nên bỏ hai tay ra. Triệu Mẫn ngã ngửa về sau, nghe bộp một tiếng đầu đã va vào thềm đá của đại điện. Một lúc sau, Triệu Mẫn từ từ tỉnh lại, thấy Trương Vô Kỵ đang chăm chăm nhìn mình, đầy vẻ lo lắng, đến khi nàng mở mắt ra, bấy giờ mới thở phào một tiếng. Triệu Mẫn hỏi:

- Anh bảo Ân cô nương chết rồi ư?

Trương Vô Kỵ lại nổi cơn tam bành, quát lớn:

- Bị cô chém bảy tám nhát kiếm, cô ta ... cô ta còn sống được hay sao?

Triệu Mẫn run run giọng:

- Ai ... ai bảo là tôi chém cô ta bảy tám nhát kiếm? Có phải Chu cô nương nói đó không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chu cô nương đâu có nói xấu sau lưng người khác, cô ta không chính mắt trông thấy, lẽ nào lại vu hãm cho cô.

Triệu Mẫn nói:

- Vậy thì do chính Ân cô nương nói chăng?

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Ân cô nương làm sao mà nói được. Trên hoang đảo chỉ có năm người, không lẽ do nghĩa phụ chém hay sao? Hay là tôi? Hay là Ân cô nương tự mình chém mình? Hừ, tôi biết bụng dạ cô, cô sợ tôi cùng biểu muội thành vợ thành chồng nên mới giở trò, ra tay hạ thủ. Để tôi nói cho cô hay, cô ấy chết cũng thế mà sống cũng thế, tôi vẫn coi nàng là vợ tôi.

Triệu Mẫn cúi đầu không nói gì, trầm ngâm một hồi, hỏi thêm:

- Thế làm sao anh về được Trung Nguyên?

Trương Vô Kỵ cười nhạt:

- Đó cũng là nhờ lòng tốt của cô, phái thủy sư đem thuyền đến đảo đón tôi về, cũng may nghĩa phụ tôi không phải loại người khờ khạo thực thà như tôi nên mới không mắc kế của cô. Cô sai pháo thuyền chờ nơi cửa biển định bắn chìm thuyền chở tôi về chỉ phí công toi thôi.

Triệu Mẫn lấy tay xoa xoa chỗ má bị sưng, u uẩn nhìn chàng một hồi lâu, mắt lộ vẻ thương yêu, thở dài một tiếng. Trương Vô Kỵ sợ mình động tâm, bị sắc đẹp và nhu tình của nàng quyến rũ, vội quay đầu sang chỗ khác. Chàng đột nhiên dậm chân nói:

- Tôi đã từng thề sẽ báo thù cho biểu muội nhưng tôi nhút nhát vô dụng, hôm nay không ra tay được. Cô tác ác đa đoan, thể nào cũng có lúc gặp phải tay tôi.

Nói xong chàng hầm hầm đi ra khỏi miếu. Đi được mươi trượng, Triệu Mẫn bỗng chạy đuổi theo kêu lên:

- Trương Vô Kỵ, anh đi đâu thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chuyện đó có liên quan gì đến cô đâu?

Triệu Mẫn đáp:

- Tôi có điều muốn hỏi Tạ đại hiệp và Chu cô nương, nhờ anh đưa tôi đến gặp họ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ tôi ra tay không có nể nang gì đâu, bộ cô muốn chết hay sao?

Triệu Mẫn cười khẩy:

- Nghĩa phụ anh tuy tàn ác độc địa thực nhưng đâu có hồ đồ như anh. Hơn nữa, nếu Tạ đại hiệp giết tôi thì anh cũng báo được thù cho biểu muội, có phải là thỏa nguyện hay không?

Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi hồ đồ chỗ nào? Tôi không muốn cô gặp nghĩa phụ tôi.

Triệu Mẫn mỉm cười:

- Gã tiểu tử Trương Vô Kỵ hồ đồ kia ơi, anh trong bụng không bỏ tôi được, nên không muốn tôi bị Tạ đại hiệp giết chứ gì, có đúng không nào?

Trương Vô Kỵ bị nàng nói trúng tim đen, mặt đỏ lên, quát lớn:

- Cô đừng có lằng nhằng nữa. Cô làm ác rồi thể nào cũng gặp ác, tốt hơn hết là tránh tôi cho xa, để tôi khỏi cầm lòng không nổi mà ra tay giết cô.

Triệu Mẫn khoan thai tiến lại gần, nói:

- Tôi có mấy câu không thể không hỏi Tạ đại hiệp và Chu cô nương cho rõ ràng. Tôi không muốn nói xấu người khác ở sau lưng, nhưng trước mặt thì sẽ nói rõ tất cả.

Trương Vô Kỵ bỗng nổi lòng hiếu kỳ, hỏi lại:

- Thế cô muốn hỏi họ chuyện gì?

Triệu Mẫn đáp:

- Đến lúc đó anh khắc biết. Tôi không sợ nguy hiểm, anh có gì mà sợ?

Trương Vô Kỵ hơi chần chừ, nói:

- Vậy là chính cô đòi đi, nếu như nghĩa phụ tôi hạ độc thủ, tôi cũng cứu không nổi đâu.

Triệu Mẫn nói chắc nịch:

- Tôi không cần anh phải lo cho tôi.

Trương Vô Kỵ bực dọc nói:

- Lo cho cô? Tôi còn mong cho cô chết là khác.

Triệu Mẫn cười:

- Thế sao anh không động thủ đi.

Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, không thèm nói nữa, rảo bước đi về hướng phố chợ, Triệu Mẫn lẽo đẽo theo sau. Hai người đến thị trấn rồi, Trương Vô Kỵ ngừng lại quay đầu nói:

- Triệu cô nương, tôi đã nhận lời cô sẽ làm cho cô ba chuyện. Việc thứ nhất là đi kiếm thanh đao Đồ Long, coi như xong rồi. Còn hai chuyện nữa chưa làm xong, nếu cô gặp nghĩa phụ tôi, thể nào cô cũng chết. Vậy cô cứ đi đi, chừng nào tôi làm cho cô xong nốt hai chuyện nữa, lúc đó cô gặp nghĩa phụ tôi cũng chưa muộn.

Triệu Mẫn điềm nhiên mỉm cười, nói:

- Anh cố tìm lý do để cho tôi khỏi bị giết, tôi biết ngay là anh bỏ tôi không nổi mà.

Trương Vô Kỵ lại nổi giận:

- Dẫu cho tôi không nỡ xuống tay thì đã sao?

Triệu Mẫn nói:

- Thì tôi vui sướng lắm. Tôi trước nay vẫn không biết anh có thực lòng với tôi không, bây giờ thì biết rồi.

Trương Vô Kỵ thở hắt ra nói:

- Triệu cô nương, tôi van cô, cô đi chỗ khác đi.

Triệu Mẫn cương quyết lắc đầu:

- Tôi nhất định phải gặp Tạ đại hiệp.

Trương Vô Kỵ không còn cách nào hơn, đành phải đi đến khách điếm, đến trước phòng của Tạ Tốn, đứng ngoài gõ hai tiếng, gọi:

- Nghĩa phụ!

Miệng thì gọi nhưng chàng liền đứng chắn trước mặt Triệu Mẫn. Chàng gọi hai lần không thấy bên trong có tiếng trả lời. Trương Vô Kỵ đẩy cửa, thấy cửa vẫn đóng chặt, trong bụng khởi nghi, nghĩ thầm tai nghĩa phụ thính như thế, mình vừa đến đây thì ông có đang ngủ cũng đã thức rồi, nếu đã đi ra ngoài thì cửa phòng sao vẫn còn đóng?

Chàng dùng tay đẩy nhẹ, nghe cách một tiếng, then cửa đã gãy rời, cửa phòng mở tung ra, quả nhiên không có Tạ Tốn ở bên trong. Thế nhưng một cánh cửa sổ hé mở, ắt hẳn ông ta theo đó mà ra. Chàng lại chạy đến phòng Chu Chỉ Nhược, kêu lên hai tiếng:

- Chỉ Nhược.

Cũng không nghe tiếng đáp lại, đẩy cửa vào cũng không thấy nàng đâu, trên giường quần áo vẫn còn xếp ngay ngắn. Trương Vô Kỵ kinh nghi bất định: ?Không lẽ gặp phải địch nhân??. Chàng gọi người hầu phòng đến hỏi, gã đó nói không thấy hai người đi ra, cũng không nghe thấy tiếng cãi cọ đánh nhau. Trương Vô Kỵ cảm thấy yên tâm tự nhủ: ?Chắc hai người nghe thấy tiếng gì lạ nên chạy đuổi theo tung tích kẻ địch?. Lại nghĩ tuy Tạ Tốn mắt mù nhưng võ công cao cường, trên đời ít ai địch lại, huống chi lại có Chu Chỉ Nhược là người tinh tế cẩn thận đi theo, chắc không có chuyện gì. Chàng theo cửa sổ của Tạ Tốn nhảy ra ngoài, xem xét chung quanh, không có gì lạ, lại quay trở về phòng.

Triệu Mẫn nói:

- Anh không kiếm thấy Tạ đại hiệp, sao mặt lại có vẻ như hí hửng lắm là sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Lại nói lăng nói nhăng, tôi hí hửng bao giờ?

Triệu Mẫn mỉm cười:

- Thế anh tưởng tôi không nhìn thấy mặt anh hay sao? Anh vừa đẩy cửa phòng vào, hơi băn khoăn một tí, rồi lập tức mặt liền dãn ra.

Trương Vô Kỵ không nhìn đến cô ta, ra ngồi tựa vào chiếc giường. Triệu Mẫn mủm mỉm cười ngồi xuống ghế nói:

- Tôi biết anh sợ Tạ đại hiệp giết tôi, may quá ông ta không có nhà, khỏi thêm phiền phức. Tôi biết anh không thể nào bỏ rơi tôi được.

Trương Vô Kỵ lại nổi cọc:

- Không bỏ được cô thì đã sao?

Triệu Mẫn cười nói:

- Thì tôi vui sướng lắm chứ sao.

Trương Vô Kỵ hậm hực nói:

- Thế sao cô năm lần bảy lượt cứ hại tôi mãi? Thế cô có bỏ tôi được không?

Khuôn mặt hoa da phấn của Triệu Mẫn đột nhiên đỏ lên, nói nhỏ:

- Đúng thế, lúc đầu quả tôi có muốn giết anh, nhưng từ hôm gặp nhau ở Lục Liễu Sơn Trang rồi, nếu tôi còn có bụng hại anh thì trời tru đất diệt Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ này, chết đi rơi vào mười tám tầng địa ngục, vạn kiếp chẳng được siêu sinh.

Trương Vô Kỵ nghe thấy nàng thề thốt nặng lời như thế liền nói:

- Thế cớ sao chỉ vì một thanh đao, một thanh kiếm mà cô nỡ bỏ tôi lại nơi hoang đảo?

Triệu Mẫn nói:

- Nếu anh đã nghĩ như thế, dù tôi có một trăm cái mồm cũng không thể nào biện giải được, chỉ còn nước đợi Tạ đại hiệp và Chu cô nương về, bốn người mình đối chất cho rõ ràng.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô mồm miệng hoa ngôn xảo ngữ, lừa là lừa được tôi, chứ làm sao lừa nổi nghĩa phụ tôi và Chu cô nương.

Triệu Mẫn cười:

- Thế sao anh lại chịu để cho tôi đánh lừa? Chính vì trong lòng anh cũng thích tôi, có phải thế không?

Trương Vô Kỵ hậm hực:

- Thích thì đã sao?

Triệu Mẫn nói:

- Thì tôi vui sướng chứ sao nữa?

Trương Vô Kỵ thấy nàng cười tươi như bông hoa, khiến ai nhìn thấy cũng phải chạnh lòng, nàng lại vừa mới bị mình tát cho mấy cái mặt sưng lên trông càng đáng thương nên phải quay đầu sang chỗ khác không dám nhìn lâu. Triệu Mẫn nói:

- Mình ở trong cái miếu đó một hồi lâu, bụng đói thật.

Nàng liền gọi điếm tiểu nhị, đưa ra một đĩnh vàng nhỏ, bảo y dọn một mâm cỗ thượng hạng đem lên. Tên bồi bàn luôn mồm vâng dạ, liền mang lên trái cây đồ điểm tâm, rồi một lát sau mang thêm rượu thịt. Trương Vô Kỵ nói:

- Mình đợi nghĩa phụ về rồi ăn luôn thể.

Triệu Mẫn nói:

- Tạ đại hiệp đến đây thì mạng tôi chắc gì còn, chi bằng ăn trước cho no, xuống âm khỏi thành ma đói ma khát.

Trương Vô Kỵ thấy nàng tuy nói thế nhưng thần tình cử chỉ dường như đã có chủ định không tỏ vẻ gì sợ hãi. Triệu Mẫn lại nói:

- Tôi trong túi có tiền đây, để bảo điếm tiểu nhị làm một mâm tiệc rượu.

Trương Vô Kỵ lạnh lùng nói:

- Tôi chẳng dám ăn uống gì với cô nữa đâu, biết lúc nào cô lại bỏ Thập Hương Nhuyễn Cân Tán vào.

Triệu Mẫn mặt sầm xuống nói:

- Anh chẳng ăn thì thôi để khỏi bị tôi bỏ thuốc độc cho chết.

Nói xong nàng ngồi ăn một mình. Trương Vô Kỵ bảo tiểu nhị mang lên mấy chiếc bánh bao, tự mình ngồi riêng một góc ở xa xa trên giường ăn ngốn ngấu. Trên mâm của Triệu Mẫn nào gà quay, dê nướng, cá chiên, rau cỏ thật nhiều món ngon lành, nàng ăn một hồi bỗng nước mắt chảy ròng ròng rơi cả xuống bát đang ăn, gượng ăn mấy miếng rồi quăng đũa bát xuống, gục xuống bàn rấm rứt khóc.

Nàng khóc một hồi lâu, giơ tay gạt lệ, dường như trong lòng nhẹ nhõm đi nhiều, nhìn vọng ra cửa sổ nói:

- Chỉ thêm một giờ nữa là trời tối rồi, không biết gã Hàn Lâm Nhi kia bị đưa đi phương nào, nếu như mất tung tích thì thật khó mà giải cứu.

Trương Vô Kỵ chột dạ, đứng bật dậy nói:

- Đúng vậy, tôi phải đi cứu Hàn Lâm Nhi trước.

Triệu Mẫn nói:

- Rõ không biết xấu, có ai nói chuyện với anh mà cũng tiếp lời.

Trương Vô Kỵ thấy nàng khi giận khi thẹn, khi vui khi buồn, trong lòng chàng không khỏi vừa bực vừa yêu, không biết thế nào cho phải, vội vàng trệu trạo ăn cho xong mấy chiếc bánh bao rồi chạy ra ngoài. Triệu Mẫn nói:

- Để tôi đi với anh.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi không cần cô đi theo tôi.

Triệu Mẫn hỏi:

- Sao vậy?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cô giết chết biểu muội tôi, không lẽ tôi lại đi chung với kẻ thù?

Triệu Mẫn nói:

- Được rồi, thì anh đi một mình.

Trương Vô Kỵ chạy ra đến cửa, bỗng quay lại hỏi:

- Cô ở đây làm gì?

Triệu Mẫn đáp:

- Tôi chờ nghĩa phụ anh về, nói cho ông ấy biết anh đã đi cứu Hàn Lâm Nhi rồi.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ tôi ghét kẻ ác như quân thù, lẽ nào để cho cô sống sót?

Triệu Mẫn thở dài một tiếng:

- Cái số tôi thế đành chịu, biết làm thế nào?

Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi nói:

- Cô nên tránh ra chỗ khác đi, đợi tôi quay về rồi hãy hay.

Triệu Mẫn lắc đầu:

- Tôi biết tránh đi đâu bây giờ.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Thôi được, cô đi theo tôi cứu Hàn Lâm Nhi, rồi sau sẽ quay về đối chất.

Triệu Mẫn cười:

- Cái đó là anh rủ tôi đi, chứ không phải tôi nèo nẹo đòi đi đâu nhé.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô đúng là ám quẻ tôi, gặp cô thật là xui xẻo không để đâu cho hết.

Triệu Mẫn thản nhiên cười nói:

- Anh đợi tôi một lát.

Nói xong nàng thuận tay đóng cửa phòng lại. Qua một lúc sau, Triệu Mẫn mở cửa phòng ra, nàng đã thay đổi y phục phụ nữ, áo điêu chùm đầu, áo khoác bằng gấm đỏ, ăn mặc cực kỳ sang trọng. Trương Vô Kỵ không ngờ nào lại đem trong bọc những món quần áo sang trọng đến thế, nghĩ thầm: ?Cô gái này thật là mưu mô, hành sự thật không biết đâu mà lường?. Triệu Mẫn nói:

- Sao anh ngơ ngẩn nhìn tôi là sao? Tôi mặc thế này anh thấy có đẹp không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Mặt thì đẹp như hoa, lòng thì như rắn rết.

Triệu Mẫn cười khanh khách nói:

- Đa tạ Trương đại giáo chủ đã ban cho tiện nữ mấy chữ đó. Trương giáo chủ, ngài cũng nên đi thay quần áo khác cho đẹp đi thôi.

Trương Vô Kỵ phật ý nói:

- Tôi từ bé ăn mặc rách rưới đã quen, nếu cô hiềm quần áo tôi lam lũ thì chẳng cần phải đi với tôi làm gì.

Triệu Mẫn đáp:

- Anh đừng có nghĩ quấy, tôi chỉ muốn xem anh mặc quần áo đẹp xem anh ra thế nào thôi. Anh ở đây chờ một lát, tôi chạy đi mua quần áo cho anh. Cũng may là bọn ăn mày kia đi theo đường lớn để vào cửa ải, mình chỉ cần đi nhanh một tí không sợ đuổi theo không kịp.

Nàng không đợi chàng trả lời, đi thẳng ra cửa. Trương Vô Kỵ ngồi trên giường, tự trách mình sao không đủ cứng cỏi, cứ để cho cô gái này vầy vò, rõ ràng nàng là kẻ hại người em họ mình, vậy mà bây giờ cùng cô ta cười cười nói nói. Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, ngươi còn kể là nam tử hán đại trượng phu sao được? Còn mặt mũi nào mà làm giáo chủ Minh giáo, hiệu lệnh quần hùng?

Chàng đợi một lúc lâu không thấy Triệu Mẫn quay về, nhìn ra trời đã sâm sẩm tối, nghĩ thầm: ?Việc gì mình phải đợi cô ta? Cứ một mình đi cứu Hàn Lâm Nhi thì đã sao nào?. Thế nhưng vừa tới đó chàng lại hình dung ngay ra một cảnh tượng nàng đi mua quần áo về gặp phải Tạ Tốn đánh cho một chưởng ngay thiên linh cái, vỡ đầu nát óc chết lăn ra, quần áo tung tóe, liền chột dạ. Chàng đứng lên ngồi xuống, nghĩ ngợi gần xa, mãi đến khi nghe tiếng chân uyển chuyển, hương thơm phà vào mũi, Triệu Mẫn ôm hai bọc quần áo đi vào phòng. Trương Vô Kỵ nói:

- Đợi cô lâu quá, thôi không cần thay quần áo nữa, mau đuổi theo kẻ địch cho rồi.

Triệu Mẫn mỉm cười:

- Đã đợi được bấy lâu, có gì không thêm được một chút để thay quần áo. Tôi cũng đã mua thêm hai con ngựa, mình sẽ đi suốt đêm đuổi theo.

Nàng nói rồi cởi cái bọc ra, lấy từng món quần áo giày vớ nói:

- Nơi địa phương nhỏ chẳng có gì đáng mua, anh mặc tạm, bao giờ đến Đại Đô sẽ mua thêm chiếc áo cừu khoác ngoài.

Trương Vô Kỵ thảng thốt, nghiêm mặt nói:

- Triệu cô nương, cô đừng bao giờ nghĩ tới chuyện tôi tham đồ phú quí, qui hàng triều đình. Trương Vô Kỵ này đường đường con cháu nhà Đại Hán, dù cho cắt đất phong vương, cũng nhất quyết không đầu hàng Mông Cổ.

Triệu Mẫn thở dài nói:

- Trương đại giáo chủ, ông thử xem đây là quần áo người Mông hay là quần áo người Hán?

Nàng vừa nói vừa đưa ra một chiếc trường bào màu xám. Trương Vô Kỵ thấy những món nàng mua đều là phục sức Hán nhân, liền gật đầu. Triệu Mẫn lại quay người lại nói:

- Anh xem tôi có tí gì giống một quận chúa Mông Cổ chăng? Hay chỉ là một người con gái Hán nhân tầm thường?

Trương Vô Kỵ thấy trong lòng bàng hoàng, trước đây chỉ nghĩ nàng quần áo sang trọng, có nghĩ gì đến Mông ? Hán khác biệt đâu, lúc này nghe nàng nói đến mới nhìn kỹ lại thấy nàng hoàn toàn ăn mặc như một cô gái người Hoa. Chàng thấy nàng hai má ửng hồng, trong ánh mắt long lanh đầy vẻ thiết tha, trong một giây thôi trong đầu chàng bừng lên hiểu ngay dụng ý của nàng, ấp úng nói:

- Cô ... cô ...

Triệu Mẫn nói nhỏ:

- Trong lòng chàng không thể nào quên được em, em sao lại chẳng biết? Chàng là người Hán hay người Nguyên, đối với em thì cũng thế. Chàng là người Hán, em cũng là người Hán, chàng là người Mông, em cũng là người Mông. Trong lòng chàng nghĩ ngợi bao nhiêu điều quân quốc đại sự nên phân biệt kẻ Hoa người Di, canh cánh chuyện quyền thế uy danh, hưng vong được mất. Còn em ư? Vô Kỵ ca ca, trong lòng em chỉ có một điều, đó là chàng mà thôi. Chàng là người tốt hay là người xấu, đối với em thật cũng chẳng khác chút nào.

Trương Vô Kỵ mủi lòng, nghe nàng nói lên tâm sự vô cùng trìu mến đó, không khỏi ý loạn tình mê, lặng đi một lúc sau mới hỏi:

- Cô hại biểu muội phải chăng vì sợ tôi lấy cô ta làm vợ chăng?

Triệu Mẫn lớn tiếng đáp:

- Người hại Ân cô nương không phải là em. Anh tin cũng được, không tin cũng được, em chỉ có một câu đó mà thôi.

Trương Vô Kỵ thở dài nói:

- Triệu cô nương, em đối với tôi một mối chân tình, tôi đâu phải gỗ đá gì mà không cảm kích? Thế nhưng đến ngày hôm nay, sự thế đã vậy rồi, em nỡ nào còn lừa dối tôi?

Triệu Mẫn nói:

- Em từ xưa đến nay vẫn cho rằng mình thông minh trí tuệ, nên chuyện gì cũng chiếm phần hơn, đâu có ngờ nhiều chuyện không tính trước được. Vô Kỵ ca ca, hôm nay mình không đi nữa, anh ở nơi đây đợi Tạ đại hiệp, còn em đến phòng Chu cô nương đợi cô ta.

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Để làm gì?

Triệu Mẫn đáp:

- Anh đừng hỏi tại sao. Chuyện Hàn Lâm Nhi anh khỏi phải lo, em đảm bảo sẽ cứu anh ta về là xong.

Nói xong nàng quay lưng đi ra ngoài, sang bên phòng của Chu Chỉ Nhược đóng cửa lại. Trương Vô Kỵ nhất thời chưa biết nàng toan tính chuyện gì, bèn nằm tựa trên giường cố gắng suy nghĩ, đột nhiên nghĩ ra một việc: ?Hay là nàng ta biết được ta với Chỉ Nhược đã có đính ước hôn nhân nên giết một mình biểu muội ta chưa đủ nên toan tính giết luôn cả Chỉ Nhược? Không lẽ Huyền Minh nhị lão rời khỏi miếu Di Lặc liền tới đây ám toán nghĩa phụ ta và Chỉ Nhược rồi?? Chàng nghĩ đến Huyền Minh nhị lão, trong lòng không khỏi kinh hãi, Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông hai người võ công quá cao siêu, Tạ Tốn dẫu cho mắt chưa bị mù cũng không chắc địch lại được một trong hai lão già này.

Chàng liền nhỏm dậy, chạy đến ngoài phòng Triệu Mẫn hỏi:

- Triệu cô nương, Huyền Minh nhị lão thủ hạ của cô đi đâu rồi?

Triệu Mẫn từ bên trong nói vọng ra:

- Hai người đó chắc đoán là tôi thoát thân rồi sẽ trở về quan nội nên chạy đuổi theo lối đó.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Cô nói có thật không đó?

Triệu Mẫn cười khẩy đáp:

- Nếu anh không tin lời tôi thì còn hỏi làm gì?

Trương Vô Kỵ không còn biết trả lời sao, đứng ngơ ngẩn ở bên ngoài. Triệu Mẫn nói:

- Ví như tôi nói với anh là tôi đã sai Huyền Minh nhị lão hai người đến khách điếm này giết chết Tạ đại hiệp và người yêu của anh là Chu cô nương thì anh có tin không?

Câu nói đó đúng ngay ý niệm kinh khủng nhất trong lòng Vô Kỵ, chàng liều giơ chân đá tung cánh cửa ra, trên trán gân xanh nổi lên, run run nói:

- Cô ? cô ?

Triệu Mẫn thấy chàng điệu bộ như thế, trong lòng cũng thấy sợ hãi, đâm ra hối hận là đã thốt lên câu đó, vội nói:

- Tôi dọa anh chơi đó, không có chuyện đó đâu, anh đừng coi là thật.

Trương Vô Kỵ chăm chăm nhìn nàng, chậm rãi hỏi lại:

- Cô không sợ đến khách điếm này gặp nghĩa phụ tôi, mồm năm miệng mười đòi đối chất với ông ta, phải chăng cô biết chắc hai người không còn nơi dương thế nữa?

Chàng vừa nói vừa tiến lại gần, đứng cách nàng chừng ba thước, chỉ việc giơ tay lên đánh ra một chưởng là Triệu Mẫn sẽ chết ngay. Triệu Mẫn nhìn thẳng vào mặt Trương Vô Kỵ, nghiêm mặt nói:

- Trương Vô Kỵ, tôi nói với anh, ở trên đời này trừ khi chính mắt trông thấy, chứ đừng có nghe người ngoài nói ra nói vào, cũng đừng có nghĩ ngợi lung tung. Anh muốn giết tôi thì cứ việc ra tay, nhưng khi nghĩa phụ anh về lại đây rồi thì lòng dạ anh lúc ấy sẽ ra thế nào?

Trương Vô Kỵ định thần, trong lòng hơi sượng sùng nói:

- Chỉ cần nghĩa phụ tôi bình an vô sự thì quả thật là may mắn lắm rồi. Chuyện sinh tử an nguy của cha nuôi tôi, cô không được đem ra làm trò đùa.

Triệu Mẫn gật đầu nói:

- Đúng ra tôi không nên nói câu đó, lỗi về phần tôi, mong anh đừng trách.

Trương Vô Kỵ thấy nàng nhỏ nhẹ nhận sai, lòng thấy dịu lại, mỉm cười đáp:

- Tôi quả cũng có hơi lỗ mãng đắc tội với cô.

Nói xong chàng quay về phòng Tạ Tốn. Hai người đợi cả đêm đến tận sáng hôm sau vẫn không thấy Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược trở lại, Trương Vô Kỵ lại bắt đầu lo, ăn qua quít vài thứ lót dạ rồi bàn với Triệu Mẫn tự hỏi không biết hai người ấy đi đâu. Triệu Mẫn nhíu mày đáp:

- Chuyện này kể cũng khác thường. Chi bằng mình chạy đuổi theo bọn Sử Hỏa Long tìm cách thám thính xem thế nào!

Trương Vô Kỵ gật đầu nói:

- Chỉ còn cách đó thôi.

Sau đó hai người tính toán tiền nong thuê phòng trả cho chưởng quĩ, dặn là nếu như Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược trở lại thì bảo họ chờ nơi khách điếm. Hầu phòng bèn dẫn lại hai con ngựa màu vàng thóc, Trương Vô Kỵ thấy hai con ngựa lông bóng mượt, thân khỏe chân dài, quả thực là lương câu danh quí, không khỏi tấm tắc khen ngợi, chắc hẳn là ngựa nàng dùng để đuổi theo bọn Cái Bang , đêm qua đi ra ngoài mua quần áo liền đến dắt về. Triệu Mẫn mỉm cười, nhảy phắt lên một con. Hai con ngựa song song chạy ra khỏi thị trấn, theo hướng nam thẳng tiến. Người ngoài nhìn thấy hai con tuấn mã rong ruổi như hai con rồng, trên lưng lại là hai người ăn mặc sang cả, tướng mạo tuấn mỹ, đều tưởng là một cặp vợ chồng trẻ con cái nhà quan ra ngoài du ngoạn.

Hai người chạy suốt một ngày đi đến hơn hai trăm dặm, nghỉ lại trên đường một đêm, sáng hôm sau lại đi tiếp.

Hôm đó chạy đến khoảng trưa, thấy gió bấc thổi từ sau lưng, trời âm u, mây đen như muốn ép từ trên đỉnh đầu xuống, cố chạy thêm hai chục dặm nữa thì tuyết lông ngỗng lả tả bay. Trên đường đi Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn thật ít nói chuyện, thấy tuyết đổ mỗi lúc một dày không nói một lời giục ngựa chạy cho nhanh. Hôm đó hai người đi qua một vùng thật hoang vắng, chỉ toàn núi non, tuyết đến gần một thước, hai con ngựa dẫu là thần tuấn cũng không chịu nổi.

Trương Vô Kỵ thấy trời mỗi lúc một tối dần, tung mình nhảy lên đứng trên yên, quan sát bốn bề, chẳng thấy nhà cửa khói lửa gì, trong bụng chần chừ nói:

- Triệu cô nương, cô nghĩ phải làm sao đây? Nếu mình tiếp tục đi e rằng hai con vật chịu không nổi.

Triệu Mẫn cười khẩy:

- Anh chỉ biết đến con vật chịu không nổi mà có biết con người sống chết ra sao đâu?

Trương Vô Kỵ thấy sượng sùng, nghĩ thầm: ?Ta trong người có Cửu Dương thần công nên không thấy mệt mỏi lạnh lẽo, cứ lo gấp rút chuyện cứu người nên đâu có ngó ngàng gì đến nàng?. Hai người chạy thêm một quãng nữa, bỗng nghe có tiếng sột soạt, một con hoẵng từ bên phía trái chạy vụt qua đường, vọt thẳng vào trong núi. Trương Vô Kỵ nói:

- Để tôi bắt nó về ăn tối.

Chàng vừa nói vừa nhảy ra khỏi yên ngựa, theo vết chân con nai để lại trên tuyết rượt theo. Vòng qua một triền núi, dưới ánh sáng mông lung thấy con nai đó toan chạy vào một cái hang. Chàng không để con vật chui vào liền đề khí, nhào tới như một mũi tên bắn, đã nắm ngay được cổ nó. Con cheo liền quay đầu lại cắn vào tay chàng nhưng Trương Vô Kỵ đã sử kình bóp một cái, nghe lách cách, con vật đã gãy cổ chết ngay. Chàng thấy cái hang đó không lớn lắm nhưng cũng tạm đủ cho hai người dung thân, nên liền xách con hoẵng lên, quay lại bên cạnh Triệu Mẫn nói:

- Bên kia có một cái hang, mình tạm ở đó qua đêm, cô nghĩ sao?

Triệu Mẫn gật đầu, đột nhiên má đỏ bừng, quay đầu qua, giục ngựa đi tới. Trương Vô Kỵ dắt hai con ngựa lên trên sườn núi buộc vào dưới gốc hai cây tùng để tránh tuyết rồi đi kiếm củi khô, đốt một đống lửa ở trong hang. Cái hang đó cũng khô ráo, không có phân thú hay thứ gì dơ dáy, nhìn vào trong thấy tối om om chẳng biết đến tận đâu. Trương Vô Kỵ lột da con hoẵng, cắt ra dùng tuyết lau cho sạch sẽ, nướng trên đống lửa. Triệu Mẫn cũng cởi áo cừu, trải xuống đất. Lửa cháy bừng bừng cái hang ấm áp chẳng khác gì một phòng xuân.

Trương Vô Kỵ ngẫu nhiên quay đầu lại, thấy ánh lửa lúc sáng lúc tối, chiếu lên khuôn mặt nàng càng thêm kiều diễm. Hai người nhìn nhau cười khúc khích, bao nhiêu mệt mỏi đói rét của một ngày theo tiếng cười tiêu tan cả.

Thịt nai chín rồi, hai người mỗi người cầm một đùi ăn. Trương Vô Kỵ cho thêm củi vào đống lửa, ngồi dựa vào vách đá hỏi:

- Đi ngủ chưa?

Triệu Mẫn mỉm cười, ngả lưng vào một bên hang, nhắm mắt lại. Trương Vô Kỵ mũi ngửi thấy mùi thơm từ người nàng tỏa ra, thấy nàng hai má hây hây, thực chỉ muốn ghé miệng hôn một cái nhưng lập tức cố dằn lòng nhắm mắt ngủ.

Hai người ngủ đến giữa đêm, bỗng nghe từ xa có tiếng chân ngựa vọng lại, Trương Vô Kỵ giật mình choàng dậy, lắng tai nghe, thấy có bốn con ngựa từ hướng nam chạy lên hướng bắc. Chàng thấy bên ngoài tuyết vẫn đang rơi, nghĩ thầm: ?Đêm khuya tuyết đang đổ, xông pha lạnh lẽo mà đi, hẳn những người này có việc gấp gáp lắm?.

Tiếng vó ngựa đến gần bỗng dưng ngừng lại, một lúc sau, tiếng chân ngựa thấy gần hơn đúng là họ đang tiến về phía sơn động. Trương Vô Kỵ chột dạ nghĩ thầm: ?Cái hang này ở phía sau núi, nếu như con hoẵng không chạy vào đây mình cũng không thể nào tìm thấy, sao lại có người biết mà tìm vào??. Thế nhưng chàng hiểu ngay ra: ?Đúng rồi! Mình đi trên tuyết để lại dấu chân, tuy cả đêm qua tuyết đổ xuống nhưng vẫn chưa hết vết tích?.

Lúc này Triệu Mẫn cũng đã tỉnh dậy rồi, nói nhỏ:

- Người đến đây là kẻ địch không chừng, mình nên tránh đi xem họ là ai.

Nàng nói rồi bốc tuyết bên ngoài động dập tắt đống lửa. Lúc này tiếng chân ngựa cũng đã ngừng lại, nghe tiếng bốn người đạp tuyết đi tới, chỉ trong giây lát đã đến chỉ còn cách cái hang chừng mươi trượng. Trương Vô Kỵ nói thầm:

- Bốn người này thân pháp cực nhanh nhẹn, là những cao thủ rất ghê gớm.

Nếu như hai người chạy ra ngoài để ẩn náu thể nào bốn người này cũng phát giác. Còn chưa biết tính sao, Triệu Mẫn đã cầm tay Trương Vô Kỵ dẫn vào trong hang. Sơn động đó càng vào càng nhỏ lại nhưng rất sâu, đi vào chừng hơn một trượng thì tới một khúc rẽ, bỗng nghe người bên ngoài nói:

- Ở đây có một cái hang.

Trương Vô Kỵ nghe tiếng người nói rất quen thuộc, chẳng ai khác mà là tứ sư bá Trương Tùng Khê, vừa mừng vừa sợ, lại nghe một tiếng người khác nói:

- Vết chân ngựa và dấu chân người đi vào trong hang này.

Người nói đó chính là Ân Lê Đình. Trương Vô Kỵ đang định lên tiếng gọi thì Triệu Mẫn đã giơ tay bịt miệng chàng lại, ghé tai nói nhỏ:

- Anh với em hai người ở chung một chỗ nơi đây, để họ thấy được e sẽ nghĩ không tốt về mình.

Trương Vô Kỵ nghĩ nàng nói quả không sai, Triệu Mẫn và mình tuy hai người hoàn toàn trong sạch nhưng một đôi nam nữ ngủ chung trong một sơn động, để cho sư bá sư thúc trông thấy, ai dám tin rằng hai người không có chuyện nọ điều kia? Huống chi Triệu Mẫn là quận chúa nhà Nguyên, đã từng bắt giam bọn Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình nơi chùa Vạn An, có nhiều điều nhục nhã, lúc này thấy mặt kẻ thù, quả thực hết sức bất tiện. Chàng nghĩ thầm: ?Thôi mình đợi cho bọn Trương tứ bá, Ân lục thúc đi khỏi rồi sẽ một mình đi ra gặp họ cho đỡ ngượng?.

Lại nghe tiếng Du Liên Châu nói:

- Ồ, ở đây còn có dấu đốt lửa nữa! Ơ, có thêm cả lông da và vết máu làm thịt hoẵng.

Lại thêm một người nữa nói:

- Sao ta nóng ruột quá, chỉ mong sao thất đệ bình an vô sự là tốt rồi.

Giọng nói chính là tiếng của Tống Viễn Kiều. Trương Vô Kỵ thấy tất cả bốn vị sư thúc sư bá Tống Du Trương Ân đều có mặt để đi tìm Mạc Thanh Cốc, nghe trong câu chuyện họ đang nói, dường như thất sư thúc gặp phải cường địch nên trong bụng chàng cũng băn khoăn. Lại nghe tiếng Trương Tùng Khê cười nói:

- Đại sư ca thương yêu thất sư đệ nên vẫn cứ tưởng như vẫn còn là một tiểu sư đệ năm nào, thực ra những năm gần đây tiếng tăm của Mạc thất hiệp rất là vang dội, đâu có phải như ngày xưa. Dù có gặp phải cường địch chăng nữa, một mình thất sư đệ cũng có thể đối phó được.

Ân Lê Đình nói:

- Tiểu đệ lại không lo cho thất đệ mà lo là lo cho thằng cháu Vô Kỵ không biết giờ này đang ở nơi nào. Nó hiện nay là giáo chủ Minh Giáo, cây cả gió to, không ít người có bụng muốn hại nó. Tuy Vô Kỵ võ công cao cường thật nhưng lại là người quá ư trung hậu, đâu có biết chuyện giang hồ phong ba hiểm ác, chỉ sợ lại rơi vào bẫy của kẻ gian thôi.

Trương Vô Kỵ thấy thật cảm động, nghĩ các vị sư bá sư thúc đãi mình ân tình sâu nặng như thế, lúc nào cũng nghĩ đến mình. Triệu Mẫn ghé miệng vào tai chàng nói nhỏ: ?Em là kẻ gian đó, anh đang rơi vào bẫy của em đây, có biết chưa??.

Lại nghe tiếng của Tống Viễn Kiều:

- Thất đệ đi lên miền bắc kiếm Vô Kỵ, dường như đã tìm ra được chút manh mối, có điều thất đệ để lại tám chữ nơi khách điếm ở Thiên Tân không đoán được ý nghĩa thế nào.

Trương Tùng Khê nói:

- Môn hộ hữu biến, cức tu thanh lý[1]. Không lẽ trong phái Võ Đương chúng ta lại có kẻ nào làm chuyện bại hoại xấu xa? Hay là thằng bé Vô Kỵ nhà ta ?

Ông nói đến đây liền ngừng lại, trong giọng nói đầy vẻ lo lắng. Ân Lê Đình nói:

- Thằng cháu Vô Kỵ quyết không thể nào làm chuyện gì bại hoại môn hộ, tiểu đệ chắc chắn là như thế.

Trương Tùng Khê nói:

- Ta sợ là sợ con yêu nữ Triệu Mẫn quá ư gian trá độc ác, còn Vô Kỵ trẻ tuổi khí huyết phương cương, bị rơi vào vòng mỹ sắc để rồi cũng như cha nó ngày xưa, đi đến thân bại danh liệt ?

Bốn người không nói thêm nữa, tất cả đều chép miệng thở dài. Lại nghe tiếng đánh lửa rồi tiếng củi kêu lách tách, lửa đã nhóm lên rồi. Ánh lửa chiếu vào sau động, tuy đã qua một khúc quanh nhưng Trương Vô Kỵ cũng lờ mờ nhìn thấy khuôn mặt Triệu Mẫn, thấy nàng dường như vừa giận vừa oán, có lẽ nghe Trương Tùng Khê nói nên bực mình. Trương Vô Kỵ trong lòng cũng hoảng hốt nghĩ thầm: ?Trương tứ bá nói điều đó cũng phải. Mẹ ta chẳng làm chi sai quấy mà đã làm cho cha ta phải nông nỗi đó. Còn Triệu cô nương này giết biểu muội ta, làm nhục thái sư phụ và các vị sư bá, sư thúc của ta, làm sao sánh với mẹ ta được??. Chàng nghĩ đến đây, tim đập thình thịch nghĩ tiếp: ?Nếu như để họ tìm thấy mình và Triệu cô nương ở đây, dẫu có tát sạch nước Hoàng Hà cũng không sao rửa sạch được tiếng oan này?.

Bỗng nghe Tống Viễn Kiều run run nói:

- Tứ đệ, trong bụng ta có một mối lo không tiện đề cập đến vì nói ra e có lỗi với ngũ đệ đã qua đời.

Trương Tùng Khê chậm rãi nói:

- Có phải đại ca e ngại rằng thằng cháu Vô Kỵ hạ độc thủ với thất đệ chứ gì?

Tống Viễn Kiều không trả lời, Trương Vô Kỵ tuy không thấy nhưng cũng đoán là ông gật đầu. Lại nghe Trương Tùng Khê nói:

- Thằng bé Vô Kỵ vốn tính tình đôn hậu, cứ lý mà nói quyết không thể nào làm chuyện ấy được. Tiểu đệ có lo là lo thất đệ tính khí quá ư nóng nảy, nếu ép Vô Kỵ quá đáng khiến y không thể vẹn cả đôi bề, lại thêm con yêu nữ Triệu Mẫn sắp đặt gian kế ở bên trong xúc xiểm dèm pha, khiến cho ? khiến cho ? ôi, lòng người biết sao mà lường, ở đời có biết bao nhiêu việc không tính trước được, xưa nay anh hùng khó mà qua được ải mỹ nhân, chỉ mong sao Vô Kỵ sớm biết dừng cương trước vực mà thôi.

Ân Lê Đình nói:

- Đại ca, tứ ca, hai vị có nói cũng chỉ đoán chừng, có khác gì người nước Kỷ lo chuyện trời sập? Thất đệ chắc chẳng gặp chuyện gì hung hiểm đâu.

Tống Viễn Kiều nói:

- Từ khi ta thấy thanh trường kiếm tùy thân của thất đệ, không khỏi thấp thỏm bồn chồn, đứng ngồi không yên.

Du Liên Châu nói:

- Chuyện đó quả thực không thể nào giải thích được. Người luyện võ chúng ta binh khí tùy thân đâu phải bạ đâu vứt đó, huống chi thanh kiếm này lại là do sư phụ ban cho, đúng là kiếm còn người còn, kiếm mất người ?

Ông nói đến chữ ?người? rồi lặng yên, không dám nói tiếp chữ ?mất?. Trương Vô Kỵ nghe nói Mạc Thanh Cốc bỏ lại thanh trường kiếm thầy cho, và các sư bá sư thúc quả có nghi mình dính vào, trong lòng vừa lo lắng, lại vừa đau khổ. Một lúc sau, loáng thoáng ngửi thấy bên trong hang dường như có mùi hôi, xem ra sơn động này sâu lắm có thể dã thú ở trong đó không chừng. Chàng e ngại bọn Tống Viễn Kiều phát giác, không dám thở mạnh, cầm tay Triệu Mẫn rón rén đi vào bên trong, lại e đụng phải đá nhô ra nên đưa một tay về trước dò đường. Chỉ mới đi được mấy bước, lại qua một khúc quẹo nữa, bỗng tay chàng đụng phải một vật gì mềm mềm dường như là một người nào đó.

Trương Vô Kỵ kinh hoảng, trong bụng thoáng ngay một ý nghĩ: ?Không cần biết người này là thù hay là bạn, chỉ cần y lên tiếng thôi là nhóm đại sư bá sẽ biết ngay?. Chàng vung tay ra điểm luôn năm chỗ huyệt đạo nơi ngực và bụng người kia, rồi tiện tay chộp luôn cổ tay kẻ nọ. Tay chàng chạm phải da thịt thấy lạnh ngắt, hóa ra người ấy chết từ bao giờ. Trương Vô Kỵ nhờ chút ánh sánh leo lắt từ bên ngoài chiếu vào, cố gắng nhìn khuôn mặt người đó, trong ánh sáng lờ mờ dường như cái thây ma này là thất sư thúc Mạc Thanh Cốc. Chàng hết sức kinh hoàng, không còn sợ bị nhóm Tống Viễn Kiều nhìn thấy, liền ôm ngay cái xác chạy ra ngoài mấy bước. Ánh sáng chiếu vào rõ hơn, nhìn thấy rõ ràng, chẳng phải Mạc sư thúc thì còn ai vào đây?

Chàng thấy khuôn mặt ông ta hoàn toàn không còn chút máu, hai mắt mở trừng trừng, càng nhìn càng ghê rợn. Chàng vừa kinh hoàng vừa đau thương, chỉ còn biết đứng trân trân.

Chàng đi mấy bước đó, bọn Tống Viễn Kiều đã nghe thấy. Du Liên Châu quát lớn:

- Trong này có người.

Hàn quang lóe lên, cả bốn người trong Võ Đương tứ hiệp đều cùng rút phắt kiếm ra. Trương Vô Kỵ trong bụng kêu khổ thầm: ?Ta đang ôm xác của Mạc thất thúc trốn ở trong hang thế này, cái tội giết chú làm cách nào cũng không thể nào chạy cho thoát?. Chàng nhớ lại Mạc Thanh Cốc đối với chàng biết bao nhiêu là ân nghĩa, nay nhìn thấy ông ta chết thảm thế này, trong bụng vạn phần bi phẫn, trong đầu nảy ra biết bao nhiêu ý niệm nhưng không biết rồi khi anh em Tống Viễn Kiều tiến vào thì chàng phải làm cách nào để minh oan.

Thế nhưng đầu óc Triệu Mẫn nhanh hơn chàng nhiều, nhảy vọt tới, múa thanh trường kiếm xông thẳng ra ngoài, chát chát chát chát bốn kiếm liền, đều là chiêu số thí mạng của phái Nga Mi, chia ra đâm vào bốn người trong Võ Đương tứ hiệp. Bốn người giơ kiếm gạt ra thì Triệu Mẫn đã chạy được ra khỏi động, nhảy lên một trong những con ngựa của mấy người này, giơ kiếm đỡ ngược lại mũi kiếm Tống Viễn Kiều đâm tới, đồng thời thúc mạnh vào bụng ngựa. Con ngựa bị đau liền phóng mình lao tới.

Triệu Mẫn tưởng đã chạy thoát, ngờ đâu lưng đau nhói lên, mắt nổ đom đóm, dường như nghẹn thở, thì ra đã bị một phi chưởng của Du Liên Châu đánh trúng. Chỉ thấy Võ Đương tứ hiệp thi triển khinh công, rượt sát theo. Nàng trong bụng chỉ nghĩ: ?Ta càng chạy cho xa thì chàng càng dễ chạy thoát. Nếu không mối oan khiên này làm sao rửa được? Cũng may cả bốn người đều đuổi theo ta, không nghĩ rằng trong động còn có người khác?. Nàng thấy lưng đau đớn không sao chịu nổi, bèn giơ kiếm đâm vào sau mông con ngựa một cái, con ngựa liền hí lên một tiếng dài cắm đầu chạy thật nhanh.

Trương Vô Kỵ thấy Triệu Mẫn nhảy ra hơi ngạc nhiên, nhưng hiểu ngay cái kế Điệu Hổ Ly Sơn của nàng để cốt sao cứu được mình thoát thân, liền ôm cái xác Mạc Thanh Cốc chạy ra khỏi động. Chàng nghe thấy Triệu Mẫn và Võ Đương tứ hiệp chạy về hướng đông, bèn theo hướng tây mà trốn. Chạy đến hơn hai dặm chàng bèn đem cái xác dấu sau một tảng đá, quay trở lại bên đường tung mình nhảy lên một cây cao, một lúc lâu sau tim vẫn còn đập thình thịch, nghĩ đến cái chết thảm khốc của Mạc Thanh Cốc, không sao cầm được nước mắt, nghĩ thầm: ?Phái Võ Đương nhà ta không biết sao lại lắm nạn đến thế, không biết ai là kẻ sát hại thất sư thúc? Thất sư thúc sau lưng gân cốt đứt hết, trúng phải chưởng lực nội gia?.

Phải đến gần nửa giờ sau mới nghe tiếng ba con ngựa từ phía đông đi tới, dưới ánh tuyết sáng lóa, thấy Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu mỗi người cưỡi một con ngựa, còn Ân Lê Đình và Du Liên Châu hai người cưỡi chung một con. Bỗng nghe Du Liên Châu nói:

- Con yêu nữ đó lãnh một chưởng của đệ, cả người lẫn ngựa rơi xuống vực sâu, xem ra khó mà sống được.

Trương Tùng Khê nói:

- Hôm nay mình mới báo được mối nhục bị bắt giam ở chùa Vạn An quả cũng thỏa lòng. Có điều sao thị lại trốn ở trong cái hang đó, việc đời lạ kỳ quả thực không sao hiểu được.

Ân Lê Đình nói:

- Tứ ca thử đoán xem cô ta lấp la lấp ló ở trong cái hang đó là để làm gì?

Trương Tùng Khê đáp:

- Cái đó cũng thật là khó biết. Giết được con yêu nữ đó cũng chưa lấy gì làm thích thú, tìm thấy thất đệ mới thật là vui.

Bốn người càng lúc càng xa, những chuyện họ nói về sau không còn nghe thấy nữa. Trương Vô Kỵ đợi bọn Tống Viễn Kiều đi rồi, vội vàng nhảy từ trên cây xuống, theo đấu chân ngựa lưu lại trên mặt tuyết chạy về hướng đông, trong lòng hết sức bồn chồn, nghĩ thầm: ?Nàng tuy giảo trá nhưng lần này đúng là xả mệnh cứu ta. Nếu vì chuyện này mà nàng bỏ mạng, ta ? ta ??. Chàng càng chạy càng nhanh, trong chốc lát đã đi đến bốn năm dặm đến bên một cái mỏm núi. Trên mặt tuyết trắng còn vũng máu, dấu chân loạn xạ, bên cạnh vách núi bị lở sạt cả một khối đá lớn , hiển nhiên con ngựa Triệu Mẫn cưỡi chạy tới nơi đây, không còn đường chạy nên cả người lẫn vật đều rơi xuống vực.

Trương Vô Kỵ gọi lớn:

- Triệu cô nương, Triệu cô nương!

Chàng kêu lên bốn năm lần nhưng không hề nghe tiếng đáp lại, càng thêm lo lắng theo mỏm đá nhìn xuống, chỉ thấy một cái vực thật sâu, trong đêm tối không sao nhìn thấy dưới đáy như thế nào. Vách đá đó thẳng đứng, không có chỗ nào bám chân, Trương Vô Kỵ liền hít một hơi dài, thò hai chân xuống, mặt hướng về phía vách núi, tuột xuống. Chàng tụt được vài ba trượng, thế rơi càng lúc càng nhanh, liền vận kình vào mười ngón tay, chọc vào trong đám băng kết đông cứng trên sườn núi, đợi thân hình đứng hẳn lại cho tụt xuống nữa. Cứ như thế năm sáu lần thì đã đến đáy, thấy dưới chân mềm nhũn, vội nhảy ra ngoài, thì ra chàng đã đạp trúng phải bụng con ngựa. Còn Triệu Mẫn người vẫn chưa rời yên, hai tay vẫn còn ôm chặt cổ con vật.

Trương Vô Kỵ đưa tay thăm mũi nàng, thấy vẫn còn thở nhè nhẹ nhưng người thì đã ngất đi rồi. Chàng cũng hơi yên lòng, dưới đáy vực tối om, tuyết mùa đông đóng thật dày chưa tan, ngập đến tận lưng, xem ra vì Triệu Mẫn chưa rời yên ngựa nên bao nhiêu sức rơi con ngựa chịu hết, con vật bị chấn động chết ngay nhưng nàng chỉ bị hôn mê bất tỉnh. Trương Vô Kỵ vội vàng bắt mạch thấy nàng tuy bị thương không phải là nhẹ nhưng tính mệnh không đến nỗi nào, liền ôm nàng vào lòng, bốn bàn tay áp vào nhau, vận công chữa thương.

Chưởng Triệu Mẫn bị trúng phải vốn là bản môn công phu của phái Võ Đương nên việc chữa trị không mấy khó, chưa tới nửa giờ, nàng đã từ từ tỉnh lại. Trương Vô Kỵ đem Cửu Dương chân khí cuồn cuộn trút vào người nàng, lại thêm hơn nửa giờ nữa, trời đã mờ mờ sáng, Triệu Mẫn òa lên một tiếng, thổ ra một ngụm máu bầm, hỏi nhỏ:

- Họ đã đi chưa? Mấy người đó có thấy chàng không?

Trương Vô Kỵ thấy nàng quan tâm hơn cả là làm sao mình che đậy được không bị tiếng oan, trong lòng hết sức cảm kích nói:

- Họ không thấy tôi, em ? thật tội nghiệp cho em quá!

Chàng tuy nói nhưng Cửu Dương chân khí vẫn tiếp tục truyền vào. Triệu Mẫn khép mắt lại, tuy chân tay không có chút khí lực nào nhưng bụng ngực thấy ấm áp thật dễ chịu. Cửu Dương chân khí chạy luôn mấy vòng trong người nàng rồi, Triệu Mẫn quay lại cười nói:

- Anh nghỉ chút đi, em đỡ nhiều lắm rồi.

Trương Vô Kỵ vòng hai tay ôm lấy eo nàng, lấy má mình áp lên má Triệu Mẫn nói:

- Em cứu được thanh danh cho anh, so với cứu mười lần tính mạng còn nặng hơn nhiều.

Triệu Mẫn cười khúc khích nói:

- Em là con tiểu yêu nữ gian trá ác độc, thanh danh thì lại chẳng coi vào đâu, chỉ có tính mạng mới quan trọng thôi.

Vừa ngay lúc đó, bỗng nghe từ trên đỉnh mỏm núi có tiếng người vọng xuống:

- Con yêu nữ khốn kiếp kia quả nhiên chưa chết, ngươi giết Mạc thất hiệp thế nào, mau nói cho ta nghe.

Giọng nói đó chính là tiếng của Du Liên Châu. Trương Vô Kỵ hết sức kinh hoàng, đâu ngờ bốn vị sư bá sư thúc lại quay trở lại. Triệu Mẫn nói:

- Anh quay đầu đi đừng để họ trông thấy mặt.

Trương Tùng Khê quát lên:

- Tặc yêu nữ, nếu ngươi không trả lời, ta sẽ ném đá xuống bây giờ.

Triệu Mẫn ngửng đầu nhìn lên, quả thấy bọn Tống Viễn Kiều đang vần một khối đá lớn, chỉ cần cùng nhau đẩy một cái, hai người khó mà thoát chết. Nàng bèn ghé vào tai Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Chàng xé áo cừu chùm lên mặt trước đã rồi hãy ôm em chạy đi.

Trương Vô Kỵ làm đúng như thế, xé áo ra che mặt buộc ra đằng sau, kéo sụp cái mũ da xuống khỏi trán chỉ hở đôi mắt. Võ Đương tứ hiệp đuổi theo Triệu Mẫn đẩy được cô ta rớt xuống vực rồi, nhưng cả bốn người vốn là tay giang hồ lão luyện, liệu tưởng Triệu Mẫn là thân phận quận chúa tôn quí, lẽ nào chỉ đi một mình không ai hộ vệ. Họ bèn giả vờ cưỡi ngựa bỏ đi nhưng được vài dặm liền buộc ngựa tại cây bên đường, len lén quay lại xem xét. Bốn người quay lại sơn động trước, đốt đuốc lên đi vào bên trong, thấy hai con hoẵng chết đã bị dã thú cắn xé máu me lầy nhầy nhưng vẫn còn hình dạng. Bốn người lại xem xét bên ngoài hang kiếm ra dấu chân Trương Vô Kỵ để lại, theo đó lần theo phát giác xác của Mạc Thanh Cốc, thấy chân tay đã bị thú cắn nát rồi. Bốn người vừa đau lòng, vừa phẫn nộ không sao kể xiết, Ân Lê Đình nằm phục xuống đất khóc òa lên.

Du Liên Châu gạt lệ nói:

- Con yêu nữ Triệu Mẫn tuy võ công không phải kém nhưng nếu chỉ một mình nó, nhất định không thể nào hại thất đệ được. Lục đệ cố nén bi thương, mình phải đi tìm cho ra hung thủ, giết sạch để báo thù cho thất đệ.

Trương Tùng Khê đáp:

- Mình mai phục ở bên cạnh sơn động, đến lúc trời sáng thể nào thủ hạ của yêu nữ cũng sẽ tìm đến.

Ông túc trí đa mưu, trước nay nói gì Tống Viễn Kiều vẫn nghe nấy, nên cả bọn cố dằn cơn đau lòng, ẩn mình sau những tảng đá hai bên cửa động để chờ. Mãi đến khi trời sáng vẫn không thấy thủ hạ Triệu Mẫn đâu, bốn người lại tới chỗ Triệu Mẫn bị rơi để xem, bên dưới loáng thoáng có tiếng người nói chuyện, nhìn xuống thấy một người đàn ông mặc áo gấm đang ôm Triệu Mẫn, thì ra con yêu nữ đó vẫn chưa chết.

Tứ hiệp muốn tra hỏi xem vì sao lại giết Mạc Thanh Cốc nên chưa muốn đẩy đá xuống giết hai người vội. Cái vực tuyết đó hình như một cái giếng lớn, bốn bề chung quanh là vách dựng đứng, chỉ phía bên góc tây bắc có một lối đi thật hẹp. Trương Tùng Khê quát lớn:

- Hai con chó Nguyên kia, mau mau theo đường bên kia đi lên, nếu còn lần khân ta liền đẩy đá tảng xuống bây giờ.

Trương Vô Kỵ thấy tứ sư bá tưởng lầm mình là người Mông Cổ, nghĩ chắc vì mình ăn mặc sang trọng, lại đi theo Triệu Mẫn nhìn quanh không thấy chỗ nào có thể ẩn náu được, nếu như tứ hiệp đẩy đá xuống, mình tuy có thể nhảy nhót né tránh nhưng Triệu Mẫn ắt khó lòng thoát chết, chỉ đành tới đâu tính đó, ôm Triệu Mẫn theo con đường hẹp chầm chậm trèo lên.

Chàng cố tình làm như võ công kém cỏi, đi vài bước lại trượt chân một cái. Con đường hẹp đó vốn dĩ bám víu cực kỳ khó khăn, chàng lại cố ý giả vờ cực kỳ vụng về, vừa đi vừa thở hổn hển nên mất đến hơn nửa giờ, ngã bảy tám cái mới lên đến chỗ mặt bằng.

Chàng định bụng khi vừa lên đến nơi là sẽ ôm Triệu Mẫn tìm đường chạy ngay, cứ với khinh công của chàng, tuy có ôm thêm một người tứ hiệp chưa chắc đã đuổi kịp. Thế nhưng Trương Tùng Khê cực kỳ tinh minh, thấy chàng trèo lên cố ý giả vờ vụng về nên đã ngầm báo cho ba người kia, bốn người chia ra bốn góc, Trương Vô Kỵ vừa bước lên, bốn thanh trường kiếm đã chĩa ngay vào, cách thân chàng chưa đầy nửa thước.

Tống Viễn Kiều hậm hực nói:

- Thằng giặc Thát Đát kia, ngươi lấy tấm da che khuôn mặt quỉ lại, tưởng là chạy thoát hay sao? Mạc thất hiệp phái Võ Đương do ai hạ thủ giết chết, mau mau khai ra. Mày chỉ nói láo nửa câu, ta sẽ đem con chó Thát tử ngươi ra lăng trì tùng xẻo, mổ bụng lóc xương.

Ông bản tính vốn hòa nhã nhỏ nhẹ, nhưng vì thấy đứa em út chết thảm khốc như thế, nhịn không nổi phải buông lời tàn nhẫn, thực là việc chưa hề có trong mấy chục năm qua. Triệu Mẫn thở dài một tiếng, nói:

- Áp Lỗ Bất Hoa tướng quân, chuyện đã đến nước này, ngươi nói cho họ biết đi cũng không sao.

Nói rồi ghé miệng vào tai Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Dùng võ công thánh hỏa lệnh.

Trương Vô Kỵ vốn không muốn động thủ với các vị sư bá sư thúc nhưng ở vào hoàn cảnh này đành muối mặt ra tay, bèn nghiến răng, giơ Triệu Mẫn lên ném luôn vào Ân Lê Đình, miệng xí xố một hồi, tung người lộn trên không, vươn tay chộp vào người Trương Tùng Khê. Ân Lê Đình thuận tay bắt lấy Triệu Mẫn, tuy ngạc nhiên nhưng lập tức điểm ngay huyệt đạo của nàng, vứt ra ngoài.

Chỉ trong một chớp mắt đó, Trương Vô Kỵ đã sử dụng ngay võ công quái dị ghi trên thánh hỏa lệnh, quyền đánh vào Tống Viễn Kiều, chân đá Du Liên Châu, lấy đầu húc vào Trương Tùng Khê, đồng thời vung ngược tay đoạt luôn thanh kiếm của Ân Lê Đình. Mấy chiêu đó nhanh như cắt, vừa thần tốc vừa kỳ lạ. Võ Đương tứ hiệp võ công cao cường, vốn là cao thủ hạng nhất trong võ lâm nhưng bị chàng dùng bảy tám quái chiên đánh loạn xạ, thành thử chân tay luống cuống, không người nào có thể đỡ được.

Hôm đó trên đảo Linh Xà võ công Trương Vô Kỵ cao cường như thế, vậy mà gặp phải chiêu số quái dị trong thánh hỏa lệnh của Lưu Vân tam sứ cũng không chống nổi, huống chi lúc này chàng đã học hoàn toàn tất cả võ công trên cả sáu thanh lệnh bài, so với ba sứ giả Ba Tư đâu phải chỉ hơn vài lần? Những võ công trên các thanh thánh hỏa lệnh vốn dĩ không phải là võ công thượng thừa, nhưng vì kỳ lạ cổ quái, khiến người ta không biết đâu mà lường, nếu như một người thường sử dụng thì làm sao có thể đối địch với võ công chính tông của nội gia phái Võ Đương. Thế nhưng Trương Vô Kỵ lấy Cửu Dương thần công làm căn bản, dùng đường lối biến hóa của Càn Khôn Đại Na Di, lại thêm thuần thuộc nhuần nhuyễn võ công phái Võ Đương, nên chiêu thức nào cũng tấn công thẳng vào những điểm sơ hở của tứ hiệp. Đấu đến hơn hai chục chiêu, võ công thánh hỏa lệnh càng lúc càng kỳ lạ không sao lường được. Triệu Mẫn nằm trên bãi tuyết, lớn tiếng nói:

- Áp Lỗ Bất Hoa tướng quân, bọn man tử người Hán vốn tự phụ lắm, hôm nay cho họ nếm mùi môn thần kỹ đánh vật cổ truyền của người Mông Cổ chúng ta.

Trương Tùng Khê kêu lên:

- Dùng thái cực quyền để tự vệ, quyền chiêu của tên thát tử này quái dị lắm.

?Bốn người lập tức biến đổi quyền pháp, sử dụng thái cực quyền thủ vệ môn hộ thật là nghiêm mật. Trương Vô Kỵ bỗng nhiên ngồi phịch xuống đất, hai tay đấm loạn xạ vào ngực mình. Võ Đương tứ hiệp trong đời đã từng gặp không biết bao nhiêu cường địch, hiểu biết các loại chiêu thức quái dị cũng nhiều, môn Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp của Trương Vô Kỵ có thể xem là một công phụ đặc biệt nổi trội hẳn lên trong các võ học công phu, nhưng môn ngồi đấm ngực của tên Mông Cổ thì chưa hề thấy, cũng chẳng từng nghe qua bao giờ.

Tứ hiệp vốn dĩ đã thu trường kiếm về, dùng tay không sử dụng thái cực quyền bảo vệ môn hộ, lúc này ngạc nhiên, Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê ba người liền rút kiếm ra chỉ vào Trương Vô Kỵ. Trường kiếm của Ân Lê Đình vốn dĩ đã bị Trương Vô Kỵ giằng lấy vứt đi, nhưng trên người còn đeo thêm thanh kiếm của Mạc Thanh Cốc, lúc này liền rút ra đâm tới.

Trương Vô Kỵ đột nhiên vung chân tạt ngang, cuốn một khối lớn tuyết đóng trên mặt đất, đá tung lên người tứ hiệp phái Võ Đương. Đây cũng là một chiêu quái dị của thánh hỏa lệnh, vốn dĩ là một chiêu của Sơn Trung lão nhân Thôi Sơn dùng để giết người cướp của. Y khi chưa sáng giáo lập phái, thường ở trên sa mạc Ba Tư ăn cướp những lữ hành, mỗi khi thấy những thương đội đi đến, liền ngồi xuống đấm ngực kêu khóc than trời trách đất, những con buôn thể nào cũng đến hỏi thăm.

Y đột nhiên đá cát bay tung lên, làm bọn lái buôn mù mắt, rồi rút đao ra đâm chém, chỉ trong giây lát là đã khiến hàng chục thương nhân máu vãi trên sa mạc, chết nằm lăn quay, là một chiêu số hết sức âm độc. Trương Vô Kỵ lúc này đá tung tuyết trên mặt đất, cũng không khác gì đá cát.

Võ Đương tứ hiệp trong nhất thời chỉ thấy tuyết bay đầy mặt, hai mắt không thấy gì nhưng bốn người ứng biến thật nhanh, lập tức nhảy vọt về sau. Thế nhưng Trương Vô Kỵ ra tay lại còn nhanh hơn, ôm luôn lấy hai chân Du Liên Châu lăn một cái, thuận tay liền điểm luôn ba chỗ huyệt đạo, tiếp theo phóng mình lên lộn một vòng, lúc rơi xuống đầu gối quì luôn vào đỉnh đầu Ân Lê Đình, đụng luôn vào hai huyệt Ngũ Xứ và Thừa Quang trên đỉnh đầu. Ân Lê Đình liền ngất đi, nằm lăn ra mặt tuyết. Tống Viễn Kiều phi thân lại cứu, Trương Vô Kỵ ngồi thụp về sau đúng ngay vào lòng ông ta. Tống Viễn Kiều thu kiếm về không kịp, tay trái bắt kiếm quyết, múa chưởng đánh ra, chưởng lực chưa kịp nhả, ngực đã thấy tê đi, bị chàng dùng hai cùi chỏ thúc luôn vào huyệt đạo.

Trương Tùng Khê hết sức kinh hãi, trong bốn người nay chỉ còn một mình, không thể nào địch lại người này nhưng nghĩa đồng môn thâm trọng, không thể nào bỏ chạy để mong thoát chết, liền vung trường kiếm lên, chát chát chát đâm luôn ba kiếm vào Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ thấy sư bá tuy ở cảnh nguy nan nhưng kiếm pháp vẫn cực kỳ trầm ổn, kiếm chiêu không loạn một chút nào, ba đường kiếm đó thật là ghê gớm nhưng chiêu nào cũng nghiêm thủ gia pháp Võ Đương, trong bụng phải khen thầm: ?Nếu ta không học được môn võ công cổ quái này, để có thể chống trả được bốn vị sư bá sư thúc liên thủ tấn công, thực không phải là chuyện dễ?. Chàng liền lắc lư cái đầu liên tiếp chạy thành một vòng tròn, Trương Tùng Khê vẫn không chuyển động, không thèm để ý đến việc chàng lắc đầu nhún nhẩy, nghe vù một tiếng, thanh trường kiếm đã xé gió đâm thẳng vào ngực chàng. Trương Vô Kỵ hụp đầu xuống, lao luôn vào mũi kiếm, đột nhiên nằm xoài ra vọt về trước, lập tức bụng dưới và bốn nơi trên hai đùi của tứ hiệp đã bị điểm trúng, ngã lăn ra tuyết.

Bốn nơi Trương Vô Kỵ điểm đó chỉ cốt làm tê dại nửa thân dưới, đang định tới điểm thêm một chỉ vào huyệt Trung Khu nơi sau lưng, bỗng thấy Trương Tùng Khê kêu lên một tiếng thảm thiết, hai mắt trợn ngược, thân trên quằn quại, dãy mấy cái rồi thở hắt ra chết tươi. Trương Vô Kỵ thấy thế sợ hãi không để đâu cho hết, nghĩ thầm mình điểm huyệt đâu có dùng trọng thủ, đến bị thương nhẹ cũng không thể có làm sao có thể chí mệnh được, hay là tứ sư bá có bệnh ngầm, nay vì trúng chỗ nhược nên bệnh chứng phát tác? Chàng toát mồ hôi lạnh, vội vàng đưa tay sờ thử mũi Trương Tùng Khê.

Ngay lúc đó, Trương Tùng Khê tay trái tung ra, giựt ngay mảnh áo che mặt của chàng. Hai người sững sờ nhìn nhau, đều ngẩn người không nói được câu nào. Một lát sau, Trương Tùng Khê mới thở dài:

- Vô Kỵ giỏi nhỉ, hóa ra ? hóa ra ? là ngươi, thật không uổng công chúng ta đối với ngươi như thế.

Giọng ông nói nghe nghẹn ngào, mặt đầy vẻ tức tối, nước mắt ròng ròng chảy xuống, chẳng biết vì đau lòng hay vì giận dữ. Thì ra ông biết là không sao địch lại nhưng nghĩ đến khi chết chẳng biết mặt mũi kẻ địch ra sao, Võ Đương tứ hiệp chết vì tay ai, quả thật không nhắm mắt, nên giả vờ chết để giựt miếng da che mặt kẻ địch ra.

Trương Vô Kỵ bản tính vốn thực thà, hai nữa quá lo lắng cho tứ sư bá nên không kịp đề phòng. Chàng lúc này so với bị lăng nhục còn khổ hơn nhiều, mất cả hồn vía, quýnh quáng không biết làm sao, chỉ ấp úng:

- Tứ sư bá, không phải cháu, không phải cháu ? thất sư thúc không phải cháu ? không phải do cháu giết đâu ?

Trương Tùng Khê cười ha ha một cách đau đớn nói:

- Giỏi lắm, giỏi lắm, mày mau mau hết anh em tao đi. Đại ca, nhị ca, lục đệ, các người nhìn rõ chưa, tên Thát tử chó má này có phải ai đâu, chính là thằng bé Vô Kỵ mà mình hết bụng thương yêu đó.

Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Ân Lê Đình ba người không cử động được, chỉ ngơ ngơ ngẩn ngẩn nhìn Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thần trí mê loạn, đang định nhặt thanh kiếm dưới đất lên cứa ngang cổ mình, Triệu Mẫn đột nhiên kêu lên:

- Trương Vô Kỵ, đại trượng phu phải biết gắng chịu oan khuất nhất thời, có gì phải gấp gáp, trên đời này chuyện gì rồi cũng có lúc rõ trắng đen. Chàng phải làm sao kiếm cho ra chân hung thủ giết hại Mạc thất hiệp, báo thù cho ông ta để khỏi phụ lòng chư hiệp phái Võ Đương thương yêu anh như thế.

Trương Vô Kỵ rùng mình, quả thực những lời đó rất hữu lý bèn nói:

- Thế bây giờ mình phải làm sao?

Nói xong chàng đi đến bên cạnh nàng, đưa tay xoa bóp mấy cái nơi lưng và hông giải huyệt cho Triệu Mẫn. Triệu Mẫn nhỏ nhẹ an ủi chàng:

- Chàng đừng quá ư đau lòng. Trong Minh Giáo có biết bao nhiêu cao thủ, dưới tay em cũng không thiếu người tài trí, thể nào mình cũng bắt được kẻ gây ra tội ác.

Trương Tùng Khê kêu lên:

- Trương Vô Kỵ, nếu ngươi còn một chút lương tâm thì mau mau giết bốn anh em ta đi. Ta không còn chịu nổi hai đứa chúng bay chàng chàng thiếp thiếp, giở xấu ra nữa.

Trương Vô Kỵ mặt mày tím ngắt, không biết phải làm sao. Triệu Mẫn nói:

- Mình việc trước hết là phải cứu Hàn Lâm Nhi rồi đi cứu nghĩa phụ anh, trên đường sẽ thăm dò xem ai là người gia hại Mạc thất hiệp, cùng kẻ làm hại biểu muội anh.

Trương Vô Kỵ sững sờ, lắp bắp:

- Cái ? cái gì?

Triệu Mẫn lạnh lùng nói:

- Mạc thất hiệp có phải do anh giết không? Tại sao bốn vị sư bá sư thúc của anh lại nghĩ như thế? Ân Ly có thực do tôi giết không? Sao anh lại đổ cho tôi? Chẳng lẽ chỉ có anh mới có quyền đổ oan cho người khác, chứ không chịu để cho người khác vu oan cho mình hay sao?

Mấy câu đó thực chẳng khác gì sấm ran chớp giật, xoáy thẳng vào tai Trương Vô Kỵ, cho đến bây giờ chàng mới hay rằng cuộc đời này thật khó mà lường, thấm thía cái nỗi oan tình không sao biện bạch, nghĩ thầm: ?Không lẽ Triệu cô nương nàng cũng ? nàng cũng ? giống như ta, bị người khác đổ tiếng oan cho hay sao??.

Triệu Mẫn hỏi:

- Anh điểm huyệt các vị sư bá sư thúc, liệu họ có thể tự mình giải khai được không?

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

- Đây là kỳ môn công phu trên thánh hỏa lệnh, các sư bá sư thúc không tự giải được, nhưng sau mười hai giờ sẽ tự giải huyệt.

Triệu Mẫn nói:

- Ồ, vậy thì mình đem họ bỏ vào trong sơn động rồi ra đi. Trước khi tìm ra chân hung thủ, anh không nên gặp lại họ làm gì.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế nhưng trong hang có dã thú, nai hoẵng ra vào, thi thể của Mạc thất thúc cũng bị dã thú cắn nát đó.

Triệu Mẫn thở dài:

- Xem chừng trong lòng anh đang rối loạn, chẳng còn nghĩ ra được chuyện gì nữa rồi. Chỉ cần một vị nửa thân người cử động được, trong tay cầm kiếm thì nào có dã thú nào dám đụng chạm đến họ?

Trương Vô Kỵ lật đật nói:

- Đúng rồi, đúng rồi.

Chàng liền vác Võ Đương tứ hiệp lên để vào sau một tảng đá lớn để tránh gió tuyết, nhưng cả bốn người vẫn tiếp tục chửi mắng luôn miệng. Trương Vô Kỵ mắt rưng rưng, không dám trả lời. Triệu Mẫn nói:

- Các vị là cao nhân trong võ lâm, nhưng sao không biết gì cả. Nếu Mạc thất hiệp do Trương Vô Kỵ giết, thì lúc này chỉ mỗi người một kiếm diệt khẩu, có gì khó khăn đâu? Y đã nhẫn tâm giết Mạc thất hiệp được, không lẽ không đủ nhẫn tâm giết bốn vị hay sao? Các vị mà còn mở miệng chửi rủa nữa, Triệu Mẫn này sẽ tặng cho mỗi vị một cái bạt tai. Tôi là yêu nữ gian trá ác độc, đã nói là sẽ làm. Hôm trước ở chùa Vạn An, tôi nể mặt Trương công tử, nên đối với các vị lễ kính hơn những người khác. Cao thủ các phái Thiếu Lâm, Côn Lôn, Nga Mi, Hoa Sơn, Không Động ai ai cũng bị tôi chặt ngón tay. Vậy mà tôi đối với chư hiệp phái Võ Đương có chút nào không nên không phải chăng?

Bọn Tống Viễn Kiều ai nấy bàng hoàng, tuy vẫn cho rằng Trương Vô Kỵ giết chết Mạc Thanh Cốc nhưng cũng sợ Triệu Mẫn ra tay đánh thật, đại trượng phu có thể bị giết mà không có thể chịu nhục, nếu như bị con yêu nữa này cho mấy cái tát tai thì quả là đại sỉ nhục, thành thử đành ngậm miệng không dám chửi nữa. Triệu Mẫn mỉm cười, quay sang nói với Trương Vô Kỵ:

- Anh đi dắt những con ngựa của họ lại đây mình chở họ đến cái hang.

Trương Vô Kỵ hơi chần chừ đáp:

- -??? Thôi để tôi ôm chư vị này đến đó cũng được.

Triệu Mẫn hiểu ngay tâm ý của chàng, cười khẩy nói:

- Anh võ công cao cường thật, nhưng liệu có ôm cả bốn người một lượt được không? Anh ngại một khi anh đi khỏi rồi, tôi sẽ ra tay giết hại bốn vị sư bá sư thúc, trước sau anh vẫn chưa hoàn toàn tin tôi. Được rồi, để tôi đi dắt ngựa lại, anh ở đây canh chừng.

Trương Vô Kỵ bị nàng nói trúng tim đen, mặt đỏ lên nhưng quả đúng là chàng không dám đem tính mạng bốn vị sư bá sư thúc giao cho cô gái tình tình không dễ đo lường này, liền nói:

- Thôi đành phải phiền cô đi dắt mấy con ngựa lại đây, tôi đứng đây canh chừng cho bốn vị sư bá sư thúc. Thương thế của cô ra sao, đi đường có trở ngại gì không?

Triệu Mẫn cười nhạt:

- Dù anh có ân cần tha thiết tới đâu, người ta cũng chẳng tin anh đâu. Mình có son sắt nhiệt tình người ta cũng chỉ cho rằng lòng lang dạ thú thôi.

Nói xong nàng quay đi dắt ngựa. Trương Vô Kỵ ngẫm nghĩ mấy lời nàng vừa nói, không biết nàng nói đây là nói chàng bị các sư bá sư thúc nghi ngờ, hay nói về nàng bị chính mình nghi oan, đưa mắt nhìn theo lưng nàng đang chậm rãi bước đi, thân hình lảo đảo, quả thực bị thương rồi đi đứng khó khăn, trong bụng vừa thương xót, vừa thấp thỏm.

Triệu Mẫn đi chưa được bao xa, bỗng nghe có tiếng chân ngựa từ trên đường mạn bắc đổ xuống, một con đi trước, hai con đi sau, cả thảy ba người. Triệu Mẫn nghe thấy tiếng chân ngựa, vội vàng chạy trở về nói:

- Có người đến kìa.

Trương Vô Kỵ giơ tay vẫy, Triệu Mẫn vội chạy đến sau tảng đá, nằm nép vào bên cạnh chàng, thấy Du Liên Châu một nửa người còn ở bên ngoài liền kéo ông ta vào.

Du Liên Châu hầm hầm nhìn nàng, quát lên:

- Đừng động vào ta.

Triệu Mẫn cười đáp:

- Tôi cứ kéo ông xem ông làm gì tôi nào?

Trương Vô Kỵ quát lên:

- Triệu cô nương, không được vô lễ với sư bá tôi.

Triệu Mẫn le lưỡi, nhăn mặt trêu Du Liên Châu. Ngay lúc đó, một con ngựa đã chạy tới không còn cách bao xa, còn hai con ngựa ở đằng sau cũng đang đuổi tới, chỉ còn cách nhau chừng hai ba chục trượng. Con ngựa chạy trước tới gần hơn, Trương Vô Kỵ hạ giọng nói:

- Đó là Tống Thanh Thư Tống đại ca.

Triệu Mẫn nói:

- Mau ngăn y lại.

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Sao thế?

Triệu Mẫn đáp:

- Đừng hỏi nhiều, anh quên những gì đã nghe thấy trong miếu Di Lặc rồi sao?

Trương Vô Kỵ chợt động tâm, nhặt dưới đất một mảnh băng, bắn vụt ra, nghe vèo một tiếng, mảnh băng bay ra trúng ngay đùi trước con ngựa Tống Thanh Thư đang cưỡi. Con ngựa đó đau quá, nằm khuỵu xuống ngay.

Tống Thanh Thư nhỏm dậy, đang toan đỡ con ngựa lên nhưng con ngựa đó bị ngã đã gãy chân trái. Y thấy những kẻ đuổi theo càng lúc càng gần, vội vàng chạy về đằng trước. Trương Vô Kỵ lại cầm một mảnh băng khác bắn ra, trúng ngay huyệt đạo trên đùi y. Còn Triệu Mẫn vung tay ra liên tiếp bốn lần, đã điểm trúng á huyệt của Võ Đương tứ hiệp, kịp thời ngăn chặn Tống Viễn Kiều lên tiếng gọi con. Chỉ thấy Tống Thanh Thư ?A? lên một tiếng, nằm lăn ra đất.

Sau hai lần ngăn trở ấy, hai người cưỡi ngựa phía sau đã đuổi đến nơi, chính là Trần Hữu Lượng và Chưởng Bát long đầu của Cái Bang. Trương Vô Kỵ trong bụng hơi lạ: ?Ba người này đi đến núi Trường Bạch tìm độc vật để chế thuốc, sao lại một người chạy, hai người đuổi đến nơi này là sao??. Chàng lại nghĩ ngay: ?Đúng rồi, chắc là thiên lương của Tống đại ca nổi lên, không chịu làm hành vi bất hiếu bất nghĩa kia, cũng may là gặp phải tay mình nên có dịp cứu cho?.

Trần Hữu Lượng và Chưởng Bát long đầu nhảy xuống, hai người vẫn tưởng con ngựa Tống Thanh Thư đang cưỡi chạy lâu nên hụt hơi bị trượt chân, hất y ngã xuống. Thế nhưng Tống Thanh Thư võ công cao cường, có ngã cũng chỉ bị thương nhẹ nên họ đến gần lập tức rút binh khí ra chỉ thẳng vào người y.

Trương Vô Kỵ nhặt một miếng băng lên, đang định bắn vào Trần Hữu Lượng, Triệu Mẫn liền nắm tay chàng xua xua tay. Trương Vô Kỵ quay lại nhìn nàng. Triệu Mẫn liều giơ tay khum khum để bên tai, rồi chỉ vào Tống Thanh Thư, ý nói chàng nên lắng tai nghe bọn họ nói gì. Chỉ nghe Chưởng Bát long đầu hung hăng nói:

- Họ Tống kia, ngươi đêm hôm len lén bỏ chạy là cớ làm sao? Có phải định đi thông báo tin tức cho cha ngươi biết phải không?

Tay y múa một thanh tử kim bát quái đao, nhứ như trên đầu Tống Thanh Thư, làm như định chém xuống. Tống Viễn Kiều nghe thấy tiếng thanh bát quái đao vùn vụt, lo lắng cho an nguy của đứa con yêu, càng thêm bồn chồn. Trương Vô Kỵ ngẫu nhiên quay lại, thấy ánh mắt ông từ vẻ lo lắng biến thành khẩn cầu, liền gật đầu, ý muốn nói: ?Sư bá yên tâm, cháu không để cho Tống đại ca bị tổn thương đâu?. Chàng nghĩ thầm: ?Lòng cha mẹ thương con quả thật như trời như bể, đại sư bá đang oán ghét, tức giận không băm vằm được mình ra hàng trăm nghìn mảnh, vậy mà khi thấy Tống sư ca gặp nguy nan, liền quay qua mình nhờ vả ngay. Nếu phải như chính đại sư bá bị nguy khốn, ông là người anh hùng can đảm, nhất định không bao giờ tỏ ra yếu đuối phải cầu đến ai đâu?. Trong một giây ngắn ngủi, chàng mủi lòng nghĩ đến Tống Thanh Thư có người lo lắng, yêu thương, còn mình chỉ là một đứa con côi không cha không mẹ.

Lại nghe Tống Thanh Thư nói:

- Tôi không chạy đi báo cho cha tôi đâu.

Chưởng Bát long đầu nói:

- Bang chủ sai ngươi đi với ta đến núi Trường Bạch hái thuốc, ngươi lại bỗng dưng bỏ đi không cáo biệt là sao?

Tống Thanh Thư nói:

- Ai ai cũng có cha có mẹ, các người lại tàn nhẫn ép tôi phải làm hại cha tôi là sao? Tôi quyết không thể nào làm chuyện tồi tệ của loài cầm thú như vậy được.

Chưởng Bát long đầu gay gắt nói:

- Ngươi quyết tâm chống lại hiệu lệnh của bang chủ chăng? Tội phản bang bị trừng trị thế nào, ngươi có biết không?

Tống Thanh Thư đáp:

- Tôi là kẻ có tội vốn đã không còn muốn sống làm gì. Mấy hôm nay mỗi khi tôi vừa chợp mắt là thấy Mạc thất thúc hiện ra đòi mạng, hồn ma ông ta vất vưởng, lúc nào cũng lẩn quẩn bên tôi. Chưởng Bát long đầu, ông một đao chém tôi chết đi cho xong, tôi xin đa tạ ông đã thành toàn cho.

Chưởng Bát long đầu giơ cao thanh bát quái đao quát lớn:

- Được, để ta thành toàn cho ngươi.

Trần Hữu Lượng liền xen vào:

- Long đầu đại ca, Tống huynh đệ nếu như không bằng lòng, có giết y cũng vô ích, thôi mình để cho y đi.

Chưởng Bát long đầu ngạc nhiên:

- Ngươi bảo tha cho y đi ư?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Đúng vậy. Y chính tay giết chết sư thúc y là Mạc Thanh Cốc, ắt sẽ có người trong môn phái của y thanh toán, việc gì phải để máu của những tên bất nghĩa làm bẩn binh khí của người trong hiệp đạo chúng ta.

Hôm trước nơi miếu Di Lặc Trương Vô Kỵ từng nghe Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư nói đến Mạc Thanh Cốc, cái gì mà ?kẻ dưới phạm người trên?, đã nghi Tống Thanh Thư đắc tội với Mạc sư thúc, nhưng không thể nào ngờ rằng ông ta lại bị y giết chết. Bọn Tống Viễn Kiều bốn người tuy mục quang bị tảng đá che khuất, nhưng những gì Tống Thanh Thư nói đều lọt vào tai khiến cho ai nấy đều chấn động. Chỉ có Triệu Mẫn dường như đã đoán được vài ba phần nên khóe miệng nhếch một nụ cười khinh miệt.

Lại nghe Tống Thanh Thư run run nói:

- Trần đại ca, đại ca từng lập lời thề, quyết không tiết lộ chuyện cơ mật đó ra, nếu như đại ca không nói thì cha tôi làm sao biết được?

Trần Hữu Lượng lạnh lùng cười khẩy, đáp:

- Ngươi chỉ nhớ lời thề của ta, mà lại không nhớ lời thề độc của chính ngươi. Ngươi nói từ nay về sau đều nghe lời ta sai bảo. Cái đó là ngươi hủy lời ước trước, hay là ta không chịu giữ lời?

Tống Thanh Thư trầm ngâm một lát, nói:

- -??? Đại ca bắt tôi phải bỏ thuốc độc vào đồ ăn thức uống của thái sư phụ và cha tôi, tôi thà chết cũng không làm, đại ca mau mau đâm tôi một kiếm đi cho xong.

Trần Hữu Lượng nói:

- - Này Tống huynh đệ, người đời thường nói rằng, kẻ hiểu biết thời thế mới là người tuấn kiệt, bọn ta nào có bắt ngươi thí phụ diệt tổ đâu, chẳng qua chỉ bỏ thuốc mê, để họ bị hôn trầm một phen thôi. Ở trong miếu Di Lặc ngươi đã chả bằng lòng là gì?

Tống Thanh Thư nói:

- Không đâu, không đâu! Tôi chỉ bằng lòng bỏ thuốc mê nhưng Chưởng Bát long đầu lại đi bắt những loài rắn hổ mang, rết cực độc là những thứ giết người chứ nào phải những loại thuốc mê tầm thường đâu.

Trần Hữu Lượng thản nhiên chậm rãi rút thanh kiếm về nói:

- Chu cô nương của phái Nga Mi đẹp như tiên giáng trần, trên đời này quả không kiếm ra một người thứ hai được như thế, huynh đệ đành lòng để cô ta rơi vào tay Trương Vô Kỵ, quả thật lạ kỳ. Tống huynh đệ, canh khuya đêm hôm đó, ngươi đi nhìn trộm phòng ngủ của các cô phái Nga Mi để cho thất sư thúc bắt gặp, nên đuổi theo ngươi, để rồi nơi vách đá hai bên tỉ võ, chuyện cháu giết chú mới xẩy ra. Cái đó là bởi đâu mà có? Chẳng phải là vì con người Chu cô nương ôn nhu mỹ mạo hay sao? Việc đã đến nước này, đâm lao phải theo lao, ngựa vào đường hẹp sao quay đầu lại được nữa? Ta xem ngươi trèo cau tới buồng mà nay bỏ trôi theo dòng nước, chẳng đáng tiếc lắm hay sao?

Tống Thanh Thư loạng choạng đứng lên, giận dữ nói:

- Trần Hữu Lượng, ngươi hoa ngôn xảo ngữ, bức bách ta. Đêm hôm đó ta làm bại hoại môn phong phái Võ Đương, bị Mạc sư thúc đuổi tới, có chết dưới tay sư thúc cũng là đáng lắm, ai bảo ngươi ra tay tương trợ? Ta trúng phải ngụy kế của ngươi, để đến thân bại danh liệt, rơi xuống bùn sâu không sao rút ra được nữa.

Trần Hữu Lượng cười nói:

- Hay nhỉ, hay nhỉ! Sau lưng Mạc Thanh Cốc bị trúng phải Chấn Thiên Thiết Chưởng, là do ngươi đánh, hay là do Trần Hữu Lượng này đánh? Cái đó có phải là võ công của phái Võ Đương không? Sao ta biết được? Đêm đó ta ra tay cứu mạng cho ngươi, lại bảo tồn danh thanh cho ngươi, ngươi lại cho là sai ư? Tống huynh đệ, ta với ngươi giao thiệp bấy lâu, chuyện đã qua thôi khỏi cần nói nữa. Chuyện ngươi giết chú, ta sẽ thủ khẩu như bình, quyết không tiết lộ nửa câu. Núi cao sông rộng, sau này thể nào chẳng có dịp gặp nhau.

Tống Thanh Thư run run hỏi lại:

- Trần ? Trần đại ca, đại ca ? đại ca sẽ làm gì tôi đây?

Trong giọng nói y đầy vẻ băn khoăn. Trần Hữu Lượng cười:

- Sẽ làm gì ngươi ư? Chẳng làm gì cả. Để ta cho ngươi xem một vật coi ngươi biết là gì không?

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn náu mình sau tảng đá đều muốn thò đầu ra xem Trần Hữu Lượng lấy cái gì ra, nhưng đành phải cố nhịn. Chỉ nghe Tống Thanh Thư ?A? lên một tiếng, run run hỏi:

- Cái này ? cái này là thiết chỉ hoàn của chưởng môn phái Nga Mi, là vật của Chu cô nương, sao đại ca ? đại ca lại lấy đâu ra?

Trương Vô Kỵ hơi rùng mình, nghĩ thầm: ?Khi ta và Chỉ Nhược chia tay, thấy rõ ràng nàng vẫn còn đeo cái nhẫn chưởng môn, sao bây giờ lại vào tay Trần Hữu Lượng là sao? Chắc là y làm giả để đem ra bịp người?.

Chỉ nghe Trần Hữu Lượng cười khẽ một tiếng nói:

- Ngươi nhìn cho kỹ, cái này đồ thật hay đồ giả đây.

Một lát sau, Tống Thanh Thư mới nói:

- Khi tôi ở Tây Vực có hỏi Diệt Tuyệt sư thái võ công, thấy trên tay bà ta có đeo chiếc nhẫn này, xem ra có lẽ là thật đó.

Chỉ nghe coong một tiếng kim loại chạm nhau, Trần Hữu Lượng nói:

- Nếu như là món đồ giả, nhát kiếm này đã chặt đứt đôi ra rồi. Ngươi xem đây, bên trong chiếc nhẫn có bốn chữ ?Lưu Di Tương Nữ?[2] làm sao có thể giả được? Đây chính là huyền thiết chỉ hoàn, di vật của tổ sư Quách Tương nữ hiệp phái Nga Mi.

Tống Thanh Thư nói:

- Trần đại ca, đại ca lấy đâu ra? Chu cô nương cô ta ? cô ta ra sao?

Trần Hữu Lượng lại cười nói:

- Chưởng Bát long đầu, thôi mình đi, trong Cái Bang từ nay không có gã này nữa.

Chỉ nghe tiếng chân, hai người đã quay mình ra đi. Tống Thanh Thư kêu lên:

- Trần đại ca, mau quay lại. Chu cô nương đã rơi vào tay đại ca rồi chăng? Cô ta bây giờ còn sống hay đã chết?

Trần Hữu Lượng vẫn tiếp tục đi mỉm cười nói:

- Đúng thế, Chu cô nương đang ở trong tay ta, một giai nhân xinh đẹp như thế, ở trên đời này có người đàn ông nào nhìn thấy mà không động tâm đâu? Ta đến nay chưa thành gia thất, nếu như cầu xin bang chủ gả Chu cô nương cho ta làm vợ, ắt là bang chủ sẽ bằng lòng ngay.

Tống Thanh Thư ậm ự mấy tiếng dường như nói không ra lời. Trần Hữu Lượng lại nói tiếp:

- Đúng ra thì người quân tử không cướp đoạt vật sở hữu của người khác, Tống huynh đệ cũng vì Chu cô nương mà gây ra một chuyện tày trời, Trần Hữu Lượng này đâu có thể vì mỹ sắc mà làm tổn thương nghĩa khí anh em? Thế nhưng ngươi nay đã là kẻ phản bang có tội, chúng ta ân đoạn nghĩa tuyệt rồi, không còn gì phải nói nữa, có đúng không nào?

Tống Thanh Thư lại ậm ừ mấy tiếng. Trương Vô Kỵ liếc nhìn Tống Viễn Kiều, thấy hai dòng lệ chảy dài trên má ông, hiển nhiên trong lòng cực kỳ đau thương. Bỗng nghe Tống Thanh Thư nói:

- Trần đại ca, long đầu đại ca, quả thực tôi nhất thời hồ đồ, mong hai vị lượng thứ cho, tôi xin lỗi các vị.

Trần Hữu Lượng cười ha hả nói:

- Có thế chứ, có thế mới là anh em chứ. Ta vỗ ngực đảm bảo với huynh đệ rằng, chỉ cẩn ngươi đem mông hãn dược lên núi Võ Đương, len lén bỏ vào nước trà, tính mạng lệnh tôn đại nhân chớ có lo gì cả, còn người đẹp Chu Chỉ Nhược kia sẽ thành người nâng khăn sửa túi cho ngươi. Bọn chúng ta muốn hiếp chế Trương Tam Phong chân nhân và chư hiệp phái Võ Đương cũng chỉ để ép cho Trương Vô Kỵ phải nghe lệnh bọn ta. Nếu như làm hại Trương chân nhân và lệnh tôn, Trương Vô Kỵ thể nào chả kiếm Cái Bang báo thù thì có gì gọi là tốt lành cho bọn ta đâu?

Tống Thanh Thư nói:

- Đại ca nói phải lắm.

Trần Hữu Lượng lại nói:

- Đợi đến khi Cái Bang chế ngự được Minh Giáo rồi, khu trừ Thát tử xong, thu được thiên hạ, bang chủ chúng ta lên ngôi cửu ngũ, bọn chúng ta ai ai cũng là khai quốc công thần. Phong thê ấm tử là chuyện đương nhiên, ngay cả lệnh tôn đại nhân cũng vì huynh đệ mà được nở mày nở mặt.

Tống Thanh Thư cười gượng:

- Cha tôi đạm bạc đã quen, không màng danh lợi, tiểu đệ chỉ mong lão nhân gia tha cho không giết cũng đã thỏa nguyện rồi.

Trần Hữu Lượng cười nói:

- Trừ phi lệnh tôn là thần tiên biết được quá khứ vị lai, chứ không làm sao rõ chuyện đầu đuôi thế nào? Tống huynh đệ, chân ngươi có bị thương không? Thôi lên đây, hai người mình cưỡi chung một con ngựa, đến thị trấn đằng trước mình sẽ mua ngựa khác.

Tống Thanh Thư nói:

- Tôi chạy vội quá, chân bị va vào băng, không hiểu sao xui quá lại trúng ngay huyệt Trúc Tân. Trên đời kể cũng thật khéo xếp đặt.

Lúc đó y chĩ lo tới chuyện Chưởng Bát long đầu và Trần Hữu Lượng ở đằng sau đuổi tới, đâu có ngờ lại có người nấp sau tảng đá ám toán mình, chỉ cho rằng vì mình vô ý nên va phải cạnh băng nhọn mà thôi. Trần Hữu Lượng cười nói:

- Thế sao gọi là xui xẻo được? Cái đó phải nói là Tống huynh đệ diễm phúc tày trời, cái số có vợ đẹp đấy chứ. Nếu không bị va chân thì bọn ta làm sao đuổi kịp, ngươi vẫn chấp nê chưa tỉnh, chính mình trở thành thân bại danh liệt, lại làm hỏng luôn cả đại sự của bản bang. Thế rồi cô gái sắc nước hương trời Chu Chỉ Nhược kia phải theo Trần Hữu Lượng này một đời, có khác gì phượng hoàng sánh với quạ khoang, bông hoa cắm bãi phân bò?

Tống Thanh Thư hừ một tiếng nói:

- Trần đại ca, không phải là huynh đệ không biết phải quấy, không tin đại ca ?

Trần Hữu Lượng không để y nói hết câu, chen vào:

- Ngươi muốn gặp Chu cô nương, có phải không nào? Chuyện đó cũng dễ lắm. Hiện nay bang chủ và các trưởng lão đều đang ở Lô Long, Chu cô nương cũng đi theo đến đó. Tất cả chúng mình cùng đến Lô Long để gặp họ là xong. Đợi việc lớn ở núi Võ Đương xong rồi, người anh này lập tức giúp ngươi lo việc cưới cheo, cho ngươi xứng tâm thỏa nguyện, lúc ấy sẽ cám ơn Trần đại ca không để đâu cho hết, ha ha, ha ha!

Tống Thanh Thư nói:

- Hay lắm, vậy thì chúng mình đi đến Lô Long. Trần đại ca, Chu cô nương vì sao lại ? lại đi theo bản bang?

Trần Hữu Lượng cười nói:

- Cái đó là công lao của long đầu đại ca. Hôm đó Chưởng Bát long đầu và Chưởng Bổng long đầu uống rượu trên tửu lâu, thấy có ba người giả làm đệ tử bản bang trà trộn vào, sau đó sai người theo dõi mới hay trong đó có một vị thiên kiều bách mị là Chu cô nương. Chưởng Bát long đầu liền sai người đi mời họ đến. Ngươi yên tâm, Chu cô nương bình an đại cát, không bị tổn thương đến một sợi tóc nào đâu.

Trương Vô Kỵ trong bụng kêu khổ thầm: ?Thì ra nơi quán rượu bọn họ đã nhìn ra mình rồi. Nếu như nghĩa phụ mắt còn sáng, lão nhân gia thể nào cũng nhìn ra những điều khác thường. Ôi, ta và Chỉ Nhược không hề hay biết gì cả, không biết nghĩa phụ có được bình an không??.

Thế nhưng Trần Hữu Lượng nói chuyện tuyệt nhiên không nhắc gì đến Tạ Tốn, y nói tiếp:

- Chu cô nương và huynh đệ thành thân rồi, hai phái Nga Mi, Võ Đương đều nghe hiệu lệnh của Cái Bang, lại thêm Minh Giáo, thanh thế sẽ lừng lẫy biết chừng nào? Chỉ cần đánh bại được người Mông Cổ thì giang sơn gấm vóc này, ha ha, sẽ thay thầy đổi chủ ngay.

Y nói mấy câu đó có vẻ đắc ý lắm, cứ làm như Cái Bang đã lấy được thiên hạ rồi, và y Trần Hữu Lượng sắp sửa lên ngôi Hoàng Đế, chễm chệ ngồi trên long đình đến nơi. Chưởng Bát long đầu và Tống Thanh Thư cũng gượng cười ha ha mấy tiếng phụ họa. Trần Hữu Lượng nói:

- Thôi bọn mình đi chứ! Tống huynh đệ, Mạc thất hiệp chết cũng gần đâu đây, cái hang mình dấu xác ông ta cũng không xa là mấy, phải không nhỉ? Ngươi chạy đến đây, bỗng dưng ngựa khụy chân trước, không lẽ là do âm hồn Mạc thất hiệp hiển linh chăng? Ha ha! Ha ha!

Tống Thanh Thư không dám trả lời, ba người đi đến bên ngựa lên yên chạy đi.

Trương Vô Kỵ đợi ba người đi xa rồi mới vội vàng giúp Võ Đương tứ hiệp giải huyệt, lạy phục xuống đất, liên tiếp khấu đầu nói:

- Sư bá, sư thúc, điệt nhi ở vào cảnh hiềm nghi, không sao biện bạch được, xin sư bá sư thúc các vị xử phạt thật nặng.

Tống Viễn Kiều thở dài một tiếng, hai mắt rưng rưng, ngửng đầu nhìn trời không nói nên lời. Du Liên Châu vội vàng đỡ Trương Vô Kỵ dậy nói:

- Lúc trước chúng ta đã trách lầm ngươi, chính là chúng ta không phải. Mình là người nhà, tình như ruột thịt cháu khỏi phải nói nhiều. Nào có ai ngờ được là Thanh Thư ? ôi, nếu như chẳng phải chúng ta chính tai nghe thấy, thì ai mà dám tin?

Tống Viễn Kiều rút phắt trường kiếm nói:

- Thì ra thất đệ bắt gặp thằng súc sinh Thanh Thư ? quân chó má ? dòm trộm phòng ngủ các nữ hiệp phái Nga Mi nên mới đuổi theo thanh lý môn hộ. Ba vị sư đệ, cháu Vô Kỵ, tất cả mình đuổi theo, để cho ta chính tay giết chết tên nghịch đồ đó.

Nói xong ông liền thi triển khinh công, đuổi theo hướng Tống Thanh Thư vừa đi khỏi. Trương Tùng Khê kêu lên:

- Đại ca quay lại đã, để mình bàn thảo cho kỹ càng.

Tống Viễn Kiều không để ý tới, vẫn tiếp tục đề khí chạy thật nhanh. Trương Vô Kỵ liền vọt lên, nhún mình mấy cái đã chặn ngay trước mặt Tống Viễn Kiều, khom lưng nói:

- Đại sư bá, tứ sư bá muốn nói chuyện với sư bá. Tống đại ca bị người ta gài bẫy, về sau ắt sẽ có lúc tỉnh ra, đại sư bá muốn trách phạt gì không phải chỉ một lúc này.

Tống Viễn Kiều nghẹn ngào nói:

- Thất đệ ? thất đệ ? người anh này đối với chú thật chẳng ra gì.

Ông nghĩ tới năm xưa Trương Thúy Sơn vì có lỗi với Du Đại Nham mà vung kiếm tự sát, bây giờ mới thấu rõ cái uẩn tình của người em đồng môn, liền vung trường kiếm đưa lên cứa ngang cổ mình. Trương Vô Kỵ kinh hãi, thi triển Càn Khôn Đại Na Di thủ pháp, vung tay đoạt thanh kiếm trong tay Tống Viễn Kiều, nhưng mũi kiếm vẫn rạch nơi cổ một đường, thành một vệt máu dài.

Lúc đó bọn Du Liên Châu đã chạy đến nơi, Trương Tùng Khê vội khuyên:

- Đại ca, Thanh Thư làm hành vi đại nghịch bất đạo đó, người phái Võ Đương không thể nào dung tha cho y được. Thế nhưng thanh lý môn hộ là chuyện nhỏ, hưng phục giang sơn là chuyện lớn, chúng ta không nên vì chuyện nhỏ mà bỏ chuyện lớn.

Tống Viễn Kiều trợn trừng đôi mắt, bực tức nói:

- Chú ? chú bảo thanh lý môn hộ là chuyện nhỏ? Ta ? ta sinh ra đứa con ngỗ nghịch ?

Trương Tùng Khê nói:

- Cứ như gã Trần Hữu Lượng kia nói, Cái Bang đang toan mượn tay Thanh Thư mưu hại ân sư của chúng ta để uy hiếp các đại môn phái võ lâm toan tính chuyện lấy giang sơn. An nguy của ân sư là chuyện lớn nhất của bản môn, còn họa phúc của võ lâm và bách tính là chuyện lớn nhất của thiên hạ. Việc Thanh Thư làm chuyện bất nghĩa, sớm muộn gì cũng bị báo ứng, mình bàn tính đại sự mới là cần.

Tống Viễn Kiều nghe thấy sư đệ nói có lý, hậm hực tra kiếm vào bao nói:

- Ta bụng dạ lúc này rối như tơ vò, mọi việc nghe theo tứ đệ vậy.

Ân Lê Đình lấy kim sang, thuốc men giúp ông ta buộc vết thương nơi cổ. Trương Tùng Khê nói:

- Cái Bang mưu tính chuyện bất lợi cho ân sư, lúc này lão nhân gia chưa hề hay biết gì cả, chúng ta phải đi suốt ngày đêm về núi Võ Đương. Gã Trần Hữu Lượng kia tuy nói mượn tay Thanh Thư, nhưng những kẻ gian xảo như y có trăm phương nghìn kế, đã ra ra tay rồi không chừng. Việc lớn trước mắt của anh em ta là làm sao bảo vệ tấm thân vàng ngọc của sư phụ, lão nhân gia tuổi tác đã cao, nếu như lại xảy ra việc một nhà sư Thiếu Lâm giả đến báo tin lần nữa thì bọn đệ tử như chúng mình có chết vạn lần cũng không lấy lại được.

Ông vừa nói vừa trừng mắt nhìn Triệu Mẫn đứng ở xa xa, trong lòng vẫn còn căm hận chuyện nàng cho người đến ám toán Trương Tam Phong. Tống Viễn Kiều toát mồ hôi lạnh, run run nói:

- Đúng lắm, đúng lắm! Ta vội chuyện truy sát nghịch tử, quên hẳn chuyện an nguy của sư phụ, thật là đáng chết. Chuyện nặng nhẹ không biết tính toán, đúng là kẻ hồ đồ.

Ông kêu luôn mồm:

- Thôi đi mau, thôi đi mau.

Trương Tùng Khê quay sang nói với Trương Vô Kỵ:

- Vô Kỵ, việc cứu Chu cô nương cháu cố lo. Bao giờ xong việc, nhớ quay về núi Võ Đương.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cháu xin tuân lời dặn bảo của sư bá.

Trương Tùng Khê hạ giọng nói nhỏ:

- Triệu cô nương kia tính tình như lang sói, cháu phải hết sức cẩn thận. Vết xe đổ của Tống Thanh Thư cháu nên ghi nhớ, đại trượng phu nam tử hán, chớ có để vì nữ sắc mà sa chân.

Trương Vô Kỵ đỏ mặt gật đầu. Sau đó Võ Đương tứ hiệp cùng Trương Vô Kỵ đem xác Mạc Thanh Cốc chôn bên cạnh tảng đá, năm người quì xuống vái lạy khóc lóc một hồi rồi bốn người mới từ biệt ra đi.

Triệu Mẫn chậm rãi đi đến trước mặt Trương Vô Kỵ hỏi:

- Tứ sư bá anh nói anh phải cẩn thận, đừng để con yêu nữ này mê hoặc, Tống Thanh Thư là cái gương trước mắt, có đúng không nào?

Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên, bẽn lẽn nói:

- Sao em lại biết? Em có thuận phong nhĩ hay sao?

Triệu Mẫn hừ một tiếng nói:

- Em nói trước rồi đây mấy người đó sẽ không trách Tống Thanh Thư là kẻ vô loài, trái lại sẽ đổ cho Chu tỉ tỉ hồng nhan họa thủy, làm tan nát một đời của Võ Đương thiếu hiệp.

Trương Vô Kỵ nghe ra cũng có lý nhưng miệng vẫn gượng cãi:

- Bọn Tống sư bá ai ai cũng là quân tử biết điều, lẽ nào lại trách người một cách bừa bãi như thế được?

Triệu Mẫn cười khẩy:

- Càng cho mình là quân tử, thì càng hay trách người bừa bãi.

Nàng ngừng lại một lát, cười nói:

- Thôi mau đi cứu Chu cô nương của anh đi kẻo rơi vào tay Tống Thanh Thư thì anh thật xôi hỏng bỏng không.

Trương Vô Kỵ mặt lại đỏ lên:

- Tôi việc gì mà xôi hỏng bỏng không?

Hồi 33

TIÊU TRƯỜNG CẦM ĐOẢN Y LƯU HOÀNG

Chung Nam núi cũ,

Hậu duệ Dương gia.

Nếu không lặn lội từ xa,

Biết đâu đầu não chính là kẻ gian.

Trương Vô Kỵ đi dắt hai con ngựa lại, cùng Triệu Mẫn chạy vào quan nội. Chàng nghĩ thầm nếu quả thực nghĩa phụ bị Cái Bang bắt giữ thì thể nào họ cũng dùng ông làm con tin để hiếp chế Minh Giáo nên nhất thời chắc chưa dám làm hại ông ta nhưng thể nào cũng bị chúng làm nhục, còn Chu Chỉ Nhược băng thanh ngọc khiết, gặp phải tay Trần Hữu Lượng gian trá hiểm độc, thêm Tống Thanh Thư vô liêm sỉ, nếu bị bức bách chắc chỉ còn đường chết. Chàng nghĩ bụng như thế, hận không có cánh bay nhưng Triệu Mẫn lại đang bị thương nên không thể nào ngày đêm chạy một mạch thẳng đến Lô Long.

Tối hôm đó hai người trú lại một tiểu khách điếm, Trương Vô Kỵ nằm trên giường càng nghĩ càng lo, bèn đi đến bên cửa sổ phòng Triệu Mẫn, thấy nàng thở đều, đang lúc ngủ say. Chàng đến quầy chưởng quĩ lấy bút nghiên, viết một lá thư nói là việc đang khẩn cấp, nhất định phải ngày đêm không nghỉ ra đi, bao giờ xong việc sẽ tìm cách gặp lại nhau, dặn nàng dưỡng thương cho chu đáo, cứ thư thả không việc gì phải vội về nhà. Chàng lấy chiếc nghiên chặn trên lá thư để ngay trên bàn rồi nhảy ra cửa sổ, ra sức chạy về hướng nam.

Sáng hôm sau chàng liền tìm mua ngựa, trên đường đi liên tiếp đổi thay, suốt ngày đêm ở trên đường, chỉ vài ngày đã đến Lô Long. Mặc dầu chàng đuổi nhanh như thế nhưng trên đường lại không gặp Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư, có lẽ vì ban đêm chàng chạy trên đường thì Trần Tống hai người lúc đó đang ngủ trong khách điếm thành thử không gặp họ.

Lô Long là một thành phố lớn của tỉnh Hà Bắc, đời Đường là nơi đóng đô của Tiết Độ Sứ, qua đời Tống đời Kim mấy lần chiến tranh bị phá hủy rất nhiều, dân cư đông đúc nhưng nguyên khí đến nay vẫn chưa hồi phục. Trương Vô Kỵ chạy khắp các đường lớn đường bé ở Lô Long, các trà lâu tửu quán nhưng lạ lùng làm sao chẳng gặp một tên ăn mày nào. Chàng lấy làm mừng nghĩ thầm: ?Cả một thành phố lớn như thế này mà trên đường không có một tên ăn xin nào, quả thực chuyện không phải tầm thường. Trần Hữu Lượng nói Cái Bang tụ họp nơi đây quả đúng không sai, có lẽ bọn ăn mày lớn bé đều đi tham kiến bang chủ cả rồi. Chỉ cần tìm được nơi bọn chúng gặp nhau là có thể thám thính được có thực nghĩa phụ và Chỉ Nhược bị họ bắt giữ hay không??. Chàng tìm kiếm khắp các nơi từ miếu mạo, đền đài, từ đường, quảng trường như không thấy chút đầu mối nào, lại đi khắp các thôn trang gần chúng quanh nhưng cũng không thấy chút tung tích gì.

Đi đến chiều, càng tìm kiếm chàng càng nôn nóng, bỗng chợt nghĩ đến cái thông minh của Triệu Mẫn: ?Giá như có nàng ở bên cạnh thì ta đâu có đến nỗi thúc thủ vô sách như thế này?. Chàng đành đi tìm một khách điếm nghỉ ngơi, ăn cơm chiều xong ngủ một giấc, đến khoảng canh hai thì nhảy lên mái nhà nhìn bốn chung quanh xem tình hình ra sao.

Chàng đưa mắt nhìn bốn bề thấy đâu đâu cũng yên tĩnh, không nơi nào có vẻ như giới giang hồ tụ họp, còn đang lo âu, bỗng thấy một tòa lầu cao nơi góc đông nam còn đèn đuốc sáng trưng, nghĩ thầm: ?Nhà này nếu không phải giới quan quyền thì cũng là kẻ giàu có, ắt không có liên quan gì đến Cái Bang??. Vừa nghĩ tới đây, bỗng chàng trông thấy như có bóng người thoắt một cái, ai đó từ trên lầu đã nhảy xuống nhưng vì khoảng cách quá xa nên không nhìn rõ, nghĩ thầm: ?Không lẽ có lục lâm hào khách nào đến ăn cướp nhà giàu có kia? Mình cũng không có việc gì làm, đi theo xem thử thế nào?.

Chàng bèn thi triển khinh công, chạy đến gần căn nhà lớn đó, phi thân nhảy qua tường, bỗng nghe có tiếng người nói:

- Trần trưởng lão quả thật nhiều chuyện, rõ ràng tất cả đã ước định đến mồng tám tháng giêng sẽ tụ tập ở Lão Hà Khẩu, vậy mà lại cấp tốc báo tin truyền đến bảo bọn mình ở đây chờ. Y đâu phải là bang chủ mà nói gì là ai cũng phải theo, thật vô lý hết sức.

Tiếng nói đó nghe vang vang nhưng giọng điệu có vẻ bực tức chỉ nghe cũng biết là người trong Cái Bang đang bàn chuyện nội bộ. Trương Vô Kỵ vừa nghe xong lấy làm mừng rỡ.

Tiếng nói đó từ đại sảnh truyền ra, chàng mon men đến gần, thấy tiếng bang chủ Cái Bang Sử Hỏa Long nói:

- Trần trưởng lão quả là hết xẩy, cái tên Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn con mẹ kia, hai chục năm qua biết bao nhiêu người trên giang hồ đi kiếm y, đếch có ai thấy được chút lông rụng, ngửi được hơi rắm nào của y vãi ra, vậy mà Trần trưởng lão thò tay là túm được ngay, không nói chi bản bang không ai bằng mà trong võ lâm cũng có đứa nào làm được đâu ?

Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa lo, nghĩ thầm tung tích của nghĩa phụ mình đã biết được rồi, trong Cái Bang không có cao thủ nào thật là ghê gớm, chuyện cứu ông ra không phải là khó khăn nên đến gần ghé mắt nhìn qua khe cửa.

Chỉ thấy Sử Hỏa Long ngồi chễm chệ nơi chính giữa, Truyền Công, Chấp Pháp hai trưởng lão, Chưởng Bổng long đầu và ba tên trưởng lão tám túi khác ngồi bên dưới, lại thêm một người trung niên mập mạp ăn mặc sang trọng, trông tướng tá quần áo ra vẻ một người giàu có nhưng trên lưng lại đeo sáu cái bị. Trương Vô Kỵ thầm gật đầu: ?Đúng rồi, thì ra có một đại tài chủ ở Lô Long là đệ tử Cái Bang. Bọn ăn mày tụ tập ở nhà một tay cự phú thì làm sao có ai nghĩ đến được?.

Lại nghe Sử Hỏa Long tiếp lời:

- Trần trưởng lão đã đưa tin đến nói bọn ta chờ ở Lô Long, hẳn cũng có lý do. Chúng ta mưu toan đại sự, con mẹ nó, cái đó, cái đó, mình phải hết sức cẩn thận mới được.

Chưởng Bổng long đầu nói:

- Bang chủ minh giám, quần hào trên giang hồ tìm kiếm Tạ Tốn cũng chỉ vì muốn chiếm đoạt thanh đao Đồ Long võ lâm chí tôn mà thôi. Bây giờ thanh đao đó không có trong tay Tạ Tốn, mình đã làm đủ cách uy hiếp có, đánh lừa có, nặng có nhẹ có, y vẫn nhất định không thổ lộ nơi dấu thanh đao. Bọn mình thành ra chỉ bắt được một thằng mù, ngoài việc mời y ăn uống nhậu nhẹt, có ích lợi gì đâu? Cứ theo ý huynh đệ, mình cứ tra khảo y một phen cho thật nặng xem y có nói không nào?

Sử Hỏa Long vội vàng xua tay:

- Không được, không được đâu, dùng biện pháp nặng có khi làm hỏng việc lớn, cứ đợi Trần trưởng lão về, lúc đó bàn bạc cho kỹ hãy hay.

Chưởng Bổng long đầu mặt lộ vẻ bất bình, dường như không vui khi thấy chuyện gì bang chủ cũng phải nghe theo lời Trần Hữu Lượng.

Sử Hỏa Long lấy ra một phong thư, đưa cho Chưởng Bổng long đầu nói:

- Phùng huynh đệ, ngươi lập tức đi Hào Châu, đưa phong thư này cho Hàn Sơn Đồng, nói là con trai y đang ở trong tay mình, bình an vô sự, chỉ cần Hàn Sơn Đồng nghe lệnh của bản bang, chúng ta sẽ đối đãi với con y thật tử tế.

?Chưởng Bổng long đầu nói:

- Chuyện đưa thư nhỏ nhặt này, việc gì mà phải đích thân huynh đệ đi mới xong?

Sử Hỏa Long mặt hơi sầm xuống nói sẵng:

- Nửa năm nay bọn Hàn Sơn Đồng thanh thế lớn lắm, nghe nói dưới tay y, con mẹ nó, có những gì Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân là bọn đánh trận ra trò lắm. Lần này ta nói Phùng huynh đệ tự mình ra đi, trước là thuyết phục Hàn Sơn Đồng qui thuận bản bang, sao cho y tâm phục khẩu phục, lại quan sát xem y và các tướng lãnh có đứa nào ra hồn không, kế đến thám thính xem bọn Minh Giáo lực lượng con mẹ nó có cái gì ghê gớm. Công việc Phùng huynh đệ gánh vác nặng nề như thế sao lại bảo là nhỏ nhặt được?

Chưởng Bổng long đầu không dám phản đối gì thêm liền nói:

- Xin tuân lệnh bang chủ sai bảo.

Y nhận lấy phong thư, quay sang Sử Hỏa Long hành lễ rồi ra khỏi sảnh. Trương Vô Kỵ nán lại nghe thêm chỉ thấy bọn họ bàn về việc sau này Minh Giáo, Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi các phái qui thuận rồi Cái Bang sẽ hưng thịnh uy phong ra sao. Xem ra dã tâm của Sử Hỏa Long không to lớn như của Trần Hữu Lượng, chỉ mong Cái Bang độc bá giang hồ, xưng hùng võ lâm cũng đã thỏa nguyện lắm rồi, chứ không nghĩ tới chuyện chiếm được giang sơn lên ngôi hoàng đế, trong lời ăn tiếng nói dùng những chữ thật là nham nhở thô tục. Chàng nghe một hồi cảm thấy chán ghét, nghĩ thầm: ?Chắc là nghĩa phụ và Chỉ Nhược bị giam nơi đây, ta đến cứu họ ra trước đã, rồi sau đó sẽ trừng trị tên ăn mày khoác lác, vô liêm sỉ này một trận?.

Chàng nhún một cái, nhẹ nhàng nhảy lên một cây cao, nhìn chung quanh bốn phía, thấy dưới một cái lầu cao có mươi tên đệ tử Cái Bang tay cầm binh khí, đi qua đi lại tuần phòng, xem ra đó là chỗ giam giữ Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược.

Chàng tuột xuống khỏi cây, đi đến bên cái lầu, náu mình sau một tòa giả sơn, đợi hai tên đệ tử Cái Bang đi tuần qua rồi liền chạy ngay đến nhảy vọt lên. Trên lầu đèn đuốc sáng trưng, chàng bèn hụp xống bên ngoài cửa sổ, lắng tai nghe động tĩnh bên trong. Nghe một hồi thấy bên trong hoàn toàn yên tĩnh, chàng lấy làm lạ: ?Sao bên trong chẳng có một ai là sao? Không lẽ cao thủ nằm phục bên trong có thể nhịn hơi lâu đến thế??. Lại một lúc nữa, vẫn không nghe thấy tiếng hô hấp, Trương Vô Kỵ dưa mắt theo kẽ hở nhìn vào trong, thấy trên bàn một đôi nến lớn cháy đã hơn nửa nhưng phòng hoàn toàn không có bóng người.

Ở trên lầu có cả thảy ba phòng, xem ra phòng phía đông không có ai, chàng liền đến phòng phía tây thăm dò. Trong phòng cũng đầy đèn đuốc, trên bàn còn bát chén ngổn ngang, phải đến bảy tám người ăn, trong chén rượu cặn, đồ ăn thừa vẫn còn, nhưng không có ai, dường như mới ăn uống xong rồi ra khỏi phòng chưa lâu. Phòng ở giữa tối om không đèn đuốc. Chàng nhè nhẹ đẩy cửa nhưng bên trong có cài then, liền thì thầm gọi:

- Nghĩa phụ ở trong này phải không?

Tuy nhiên không có tiếng trả lời. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Xem chừng nghĩa phụ không có ở đây, nhưng sao người của Cái Bang canh gác nghiêm mật là thế nào? Chẳng lẽ họ cố ý lấy thực làm hư, lấy hư làm thực chăng??.

Chàng bỗng ngửi thấy mùi máu tanh từ trong phòng tỏa ra, trong lòng kinh hãi, tay trái giữ cửa, hơi đẩy nội lực, nghe cách một tiếng nhỏ, chiếc then cửa đã gãy đôi. Chàng lập tức lẻn vào trong phòng, bắt ngay lấy hai miếng then gỗ để khỏi rơi xuống phát xuất ra tiếng động.

Chàng mới bước vào được một bước, chân đã vấp phải vật gì mềm mềm dường như thân người vội cúi xuống mò thử quả nhiên là một cái xác chết. Người đó đã tắt hơi từ lâu nhưng mặt vẫn còn hơi ấm hiển nhiên chết chưa lâu. Chàng mò thử người này thấy đầu nhỏ, mặt thỏn không phải Tạ Tốn nên cũng yên lòng. Chàng tiến thêm một bước nữa lại đụng phải hai cái xác người khác, bèn giơ tay chọc một lỗ nhỏ ở vách phía tây, ánh nến từ bên phòng bên chiếu qua. Chỉ thấy dưới sàn nằm la liệt những xác người toàn là đệ tử Cái Bang, đều bị nội thương rất nặng. Chàng nhắc một cái xác lên xem, cởi áo ra thấy trên ngực vẫn còn dấu quyền đánh vào, gân cốt đứt hết, quyền lực thật là uy mãnh.

Trương Vô Kỵ mừng lắm: ?Thì ra nghĩa phụ đại triển thần uy, đánh chết hết bọn người canh gác rồi bỏ đi?. Chàng xem xét trong phòng, quả nhiên nơi góc ông dùng vật gì nhọn sắc khắc một hình lửa bốc cháy, chính là ký hiệu của Minh Giáo. Chốt cửa sổ cũng gãy lìa, cánh cửa chỉ khép hờ, liền nghĩ ra: ?Đúng rồi, hồi nãy ta có thấy một bóng người chắc là nghĩa phụ thoát thân chạy ra, nhưng không biết vì sao bọn Cái Bang lại bắt được ông? Chắc là bởi vì ông không nhìn thấy nên khó mà đề phòng gian kế của Cái Bang. Nếu chúng không dùng thuốc mê thì cũng dùng những loại dây chăng, câu liêm, lưới cá chi đó để trói ông lại?.

Trương Vô Kỵ mừng không để đâu cho hết, chạy ra ngoài phòng, nép mình vào bên cạnh cánh cửa nhìn xuống phía dưới, thấy bọn đệ tử Cái Bang vẫn qua lại tuần phòng, hoàn toàn không biết tí gì về biến cố ở lầu trên, nghĩ thầm: ?Nghĩa phụ đi khỏi chưa lâu mình phải đuổi theo ông ta rồi hai cha con quay lại đánh chúng một trận long trời lở đất cho bọn ăn mày biết tay Minh Giáo?.

Chàng nghĩ bụng như thế, hào khí nổi lên bừng bừng, nhớ lại hồi nãy thấy bóng đen đó chạy về hướng tây nên nhảy xuống, chân điểm vào một cây cao, vọt ra ngoài tường, đề khí nhắm hướng tây chạy cho nhanh.

Chàng cứ theo đường cái chạy được vài dặm, đến một ngã rẽ, nhìn quanh quất quả thấy đằng sau một tảng đá có vẽ dấu hiệu ngọn lửa chỉ về hướng một đường nhỏ ở phía tây nam. Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm hành tung của nghĩa phụ đã rõ ràng chắc chẳng mấy chốc sẽ gặp lại. Những ám hiệu liên lạc của Minh Giáo chàng đã được Dương Tiêu chỉ dẫn tường tận, lại thấy dấu hiệu hình ngọn lửa này tuy chỉ mấy nét nguệch ngoạc, nhưng nét nào nét nấy kình lực mạnh mẽ, già dặn nếu không phải là người văn võ toàn tài như Tạ Tốn, trong Minh Giáo quả không một ai có thể làm được.

Lúc này chàng không còn hoài nghi gì nữa cứ theo con đường nhỏ mà đuổi theo, tới tận Sa Hà Dịch[1] thì trời đã mờ mờ sáng. Chàng bèn ghé quán mua mấy chiếc bánh bao ăn qua quít cho đỡ đói, rồi lại theo hướng tây đuổi tiếp đến Bổng Tử Trấn. Chàng lại thấy ở góc đường dưới chân tường có vẽ một ngọn lửa khác chỉ về một từ đường đổ nát. Chàng mừng thầm, chắc mẩm nghĩa phụ ẩn thân nơi đây nên chạy đến bên cửa, nghe thấy tiếng lao xao, trong sảnh có một đám vô công rồi nghề đang đánh bạc, thì ra đây là một sòng bài.

Tên đầu nậu đám bạc thấy Trương Vô Kỵ ăn mặc sang trọng, tưởng là một đại hào khách tới chơi, vội vàng cười hề hề chạy ra đón vào, hỏi:

- Mời công tử gia lại đổ vài bàn, ngài đang vận may, thể nào cũng vơ sạch cả làng.

Y quay lại nói với đám con bạc:

- Mau nhường công tử làm cái, các ngươi đem tiền ra đặt cho to để công tử ôm về phủ.

Trương Vô Kỵ hơi nhíu mày, thấy đám con bạc không người nào thuộc giới giang hồ, lớn tiếng gọi:

- Nghĩa phụ! nghĩa phụ! Lão nhân gia có ở đây không?

Đợi một lát không nghe tiếng trả lời, chàng lại kêu thêm lần nữa. Một tên vô lại thấy chàng không phải đến để đánh bạc mà chỉ đến kêu réo om xòm làm náo loạn cả lên, liền đáp lời:

- Này con ơi! Bố mày ở đây, mau mau lại đây đổ vài bàn đi nào.

Bọn du thủ du thực liền cười ầm cả lên. Trương Vô Kỵ hỏi tên chủ sòng:

- Ngươi có thấy một đại gia tóc vàng, thân thể cao to, hai mắt mù tới đây không?

Tên chủ sòng thấy chàng không đến để vui cuộc đỏ đen mà chỉ cốt tìm người, trong bụng thất vọng, cười nói:

- Chuyện khéo ngược đời, có ai mắt mù mà lại đến đây đánh bạc bao giờ? Chắc thằng mù đó cũng khùng khùng nữa phải không?

Trương Vô Kỵ đi kiếm nghĩa phụ chẳng thấy đâu, trong bụng đã bực lại nghe tên chủ sòng và tên vô lại ăn nói hỗn hào, làm nhục cả đến nghĩa phụ mình, liền tiến lên vung hai tay ra, chộp cổ cả tên chủ sòng lẫn tên du côn kia, hẩy một cái ném cả hai đứa lên trên mái nhà. Hai gã đó tuy chưa bị thương nhưng sợ đến kêu oai oái như heo bị chọc tiết. Trương Vô Kỵ đẩy dạt bọn đánh bạc ra, cầm lấy hai đĩnh bạc trên bàn nói:

- Công tử gia thu tiền về phủ đây.

Chàng bỏ vào bọc, hung hăng đi ra khỏi từ đường, bọn vô lại sợ đến mất hết hồn vía, chẳng đứa nào dám đuổi theo.

Chàng tiếp tục đi về hướng tây, không lâu lại gặp một dấu hiệu ngọn lửa nữa. Đến chiều hôm đó chàng đến Phong Nhuận, là một thành phố lớn của Ký Bắc, theo ký hiệu đã chỉ tìm đến một khu nhà tường quét vôi, cửa sơn đen. Căn nhà đó chiếc khoen đồng ngoài cửa sáng loáng, bên trong hoa mai sắp nở, chủ nhân hẳn là người u nhã thanh khiết. Chàng cầm chiếc vòng đồng, lắc nhẹ ba tiếng. Chẳng bao lâu có tiếng chân người sột soạt, nghe kẹt một tiếng, mũi ngửi thấy một mùi thơm nồng, một con a hoàn mặc quần áo màu hồng, bên ngoài khoác áo lông ngắn ra mở cửa. Con bé nhoẻn miệng cười nói:

- Gớm sao công tử gia lâu quá không đến chơi, thư thư nhớ công tử quá, xin mời công tử vào uống trà.

Nói xong con a hoàn lại cười mủm mỉm, nháy mắt một cái. Trương Vô Kỵ bàng hoàng, thật không hiểu ra sao, hỏi lại:

- Ngươi biết ta chăng? Tỉ tỉ ngươi là ai mới được chứ?

Đứa tớ gái lại cười:

- Công tử biết thừa rồi còn giả vờ, thôi vào mau đi, để cho thư thư tôi khỏi thêm khắc khoải.

Nói rồi đưa tay nắm tay Vô Kỵ, dẫn vào trong. Trương Vô Kỵ lấy làm lạ:

- Sao con bé này vừa gặp mình mà làm như quen từ lâu?

Nhưng chàng nghĩ ngay: ?À, đúng rồi, chắc là Chỉ Nhược ở nơi đây, biết mình hôm nay thể nào cũng theo ký hiệu tìm đến nên sai con a hoàn này ngày đêm canh cửa. Ôi, lâu nay không gặp, Chỉ Nhược bụng dạ khắc khoải nhớ mình là phải rồi?.

Chàng trong lòng thấy ấm lại, liền đi theo đứa hầu gái, đi hết một con đường trải đá trứng ngỗng, qua một cái viện tới một sương phòng. Một con anh vũ treo trên hiên quang quác cất tiếng:

- Tình ca ca đến rồi! Tỉ tỉ! Tình ca ca đến rồi!

Trương Vô Kỵ mặt đỏ bừng, nghĩ thầm: ?Đến cả con vẹt cũng còn biết mình nữa?.

Trong phòng ghế ngồi đều bọc gấm, trên bàn để một lư hương, lửa cháy bừng bừng, ấm áp chẳng khác gì mùa xuân. Con tiểu hoàn quay mình đi ra, trong chốc lát bưng một mâm để đầy trái cây cùng các món điểm tâm đủ màu, lại thêm một bình trà xanh. Đứa tớ gái nhẹ nhàng rót một ly trà đưa cho Vô Kỵ nhưng lại tiện thể véo ngay cổ tay chàng một cái. Trương Vô Kỵ hơi nhíu mày, nghĩ thầm: ?Sao con tiểu a đầu này lại sỗ sàng đến thế??. Thế nhưng chàng nể mặt Chu Chỉ Nhược nên không tiện trách cứ nó, liền hỏi:

- Tạ lão gia thế nào? Chu cô nương ở đâu?

Con hầu gái cười đỏng đảnh:

- Công tử hỏi Tạ lão gia làm gì? Chẳng lẽ ghen hay sao? Tỉ tỉ tôi đến ngay bây giờ đây, việc gì công tử phải bồn chồn đến thế. Gớm! Công tử thật là bạc bẽo, đến nhà chúng tôi mà trong lòng vẫn còn khắc khoải Chu cô nương, Vương cô nương nào đâu!

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nói:

- Sao ngươi cứ nói lăng nói nhăng, không đâu vào đâu cả?

Con a hoàn bĩu môi cười lại quay ra. Một lúc sau, nghe thấy tiếng vòng đeo leng keng, rèm vén lên, con tớ gái đỡ một cô gái độ chừng hăm mốt, hăm hai, uyển chuyển đi vào. Cô gái mặt mũi trắng trẻo, lông mày cong vút, cũng khá xinh xắn, bên mép phải có điểm thêm một nốt ruồi duyên, mắt lóng lánh đưa tình, chưa nói mà mắt đã hàm một nụ cười[2]. Trương Vô Kỵ ngửi thấy mùi hương nồng xông lên mũi, trong lòng cảm thấy lâng lâng. Thiếu nữ đó hỏi:

- Tướng công quí tính là gì? Hôm nay có thì giờ rảnh rỗi ghé thăm, tiểu nữ thật là vinh hạnh.

Cô gái vừa nói vừa giơ tay vịn vào vai chàng. Trương Vô Kỵ mặt đỏ bừng, vội vàng tránh qua nói:

- Tôi họ Trương. Có một vị Tạ lão gia và một cô nương họ Chu, hiện nay có ở đây không?

Cô gái kia cười:

- Đây là Lê Hương Viện, nếu công tử muốn tìm Chu Tiêm Tiêm[3], xin mời đến Bích Đào Cư. Tướng công bị con bé kia làm cho mê mẩn mất hồn, đến Lê Hương Viện mà lại hỏi Chu Tiêm Tiêm? Hì hì!

Trương Vô Kỵ chợt hiểu ra, thì ra nơi đây chính là một kỹ viện, vội nói:

- Xin lỗi nhé.

Chàng liền quay mình đi ra. Con tiểu hoàn chạy theo, kêu lên:

- Công tử gia, thư thư chúng tôi có gì kém Chu Tiêm Tiêm đâu nào? Sao công tử không nán lại một chút?

Trương Vô Kỵ hấp tấp xua tay, thò tay vào bọc lấy ra một đĩnh bạc mới cướp ở sòng bạc ném xuống đất, phi thân chạy ra khỏi cửa. Qua một lần lôi thôi như thế, tâm thần chàng không bình tĩnh lại được, trời lại sắp tối, ban đêm e sẽ không nhìn ra dấu hiệu ngọn lửa chỉ đường nên Vô Kỵ bèn tìm một khách điếm nghỉ ngơi. Chàng trong bụng hoang mang: ?Nghĩa phụ sao lại đi vào nơi đánh bạc? Rồi lại tới kỹ viện? Hai chuyện đó lão nhân gia có ý muốn nói gì??. Chàng ngủ đến nửa đêm đột nhiên tỉnh đậy: ?Nghĩa phụ hai mắt đã mù sao trên đường lại có thể để nhiều dấu hiệu đến thế? Hay là có Chỉ Nhược ở bên cạnh chỉ dẫn? Hay là kẻ địch cố ý giả mạo ký hiệu của bản giáo để trêu ghẹo mình chăng? Để dẫn mình vào nơi đã mai phục? Hừ, dù cho có đầm rồng hang hổ, tốt xấu thế nào ta cũng xông vào một phen?.

Sáng hôm sau trở dậy, chàng lại tìm ra ký hiệu ngọn lửa ở ngoài thành Phong Nhuận, vẫn chỉ về hướng tây. Quá trưa chàng đến Ngọc Điền, thấy dấu hiệu chỉ vào một nhà giàu có, trước nhà treo đèn kết hoa, trên các đèn lồng có viết ?Chi Tử Vu Qui? bằng mực son, trong nhà trống chiêng rầm rĩ, khách khứa đầy sân, chính là đang lúc làm đám cưới, xem ra con gái nhà ai đi lấy chồng. Trương Vô Kỵ lần này dè dặt hơn, không dám xông vào hỏi Tạ Tốn chỉ lẫn lộn trong đám khách khứa nghe ngóng tình hình, thấy không có gì lạ liền lẻn ra đi tìm ký hiệu, quả nhiên kiếm thấy nơi một gốc cây to.

Dấu hiệu lại dẫn chàng đi từ Ngọc Điền đến Tam Hà, rồi quẹo qua hướng nam đến mãi tận Hương Hà. Đến lúc này chàng đã nghĩ đến việc người của Cái Bang có thể đã biết được tung tích của chàng nên dùng kế Điệu Hổ Ly Sơn dụ cho chàng đi thật xa để ra tay làm trò ma mãnh âm độc. Mặc dù nóng ruột nhưng chàng vẫn không dám bỏ qua không đuổi theo ký hiệu, ngại rằng biết đâu của Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược để lại thật thì sao? ?Nếu quả thực hai người đang bị một kẻ địch thật lợi hại truy kích, trong lúc chạy trốn, cố ý để lại dấu hiệu mong mình đến kịp cứu viện, vậy mà mình tự cho rằng thông minh, quay trở lại Lô Long, nếu như nghĩa phụ và Chỉ Nhược vì thế mà bị nạn, thì biết tính sao? Việc đã đến nước này, chỉ còn việc phải đuổi theo ký hiệu ngọn lửa, đuổi cho tới cùng mới thôi?.

Chàng từ Hương Hà chạy qua Bảo Thành, rồi quay về Đại Bạch Trang thì đã đi về hướng đông nam, đến Ninh Hà thì dấu hiệu ngọn lửa biến mất không còn thấy đâu nữa. Chàng ở Ninh Hà tra xét kỹ càng, không có gì khác lạ, nghĩ thầm: ?Quả nhiên người của Cái Bang cố ý dẫn dụ ta tới đây, khiến cho mình chạy mất mấy ngày công toi?.

Chàng bèn mua một con ngựa cưỡi quay về Lô Long, đến tiệm quần áo mua một chiếc trường bào màu trắng, mượn bút son, vẽ lên một ngọn lửa đang bốc cháy thật lớn, quyết ý đường đường chính chính dùng thân phận giáo chủ Minh Giáo xông vào tổng đàn Cái Bang gây sự.

Chàng thay áo, hùng hùng hổ hổ đi đến trước căn nhà của gã tài chủ, thấy hai cánh cửa sơn đỏ thật lớn đóng kín mít, những chiếc đinh đồng sáng bóng to bằng miệng chén đóng trên cửa. Chàng đẩy tay ra nghe bình một tiếng, hai cánh cửa bay vọt vào trong viện, nghe loảng xoảng loảng xoảng liên tiếp, đã đập vỡ tan hai chiếc bồn nuôi cá vàng.

Mấy hôm nay chàng lo cho nghĩa phụ và Chu Chỉ Nhược, lại bị người ta liên tiếp đùa rỡn, chạy đôn chạy đáo một vòng thật lớn ở Ký Bắc, trong bụng vừa giận dữ, vừa uất ức không có chỗ nào phát tiết, bây giờ trở về tổng đà Cái Bang nhất định phải làm tan hoang một trận. Chàng phá vỡ cái cửa rồi, hung hăng đi vào, sửa giọng quát lớn:

- Người của Cái Bang nghe đây, mau gọi Sử Hỏa Long ra gặp ta.

Trong viện có độ mươi tên đệ tử bốn năm túi, thấy hai chiếc cánh cửa bay tới đã hoảng hồn, lại thấy một thanh niên áo trắng xông vào, lập tức bảy tám đứa liền kêu gào ỏm tỏi, hò hét xông ra chặn lại:

- Ai đó? Muốn gì đây?

Trương Vô Kỵ hai tay vung ra, lập tức có bảy tám tiếng bình bình, những đệ tử Cái Bang đã bị hất văng đi, đụng vào một chiếc cửa vỡ tan tành. Chàng đi qua đại sảnh, đánh ra một chưởng lại vỡ tan cửa chính, thấy trong sảnh bày một bàn tiệc, Sử Hỏa Long ngồi ngay chính giữa. Một bầy thủ lãnh Cái Bang nghe thấy có tiếng huyên náo ở bên ngoài, liền sai người ra xem xét. Thế nhưng Trương Vô Kỵ tiến vào quá nhanh, gã đệ tử bảy túi hấp tấp đi ra, vừa đến giữa đường bị chàng chộp ngay ngực ném ngay về phía Sử Hỏa Long.

Gã chủ nhân hình dáng trông như tài chủ ngồi ở bên dưới, thấy gã đệ tử bảy túi bay tới, liền giơ tay ôm lấy. Y vừa chộp được bỗng thấy một luồng kình lực như bài sơn đảo hải ập vào, vội vàng xuống tấn Thiên Cân Trụy, nào ngờ lịch bịch thoái lui đến bảy tám bước, lưng đụng vào một cái cột lúc ấy mới gượng lại được. Y vội buông tên đệ tử bảy túi rơi phịch xuống đất, thở hồng hộc, người mất hết hơi sức xụm luôn xuống chân cột. Người trong Cái Bang nhìn thấy thế ai nấy đều kinh hãi.

Ngay lúc đó, Trương Vô Kỵ ?Ồ? lên một tiếng, vừa mừng vừa ngạc nhiên, thấy ngồi bên trái chiếc bàn là một thiếu nữ, chẳng ai xa lạ chính là Chu Chỉ Nhược, ngồi bên cạnh nàng là Tống Thanh Thư. Chu Chỉ Nhược mừng rỡ kêu lên một tiếng:

- Vô Kỵ ca ca!

Nàng liền đứng dậy nhưng lảo đảo ngã phịch xuống đất. Trương Vô Kỵ kinh hãi, vội tiến lên cúi xuống đỡ nàng lên. Chàng chưa kịp chưa đứng thẳng người đã nghe bốp một cái, lại bịch một tiếng sau lưng, đã bị Tống Thanh Thư đánh trúng một chưởng, thêm một đệ tử Cái Bang đấm cho một cái.

Lúc này Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ đã vận lên khắp người, một quyền một chưởng đó đánh vào lưng, chưởng lực quyền lực đều bị tiêu tan. Chàng bế Chu Chỉ Nhược lên, nhảy vọt trở lại đằng sau hỏi:

- Nghĩa phụ đâu?

Chu Chỉ Nhược ấp úng:

- Em ... em ...

Trương Vô Kỵ hỏi thêm lần nữa:

- Lão nhân gia có sao không?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Em bị bọn chúng điểm trúng huyệt đạo ...

Trương Vô Kỵ chỉ quan tâm đến Tạ Tốn, vẫn hỏi tiếp:

- Nghĩa phụ ra sao?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Cũng không biết nữa, em bị họ bắt tới đây, từ đó đến nay chẳng biết nghĩa phụ ra sao.

Trương Vô Kỵ giơ tay xoa bóp mấy chỗ khớp xương ở chân nàng, rồi để xuống đất. Nào ngờ thủ pháp điểm huyệt trên người Chu Chỉ Nhược thật là lạ lùng, mấy cái xoa bóp của Trương Vô Kỵ không hiệu quả. Hai chân nàng tuy đã đặt trên mặt đất nhưng không sao đứng lên được, đầu gối khuỵu xuống, ngồi bệt xuống đất.

Người trong Cái Bang lục tục đứng lên, chạy ra ngoài bậc thềm. Sử Hỏa Long vòng tay hỏi:

- Các hạ có phải là Trương giáo chủ của Minh Giáo chăng?

Trương Vô Kỵ nghĩ y là thân phận bang chủ một bang, không thể để mất phép tắc, liền ôm quyền đáp lễ nói:

- Không dám, tại hạ mạo muội xông vào tổng đà của quí bang, xin Sử bang chủ tha cho tội vô lễ.

Sử Hỏa Long nói:

- Trương giáo chủ mấy năm nay danh chấn giang hồ, tại hạ như sấm ... cái gì gì vang bên tai, hôm nay được thấy thân thủ của lão huynh, quả nhiên thật là lợi hại, ha ha, bội phục, bội phục.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tại hạ đến quả lỗ mãng, chỉ làm trò cười cho Sử bang chủ. Nghĩa phụ tại hạ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn có ở đây không? Xin đưa lão nhân gia ra cho gặp mặt.

Sử Hỏa Long mặt hơi đỏ lên, nhưng lại lên tiếng cười ha hả ngay được nói:

- Trương giáo chủ tuổi tuy còn trẻ mà sao ăn nói đã ngoa ngoắt đến thế. Chúng tôi có lòng tốt, mời Tạ Sư Vương đến ... đến à à ... uống chén rượu, ngờ đâu Tạ Sư Vương ra đi không một lời từ giã, còn ra tay đánh chết tám tên đệ tử bản bang, con bà nó, cái món nợ đó giờ tính sao đây? Xin Trương giáo chủ thanh toán giùm.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nghĩ thầm: ?Tám tên đệ tử Cái Bang quả nhiên bị nghĩa phụ ta dùng trọng thủ đấm chết. Xem ra lão nhân gia quả không có nơi đây nhưng không biết đi đâu??. Chàng bèn nói:

- Thế còn vị Chu cô nương này thì sao? Sao quí bang lại bắt giữ cô ta ở đây là thế nào?

Sử Hỏa Long ấp úng:

- Cái đó ... cái đó ...

Trần Hữu Lượng liền xen vào:

- Người ta bảo Trương Vô Kỵ của Minh Giáo võ công tuy cao siêu nhưng là một tên tiểu ma đầu ngang ngược chỉ giỏi tài vừa đánh trống vừa ăn cướp ... ha ha ...

Trương Vô Kỵ sầm mặt xuống hỏi:

- Cái gì?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Hôm nay mới gặp, hà hà, quả thật là cây có bóng, người có danh, đúng thật không sai chút nào.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Ta ngang ngược vừa đánh trống vừa ăn cướp ở chỗ nào?

Trần Hữu Lượng nói:

- Vị Chu cô nương này là chưởng môn phái Nga Mi, một nhân vật thủ não của danh môn chính phái, có liên can gì đến bọn bàng môn tả đạo các ngươi đâu? Còn Tống Thanh Thư huynh đệ đây là nhân tài đời sau của phái Võ Đương, cùng Chu cô nương trai tài gái sắc, quả thật môn đương hộ đối, như ngọc có đôi, xứng duyên vừa lứa. Hai người cùng nhau đi qua đây, Cái Bang mời làm khách đến uống chung chén rượu, có gì mà giáo chủ Minh Giáo phải can thiệp vào? Tức cưới ơi là tức cười!

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nếu quả Chu cô nương là khách của các ngươi, sao bọn chúng bay lại phải điểm huyệt cô ta?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Chu cô nương vốn dĩ đang vui vẻ ngồi đây ăn uống, nói chuyện thoải mái, ai bảo là cô ta bị điểm huyệt? Cái Bang và phái Nga Mi uyên nguyên rất sâu xa, đời đời giao hảo. Quách nữ hiệp tổ sư sáng phái của phái Nga Mi chính là con gái của Hoàng bang chủ tệ bang đời trước, Gia Luật bang chủ lại là là anh rể của Quách nữ hiệp. Trong võ lâm trừ bọn trẻ con miệng còn hôi sữa vô tri có ai mà không biết chuyện đó. Làm sao Cái Bang chúng ta lại dám đắc tội với người chưởng môn phái Nga Mi? Trương giáo chủ bạ đâu nói đó chẳng khiến anh hùng thiên hạ chê cười cho sao?

Trương Vô Kỵ cười khẩy đáp:

- Nói như thế chắc là Chu cô nương tự mình điểm huyệt mình phải không?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Cái đó chưa hẳn thế. Ở đây ai ai cũng đều nhìn thấy, Trương giáo chủ nhảy tới, toan giở trò phi lễ ôm luôn Chu cô nương. Chu cô nương dãy dụa không chịu, tôn giá liền thuận tay điểm huyệt cô ta. Trương giáo chủ, vẫn biết là anh hùng khó qua khỏi cửa mỹ nhân, cái tính hiếu sắc ai mà chẳng có, nhưng ngay chốn đại điện đông người, trăm mắt đổ dồn vào, vậy mà Trương giáo chủ có hành vi ghẹo nguyệt trêu hoa như thế, chẳng quá ư mất thân phận hay sao?

Mồm miệng Trương Vô Kỵ vốn không sao bì được với Trần Hữu Lượng, bị y nói ngang nói ngược như thế, tuy tức lắm nhưng không sao giãi bày được, mặt xanh xám, quát lên:

- Nói như thế, chúng bay không chịu cho ta hay nghĩa phụ ta ở đâu, phải không?

Trần Hữu Lượng lớn tiếng đáp:

- Trương giáo chủ, Quang Minh sứ giả Dương Tiêu của quí giáo năm xưa gian sát Kỷ Hiểu Phù nữ hiệp của phái Nga Mi, võ lâm đồng đạo trong thiên hạ không ai là không căn hờn mắng nhiếc. Nếu ngươi tự thị võ công cao cường, lại giở trò đê tiện đó ra thì ắt không thoát khỏi công đạo đâu.

Trương Vô Kỵ quay lại nói với Chu Chỉ Nhược:

- Chỉ Nhược, em nói lên tại sao bọn họ bắt cóc em tới đây xem nào?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Em ... em ... em ...

Nàng liên tiếp ấp úng ba tiếng ?em? đột nhiên thân hình lảo đảo, hôn mê bất tỉnh. Bọn ăn mày lập tức kêu la rầm rĩ:

- Minh Giáo ma đầu giết người rồi!

- Trương Vô Kỵ bức gian không được, giết chết chưởng môn phái Nga Mi!

- Giết chết dâm tặc Trương Vô Kỵ để trừ hại cho thiên hạ!

Trương Vô Kỵ giận lắm, lập tức xông tới chỗ Sử Hỏa Long, nghĩ thầm: ?Bắt giặc phải bắt đầu đảng trước, chỉ cần bắt được gã họ Sử là mọi việc sẽ xong, ép bọn chúng phải nói cho ra tung tích nghĩa phụ?.

Chưởng Bổng long đầu và Chấp Pháp trưởng lão lập tức tiến ra chặn lại. Chưởng Bổng long đầu múa cây thiết bổng còn Chấp Pháp trưởng lão thì tay phải cầm cương câu, tay trái cầm thiết quài, hai người ba món binh khí, cùng vây đánh. Trương Vô Kỵ hú lên một tiếng thánh thót, sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, leng keng hai tiếng, cương câu trong tay Chấp Pháp trưởng lão liền gạt ngay gậy sắt của Chưởng Bổng long đầu ra, còn đơn quài của y thì đâm luôn vào sườn đồng bọn.

Truyền Công trưởng lão đứng bên cạnh cũng giơ kiếm đâm tới, kêu lên:

- Tên tiểu tử này võ công quái dị lắm, các anh em phải cẩn thận.

Soẹt soẹt soẹt ba kiếm liền, khí thế vùn vụt như cầu vồng, liên tiếp đâm vào bụng và ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thấy y chiêu số ác hiểm, kêu lên:

- Hảo kiếm pháp!

Chàng nghiêng người né tránh, ngón tay trỏ bên trái điểm vào đùi y. Kiếm của Truyền Công trưởng lão lập tức cuộn về, mũi kiếm chém luôn vào ngón tay Trương Vô Kỵ. Chiêu đó biến đổi thật nhanh, mũi kiếm không sai một ly nào, chỉ một chiêu đó cũng đã ít thấy trong võ lâm. Trương Vô Kỵ trong bụng khen thầm: ?Cái Bang danh dương giang hồ hàng trăm năm qua không suy sụp, trong bang ngọa hổ tàng long thật không thiếu nhân tài?.

Hôm trước nơi miếu Di Lặc chàng đã thấy Huyền Minh nhị lão đấu với các cao thủ trong bang, chỉ vì còn đang ẩn mình trên cây không dám ló đầu ra nên chưa nhìn được kỹ càng, lúc này chính chàng giao đấu với họ mới biết Truyền Công, Chấp Pháp trưởng lão quả là cao thủ bậc nhất trên đời. Chưởng Bổng long đầu hỏa hầu có kém hơn nhưng cũng chỉ sút chút đỉnh mà thôi.

Chỉ trong giây lát, Cái Bang tam lão đã trao đổi với Trương Vô Kỵ hơn hai chục chiêu. Trần Hữu Lượng đột nhiên cao giọng nói:

- Bày Sát Cẩu Trận.

Bọn ăn mày liền lớn tiếng reo hò, ánh đao sáng lòa như tuyết, hai mươi mốt cao thủ trong Cái Bang tay cầm loan đao, vây Trương Vô Kỵ vào giữa. Hai mươi mốt người đó kẻ thì hát khúc Liên Hoa Lạc , đứa rên rỉ kêu than, có người lại giơ tay đấm ngực khóc lóc, hoặc cao giọng van xin:

- Lạy ông lạy bà cho con xin chút cơm thừa canh cặn!

Trương Vô Kỵ lúc đầu ngạc nhiên nhưng hiểu ngay, những hành động kêu la quái lạ kia chẳng qua chỉ để ưu loạn tâm thần kẻ địch. Chỉ thấy quần cái tuy cước bộ lung tung hỗn tạp nhưng tiến thoái tránh né đều có phép tắc chặt chẽ.

Truyền Công trưởng lão quát lên:

- Hãy khoan!

Ông ta lùi lại hai bước, kiếm để ngang trên ngực, Chấp Pháp trưởng lão và Chưởng Bổng long đầu cũng nhảy ra ngoài. Thế nhưng những người ăn mày đang dàn thành Sát Cẩu Trận vẫn tiếp tục chạy qua chạy lại không ngừng lại. Truyền Công trưởng lão kêu lên:

- Trương giáo chủ, bọn ta lấy đông đánh ít, quả thực không phải. Thế nhưng trong Cái Bang không ai có thể là địch thủ của các hạ. Trừ gian sát tặc không thể khăng khăng giữ lấy qui củ một đánh một của võ lâm.

Trương Vô Kỵ nhếch một nụ cười khinh thị:

- Nói hay lắm, nói hay lắm!

Truyền Công trưởng lão lại tiếp:

- Bọn ta trong tay ai cũng có binh khí, nếu như Trương giáo chủ chỉ đánh tay không thì quả là Cái Bang có tiện nghi quá nhiều. Trương giáo chủ muốn dùng loại binh khí gì, cứ việc sai bảo, bọn ta ắt sẽ tuân hành đưa lên.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Vị Truyền Công trưởng lão này võ công đã cao, lại có lòng trượng nghĩa, so với tên gian xảo Trần Hữu Lượng kia quả có khác xa?. Chàng bèn đáp:

- Cùng với các vị đùa rỡn chơi, việc gì phải cầm dao cầm gậy? Tại hạ muốn dùng binh khí, không lẽ không biết cách tự kiếm lấy hay sao?

Chàng nói đến đây, thân hình lắc một cái đã nhảy ra ngoài Sát Cẩu Trận, hai tay đánh vào hai gã Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư, khi rút tay đã đoạt được hai thanh trường kiếm, nghiêng người lộn về, lại quay trở lại giữa trận. Chàng nhảy ra nhảy vào, hai mươi mốt người đệ tử Cái Bang đang múa đao chạy vòng quanh không ai đụng được đến vạt áo. Quần cái còn đang ngạc nhiên thì đã nghe chàng cao giọng nói:

- Cái tên Sát Cẩu Trận của quí bang nghe hay lắm, thế nhưng giết chó thì dễ, còn như định hàng long phục hổ thì trận này không làm được trò gì đâu.

Nói xong chàng rung tay một cái, một luồng kình lực truyền vào thân kiếm, chỉ nghe lách cách hai tiếng, song kiếm đều gãy làm đôi. Chưởng Bổng long đầu hô to:

- Tất cả tiến lên!

Thiết bổng của y điểm vào ngực Trương Vô Kỵ. Một câu một quài của Chấp Pháp trưởng lão cũng múa lên thành hai đốm tuyết hoa, cuồn cuộn tiến tới. Trương Vô Kỵ lạng qua bên trái, thân hình lại nghiêng về bên phải, Càn Khôn Đại Na Di thủ pháp tung ra, chỉ thấy bạch quang thấp thoáng, cách cách cách liên miên bất tuyệt, bao nhiêu loan đao trong tay bọn ăn mày đang bày Sát Cẩu Trận đều bị chàng đoạt mất ném ra, từng thanh từng thanh cắm vào cái xà cái giữa nhà. Hai mươi mốt thanh đao đều chăn chắn xếp thành một hàng, tất cả ngập vào trong gỗ cả thước.

Chỉ nghe Trần Hữu Lượng kêu lên:

- Trương Vô Kỵ, sao ngươi chưa dừng tay?

Trương Vô Kỵ quay đầu nhìn lại, thấy trong tay Trần Hữu Lượng đã cầm một thanh trường kiếm, mũi kiếm chỉ vào sau lưng Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ cười khẩy:

- Một trăm năm qua trên giang hồ đều truyền tụng ?Minh Giáo, Cái Bang, Thiếu Lâm phái?. Trong giáo phái thì Minh Giáo đứng đầu, còn bang hội đưa Cái Bang lên hạng nhất, các vị làm như thế không sợ làm nhục uy danh của Hồng Thất Công lão hiệp hay sao?

Truyền Công trưởng lão giận dữ nói:

- Trần trưởng lão, ngươi mau thả Chu cô nương ra, chúng ta quyết tử chiến với Trương giáo chủ. Cái Bang dùng hết sức toàn bang không lẽ không đánh được một mình giáo chủ Minh Giáo? Nếu như giở trò hạ sách thì mình còn mặt mũi nào mà trông thấy ai?

Trần Hữu Lượng cười đáp:

- Đại trượng phu đấu trí chứ không đấu sức. Trương Vô Kỵ, ngươi chưa chịu xuôi tay chịu trói hay sao?

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Cũng được, để hôm nay Minh Giáo Trương Vô Kỵ được biết uy phong của Cái Bang như thế nào.

Đột nhiên chàng lùi lại hai bước, lộn mình nhảy ngược về sau, từ trên không rơi xuống, hai chân đã cưỡi ngay trên vai bang chủ Cái Bang Sử Hỏa Long. Chưởng phải của chàng liền để ngay trên đỉnh đầu Sử Hỏa Long, còn tay trái nắm ngay kinh mạch đằng sau ót. Chiêu trong thánh hỏa lệnh đó quả thực dễ dàng, ngoài dự liệu của Trương Vô Kỵ. Chàng vốn dĩ muốn sử dụng quái chiêu, xuất kỳ bất ý đến gần Sử Hỏa Long, trong bụng đã hờm sẵn ba chiêu kế tiếp thật lợi hại toan bắt giữ Sử Hỏa Long trong nháy mắt, chỉ ngại Trần Hữu Lượng tâm tính ác độc rất có thể ra tay hạ độc thủ với Chu Chỉ Nhược. Nào ngờ ba chiêu sát thủ đó mới chưa đầy một chiêu đã xong, Sử Hỏa Long chưa kịp đỡ gạt đã bị bắt ngay. Chàng cưỡi trên vai Sử Hỏa Long thật chẳng khác gì trẻ con đùa nghịch với người lớn, tuy trông bất nhã thật nhưng đã chế ngự được đỉnh đầu và yếu huyệt của địch nhân nên không muốn nhảy xuống ngại rằng có thể bị lôi thôi.

Bọn ăn mày thấy bang chủ đã bị bắt cùng kinh hãi la ó rầm rĩ. Tay phải Trương Vô Kỵ nhè nhẹ để lên huyệt Bách Hội trên đầu Sử Hỏa Long, huyệt này là giao điểm của Túc Thái Dương Kinh và Đốc Mạch, là đại huyệt quan trong nhất trên cơ thể con người, chỉ cần đẩy ra, Sử Hỏa Long lập tức chấn đoạn kinh mạch chết ngay không thuốc gì cứu được, thành thử quần cái có ai dám động đậy gì đâu. Cả bọn hò hét một hồi, đại sảnh đột nhiên im lặng, mọi người chăm chăm nhìn Trương Vô Kỵ và Sử Hỏa Long không biết phải tính sao.

Ngay lúc đó, từ trên mái nhà văng vẳng truyền xuống mấy tiếng đàn và tiếng tiêu, xem ra có đến mấy chiếc dao cầm[4], mấy chiếc động tiêu cùng tấu một lượt. Tiếng nhạc dìu dặt uyển chuyển, như có như không nhưng ai ai cũng nghe rõ ràng, có điều khi thì bên đông, lúc lại bên tây không biết từ hướng nào trên mái nhà truyền xuống.

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, không biết tiếng đàn tiếng tiêu kia có ý gì. Trần Hữu Lượng lớn tiếng nói:

- Cao nhân ở phương nào giá lâm Cái Bang? Nếu là quần ma của Minh Giáo sao không hiện thân mà lại cố ý ra tay đùa rỡn?

Tiếng dao cầm tưng tưng tưng luôn ba tiếng, bỗng thấy có bốn thiếu nữ mặc áo trắng từ hai bên đông tay mái hiên nhảy xuống sân, trong tay người nào cũng ôm một cây dao cầm. Những chiếc đàn đó so với thất huyền cầm thông thường chỉ ngắn bằng một nửa, hẹp chỉ bằng một nửa nhưng cũng có đủ bảy dây. Bốn cô gái nhảy xuống rồi liền chia nhau ra đứng ở bốn góc. Ngay sau đó từ cửa đi vào bốn thiếu nữ mặc áo đen, mỗi người trong tay cầm một chiếc trường tiêu màu đen, tiêu này so với tiêu thường dài gấp rưỡi. Bốn thiếu nữ đó cũng chia ra đứng bốn góc, mỗi góc hai người một áo trắng một áo đen xen kẽ nhau.

Tám cô gái đứng ổn định rồi, bốn chiếc dao cầm liền bắt đầu tấu nhạc, kế đó động tiêu cũng hợp tấu, tiếng nhạc cực kỳ nhu hòa u nhã. Trương Vô Kỵ không hiểu âm luật, nhưng thấy tiếng nhạc uyển chuyển dễ nghe, tuy đang trong cục diện cực kỳ khẩn bách nhưng cũng vẫn muốn nghe thêm một chút.

Trong khi tiếng nhạc dặt dìu, một thiếu nữ mặc áo màu vàng nhạt khoan thai bước tới, tay trái dắt một cô bé chừng mười hai mười ba tuổi. Cô gái đó tuổi chừng hăm bảy hăm tám, phong tư tha thướt, dung mạo hết sức xinh đẹp, chỉ có điều mặt trắng bệch không còn chút huyết sắc nào. Còn nữ đồng thì mặt mày xấu xí, hai lỗ mũi huếch lên, cái mồm rộng để lộ hai chiếc răng cửa thô kệch, xem ra có phần hung dữ. Cô bé nắm tay thiếu nữ, tay bên kia cầm một chiếc gậy trúc xanh.

Quần cái thấy thiếu nữ đó tiến vào, cả bọn không hẹn mà cùng chăm chăm nhìn cây gậy trúc. Trương Vô Kỵ thấy có rất đông đàn bà con gái? tự thấy mình cưỡi trên cổ Sử Hỏa Long quả thật quá ư trẻ con, thế nhưng mũi kiếm của Trần Hữu Lượng vẫn còn chỉ vào hậu tâm Chu Chỉ Nhược, chàng không thể nào có thể thả bang chủ Cái Bang một cách dễ dàng. Khi thấy bọn ăn mày hết sức chú ý đến chiếc gậy trúc trong tay cô bé, tưởng như trên đời không gì quan trọng hơn, tất cả những cô áo đen, áo trắng, áo vàng và đứa trẻ xấu xí kia đều coi như không có, chàng trong bụng ngạc nhiên, nhìn kỹ chiếc gậy thấy toàn một màu xanh lục, nhẵn bóng xem ra không biết đã bao nhiêu năm, qua tay bao nhiêu người dùng đến, nhưng ngoài ra không thấy gì khác lạ.

Thiếu nữ áo vàng mắt không chuyển động, khuôn mặt lạnh lùng đi tới giữa đám người, ngừng ngay trước mặt Trương Vô Kỵ, giọng như băng:

- Trương giáo chủ tuổi cũng đâu còn nhỏ bé gì, chuyện phải làm không làm, lại ở đây đùa nghịch.

Câu nói đó có phần trách móc nhưng từ ngữ xem ra thân thiết, nghe chẳng khác gì chị mắng em. Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên vội vàng phân trần:

- Trần trưởng lão của Cái Bang giở trò vô sỉ, chế ngự ... chế ngự đồng bạn của tôi, tôi đành phải bắt giữ bang chủ của họ.

Cô gái xinh đẹp đó mỉm cười, dịu dàng nói:

- Đem bang chủ người ta ra làm ngựa cưỡi chẳng cũng quá đáng sao? Ta từ Trường An đến đây, nghe nói giáo chủ Minh Giáo là một tiểu ma đầu, hôm nay thấy đây, Ôi thôi! Ôi thôi!

Nàng vừa nói vừa lắc đầu, ra dáng không bằng lòng. Sử Hỏa Long đột nhiên kêu lớn:

- Thằng tiểu dâm tặc Trương Vô Kỵ kia, có mau mau xuống không thì bảo?

Y giơ tay toan hất chân chàng nhưng kinh mạch trên cổ đã bị nắm giữ, không sao sử được chút kình lực nào. Trương Vô Kỵ nghe thấy y trước mặt đàn bà con gái lại chửi mình là ?tiểu dâm tặc?, vừa thẹn vừa tức, một luồng lực đạo từ tay trái ấn vào cổ y. Sử Hỏa Long toàn thân tê tái chịu không nổi, phải kêu lên ?Ối chà! Ối chà!? liên tiếp rồi cất tiếng rên hừ hừ. Bọn ăn mày thấy Trương Vô Kỵ vô lễ mà bang chủ bản bang lại yếu đuối như thế ai nấy đều vừa xấu hổ, vừa bực bội. Sử Hỏa Long bị địch nhân chế ngự lại mở miệng rên rỉ, quả thực mất hết bản sắc anh hùng hảo hán, không nói gì y là bang chủ một bang hội đứng đầu trên giang hồ, ngay cả một đệ tử tầm thường của Cái Bang cũng không ai cúi đầu chịu tiếng hèn trước địch thủ.

Trần Hữu Lượng nói:

- Trương Vô Kỵ, ngươi thả Sử bang chủ ra, ta thu kiếm về, được chăng?

Y không đợi Trương Vô Kỵ đáp ứng, liền cho kiếm vào trong bao. Y liệu chừng? giao hẹn như thế ắt sẽ xong ngay, quả nhiên Trương Vô Kỵ nói:

- Được lắm!

Chàng nhún mình một cái đã đứng ngay bên cạnh Chu Chỉ Nhược, thấy nàng đôi lông mày nhíu lại, thần tình uể oải, trông thật đáng thương, liền đỡ nàng đến ngồi tại một cái đôn đá trong sân.

Trần Hữu Lượng quay sang mỹ nữ áo vàng, chắp tay nói:

- Phương giá đến thăm tệ bang không biết có điều chi dạy bảo? Tôn tính đại danh có thể cho biết được chăng?

Y lại quay qua hỏi cô bé con xấu xí:

- Tiểu cô nương, cái gậy trúc đó ngươi lấy ở đâu vậy?

Cô gái áo vàng lạnh lùng đáp:

- Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn có ở đây không? Mời y ra đây cho gặp.

Trương Vô Kỵ nghe nói đến Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn trong bụng hết sức ngạc nhiên, thấy Trần Hữu Lượng mặt hơi biến sắc. Thế nhưng y lập tức trấn tĩnh ngay, thản nhiên đáp:

- Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn? Có phải là sư phụ của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn chăng? Cái đó phải hỏi Minh Giáo Trương giáo chủ mới biết được.

Mỹ nữ áo vàng hỏi lại:

- Các hạ là ai?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Tại hạ họ Trần, thảo tự Hữu Lượng, là trưởng lão tám túi trong Cái Bang.

Cô gái áo vàng nhếch mép hất về phía Sử Hỏa Long hỏi:

- Còn tên kia là ai? Trông tướng tá thì ra vẻ anh hùng hảo hán, mà sao bị thịt làm vậy? Người ta mới hơi ra tay đã kêu chí chóe chẳng ra sao cả.

Bọn ăn mày ai nấy quả tự thẹn trong lòng không còn mặt mũi nào, có người nhìn Sử Hỏa Long ánh mắt có ba phần khinh miệt, hai phần bực tức. Trần Hữu Lượng đáp:

- Vị này là Sử bang chủ của bản bang. Lão nhân gia gần đây bệnh nặng mới bớt, thân thể chưa được khỏe lắm. Cô là khách nên chúng tôi nhường nhịn ba phần, nếu còn nói năng láo lếu, có đắc tội cũng đừng trách.

Y nói tới hai câu cuối, ngữ khí có phần hằn học. Mỹ nữ áo vàng vẫn thản nhiên, quay sang một cô gái áo đen nói:

- Tiểu Thúy, ngươi đem trả lại phong thư cho y.

Cô gái áo đen lập tức đáp lời:

- Vâng!

Từ trong bọc lấy ra một bao thư cầm trong tay. Trương Vô Kỵ vừa nhìn tới thấy ngoài phong bì viết: ?Kính gửi Hàn Sơn Đồng đại gia của Minh Giáo? bên dưới có một hàng chữ nhỏ: ?Cái Bang Sử gởi?. Chưởng Bổng long đầu vừa nhìn thấy lá thư lập tức mặt đỏ gay, chửi mắng:

- Tiểu tặc tì, thì ra kẻ đùa rỡn lão gia ở trên đường, ăn cắp mất phong thư, chính là con a đầu chết tiệt này.

Y vung cây gậy sắt trên tay, toan xông đến làm dữ. Cô gái áo đen kia cười khúc khích nói:

- Ta là a đầu chứ có chết tiệt bao giờ đâu? Người lớn như thế có một phong thư giữ cũng không xong, không biết xấu hổ hay sao.

Nói xong cô gái vung bàn tay thon một cái, lá thư bình ổn bay tới Chưởng Bổng long đầu, y liền tiện tay bắt lấy. Đêm hôm đó Trương Vô Kỵ từng thấy Sử Hỏa Long sai Chưởng Bổng long đầu đưa thư cho Hàn Sơn Đồng, lấy Hàn Lâm Nhi ra uy hiếp bắt phải đầu hàng Cái Bang, bây giờ nghe đối đáp, xem ra những cô gái áo đen áo trắng này đã đùa rỡn Chưởng Bổng long đầu trên đường, ăn cắp mất phong thư khiến y đành phải quay về Lô Long. Thế nhưng Chưởng Bổng long đầu võ công cao cường như thế, vậy mà nghe y nói thì đến bây giờ y mới biết người trêu ghẹo y là ai, xem ra nếu tám cô gái này không phải cơ trí hơn người thì cũng võ công cực cao, bên trong lại có thiếu nữ áo vàng chủ trì, làm cho một cao thủ của Cái Bang phải tối tăm mặt mũi không biết đâu mà mò. Chàng nghĩ đến đó không khỏi cảm kích thầm cô gái áo vàng.

Cô gái áo vàng nói:

- Hàn Sơn Đồng khởi nghĩa ở Hoài Tứ, đánh đuổi Thát tử, trên đường ta nghe y là người nhân hậu nghĩa khí, không quấy rầy bách tính. Một nhân vật anh hùng như thế, không lẽ vì một đứa con mà phản bội Minh Giáo, đầu hàng Cái Bang hay sao? Các ngươi nếu có đem được lá thư đó tới Hàn Sơn Đồng âu cũng chỉ mang thêm cái nhục mà thôi. Ta xem vị long đầu đại ca hồ đồ này thật là nực cười quá, lại nhân Cái Bang có đại sự phải đích thân tới đây, nên mới chặn lá thư này lại.

Trương Vô Kỵ ôm quyền tạ ơn nói:

- Đa tạ đại tỉ ra tay tương trợ, Trương Vô Kỵ xin vái chào.

Cô gái áo vàng đáp lại một lễ nói:

- Khỏi phải khách khí.

Cô gái áo vàng lại quay sang bọn người Cái Bang nói:

- Các ngươi tưởng rằng bắt được Hàn Lâm Nhi là có thể khiến cho Hàn Sơn Đồng phải đầu hàng ư? Chưởng Bổng long đầu đại ca, hôm đó ngươi ở trên đường liên tiếp bị ngăn chặn nên phải chuyển sang đường nhỏ để mong tránh được hay sao? Ha ha, dẫu có tránh được thì phong thư này đưa tới tay Hàn Sơn Đồng cũng chẳng hay ho gì cho Cái Bang các ngươi đâu.

Trần Hữu Lượng trong lòng chợt động, đưa tay cầm lấy phong thư, thấy ngoài phong bì hoàn toàn không có gì khác lạ, vội mở ra xem, vừa đọc tờ giấy sắc mặt quả nhiên biến hẳn. Thì ra phong thư chiêu hàng Hàn Sơn Đồng lại biến thành Cái Bang xin tình nguyện đầu hàng Minh Giáo, trong văn hèn hạ quị lụy, hết sức khiêm tốn, tự chửi mình là những gì đã làm thật đáng xấu hổ, xin nguyện từ nay sẽ thành tâm sám hối, mong sao Minh Giáo khoan hồng đại lượng không xét đến hiềm xưa, nhận cho Cái Bang làm hạ thuộc, tiên phong trong việc đánh đuổi quân Nguyên.

Cô gái áo vàng cười khẩy:

- Đúng thế, phong thư này ta đã đọc qua rồi, nhưng không phải do ta sửa đổi đâu. Ta xem thư xong biết Chưởng Bổng long đầu đã bị người ngoài trêu ghẹo tính cho một mẻ. Ta niệm tình uyên nguyên của Cái Bang đời trước, cũng không muốn một đại bang số một trong thiên hạ, uy danh hiển hách nay lại lộ cái xấu xa, nên mới ra tay cướp lấy. Các ngươi thử nghĩ xem, lá thư này do Chưởng Bổng long đầu tự tay đem đến Minh Giáo, Cái Bang từ nay có còn đất đứng trên chốn giang hồ nữa hay không?

Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão, Chưởng Bát long đầu, Chưởng Bổng long đầu trước sau lần lượt đọc lá thư, vừa thoáng qua ai ai cũng đều giận dữ, kinh hoảng trong bụng nghĩ thầm: ?Xấu hổ quá?. Đúng như cô gái áo vàng đã nói, hàng thư giọng điệu hèn hạ, không một chút khí khái này nếu như vào tay Minh Giáo, tiếng xấu của Cái Bang truyền khắp giang hồ, đệ tử Cái Bang thật không còn dám đứng thẳng trước mặt ai nữa. Nếu nói thế, cô gái áo vàng chặn lá thư lại là ban cho Cái Bang một đại ân, thế nhưng kẻ đã đánh tráo lá thư kia là ai vậy?

Cô gái áo đen tên Tiểu Thúy cười nói:

- Có phải các ông định hỏi: Phong thư này ai đã tráo vào, có phải không nào?

Người trong Cái Bang không lên tiếng trả lời nhưng trên mặt ai nấy lộ vẻ nóng lòng muốn biết. Tiểu Thúy đáp:

- Chưởng Bổng long đầu, ông cởi áo ngoài ra thì sẽ biết ngay.

Chưởng Bổng long đầu vốn dĩ đã mặt đỏ gay, gân xanh trên cổ nhô lên nghe nói thế, lập tức hai tay cầm hai bên vạt áo xé mạnh một cái, nghe xoẹt xoẹt mấy tiếng nhỏ đã rách ngay ra làm đôi. Y vung tay về phía sau đã vứt bỏ được chiếc trường bào, quát lớn:

- Thế thì đã sao?

Chỉ nghe những người đệ tử Cái Bang đứng ở đằng sau ?Ồ? lên một tiếng kinh hãi, dường như nhìn thấy chuyện gì quái lạ. Chưởng Bổng long đầu hỏi:

- Gì thế?

Y quay lại thấy bảy tám người chỉ trỏ nơi lưng y. Chưởng Bổng long đầu lại càng gấp rút, hai tay lại xoẹt xoẹt xé liên tiếp rách luôn vạt áo trước, cởi luôn áo trong ra, để lộ thân thể đầy những bắp thịt cuồn cuộn, giơ chiếc áo ra xem thấy bên trên có một con dơi lớn vẽ bằng chàm màu xanh, hai cánh giương ra nhe răng thật ghê rợn, bên miệng còn điểm mấy chấm máu đỏ tươi.

Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão cả bọn cùng kêu lên:

- Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu.

Vi Nhất Tiếu trước kia ít đến Trung Nguyên nên tên tuổi ít người biết đến nhưng mấy năm gần đây trên giang hồ thần xuất quỉ một, ra tay đã nhiều, uy danh càng lúc càng nổi, không kém gì Bạch Mi Ưng Vương. Trương Vô Kỵ trong bụng mừng thầm: ?Nếu không phải cái tài khinh công lai vô ảnh, khứ vô tung của Vi huynh thì làm sao mà có thể đùa rỡn một người như Chưởng Bổng long đầu hoàn toàn không hay biết gì cả?.

Chưởng Bổng long đầu ngạc nhiên, cầm chiếc áo ném vào Trương Vô Kỵ, chửi:

- Giỏi nhỉ, thì ra bọn ma đầu chúng bay đùa rỡn lão phu.

Trương Vô Kỵ giơ tay phất một cái, một luồng kình phong đẩy tung chiếc áo lên, mắc vào một cây ngân hạnh trong sân, gió thổi tới bay phất phới, con dơi hút máu vẽ trên áo linh động trông như còn sống. Trương Vô Kỵ cười nói:

- Chưởng Bổng long đầu, Vi Bức Vương của tệ giáo ra tay còn nể mặt, không lẽ ông chưa biết hay sao? Nếu như y muốn lấy mạng của ông thì đã ra sao rồi?

Chưởng Bổng long đầu nghĩ lại, không khỏi lạnh mình. Trần Hữu Lượng nghĩ thầm việc này càng nói thêm càng xấu, chỉ còn cách lảng qua chuyện khác là thượng sách nên quay sang hỏi thiếu nữ áo vàng:

- Xin hỏi cao tính của cô nương, không biết có uyên nguyên gì với chúng tôi?

Cô gái cười khẩy đáp:

- Có uyên nguyên gì với các ngươi ư? Ta chỉ có uyên nguyên với chiếc Đả Cẩu Bổng này thôi.

Nói rồi chỉ vào chiếc gậy trúc xanh đang ở trong tay cô gái nhỏ. Quần cái vốn đã nhận ra đây là Đả Cẩu Bổng tín vật của bang chủ, nhưng không hiểu sao lại rơi vào tay người ngoài nên tất cả đều quay qua nhìn Sử Hỏa Long, chỉ thấy y mặt trắng bệch, luống cuống không biết làm sao. Truyền Công trưởng lão hỏi:

- Bang chủ, cây gậy đánh chó trong tay con bé kia là giả phải không?

Sử Hỏa Long đáp:

- Ta ... ta xem ra có lẽ là giả.

Cô gái áo vàng hỏi lại:

- Được, vậy thì ngươi đem cây gậy đánh chó thật ra so sánh xem nào?

Sử Hỏa Long đáp:

- Đả Cẩu Bổng là vật chí bảo của bản bang, đâu có đưa ra cho người ngoài coi được? Ta dại gì mang theo trong người, nếu chẳng may đánh mất có phải khổ không?

Bọn ăn mày nghe thấy nói thế đều thấy chẳng ra đâu vào đâu, ai đời thân là bang chủ Cái Bang mà lại sợ đánh mất Đả Cẩu Bổng. Cô bé con giơ cao cây gậy trúc, lớn tiếng nói:

- Tất cả lại đây coi. Cây gậy đánh chó này là cây gậy bản bang ... bản bang đời đời truyền xuống, làm sao giả được?

Cả bọn nghe cô ta nói ?bản bang?, trong bụng lạ lùng, chạy đến coi kỹ lưỡng, thấy chiếc gậy đó bóng loáng như ngọc, cứng rắn hơn thép, đúng là tín vật Đả Cẩu Bổng của bang chủ Cái Bang. Mọi người ai nấy nhìn nhau thắc mắc, không hiểu sự thể ra thế nào. Cô gái áo vàng nói:

- Ta nghe bang chủ Cái Bang có Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp hai đại thần công nổi danh thiên hạ. Tiểu Hồng, ngươi ra lãnh giáo Hàng Long Thập Bát Chưởng công phu của Sử bang chủ trước. Tiểu Linh, ngươi đợi cho Tiểu Hồng tỉ tỉ thắng rồi, lại đến học hỏi Sử bang chủ môn Đả Cẩu Bổng Pháp công phu.

Hai cô gái cầm trường tiêu nghe tiếng đáp lời bước ra, đứng qua hai bên tả hữu. Trần Hữu Lượng giận dữ nói:

- Cô nương không chịu cho biết tên tuổi đã coi Cái Bang không ra gì rồi, lại sai hai đứa tiểu tì khiêu chiến với bang chủ chúng tôi, trên giang hồ nào có cái lý gì như thế? Sử bang chủ, để đệ tử thanh toán hai con a hoàn này rồi sẽ quay sang lãnh giáo cao chiêu của cô nương kia, để xem đây là cao nhân ở phương nào mà dám đến coi thường Cái Bang như thế.

Sử Hỏa Long đáp:

- Con bà nó chứ, được lắm, xin Trần trưởng lão cứ việc hạ trường.

Trần Hữu Lượng rút phắt trường kiếm ra, chậm rãi đi đến giữa sân. Cô gái tên Tiểu Hồng nói:

- Cô nương sai ta ra lãnh giáo Hàng Long Thập Bát Chưởng, ngươi có biết chưởng pháp này không? Sử Hàng Long Thập Bát Chưởng lại dùng kiếm à?

Trần Hữu Lượng quát lớn:

- Sử bang chủ thân phận như thế, không lẽ lại động thủ quá chiêu với một con tiểu a đầu sao? Thần công Hàng Long Thập Bát Chưởng đâu phải để cho một đứa đầy tớ như ngươi được trông thấy?

Nói xong y liền tiến lên một bước. Cô gái áo vàng quay sang nói với Trương Vô Kỵ:

- Trương giáo chủ, tôi nhờ ông một việc.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Xin cô nương cứ nói ra.

Cô gái áo vàng nói:

- Xin ông đánh đuổi gã họ Trần kia đi, rồi lột mặt nạ tên bịp bợm mạo danh Sử bang chủ kia cho mọi người thấy.

Trương Vô Kỵ mới rồi chỉ một chiêu đã bắt ngay được Sử Hỏa Long, cảm thấy võ công y quả thực hết sức kém cỏi, lại nghĩ đến hôm đó Hàn Lâm Nhi nhổ bãi đờm, Sử Hỏa Long cũng không tránh né, trong bụng đã nghi, rồi mọi việc y đều phải nghe lời Trần Hữu Lượng chỉ điểm, còn chính mình không có chút chủ định nào, cứ như võ công đó, kiến thức đó quyết không thể nào làm chủ một bang, bây giờ nghe cô gái áo vàng nói y là tên ?bịp bợm mạo danh Sử bang chủ?, lấy chuyện trước ra ấn chứng cũng hiểu được bảy tám phần, liền gật đầu, đi đến trước mặt Sử Hỏa Long.

Sử Hỏa Long liền sử chiêu ?Xung Thiên Pháo? đánh ra, nghe bình một quyền đã đánh trúng ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cười ha hả nói:

- Hàng Long Thập Bát Chưởng thần công, không lẽ lại kém cỏi đến thế sao?

Chàng giơ tay ra nắm ngay áo ngực y, đưa lên cao. Trần Hữu Lượng biết mình không phải là địch thủ của Vô Kỵ, không đợi chàng ra tay đã lui ngay về lẫn trong đám người. Cô bé xấu xí kia đột nhiên khóc òa lên, xông ngay tới, nắm lấy Sử Hỏa Long đấm thùm thụp, kêu réo:

- Ngươi giết chết cha ta, ngươi giết chết cha ta, ngươi là tên ác tặc.

Sử Hỏa Long bị Trương Vô Kỵ nắm ngay huyệt đạo sau lưng không sao cử động được. Y thân thể cao to, nắm tay bé nhỏ của cô gái chỉ đấm trúng bụng y mà thôi. Trương Vô Kỵ liền ấn đầu y xuống, cô bé liền nắm tóc y giựt mạnh, tất cả mớ tóc của Sử Hỏa Long liền tuột luôn ra, lộ cái đầu trọc bóng như bôi mỡ. Thì ra y là một người hói đầu, trên đầu đội tóc giả. Cô gái đấm đánh một hồi nắm luôn mũi y giựt ra nhưng không thấy có máu chảy. Mọi người hết sức ngạc nhiên, nhìn kỹ lại hóa ra mũi y tẹt, mũi cao kia chỉ là mũi giả. Quần cái liền bàn tán xôn xao, cùng hỏi:

- Ngươi là ai? Sao dám mạo nhận là Sử bang chủ?

Trương Vô Kỵ nhắc y lên ném mạnh xuống, khiến y bị lăn đi mấy vòng, xụm xuống không nói nên lời. Trương Vô Kỵ mỉm cười, lui sang một bên nghĩ thầm người này giả mạo Sử Hỏa Long, chân tướng nay đã rõ ràng nên để cho người trong Cái Bang tự lo liệu lấy. Chưởng Bổng long đầu tính nóng như lửa liền tiến lên xoạc cẳng giang tay tát bốp bốp bốp bốp bẩy tám cái liền. Tên bang chủ giả kia má sưng vù lên kêu lớn:

- Không phải tôi, không phải tôi, là do Trần ... Trần trưởng lão bảo tôi làm đó.

Chấp Pháp trưởng lão bỗng giật mình hỏi lại:

- Trần Hữu Lượng đâu rồi?

Thế nhưng đã không còn thấy bóng y đâu nữa, có lẽ thấy công việc bại lộ, nên đã cong đuôi chạy mất. Chấp Pháp trưởng lão liền quát:

- Mau đuổi theo y ngay!

Mấy tên đệ tử bảy túi tuân lệnh chạy ra, đuổi theo Trần Hữu Lượng. Chưởng Bổng long đầu chửi:

- Thằng khốn nạn, ngươi là cái thằng nào mà bắt ông phải khấu đầu, gọi ngươi là bang chủ?

Y giơ bàn tay to như cái quạt lên, đang tính đánh vào mặt y. Chấp Pháp trưởng lão vội vàng giơ tay ngăn lại nói:

- Phùng huynh đệ không được lỗ mãng. Ngươi một chưởng đánh chết y thì không còn tra xét được chuyện gì nữa.

Ông quay sang thiếu nữ áo vàng vòng tay hành lễ, cung kính nói:

- Nếu không nhờ có cô nương làm lộ mưu gian thì chúng tôi vẫn còn bị chúng che mắt. Phương danh của cô nương liệu có thể cho chúng tôi biết được không? Tệ bang từ trên xuống dưới cùng cảm tạ cái đại đức này.

Cô gái nhỏ nhẹ cười nói:

- Tiểu nữ sống nơi? thâm sơn cùng cốc, trước nay không giao thiệp với bên ngoài, có nói tên cũng chẳng làm gì. Còn như vị tiểu muội muội này, chẳng lẽ các ông cũng không ai nhận ra sao?

Người trong Cái Bang nhìn chăm chăm cô gái nhỏ nhưng không ai nhận ra được. Truyền Công trưởng lão đột nhiên nghĩ ra một chuyện, tiến lên một bước nói:

- Con bé này ... con bé này ... con bé này mặt mũi có vẻ giống như phu nhân của Sử bang chủ, hay là ... hay là ...

Cô gái áo vàng nói:

- Đúng thế, cô em đây họ Sử tên Hồng Thạch, là con gái duy nhất của Sử bang chủ Sử Hỏa Long. Khi Sử bang chủ lâm nguy đã sai phu nhân ôm con, cầm cây gậy đánh chó đến tìm tiểu nữ nhờ tôi báo thù.

Truyền Công trưởng lão kinh hoảng kêu lên:

- Cô nương nói thế chẳng lẽ Sử bang chủ đã qui thiên rồi ư? Ông ta ... lão nhân gia làm sao mà từ trần?

Các bang chủ đời trước truyền lại Hàng Long Thập Bát Chưởng nhưng đến đời Gia Luật Tề thì học không hết, từ đó về sau các đời bang chủ, tối đa chỉ học được đến mười bốn chưởng là cùng. Sử Hỏa Long học tổng cộng mười hai chưởng nhưng hai mươi năm trước vì khổ luyện môn chưởng pháp này nội lực không đều, nên bị chứng bán thân bất toại, hai cánh tay không cử động được. Ông ta bèn cùng vợ đi vào núi non tìm kiếm linh dược trị bệnh, đem bang vụ giao cho Truyền Công, Chấp Pháp hai trưởng lão, Chưởng Bát, Chưởng Bổng hai long đầu cùng đảm trách.

Thế nhưng các trưởng lão, các long đầu không ai chịu ai, mỗi người một phe, trong bang hai bên áo sạch, áo bẩn lại không hòa thuận đến nỗi một bang lớn như Cái Bang trở nên suy yếu. Gần tây tên giả bang chủ này đột nhiên xuất hiện, những đệ tử tuổi trẻ thì chưa gặp bang chủ bao giờ, còn bọn Truyền Công trưởng lão thì cách biệt Sử Hỏa Long hai mươi năm, thấy tên bang chủ giả này tướng mạo giống hệt nên có ai lại nghĩ là y giả mạo bao giờ?

Cô gái áo vàng thở dài nói:

- Sử bang chủ táng thân dưới tay Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn.

Trương Vô Kỵ ?Ồ? lên một tiếng, nghĩ thầm khi chàng còn ở Quang Minh Đính từng chính mắt thấy Thành Côn chết nằm trên đất, sao nay lại còn đi giết được Sử Hỏa Long? Chắc có lẽ việc này xảy ra từ trước khi việc trên Quang Minh Đính xảy ra, nên hỏi lại:

- Thỉnh vấn cô nương, Sử bang chủ từ trần đã bao lâu rồi?

Thiếu nữ đáp:

- Mồng sáu tháng mười năm ngoái, đến nay cũng đã hơn hai tháng rồi.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế thì lạ thật. Không biết vì sao mà cô nương lại biết là do lão tặc Thành Côn hạ độc thủ?

Cô gái áo vàng đáp:

- Sử phu nhân nói rằng: Sử bang chủ đấu với một lão già mười hai chưởng liền, lão già kia hộc máu ra bỏ đi, còn Sử bang chủ cũng bị chưởng lực của lão già đó đánh cho bị thương. Sử bang chủ biết rằng vết thương của mình không sao chữa trị được, liệu tưởng lão già đó ba ngày sau nguyên khí phục hồi sẽ quay lại báo thù, nên dặn dò mọi việc cho Sử phu nhân, nói tên của cừu nhân là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn. Hai cánh tay bị liệt của Sử bang chủ? khi đó đã khỏi đến chín phần, lại được chân truyền mười hai trong Hàng Long Thập Bát Chưởng, võ công phải vào bậc nhất trong giang hồ, thế nhưng đánh hết mười chưởng rồi vẫn không qua khỏi độc thủ của địch.

Cô bé Sử Hồng Thạch nghe nói đến đây liền khóc òa lên. Truyền Công trưởng lão mặt hầm hầm, vừa đau lòng vừa giận dữ, đưa tay áo dơ bẩn của ông ta lên chùi nước mắt cho đứa nhỏ, nói:

- Tiểu thế muội, mối thù của bang chủ tức là mối thù của mấy vạn đệ tử từ trên xuống dưới trong bang, bọn ta nhất quyết bắt cho bằng được Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn, băm vằm y ra làm vạn mảnh để rửa hận cho bang chủ. Không biết mẹ em bây giờ đang ở đâu?

Sử Hồng Thạch chỉ vào cô gái áo vàng nói:

- Mẹ cháu đang ở nhà Dương tỉ tỉ dưỡng thương.

Tất cả đến giờ phút này mới biết cô gái áo vàng kia họ Dương, còn như cô ta là hạng người ra sao, vẫn chưa đoán ra được chút đầu mối nào. Cô gái áo vàng thở dài một tiếng nói:

- Sử phu nhân cũng bị Thành Côn đánh trúng một chưởng, thương thế cũng không phải nhẹ, lại thêm đường xa rong ruổi đến được tệ xá, lúc ấy chỉ còn thoi thóp, liệu rồi có thuyên giảm hay không, cái đó ... cái đó cũng chưa nói được.

Chấp Pháp trưởng lão hậm hực nói:

- Gã Thành Côn kia không biết có thù oán gì với bang chủ mà lại hạ độc thủ như vậy?

Cô gái áo vàng nói:

- Cứ như di ngôn của Sử bang chủ mà Sử phu nhân chuyển lại, ông ta và gã Thành Côn kia hai bên không biết nhau, hai chữ thù oán không thể nào có được. Thành ra lão nhân gia đến lúc chết cũng vẫn không hiểu nguyên do vì sao. Cứ như Sử phu nhân suy đoán, có lẽ có người nào đó trong Cái Bang đắc tội với y nên y đi tìm Sử bang chủ để thanh toán.

Chấp Pháp trưởng lão trầm ngâm rồi nói:

- Gã Thành Côn kia vì cố tránh mặt Tạ Tốn, mấy chục năm nay tuyệt tích giang hồ, không ai biết y đi đâu, đệ tử Cái Bang làm gì có chuyện kết thù gây oán với y? Xem ra bên trong có điểm hiểu lầm nào đó ghê gớm lắm.

Chưởng Bát long đầu từ nãy vẫn đứng ngoài nghe không nói một lời, lúc này đột nhiên nhặt một thanh loan đao, nhứ nhứ vào cổ tên? đầu hói giả mạo Sử bang chủ? quát lớn:

- Tên ngươi là gì? Sao dám lớn mật giả mạo Sử bang chủ? Mau mau cung khai, nếu nói láo một câu, hừ, hừ!

Nói đến đo y vung đao chém phập một cái, chặt một cái ghế đứt ra làm đôi, rồi lại để ngay vào cổ tên hói đầu. Tên đó sợ đến hồn bất phụ thể nói:

- Tôi ... tôi ... tiểu nhân tên là Lại Đầu Nguyên Lưu Ngao, vốn là một đầu mục ở sơn trại Loạn Thạch Cương ở Giải Huyện, tỉnh Sơn Tây, hôm đó xuống núi làm nghề không vốn, gặp phải Trần Hữu Lượng Trần trưởng lão, lại có thêm cả sư phụ của y nữa. Trần trưởng lão đá một cái ngã lăn tiểu nhân ra, giơ kiếm định giết, tiểu nhân vội vàng lạy lục xin tha.

Trần trưởng lão ngắm nghía tiểu nhân một hồi, đột nhiên nói: ?Sư phụ, tên tiểu tặc này trông giống người hôm trước mình gặp quá?. Sư phụ y lắc đầu: ?Ha ha, tuổi tác đã khác, mũi lại tẹt, lại thêm hói đầu?. Trần trưởng lão cười nói: ?Đệ tử có cách làm cho y giống được?. Họ bèn bắt tiểu nhân đi theo đến Giải Huyện, ở trong một khách điếm. Trần trưởng lão lấy thạch cao nặn cho mũi tiểu nhân cao lên, lại bắt tôi đeo tóc bạc giả, hóa trang thành như thế này ... các vị lão gia, tiểu nhân dẫu có lớn mật tày trời, cũng chẳng dám đến để đùa rỡn với các vị, chỉ vì Trần trưởng lão bảo làm nên tiểu nhân phải cố mà làm.

Cái mạng chó của tiểu nhân nằm trong tay các vị, thật ... thật chẳng biết nói sao cho phải, trong nhà tiểu nhân còn mẹ già tuổi đã tám mươi, mong các vị đại gia tha cho.

Nói đến đây y quì phục xuống, liên tiếp rập đầu như giã gạo. Chấp Pháp trưởng lão trầm ngâm rồi nói:

- Trần Hữu Lượng xuất thân ở phái Thiếu Lâm, sư phụ y là cao tăng chùa Thiếu Lâm, y ... y còn sư phụ nào nữa?

Câu nói đó khiến Trương Vô Kỵ tỉnh ra, lập tức xen vào:

- Đúng thế, sư phụ của y chính là Thành Côn.

Chàng bèn đem chuyện Thành Côn hóa danh thành Viên Chân, vào chùa Thiếu Lâm bái Không Kiến thần tăng làm sư phụ các chuyện thuật qua một lượt, sau đó lại kể chuyện Viên Chân lén lên Quang Minh Đính làm sao, sau cùng bị Ân Dã Vương đánh chết nhưng thi thể lại đột nhiên biến mất.

Chưởng Bát long đầu và Chấp Pháp trưởng lão cùng nói:

- Như vậy không còn nghi ngờ gì nữa, trên Quang Minh Đính Thành Côn đã giả chết, trong cơn hỗn loạn y len lén chạy mất.

Truyền Công trưởng lão giận dữ nói:

- Thì ra tội khôi họa thủ là do tên gian tặc Trần Hữu Lượng mà ra. Hai thầy trò y mang dã tâm muốn độc bá thiên hạ, cho nên giết chết Sử bang chủ rồi cho tên giặc cỏ này giả mạo để làm bù nhìn cho chúng giựt giây, rồi tiến thêm một bước hiếp chế Minh Giáo, lung lạc Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi ba đại phái. Gian kế của chúng không phải là không độc địa, dã tâm không phải là không to lớn. Còn Tống Thanh Thư đâu? Tống Thanh Thư chạy đâu rồi?

Mọi người lúc nãy chỉ chú ý đến bang chủ Cái Bang, thiếu nữ áo vàng, Sử Hồng Thạch? mấy người, không ai để ý đến Tống Thanh Thư đã chạy theo Trần Hữu Lượng không biết tự bao giờ.

Nói đến đây, đem mọi việc ra ấn chứng, gian kế của Trần Hữu Lượng đều lộ ra cả. Truyền Công trưởng lão quay sang cô gái áo vàng vái một cái thật sâu, nói:

- Cô nương có đại đức với tệ bang, Cái Bang không biết cách nào báo đáp.

Cô gái áo vàng cười nhạt nói:

- Tiên nhân chúng tôi cùng đời trước của quí bang có uyên nguyên thật sâu đậm, chút công lao nhỏ bé này, có gì đáng nói đâu? Còn tiểu muội muội nhà họ Sử này, nhờ các ông chăm sóc cho chu đáo.

Nàng khom mình hành lễ, bóng vàng thấp thoáng, đã nhảy lên trên mái nhà. Truyền Công trưởng lão gọi vói theo:

- Xin cô nương dừng bước.

Bốn cô gái áo đen, bốn cô gái áo trắng cũng nhảy lên, tiếng đàn tình tang, tiếng tiêu réo rắt, chỉ chốc lát tiếng đàn tiếng sáo đã đi thật xa, khúc chưa xong mà người không còn thấy nữa, phơi phới đến rồi lại phơi phới đi. Mọi người trong lòng ai cũng cảm thấy bồi hồi.

Truyền Công trưởng lão cầm tay Sử Hồng Thạch, quay sang nói? với Trương Vô Kỵ:

- Trương giáo chủ, xin mời vào trong sảnh nói chuyện.

Cả bọn ăn mày cung kính đứng qua một bên, mời Trương Vô Kỵ đi trước. Trương Vô Kỵ vào trong sảnh, cùng bọn Truyền Công trưởng lão chia ngôi chủ khách ngồi xuống, Chu Chỉ Nhược ngồi ở bên cạnh chàng. Trương Vô Kỵ hỏi tên tuổi Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão và mọi người xong liền nói:

- Tào trưởng lão, nghĩa phụ tôi Kim Mao Sư Vương nếu có ở tại quí bang, xin được mời ra tương kiến, nếu không xin cho biết lão nhân gia hiện nay ở nơi đâu.

Truyền Công trưởng lão thở dài một tiếng nói:

- Tên gian tặc Trần Hữu Lượng giở thủ đoạn gian manh khiến cho Cái Bang phải hổ thẹn với anh hùng thiên hạ. Không dám dấu Trương giáo chủ, Tạ đại hiệp và Chu cô nương quả có bị chúng tôi mời đến khi ở quan ngoại, lúc đó Tạ đại hiệp thân bị nhiễm bệnh, hôn mê trên giường. Chúng tôi không cần động thủ quá chiêu cũng mời được ông ta đại giá tới đây. Buổi tối trước đây năm hôm, Tạ đại hiệp đột nhiên đánh chết các đệ tử tệ bang canh giữ ông ta, thoát thân đi mất. Những đệ tử Cái Bang táng mệnh, quan tài còn giữ nơi hậu viện chưa kịp chôn. Trương giáo chủ nếu như không tin, xin quá bộ xuống hậu viện xem thử thì biết.

Trương Vô Kỵ nghe ông ta nói năng thành khẩn, huống chi đêm hôm đó đệ tử Cái Bang chết ngổn ngang, chính mắt chàng đã thấy rõ, liền đáp:

- Tào trưởng lão đã nói thế, lẽ nào tại hạ lại không tin?

Chàng hỏi tiếp:

- Thế từ Lô Long một mạch chạy qua hướng tây, có để lại ký hiệu liên lạc của tệ giáo, tại hạ tra xét biết không phải do anh em trong bản giáo thực hiện, không biết việc này có liên hệ gì với quí bang chăng?

Truyền Công trưởng lão đáp:

- Xem chừng chắc là tên khốn kiếp Trần Hữu Lượng đã giở trò, nói ra thật xấu hổ, huynh đệ hoàn toàn không hay biết gì cả.

Trương Vô Kỵ gật đầu, trầm ngâm giây lát lập tức hiểu ngay: ?Tên Thành Côn kia ra vào Quang Minh Đính như chỗ không người, ký hiệu bản giáo thể nào y chẳng biết? Gã này nếu như chưa chết, cái trò bùa phép này thể nào chẳng có liên quan đến y. Nếu như nghĩa phụ ta lọt vào tay Thành Côn ...? Chàng nghĩ đến đây, trên trán đổ mồ hôi, cố gắng định thần hỏi Sử Hồng Thạch:

- Tiểu muội muội, vị Dương tỉ tỉ kia sống ở nơi đâu? Trước kia em có biết cô ta không?

Sử Hồng Thạch lắc đầu:

- Trước kia em chưa hề biết chị ấy, sau khi gia gia chết rồi, má má cùng với em đem theo cây gậy trúc của gia gia lên xe đi mấy ngày liền, rồi lại đi xe đi lên núi. Má má không đi được, nghỉ một hồi, đi bộ một quãng rồi đến ngoài một khu rừng, má má gọi mấy tiếng. Sau đó có một tiểu tỉ tỉ mặc áo đen đi ra, rồi tới Dương tỉ tỉ đi ra, hỏi chuyện má má một lúc rồi cầm cây gậy đem đi một hồi lâu. Sau đó má má bất tỉnh, Dương tỉ tỉ dẫn em cùng với tám chị mặc áo trắng, mặc áo đen đi xe đến đây.

Con bé tuổi nhỏ, nói không ra đầu đuôi, hỏi đến địa danh ngày tháng nó đều chẳng biết gì cả, nên chẳng ai tìm hiểu thêm được chuyện gì. Truyền Công trưởng lão nói:

- Công tử của Hàn Sơn Đồng đại gia bên quí giáo cũng ở tại tệ bang.

Ông ta quay lại nhắn bảo vài lời, một tên đệ tử Cái Bang hấp tấp chạy đi. Chẳng mấy chốc đã nghe tiếng Hàn Lâm Nhi oang oang chửi bới từ hậu đường truyền ra:

- Bọn chết đường chết chợ ăn mày ăn nhặt chúng bay đừng có giở trò lường gạt ông nữa! Trương giáo chủ chúng ta thân phận cao quí là dường nào, ai thèm đến đến cái hang chuột của lũ ăn xin. Chúng bay có giỏi thì mau mau đưa ta về tây thiên đi thôi, đừng có thậm thà thậm thụt giở trò ma mãnh, không ăn thua gì đâu.

Quần cái ai nấy đều nghe, người nào mặt cũng lộ vẻ sượng sùng. Trương Vô Kỵ kính trọng Hàn Lâm Nhi là người khí khái, vội đứng lên đi lên mấy bước, thấy y mặt hầm hầm hung hăng đi từ hậu đường ra, liền nói:

- Hàn đại ca, tôi ở đây này, mấy hôm nay để cho đại ca phải khó chịu.

Hàn Lâm Nhi ngạc nhiên, mừng quá đỗi, vội vàng quì xuống vái lạy nói:

- Trương giáo chủ, quả nhiên lão nhân gia đã đến thật, tiểu nhân thật không thể nào tưởng nổi. Giáo chủ mau mau truyền hiệu lệnh, giết sạch bọn ăn mày thối tha đi thôi.

Trương Vô Kỵ cố nhịn cười đỡ y dậy nói:

- Hàn đại ca, các vị trưởng lão Cái Bang vị trúng phải gian kế của người ngoài nên mới hiểu lầm nhau. Bây giờ hai bên đã phân giải rõ ràng, tất cả nay đều là chỗ bạn bè cả. Hàn đại ca nể mặt huynh đệ một chút, xin bỏ qua cho.

Hàn Lâm Nhi đứng lên, vẫn hậm hực nhìn bọn Truyền Công trưởng lão, toan chửi thêm vài câu cho đỡ tức nhưng giáo chủ đã dặn như thế đành phải lặng thinh.

Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Hôm nay Trương giáo chủ quang lâm, thật là vinh dự lớn cho tệ bang. Mau mau chuẩn bị đại tiệc, tất cả anh em ta thứ nhất là để khoản đãi Trương giáo chủ, thứ hai là để xin lỗi chưởng môn phái Nga Mi, thứ ba là để tạ tội cùng Hàn đại ca.

Lập tức các đệ tử Cái Bang cùng lên tiếng đáp ứng. Trương Vô Kỵ trong bụng lo lắng cho an nguy của nghĩa phụ, lại còn nhiều chuyện phải hỏi với Chu Chỉ Nhược không có bụng dạ nào để ăn uống vội vàng vòng tay nói:

- Mỹ ý của chư vị, bản nhân hết sức cảm tạ. Chỉ vì tại hạ vội đi kiếm nghĩa phụ, thể nào ngày sau cũng có lúc quay lại làm phiền chư vị, xin quí vị tha lỗi cho.

Truyền Công trưởng lão chèo kéo thêm mấy lần? nữa, Trương Vô Kỵ thấy nếu mình khăng khăng ra đi không khỏi thất lễ với Cái Bang, đánh phải ở lại dự tiệc. Trên bàn ăn, các cao thủ Cái Bang ai nấy trịnh trọng lên tiếng xin lỗi, đều nói đã sai các đệ tử Cái Bang khắp nơi truy tìm tung tích Tạ Tốn, một khi biết tin, lập tức phi báo cho Minh Giáo ngay. Trương Vô Kỵ cảm ơn, cùng các trưởng lão, long đầu đính ước, sau đó hai bên say sưa túy lúy một phen. Các cao thủ Cái Bang thấy chàng tuổi trẻ, võ công cao cường nhưng tuyệt nhiên không có vẻ gì kiêu ngạo, bụng dạ lại rộng rãi khoáng đạt nên tất cả cùng nắm tay thề chung sức kháng quân Nguyên. Đến khi đưa tiễn ai nấy đều bồi hồi, ra khỏi thành Lô Long đến mười dặm mới chia tay.

Hồi 34

TIÊU TRƯỜNG CẦM ĐOẢN Y LƯU HOÀNG

Hai cô tranh lấy một chàng,

Chữ tình chữ hiếu biết đàng nào hơn?

Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược và Hàn Lâm Nhi ba người cưỡi ba con ngựa do đại tài chủ tặng, thẳng đường rong ruổi về phía nam. Hàn Lâm Nhi đối với giáo chủ hết sức cung kính theo sau một quãng xa, không dám đi song song, trên đường đi múc nước, pha trà chẳng khác gì một người đầy tới phục vụ Trương Chu hai người.

Trương Vô Kỵ thấy vậy không đành lòng bèn nói:

- Hàn đại ca, anh tuy là huynh đệ trong bản giáo thật nhưng tiểu đệ rất kính trọng đại ca, ở việc công thì đại ca phải nghe hiệu lệnh của đệ nhưng ngày thường đối xử với nhau thì cứ coi như ngang vai, xem nhau như anh em bằng hữu vậy thôi.

Hàn Lâm Nhi hoảng hốt nói:

- Thuộc hạ đối với giáo chủ hết sức kính ngưỡng, coi nhau ngang hàng sao được? Bình thời không có duyên được gần giáo chủ, hôm nay tiểu nhân được tận tâm phục thị quả là sinh bình đại hạnh của thuộc hạ.

Chu Chỉ Nhược mỉm cười nói:

- Thế tôi có phải là giáo chủ của anh đâu, anh chẳng cần đối với tôi cung kính như thế nữa.

Hàn Lâm Nhi nói:

- Chu cô nương chẳng khác gì tiên trên trời, tiểu nhân được nói chuyện với cô vài câu, cũng là nhờ phúc tu các kiếp trước. Tiểu nhân ngôn ngữ thô lỗ xin cô nương miễn chấp cho.

Chu Chỉ Nhược thấy y ăn nói thành khẩn như thế, trong ánh mắt lộ vẻ sùng kính, coi mình thực chẳng khác gì thiên thần. Nàng tự biết dung mạo xinh đẹp, thanh niên con trai ai gặp nàng cũng đều động lòng nhưng người sùng bái hết cỡ như Hàn Lâm Nhi thì chưa hề có, làm thân con gái ai mà chẳng thích.

Trương Vô Kỵ hỏi lại hôm trước tại sao nàng lại bị Cái Bang bắt giữ thì Chu Chỉ Nhược kể lại hôm đó chàng vừa đi khỏi khách điếm chưa lâu, Tạ Tốn đột nhiên toàn thân run rẩy, nói mê nói sảng. Nàng sợ hãi hết sức khuyên nhủ nhưng Tạ Tốn dường như không nhận ra nàng nữa, ở trong phòng lăn lộn một hồi rồi nằm lăn ra đất, không còn biết gì nữa. Ngay khi đó sáu bảy cao thủ của Cái Bang xông vào phòng, nàng chưa kịp rút kiếm ra chống cự thì đã bị kiềm chế ngay, cả nàng lẫn Tạ Tốn đều bị đưa về Lô Long.

Trương Vô Kỵ khi còn nhỏ đã biết nghĩa phụ mình vì luyện Thất Thương Quyền nên bị thương ở tâm mạch, lại thêm toàn gia bị Thành Côn giết hại nên thỉnh thoảng nổi cơn điên, có điều không ngờ lại phát tác ngay hôm đó, khiến cho không sao đề phòng được bọn Cái Bang đến tập kích không khỏi tiếc thầm. Hai người bàn đến chuyện không biết Tạ Tốn bây giờ ở đâu, cả hai đều không có được chút manh mối nào.

Trương Vô Kỵ nói:

- Kinh sư là nơi các lộ anh hùng hội tụ, mình xuôi nam cũng qua đó vậy đến Đại Đô dò thám tin tức xem sao. Anh nghĩ rằng thể nào Thanh Dực Bức Vương Vi huynh cũng biết phần nào đầu dây mối nhợ.

Chu Chỉ Nhược bĩu môi cười nói:

- Anh đến Đại Đô có thực là đi kiếm Vi Nhất Tiếu không?

Trương Vô Kỵ hiểu ngay nàng muốn bóng gió nói gì, mặt đỏ lên nói:

- Cũng chưa chắc gì kiếm được Vi huynh. Nếu mình gặp được Dương tả sứ, Khổ đầu đà, Bành hòa thượng thì cũng giúp mình được phần nào.

Chu Chỉ Nhược mỉm cười nói:

- Có một vị thần cơ diệu toán, túc trí đa mưu, anh đến Đại Đô đi kiếm cho được thì thể nào cũng giúp được rất nhiều. Dương tả sứ, Khổ đầu đà, Bành hòa thượng làm sao thông minh bằng cô này được?

Trương Vô Kỵ từ đó đến nay đâu dám nói chuyện gặp Triệu Mẫn, lúc này nghe nàng đề cập đến, thần sắc không khỏi sượng sùng, nói:

- Em trong bụng không quên được Triệu cô nương thành ra cao hứng lại châm chọc anh vài câu.

Chu Chỉ Nhược cười:

- Em không quên hay là người khác không quên? Trong bụng anh toan tính gì bộ tưởng em không biết hay sao?

Trương Vô Kỵ nghĩ mình và Chu Chỉ Nhược đã ước định sẽ chung sống đến lúc răng long đầu bạc, từ nay sống chết có nhau, không thể nào lại hai lòng, chuyện gì cũng chẳng nên dấu nàng bèn nói:

- Chỉ Nhược, có một chuyện anh phải nói với em, em đừng giận nhé!

Chu Chỉ Nhược nói:

- Chuyện gì đáng giận thì cứ giận, còn không đáng giận thì không giận.

Trương Vô Kỵ thấy sựng lại, nghĩ thầm mình từng thề độc với nàng, nhất định sẽ giết Triệu Mẫn để báo thù cho biểu muội Ân Ly, nhưng khi gặp lại nàng rồi không những đã không giết nàng, lại còn cùng nàng qua đêm nơi hoang sơn, cùng cưỡi chung một con ngựa, những chuyện đó quả thực khó ăn khó nói làm sao. Chàng không quen giả dối nên tự thấy ngượng ngập, mặt mày không được tự nhiên.

Chàng còn đang trầm ngâm ba con ngựa đã chạy đến gần một thị trấn nhỏ, thấy trời cũng đã xế chiều bèn đi kiếm một khách điếm tá túc qua đêm. Ăn cơm tối xong, chàng lại xoa nắn các huyệt đạo ở lưng Chu Chỉ Nhược, tuy phương pháp giải huyệt không thích hợp nhưng nàng bị điểm cũng đã lâu, thành ra khi máu huyết lưu thông, các huyệt bị đóng cũng tự động mở ra. Chàng nghĩ thầm: ?Các trưởng lão Cái Bang tuy võ công không phải là cực cao nhưng phép điểm huyệt của họ thật thần diệu. Chỉ Nhược tâm tính cao ngạo, trên bàn tiệc không chịu mở miệng nhờ họ giải huyệt, người điểm huyệt cũng làm như không nhớ ra. Ha ha, mấy ông ăn mày đó cũng giữ thể diện thật, đã thua xiểng niểng rồi, vậy mà điểm huyệt trội một tí cũng vẫn còn cố hơn cho bằng được?.

Chu Chỉ Nhược hiềm khách điếm có mùi hôi hám nên nói:

- Thôi mình đi ra ngoài dạo chơi một chốc cho dãn gân dãn cốt.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Hay lắm.

Chàng liền nắm tay nàng cùng đi ra khỏi thị trấn. Lúc đó mặt trời đã xuống trên đầu non, phía tây cả một bầu trời ráng chiều đỏ như máu, hai người đi bộ một hồi đến ngồi dưới một gốc cây nhìn vầng thái dương đang từ từ khuất sau rặng núi xa xa, trời sâm sẩm tối dần. Trương Vô Kỵ thu hết can đảm, đem chuyện làm sao gặp lại Triệu Mẫn nơi miếu Di Lặc, rồi đến việc phát hiện cái xác Mạc Thanh Cốc như thế nào, gặp lại bọn Tống Viễn Kiều ra sao, rồi đi theo các dấu hiệu của Minh Giáo chạy một vòng lớn ở Ký Bắc tất cả thuật lại một lượt, sau cùng chàng đưa hai tay nắm tay Chu Chỉ Nhược nói:

- Chỉ Nhược, em là vợ chưa cưới của anh, phu thê nhất thể, chuyện gì anh cũng không muốn dấu em làm gì. Triệu cô nương nhất định đòi gặp nghĩa phụ anh cho bằng được, có mấy câu rất quan trọng phải hỏi ông cho ra. Anh lúc đó cũng khởi nghi, bây giờ nghĩ lại, càng thấy đáng sợ hơn.

Chàng nói tới mấy câu sau cùng, giọng hơi run run. Chu Chỉ Nhược nói:

- Chàng sợ cái gì?

Trương Vô Kỵ thấy hai bàn tay thon nhỏ của nàng trong tay chàng lạnh như băng, cũng hơi rung động, liền nói:

- Anh nghĩ đến nghĩa phụ có bệnh mất trí nổi cơn điên mỗi khi phát tác thì không còn biết gì nữa. Năm xưa bệnh điên của ông nổi lên, đã định giết chết mẹ anh, chính vì thế mà mẹ anh phải lấy kim châm bắn ông mù mắt. Hôm sinh ra anh, nghĩa phụ cũng toan giết cả cha lẫn mẹ anh, may là nghe thấy tiếng khóc của anh nên thần trí mới tỉnh táo trở lại. Anh sợ ... anh quả thực sợ rằng ...

Chu Chỉ Nhược hỏi:

- Chàng sợ cái gì?

Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng nói:

- Đúng ra anh không nên nói ra nhưng quả thật anh rất ngại rằng biểu muội của anh bị ... bị ... nghĩa phụ giết chết.

Chu Chỉ Nhược nhảy dựng lên, run run nói:

- Tạ đại hiệp nhân hiệp trượng nghĩa, đối với bọn hậu bối chúng ta thương yêu biết bao, sao lại có chuyện giết Ân cô nương được?

Trương Vô Kỵ nói:

- Anh cũng chỉ áng chừng vậy thôi, không có gì làm chuẩn xác. Nếu quả thật biểu muội anh do nghĩa phụ giết chết thì cũng chỉ vì bệnh cũ của ông đột nhiên phát tác, chẳng khác gì người nằm mơ chứ đâu phải bản ý của lão nhân gia. Ôi, nếu quả như thế thì cũng chỉ vì lão tặc Thành Côn mà ra cả.

Chu Chỉ Nhược trầm tư một hồi, lắc đầu nói:

- Không phải, không phải! Không lẽ cả bọn mình đều trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, cũng bởi nghĩa phụ lão nhân gia hay sao? Ông ta lấy đâu ra độc dược? Một người có thể đột nhiên tâm trí mê muội giết người thì cũng không lấy gì làm lạ, nhưng đâu có thể rành rọt xét nét đến nỗi có thể bỏ chất độc và đồ ăn thức uống bao giờ?

Trương Vô Kỵ thấy trước mắt như có mây mù che phủ, không nhìn ra được chút manh mối nào. Lại nghe Chu Chỉ Nhược lạnh lùng nói tiếp:

- Vô Kỵ ca ca, chàng dùng đủ trăm phương ngàn kế, tìm cách chạy tội cho Triệu cô nương.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu quả thực Triệu cô nương chính là hung thủ thì cô ta chạy trốn nghĩa phụ còn chưa đủ, sao lại khăng khăng đòi gặp có vài câu rất quan trọng muốn hỏi ông ta là sao?

Chu Chỉ Nhược cười khẩy nói:

- Vị cô nương đó cơ biến không ai bằng, nếu nàng ta muốn chối phăng tội lỗi, không lẽ không nghĩ ra được cách nào xảo diệu hay sao?

Giọng nàng đột nhiên trở nên ôn nhu, dựa đầu vào chàng nói:

- Vô Kỵ ca ca, chàng là người trung hậu thực thà nhất trên đời này, nói đến thông minh cơ trí, làm sao có thể là đối thủ của Triệu cô nương cho được?

Trương Vô Kỵ thở dài nghĩ lại thấy quả thực hữu lý, giơ tay ôm thân thể mềm mại của nàng vào lòng, dịu giọng nói:

- Chỉ Nhược, sao anh thấy thế sự phiền nhiễu chẳng cùng, đến thân thiết như nghĩa phụ mà cũng khiến anh phải nghi ngờ. Anh chỉ mong sau khi đuổi được Thát tử rồi, hai đứa mình ẩn cư nơi thâm sơn, chung hưởng thanh nhàn, không lý gì đến việc đời nữa.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Chàng là giáo chủ Minh Giáo, nếu trời cho được như ý nguyện, đuổi được quân Hồ Lỗ thì thiên hạ đại sự lúc đó đều do Minh Giáo lo liệu cả, làm sao chàng có thể hưởng thanh nhàn được?

Trương Vô Kỵ nói:

- Anh chẳng có tài cán gì mà làm giáo chủ, mà cũng chẳng muốn làm giáo chủ nữa. Nếu như Minh Giáo quả phải đảm nhiệm trọng quyền, cái chức vụ làm chủ một giáo phái này phải do một vị anh hùng sáng suốt đảm trách.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Chàng tuổi còn trẻ, bây giờ tài cán chưa đủ nhưng đâu phải là không thể học được? Hơn nữa, em là chưởng môn của phái Nga Mi, gánh vác trên vai cũng rất nặng nề. Khi sư phụ em giao cho em cái Thiết Chỉ Hoàn này dặn em phải làm sao quang đại môn phái, e rằng không có cái diễm phúc được ẩn cư nơi rừng sâu núi thẳm đâu.

Trương Vô Kỵ vuốt ve chiếc nhẫn trên tay nàng nói:

- Hôm đó anh thấy chiếc nhẫn sắt này rơi vào tay Trần Hữu Lượng, trong lòng bồn chồn lo lắng biết bao, chỉ sợ em bị gian nhân làm nhục, hận không có cánh để bay đến bên em. Chỉ Nhược, anh không cứu em thoát hiểm được sớm hơn khiến những ngày đó em phải chịu biết bao nhiêu chèn ép. Thiết Chỉ Hoàn này làm sao em lấy lại được thế?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Đó là thiếu hiệp Tống Thanh Thư của phái Võ Đương đem trả lại cho em đó.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nhắc đến tên Tống Thanh Thư, đột nhiên nghĩ đến nàng cùng Tống Thanh Thư sánh vai ngồi bên nhau nơi bàn tiệc nơi đại sảnh của Cái Bang nên hỏi:

- Tống Thanh Thư đối với em tốt lắm, phải không?

Chu Chỉ Nhược nghe thấy Vô Kỵ hỏi với vẻ khác thường nên hỏi lại:

- Chàng nói ?đối với em tốt lắm? là ý thế nào?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chẳng có ý gì hết. Anh chỉ thuận mồm hỏi đấy thôi. Tống sư ca đối với em một mối thâm tình, chẳng kể gì đến phản bội môn phái, đối nghịch phụ thân, thí diệt sư thúc, mưu hại sư tổ, chỉ có tốt với một mình em thôi.

Chu Chỉ Nhược ngửng đầu nhìn vầng trăng mới nhô lên ở phương đông, buồn bã nói:

- Nếu như chàng đối với em chỉ được bằng một nửa của y thì em cũng đã thỏa nguyện lắm rồi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Anh chẳng thể nào si tình được như Tống sư ca, nếu bảo vì em mà bắt anh làm những chuyện bất hiếu bất nghĩa thì quyết không thể nào được.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Vì em thì chàng không làm được nhưng nếu vì Triệu cô nương thì chàng làm được. Ở trên hòn đảo chàng đã lập trọng thệ nhất quyết sẽ giết con yêu nữ để báo thù cho Ân cô nương. Thế nhưng khi chàng gặp mặt cô ta rồi thì lời thề quên sạch, chẳng còn nhớ một tí gì.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chỉ Nhược, một khi anh đã tra xét rõ ràng quả thực đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên là do Triệu cô nương ăn trộm, biểu muội anh đúng là cô ta giết thì lúc đó anh sẽ không tha cho cô ta đâu. Thế nhưng nếu cô ta vô tội, anh làm sao giết cô ta vô duyên vô cớ được? Có lẽ ở nơi tiểu đảo anh lập lời thề đó là sai lầm.

Chu Chỉ Nhược lặng yên không nói, Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Anh nói có gì sai lầm không?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Không đâu, em đang nghĩ đến khi ở nơi tháp cao chùa Vạn An, em cũng đã từng lập trọng thệ trước mặt sư phụ em. Chỉ tiếc rằng khi em trao thân gửi phận cho chàng, em đã không kể cho chàng nghe.

Trương Vô Kỵ kinh hãi hỏi:

- Em ... em đã lập lời thề gì?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Khi đó em thề với sư phụ rằng nếu như ngày sau lấy anh làm chồng, cha mẹ em ở dưới suối vàng cũng không yên, sư phụ em sẽ thành ma thành quỉ, ngày đêm theo đuổi quấy phá em, nếu em có con cái với chàng, trai thì đời đời làm đầy tớ, gái thì đời đời làm xướng kỹ.

Trương Vô Kỵ nghe thấy những lời thề độc địa ấy, không khỏi lạnh người, một lúc lâu sau mới nói:

- Chỉ Nhược, chuyện đó không tính được, không thể nào tính được. Sư phụ em vẫn tưởng Minh Giáo là một tôn giáo tà ma chuyên làm điều ác độc xấu xa, còn anh là một dâm tặc gian tà vô sỉ nên mới ép em phải lập lời thề đó. Lão nhân gia một khi đã biết rõ sự thực, thì sẽ không còn bắt em phải giữ lời thề đó nữa đâu.

Chu Chỉ Nhược nước mắt đầm đìa, thổn thức nói:

- Thế nhưng ... thế nhưng lão nhân gia đâu có biết được.

Nói xong nàng phục vào lòng chàng khóc rấm rứt. Trương Vô Kỵ vuốt mái tóc mềm mại của nàng, an ủi:

- Sư phụ em ở dưới âm sẽ biết mà không thể nào trách em đã phản bội lời thề. Chẳng lẽ anh lại là kẻ dâm tặc gian tà vô sỉ hay sao?

Chu Chỉ Nhược ôm lấy lưng chàng nói:

- Bây giờ chàng chưa phải nhưng mai sau bị Triệu Mẫn dụ dỗ, không chừng ... không chừng sẽ thành gian tà vô sỉ.

Trương Vô Kỵ giơ ngón tay búng nhẹ vào má nàng cười nói:

- Sao em lại coi thường anh thế, chồng em không lẽ lại là hạng người như thế hay sao?

Chu Chỉ Nhược ngẩng đầu lên, trên má nàng những giọt lệ lóng lánh như những viên ngọc, đôi mắt ánh lên một nụ cười nũng nịu nói:

- Rõ không biết xấu, chàng đâu đã là chồng em? Chàng vẫn lập lờ qua lại với con tiểu yêu nữ Triệu Mẫn, thiếp không cần chàng nữa. Biết đâu một ngày kia chàng cũng như gã Tống Thanh Thư, chỉ vì một người con gái mà làm biết bao việc xấu xa đê tiện.

Trương Vô Kỵ cúi đầu xuống hôn nhẹ lên má nàng cười:

- Ai bảo em đẹp như tiên giáng trần, những người phàm phu tục tử như anh làm sao cầm lòng cho nổi? Cái đó là cha mẹ em có lỗi, sinh ra em quá xinh đẹp, làm đàn ông con trai phải mê mệt đấy thôi.

Đột nhiên từ đằng sau một cái cây to ở cách xa chừng hai trượng có hai tiếng cười khẩy vọng đến. Trương Vô Kỵ vẫn ôm Chu Chỉ Nhược trong tay, còn đang ngạc nhiên, đã thấy một bóng người thấp thoáng vụt đi xa tít. Chu Chỉ Nhược mặt trắng bệch, nhảy phắt lên, run run nói:

- Triệu Mẫn đó, con yêu nữ đó cứ theo đuổi chúng mình hoài.

Trương Vô Kỵ nghe hai tiếng cười khẩy quả đúng là giọng đàn bà, nhưng không dám chắc là Triệu Mẫn, trời tối đen không thể nào nhìn được bóng dáng phía sau, hơi ngần ngừ hỏi lại:

- Có thật là cô ta không? Cô ta theo đuổi mình làm gì?

Chu Chỉ Nhược bực tức nói:

- -??? Thì cô ả đó mê anh, anh còn cứ giả vờ làm như không biết. Hay là hai người hẹn với nhau, làm trò ma mãnh để trêu ghẹo tôi đây.

Trương Vô Kỵ vội luôn mồm kêu oan. Chu Chỉ Nhược đứng ngơ ngẩn trong gió lạnh, nghĩ ngợi trước sau, tự nhiên nước mắt chảy ròng ròng. Trương Vô Kỵ tay trái ôm vai nàng, giơ tay áo lên lau mặt cho Chu Chỉ Nhược, ôn tồn nói:

- Sao tự nhiên em lại khóc? Nếu mà anh có hẹn Triệu cô nương đến đây thì trời tru đất diệt. Em thử nghĩ coi, nếu anh có tình ý gì với nàng ta, vậy mà biết cô ta đang ở đâu đây lẽ nào lại thân mật truyện trò, điên điên khùng khùng âu yếm em là sao? Như thế chẳng phải cố ý ruồng rẫy cô ta, khiến cho cô ta phải đau lòng hay chăng?

Chu Chỉ Nhược thở dài:

- Anh nói cũng đúng. Vô Kỵ ca ca, lòng em không thể nào bình tĩnh được.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Sao thế?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Sao em vẫn không sao quên được lời thề với sư phụ, lại thêm Triệu Mẫn nhất định không buông tha em, mà về võ công, mưu trí so với yêu nữ đó em thật kém xa.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Anh sẽ tận tâm kiệt lực, bảo hộ cho em chu toàn. Anh lẽ nào lại để cô ta đụng đến một sợi tóc người vợ yêu của anh được?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Nếu như em chết vì tay cô ta thì cũng xong, chẳng qua cái số em không ra gì. Có sợ là sợ anh bị cô ta mê hoặc, dùng lời lẽ ngon ngọt, rơi vào cái bẫy của cô ta rồi ra tay giết em, lúc đó em chết thật không nhắm mắt được.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Em đúng là người nước Kỷ lo trời sập. Trên đời này biết bao nhiêu người toan tính hại anh, bao nhiêu người đắc tội với anh anh còn chưa giết, sao lại giết em là thế nào?

Chàng cởi áo ngoài để lộ vết sẹo trên ngực, cười nói:

- Đây là vết kiếm em đâm, em đâm càng sâu, anh càng yêu em hơn.

Chu Chỉ Nhược giơ bàn tay nhỏ nhắn vuốt ve vết thương trên ngực chàng, trong lòng biết bao hoài cảm, đột nhiên mặt tái đi nói:

- Ác giả ác báo, mai mốt chàng đâm một kiếm giết em, em cũng không có gì hối tiếc cả.

Trương Vô Kỵ giơ tay ôm nàng vào lòng, nhỏ nhẹ nói:

- Để khi mình tìm thấy nghĩa phụ rồi sẽ nhờ lão nhân gia đứng chủ hôn, từ nay về sau hai đứa mình không rời xa nhau một bước, sống với nhau đến lúc bạc đầu. Nếu em thích thì cứ đâm anh thêm vài nhát nữa, anh sẽ không nói lại nửa câu. Như thế em đã bằng lòng chưa?

Chu Chỉ Nhược tựa má vào bộ ngực ấm áp của chàng, nói khẽ:

- Chỉ mong chàng là kẻ đại trượng phu, chẳng quên những gì đã nói với thiếp hôm nay.

Hai người rủ rỉ hồi lâu, mãi đến khuya khi sương lạnh xuống nhiều mới chịu về khách điếm ai về phòng nấy ngủ.

*

*?? *

Sáng hôm sau ba người tiếp tục đi về phương nam, trên đường không thấy tung tích Triệu Mẫn đâu, chẳng mấy chốc đã đến Đại Đô. Khi vào thành trời đã về chiều, chỉ thấy trong thành ai nấy tưới nước quét dọn, các đường phố hẻm lớn hẻm nhỏ đều sạch sẽ, nhà nào đằng trước cũng bầy hương án.

Bọn Trương Vô Kỵ vào khách điếm rồi, hỏi chủ quán trong thành có chuyện gì. Điếm tiểu nhị đáp:

- Khách quan ở xa đến không biết, nhưng cũng thật là may, ngày mai là ngày đại du hoàng thành đó.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Đại du hoàng thành là cái gì?

Điếm tiểu nhị đáp:

- Ngày mai là ngày mỗi năm một lần hoàng thượng đại du hoàng thành. Hoàng thượng định đến chùa Khánh Thọ dâng hương, có đến mấy vạn nam thanh nữ tú ăn mặc đẹp đẽ du hành, từ đầu đến cuối phải đến ba bốn chục dặm, thế có thích không cơ chứ? Khách quan đêm nay cố ngủ cho ngon, sáng mai dậy sớm, đến ngoài cửa điện Ngọc Đức chiếm chỗ ngồi cho tốt, nếu mắt tinh thì sẽ được thấy hoàng thượng, hoàng hậu, quí phi, thái tử, công chúa tất cả đủ hết. Ngài thử nghĩ xem, mình là dân đen, nếu không ở tại kinh sư, làm gì có phúc được thấy hoàng thượng bao giờ?

Hàn Lâm Nhi nghe thế giận quá nhịn không nổi quát lên:

- Nhận giặc làm cha, thật là đồ Hán gian vô liêm sỉ. Hoàng đế Thát tử có cái đếch gì mà phải xem?

Điếm tiểu nhị mắt mở trừng trừng, chỉ vào y nói:

- Ngươi ... ngươi ... nói như thế chẳng phải là tạo phản sao? Ngươi không sợ mất đầu ư?

Hàn Lâm Nhi đáp:

- Ngươi là người Hán, Thát tử giết hại biết bao nhiêu người chúng ta, ngươi còn hoàng thượng này, hoàng thượng nọ, thật không còn chút khí khái nào nữa hay sao?

Gã điếm tiểu nhị thấy y hùng hùng hổ hổ, quay mình toan chạy ra ngoài. Chu Chỉ Nhược giơ tay điểm một cái trúng ngay huyệt đạo trên lưng y nói:

- Gã này chạy ra thể nào cũng lắm chuyện, e rằng không bao lâu sẽ có quan binh đến vây bắt chúng mình mất.

Nói xong nàng giơ chân đá y vào trong gậm giường, cười nói:

- Cho y đói vài hôm, bao giờ mình đi hãy thả y ra.

Chẳng bao lâu nghe thấy tiếng chưởng quĩ ở bên ngoài kêu réo:

- A Phúc, A Phúc, mày làm những chuyện tào lao gì ở đâu rồi. Mao đem nước rửa mặt cho vị khách ở phòng số ba.

Hàn Lâm Nhi nghe thấy thế tức cười, vỗ bàn quát:

- Mau đem cơm rượu lên đây, đại gia đói lắm rồi.

Một lát sau có một tên điếm tiểu nhị khác đưa thức ăn lên, lẩm bẩm nói một mình:

- Cái thằng A Phúc chắc lại đi ra hoàng thành xem đốt pháo bông rồi. Việc nhà không lo, chỉ ham chơi.

Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ chưa ra khỏi giường đã nghe bên ngoài có tiếng người huyên náo. Chàng đi ra cửa thấy trên đường vô số nam nữ, ai nấy quần áo sặc sỡ, rảo bước đi về hướng bắc, người nào cũng cười đùa, xem ra còn vui hơn cả ngày Tết. Chung quanh bốn bề tiếng pháo đì đùng không ngớt. Chu Chỉ Nhược cũng đã ra đến cửa nói:

- Mình cũng đi xem coi sao.

Trương Vô Kỵ nói:

- Anh đã từng động thủ với võ sĩ của phủ Nhữ Dương Vương, không thể để cho họ nhận ra được, nếu có đi xem cũng phải ăn mặc cho khác đi mới được.

Ba người liền ăn mặc giả làm nhà quê, lấy đất bùn xoa lên mặt mũi chân tay rồi đi theo đoàn người về hướng hoàng thành.

Lúc đó vào khoảng cuối giờ Mão, đầu giờ Thìn, trong ngoài hoàng thành người chật như nêm không còn chỗ nào có thể chen vào được. Trương Vô Kỵ hai tay đưa ra trước đẩy nhẹ người đứng dạt ra, tiến vào dưới một hàng hiên bậc thềm cao đến mấy thước của một nhà giàu bên ngoài cửa Đình Xuân, đứng xem thật tiện lợi. Ba người đứng chưa bao lâu đã nghe tiếng thanh la loảng xoảng từ đằng xa vọng tới. Mọi người kêu lên:

- Đến rồi! Đến rồi!

Ai nấy đều ngóng cổ ra xem. Tiếng não bạt càng lúc càng vang dội, đến gần hơn thấy một trăm linh tám đại hán lực lưỡng tất cả đều mặc áo xanh, tay trái cầm một chiếc phèng la phải to đến ba thước, tay phải cầm dùi đánh thật đều nhịp. Tiếng một trăm linh tám cái thanh la cùng đánh nghe điếc cả tai. Đội não bạt qua rồi đến đội trống gồm ba trăm sáu mươi người, kế đó là đội người Hán tấu nhạc thổi tiêu, đội đàn tì bà người Tây Vực, đội tù và người Mông Cổ mỗi đội ít cũng trên trăm người, nhiều thì phải đến bốn năm trăm. Nhạc đội xong rồi thì tới hai chiếc cờ bằng gấm màu đỏ giương cao đi tới. Một lá cờ trên thêu ?An Bang Hộ Quốc?, một lá cờ thêu ?Trấn Tà Phục Ma?, bên cạnh đầy những chữ Phạn bằng vàng lấp lánh. Hai lá cờ trước sau đều có hai trăm tinh binh Mông Cổ đi theo hộ vệ, đao dài sáng loáng như tuyết, thương tua tủa như mây, cả bốn trăm người đều cưỡi ngựa một màu trắng. Dân chúng nhìn thấy khí tượng uy võ đó đều lớn tiếng hoan hô.

Trương Vô Kỵ trong lòng than thầm: ?Dân chúng bên ngoài ai nấy đều thù hận người Mông Cổ tận xương tủy, riêng người ở kinh sư thì không biết cái nhục vong quốc, có lẽ vì mấy chục năm qua trông thấy uy phong của triều đình Mông Cổ, nên quên đi mình là kẻ mất nước rồi?.

Hai chiếc cờ lớn đi qua xong, đột nhiên từ phía tây có ánh sáng lấp loáng, hai hàng phi đao phóng ra trúng ngay vào cán hai lá cờ. Mỗi hàng phi đao đều bảy chiếc, cả bảy thanh đao ngay ngắn cắm thẳng vào cán cờ. Cán cờ tuy to nhưng bị cả bảy thanh đao chặt vào, lắc lư mấy cái rồi gãy gục, nghe lụp bụp mấy tiếng từ trên không đổ ập xuống. Chỉ nghe thấy tiếng người thảm thiết kêu la, có đến hơn chục người bị lá cờ đè ngã. Dân chúng kêu la om sòm, vội vàng dạt qua lập tức đoàn người loạn cả lên.

Biến cố đó xảy ra thật nhanh quả thật ra ngoài dự tưởng của bọn Trương Vô Kỵ. Hàn Lâm Nhi vui mừng quá đỗi, đang toan lên tiếng hoan hô, thì một bàn tay mềm mại đã thò qua bịt miệng y lại, chính là Chu Chỉ Nhược kịp thời ngăn chặn y lên tiếng reo hò.

Lập tức bốn trăm tên quân Mông Cổ tay cầm binh khí liền xông vào đám người chung quanh tra xét. Trương Vô Kỵ thấy người ném mười bốn thanh phi đao đó thủ pháp thật là lợi hại, đúng là hảo thủ võ lâm nhưng vì bị người chung quanh che khuất nên không biết ai đã ra tay. Chàng đã không nhìn được thì bọn quan binh Mông Cổ cũng chỉ nhắm mắt làm bừa làm sao xét cho ra. Một lát sau, có bảy tám người trong đám đông bị lôi ra, người nào cũng kêu la: ?Oan uổng ...? nhưng giáo của bọn Mông Cổ đều đâm tới giết ngay tại chỗ.

Hàn Lâm Nhi cực kỳ giận dữ nói:

- Người phóng phi đao đã chạy mất từ đời nào, bọn bị thịt kia làm sao bắt cho nổi? Bọn chúng chỉ giết bừa lương dân cho đỡ tức đấy thôi.

Chu Chỉ Nhược nói nhỏ:

- Hàn đại ca đừng nói nữa, bọn mình đi xem đại du hoàng thành chứ có phải đi đại náo hoàng thành đâu.

Hàn Lâm Nhi đáp:

- Vâng!

Y không dám nói thêm câu nào nữa. Loạn lên một hồi xong, đằng sau tiếng nhạc lại trổi lên một đội làm trò ảo thuật người Tây Vực kẻ nuốt đao, kẻ phun lửa tiến đến khiến quần chúng hoan hô không ngớt, dường như quên hẳn cái thảm kịch máu me vung vãi trên đường mới xảy ra. Rồi một đoàn múa rối biểu diễn những hình nhân trong chậu đủ trò, kế tiếp là những xe hoa do tuấn mã kéo, trên mỗi chiếc xe có những đồng nam đồng nữ xinh đẹp diễn những tích ?Đường Tam Tạng thỉnh kinh?, ?Đường Minh Hoàng du nguyệt điện?, ?Lý Tồn Hiếu đả hổ?, ?Lưu Quan Trương tam chiến Lữ Bố?, ?Trương Sinh nguyệt hạ hội Oanh Oanh? ... diễn xuất khéo léo cực kỳ cuốn hút. Ba người Trương Vô Kỵ vốn sinh sống nơi nước mặn đồng chua, chưa bao giờ được xem những cảnh phồn hoa như thế quả thực một phen mở mắt.

Trên mỗi xe hoa đều có cắm cờ thêu, chỗ thì ?Thần Hồ Quảng hành tỉnh tả thừa tướng mỗ mỗ cống phụng?, chỗ thì ?Thần Giang Chiết hành tỉnh hữu thừa tướng mỗ mỗ cống phụng? các loại. Càng về sau, các quan tước những người tiến cống càng lớn, xe hoa càng thêm rực rỡ, những diễn viên trên xe ăn mặc càng thêm nhiều ngọc ngà châu báu, trên đầu trên cổ vòng vàng trâm ngọc càng thêm quí giá. Các vương công đại thần Mông Cổ trước là muốn đẹp lòng hoàng đế, sau là muốn khoe khoang giàu sang nên ai cũng ra sức tô điểm cho xe hoa của mình thêm hào nhoáng.

Trong tiếng nhạc dặt dìu, một chiếc xe đóng tuồng ?Lưu Trí Viễn bạch thố ký? vừa qua khỏi, bỗng dưng tiếng nhạc đổi thay, âm điệu lạ lùng, trên xe căng một tấm vải trắng trên đề ?Chu Công lưu phóng Quản Sái?. Trong xe một hán tử trung niên tay cầm hốt, đóng vai Chu Công, bên cạnh là một cậu bé con ăn mặc giả làm thiên tử đóng vai Thành Vương. Quản Thúc, Sái Thúc hai người chụm đầu vào nhau chỉ trỏ vào Chu Công. Kế đó là một cỗ xe hoa khác, trên lá cờ đề ?Vương Mãng giả nhân giả nghĩa?, trên xe người đóng vai Vương Mãng mặt bôi phấn trắng, hai tay cầm đầy vàng bạc, đang phân phát cho một bầy học trò nghèo khổ. Ở đằng sau là bốn lá cờ vải trên viết bốn câu thơ như sau:

Chu Công khủng cụ lưu ngôn nhật,

Vương Mãng khiêm cung hạ sĩ thì.

Nhược thử đương thời tiện thân tử,

Thiên cổ trung nịnh hữu thùy tri.

(Chu Công uy hiếp triều đình,

Cầu hiền Vương Mãng hạ mình khiêm cung.

Nếu như đến thế là xong,

Đời sau ai biết nịnh trung thế nào?)

Trương Vô Kỵ trong lòng chợt tự hỏi: ?Trên đời này trắng đen, phải trái không phải dễ biết. Chu Công là bậc đại thánh nhân, khi ông trục xuất Quản Thúc, Sái Thúc ai ai cũng bảo là ông có bụng soán ngôi. Còn Vương Mãng là đại gian thần nhưng lúc đầu mua chuộc lòng người, trên đời ai ai cũng ca tụng công đức. Thế nhưng đường dài mới biết sức ngựa, ở lâu mới biết lòng người, việc đúng sai trên đời này, không phải sớm tối mà biết được?. Hai câu chuyện này, năm xưa trên Băng Hỏa đảo nghĩa phụ chàng đã từng kể cho nghe. Chàng lại nghĩ thầm: ?Hai chiếc xe hoa này khác hẳn những chiếc khác, bên trong hẳn có thâm ý gì đây, người nào bày ra, xem ra cũng có chút học thức?. Chàng liền thuận miệng đọc lại bốn câu thơ đó hai lần.

Bỗng nghe mấy tiếng thanh la vang động, một chiếc xe do bốn con ngựa còm cõi kéo tới. Chiếc xe này không kết hoa, mọi người chăm chú nhìn ai nấy đều bật cười nói:

- Sao cái thứ sập xệ như thế này mà cũng du hoàng thành, chẳng khiến cho người ta cười đến trẹo cả quai hàm hay sao?

Chiếc xe đến gần, Trương Vô Kỵ nhìn thấy rõ ràng, bỗng nhiên giật mình kinh hãi, thấy trên xe là một đại hán tóc vàng phủ đến vai, hai mắt nhắm nghiền, ngồi xếp bằng trên giường, chẳng phải giả làm Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn thì còn ai? Bên cạnh là một cô gái xinh xắn mặc áo xanh, tay bưng chén trà, ân cần phục thị, tuy mặt mũi không thanh tú đẹp đẽ như Chu Chỉ Nhược, nhưng quần áo hình dáng giống y hệt như khi nàng còn ở chùa Vạn An.

Hàn Lâm Nhi kêu lên thất thanh:

- Chu cô nương, người đó ăn mặc giống hệt như cô.

Chu Chỉ Nhược chỉ hừ một tiếng, không trả lời. Trương Vô Kỵ quay đầu nhìn lại, thấy nàng mặt tái mét, ngực phập phồng, biết Chu Chỉ Nhược rất là tức tối, nên chàng đưa tay ra nắm lấy tay nàng, nhất thời chẳng biết những cỗ xe kia có ý gì.

Chiếc xe đó đi qua, lại có một chiếc xe khác giống hệt trên cũng một nam một nữ giả làm Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược. Người con gái cười hì hì đi ra sau lưng người đàn ông, giơ hai ngón tay đột nhiên đâm vào lưng người giả làm Tạ Tốn. Người giả Tạ Tốn ?A? lên một tiếng, ngã gục xuống giường, người giả Chu Chỉ Nhược giơ chân chặn lên, giơ kiếm định giết. Những người đứng xem cùng kêu la:

- Giỏi quá, giỏi quá! Giết nó đi.

Chiếc xe thứ ba cũng có hai người giả Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược, nhưng có thêm bảy tám tên bang chúng Cái Bang vây bắt hai người. Trương Vô Kỵ lúc này không còn hoài nghi gì nữa, biết rằng ba chiếc xe này do Triệu Mẫn bày ra cho người diễn kịch, đoán chừng chàng và Chu Chỉ Nhược sẽ đến Đại Đô nên bày trò làm nhục nàng một phen. Chàng cúi xuống nhặt mấy viên sỏi dưới chân, ngón tay búng ra, nghe vèo vèo hai tiếng, bắn mù mắt hai con ngựa gầy còn kéo chiếc xe thứ ba. Hòn sỏi xuyên thẳng vào óc, hai con ngựa chỉ hí lên một tiếng rồi nằm lăn ra chết. Chiếc xe hoa đổ lăn chiêng, những người đóng kịch trên xe ai nấy ngã nhào xuống đất, đường phố lại một phen náo loạn cả lên.

Chu Chỉ Nhược bậm môi nói nhỏ:

- Con yêu nữ đó làm nhục em đến thế, em ... em ...

Nàng nói tới đây, âm thanh trở nên nghẹn ngào. Trương Vô Kỵ thấy bàn tay thon nhỏ của nàng lạnh ngắt, thân hình run rẩy vội vàng an ủi:

- Chỉ Nhược, con nhãi này cái trò láo lếu gì cũng nghĩ ra được, em đừng để ý làm gì. Chỉ cần anh đối với em một lòng một dạ, dù người ngoài có đâm bị thóc chọc bị gạo, anh lẽ nào lại tin?

Chu Chỉ Nhược suy nghĩ một lát bỗng nói:

- A, em nghĩ ra rồi. Hôm đó nghĩa phụ vốn đang khỏe mạnh bình thường, đột nhiên thân hình lảo đảo, ngã lăn ra đất, rồi sau đó nói mê nói sảng điên điên khùng khùng. Không lẽ ... không lẽ con yêu nữ ẩn tại một nơi nào trong khách điếm bắn ám khí vào lưng nghĩa phụ chăng?

Trương Vô Kỵ trầm ngâm đáp:

- Nếu như cô ta có ra tay rồi chạy đến miếu Di Lặc thì cũng có thể kịp đấy nhưng với võ công của nàng e rằng không ám toán nổi nghĩa phụ đâu, không chừng là do Huyền Minh nhị lão tập kích cũng nên.

Trong khi hai người nói chuyện, quan binh Mông Cổ đã dẹp được dân chúng ra một bên, thu dọn hai con ngựa chết, những chiếc xe hoa từ sau vẫn tiếp tục đi tới. Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược chỉ nghĩ ngợi tới tình cảnh vừa rồi chẳng ai còn thiết gì xem xe hoa diễn trò nữa. Xe hoa đi hết rồi thì nghe đọc kinh tiếng Phạn ê a, một đội phiên tăng mặc đại hồng cà sa đi bộ tới. Sau đội phiên tăng là đội thiết giáp, hai nghìn tên lính ngự lâm mặc áo sắt, tay cầm trường mâu xếp hàng đi qua, kế đến là ba nghìn tên lính cung nỏ. Đoàn cung tiễn thủ đi qua xong thì thấy khói hương mù mịt, từng pho thần tượng được những phu kiệu mặc áo gấm rước qua. Nào là thổ địa, thành hoàng, vi đà, tài thần, đông nhạc ... tất cả ba trăm sáu mươi cái kiệu, sau cùng là Quan Thánh Đế Quân. Dân chúng lẩm bẩm tụng kinh, có kẻ nằm phục xuống vái lạy.

Thần tượng đi qua xong thì tới đội nghi trượng tay cầm kim qua, kim chùy, quạt lông lọng vàng từng đôi từng đôi. Dân chúng liền reo lên:

- Hoàng thượng đến rồi! Hoàng thượng đến rồi!

Từ đằng xa ba mươi hai tên cẩm y thị vệ khiêng một chiếc kiệu lớn bọc gấm sơn son thiếp vàng đi tới. Trương Vô Kỵ nheo mắt nhìn gã hoàng đế Mông Cổ, thấy y mặt mày tiều tụy, dáng lờ đờ, chỉ thoáng nhìn đã biết ngay tửu sắc quá độ. Hoàng thái tử cưỡi ngựa đi kèm một bên lưng đeo cung bịt vàng nạm ngọc, trông cũng còn có chút anh khí nhưng cũng vẫn không thoát khỏi bản sắc trai Mông Cổ.

Hàn Lâm Nhi ghé vào tai Trương Vô Kỵ nói thầm:

- Giáo chủ cho phép thuộc hạ xông ra chém tên hoàng đế Mông Cổ một đao, trừ mối hại cho bách tính, được chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không được, ngươi làm không xong đâu, chung quanh hoàng đế Thát tử ắt có cao thủ hộ vệ, phải để ta mới được.

Một người đứng ngay bên trái Trương Vô Kỵ liền nói:

- Không ổn, không ổn. Lấy bạo thay bạo, không phải là hay.

Trương Vô Kỵ, Hàn Lâm Nhi và Chu Chỉ Nhược ba người giật mình, liếc qua nhìn người kia, thấy đó là một thầy lang vườn bán thuốc dạo, trên lưng đeo túi thuốc, tay phải cầm một bàn chân hổ. Người đó dựng hai ngón tay cái để lên ngực, làm như hình thế ngọn lửa bốc cháy của Minh Giáo nói nhỏ:

- Bành Oánh Ngọc tham kiến giáo chủ. Giáo chủ quí thể bình an quả thực vui mừng biết mấy.

Trương Vô Kỵ mừng lắm hỏi:

- Ồ, thì ra đây là Bành ...

Thì ra người đó chính là Bành Oánh Ngọc, y hóa trang thật khéo, đứng ngay bên cạnh đã lâu vậy mà ba người Trương Vô Kỵ không hề hay biết. Bành Oánh Ngọc hạ giọng nói:

- Nơi đây không phải là chỗ truyện trò, hoàng đế Thát tử không nên trừ khử.

Trương Vô Kỵ biết y là người kiến thức rất rộng rãi, bèn gật đầu không nói thêm nữa giơ tay nắm lấy tay y nhè nhẹ lắc mấy cái. Hoàng đế và hoàng thái tử đi qua xong, lại thêm ba nghìn tên thiết giáp ngự lâm quân nữa, sau đó là hàng nghìn hàng vạn dân chúng lũ lượt đi theo xem hội. Người đứng hai bên đường ai cũng nói:

- Đi xem hoàng hậu nương nương, công chúa nương nương.

Mọi người ùn ùn đi về hướng tây. Chu Chỉ Nhược nói:

- Mình cũng đi xem nhé!

Bốn người liền chen vào đám đông đi theo họ đến bên ngoài điện Ngọc Đức thấy bẩy tòa lầu kết hoa sặc sỡ dựng ở đó, bên ngoài có lính ngự lâm tay cầm dây thừng ngăn những người chen tới. Tuy dân chúng đông thật nhưng bọn Trương Vô Kỵ chen được lên trên cũng không khó khăn gì nên chẳng mấy chốc đã đến ngay trước các tòa lầu hoa. Tòa ở giữa cao hơn cả, có hoàng đế ngồi chễm chệ ngay giữa, hai bên là hai hoàng hậu, đều thân hình mập mạp tuổi khoảng trung niên, người đeo đầy vàng bạc ngọc ngà rực rỡ, trên đầu đội một chiếc mũ cao ngất ngưởng trông thật lạ lùng. Hoàng thái tử ngồi phía bên trái bên dưới, còn bên phải thì là một cô gái tuổi chừng đôi mươi, mình mặc cẩm bào, hẳn là công chúa.

Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn qua tòa lầu phía bên trái thấy một thiếu nữ mặc áo điêu cừu, cổ đeo một vòng ngọc trai, cười nói nhí nhảnh, ánh thu ba lóng lánh chính là Triệu Mẫn. Ngay giữa tòa lầu hoa đó là một vương gia râu dài, tướng mạo uy nghiêm, là phụ thân nàng Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ. Anh trai của Triệu Mẫn là Khố Khố Đặc Mục Nhĩ ở trên lầu đi qua đi lại, dáng đi như hổ, mắt sắc như ưng trông thật là hung tợn.

Đang lúc đó các phiên tăng diễn ?Thiên Ma đại trận? ngay trước các lầu hoa, năm trăm người múa may các loại pháp khí, khi qua trái, lúc qua phải, khi chồm lên, lúc hụp xuống, trận pháp biến đổi cực kỳ huyễn ảo. Dân chúng ai nấy hết sức thán phục hoan hô từng chập như sấm dậy.

Chu Chỉ Nhược nhìn Triệu Mẫn một hồi, thở dài nói:

- Thôi đi về.

Bốn người chen ra khỏi đám đông trở về khách điếm. Bành Oánh Ngọc quay sang làm lễ tham kiến Trương Vô Kỵ, kể lại mọi chuyện. Trương Vô Kỵ hỏi thăm tin tức Tạ Tốn nhưng Bành Oánh Ngọc vừa mới từ miền Hoài Tứ đến Đại Đô, chưa biết việc Kim Mao Sư Vương đã về đến trung nguyên. Y kể lại việc Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân các người đánh thành chiếm đất lập được nhiều chiến công, uy danh Minh Giáo đang lên rất cao.

Hàn Lâm Nhi nói:

- Bành đại sư, hồi nãy nếu như mình xông lên lầu hoa, một đao chém chết tên hoàng đế Thát tử có phải chỉ mất công một chút mà xong việc về lâu về dài hay sao?

Bành Oánh Ngọc lắc đầu:

- Gã hoàng đế đó ngu tối tầm thường, chính là kẻ giúp đỡ chúng ta rất nhiều, sao lại giết y làm gì?

Hàn Lâm Nhi lạ lùng hỏi lại:

- Hoàng đế Thát tử hôn dung vô đạo, làm khổ bách tính sao lại là kẻ giúp đỡ mình rất nhiều là thế nào?

Bành Oánh Ngọc đáp:

- Hàn huynh đệ có điều chưa hiểu. Hoàng đế Thát tử tin dùng phiên tăng, triều chính rối loạn, lại sai Giả Lỗ vét sông Hoàng Hà, hao tốn tiền của làm khổ nhân dân khiến cho người oán trời căm. Mấy năm nay mình đánh cho chúng tan tác đâu phải vì đám quân ô hợp của mình hơn được tinh binh tung hoành thiên hạ của người Mông Cổ mà vì gã hoàng đế hồ đồ kia không biết dùng người có tài. Nhữ Dương Vương giỏi dùng binh nhưng hoàng đế Thát tử lại có bụng nghi ngờ, đưa ra kế sách gì cũng bác bỏ sợ y lập công quá lớn sẽ cướp mất ngôi vua cho nên liên tiếp cắt giảm binh quyền sai bọn giá áo túi cơm chuyên nghề nịnh bợ ra cầm quân, thành ra bao nhiêu quân giỏi đều bị chết hết. Hoàng đế Thát tử chẳng phải giúp ta là gì?

Câu nói đó khiến Trương Vô Kỵ liên tiếp gật đầu khen phải. Bành Oánh Ngọc nói tiếp:

- Nếu như chúng ta giết gã hoàng đế Thát tử đi, hoàng thái tử nối ngôi, cứ xem dáng dấp tên này, có vẻ là tay ghê gớm, mà dẫu có là một hôn quân thì cũng vẫn còn hơn cha y nhiều. Nếu như y lại dùng một tay danh tướng tài ba đưa quân đánh chúng ta thì thật hỏng bét.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cũng may có đại sư kịp thời nhắc cho, nếu không hôm nay chúng tôi lỗ mãng, e rằng đã làm hỏng đại sự rồi.

Hàn Lâm Nhi liên tiếp vả vào mặt mình, mắng chửi:

- Đáng chết lắm, đáng chết lắm. Để xem mày từ rày về sau có còn nói láo nói lếu, đưa ra những ý kiến hồ đồ nữa hay chăng?

Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược, Bành Oánh Ngọc ba người bật cười. Bành Oánh Ngọc lại tiếp:

- Tấm thân giáo chủ đáng nghìn vàng, trên vai gánh vác trọng nhiệm khu trừ Hồ Lỗ, không nên dấn thân vào nguy hiểm để xông ra tấn công y làm gì. Thuộc hạ nhìn thấy chung quanh hộ vệ hoàng đế cao thủ không phải là ít. Tuy giáo chủ thần dũng tuyệt luân thật nhưng cũng phải đề phòng mãnh hổ nan địch quần hồ, một mình không chống được số đông. Nếu như xẩy tay thì biết làm thế nào?

Trương Vô Kỵ vòng tay đáp:

- Kính xin lãnh giáo lời vàng ngọc của đại sư.

Chu Chỉ Nhược thở dài:

- Bành đại sư nói không sai chút nào, chàng sao lại coi nhẹ mà mạo hiểm? Phải biết rằng một khi đại sự của chúng ta thành rồi thì người ngồi trên long ỷ ở lầu hoa kia phải là Trương giáo chủ chứ còn ai.

Hàn Lâm Nhi vỗ tay reo:

- Khi đó giáo chủ thì làm hoàng đế, còn Chu cô nương thì là hoàng hậu nương nương, Dương tả sứ và Bành đại sư thì là tả hữu thừa tướng, thế mới thật là hay.

Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng, thẹn thùng cúi đầu nhưng đôi mắt long lanh không dấu được vẻ sung sướng. Trương Vô Kỵ xua tay liên tiếp nói:

- Hàn huynh đệ, những lời đó không được nói tới nữa. Bản giáo chỉ mong cứu được trăm họ ra khỏi nơi dầu sôi lửa bỏng, công thành rồi thân sẽ thoái, không tham phú quí có thế mới là đại trượng phu quang minh lỗi lạc.

Bành Oánh Ngọc nói:

- Bụng dạ giáo chủ dĩ nhiên không phải như người thường, nhưng có điều đến lúc đó, hoàng bào khoác lên người, giáo chủ có muốn từ chối cũng không được. Năm xưa binh biến ở Trần Kiều, Triệu Khuông Dận có bao giờ nghĩ mình sẽ thành hoàng đế đâu?

Trương Vô Kỵ vẫn nói:

- Không được, không được. Nếu như ta có lòng tưởng đến chuyện ấy thì trời tru đất diệt, chết không yên lành.

Chu Chỉ Nhược thấy chàng cương quyết cự tuyệt, mặt hơi biến sắc, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ không nói một lời nào. Bốn người nói chuyện thêm một lúc nữa, ăn uống xong xuôi, Trương Vô Kỵ mới bảo:

- Để tôi và Bành đại sư đi ra ngoài một chút, nghe ngóng tin tức nghĩa phụ xem sao.

Chàng lại nghĩ đến Hàn Lâm Nhi tính tình thẳng thắn, thấy việc bất bình lập tức giơ quyền đánh nhau ngay, có thể gây họa nên nói:

- Hàn huynh đệ, ngươi và Chỉ Nhược hôm nay đừng ra ngoài, ở lại khách điếm nghỉ ngơi.

Hàn Lâm Nhi đáp:

- Vâng, xin giáo chủ cẩn thận giữ gìn.

Sau đó Trương Vô Kỵ và Bành Oánh Ngọc ước định một người đi về hướng đông, một người đi về hướng tây, trước canh hai thì quay về khách điếm gặp lại.

*

*?? *

Trương Vô Kỵ đi ra khỏi quán trọ liền về hướng tây, trên đường nghe thấy dân chúng nói chuyện xôn xao, toàn là về những trò vui của cuộc ?du hoàng thành? hôm nay. Có người nói:

- Phương nam Minh Giáo nổi loạn, hôm nay Quan Đế bồ tát lúc du hành mắt đầy sát khí, phản tặc thể nào cũng bị tiêu diệt.

Người kia đáp:

- Minh Giáo có Di Lặc bồ tát phù hộ, xem ra giữa Quan Thánh đế quân với Phật Di Lặc hai bên thể nào cũng đánh nhau to.

Lại một người khác nói:

- Giả Lỗ đại nhân đưa phu đi khơi Hoàng Hà, đào được một tượng đá người một mắt, sau lưng có khắc hai hàng chữ:

Mạc đạo thạch nhân nhất chích nhãn,

Thiêu động Hoàng Hà thiên hạ phản.

(Tượng đá một mắt đừng chê,

Đào sông thiên hạ tứ bề nổi lên.)

Như thế thì là số trời đã định rồi, không thể nào chống lại được.

Trương Vô Kỵ chẳng muốn nghe thêm những lời của đám dân ngu ấy làm gì nên rảo bước đi cho nhanh, càng lúc càng thêm vắng vẻ, quay đầu nhìn lên, thấy đến đúng ngay cái tiểu điếm hôm nào chàng cùng Triệu Mẫn ngồi uống rượu với nhau. Chàng trong bụng kinh hãi: ?Sao mình vô ý lại đi đến nơi đây? Không lẽ lòng ta đối với Triệu cô nương vẫn còn lưu luyến day không đứt, rứt không ra hay sao??.

Chỉ thấy cửa quán mở he hé, xem ra không có người khách nào. Chàng ngần ngừ một hồi rồi đẩy cửa bước vào, thấy bên cạnh quầy có một tên hầu bàn ngồi ngủ gục. Chàng đi vào phòng trong, chỉ có một chiếc bàn vuông trên để một ngọn nến lúc mờ lúc tỏ, một người ngồi quay mặt vào trong. Chiếc bàn đó chính là nơi chàng và Triệu Mẫn hai người ngồi uống rượu với nhau nhưng ngoài người khách đó ra, không còn một ai khác.

Người kia nghe thấy tiếng bước chân liền nhỏm dậy, ánh nến lung linh chiếu lên mặt, chính là Triệu Mẫn. Cả nàng lẫn Trương Vô Kỵ không ngờ hai người lại gặp nhau nơi đây, không hẹn mà cùng ?A? lên một tiếng. Triệu Mẫn thảng thốt:

- Chàng ... chàng sao lại đến đây?

Âm thanh run run hiển nhiên trong lòng cực kỳ xúc động. Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi đi dạo qua đây, nhân tiện bước vào thử xem, đâu ngờ ...

Chàng đi đến bên chiếc bàn, thấy ở đối diện với nàng có một chén rượu cùng đũa bát liền hỏi:

- Còn có ai sắp đến chăng?

Triệu Mẫn mặt đỏ lên nói:

- Chẳng có ai cả. Hai lần trước thiếp uống rượu với công tử ở đây, chàng ngồi trước mặt, thành thử ... thành thử thiếp cũng bảo tiểu nhị mang thêm một bộ chén đũa.

Trương Vô Kỵ trong lòng cảm kích, thấy trên bàn bày bốn món ăn, đúng những thức mà nàng đã gọi hôm đầu tiên hai người ngồi ở đây. Chàng hiểu ngay cái thâm ý và nhu tình của nàng, không dằn được đưa tay nắm lấy tay Triệu Mẫn, run run nói:

- Triệu cô nương.

Triệu Mẫn buồn rầu nói:

- Chỉ hận rằng ... hận rằng em sinh ra trong một gia đình Mông Cổ quyền quí, phải làm kẻ đối đầu với chàng ...

Ngay lúc đó, từ ngoài song cửa vọng vào hai tiếng cười khẩy, một vật gì đó ném tới, nghe cạch một tiếng, đánh tắt ngọn nến, căn phòng lập tức tối đen như mực. Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn nghe tiếng cười nhạt đó, biết ngay là Chu Chỉ Nhược, nhất thời bàng hoàng hoảng hốt. Chỉ nghe tiếng chân nhè nhẹ trên mái nhà, Chu Chỉ Nhược như một ngọn gió đã đi mất.

Triệu Mẫn nói nhỏ:

- Chàng và cô ta đã có ước hẹn bạc đầu, phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế, tôi cũng chẳng dấu cô làm gì.

Triệu Mẫn nói:

- Hôm trước ở sau gốc cây, nghe chàng nói với cô ta những lời đường mật, em thật chỉ mong chết cho xong, chỉ mong đừng sinh ra trên cõi đời này. Hôm đó em cười khẩy hai tiếng, nay cô ta cũng trả lại hai tiếng cười. Chỉ có điều ... có điều ... chàng chưa từng nói với em một câu nào để em được vui.

Trương Vô Kỵ trong lòng xót xa:

- Triệu cô nương, đúng ra tôi chẳng nên đến đây, cũng không nên gặp lại cô làm gì. Lòng tôi đã thuộc về người khác, chẳng nên làm cho cô thêm buồn phiền. Cô là thân cành vàng lá ngọc, từ nay quên cái kẻ dân dã sơn thôn này đi cho xong.

Triệu Mẫn cầm tay Trương Vô Kỵ lên, vuốt ve vết sẹo trên lưng bàn tay chàng, nhỏ nhẹ nói:

- Chỗ em cắn chàng đây, dù chàng võ công cao đến đâu, y đạo giỏi đến đâu, cũng không thể nào làm mất được vết sẹo này. Cái sẹo trên tay chàng chàng không trừ được, làm sao xóa được vết thương trong tim em?

Nói tới đây nàng vòng tay lên vít cổ Trương Vô Kỵ xuống, để một nụ hôn thật nồng thắm trên môi chàng. Trương Vô Kỵ chỉ thấy làn môi mềm mại của nàng quyện với hương thơm xông lên mũi, trong lòng đê mê. Đột nhiên Triệu Mẫn cắn mạnh vào môi chàng một cái bật máu ra rồi đưa tay xô mạnh vào vai Trương Vô Kỵ, xoay mình nhảy ra khỏi cửa sổ, kêu lên:

- Chàng là tiểu dâm tặc, em ghét chàng, em hận chàng.

*

*?? *

Sau khi Trương Vô Kỵ và Bành Oánh Ngọc ra khỏi khách điếm rồi, Hàn Lâm Nhi quay sang nói với Chu Chỉ Nhược:

- Chu cô nương vào nghỉ sớm đi thôi.

Y không dám nói thêm câu nào vội vàng đứng lên ra khỏi phòng. Chu Chỉ Nhược mỉm cười:

- Hàn đại ca, anh sợ tôi lắm hay sao? Đến ở nán lại một tí nữa với tôi cũng không được.

Hàn Lâm Nhi mặt đỏ bừng, vội lắp bắp:

- Không đâu, không đâu!

Tuy y nói thế nhưng chân càng đi nhanh hơn nữa, một mạch về phòng mình, đóng chặt cửa lại, cài then kỹ càng, tim đập thình thình, cố gắng định thần lên giường nằm, nhớ đến khuôn mặt kiều diễm thanh tú cùng giọng nói ôn hòa dịu dàng của Chu Chỉ Nhược nghĩ thầm: ?Chu cô nương mai này thành giáo chủ phu nhân, ta được hầu bên giáo chủ chăm chỉ gắng sức, cố lập chút công lao. Chu cô nương lúc ấy vui lòng sẽ khen: ?Hàn đại ca phen này thực là nhọc nhằn quá?. Đến lúc đó thì Hàn Lâm Nhi này thật không uổng một đời?.

Y tơ tơ tưởng tưởng, mỉm cười rồi mơ màng đi vào giấc ngủ. Đến nửa đêm, bỗng nghe có mấy tiếng gõ cửa, Hàn Lâm Nhi vội vàng chồm dậy hỏi:

- Ai đó?

Có tiếng Chu Chỉ Nhược ở bên ngoài trả lời:

- Tôi đây, anh mở cửa, tôi có chuyện muốn nói với anh.

Hàn Lâm Nhi vội đáp:

- Vâng! Vâng!

Y không kịp xỏ dép đi chân không chạy ra, rút then cửa rồi trở vào thắp nến lên. Chỉ thấy Chu Chỉ Nhược hai mắt sưng đỏ, thần sắc hết sức lạ lùng. Hàn Lâm Nhi kinh hoảng giật nảy mình hỏi:

- Chu cô nương, cô ... cô ...

Y ấp úng không nói nên lời, động nhiên nhớ ra chạy ra khỏi phòng nói:

- Để thuộc hạ chạy đi lấy nước cho cô rửa mặt.

Một lát sau, y lại hai chân không bưng một chậu nước rửa mặt đi vào. Chu Chỉ Nhược cười buồn, tay chống lên cằm, đăm đăm nhìn ngọn lửa. Hàn Lâm Nhi nói:

- Cô ... cô rửa mặt đi.

Chu Chỉ Nhược không nói một lời, nhè nhẹ lắc đầu, đột nhiên sụt sùi rơi lệ. Hàn Lâm Nhi sợ đến ngẩn người, thõng tay đứng hầu, không biết vì sao nàng lại buồn rầu đau khổ, cũng không biết nàng định nói gì với mình.

Cứ như thế một lúc lâu, đột nhiên nghe tách một tiếng, bông lửa từ ngọn nến tóe lên. Chu Chỉ Nhược đang trầm tư giật mình tỉnh lại, kêu lên ?Ôi? một tiếng nhỏ rồi đứng lên. Hàn Lâm Nhi lớn tiếng nói:

- Chu cô nương, ai là kẻ dám hỗn với cô, họ Hàn này sẽ đi kiếm rút dao thí mạng đâm cho nó mấy nhát. Cô cứ nói ra.

Chu Chỉ Nhược buồn bã lắc đầu, đi ra. Nàng vào phòng ngồi một lát, tưởng như muốn trút hết tâm sự nhưng ngờ đâu không thể nói lên được một lời nào, khiến cho anh chàng Hàn Lâm Nhi lộp chộp kia chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, giơ tay vò đầu bứt tai.

Y suy nghĩ mãi không ra chuyện gì, bỗng nghe từ xa vọng về keng keng keng ba tiếng báo hiệu đã đến canh ba, tự hỏi: ?Sao đến giờ này mà giáo chủ và Bành đại sư chưa về??. Y bèn lên giường ngủ lại. Còn đang mơ màng toan chợp mắt bỗng nghe có tiếng lịch bịch, phía đông dường như có tiếng bàn ghế đổ, chính từ phòng Chu Chỉ Nhược đang ở. Hàn Lâm Nhi vội nhảy ra khỏi giường, dưới ánh trăng thấp thoáng, ở phòng phía đông có bóng người treo lơ lửng còn đang dãy dụa.

Y giật mình kinh hãi kêu lên:

- Chu cô nương, Chu cô nương!

Hàn Lâm Nhi đưa tay đẩy cửa, cửa phòng vẫn đóng. Y lấy vai huých mạnh một cái cho gãy then cửa chạy vội vào phòng, đánh lửa lên châm vào ngọn nến, thấy Chu Chỉ Nhược hai chân buông thõng lơ lửng trên không, cổ treo bằng sợi dây thừng buộc vào xà nhà. Y kinh hãi mất cả hồn vía vội nhảy lên dùng sức bứt đứt dây thừng, để Chu Chỉ Nhược nằm trên giường, giơ tay thăm mũi cũng may chưa tắt thở. Y kêu toáng lên:

- Chu cô nương, Chu cô nương! Cô ... cô có chuyện gì mà đến nỗi ... đến nỗi ...

Bỗng nghe từ cửa có tiếng người hỏi:

- Hàn đại ca, cái gì thế?

Một người bước vào, chính là Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thấy tình hình như thế, chẳng khác gì sét đánh ngang tai, vội đưa tay cởi sợi dây nơi cổ Chu Chỉ Nhược, sờ vào ngực nàng, thấy trái tim vẫn còn thoi thóp đập, mừng nói:

- Không sao, cứu được.

Chàng đưa tay nắn bóp sau lưng và bụng dưới nàng mấy cái, một luồng Cửu Dương chân khí từ bàn tay truyền vào, vận chuyển mấy lần, Chu Chỉ Nhược bỗng ?Oa? một tiếng khóc òa lên.

Hàn Lâm Nhi mừng quá kêu lớn:

- Hay lắm, hay lắm, Chu cô nương sống lại rồi.

Chu Chỉ Nhược mở mắt ra thấy Trương Vô Kỵ, khóc nói:

- Anh việc gì phải lo cho tôi? Để tôi chết cho xong.

Bỗng nàng nhìn thấy vết thương trên môi Trương Vô Kỵ còn lấm chấm mấy ngấn răng, cơn giận bùng lên, giơ tay tát chàng luôn mấy cái. Hàn Lâm Nhi kinh hãi, thấy giáo chủ bị đánh làm sao chịu nổi? Có điều người ra tay lại chính là Chu Chỉ Nhược người mà y sùng bái như thiên thần, nên nhất thời ngơ ngơ ngẩn ngẩn không biết làm sao cho phải. Đột nhiên có người giơ tay vỗ lên vai y mấy cái, Hàn Lâm Nhi quay lại thấy chính là Bành Oánh Ngọc vội nói:

- Bành đại sư, ông về rồi đấy ư? Mau mau lại đây khuyên giải Chu cô nương!

Bành Oánh Ngọc cười hỏi:

- Khuyên cái gì?

Y nói với Trương Vô Kỵ:

- Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ không nghe tin tức gì liên quan đến Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn cả.

Trương Vô Kỵ ?Ồ? lên một tiếng, thần sắc thật là sượng sùng. Bành Oánh Ngọc nói với Hàn Lâm Nhi:

- Hàn huynh đệ, hai người mình đi ra ngoài dạo chơi một chút.

Hàn Lâm Nhi hấp tấp nói:

- Không xong, không xong đâu, hai người đang đánh nhau, Chu cô nương làm sao có thể là địch thủ của giáo chủ được.

Bành Oánh Ngọc cười ha hả nói:

- Thật đúng là anh chàng hồ đồ, không lẽ bọn mình lại giúp Chu cô nương để cho cô ấy thắng giáo chủ chăng? Ta bảo cho mà biết, giáo chủ đánh không lại Chu cô nương đâu.

Nói xong đưa mắt nháy y, cầm tay Hàn Lâm Nhi kéo ra khỏi phòng. Hàn Lâm Nhi vẫn không ngớt quay đầu lại, mặt mày đầy vẻ lo lắng. Chu Chỉ Nhược nhịn không nổi cười khúc khích, nhưng lại phục xuống giường rấm rứt khóc tiếp. Trương Vô Kỵ ngồi bên cạnh giường, giơ tay vỗ nhè nhẹ lên vai nàng, ôn tồn nói:

- Chỉ Nhược, anh quả không có hẹn hò gì với cô ta, chẳng qua bất ngờ gặp nhau đấy thôi.

Chỉ Nhược đạp đạp hai chân, khóc nói:

- Tôi không tin, tôi không tin. Dù anh có nói gì chăng nữa, từ nay đừng có bao giờ mong tôi tin được anh.

Trương Vô Kỵ thở dài:

- Chu Công khủng cụ lưu ngôn nhật, Vương Mãng khiêm cung hạ sĩ thì.[1]Việc trên đời này thật dễ làm cho người khác phải hiểu lầm ...

Chu Chỉ Nhược ngồi nhỏm dậy nói:

- Cô quận chúa nương nương đó dùng thơ nhiếc móc tôi, chắc anh vẫn thường ngâm nga hay sao mà nhớ kỹ thế. Anh thử nhìn môi anh xem coi có ra cái giống gì không, sao không biết xấu hổ?

Nàng nói đến đây mặt hầm hầm. Trương Vô Kỵ nghĩ chuyện hôm nay dù có nói cách nào thì cũng khó lòng biện bạch, mà mình với Chu Chỉ Nhược thì đã quyết ý thành vợ thành chồng, sống đến răng long đầu bạc, chỉ còn cách gợi lòng thương để nàng dần dần nguôi ngoai đi thôi. Dưới ánh nến thấy mặt nàng đỏ bừng, trên cổ còn hằn vết dây hai bên sưng tấy lên, nếu như Hàn Lâm Nhi không phát giác kịp, đợi đến khi mình về thì e rằng đã hoa tàn ngọc nát, không thể nào cứu vãn được để thành mối hận muôn đời. Chàng không khỏi hổ thẹn lại thêm thương cảm, bèn giơ tay ôm nàng vào lòng, ghé lên môi hôn một cái. Chu Chỉ Nhược lách đầu qua, giận dỗi nói:

- Anh vừa tằng tịu với người ta rồi lại về đây ỉ ôi, sao coi thường tôi quá vậy?

Trương Vô Kỵ càng ôm chặt hơn, không cho nàng động đậy, sau cùng cũng hôn được một cái thật sâu. Chu Chỉ Nhược vùng vẫy không nổi, nỗi bực dọc cũng dần dần lắng xuống.

Trương Vô Kỵ nghĩ bụng mình với nàng tuy danh phận đã định, hai người là vợ chồng chưa cưới, nhưng canh khuya ở chung một phòng, khác gì xỏ giày nơi vườn dưa, sửa mũ dưới cây mận[2], người ngoài không khỏi hiềm nghi, để Bành Oánh Ngọc, Hàn Lâm Nhi trông vào khó coi nên đành bỏ Chu Chỉ Nhược ra nói:

- Chỉ Nhược, em đi nghỉ đi, có gì ngày mai nói chuyện. Nếu anh còn dối em đi gặp Triệu cô nương thì để cho em lăng trì tùng xẻo, chết không nửa lời oán trách.

Chu Chỉ Nhược mặt đỏ bừng, ngực phập phồng, hơi thở dồn dập nói:

- Chỉ nói nhăng nói cuội! Anh biết em đời nào lại đâm chém anh bao giờ?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Vậy thì em chặt hai chân của anh nhé?

Chu Chỉ Nhược cúi đầu, những giọt nước mắt như những viên ngọc trai lại ròng ròng nhỏ xuống. Trương Vô Kỵ không đành đi ra lại ngồi xuống bên cạnh, giữ hai vai nàng ôn tồn nói:

- Có gì mà em lại đau lòng rồi?

Chu Chỉ Nhược vẫn nức nở khóc không nói gì. Trương Vô Kỵ gặng hỏi mấy lần, ngờ đâu càng hỏi tới, nàng càng khóc già. Trương Vô Kỵ bèn thề sống thề chết, hứa với nàng sẽ không bao giờ thay lòng đổi dạ. Chu Chỉ Nhược hai tay ôm mặt nói:

- Em chỉ tủi cho cái số em phải khổ chứ đâu có trách gì anh.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chúng mình ai ai mà chẳng khổ. Quân Thát tử tác oai tác quái ở Trung Quốc, ai chẳng lắm khổ nhiều đau, sau này mình thành vợ chồng rồi, đuổi được người Mông Cổ đi, từ đó thì chỉ có vui mừng, không còn đau lòng nữa.

Chu Chỉ Nhược ngửng đầu lên nói:

- Vô Kỵ ca ca, em biết chàng đối vời em một lòng một dạ, chỉ có điều con tiểu yêu nữ Triệu Mẫn kia cứ quyến rũ chàng, không phải vì chàng có bụng nọ ý kia. Có điều ... có điều cô ta thông minh trí tuệ, võ công lại cao cường, dung mạo quyền thế, cái gì cũng hơn em cả chục lần. Em làm sao có thể giành được với cô ta, sống một đời đau khổ làm gì chi bằng chết quách cho xong. Ngờ đâu cái anh chàng ngốc nghếch Hàn Lâm Nhi lại cứu em sống lại. Em đã chết hụt một lần, đâu còn can đảm mà chết lần thứ hai. Em ... em muốn đi theo sư phụ, cắt tóc làm ni cô. Ôi, thế là chưởng môn phái Nga Mi từ xưa đến nay cũng chẳng một ai đi lấy chồng.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế ra em vẫn chưa yên tâm. Thôi thì thế này, ngày mai chúng mình lập tức đi về Hoài Tứ, anh sẽ cùng em thành hôn.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Nghĩa phụ chưa kiếm thấy, hơn nữa, chàng đã từng nói Hung Nô chưa diệt thì chưa thành gia thất cơ mà. Xem ra ... xem ra không xong.

Nói xong nàng lại nước mắt đầm đìa. Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ thì đương nhiên là phải ráo riết đi tìm rồi. Chúng mình gặp lại các anh em việc kiếm ông chắc dễ hơn nhiều. Còn việc đuổi quân Thát tử bao giờ mới thành, thật chẳng một ai liệu trước được. Không lẽ đợi tới khi hai đứa mình thành ông già bà cả, lúc đó mới lụm cụm bái đường thành thân hay sao? Ông già bà cả lễ trời lễ đất thì đã đành, nhưng lúc đó làm sao sinh con đẻ cái, chẳng lẽ nhà họ Trương đành đoạn tử tuyệt tôn.

Chu Chỉ Nhược mặt đỏ lên cười khúc khích nói:

- Gớm chàng xưa nay vốn là người thực thà nay không biết học được ở đâu cái mồm miệng trơn như mỡ thế?

Bao nhiêu u ám buồn phiền theo tiếng cười của hai người mà tiêu tan ra mây khói.

Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ dặn Bành Oánh Ngọc ở lại Đại Đô thêm ba ngày nữa nghe ngóng tin tức Tạ Tốn, còn mình cùng với Chu Chỉ Nhược và Hàn Lâm Nhi xuôi nam đi xuống khu vực Hoài Tứ. Ba người vừa đến Sơn Đông đã thấy binh mã của Mông Cổ thua chạy, mũ giáp tơi tả, chạy như đàn ong. Bọn Trương Vô Kỵ thấy tình thế đo vội tránh qua đường khác mà đi. Về sau chàng bắt gặp một tên quân đi lẻ, liền bắt lại tra vấn, mới hay Chu Nguyên Chương ở Hoài Bắc đánh bại quân Nguyên mấy trận lớn, khiến đại đội binh mã của địch phải tan vỡ. Ba người nghe vậy mừng không để đâu cho xiết, càng cố đi nhanh hơn, đến biên giới Lỗ Hoãn[3] thì đất đai đã hoàn toàn thuộc về nghĩa quân của Minh Giáo rồi. Trong đám quân lính có người nhận ra Hàn Lâm Nhi, vội chạy về báo cho phủ nguyên soái.

Ba người đến gần Hào Châu, Hàn Sơn Đồng đã cùng với các đại tướng Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân, Đặng Dũ, Thang Hòa ... ra ngoài ba mươi dặm để nghênh tiếp. Mọi người xa cách lâu ngày nay gặp lại, ai nấy đều thật là vui mừng. Hàn Sơn Đồng nghe con trai nói bị Cái Bang bắt giữ toàn do giáo chủ cứu ra lại lên cảm tạ thêm lần nữa. Trong tiếng chiêng trống rầm trời, binh giáp lòa mắt tất cả nghĩa quân đón giáo chủ vào thành Hào Châu.

Chu Chỉ Nhược cưỡi ngựa đi đằng sau Trương Vô Kỵ, nhìn trái liếc phải, thấy khung cảnh uy phong tuy chưa hoa lệ huy hoàng bằng hoàng đế, hoàng hậu ?du hoàng thành? ở Đại Đô nhưng cũng phần nào thỏa nguyện bình sinh.

Trương Vô Kỵ ở lại trong thành nghỉ ngơi ít ngày thì bọn Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, Ân Dã Vương, Thiết Quan đạo nhân, Thuyết Bất Đắc, Chu Điên, các chưởng kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ nghe được tin tức lục tục từ các nơi kéo đến.

Trương Vô Kỵ kể lại việc Tạ Tốn trở về Trung Nguyên, bị Cái Bang bắt rồi lại mất tích lần nữa cho tất cả mọi người nghe. Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính các người bàn qua tính lại đều không ai tìm ra manh mối nào. Phạm Dao nói:

- Không biết cô gái áo vàng kia lai lịch ra sao? Không chừng hành tung của Tạ huynh có thể hỏi ở cô ta mà ra.

Quần hào chưa ai nghe nói đến trong võ lâm có một cô gái áo vàng bao giờ, chỉ đành khuyên Trương Vô Kỵ cứ khoan tâm:

- Cứ như ngôn ngữ hành vi của cô gái áo vàng đó với giáo chủ xem ra không có ác ý. Nếu như Kim Mao Sư Vương vào tay cô ta thì chắc cũng không sao. Nếu cứ như thế có lẽ cô ta cũng chỉ muốn dò hỏi việc bảo đao Đồ Long mà thôi.

Trương Vô Kỵ vẫn lo canh cánh nhưng không biết làm sao hơn, chỉ đành sai các giáo chúng trong Ngũ Hành Kỳ chia nhau ra đi các nơi thám thính. Qua ngày hôm sau, Bành Oánh Ngọc từ Đại Đô trở về cho biết cũng không thăm dò thêm được chút tung tích nào của Tạ Tốn.

Nghĩa quân Minh Giáo đánh mấy trận lớn, tuy đều thắng cả nhưng tổn thất cũng thật nặng nề cho nên trong vòng vài ba tháng sắp tới, tình hình quân lữ cần phải nghỉ ngơi và chỉnh đốn lại, chiêu mộ thêm tân binh, không thể nào tung ra đánh với quân Nguyên. Bành Oánh Ngọc đêm đó thấy Chu Chỉ Nhược tự tận, tuy không rõ đầu đuôi nhưng cũng đoán ra được rằng giữa hai người nếu chẳng phải ghen tuông thì cũng có chuyện cãi vã. Phạm Dao cũng biết liên hệ giữa Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cũng không phải bình thường, nếu như giáo chủ Minh Giáo lấy quận chúa Mông Cổ làm vợ thì công cuộc kháng Nguyên phục quốc sẽ bị ảnh hưởng rất lớn, thấy trước mắt không có chuyện gì quan trọng nên cũng khuyên Trương Vô Kỵ mau mau thành hôn với Chu Chỉ Nhược. Còn Trương Vô Kỵ thì đã có hẹn thề đính ước với Chu Chỉ Nhược nên cũng bằng lòng ngay. Dương Tiêu chọn ngày rằm tháng ba là ngày hoàng đạo, toàn thể Minh Giáo từ trên xuống dưới ai cũng vui mừng, lập tức chuẩn bị đám cưới cho giáo chủ.

Lúc này thanh thế Minh Giáo chấn động thiên hạ, quân đông lộ của Hàn Sơn Đồng đã kiểm soát các thành thị lớn cả một vùng Hoài Tứ, còn tây lộ của Từ Thọ Huy thì khắp Ngạc Bắc, Dự Nam cũng liên tiếp đánh bại quân Nguyên. Tin mừng về hôn lễ của giáo chủ truyền ra, đồ mừng của nhân sĩ võ lâm ùn ùn đem tới như sóng bể. Các phái Côn Lôn, Không Động trước nay vốn có thù oán với Minh Giáo nhưng khi ở chùa Vạn An đã được Trương Vô Kỵ ra tay cứu thoát nên đã có ơn với họ, thứ nữa Chu Chỉ Nhược là chưởng môn phái Nga Mi nên các phái ai ai cũng đem lễ vật chúc mừng, riêng Không Động ngũ lão thì thật là hậu hĩ.

Trương Tam Phong viết bốn chữ ?Giai Nhi Giai Phụ[4]? vào một bức trục cùng một bộ Thái Cực Quyền Kinh do chính ông chép tay, sai Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Ân Lê Đình ba người đệ tử mang đến. Lúc này Dương Bất Hối đã lấy Ân Lê Đình, cũng cùng đi với chồng đến Hào Châu, Trương Vô Kỵ mỉm cười đi ra đón, lớn tiếng chào:

- Lục sư thẩm.

Dương Bất Hối mặt đỏ lên, nắm lấy hai tay chàng nhớ lại chuyện xưa, vừa vui mừng vừa thương cảm. Trương Vô Kỵ e ngại Trần Hữu Lượng, Tống Thanh Thư chưa bỏ ý gian, thừa cơ làm hại liền kín đáo kể lại việc Tống Thanh Thư giết chết Mạc Thanh Cốc, lại toan mưu đầu độc Trương Tam Phong kể lại cho Vi Nhất Tiếu nghe, rồi sai y lấy danh sứ giả tạ ơn, lên thẳng núi Võ Đương, sau khi bái kiến Trương Tam Phong hãy cùng với Du Đại Nham, Trương Tùng Khê hợp lực, phòng bị bọn Trần Hữu Lượng đợi đến khi nào anh em Tống Viễn Kiều quay trở về núi thì hãy cáo biệt.

Vi Nhất Tiếu hậm hực nói:

- Từ khi tuân hành huấn dụ của giáo chủ, Vi Nhất Tiếu không dám hút máu người nữa nhưng kỳ này nếu gặp hai tên gian tặc này, thể nào cũng hút cạn máu hai đứa mới xong.

Trương Vô Kỵ vội nói:

- Gã Trần Hữu Lượng kia thì Vi huynh cứ tiện tay trừ đi không sao, còn Tống Thanh Thư là con một của đại sư bá tôi, là người chưởng môn tương lai của phái Võ Đương, nên để phái Võ Đương tự thanh lý môn hộ, khỏi làm sứt mẻ tình cảm với đại sư bá.

Vi Nhất Tiếu vâng lệnh, bái biệt ra đi. Đến ngày mồng mười tháng ba, các nữ hiệp phái Nga Mi mang lễ vật đến Hào Châu, chỉ riêng Đinh Mẫn Quân nhờ người khác thay mặt còn mình không đến.

*

*?? *

Đến ngày rằm tháng ba, người trong Minh Giáo từ trên xuống dưới ai ai cũng thay quần áo mới. Lễ bái thiên địa được sắp xếp ở một sảnh đường của một đại phú gia tại Hào Châu, treo đèn kết hoa, trang trí thật là rực rỡ. Bức thiếp trên có bốn chữ ?Giai Nhi Giai Phụ? của Trương Tam Phong được treo ngay chính giữa. Ân Thiên Chính làm chủ hôn đằng trai, Thường Ngộ Xuân làm chủ hôn đằng gái. Thiết Quan đạo nhân làm tổng tuần hành của Hào Châu, thống lãnh bộ hạ trong Minh Giáo đi vòng quanh để phòng kẻ địch có thể lẻn vào quấy phá. Thang Hòa đốc suất tinh binh nghĩa quân trấn đóng ngoài thành để ngự địch.

Sáng hôm đó các phái Hoa Sơn, Thiếu Lâm đều có cử người đem lễ vật đến mừng. Đến giờ thân là giờ tốt, pháo hiệu nổ đì đùng khắp nơi. Tất cả các quan khách đều đến đại sảnh, theo tiếng xướng của người lễ sinh, Tống Viễn Kiều và Ân Dã Vương đưa Trương Vô Kỵ bước ra. Tiếng đàn tiếng sáo trổi lên, mọi người thấy hoa cả mắt, tám thiếu nữ trẻ tuổi phái Nga Mi theo hầu Chu Chỉ Nhược yểu điệu đi ra ngoài đại sảnh. Chu Chỉ Nhược thân mặc đại hồng cẩm bào, đầu đội phượng quan, áo khoác màu cánh sen, mặt che khăn đỏ. Nam tả nữ hữu, tân lang và tân nương đứng sánh vai. Người lễ sinh cao giọng xướng:

- Bái thiên!

Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược vừa toan quì xuống chiếu để lễ, bỗng từ ngoài cửa có tiếng người thánh thót kêu lên:

- Khoan đã!

Một bóng xanh thấp thoáng, một thiếu nữ cười hì hì đã đứng ngay giữa sân, chính là Triệu Mẫn. Quần hào vừa thấy nàng ta, lập tức có tiếng xì xào la lối nổi lên. Trong Minh Giáo cũng như các môn phái không ít người bị nàng làm khó, không ngờ lại dám một mình vào nơi hiểm địa. Những người nóng tính đã toan tiến lên động thủ.

Dương Tiêu giơ ngang hai tay, cũng quát lên:

- Hãy khoan!

Y quay qua nói với mọi người:

- Hôm nay là ngày vui của giáo chủ tệ giáo và chưởng môn phái Nga Mi, Triệu cô nương quang lâm chúc mừng tức là khách của tệ giáo. Xin các vị nể mặt phái Nga Mi và tệ giáo, để những chuyện đã qua sang một bên, đừng vô lễ với Triệu cô nương.

Nói xong Dương Tiêu đưa mắt cho Bành Oánh Ngọc và Thuyết Bất Đắc, hai người hiểu ý liền quay vào hậu đường, đi ra tra xét xem Triệu Mẫn đem bao nhiêu cao thủ theo. Dương Tiêu nói với Triệu Mẫn:

- Xin Triệu cô nương qua bên này ngồi xem lễ, xong rồi tại hạ sẽ mời cô nương ba chén rượu nhạt.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Tôi có vài câu muốn nói với Trương giáo chủ, nói xong là đi ngay, ngày khác hãy xin làm phiền quí vị.

Dương Tiêu nói:

- Triệu cô nương có chuyện gì đợi hành lễ xong nói cũng không muộn.

Triệu Mẫn nói:

- Hành lễ xong rồi thì đã trễ.

Dương Tiêu và Phạm Dao hai người nhìn nhau, biết rằng Triệu Mẫn có ý muốn đến phá đám, bằng cách nào cũng phải ngăn nàng lại, để khỏi làm ngày vui hóa ra bẽ bàng, mọi người phải khó chịu. Dương Tiêu liền tiến lên hai bước nói:

- Chúng tôi hôm nay đã hết sức dùng lễ chủ khách, xin Triệu cô nương nên tự trọng.

Y đã định bụng nếu như Triệu Mẫn cố tình quấy hôi bôi nhọ, sẽ lập tức ra tay điểm huyệt nàng để chế ngự rồi tính sau. Triệu Mẫn quay sang nói với Phạm Dao:

- Khổ đại sư, người ta muốn ra tay với tôi, ông có giúp tôi không?

Phạm Dao nhíu mày nói:

- Quận chúa, trên đời này mười điều có đến tám chín không vừa ý, đã đến nước này, cũng đành phải chịu vậy thôi.

Triệu Mẫn nói:

- Tôi không chịu thì sao?

Nàng quay sang nói với Trương Vô Kỵ:

- Trương Vô Kỵ, anh là giáo chủ Minh Giáo, nam tử hán đại trượng phu, nói ra có giữ lời không?

Trương Vô Kỵ thấy Triệu Mẫn tới, tim đập thình thình, chỉ mong Dương Tiêu có thể vãn hồi thế cuộc, dịu ngọt khuyên nàng bỏ đi, bỗng nghe nàng hỏi đến mình chỉ đành trả lời:

- Tôi đã nói ra hẳn là sẽ giữ lời.

Triệu Mẫn nói:

- Hôm trước tôi cứu mạng cho Du tam bá và Ân lục thúc của anh, anh bằng lòng làm cho tôi ba chuyện, quyết không bội ước, có đúng không nào?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế. Cô bảo tôi đi mượn thanh đao Đồ Long cho xem, cô không những đã xem, mà còn trộm luôn cả bảo đao nữa.

Mấy chục năm qua, trên giang hồ đều quan tâm đến thanh đao Đồ Long ?võ lâm chí tôn? kia ở đâu, nay nghe nó đã vào tay Triệu Mẫn ai nấy đều rúng động. Triệu Mẫn nói:

- Thanh đao Đồ Long ở trong tay ai thì chỉ có Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp biết thôi, anh đến hỏi thẳng ông ta thì rõ.

Việc Tạ Tốn đã về đến Trung Nguyên trên võ lâm ít ai biết được, nay nghe nàng đề cập đến Kim Mao Sư Vương, tiếng ồn ào trong sảnh đều im bặt. Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ tôi hiện nay đang ở nơi đâu, Trương mỗ ngày đêm khắc khoải, mong được cô nương chỉ điểm cho.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- -??? Tôi ước hẹn anh làm ba việc cho tôi, chỉ cần không đi ngược với đạo hiệp nghĩa trong võ lâm thì anh ắt sẽ làm ngay. Việc mượn thanh đao Đồ Long để xem, tuy chưa phải là xong hẳn nhưng con đao đó tôi cũng đã nhìn thấy rồi, về sau bị ăn trộm mất, cũng không thể nào trách anh được. Thôi thì cứ coi như việc thứ nhất đã hoàn tất. Bây giờ tôi có chuyện thứ hai bảo anh làm. Trương Vô Kỵ, trước mặt anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, anh không thể nói rồi nuốt lời.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cô muốn tôi làm chuyện gì?

Dương Tiêu liền xen vào:

- Triệu cô nương, cô có chuyện gì nhờ đến giáo chủ chúng tôi làm cũng phải ước định trước, chỉ cần không đi ngược lại với đạo hiệp nghĩa của võ lâm, chẳng nói gì Trương giáo chủ sẽ bằng lòng mà tệ giáo từ trên xuống dưới, cũng phải tận tâm kiệt lực. Lúc này là ngày lành tháng tốt của Trương giáo chủ và tân phu nhân tham bái trời đất, việc khác xin để qua một bên, xin đừng nhiều lời cản trở nữa.

Y nói đến mấy lời sau cùng, giọng điệu hơi có vẻ gay gắt. Triệu Mẫn thần sắc vẫn như thường, coi vị Quang Minh tả sứ của Minh Giáo danh chấn giang hồ này không vào đâu nhơn nhơn nói:

- Việc của tôi đây lại còn khẩn cấp hơn, chỉ trì hoãn thêm một khắc cũng không được.

Nàng đột nhiên tiến lên mấy bước, đến ngay trước mặt Trương Vô Kỵ, kiễng chân lên nói thầm vào tai chàng:

- Việc thứ hai là bảo anh hôm nay không được cùng Chu cô nương bái đường thành thân.

Trương Vô Kỵ sững sờ hỏi lại:

- Cái gì?

Triệu Mẫn nói:

- Đó là việc thứ hai. Còn việc thứ ba bao giờ tôi nghĩ ra tôi sẽ nói cho anh hay.

Những câu nàng nói tuy rất nhỏ nhưng Chu Chỉ Nhược và những người đứng gần như Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Ân Lê Đình và cả tám thiếu nữ phái Nga Mi đi theo tân nương cũng đều nghe thấy, ai nấy không khỏi biến sắc. Tám thiếu nữ phái Nga Mi quyền trong tay áo đã nắm lại, nếu như Triệu Mẫn còn nói thêm một lời vô lễ làm nhục chưởng môn thì họ sẽ cho nàng biết tay.

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

- Việc này xin thứ lỗi không thể tuân lệnh được.

Triệu Mẫn nói:

- Thế anh nói ra không giữ lời hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chúng ta đã nói với nhau từ trước, không được vi phạm đạo hiệp nghĩa. Tôi và Chu cô nương có ước định thành vợ thành chồng, nếu theo lời cô thì đã vi phạm chữ ?nghĩa? rồi.

Triệu Mẫn cười nhạt:

- Nếu như anh thành hôn với cô ta thì mới là bất hiếu bất nghĩa. Hôm du hoàng thành ở Đại Đô, không lẽ anh không thấy nghĩa phụ bị ai ám toán hay sao?

Trương Vô Kỵ lửa giận bừng bừng, lớn tiếng nói:

- Triệu cô nương, hôm nay tôi trọng cô là khách nên nhịn cô ba phần. Nếu còn nói nhăng nói cuội, có đắc tội cũng đừng trách.

Triệu Mẫn nói:

- Thế việc thứ hai này, anh không chịu nghe lời tôi hay sao?

Trương Vô Kỵ nghĩ tới nàng là thân phận quận chúa cao quí, nhưng phải xuất đầu lộ diện, trước mặt quần hào bảo mình đừng làm lễ thành hôn, chẳng qua cũng vì si mê nên không khỏi chạnh lòng ôn tồn nói:

- Triệu cô nương, việc đã đến nước này, sao cô vẫn còn ... vẫn còn chưa hiểu hay sao? Trương Vô Kỵ này là một kẻ thất phu nơi thôn dã, không xứng ... không xứng ...

Triệu Mẫn nói:

- Được, vậy anh xem đây là cái gì?

Nàng mở bàn tay phải ra, đưa vào trước mặt chàng. Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy, kinh hoảng run bần bật, lật đật hỏi:

- Đây là ... đây là ...

Triệu Mẫn lập tức nắm tay lại, bỏ vật đó vào trong túi nói:

- Việc thứ hai của tôi, anh theo hay không theo đều do anh cả.

Nói xong nàng xoay mình chạy ra ngoài cửa chính. Trong tay nàng cầm cái gì khiến cho Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy đã kinh hoàng thất tán thật chẳng một ai trông rõ. Chu Chỉ Nhược hai mắt bị tấm khăn đỏ che, chỉ nghe tiếng Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn đối đáp nhưng hoàn toàn không nhìn thấy gì. Trương Vô Kỵ hấp tấp kêu lên:

- Triệu ... Triệu cô nương, xin đứng lại đã.

Triệu Mẫn đáp:

- Anh muốn theo tôi thì theo, còn không thì ở lại bái đường thành thân với tân nương tử. Là kẻ nam nhi mà hồ nghi bất quyết, há không phải để hận đến mãn đời hay sao?

Nàng miệng thì lớn tiếng nói mấy câu đó nhưng chân vẫn không ngừng lại chút nào, tiếp tục chạy băng băng ra khỏi cửa. Trương Vô Kỵ vội kêu lên:

- Triệu cô nương dừng bước chút đã! Để bàn tính lại xem sao!

Chàng lại chỉ thấy nàng càng chạy nhanh hơn vội vọt lên chặn trước mặt nói lớn:

- Được rồi, tôi theo lời cô, hôm nay không thành hôn nữa.

Triệu Mẫn đứng lại nói:

- Vậy thì anh đi theo tôi.

Trương Vô Kỵ quay đầu lại thấy Chu Chỉ Nhược đứng chết sững thấy hết sức băn khoăn, muốn giải thích cùng nàng mấy câu nhưng Triệu Mẫn vẫn băng băng bỏ chạy, công việc gấp gáp bội phần chỉ đành bắt buộc phải chọn một đường nên nghiến răng đuổi theo Triệu Mẫn.

Trương Vô Kỵ vừa đuổi đến ngoài cửa, đột nhiên một bóng hồng thấp thoáng, một người đã đến sát bên Triệu Mẫn, tay áo đỏ vươn ra một bàn tay thuôn thuôn búp măng, năm ngón tay chộp vào đỉnh đầu. Biến cố đó như chim cắt bắt mồi nhanh không thể tả, người ra tay chính là tân nương Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ giật mình nghĩ thầm: ?Chiêu này lợi hại quá! Chỉ Nhược học ở đâu ra võ công tinh diệu thế này??. Chàng thấy tay nàng sắp sửa nắm được đỉnh đầu Triệu Mẫn, nếu năm ngón tay chộp xuống thể nào sọ cũng vỡ tan, không kịp suy nghĩ thêm, liền vọt lên bắt lấy mạch môn Chu Chỉ Nhược.

Chu Chỉ Nhược thúc cùi chỏ bên trái về sau, nghe bịch một tiếng đã trúng ngay ngực chàng. Cửu Dương chân khí trong cơ thể Trương Vô Kỵ lập tức phát động, hóa giải kình lực của khủy tay nhưng cũng thấy trong bụng khí huyết trộn trạo, chân hơi lảo đảo.

Phạm Dao thấy tình thế nguy cấp động lòng cứu chủ cũ, vội giơ chưởng đẩy vào vai Chu Chỉ Nhược. Chu Chỉ Nhược tay trái hơi vung lên, nhẹ nhàng phất một cái, Phạm Dao cổ tay tê đi, chưởng đó không sao đánh ra nổi.

Tuy nhiên trở ngại đó đã giúp cho Triệu Mẫn vọt lên thêm được nửa bước, tránh được chỗ yếu hại nơi sau gáy nhưng đầu vai đau nhói, năm ngón tay phải của Chu Chỉ Nhược đã chộp trúng ngay vai gần sát cổ. Trương Vô Kỵ ?A? lên một tiếng, giơ tay đẩy Chu Chỉ Nhược ra. Chu Chỉ Nhược trên mặt vẫn còn chiếc khăn che chưa cởi được, nghe hơi gió liền hất tay trái về sau, chém ngay vào cổ tay chàng.

Trương Vô Kỵ nào có ý muốn cùng nàng động thủ, chỉ vì thấy nàng chiêu số thực là tàn độc, chỉ một chiêu đã toan lấy mạng Triệu Mẫn, không còn cách nào hơn nên phải gạt ra. Chu Chỉ Nhược thân trên không động đậy mà cũng không di chuyển ra khỏi chỗ, liên tiếp tung ra tám chiêu hiểm ác liền, Trương Vô Kỵ vội vàng sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp mới đỡ được. Tám chiêu tấn công, tám chiêu thủ vệ chỉ trong nháy mắt đã xong, trong đại sảnh quần hào đều nín thở, ai nấy kinh hãi đến thất thần.

Triệu Mẫn đầu vai bị trọng thương, ngã khuỵu xuống đất, năm cái lỗ trên vai máu phun ra như suối, chỉ giây lát đã nhuộm đỏ cả nửa thên trên. Chu Chỉ Nhược dậm chân không tấn công nữa nói:

- Trương Vô Kỵ, anh bị con yêu nữ đó mê hoặc, tính bỏ tôi mà đi hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chỉ Nhược, xin em thông cảm cho cái khổ tâm của anh. Ước định hôn nhân của hai đứa mình, Trương Vô Kỵ này không bao giờ hối hận, chỉ phải hoãn lại vài hôm thôi ...

Chu Chỉ Nhược lạnh lùng nói:

- Anh đi thì đừng bao giờ quay lại, mong anh sau này đừng hối tiếc.

Triệu Mẫn nghiến răng đứng lên, không nói một lời lảo đảo chạy ra, máu trên vai chảy đầy mặt đất. Quần hào tuy đã từng chứng kiến biết bao nhiêu việc lạ trên giang hồ, nhưng hôm nay mới thấy cái cảnh ?hai nàng tranh một chàng?, máu vãi phòng hoa, cô dâu mặt còn che khăn nhưng đã dùng võ công thần kỳ đả thương tình địch, ai nấy hoảng loạn kinh hoàng, không nói được lời nào.

Trương Vô Kỵ dậm chân một cái nói:

- Nghĩa phụ đối với anh ơn nặng tày non, Chỉ Nhược, Chỉ Nhược, mong em tha thứ cho ta.

Nói xong chàng liền đuổi theo Triệu Mẫn. Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Trương Vô Kỵ, Ân Lê Đình tất cả chẳng một ai biết rõ sự tình ra sao nên chẳng một ai ngăn trở. Chu Chỉ Nhược giơ tay giựt phắt chiếc khăn điều che mặt, lớn tiếng nói:

- Các vị chính mắt thấy đó, chính y phụ tôi chứ không phải tôi phụ y. Từ nay về sau, Chu Chỉ Nhược này với họ Trương kia ân đoạn nghĩa tuyệt.

Nói tới đây nàng giở chiếc phượng quan trên đầu xuống, giơ tay giựt những viên ngọc trai rồi vứt chiếc mũ đi, hai tay bóp lại, tất cả những viên trân châu nát ra như cám rơi lả tả nói:

- Chu Chỉ Nhược này nếu không rửa được cái hận hôm nay thì cũng như những viên ngọc trai này.

Ân Thiên Chính, Tống Viễn Kiều, Dương Tiêu cả bọn muốn lên tiếng khuyên lơn nàng hãy đợi Trương Vô Kỵ quay về, hỏi cho rõ ràng nhưng Chu Chỉ Nhược hai tay xé một cái, nghe soẹt một tiếng, chiếc đại hồng trường bào trên thêu đầy hoa vàng đã rách thành hai mảnh ném xuống đất rồi phi thân nhảy vọt đi, ở trên không xoay người một cái đã lên đến mái nhà.

Dương Tiêu, Ân Thiên Chính cả bọn vội đuổi theo, chỉ thấy nàng phất phới như một cụm mây đỏ bay vụt về hướng đông. Khinh công đẹp như thế xem ra không kém gì Vi Nhất Tiếu. Bọn Dương Tiêu xem chừng đuổi theo không kịp, ngẩn ngơ một hồi rồi quay trở vào đại sảnh.

Đám cưới đang vui vẻ như thế bị Triệu Mẫn đến làm rối loạn, chỉ giây lát gió thổi tuyết tan, người trong Minh Giáo từ trên xuống dưới ai nấy mặt mày ủ rũ, khách khứa đến mừng cũng chẳng một ai vui. Mọi người xôn xao bàn tán nhưng không một ai biết được Triệu Mẫn cầm trong tay cái gì đưa ra cho Trương Vô Kỵ coi để đến nỗi chàng phải hốt hoảng bỏ đi, nghe chàng nói thì dường như việc này có liên quan thật trọng đại đến Tạ Tốn nhưng sự thực thế nào thì không một ai hay biết.

Những cô của phái Nga Mi bàn nhỏ với nhau mấy câu rồi cũng hầm hầm cáo từ. Ân Thiên Chính luôn mồm xin lỗi, hứa thể nào cũng dẫn Trương Vô Kỵ lên trên đỉnh Kim Đính núi Nga Mi tạ tội rồi sẽ sắp xếp việc cưới hỏi sau, đừng vì thế mà làm mất hòa khí hai nhà. Người phái Nga Mi cũng chẳng đáp lời chỉ chia nhau đi tìm Chu Chỉ Nhược, cả bọn hậm hực rủa xả đàn ông con trai vô lương tâm, có mới nới cũ.

*

*?? *

Thì ra trong tay Triệu Mẫn đưa ra cho Trương Vô Kỵ coi là một nắm tóc màu vàng. Trương Vô Kỵ vừa nhìn qua biết ngay là tóc của Tạ Tốn. Nội công của Tạ Tốn luyện đã khác người lại thêm bẩm sinh cũng lạ nên từ trung niên trở đi cả mái tóc dài biến thành vàng nhạt, nhưng không phải giống như đầu tóc của người sắc mục miền Tây Vực. Trương Vô Kỵ tưởng rằng mái tóc của Tạ Tốn đã bị Triệu Mẫn cắt đi một mảng, ắt là đã lọt vào tay nàng, nếu như mình bái đường thành thân cùng Chu Chỉ Nhược, nàng giận dữ quay về sẽ ra tay giết Tạ Tốn, nếu không cũng làm điều bất lợi cho ông ta thành thử không kịp giải thích cho Chu Chỉ Nhược nghe nỗi khổ tâm của mình trước mặt quần hào.

Những khách khứa ngày hôm nay, ngoài người của Minh Giáo và phái Võ Đương hầu như ai ai cũng muốn bắt được Tạ Tốn, trước là báo thù năm xưa ông ta giết người, sau là đoạt lấy bảo đao Đồ Long. Thành thử chàng thấy Triệu Mẫn chạy đi, biết rằng như thế thật không phải chút nào với Chu Chỉ Nhược nhưng suy đi tính lại mạng của nghĩa phụ là trọng nên đành phải đuổi theo.

Chàng ra khỏi đại môn rồi, chỉ thấy Triệu Mẫn đang hết sức chạy, máu tươi trên vai vẫn tiếp tục nhỏ xuống trên đường. Chàng hít một hơi vọt lên mấy trượng, chặn ngay trước mặt nàng nói:

- Triệu cô nương, cô đừng ép tôi phải thành một kẻ bất nghĩa, để cho anh hùng thiên hạ chê cười.

Triệu Mẫn trên vai bị thương khá nặng, lúc đầu chỉ nhờ chân khí mà gắng gượng chạy được một quãng, đến khi nghe chàng nói mấy câu đó liền đáp:

- Chàng ... chàng ...

Chân khí tiết ra, lập tức ngã xuống. Trương Vô Kỵ đỡ nàng lên nói:

- Cô nói cho tôi biết đi, nghĩa phụ của tôi giờ này nơi đâu?

Triệu Mẫn nói:

- Anh mang tôi đi cứu ông ta, tôi sẽ ... tôi sẽ ... chỉ đường cho.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tính mạng lão nhân gia không sao chứ?

Triệu Mẫn tuy khí còn nhưng hơi sức đã hết nói:

- Nghĩa phụ anh ... nghĩa phụ anh bị Thành Côn bắt được rồi.

Trương Vô Kỵ nghe thấy hai chữ ?Thành Côn? thì sợ đến chân tay rụng rời, người này võ công đã cao cường, kế mưu lại ghê gớm, Tạ Tốn và ông ta thù sâu tựa bể, nếu rơi vào tay y thì hung hiểm biết sao mà nói cho hết được. Triệu Mẫn nói:

- Một mình anh không xong đâu, đi gọi ... gọi bọn Dương Tiêu cùng đi mới được...

Nói rồi giơ tay chỉ về hướng tây, đột nhiên đầu lật về sau, mê man bất tỉnh. Trương Vô Kỵ nghĩ đến nghĩa phụ giờ này khổ sơ nguy nan, ruột gan nóng như lửa đốt, lập tức bế nàng lên, vội vàng xé rách quần áo, buộc vết thương cho nàng, giơ tay vẫy một giáo đồ Minh Giáo đứng bên đường dặn dò:

- Ngươi mau báo cho Dương tả sứ bảo ông ta dẫn mọi người, chạy theo hướng tây, nói là ta có chuyện gấp cần sai bảo.

Tên giáo đồ tuân lệnh, vội chạy đi bẩm báo. Trương Vô Kỵ nghĩ mình đến sớm chút nào hay chút nấy, việc không biết thế nào mà lường, không chừng chỉ chậm nửa khắc là đã không cứu được mạng nghĩa phụ nữa rồi bèn ôm Triệu Mẫn lên chạy ra phía cửa thành, sai sĩ tốt thử ngự lấy cho một con tuấn mã, phi thân nhảy lên, chạy vọt về hướng tây.

Chạy được mấy dặm, cảm thấy thân thể Triệu Mẫn trong lòng lạnh dần, giơ tay thăm mạch, chỉ thấy mạch nhảy rất yếu, chàng kinh hoảng vội cởi vết thương ra xem, thấy năm cái lỗ ngón tay sâu đến tận xương, da thịt chung quanh tím ngắt, hiển nhiên đã trúng chất kịch độc. Chàng hết sức nghi ngờ: ?Chỉ Nhược là đệ tử phái Nga Mi, sao lại biết sử dụng loại võ công âm độc thế này? Nàng ra chiêu thật là độc địa xem ra còn hơn Diệt Tuyệt sư thái nhiều là cớ làm sao??.

Trước mắt thấy nếu không cứu chữa ngay, Triệu Mẫn sẽ bị chất độc phát tác chết liền nhưng chàng đang mặc y phục tân lang lấy đâu ra thuốc men trong người? Chàng hơi trầm ngâm rồi lập tức nhảy ra khỏi lưng ngựa, ôm nàng chạy theo phía trái lên trên núi, nhìn quanh bốn bề tìm các loại dược thảo trừ độc nhưng trong nhất thời ngay cả loại thuốc men tầm thường nhất cũng không kiếm đâu ra.

Chàng tim đập thịnh thịch, đi qua mấy triền núi, miệng lẩm bẩm vái van. Bỗng dưng trước mắt thấy sáng lòa, bên cạnh một ngọn thác ở đằng trước bên phải có bốn năm đóa hoa nhỏ màu đỏ, chính là hoa có tên là ?Phật Tòa Tiểu Hồng Liên?, cũng có chút tính khử độc. Tuy lúc này đang là giữa mùa xuân, trăm hoa nở rộ nhưng loại hoa này tìm thấy nơi đây thì kể cũng là trời cho. Chàng mừng lắm, ôm Triệu Mẫn nhảy qua hai khe suối, hái mấy đóa hoa bỏ vào mồm nhai, một nửa mớm vào mồm cho Triệu Mẫn, một nửa đắp lên vai nàng, rồi lại ôm cô ta lên tiếp tục chạy về hướng tây.

Chạy được khoảng ba chục dặm, Triệu Mẫn rên lên một tiếng, tỉnh lại, nói nhỏ:

- Em ... em có còn sống hay chăng?

Trương Vô Kỵ thấy Phật Tòa Tiểu Hồng Liên kiến hiệu, mừng rỡ cười hỏi:

- Cô thấy trong người ra sao?

Triệu Mẫn nói:

Trên vai ngứa lắm. Ôi, công phu của Chu cô nương thật là ghê gớm.

Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng để nàng xuống, xem lại vết thương trên vai thấy vết bầm đen chưa bớt chút nào nhưng mạch lúc này không còn yếu như trước nữa. Trương Vô Kỵ hơi trầm ngâm biết rằng Phật Tòa Tiểu Hồng Liên dược tính quá chậm, không đủ sức trừ độc, nên cúi xuống ghé mồm vào vai nàng, hút máu độc từng ngụm từng ngụm ra nhổ xuống đất, mùi tanh hôi xông lên mũi khiến chàng muốn mửa.

Triệu Mẫn giương mắt nhìn, giơ tay vuốt ve tóc chàng, thở dài nói:

- Vô Kỵ ca ca, cái nguyên ủy bên trong, chàng đã nghĩ ra được chưa?

Trương Vô Kỵ hút hết độc huyết ra rồi, đi tìm suối súc miệng, quay về ngồi bên cạnh Triệu Mẫn hỏi lại:

- Cái nguyên ủy gì?

Triệu Mẫn nói:

- Chu cô nương là đệ tử danh môn chính phái, sao lại biết những võ công tà môn âm độc như thế này?

Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi cũng thấy lạ lùng, không biết ai đã dạy cho nàng ta vậy.

Triệu Mẫn lặng lẽ mỉm cười nói:

- Chắc là tiểu tặc của ma giáo tà phái dạy cho cô ta đó.

Trương Vô Kỵ cũng cười:

- Trong ma giao tuy nhiều ma đầu nhưng chẳng ai biết môn võ công này, chỉ có Thanh Dực Bức Vương hút máu cổ người ta và Trương Vô Kỵ hút máu vai người ta là hơi giống nhau thôi.

Chàng lại thuận miệng hỏi thêm:

- Nghĩa phụ tôi rơi vào tay Thành Côn ư? Bây giờ đang ở nơi nào?

Triệu Mẫn nói:

- Để em đưa chàng đi tìm cách cứu ông ta ra. Còn ở nơi nào thì bây giờ em cũng là "Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc" vì em mà nói ra thì chàng sẽ quăng bỏ em nơi đây không còn lo gì cho em nữa.

Trương Vô Kỵ thở dài:

- Lẽ nào tôi lại vô tình vô nghĩa đến thế?

Triệu Mẫn đáp:

- Vì cha nuôi mà anh bỏ rơi cô vợ mới cưới đẹp như hoa như ngọc, huống gì là em?

Nói rồi nàng dựa vào người chàng hỏi:

- Hôm nay em làm lỡ dịp động phòng hoa chúc của chàng, chàng có giận em không?

Không hiểu vì sao, trong lúc này lòng Trương Vô Kỵ thật là vui sướng, ngoài việc lo lắng cho an nguy của Tạ Tốn ra, so với khi đang bái đường thành thân cùng Chu Chỉ Nhược lại thoải mái bội phần, thực ở nguyên do nào chàng cũng không sao nói được. Thế nhưng nếu thừa nhận rằng mình thích bị Triệu Mẫn phá hỏng cái đám cưới thì cũng không dám mở miệng nói ra nên chỉ đành nói:

- Lẽ dĩ nhiên là tôi giận cô. Mai này khi cô đang bái đường thành thân cùng một chàng quận mã gia anh hùng tiêu sái thì tôi cũng sẽ đến đại náo một trận, không để cho cô yên lành làm cô dâu mới đâu.

Nét mặt xanh mét của Triệu Mẫn bỗng hồng lên cười nói:

- Chàng mà đến phá đám, em sẽ một kiếm giết chàng ngay.

Trương Vô Kỵ bỗng dưng thở dài, buồn bã không nói gì. Triệu Mẫn hỏi:

- Sao chàng lại thở dài?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không biết cái vị quận mã gia kia kiếp trước làm điều thiện gì mà may mắn đến thế?

Triệu Mẫn cười:

- Thì bây giờ chàng tu tỉnh cũng còn kịp mà.

Trương Vô Kỵ trong lòng rung động hỏi lại:

- Cái gì?

Triệu Mẫn mặt đỏ lên nhưng không trả lời. Đến đây hai người ai ai cũng biết không thể nói chuyện xa hơn, nên ngồi nghỉ một lát, Trương Vô Kỵ lại đắp thuốc cho nàng rồi ôm Triệu Mẫn chạy về hướng tây. Triệu Mẫn tựa vào vai chàng, má kề má Trương Vô Kỵ ngửi thấy mùi hương xông lên, trong tay thân hình mềm mại khiến không khỏi nghĩ ngợi vẩn vơ, thần hồn phiêu đãng. Giá như không phải lo đi cứu nghĩa phụ gấp, chàng chỉ muốn đi chậm lại, ở nơi hoang sơn dã lãnh này đi lang thang quanh quẩn một hồi.

Hôm đó hai người phải ở lại vùng núi hoang phía tây thành Hào Châu ngủ qua đêm, sáng hôm sau đến một tiểu thị trấn mua hai con ngựa. Chất độc trong người Triệu Mẫn thật khó mà trừ cho hết, thân thể yếu ớt không đủ sức cưỡi ngựa một mình đành phải hai người cưỡi chung một con, nằm gục vào lòng Vô Kỵ. Cứ như thế đi liên tiếp năm ngày thì đến được địa phận Hà Nam.

Hôm đó hai người đang đi bỗng thấy phía trước bụi bay mù mịt, có khoảng hơn trăm người giục ngựa chạy tới, tiếng giáp sắt chạm vào nhau loảng xoảng chính là kỵ binh Mông Cổ. Trương Vô Kỵ đứng tránh qua một bên nhường đường cho bọn chúng.

Đội binh Mông Cổ qua rồi, vài chục trượng ở phía sau lại có một đội cưỡi ngựa khác, nhưng đám người này không hàng lối, kẻ trước người sau, mỗi người một chỗ. Trương Vô Kỵ vừa thoạt nhìn thấy trong đám người có cả "Thần Tiễn Bát Hùng" ở trong đó kêu thầm: "Hỏng bét!" rồi quay đầu ra chỗ khác.

Hơn hai chục người đó thấy chàng ăn mặc sang trọng, trong tay lại ôm một thiếu nữ thanh xuân, cả hai đều quay mặt đi nên cũng chẳng thèm để ý nên trong đám Thần Tiễn Bát Hùng không ai biết cả. Đợi bọn người đó đi qua, Trương Vô Kỵ mới quay đầu ngựa lại đang định chạy tới, bỗng nghe tiếng vó ngựa rộn ràng, ba kỵ sĩ chạy tới như bay. Người ở giữa cưỡi một con bạch mã, thân mặc cẩm bào, đầu đội kim quan, hai bên đi kèm là hai con ngựa màu vàng thóc, trên yên chính là Huyền Minh nhị lão Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông.

Trương Vô Kỵ vừa toan quay đi thì Lộc Trượng Khách đã trông thấy hai người kêu lên:

- Quận chúa nương nương không việc gì phải sợ, có chúng tôi cứu giá tới đây.

Hạc Bút Ông lập tức hú lên một tiếng dài, bọn Thần Tiễn Bát Hùng nghe thấy tiếng gọi liền quay đầu, vây chặt hai người lại. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên đưa mắt nhìn Triệu Mẫn ở trong lòng dường như muốn hỏi: "Phải chăng cô sắp xếp phục binh định tập kích tôi chăng?". Thế nhưng chàng thấy nàng thần sắc bồn chồn biết ngay là trách nhầm, trong bụng cũng thấy yên tâm. Triệu Mẫn lên tiếng:

- Ca ca, không ngờ lại gặp anh ở đây, gia gia mạnh khỏe chứ?

Trương Vô Kỵ nghe nàng gọi "ca ca" vội nhìn lại thanh niên mặc áo gấm trên lưng con ngựa trắng, nhận ra là anh trai của Triệu Mẫn Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, kẻ có Hán danh là Vương Bảo Bảo. Trương Vô Kỵ đã từng gặp y hai lần ở Đại Đô, nhưng vì đang chăm chú đề phòng Huyền Minh nhị lão nên không để ý đến người khác.

Vương Bảo Bảo vừa thấy đứa em yêu, không khỏi vừa mừng vừa sợ, y lại không nhận ra Trương Vô Kỵ nên nhíu mày nói:

- Muội tử, cô ... cô ...

Triệu Mẫn đáp:

- Ca ca, em bị trúng ám toán của kẻ địch, đang bị trúng độc thật nặng, may sao được vị Trương công tử đây cứu giúp, nếu không chắc hôm nay chẳng còn dịp nhìn lại ca ca nữa đâu.

Lộc Trượng Khách ghé tai Vương Bảo Bảo nói nhỏ:

- Tiểu vương gia, gã này là giáo chủ ma giáo Trương Vô Kỵ.

Vương Bảo Bảo đã từng nghe tiếng Trương Vô Kỵ từ lâu lại tưởng Triệu Mẫn đã bị chàng kiềm chế, uy hiếp bắt nói như vậy nên phất tay một cái, Huyền Minh nhị lão liền nhảy tới chia ra hai bên cách Trương Vô Kỵ chừng năm thước. Bốn người trong Thần Tiễn Bát Hùng cũng lắp tên giương cung nhắm vào lưng chàng.

Vương Bảo Bảo nói:

- Trương giáo chủ, các hạ là chủ của một giáo phái, là một hào kiệt thành danh trong võ lâm vậy mà lại hiếp đáp một cô gái yếu đuối như xá muội, chẳng khỏi để cho người đời chê cười hay sao? Mau mau thả em tôi ra, hôm nay tha cho ngươi khỏi chết.

Triệu Mẫn nói:

- Ca ca, sao anh lại nói thế? Trương công tử quả có ơn với tiểu muội, đừng nói rằng anh ấy "hiếp đáp" em.

Vương Bảo Bảo cho rằng em mình đúng là đang bị kẻ địch dọa dẫm nên đành phải nói thế nên lớn tiếng nói:

- Trương giáo chủ, tuy ngươi võ công cao cường thật nhưng song quyền làm sao địch lại bốn tay, mau mau bỏ em gái tôi xuống, hôm nay hai bên không bên nào phạm bên nào, Vương Bảo Bảo này nói sao là đúng thế đừng có nghi ngại.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Triệu cô nương trúng độc rất nặng, nếu theo mình bôn ba nghìn dặm khó mà thuyên giảm được, nay gặp lại huynh trưởng chi bằng để cô ta đi theo anh nàng để cho danh y trong vương phủ trị liệu có ích cho nàng hơn". Chàng bèn nói:

- Triệu cô nương, lệnh huynh muốn đón cô về, vậy thì mình từ biệt nhau nơi đây, chỉ mong cô cho biết chỗ của nghĩa phụ tôi, tôi sẽ đến tìm cách cứu ông ta ra. Còn hai đứa mình có ngày gặp lại sau.

Nói đến đây chàng không khỏi đau lòng, biết rằng kẻ Hán người Mông, quan dân cách biệt, hai bên thù oán thực sâu, nhưng khi chia tay cũng không khỏi quyến luyến. Ngờ đâu Triệu Mẫn nói:

- Tôi ngay từ đầu vốn không nói cho công tử hay nơi Tạ đại hiệp đang ở cũng là có thâm ý nên chỉ bằng lòng dẫn anh đi kiếm ông ta nhưng không cho anh biết ông ta đang ở đâu.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên nói:

- Cô đang bị thương nặng chưa khỏi, nếu theo tôi đi đường xá xa xôi thật không có lợi chút nào, thôi nên đi theo lệnh huynh về nhà là hơn.

Triệu Mẫn vẻ mặt đầy quả quyết nói:

- Nếu anh bỏ tôi ra thì sẽ không bao giờ biết nơi chốn của Tạ đại hiệp đâu. Tôi càng ngày càng đỡ, đi lại trên đường càng chóng khỏi, quay về vương phủ buồn muốn chết đi được.

Trương Vô Kỵ quay sang nói với Vương Bảo Bảo:

- Tiểu vương gia, nhờ ông khuyên lệnh muội giùm.

Vương Bảo Bảo lấy làm lạ, nhưng hiểu ngay, cười khẩy nói:

- Ha ha, ngươi đừng có vờ vịt, làm trò ma trò quỉ gì thế? Tay ngươi để vào tử huyệt trên người em gái ta nên nó đành phải nghe lời ngươi, nói năng lăng nhăng cho qua chuyện.

Trương Vô Kỵ nhảy vọt lên rơi trở xuống đứng trên mặt đất. Hai người trong Thần Tiễn Bát Hùng lại tưởng chàng ra tay tập kích Vương Bảo Bảo, tách tách hai mũi tên bắn ngay vào chàng, kình phong thật mạnh. Trương Vô Kỵ tay trái vừa đẩy vừa kéo, sử dụng thần công Càn Khôn Đại Na Di hất hai mũi lang nha tiễn quay đầu lại, kình phong càng ghê gớm hơn, lách cách hai tiếng, bắn gãy luôn hai cái cung của hai người vừa bắn ra. Nếu hai người đó không né tránh thật nhanh thì thân cũng bị trọng thương rồi. Hai mũi tên dư thế còn mạnh, cắm thẳng xuống đất, đuôi tên còn rung động không ngừng. Mọi người ai nấy đều kinh hãi.

Trương Vô Kỵ rời xa Triệu Mẫn rồi nói:

- Triệu cô nương, cô về vương phủ dưỡng thương cho khỏi đã rồi mình tìm cách gặp lại sau.

Triệu Mẫn lắc đầu:

- Trong vương phủ đâu có ai y đạo cao minh như công tử? Chàng làm ơn thì làm ơn cho trót, tiễn Phật thì tiễn tới tận Tây thiên.

Vương Bảo Bảo thấy Trương Vô Kỵ đã rời xa em gái mình rồi nhưng Triệu Mẫn vẫn nằng nặc đòi đi theo khiến y không khỏi kinh ngạc, lại thêm bực tức, quay sang Huyền Minh nhị lão nói:

- Phiền hai vị bảo hộ xá muội, thôi mình đi.

Huyền Minh nhị lão đáp lời nói:

- Tuân lệnh.

Liền đi tới bên ngựa của Triệu Mẫn. Triệu Mẫn lớn tiếng nói:

- Lộc Hạc hai vị tiên sinh, tôi có việc cần phải đi theo Trương giáo chủ để làm cho xong, đang hiềm thế cô sức yếu, hai vị đi theo chúng tôi nhé.

Huyền Minh nhị lão quay sang nhìn Vương Bảo Bảo, Lộc Trượng Khách đáp:

- Đại ma đầu của ma giáo hành sự tà bí, quận chúa không nên cùng y lai vãng thêm làm gì, hãy theo tiểu vương gia quay về phủ là hơn.

Đôi lông mày thanh tú của Triệu Mẫn hơi nhướng lên nói:

- Hai vị bây giờ chỉ nghe lời ca ca ta, không nghe lời ta nữa phải không nào?

Lộc Trượng Khách cười nịnh đáp:

- Tiểu vương gia chỉ vì thương yêu quận chúa đấy thôi.

Triệu Mẫn hừ một tiếng, quay sang Vương Bảo Bảo:

- Ca ca, em hành tẩu giang hồ vốn đã được gia gia đồng ý, anh chẳng cần phải lo, tiểu muội tự mình đảm đương được. Khi nào anh gặp gia gia thay mặt em hỏi thăm cha một câu.

Vương Bảo Bảo biết cha mình xưa nay cưng chiều cô em gái hết mực nên cũng chẳng dám bức bách nhiều hơn nhưng nếu để cho nàng ta một thân một mình đi theo giáo chủ ma giáo thì không sao yên tâm, thấy nàng yếu ớt dường như không còn chút hơi sức nào, nằm gục trên yên nhưng đang toan giục ngựa chạy về hướng tây, lập tức giơ hai tay ra cản lại nói:

- Hảo muội tử, gia gia ở phía sau đến ngay bây giờ, em chịu khó chờ một chút, bẩm rõ cho cha xong rồi đi cũng không muộn.

Triệu Mẫn cười nói:

- Gia gia đến đây thì em còn làm sao đi được nữa. Ca ca, tiểu muội không xen vào việc của ông anh thì ông anh cũng đừng xen vào việc của cô em chứ?

Vương Bảo Bảo quay sang nhìn kỹ Trương Vô Kỵ đánh giá một lần nữa, thấy chàng cao to uy vũ, diện mục anh tuấn, nghe giọng điệu của em gái mình, rõ là thương yêu y tha thiết, nghĩ thầm Minh Giáo nổi lên làm loạn, là quân phản nghịch không thể tha thứ được của triều đình, nay em mình lại phải lòng tên ma đầu này thật là họa không phải nhỏ, bèn phất tay một cái quát lớn:

- Bắt lấy tên ma đầu kia trước đã.

Lộc Trượng Khách múa cây gậy sừng hươu, Hạc Bút Ông vung song bút mỏ hạc thành một vòng hoàng quang, hai vòng hắc khí, cùng tấn công vào Trương Vô Kỵ. Triệu Mẫn biết Huyền Minh nhị lão rất là ghê gớm, Trương Vô Kỵ võ công tuy cao cường nhưng lấy một đánh hai, trong tay lại không có binh khí nên e sợ chàng bị thương kêu lên:

- Huyền Minh nhị lão, nếu các ngươi làm Trương giáo chủ bị thương, ta sẽ nói với gia gia, không tha cho đâu.

Vương Bảo Bảo giận dữ nói:

- Loạn thần tặc tử, ai ai cũng có quyền tru diệt. Huyền Minh nhị lão, các ngươi giết được tiểu ma đầu này, phụ vương và ta ắt đều trọng thưởng.

Y ngừng lại một lát, nói tiếp:

- Lộc tiên sinh, tiểu vương gia tặng bốn mỹ nữ, nhất định sẽ khiến ngươi thật vừa lòng.

Hai anh em, người thì bảo giết, người thì bảo không được làm tổn thương, không khỏi khiến cho Huyền Minh nhị lão khó nghĩ. Lộc Trượng Khách quay sang đưa mắt cho sư đệ, nói nhỏ:

- Bắt sống nó.

Trương Vô Kỵ đột nhiên đem công phu thánh hỏa lệnh ra sử dụng, thân trên hơi nghiêng, tay phải vòng qua, chuyển phương vị một cách hết sức kỳ diệu, nghe bạch một cái, tát cho Lộc Trượng Khách một cái thật đau, quát lên:

- Ngươi thử bắt ta xem nào.

Lộc Trượng Khách đột nhiên bị trúng một đòn nặng, vừa giận vừa sợ nhưng y vốn là cao thủ hạng nhất, tâm thần không loạn, múa thanh trượng sừng hươu khiến cho mưa không lọt, gió không vào. Trương Vô Kỵ định đánh lén thêm một lần nữa, nhưng nhất thời chưa biết cách nào.

Triệu Mẫn liền giục cương cho ngựa chạy vọt lên. Vương Bảo Bảo múa roi quất đánh vút một cái, trúng ngay vào mắt con ngựa nàng đang cưỡi. Con vật đau quá, hí lên một tiếng dài, hai chân trước chồm lên. Triệu Mẫn bị thương người yếu đuối, suýt nữa thì bị hất từ trên yên rơi xuống đất, tức giận nói:

- Ca ca, anh nhất định ngăn tiểu muội phải không?

Vương Bảo Bảo đáp:

- Hảo muội tử nghe anh đi rồi về nhà ông anh này sẽ tạ tội cùng cô em.

Triệu Mẫn đáp:

- Ca ca, nếu như anh nhất định ngăn trở em thì hẳn sẽ có một mạng người chết ngay tại đây. Trương giáo chủ từ nay hận em thấu xương, đứa em anh ... đứa em anh cũng không còn sống nổi nữa.

Vương Bảo Bảo nói:

- Muội tử nói thế là sao? Trong phủ Nhữ Dương Vương cao thủ nhiều vô số kể sẽ bảo vệ em được chu toàn. Tên tiểu ma đầu này đừng nói đến chuyện ra tay làm hại em, dẫu có muốn gặp em một lần cũng chưa chắc đã được.

Triệu Mẫn thở dài:

- Chính vì em sợ không còn gặp lại được y, chính thế mà ... mà em không muốn sống nữa.

Hai anh em xưa nay rất mực thương yêu nhau, chẳng chuyện gì không bàn thảo, Triệu Mẫn trong cơn gấp gáp nên không còn dấu diếm chút nào, nói hết mối tâm tình yêu thương Trương Vô Kỵ cho anh nghe.

Vương Bảo Bảo giận dữ nói:

- Muội tử quả thật hồ đồ, ngươi là vương tộc Mông Cổ, đường đường cành vàng lá ngọc, làm sao lại sánh đôi với giống cẩu man tử kia được? Nếu để gia gia biết đến, cha không khỏi giận đến chết người hay sao?

Y tay trái vẫy một cái, lại có thêm ba tên hảo thủ tiến lên giáp công. Trương Vô Kỵ và Huyền Minh nhị lão lúc này đang vận thần công, nội kình tỏa ra chung quanh mấy trượng thế sắc như dao, ba tên hảo thủ kia nào có cách gì xông vào? Triệu Mẫn kêu lên:

- Trương công tử, nếu chàng muốn cứu nghĩa phụ thì phải cứu em trước.

Vương Bảo Bảo thấy em gái ý không thể lay chuyển, nóng ruột bèn thò tay ra ôm lấy nàng, để lên trên yên ngựa, hai chân kẹp một cái, toan giục ngựa chạy đi. Võ công Triệu Mẫn vốn cao siêu hơn huynh trưởng, nhưng sau khi bị thương rồi khí lực mất hết nên chỉ há miệng kêu lên:

- Trương công tử cứu em, Trương công tử cứu em!

Trương Vô Kỵ vù vù đánh ra hai chưởng, sử dụng hết mười thành công lực, ép cho Huyền Minh nhị lão phải thoái lui ba bước rồi thi triển khinh công, đuổi theo ngựa của Vương Bảo Bảo. Huyền Minh nhị lão và ba tên hảo thủ kia kinh hãi, lập tức đuổi theo. Trương Vô Kỵ đợi năm người kia đến gần liền đánh ngược về sau mấy chưởng, uy lực Cửu Dương thần công thật kinh người, mỗi chưởng đánh ra, Huyền Minh nhị lão đều phải né tránh, không dám đối địch. Cứ như thế ngăn chặn ba lần, Trương Vô Kỵ đã đuổi kịp con ngựa, tung mình nhảy lên, chộp lấy gáy Vương Bảo Bảo. Trảo đó bên trong có ngầm vận điểm huyệt thủ pháp, thân trên Vương Bảo Bảo liền tê đi, hai tay phải buông Triệu Mẫn ra, thân hình cũng bị Trương Vô Kỵ nhấc bổng, ném luôn vào Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách vội vàng giơ hai tay ra đón lấy, Trương Vô Kỵ đã ôm được Triệu Mẫn nhảy ra khỏi lưng ngựa chạy về hướng triền núi phía bên trái.

Hạc Bút Ông và những tên hảo thủ còn lại cùng lớn tiếng kêu la đuổi theo phía sau. Thế nhưng ngọn núi này cao đến mấy trăm trượng, đuổi chạy trên núi là một cách thi tài khinh công, Huyền Minh nhị lão nội lực tuy cao cường, khinh công lại không phải hạng nhất, thành ra bốn năm người kia lại còn chạy trước Hạc Bút Ông. Trương Vô Kỵ nhặt dăm hòn đá liên châu ném xuống, lập tức có người trúng phải, gãy xương lăn lịch bịch xuống sườn núi. Những người khác ai nấy sợ hãi, tuy nhiên vì có tiểu vương gia giám thị nên không dám dừng chân nhưng cũng đã chậm lại.

Trước mắt thấy Trương Vô Kỵ ôm Triệu Mẫn chạy càng lúc càng cao, không còn cách gì đuổi kịp. Vương Bảo Bảo ngoạc mồm chửi bới, liên tiếp kêu lên:

- Bắn tên, bắn tên!

Chính y cũng giương cung lắp tên, vút một mũi nhắm ngay lưng Trương Vô Kỵ bắn tới. Cung lực của y thật mạnh nhưng vì khoảng cách quá xa, mũi tên còn cách Trương Vô Kỵ cả trượng thì đã cắm xuống đất.

Triệu Mẫn ôm lấy cổ Trương Vô Kỵ, biết bọn kia không sao đuổi kịp cũng thấy yên lòng, thở dài nói:

- Cũng may thiếp có tiên kiến, không nói cho chàng biết nơi chốn của Tạ đại hiệp, bằng không tên tiểu ma đầu vô lương tâm này đời nào hết sức cứu em.

Trương Vô Kỵ đi vòng qua một khúc quanh nhưng chân không chậm lại chút nào nói:

- Cô nghe lời ca ca về phủ dưỡng thương có phải hai bên đều xong việc hay sao? Cớ gì phải đắc tội với huynh trưởng, lại phải đi theo tôi cho khổ sở làm gì?

Triệu Mẫn nói:

- Em đã quyết ý đi theo chàng để chịu khổ, còn anh trai em thì sớm muộn gì rồi cũng phải đắc tội với anh ấy thôi. Em chỉ sợ chàng không cho em đi theo, còn chuyện gì em cũng không màng đến.

Trương Vô Kỵ tuy biết nàng đối với mình rất yêu thương nhưng cũng có lúc nghĩ đến chẳng qua chỉ là tình yêu con gái mới lớn, nhất thời ý động, đâu ngờ nàng bỏ hết vinh hoa phú quí coi như đất bùn, một mối thâm tình như vậy khiến chàng phải cúi đầu nhìn xuống. Chỉ thấy trên khuôn mặt tiều tụy xanh xao tình ý triền miên, ánh mắt long lanh, thật không gì kiều mị hơn, Trương Vô Kỵ nhịn không nổi phải hôn lên đôi môi đang mấp máy của nàng một cái.

Chàng hôn xong, đôi má Triệu Mẫn đỏ lên, trong cơn khích động lại ngất đi. Trương Vô Kỵ hiểu rõ y lý, biết rằng không đến nỗi nào, trong bụng càng thêm cảm kích, đột nhiên nghĩ ra: "Chỉ Nhược đối với ta làm sao tốt được như thế này".

Triệu Mẫn ngất đi một hồi liền tỉnh lại thấy Trương Vô Kỵ đang suy nghĩ bèn hỏi:

- Chàng nghĩ gì thế? Chắc là nghĩ đến Chu cô nương phải không?

Trương Vô Kỵ không dấu diếm, gật đầu nói:

- Tôi nghĩ đến quả thật tôi có thật nhiều điều không phải với cô ta.

Triệu Mẫn nói:

- Vậy chàng có hối hận không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Khi trước tôi muốn bái đường thành thân với cô ta, nghĩ đến em thì thật đau lòng; lúc này nghĩ đến cô ta thì lại thấy nàng thật tội nghiệp.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Như thế có nghĩa là chàng yêu em nhiều hơn phải không nào?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nói thực với em, tôi với em thì vừa yêu vừa hận, còn với Chỉ Nhược thì vừa kính vừa sợ.

Triệu Mẫn cười nói:

- Ha ha, em chỉ muốn chàng đối với em vừa yêu vừa sợ, còn đối với cô ta thì vừa kính vừa hận thôi.

Trương Vô Kỵ cười đáp:

- Hiện nay thì chưa phải thế, tôi đối với em thì vừa hận vừa sợ, hận vì em phá đám làm hỏng cái nhân duyên tốt đẹp của tôi, sợ vì ngại em không chịu đền bù cho tôi.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Bắt đền cái gì?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Hôm nay em phải đem thân trả nợ, đền cho tôi đêm động phòng hoa chúc.

Triệu Mẫn mặt đỏ bừng, vội nói:

- Không, không được đâu. Phải để nói lại với cha em ... để em nói rõ sự tình cho anh em, rồi hãy ... rồi hãy ...

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế như cha em nhất định không chịu thì sao?

Triệu Mẫn thở dài:

- Lúc đó thì đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma ... thì đành theo tên tiểu ma đầu để thành một tiểu ma bà chứ biết sao bây giờ?

Trương Vô Kỵ làm nghiêm quát lớn:

- Yêu nữ thật lớn mật, dám theo tên Trương Vô Kỵ tạo phản tác loạn, cái đó tội gì?

Triệu Mẫn cũng nghiêm nghị nói:

- Phạt hai người khi còn ở trên thế gian này thì làm vợ làm chồng cho sung sướng đến lúc bạc đầu, lúc chết đi rơi vào mười tám tầng địa ngục, vạn kiếp không được siêu sinh.

Hai người nói đến đây cùng phá lên cười ha hả.

Đột nhiên từ phía trước có tiếng người dõng dạc nói:

- Quận chúa nương nương, tiểu tăng cung kính đứng chờ nơi đây đã lâu.

Chỉ thấy từ sau núi bước ra hơn hai chục phiên tăng, ai nấy đều mặc áo bào màu đỏ. Trương Vô Kỵ nhìn quần áo nhận ra những phiên tăng này chính là bọn đã ngăn chặn chàng hôm trước ở dưới chân tháp nơi chùa Vạn An, võ công rất cao cường, may nhờ có Vi Nhất Tiếu đi đến phủ Nhữ Dương Vương phóng hỏa nên mới dụ được họ ra nếu không việc cứu quần hào sáu đại môn phái thực không phải dễ.

Phiên tăng đi đầu chắp hai tay hành lễ, khom lưng nói:

- Tiểu tăng phụng lệnh vương gia đến nghênh tiếp quận chúa về phủ.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Các ngươi ở đây làm gì?

Gã phiên tăng đáp:

- Quận chúa đang bị thương vương gia hết sức lo lắng nên sai tiểu tăng đến nghênh tiếp phương giá của quận chúa.

Nói xong y giơ con chim bồ câu trắng đang cầm trong tay. Triệu Mẫn biết rằng huynh trưởng đã dùng chim truyền tin, thông tri cho phụ thân nên sai bọn phiên tăng này chặn đường liền hỏi:

- Cha ta đang ở đâu?

Gã phiên tăng đáp:

- Vương gia đang ở dưới chân núi đón chờ để xem quận chúa bị thương nặng nhẹ ra sao.

Trương Vô Kỵ biết nói thêm cũng chỉ vô ích, lập tức hùng dũng tiến tới quát lên:

- Muốn sống thì mau mau tránh đường, nếu không đừng trách ta ra tay không nể nang.

Hai tên phiên tăng song song tiến lên, mỗi người đều giơ chưởng phải lên ngực đẩy ra. Trương Vô Kỵ tay trái đánh ra, vừa kéo vừa đẩy, đưa chưởng lực của hai gã phiên tăng quay ngược trở lại. Hai gã đó cùng kêu lên:

- A mễ a mễ hống, a mễ a mễ hống!

Nghe như niệm chú, lại giống như chửi mắng. Triệu Mẫn cũng không chịu kém kêu lên:

- Ngươi mới là a mễ a mễ hống.

Hai tên phiên tăng lịch kịch lùi luôn ba bước, hai tên khác ở đằng sau liền tung chưởng phải, đỡ vào lưng hai gã kia, đẩy họ ngược trở lại. Hai tên phiên tăng vẫn không đổi chiêu, tiếp tục dùng "Bài Sơn Chưởng" đánh ra. Trương Vô Kỵ không muốn dùng ngạnh công chống với họ để phải hao phí chân lực nên dùng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp hóa giải kình lực của nhị tăng, ngờ đâu ngón tay chàng vừa chạm vào thì như sắt gặp phải nam châm, liền dính chặt vào tay của họ. Hai tên phiên tăng lại kêu:

- A mễ a mễ hống, a mễ a mễ hống!

Trương Vô Kỵ giựt tay ra hai lần nhưng không thoát, đành vận Cửu Dương thần công lên phản kích lại. Thế nhưng lần này chàng không đẩy được hai gã phiên tăng ra mà hai mươi hai tên phiên tăng khác đằng sau xếp thành hai nhóm, mỗi người đều giơ chưởng phải, để vào lưng người đằng trước, hai mươi bốn phiên tăng làm thành hai hàng. Trương Vô Kỵ đột nhiên nghĩ ra: "Từng nghe thái sư phụ nói rằng, ở Thiên Trúc có môn võ gọi là phép Tính Thể Liên Công. Hai mươi bốn gã phiên tăng này hợp lực đối chưởng với ta, ta nội lực có mạnh nhưng cũng không thể nào chống lại được hai mươi bốn người hợp lại".

Chàng lại sợ có truy binh đuổi theo, hú lên một tiếng, tay thêm ba thành kình lực, đột nhiên chuyển lệch sang một bên, thân hình né qua bên trái khiến cho lực đạo của hai mươi bốn phiên tăng không còn làm thành một sợi thẳng, sáu tên đứng đầu không kịp giữ lại liền nhào tới trước. Trương Vô Kỵ hai tay liên tiếp đánh ra, chát chát chát chát chát chát sáu cái liền, cả sáu tên đều ngã xuống đất, mồm hộc máu tươi. Thế nhưng hai tên phiên tăng thứ bảy thứ tám liền xông lên múa chưởng đánh ngay.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Bộ chúng bay muốn chết hay sao?". Hữu chưởng của chàng liền đánh ra, đỡ luôn cả hai chưởng của nhị tăng, hơi dồn sức một chút, đang định vận kình chuyển lệch sang một bên, bỗng nghe đằng sau có tiếng chân người nhè nhẹ bước tới, một người đã múa chưởng đánh rồi. Tay trái của chàng liền đánh ngược về sau, đang định hóa giải chưởng lực của địch, thế nhưng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp toàn nhờ có Cửu Dương thần công làm gốc, lúc này bao nhiêu hơi sức đều dồn về trước chống đỡ mười tám tên phiên tăng hợp lực nên chưởng đánh về sau chỉ chừng hai thành lúc bình thường. Chỉ thấy một luồng khí âm hàn truyền theo tay chạy thẳng lên, lập tức toàn thân run rẩy, người lảo đảo, ngã lăn ra. Thì ra chính là Lộc Trượng Khách dùng Huyền Minh thần chưởng đánh lén.

Triệu Mẫn kinh hoảng kêu lên:

- Lộc tiên sinh, ngừng tay!

Nàng xông lên lấy thân mình che cho Trương Vô Kỵ, quát lớn:

- Còn ai dám động thủ nữa chăng?

Lộc Trượng Khách đang định đánh thêm một chưởng để kết thúc tính mạng kẻ kình địch bậc nhất trong đời, nhưng thấy quận chúa đỡ đòn như thế, đành phải lui ra. Y hú lên một tiếng dài, ý muốn cho người khác biết rằng y đã thắng thế để gọi đồng bọn tới rồi nói:

- Quận chúa nương nương, vương gia chỉ mong quận chúa về phủ chứ không có ý gì khác. Gã này là quân phản nghịch cực kỳ ghê gớm, sao quận chúa lại phải khổ như vậy?

Triệu Mẫn lòng đau như cắt, đang định mắng chửi một phen nhưng suy nghĩ lại, không nên làm cho y tức giận khiến y có thể giết Trương Vô Kỵ nên đành cố nhịn đưa tay đỡ ý trung nhân lên. Chẳng mấy chốc tiếng nhạc đã tới gần, ba người cưỡi ngựa từ trong sơn đạo chạy tới, một người là Hạc Bút Ông, một người là Vương Bảo Bảo còn người sau cùng chính là Nhữ Dương Vương đích thân tới xem xét. Ba người nhảy xuống ngựa, Nhữ Dương Vương nhíu mày nói:

- Mẫn Mẫn, con sao thế? Cớ gì không nghe lời anh con, ở nơi đây quấy rối là thế nào?

Triệu Mẫn rưng rưng nước mắt kêu lên:

- Cha, sao cha để người ta hiếp đáp con như thế?

Nhữ Dương Vương tiến lên mấy bước giơ tay ra toan cầm tay nàng. Triệu Mẫn lật tay một cái, loáng một cái đã rút trong người ra một thanh chủy thủ, để vào ngực kêu lên:

- Gia gia, nếu cha không đáp lời con thì hôm nay con đành chết trước mặt cha.

Nhữ Dương Vương kinh hoảng lật đật lùi lại hai bước, run run hỏi:

- Có gì cứ nói chứ đừng làm thế! Con ... con muốn gì?

Triệu Mẫn giở áo kéo băng vải ở trên vai chỉ cho cha xem năm lỗ ngón tay, lúc này chất độc đã hết nhưng vết thương chưa lành, máu me đầm đìa thật là ghê rợn. Nhữ Dương Vương thấy nàng bị thương nặng như thế, xót xa thương con luôn mồm kêu:

- Sao thế? Sao thế? Sao con bị thương vậy?

Triệu Mẫn chỉ vào Lộc Trượng Khách nói:

- Gã đó có bụng bất lương, định gian dâm nữ nhi, con thà chết không chịu, y ... y ... liền chộp vào con đến như thế đó. Xin cha ... xin cha phân xử cho.

Lộc Trượng Khách sợ đến mất cả hồn vía, vội nói:

- Tiểu nhân có gan bằng trời cũng không dám thế, làm ... làm gì có chuyện đó được?

Nhữ Dương Vương trừng mắt nhìn y, hừ một tiếng nói:

- Mi lớn mật nhỉ? Việc Hàn Cơ ta đã rộng lòng không tra cứu, bây giờ lại dám mạo phạm đến cả con ta. Bắt lấy nó!

Lúc này những võ sĩ hộ vệ cho ông ta đã đến đông đủ, nghe vương gia ra lệnh bắt người, tuy biết Lộc Trượng Khách võ công ghê gớm nhưng cũng có bốn tên xông lên. Lộc Trượng Khách vừa hoảng vừa tức, nghĩ thầm người ta cha con cốt nhục tình thâm, quận chúa giận mình đả thương tình lang của cô ta, nên vu vạ cho y. Người ta vẫn thường bảo "người ngoài không thể ly gián được người thân", quận chúa lại ngụy kế đa đoan, làm sao mình cãi cho được? Y liền tung ra một chưởng đẩy lùi bốn tên võ sĩ, thở dài:

- Sư đệ! Thôi mình đi!

Hạc Bút Ông còn đang chần chừ, Triệu Mẫn kêu lên:

- Hạc tiên sinh, ngươi là người tốt, không hiếu sắc như sư huynh, mau bắt sư huynh ngươi lại, cha ta sẽ thăng ngươi lên làm quan lớn, trọng thưởng thật hậu.

Huyền Minh nhị lão võ công trác tuyệt, chỉ vì tham luyến lợi lộc công danh, đem cái thân cao thủ hạng nhất của mình vào trong vương phủ để người ta sai khiến. Hạc Bút Ông vốn biết sư huynh tham dâm hiếu sắc, nghe Triệu Mẫn nói cũng tin được bảy tám phần, việc thăng thưởng cũng khiến y phải động tâm. Có điều y và Lộc Trượng Khách anh em đồng môn thân thiết, không nỡ ra tay nên nhất thời do dự không quyết định được.

Lộc Trượng Khách mặt buồn rười rượi, thảng thốt nói:

- Sư đệ, nếu ngươi muốn thăng quan phát tài thì cứ đến bắt ta đi.

Hạc Bút Ông thở dài:

- Sư ca, thôi mình đi vậy.

Y liền cùng Lộc Trượng Khách hai người sánh vai ra đi. Huyền Minh nhị lão uy chấn kinh sư, các võ sĩ trong Nhữ Dương Vương phủ kính trọng họ chẳng khác người nhà trời, có ai dám đứng ra ngăn chặn? Nhữ Dương Vương liên tiếp quát tháo nhưng các võ sĩ chỉ hư trương thanh thế, giả vờ hùng hổ đứng trông Huyền Minh nhị lão lững thững đi xuống núi. Nhữ Dương Vương nói:

- Mẫn Mẫn, con đã bị thương, mau theo ta về nhà điều trị.

Triệu Mẫn chỉ vào Trương Vô Kỵ nói:

- Vị công tử này thấy Lộc Trượng Khách hiếp đáp con, nổi dạ bất bình, ra tay tương trợ, ca ca không rõ nguồn cơn, lại bảo y là phản tặc. Gia gia, con có một việc quan trọng phải đi theo Trương công tử để làm, bao giờ xong sẽ cùng y quay về khấu đầu bái kiến gia gia.

Nhữ Dương Vương nghe giọng điệu nàng nói, dường như muốn sánh duyên với gã này, nghe con trai nói thì y là giáo chủ Minh Giáo. Kỳ này ông ta rời kinh đô xuống phương nam cũng chỉ để điều binh khiển tướng đối phó với đám phản tặc Minh Giáo ở một giải Hoài Tứ, Dự Ngạc, lẽ nào lại để con gái cùng đi với người này? Ông liền hỏi:

- Anh con nói rằng, người này là giáo chủ của ma giáo, không lẽ lại sai sao?

Triệu Mẫn đáp:

- Anh con chỉ thích nói đùa. Gia gia, cha xem anh ta được bao nhiêu tuổi mà có thể làm thủ não của bọn phản loạn?

Nhữ Dương Vương đánh giá Trương Vô Kỵ, thấy chàng chỉ độ hăm mốt hăm hai, bị thương rồi diện mạo tiều tụy, đâu còn gì là anh tuấn siêu quần, không giống một người thống lãnh mấy chục vạn quân. Thế nhưng ông biết con gái mình giảo hoạt, túc trí đa mưu, lại thêm Minh Giáo là họa của quốc gia, nếu như y không phải là giáo chủ, thì chắc cũng là một nhân vật quan trọng trong ma giáo, không thể nào thả y cho được, liền nói:

- Cứ đem y vào thành đã rồi sẽ tra xét sau. Nếu như không phải người trong ma giáo, ta sẽ thăng thưởng cho y.

Ông nói như thế cũng là nể mặt con gái lắm rồi cốt để nàng không thể làm reo làm nũng trước mặt đông người. Bốn tên võ sĩ tuân lệnh liền đi tới gần, Triệu Mẫn khóc nói:

- Gia gia, cha định bức tử con hay sao?

Con dao găm trong tay đâm luôn vào ngực nửa tấc, máu liền thấm đỏ cả một mảng áo. Nhữ Dương Vương kinh hoảng nói:

- Mẫn Mẫn, con không được làm càn.

Triệu Mẫn lại khóc nói tiếp:

- Cha ơi, đứa con gái bất hiếu đã lén cùng Trương công tử thành vợ thành chồng. Cha cứ coi như không có đứa con này, tha cho nữ nhi đi. Nếu không con xin chết ngay trước mặt cha cho xong.

Nhữ Dương Vương tay trái không ngớt vò hàm râu, trên trán mồ hôi nhỏ giọt. Ông điều binh khiển tướng, giao phong phá địch chỉ một lời là quyết định, hôm nay gặp phải đứa con gái làm chuyện xấu xa nhưng đành thúc thủ không tìm ra cách nào giải quyết.

Vương Bảo Bảo nói:

- Muội tử, em và Trương công tử cả hai đều bị thương, cứ tạm theo gia gia về phủ, gọi danh y điều trị, sau đó cha sẽ chủ trì hôn phối cho. Cha được một người con rể tài ba, ta cũng có một đứa em rể anh hùng, thật còn gì tốt bằng?

Y nói ra thật dễ nghe, nhưng Triệu Mẫn biết rằng đó chỉ là kế hoãn binh, Trương Vô Kỵ rơi vào tay y rồi còn làm sao mà sống nổi, chỉ trong khoảnh khắc sẽ đem xử tử ngay. Nàng bèn nói:

- Gia gia, việc đã đến nước này, thuyền theo lái, gái theo chồng, dù sống dù chết, con cũng chỉ theo Trương công tử. Cha và anh con có mưu kế gì con cũng biết hết, nói ra cũng uổng phí tâm cơ thôi. Trước mắt chỉ còn hai đường, nếu cha tha mạng cho con thì con được nhờ, còn như cha muốn con chết thì thật dễ, chẳng phải tốn chút hơi sức nào.

Nhữ Dương Vương giận dữ nói:

- Mẫn Mẫn, ngươi suy nghĩ cho kỹ đi. Nếu ngươi theo tên phản tặc này thì từ nay không còn là con ta nữa.

Triệu Mẫn lòng quặn lại, thực không thể nào bỏ anh bỏ cha, nghĩ đến bình thời hai người nuông chiều thương yêu mình biết chừng nào, lòng thật tưởng như dao cắt, thế nhưng nếu mình chỉ chần chừ thì cái mạng Trương Vô Kỵ sẽ không còn, trước mắt đành cứu tình lang trước, sau này xin cha xin anh tha thứ cho mình sau nên nói:

- Gia gia, ca ca, tất cả cũng chỉ vì Mẫn Mẫn chẳng ra gì, cha ... cha tha tội cho con.

Nhữ Dương Vương thấy con gái không đổi ý, hối hận bình nhật nuông chiều quá đỗi, để cho nàng hành tẩu giang hồ nên mới xảy ra cớ sự. Ông cũng biết nàng tính tình bướng bỉnh nếu như uy hiếp, nàng sẽ đâm vào ngực mà chết, chỉ còn nước thở dài, nước mắt lã chã rơi xuống, nghẹn ngào nói:

- Mẫn Mẫn, con cố gắng bảo trọng. Cha đi đây ... con ... con nên giữ gìn.

Triệu Mẫn gật đầu, không dám nhìn cha thêm một lần nữa. Nhữ Dương Vương quay đầu chầm chậm đi xuống núi, tả hữu dắt ngựa tới, ông làm như không nghe không thấy, không lên ngựa, đi đến hơn chục trượng rồi đột nhiên quay lại nói:

- Mẫn Mẫn, vết thương của con không sao chứ? Trên người có mang tiền không?

Triệu Mẫn nuốt lệ gật đầu. Nhữ Dương Vương nói với người chung quanh:

- Đem hai con ngựa của ta cho quận chúa.

Vệ sĩ đáp ứng, dắt ngựa lại bên cạnh Triệu Mẫn rồi theo Nhữ Dương Vương hạ sơn. Sáu tên phiên tăng nằm lăn quay dưới đất, không sao đứng lên được, những phiên tăng còn lại cứ hai người đỡ một người, dìu nhau đi sau.

Một lúc sau mọi người đã đi hết cả, chỉ còn lại Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn mà thôi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #hiep#kiem