Ỷ Thiên Đồ Long Ký 181-200
Tam Phong chữa trị, đem mấy chục năm nội lực tu tập đổ vào thân thể chàng, nên sau này đã có thể nói năng. Thế nhưng sự việc xảy ra làm sao, chàng không hề đề cập, mãi đến hôm nay mới thốt ra vài câu bi phẫn. Các sư huynh đệ nghe những lời đó, không khỏi bồi hồi chua xót, Ân Lê Đình nhịn không được òa lên khóc.
Ân Tố Tố nói:
- Tam ca, thực ra trong lòng anh cũng đã biết rồi, có điều vì nghĩ đến tình nghĩa với Thúy Sơn, nên cố ẩn nhẫn không nói ra thôi. Đúng vậy, hôm đó trên mặt sông Tiền Đường, người ẩn trong khoang thuyền dùng Văn Tu Châm đả thương tam ca, chính là tiểu muội
Trương Thúy Sơn quát lên:
- Tố Tố, có thực là em không? Em em em sao không nói sớm?
Ân Tố Tố nói:
- Tội khôi họa thủ đả thương tam sư ca, chính là vợ chàng đó, làm sao thiếp dám nói cho chàng nghe?
Nàng quay lại nói với Du Đại Nham:
- Tam ca, về sau người dùng Thất Tinh Đinh làm anh bị thương ở gan bàn tay, đánh lừa để đoạt thanh đao Đồ Long chính là anh ruột em Ân Dã Vương. Thiên Ưng giáo vốn không thù oán gì với phái Võ Đương, được đao Đồ Long rồi, kính trọng tam ca là một hảo hán tử, nên mới bảo Long Môn tiêu cục đưa anh lên núi. Còn việc đường đi có thêm sóng gió, điều đó bên em cũng không dự liệu trước được.
Trương Thúy Sơn toàn thân run rẩy, mắt như muốn tóe lửa, chỉ tay vào Ân Tố Tố nói:
- Em em sao lại lừa dối anh đến như thế?
Du Đại Nham đột nhiên thét lên một tiếng, thân mình từ giường bắn vọt lên, nghe bình một tiếng, rơi phịch xuống, bốn miếng ván giường gãy ra làm đôi, còn chàng cũng ngất lịm đi.
Ân Tố Tố rút thanh trường kiếm đang đeo, xoay ngược chuôi kiếm đưa cho Trương Thúy Sơn, nói:
- Ngũ ca, chàng với thiếp mười năm vợ chồng, được chàng yêu thương, tình sâu nghĩa nặng, hôm nay có chết trong lòng cũng không oán giận gì. Chàng hãy một kiếm giết thiếp đi để cho vẹn toàn tình nghĩa Võ Đương thất hiệp.
Trương Thúy Sơn cầm lấy thanh kiếm, định một kiếm đâm thẳng vào ngực vợ. Thế nhưng chỉ trong chớp mắt, mười năm vợ chồng, nàng thật ôn nhu, tình ý ngọt ngào đầu gối tay ấp, bao nhiêu nguồn ân bể ái hiện ra trong tim, nhát kiếm đó làm sao có thể phóng ra được?
Chàng bàng hoàng ngơ ngẩn, đột nhiên rống lên, chạy vọt ra khỏi phòng. Ân Tố Tố, Tống Viễn Kiều cả bọn sáu người không hiểu chàng muốn gì, cùng chạy theo. Chỉ thấy Trương Thúy Sơn chạy ra đại sảnh, quì hướng về Trương Tam Phong nói:
- Ân sư, đệ tử đã làm một chuyện lầm lỡ lớn lao, không cách gì cứu vãn được, chỉ xin sư phụ một điều.
Trương Tam Phong không hiểu nguyên do, hiền từ đáp:
- Con có điều gì cứ nói ra, thầy không thể không đáp ứng.
Trương Thúy Sơn rập đầu ba lần, nói:
- Đa tạ ân sư. Đệ tử có một độc sinh ái tử, bị rơi vào tay kẻ gian, thỉnh cầu ân sư cứu nó thoát khỏi bọn tà ma, nuôi dưỡng nó khôn lớn thành người.
Chàng đứng lên tiến tới mấy bước, hướng về phía Không Văn đại sư, Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung, Không Động phái Quan Năng, Nga Mi phái Tĩnh Huyền mọi người lớn tiếng nói:
- Tất cả mọi tội nghiệt đều do Trương Thúy Sơn này làm cả. Đại trượng phu một mình mình làm, một mình mình chịu, hôm nay sẽ để cho các vị được thỏa dạ.
Nói vừa dứt câu chàng liền đưa thanh kiếm lên cổ mình cắt ngang một nhát, máu tươi vọt ra, ngã phịch xuống. Trương Thúy Sơn nhất định tìm cái chết, biết rằng một khi mình hoành kiếm tự vẫn, sư phụ và anh em đồng môn thể nào cũng ra tay cản trở, nên quay mặt qua phía tân khách, vừa nói xong là hai câu là ra tay ngay.
Trương Tam Phong, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình bốn người cùng kêu lên kinh hoảng xông tới. Chỉ nghe bình bình bình mấy tiếng liên tiếp, sáu bảy người văng ra ngoài. Thì ra đó là những người khách đứng gần Trương Thúy Sơn, bị sư đồ Trương Tam Phong dùng chưởng đẩy ra nhưng vẫn chậm một bước. Trương Thúy Sơn dùng kiếm cắt đứt cổ họng làm sao có thể cứu được. Tống Viễn Kiều, Mạc Thanh Cốc và Ân Tố Tố ba người ra chậm hơn, còn cách một quãng xa.
Ngay lúc đó, bên ngoài cửa sổ đại sảnh có tiếng trẻ con kêu lên:
- Cha ơi, cha ơi!
Tiếng kêu thứ hai nghe ú ớ, hiển nhiên bị người ta bịt miệng. Trương Tam Phong thân hình lắc nhẹ, đã vọt ra ngoài trường song, thấy một người đàn ông mặc quân trang Mông Cổ tay bồng một đứa trẻ chừng tám chín tuổi. Đứa trẻ mồm bị bịt chặt, đang dãy dụa.
Trương Tam Phong thương đồ đệ chết thảm, lòng như dao cắt, nhưng ông đã tu luyện gần một trăm năm, tâm thần không loạn, hạ giọng quát:
- Đi vào.
Người kia chân trái điểm một cái, ôm đứa trẻ toan nhảy lên mái nhà, bỗng thấy đầu vai chịt lại, thân hình nặng nề dị thường, hai chân không cách nào có thể rời mặt đất. Thì ra Trương Tam Phong đã lướt tới sau lưng y, tay trái nhẹ nhàng để lên đầu vai. Người nọ giật
mình kinh hãi, biết rằng Trương Tam Phong chỉ cần nhả nội kình, y không chết cũng bị trọng thương, đành phải nghe lời đi vào đại sảnh.
Đứa trẻ đó chính là Vô Kỵ, con của Trương Thúy Sơn. Thằng bé bị bịt mồm bên ngoài cửa sổ thấy cha giơ kiếm cứa cổ, kinh hoảng cố vùng vẫy nên kêu lên được một tiếng.
Ân Tố Tố thấy trượng phu vì mình mà tự sát, đột nhiên lại thấy đứa con lành lặn trở về, sau cái cực buồn lại có cái cực vui, hỏi:
- Hài nhi, con không nói chỗ ở của nghĩa phụ con đấy chứ?
Vô Kỵ hiên ngang đáp:
- Dù y có đánh chết con, con cũng không nói.
Ân Tố Tố nói:
- Con của mẹ giỏi lắm, để mẹ bế con nào.
Trương Tam Phong nói:
- Đưa thằng bé cho mẹ nó.
Người kia toàn thân bị chế ngự, đành phải đưa Vô Kỵ cho Ân Tố Tố. Vô Kỵ nằm trong lòng mẹ, khóc nói:
- Mẹ ơi, sao người ta lại bức tử cha con? Ai bức tử cha con đó?
Ân Tố Tố nói:
- Nhiều người lắm, tất cả những người lên núi hôm nay đều ép cha con phải chết.
Vô Kỵ trừng mắt chầm chậm nhìn từ trái sang phải một vòng. Y tuy tuổi còn nhỏ, nhưng ai ai chạm phải mắt nó trong lòng không khỏi chấn động. Ân Tố Tố nói:
- Vô Kỵ, con nghe mẹ nói một câu này.
Vô Kỵ nói:
- Mẹ nói đi.
Ân Tố Tố nói:
- Con không phải nóng lòng báo thù gấp, cứ từ từ mà đợi, nhưng không bỏ qua một người nào.
Mọi người nghe câu nói lạnh như băng ấy, không khỏi có một làn hàn khí chạy sau lưng. Vô Kỵ kêu lên:
- Mẹ ơi, con không muốn báo thù, con chỉ muốn cha con sống lại thôi.
Ân Tố Tố buồn bã nói:
- Người chết rồi không thể nào sống lại được.
Thân hình nàng hơi run run, nói:
- Con ơi, cha con chết rồi, thôi mình đem chỗ ở của nghĩa phụ nói cho mọi người nghe đi.
Vô Kỵ vội kêu lên:
- Đừng, đừng nói.
Ân Tố Tố nói:
- - Không Văn đại sư, tôi chỉ nói cho một mình đại sư nghe thôi. Xin ông ghé tai lại đây.
Câu đó quả thực ngoài liệu định của mọi người, ai nấy ngạc nhiên. Không Văn nói:
- Thiện tai, thiện tai. Nữ thí chủ nếu nói sớm một chút, Trương ngũ hiệp đã không táng mệnh.
Ông đi đến gần Ân Tố Tố, ghé tai nghe. Ân Tố Tố miệng mấp máy một hồi, nhưng không phát ra một âm thanh nào. Không Văn hỏi:
- Cái gì?
Ân Tố Tố đáp:
- Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đang ở tại
Sau hai chử ở tại, thanh âm thật mơ hồ, không nghe rõ. Không Văn hỏi lại:
- Cái gì?
Ân Tố Tố nói:
- Thì ở chỗ đó, phái Thiếu Lâm các ông đến đó mà kiếm thì gặp.
Không Văn sốt ruột, nói:
- Bần tăng không nghe thấy gì cả.
Nói xong ông đứng thẳng dậy, giơ tay gãi đầu, trên mặt lộ vẻ hoang mang. Ân Tố Tố cười nhạt:
- Tôi chỉ nói được đến thế thôi, ông cứ đến nơi đó thì sẽ gặp được Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.
Nàng ôm Vô Kỵ vào lòng, hạ giọng nói:
- Hài nhi, khi con khôn lớn rồi, phải đề phòng đàn bà lừa dối con. Đàn bà càng đẹp, lừa người càng giỏi.
Nàng ghé sát mồm vào tai con, nói thật nhỏ:
- Mẹ không nói cho lão hòa thượng đó biết đâu, mẹ lừa ông ta đó con xem mẹ đó mẹ lừa người ta giỏi lắm.
Nói xong nàng mỉm một nụ cười thê lương, đột nhiên hai tay lỏng ra, thân hình từ từ đổ xuống, trên ngực đã cắm một thanh chủy thủ[12]. Thì ra khi nàng ôm Vô Kỵ vào lòng, đã ngầm dùng dao găm đâm vào mình, nhưng vì Vô Kỵ ngồi trước mặt nên không ai trông thấy.
Vô Kỵ chồm tới ôm mẹ, kêu lên:
- Mẹ ơi, mẹ ơi.
Thế nhưng Tố Tố tự đâm mình đã lâu cố gượng tới bây giờ thì tắt thở. Vô Kỵ đau lòng nhưng không khóc, trừng mắt nhìn Không Văn đại sư, hỏi:
- Phải ông giết mẹ tôi không, phải ông không? Tại sao ông lại giết mẹ tôi?
Không Văn trông thấy thảm biến trước mắt, tuy là chưởng môn của đệ nhất tông phái trong võ học, nhưng cũng không khỏi chấn động, nghe Vô Kỵ hỏi thế, bất giác lùi lại một bước, chối biến:
- Không, không phải ta. Đó là bà ấy bà ấy tự tận đấy chứ.
Nước mắt Vô Kỵ chảy ròng ròng, nhưng cố dằn lại, nói:
- Ta không khóc, ta nhất định không khóc, không để cho bọn ác nhân các người trông thấy ta khóc đâu.
Không Văn đại sư đằng hắng một cái, nói:
- Trương chân nhân, biến cố này ôi ôi thật không ai liệu trước được. Trương ngũ hiệp phu phụ đã tự tận rồi, mọi việc không còn gì để truy cứu nữa, vậy chúng tôi xin cáo từ.
Nói xong chắp hai tay làm lễ. Trương Tam Phong trả lại một lễ lạnh nhạt nói:
- Tha lỗi không tiễn xa được.
Tăng chúng Thiếu Lâm lập tức đứng lên, đi ra. Ân Lê Đình giận dữ quát lên:
- Các người các người bức tử ngũ ca ta
Chàng bỗng nghĩ lại: Ngũ ca sở dĩ tự sát, cũng vì có lỗi với tam ca, không can hệ gì tới họ cả. Chàng nói chưa dứt câu, không nói tiếp được nữa, nằm phục xuống bên cạnh thi thể Trương Thúy Sơn, òa lên khóc.
Mọi người cảm thấy bẽ bàng, đều hướng về Trương Tam Phong cáo từ, nghĩ thầm: Chuyện này kết thúc thật là rắc rối, phái Võ
Đương chắc sẽ không để yên, từ nay về sau hậu hoạn không biết đâu mà lường. Chỉ có Tống Viễn Kiều đôi mắt đỏ hoe, tiễn khách ra ngoài cổng. Khi chàng quay lại, nước mắt nhỏ xuống ròng ròng, trong đại sảnh phái Võ Đương ai nấy đều đau lòng khóc nức nở.
Phái Nga Mi đứng lên cáo từ sau cùng. Kỷ Hiểu Phù thấy Ân Lê Đình khóc thật thương tâm, đôi mắt nàng cũng đỏ hồng, đi đến bên cạnh, nói nhỏ:
- Lục ca, tiểu muội đi đây, chàng chàng cố gắng tự mình bảo trọng.
Ân Lê Đình đôi mắt nhòa lệ, ngẩng đầu lên, nghẹn ngào nói:
- Các người các người phái Nga Mi cũng đến để làm khó dễ ngũ ca ta ư?
Kỷ Hiểu Phù vội nói:
- Không phải đâu, gia sư chỉ muốn hỏi Trương sư huynh chỗ ở của Tạ Tốn thôi.
Nàng dừng lại một lát, răng cắn chặt môi dưới, rồi lại nhả ra, trên môi hằn sâu một vết răng, tưởng như muốn bật máu ra, run run giọng nói:
- Lục ca, em em đối với chàng thật không phải chút nào, mong chàng hiểu cho. Em em chỉ có kiếp sau mới báo đáp được thôi.
Ân Lê Đình nghe nàng nói có điều quá đáng, nói:
- Việc này không can hệ gì đến Kỷ sư muội, chúng tôi không trách gì sư muội đâu.
Kỷ Hiểu Phù mặt trắng bệch, nói:
- Không không phải chuyện
Nàng không dám nói chuyện tiếp với Ân Lê Đình, quay sang nhìn Vô Kỵ, hỏi:
- Cháu bé ngoan, chúng ta chúng ta cùng một nhà, sẽ săn sóc cháu chu đáo.
Nàng tháo trên cổ chiếc vòng vàng, định đeo cho Vô Kỵ, dịu dàng nói:
- Cái này cô cho cháu
Vô Kỵ hất đầu về phía sau, nói:
- Tôi không lấy.
Kỷ Hiểu Phù bẽ bàng, tay cầm chiếc vòng 嬠không biết phải làm sao. Nước mắt nàng vẫn đang long lanh, lúc này ròng ròng chảy xuống. Tĩnh Huyền sư thái sa sầm nét mặt, nói:
- Kỷ sư muội, nói với trẻ con làm gì? Thôi mình đi về.
Kỷ Hiểu Phù ôm mặt chạy ra. Vô Kỵ nhịn hồi lâu, đợi cho Tĩnh Huyền, Kỷ Hiểu Phù cả bọn ra khỏi cổng rồi, đang toan khóc òa, nào ngờ há mồm nhưng không thở được, nghe phịch một tiếng, ngã lăn ra đất. Du Liên Châu vội bồng thằng nhỏ lên, biết nó trong khi đau buồn cố giữ không khóc, đến nỗi ngất đi, vội gọi:
- Cháu ơi, cháu khóc đi.
Chàng xoa mấy cái trên ngực nó, Vô Kỵ vẫn không thở được, toàn thân lạnh ngắt, hơi thở cực kỳ mong manh. Du Liên Châu vận lực thúc đẩy nhưng thằng bé vẫn không tỉnh. Mọi người thấy chỉ trong giây lát thằng nhỏ sẽ chết, không khỏi thất sắc.
Trương Tam Phong lấy tay đè vào huyện Linh Đài trên lưng Vô Kỵ, một luồng nội lực hùng hậu truyền qua áo trút vào người đứa bé. Với công phu tu luyện của Trương Tam Phong hiện nay, chỉ có người hấp hối mới phải bó tay, ngoài ra dù bị thương nặng cách nào, nội lực của ông đổ vào cũng phải tỉnh lại. Nào ngờ nội lực của ông truyền vào Vô Kỵ rồi, sắc mặt của nó từ trắng chuyển qua xanh, từ xanh thành tím, thân thể giật giật liên tiếp. Trương Tam Phong giơ tay sờ trán đứa trẻ, thấy đầu nó lạnh ngắt, chẳng khác gì sờ vào một khối nước đá, kinh hãi, tay phải vội luồn vào trong áo sờ lưng Vô Kỵ, thấy trên lưng có một vùng bằng chiếc chén nóng hừng hực như lửa, chung quanh thì lạnh thấu xương, nếu không đạt đến trình độ như Trương Tam Phong, e rằng sờ vào không khỏi run rẩy vì lạnh. Ông nói:
- Viễn Kiều, tên Thát tử bắt thằng bé đâu rồi? Mau đem y vào đây.
Tống Viễn Kiều vâng lời đi ra, Du Liên Châu từng thụ thương vì đối chưởng với tên Nguyên binh này rồi, biết đại sư ca cũng không phải địch thủ của y, vội nói:
- Để đệ đi cùng.
Hai người sóng vai đi ra. Khi Trương Tam Phong dẫn tên quân Mông Cổ vào sảnh, Trương Thúy Sơn đã tự sát chết, tiếp đến Ân Tố Tố lại tuẫn phu, mọi người trong lúc đau buồn, đâu có ai để ý đến tên quân Mông Cổ, chỉ trong chớp mắt y đã đi mất dạng.
Trương Tam Phong cởi áo Vô Kỵ ra, thấy trên lưng thằng bé, rõ ràng vết một bàn tay năm ngón màu xanh biếc. Trương Tam Phong lại đưa tay xem thử, thấy nơi bàn tay đó nóng lạ thường, chung quanh thì lại lạnh ngắt như băng, sờ vào quả thực khó chịu, Vô Kỵ bị thương như thế, đủ biết khổ sở đến chừng nào.
Một lát sau, Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu hấp tấp quay lại nói:
- Trên núi không còn ai khác.
Hai người thấy hình bàn tay kỳ quái trên lưng Vô Kỵ đều giật mình kinh hãi. Trương Tam Phong nhíu mày nói:
- Ta vẫn tưởng ba mươi năm trước Bách Tổn đạo nhân chết đi rồi, cái môn Huyền Minh thần chưởng âm độc vô tỉ này cũng thất truyền theo, nào ngờ trên đời này vẫn còn có kẻ biết công phu đó.
Tống Viễn Kiều kinh hãi hỏi:
- Thằng bé bị Huyền Minh thần chưởng đả thương ư?
Chàng lớn tuổi hơn hết, đã từng biết đến Huyền Minh thần chưởng, còn Du Liên Châu đổ xuống ngay cái tên cũng chưa nghe tới bao giờ. Trương Tam Phong thở dài không trả lời, trên khuôn mặt già nua hai hàng lệ nhỏ xuống, hai tay ôm Vô Kỵ, nhìn thi thể Trương Thúy Sơn,
nói:
- Thúy Sơn, Thúy Sơn, con bái ta làm thầy, trước khi chết trọng thác vào ta, nhưng đến giọt máu duy nhất của con ta cũng không giữ được, ta sống đến trăm tuổi để làm gì? Phái Võ Đương danh chấn thiên hạ để làm gì? Giá ta chết đi lại hóa hay hơn.
Chúng đệ tử ai nấy đều kinh dị. Từ khi theo thầy đến giờ, lúc nào họ cũng thấy thầy tiêu dao tự tại, chưa bao giờ nghe ông nói một câu bi đát, tiêu trầm như thế bao giờ. Ân Lê Đình nói:
- Sư phụ, thằng bé này thằng bé này không thể cứu được hay sao?
Trương Tam Phong hai tay ôm chặt Vô Kỵ, đi đi lại lại trong đại sảnh, rồi nói:
- Trừ phi trừ phi sư phụ ta Giác Viễn đại sư sống lại, đem toàn bộ Cửu Dương Chân Kinh truyền cho ta.
Các đệ tử ai nấy đều thất vọng, câu nói đó của sư phụ có khác gì nói thương thế của Vô Kỵ vô phương cứu chữa. Mọi người yên lặng một hồi, Du Liên Châu nói:
- Sư phụ, hôm đó con đối chưởng với y, chưởng lực người đó quả nhiên âm độc ghê gớm trên đời ít thấy, đệ tử bị thương ngay. Thế nhưng bây giờ con đã hoàn toàn bình phục, vận khí dụng kình, không có gì trở ngại cả.
Trương Tam Phong nói:
- Đó cũng là nhờ cái phúc của đại danh Võ Đương thất hiệp. Huyền Minh thần chưởng này nếu đem ra đấu với người, nếu đối phương nội lực thắng y, chưởng lực sẽ quay trở lại thân thể, người sử dụng ắt gặp đại họa. Nếu sau này các con có gặp tên này, phải thật cẩn thận.
Du Liên Châu đáp lời:
- Vâng.
Trong lòng rung động, nghĩ thầm: Thì ra tên này qua ư cẩn thận, sợ ta chưởng lực thắng y, cho nên lúc đó không đem toàn lực Huyền Minh thần chưởng ra sử dụng, nếu không giờ này tính mệnh ta chắc không còn. Nếu kỳ sau gặp lại ta, chắc y hạ thủ không dung tình nữa. Lại nghĩ: Ta bị trúng một chưởng mà đã như thế, Vô Kỵ còn bé, e rằng e rằng .
Tống Viễn Kiều nói:
- Khi đó trong khoảnh khắc, con chỉ thấy tên này chừng độ năm mươi, mũi cao mắt sâu, tựa hồ người từ Tây Vực.
Mạc Thanh Cốc tiếp lời:
- Tên đó đã bắt được Vô Kỵ đi rồi, còn đem nó đến đây làm gì?
Trương Tùng Khê nói:
- Tên đó tra hỏi Vô Kỵ không xong, nên dùng Huyền Minh thần chưởng đả thương y, để cho vợ chồng ngũ đệ chính mắt trông thấy Vô Kỵ bị hành hạ, không thể không thổ lộ chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.
Mạc Thanh Cốc tức giận nói:
- Tên đó quả thực lớn mật, dám lên tận núi Võ Đương để quấy rối.
Trương Tùng Khê lặng lẽ đáp:
- Lên núi Võ Đương quấy rối hôm nay đâu phải ít người? Huống chi y lại hiếp chế Vô Kỵ, tin chắc chúng ta ném chuột sợ vỡ đồ, không dám đả thương y.
Sáu người ở trong đại sảnh thừ người suy nghĩ. Vô Kỵ đột nhiên mở mắt, kêu lên:
- Cha ơi, cha ơi. Con đau, con đau quá.
Thằng bé ôm chặt Trương Tam Phong, chúi đầu vào trong lòng ông già. Du Liên Châu nghẹn ngào nói:
- Vô Kỵ, cha cháu chết rồi, cháu phải cố sống, sau này luyện thành võ công, để trả thù cho cha cháu.
Vô Kỵ kêu lên:
- Cháu không muốn báo thù, cháu không muốn báo thù, cháu chỉ muốn cha mẹ cháu sống lại thôi. Nhị bá, mình tha thứ hết cho những kẻ xấu xa đó, chỉ nghĩ việc làm sao cứu sống cha mẹ cháu thôi.
Trương Tam Phong nghe mấy câu đó, nhịn không nổi nước mắt lại lã chã rơi xuống nói:
- Tất cả thầy trò mình hết sức mà làm, may ra ông trời từ bi cho nó sống thêm được chút nào hay chút đó.
Ông nhìn thi thể Trương Thúy Sơn, gạt lệ kêu lên:
- Thúy Sơn, Thúy Sơn, tội nghiệp cho con quá.
Trương Tam Phong ôm Vô Kỵ lên đi vào vân phòng[13] của mình, giơ ngón tay điểm liên tiếp hai mươi tám đại huyệt trên mình thằng bé. Vô Kỵ huyệt đạo bị điểm rồi, lập tức không còn run rẩy nữa, thế nhưng khí xanh trên mặt càng lúc càng đậm. Trương Tam Phong biết rằng một khi sắc xanh biến thành đen thì tức là khí tuyệt không còn đường cứu chữa, lập tức cởi hết quần áo nó ra, chính mình cũng cởi đạo bào, ôm sát lưng Vô Kỵ vào ngực mình.
Trong khi đó Tống Viễn Kiều và Ân Lê Đình ở bên ngoài lo liệu tang ma cho vợ chồng Trương Thúy Sơn. Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc ba người đến vân phòng của sư phụ, biết sư phụ đang dùng Thuần Dương Vô Cực Công hút âm hàn độc khí trong người Vô Kỵ ra. Trương Tam Phong trước nay chưa lấy vợ, tuy đã trăm tuổi nhưng thân thể vẫn là đồng nam, tám mươi năm tu luyện, môn Thuần Dương Vô Cực Công của ông đã đến mức tột đỉnh. Ba người Du Liên Châu đứng bên hầu hạ, qua khoảng chừng nửa giờ, thấy trên mặt Trương Tam Phong lờ mờ một làn lục khí, đầu ngón tay cũng hơi run. Ông mở mắt ra, nói:
- Liên Châu, còn vào đây thay ta, nếu khi nào chịu không nổi thì giao lại cho Tùng Khê, tuyệt đối không được miễn cưỡng.
Du Liên Châu đáp lời nói:
- Vâng.
Chàng cởi trường bào, đưa tay ôm Vô Kỵ vào lòng, da thịt vừa chạm phải lưng thằng bé lập tức lạnh run, chẳng khác
gì ôm một khối nước đá, liền nói:
- Thất đệ, chú đi ra bảo đem vào vài lò than, càng nóng càng tốt.
Một lát sau lò đem vào nhưng Du Liên Châu vẫn thấy lạnh chịu không nổi. Trương Tam Phong ngồi một bên, từ từ đem chân khí vận qua tam quan[14], thúc đẩy Nhân Uân Tử Khí[15] hóa giải từng chút từng chút một khí độc đã hút vào cơ thể. Đến khi ông hóa giải hết rồi đứng dậy thấy Mạc Thanh Cốc cũng đang chịu không nổi, liền sai đạo đồng đi gọi Tống Viễn Kiều và Ân Lê Đình vào thay.
Công việc dùng nội lực trị thương này, công phu sâu nông, lập tức lộ ra ngoài, không thể nào giả tá được. Mạc Thanh Cốc chỉ chịu được độ thời gian uống một chén trà, còn Tống Viễn Kiều chịu được đến tàn hai nén nhang. Ân Lê Đình vừa ôm Vô Kỵ vào lòng, lập tức kêu hoảng lên, toàn thân run bần bật. Trương Tam Phong kinh hoàng kêu lên:
- Đưa thằng bé cho ta. Con ngồi một bên ngưng thần điều tức, không để trong lòng có lẫn tạp niệm.
Thì ra Ân Lê Đình trong lòng thương ngũ ca thảm tử nên thần bất thủ xá, mê mê tỉnh tỉnh, phải đến lúc tinh thần định tĩnh mới ôm được Vô Kỵ vào lòng. Cứ như thế sáu người luân phiên, trong suốt ba ngày ba đêm đầu tiên không nề gian khổ, từ từ hóa giải hàn độc trong thân thể Vô Kỵ, thời gian mỗi người chịu đựng được mỗi lúc một dài thêm. Đến ngày thứ tư, sáu người mới có thể lợi dụng lúc ở không chợp mắt được một chút. Từ ngày thứ tám trở đi, mỗi người chia ra giúp Vô Kỵ liệu thương hai giờ, thì giờ còn lại từ từ tu bổ lại nội lực đã mất mát.
Lúc đầu Vô Kỵ tiến triển rất nhanh, hàn khí trong cơ thể mỗi ngày một giảm, thần trí mỗi ngày một khôi phục, đã bắt đầu ăn uống được, ai nấy đều hi vọng cái mạng sống nho nhỏ của nó có cơ cứu chữa. Nào ngờ đến ngày thứ ba mươi sáu, Du Liên Châu bỗng nhiên phát giác, dù cho chàng có thúc đẩy nội lực thế nào chăng nữa, vẫn không thể hút bớt được một chút hàn độc nào trong cơ thể của Vô Kỵ. Thế nhưng thân thể thằng bé vẫn lạnh, trên mặt khí xanh vẫn chưa tan. Du Liên Châu tưởng vì công lực của mình sa sút nên vội nói với sư phụ. Trương Tam Phong thử, nhưng cũng không làm sao được. Năm ngày năm đêm liền, sáu người thiên phương bách kế dùng hết tất cả những điều biết về phép vận khí nhưng đều không công hiệu chút nào.
Vô Kỵ nói:
- Thái sư phụ, chân tay cháu ấm lại rồi, thế nhưng đỉnh đầu, tâm khẩu, và bụng dưới ba nơi càng lúc càng lạnh[16].
Trương Tam Phong trong bụng kinh hãi, an ủi nó:
- Thương thế của cháu bớt nhiều rồi, bây giờ mọi người không còn phải ôm cháu suốt ngày nữa. Thôi cháu lên giường của thái sư phụ ngủ một giấc đi.
Trương Tam Phong gọi các đồ đệ vào trong đại sảnh, than thở:
- Hàn độc đã xâm nhập vào trong đính môn, tâm khẩu và đan điền rồi, ngoại lực không sao giải được. Xem ra ba mươi mấy ngày tân khổ của thầy trò mình đổ xuống sông xuống biển hết.
Ông trầm ngâm hồi lâu, nghĩ thầm: Muốn hóa giải hàn độc trong cơ thể, người ngoài không cách gì giúp đỡ được, chỉ có cách tự nó tu luyện nội công chí cao vô thượng trong Cửu Dương Chân Kinh, để lấy chí dương mà trừ chí âm. Thế nhưng khi tiên sư Giác Viễn truyền thụ kinh văn, sở học của ta chưa đủ, đến nay tuy đã bế quan mấy lần, hết sức nghiên cứu, nhưng cũng chỉ hiểu được ba bốn thành. Trước mắt chỉ còn cách dạy cho nó tự luyện, sống thêm được ngày nào hay ngày đó.
Nghĩ thế ông bèn đem khẩu quyết và cách thức luyện Cửu Dương thần công dạy cho Vô Kỵ. Môn công phu này biến hóa phức tạp, một lời không thể nói cho hết. Một cách giản dị, sơ bộ công phu là luyện Đại Chu Thiên Bàn Vận, dùng một luồng chân khí ấm áp dẫn từ đan điền đi theo Âm Kiều Khố[17] đổ vào ba mạch Nhâm, Đốc, Xung, chạy xuống Vĩ Lữ Quan[18], sau đó chia thành hai nhánh chạy lên đi qua Lộc Lô Quan ở hai bên đốt xương sống thứ mười bốn, đi tiếp lên sau lưng qua vai, cổ cho đến tận Ngọc Trẩm Quan, đó gọi là Nghịch Vận Chân Khí Thông Tam Quan. Sau đó chân khí đi tiếp lên đến huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu, chia làm năm nhánh, rồi tất cả chân khí trong thân thể hội tụ tại huyệt Đàn Trung (ở ngực), sau đó phân ra hai nhánh rồi lại tụ vào Đan Điền, nhập khiếu qui nguyên. Tuần hoàn một vòng như thế, thân thể chẳng khác gì được tưới nước cam lộ, trong đan điền như được đốt hương trầm, tiêu diêu tự tại cho nên gọi là Nhân Uân Tử Khí.
Nhân Uân Tử Khí này khi luyện đã đến mức hỏa hầu tương đương thì có thể hóa giải hàn độc tụ trong đan điền. Đạo lý của các môn phái không khác nhau bao nhiêu, nhưng phương pháp luyện thì lại không giống. Tâm pháp mà Trương Tam Phong dạy cho Vô Kỵ nếu nói về uy lực phải nói là thiên hạ đệ nhất.
Trương Vô Kỵ cứ theo đó mà luyện, luyện được hơn hai năm, khí
Nhân Uân trong đan điền cũng đã tiểu thành, có điều hàn độc đã phân tán đi các mạch kinh lạc nên không cách gì hóa trừ được. Lục khí trên mặt ngày một đậm thêm, mỗi khi hàn độc phát tác, càng lúc càng thêm ghê gớm. Trong hai năm đó, Trương Tam Phong toàn lực chiếu cố đến sự tu tập của Vô Kỵ, còn bọn Tống Viễn Kiều cố gắng đi khắp nơi tìm kiếm tiên đan diệu dược, nào là dã sơn nhân sâm trên trăm năm, thủ ô thành hình, phục linh tuyết sơn các loại trân quí linh vật, cho thằng nhỏ uống không biết bao nhiêu mà kể, nhưng chẳng khác gì dã tràng se cát. Mọi người thấy nó mỗi ngày một tiều tụy, ốm yếu, mặc dầu ai nấy cố vui cười, nhưng trong lòng đều thương xót, nghĩ đến hạt máu sau cùng của Trương Thúy Sơn không còn cách gì bảo tồn.
Phái Võ Đương vì bận rộn việc cứu thương trị bệnh, đâu còn thì giờ nào nghĩ đến chuyện truy tầm kẻ đã hại Du Đại Nham và kẻ thù của Vô Kỵ. Trong hai năm đó, Thiên Ưng giáo chủ Ân Thiên Chính mấy lần sai người sang thăm cháu ngoại, đưa tặng rất nhiều lễ vật quí giá. Võ Đương chư hiệp trong lòng căm tức Thiên Ưng giáo gián tiếp gây hại cho Du, Trương hai người, lần nào cũng đuổi sứ giả xuống núi, trả lại lễ vật, không lấy cái gì. Một lần Mạc Thanh Cốc còn đánh cho sứ giả một trận, nên từ đó Ân Thiên Chính không sai người lên núi Võ Đương nữa.
Một hôm nhân tiết Trung Thu, chư hiệp phái Võ Đương cùng sư phụ làm tiệc thưởng trăng. Tiệc chưa dọn ra, Vô Kỵ đột nhiên phát bệnh, mặt xanh lè, run cầm cập không ngừng. Y sợ mọi người mất vui, nên cắn răng cố nhịn, nhưng tình cảnh đó ai mà không biết?
Ân Lê Đình bế Vô Kỵ vào phòng cho nó ngủ, lấy chăn đắp cho thằng bé, lại gầy một lò lửa lớn bên cạnh. Trương Tam Phong bỗng nói:
- Ngày mai ta dẫn Vô Kỵ lên Tung Sơn Thiếu Lâm tự một chuyến.
Mọi người hiểu ngay tâm ý của sư phụ, biết ông không còn cách nào khác hơn, bất dắc dĩ phải cúi đầu trước phái Thiếu Lâm, tự mình lên gặp Không Văn đại sư cầu giáo, hi vọng các cao tăng chùa Thiếu Lâm bổ túc cho chỗ bất toàn trong Cửu Dương thần công, ngõ hầu cứu mạng Vô Kỵ.
Hai năm trước, sau khi gặp nhau trên núi Võ Đương, hiềm khích hai phái Thiếu Lâm, Võ Đương càng sâu hơn trước. Trương Tam Phong là tông sư khai sáng ra một môn phái, đã hơn trăm tuổi, phải gác bỏ địa vị tôn quí của mình xuống cầu cạnh phái Thiếu Lâm, quả thực mất hết thân phận. Mọi người nghĩ đến tình nghĩa với Trương Thúy Sơn, biết rằng một khi Trương Tam Phong đã lên Tung Sơn cầu học rồi, từ nay phái Võ Đương mỗi khi nhìn thấy phái Thiếu Lâm không còn sao ngửng đầu lên được nữa, dù chỉ là cái hư danh cũng đành phải bỏ đi.
Thực ra phái Nga Mi cũng được truyền thụ một phần Cửu Dương Chân Kinh nhưng chưởng môn phái Nga Mi là Diệt Tuyệt sư thái tính tình cực kỳ cổ quái khó chịu, Trương Tam Phong đã mấy lần sai Ân Lê Đình đem thư lên yêu cầu, Diệt Tuyệt sư thái đến bao thư cũng không mở ra xem, chỉ nguyên phong gửi lại. Trước mắt ngoài việc hạ mình trước phái Thiếu Lâm xem ra không còn đường nào khác.
Nếu như Tống Viễn Kiều và các sư đệ lên chùa Thiếu Lâm cầu giáo, tuy có giữ được phần nào thể diện cho phái Võ Đương, nhưng Không Văn đại sư ắt sẽ không đem chân quyết của Cửu Dương Chân Kinh ra truyền cho. Mọi người nghĩ đến uy danh hiển hách của phái Võ Đương trong hai, ba mươi năm qua từ nay phải chịu đứng sau phái Thiếu Lâm, ai nấy đều u uất không vui. Bữa tiệc khánh hạ thưởng trăng, mỗi người chỉ u sầu uống vài chén rồi chấm dứt.
Sáng sớm hôm sau, Trương Tam Phong dẫn Vô Kỵ ra đi. Năm người đệ tử ý muốn theo hầu nhưng Trương Tam Phong nói:
- Nếu mình đi đông không khỏi khiến cho phái Thiếu Lâm khởi nghi, chi bằng để ta một già một trẻ đi thì hơn.
Hai người cỡi một con lừa đen, đi thẳng về hướng bắc. Võ Đương, Thiếu Lâm hai đại tông phái thực ra rất gần, từ núi Võ Đương ở tỉnh Ngạc phía bắc đến Tung Sơn ở đất Dự phía tây, chỉ vài ngày đã tới. Trương Tam Phong và Vô Kỵ từ Lão Hà Khẩu đi qua sông Hán Thủy, đến Nam Dương, đi về hướng bắc qua Nhữ Châu, lại quẹo qua hướng tây là đến Tung Sơn.
Hai người đi lên núi Thiếu Thất, đem con lừa buộc vào gốc cây, xuống đi bộ. Trương Tam Phong quay về chốn cũ, nhớ lại hơn tám mươi năm trước, sư phụ Giác Viễn gánh đôi thùng sắt chạy trốn, mang theo Quách Tương và mình xuống núi Thiếu Lâm, lúc này nghĩ lại tưởng như ở một kiếp nào. Ông trong lòng hết sức cảm khái, nắm tay Vô Kỵ chậm rãi lên núi, thấy năm ngọn núi vẫn như xưa, rừng bia đá vẫn chẳng khác, nhưng Giác Viễn, Quách Tương đã ra người thiên cổ tự bao giờ.
Hai người đến một vi đình[19] nhìn lên chùa Thiếu Lâm, thấy hai nhà sư đang cười cười nói nói đi tới. Trương Tam Phong hỏi thăm nói:
- Phiền thông báo là Võ Đương Trương
Tam Phong cầu kiến phương trượng đại sư.
Hai nhà sư nọ nghe thấy tên Trương Tam Phong đều giật mình kinh hãi, chăm chú nhìn xem thực hay giả, chỉ thấy ông cao lớn khác thường, râu tóc bạc phơ, mặt mũi hồng nhuận sáng bóng, cười hà hà rất dễ mến, bộ đạo bào xanh trông thật dơ bẩn khó coi. Nên biết Trương Tam Phong tính tình tự tại, không để ý đến bề ngoài, khi còn trẻ, giang hồ sau lưng ông vẫn thường gọi là Liệp Thạp Đạo Nhân[20], có người gọi ông là Trương Liệp Thạp, nhưng sau này võ công càng ngày càng cao, uy danh càng ngày càng lớn nên không ai dám gọi tên đó nữa. Hai nhà sư nghĩ thầm: Trương Tam Phong là đại tông sư của phái Võ Đương, phái này với phái Thiếu Lâm ta vốn bất hòa, không lẽ ông ta đến đây để sinh sự đánh nhau chăng?. Họ thấy ông dắt một đứa trẻ chừng mười một, mười hai tuổi gầy ốm xanh xao, cả hai người đều không lấy gì làm khác thường, không hiểu có gì ghê gớm. Một nhà sư hỏi lại:
- Có thực ông là Trương Trương chân nhân của phái Võ Đương không?
Trương Tam Phong cười đáp:
- Quả thực chính hiệu hàng thật, không phải giả mạo.
Tăng nhân kia nghe ông nói chuyện không có vẻ gì trang nghiêm khí khái của một tông sư môn phái, lại càng không tin, hỏi thêm:
- Ông không nói đùa đấy chứ?
Trương Tam Phong cười:
- Trương Tam Phong thì có cái gì đâu? Mạo danh ông ta để làm gì?
Hai nhà sư bán tín bán nghi, vội chạy về chùa thông báo. Một lúc sau, bỗng thấy cửa chùa mở rộng, phương trượng Không Văn đại sư dẫn hai sư đệ Không Trí, Không Tính đi ra. Đằng sau ba người còn thêm mười lão hòa thượng mặc tăng bào màu vàng. Trương Tam Phong biết đây là những trưởng lão trong Đạt Ma viện, vai vế có khi còn cao hơn cả phương trượng, ở trong chùa chỉ tinh nghiên võ học, không hỏi đến việc ngoài, chắc là nghe tin chưởng môn phái Võ Đương đến, hết sức kinh dị, nên cùng phương trượng nghênh tiếp.
Trương Tam Phong đi ra khỏi đình, khom lưng hành lễ nói:
- Đâu đáng để phương trượng và chúng vị đại sư nhọc lòng ra ngoài nghênh đón như thế?
Cả bọn Không Văn đều chắp tay hành lễ. Không Văn nói:
- Trương chân nhân từ xa đến, quả thực ngoài dự liệu của tiểu tăng, không biết có chuyện gì sai khiến?
Trương Tam Phong nói:
- Bần đạo có một chuyện muốn cầu.
Không Văn nói:
- Mời ngồi, mời ngồi.
Trương Tam Phong vào trong đình an vị rồi, lập tức có tăng nhân đem trà tới. Trương Tam Phong bực mình nghĩ thầm: Ta dẫu gì cũng là tông sư một phái, tính ra còn là tiền bối của các ngươi, sao không mời ta vào chùa, để ta ngồi ở giữa lưng chừng núi như thế này? Không nói gì ta, đến một người khách thường, lễ mạo cũng không thể thiếu chu đáo như thế. Thế nhưng tính ông vốn dễ dãi, chỉ nghĩ thoáng như thế nhưng không để tâm.
Không Văn nói:
- Trương chân nhân quang giáng tệ sơn, đáng ra phải cung nghinh vào chùa. Thế nhưng khi còn trẻ, Trương chân nhân vốn không từ biệt mà đi khỏi chùa Thiếu Lâm, qui củ của bản phái mấy trăm năm qua, chắc Trương chân nhân cũng đã biết rồi, phàm là khí đồ, bạn đồ của môn phái, chung thân không được đặt chân vào chùa, nếu bước vào sẽ bị chặt chân.
Trương Tam Phong cười ha hả, nói:
- Thì ra là thế. Bần đạo khi còn nhỏ, tuy đã từng ở chùa Thiếu Lâm phục thị Giác Viễn đại sư, nhưng chỉ là những việc tạp dịch, quét nhà châm trà, chưa hề xuống tóc, cũng chưa bái sư, không thể nói là đệ tử chùa Thiếu Lâm.
Không Trí lạnh lùng nói:
- Thế nhưng Trương chân nhân cũng đã học lén võ công chùa Thiếu Lâm mà đi.
Trương Tam Phong tức bực dâng lên, nhưng nghĩ lại ngay: Võ công của phái Võ Đương ta, tuy toàn do ta tiềm tâm sáng tác, nhưng suy từ nguồn gốc, nếu không được Giác Viễn đại sư truyền cho Cửu Dương Chân Kinh, Quách nữ hiệp tặng cho một đôi Thiếu Lâm Thiết La Hán, thì những võ công sau này cũng không có chỗ nào làm điểm tựa. Y nói võ công ta từ Thiếu Lâm mà ra, cũng không phải là sai. Nghĩ thế ông tâm bình khí hòa nói:
- Bần đạo được như ngày nay, quả thực từ đó mà ra.
Không Văn và Không Trí hai người đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm: Không biết ông ta tới đây làm gì? Chắc hẳn không phải có ý gì tốt, phần lớn vì chuyện Trương Thúy Sơn mà đến đây gây chuyện. Không Văn liền nói:
- Xin nói rõ hơn.
Trương Tam Phong nói:
- Không Trí đại sư mới vừa nói, võ công của bần đạo từ Thiếu Lâm mà ra, lời đó quả không sai. Bần đạo năm xưa phục thị Giác Viễn đại sư, được may mắn dạy cho Cửu Dương Chân Kinh. Bộ kinh thư đó bác đại tinh thâm, nhưng khi đó bần đạo tuổi còn nhỏ, sở học bất toàn, đến nay vẫn lấy làm tiếc. Sau đó tại nơi hoang sơn, Giác Viễn đại sư tụng kinh chỉ có ba người may mắn được nghe, một vị là sáng phái tổ sư phái Nga Mi Quách nữ hiệp, một vị là Vô Sắc thiền sư của quí phái, còn một người nữa chính là bần đạo. Bần đạo
tuổi nhỏ nhất, tư chất lại ngu độn, không có võ học căn cơ, trong ba phái thì sở đắc ít hơn hết.
Không Trí lạnh lùng nói:
- Chưa hẳn như thế. Trương chân nhân từ nhỏ phục thị Giác Viễn, không lẽ ông ta không truyền riêng cho cái gì? Hôm nay phái Võ Đương danh dương thiên hạ, cũng đều là công lao của Giác Viễn.
Bối phận của Giác Viễn so với Không Trí cao hơn ba bậc, nếu đúng ra ông ta phải gọi bằng thái sư thúc tổ, thế nhưng vì Giác Viễn chạy trốn khỏi chùa Thiếu Lâm, bị coi như khí đồ[21], vai vế trong môn phái cũng không còn nữa, thành ra trong ngôn ngữ của Không Trí không phải giữ lễ.
Trương Tam Phong đứng dậy, cung kính nói:
- Ân đức của tiên sư, bần đạo không khi nào dám quên.
Trong bốn đại thần tăng của phái Thiếu Lâm, Không Kiến bụng dạ từ bi, tiếc rằng chết sớm, Không Văn trầm tĩnh kín đáo, vui buồn không lộ ra mặt, Không Tính ngờ nghệch, bẩm tính hồn nhiên, không thông thế sự, Không Trí là người bụng dạ hẹp hòi, thường cho rằng Trương Tam Phong học lén võ công của chùa Thiếu Lâm ra đi, nhưng phái Võ Đương tiếng tăm lại còn lừng lẫy hơn cả Thiếu Lâm, trong lòng lúc nào cũng hậm hực. Y nghĩ rằng lần này Trương Tam Phong đến chùa Thiếu Lâm, chắc là vì vụ Trương Thúy Sơn mà đến báo thù. Huống chi hôm đó trước khi chết, Ân Tố Tố lại giả vờ nói cho Không Văn nghe tung tích của Tạ Tốn, cái kế Di Họa Giang Đông thật là độc ác. Trong hai năm qua, cứ vài ba ngày lại có một nhân sĩ võ lâm đến chùa Thiếu Lâm làm phiền, hoặc công khai tiến vào, hoặc len lén dòm dỏ, khi ngọt ngào cầu khẩn, kẻ hung hăng tra vấn, không lúc nào không có người đến hỏi thăm nơi chốn trú ẩn của Tạ Tốn.
Không Văn đã thề sống thề chết là quả thực không biết, nhưng hôm đó tại Tử Tiêu Cung trên núi Võ Đương, các môn phái trăm người như một ai ai cũng nhìn thấy Ân Tố Tố nói riêng cho Không Văn nghe, còn giả làm sao được? Dù Không Văn nói năng giải thích thế nào, người ngoài đời nào chịu nghe, cho nên tháng nào cũng có vài lần động võ. Người đến chùa chết hay bị thương cũng nhiều, còn cao thủ của Thiếu Lâm thương tổn cũng không phải là ít. Cứ suy cứu ra, tất cả cũng đều do cái mầm họa mà phái Võ Đương cấy vào.
Cái căm tức của chùa từ trên xuống dưới trong hai năm qua, hôm nay muốn chiết nhục Trương Tam Phong một phen cho hả. Không Trí liền nói:
- Trương chân nhân đã tự nhận là học lén võ công từ chùa Thiếu Lâm mà ra, tiếc rằng lời nói đó không có ai ngoài nghe thấy, nếu không truyền ra ngoài cho cả giang hồ mọi người thì hay biết mấy.
Trương Tam Phong nói:
- Hoa sen hồng hoa sen trắng, võ học thiên hạ cũng một nhà mà thôi, nhưng hàng nghìn năm qua, lấy sở trường bổ túc sở đoản, còn chân chính nguồn gốc cũng không thể nào phân biệt được. Thiếu Lâm phái đã là lãnh tụ võ lâm rồi, trong mấy trăm năm ai cũng công nhận, bần đạo hôm nay lên núi, chính vì hâm mộ võ công quí phái, biết là không bằng, nên muốn cầu giáo chúng vị đại sư.
Cả bọn Không Văn, Không Trí nghe thấy câu nên muốn cầu giáo chúng vị đại sư lại tưởng đây là lời khiêu chiến, không khỏi ai nấy biến sắc, nghĩ thầm lão đạo sĩ này tu luyện đã đến trăm tuổi, võ công cao siêu không biết đâu mà lường, trên đời còn ai là địch thủ của ông ta nữa. Ông ta một mình lên đây, ắt phải có gì ghê gớm lắm nên không sợ hãi, chắc là trong hai năm qua luyện thành một môn võ công vô cùng lợi hại.
Trong nhất thời, ba nhà sư không ai dám trả lời. Sau cùng Không Tính mới nói:
- Lão đạo giỏi nhỉ, nếu ông muốn đấu võ với chúng tôi, Không Tính này không có sợ đâu. Trong chùa Thiếu Lâm có cả trăm, ngàn hòa thượng cùng xông lên, chưa chắc ông đã đánh đổ được Thiếu Lâm tự.
Tuy miệng ông ta nói không sợ nhưng trong lòng quả thật hãi lắm, nên vội lấy cái số đông trăm, ngàn người cùng xông lên để rào trước. Trương Tam Phong vội nói:
- Các vị đại sư đừng nên hiểu lầm, bần đạo nói đến cầu giáo, là thực lòng muốn xin chỉ điểm. Chỉ vì bần đạo tu tập Cửu Dương Chân Kinh do tiên sư truyền cho, bên trong còn nhiều chỗ nghi nan bất giải, không được đầy đủ. Chúng vị cao tăng chùa Thiếu Lâm tinh thâm võ học, nếu như có bụng chỉ giáo để cho Trương Tam Phong được nghe đạo lớn, thì cảm kích không biết chừng nào.
Nói xong ông đứng dậy vái một cái thật sâu. Những lới nói đó của Trương Tam Phong, quả thực ra ngoài dự liệu của chư tăng chùa Thiếu Lâm. Ông là người thần công đời nay không ai bì kịp, khai tông sáng phái, tu luyện đã chín mươi năm, trong võ lâm hiện thời, thanh vọng đã lớn, thân phận lại cao, làm sao tưởng nổi việc hôm nay ông lên chùa Thiếu Lâm xin học thêm?
Không Văn vội vàng hoàn lễ, nói:
- Trương chân nhân đùa thế, chúng tôi hậu bối, nông cạn, đến việc xem của người, sửa của mình[22] còn chưa xong, lấy đâu ra mà nói
chuyện chỉ điểm cho người khác?
Trương Tam Phong biết rằng việc này nói ra kỳ quái, đối phương không tin lời mình, liền đem chuyện Trương Vô Kỵ bị trúng Huyền Minh thần chưởng ra sao, thân thể hàn độc không cách nào đẩy ra ngoài được, lại nói y là đứa con duy nhất của Trương Thúy Sơn, phải làm mọi cách để bảo tồn mạng sống, trước mắt ngoài việc học Cửu Dương thần công ra, không còn đường nào khác. Cũng vì lợi ích của chính phái Thiếu Lâm, ông cam nguyện đem sở học của bản môn Cửu Dương Chân Kinh toàn bộ nói cho chư tăng biết để hai bên tham ngộ bổ túc.
Không Văn nghe nói trầm ngâm hồi lâu, nói:
- Bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, trăm nghìn năm qua chưa một tăng tục đệ tử nào luyện được trên mười hai môn. Sở học của Trương chân nhân quán tuyệt cổ kim, thế nhưng những gì liệt vị tổ sư tệ phái truyền lại quá nhiều, mười phần học một cũng đã khó khăn. Trương chân nhân nay lại đem một môn thần công trao đổi, thịnh tình đó chúng tôi rất cảm kích, nhưng đứng về bản phái mà nói, có được thêm cũng chỉ dư thừa.
Oạng ngừng lại một chút, nói tiếp::
- Võ công của phái Võ Đương, nguyên thủy cũng từ Thiếu Lâm, hôm nay nếu hai bên giao hoán võ học, sau này trên giang hồ không hiểu chân tướng, chẳng nghĩ là phái Võ Đương tổ thuật Thiếu Lâm, lại nghĩ phái Thiếu Lâm nhờ Trương chân nhân mới được như thế. Tiểu tăng mang địa vị chưởng môn phái Thiếu Lâm, những lời đồn đãi như thế quả thực không thể chịu nổi.
Trương Tam Phong trong lòng than thầm: Ngươi thân danh chưởng môn của đệ nhất môn phái trong võ lâm, lại là một trong tứ đại thần tăng, vậy mà bo bo giữ cái tiếng môn hộ, bụng dạ nhỏ nhen như thế. Thế nhưng đang lúc phải cầu người, không thể nói thẳng phải trái, chỉ nói:
- Ba vị là thần tăng đương thế, lòng dạ từ bi, mạng của đứa trẻ này chỉ trong sớm tối, mong quí vị nghĩ đến lòng từ bi cứu thế cứu nhân của Phật tổ, đáp ứng lời yêu cầu, bần đạo hết sức cảm kích cao nghĩa của quí vị.
Thế nhưng ông nói đến rát cổ bỏng họng, ba nhà sư chùa Thiếu Lâm một mực từ chối. Sau cùng Không Văn nói:
- Không thể tuân mệnh được, xin đừng trách cứ.
Nói xong quay đầu lại nói với tăng nhân đứng kế bên:
- Ngươi bảo Hương Tích Trù dọn một mâm cỗ chay thượng đẳng, đem lên đây đãi Trương chân nhân.
Nhà sư vâng lệnh chạy đi. Trương Tam Phong thần sắc buồn rầu, xua tay:
- Nếu thế, lão đạo phen này thật quả mạo muội. Thịnh yến không dám nhận, xin thứ tội đã đến làm phiền, vậy xin từ biệt.
Ông đứng lên khom lưng hành lễ, nắm tay Vô Kỵ hai ông cháu lặng lẽ xuống núi.
[1] Trong cái đẹp có điểm không toàn vẹn
[2] nguyên tác ái ốc cập ô (yêu cái nhà yêu luôn cảcon chim quạ trên nhà nữa, ái kỳ nhân giả, kiêm ái ốc thượng chi ô Thuyết Uyển)
[3] ngòi bút làm bằng lông chó sói
[4] mực dùng để tiến cống đời Đường
[5] giấy đất Tuyên Châu làm bằng cây dó
[6] nghiên làm bằng đá Đoan Khê (xin đọc thêm nghiên cứu về Bút Nghiên Giấy Mực của dịch giả)
[7] xin đọc thêm nghiên cứu về Thư Họa của dịch giả
[8] Anh em đồng lòng thì có thể cắt được kim loại
[9] thanh xuất ư lam ý nói đời sau giỏi hơn đời trước, trò giỏi hơn thầy (Thanhm thu chi ư lam, nhi thanh ư lam màu xanh từ màu lam ra, nhưng còn xanh hơn cả màu lam Tuân Tử Khuyến Học Thiên)
[10] tức Huyền Võ, là thần của phương Bắc
[11] Chuyết Kinh là tiếng người chồng nói nhún gọi vợ mình (người vợ vụng về, kém cỏi của tôi). Đàn bà nói nhún gọi chồng mình là Chuyết Phu (người chồng vụng về của tôi).
[12] Dao ngắn, dao găm.
[13] Phòng của tăng nhân hay đạo sĩ
[14] xin đọc thêm Chân Khí Vận Hành Pháp của dịch giả để biết qua về phép dẫn khí của đạo gia
[15] khí dung hợp giữa âm và dương, trời và đất (Tử ở đây là màu tím đỏ)
[16] Ba nơi này nói về thượng đan điền, trung đan điền, hạ đan điền là ba vị trí trọng yếu nhất trong phép luyện nội công
[17] tức huyệt Hội Âm
[18] Là đốt xương sống cuối cùng, đạo gia goị là Hạ Thước Kiều (cầu Ô Thước bên dưới, đối với thượng Thước Kiều là cầu bên trên ở miệng). Khi vận khí, hành giả phải đóng hai nơi đứt đoạn tiếp nối Nhâm và Đốc Mạch nên phải uốn lưỡi lên và nhíu hậu môn. (xin xem thêm Chân Khí Vận Hành Pháp của dịch giả)
[19] nhà nghỉ lợp tranh
[20] đạo nhân nhếch nhác, dơ bẩn (xem thêm Thái Cực Quyền của dịch giả)
[21] đệ tử bị đuổi khỏi môn hộ
[22] nguyên tác dùng một câu cách ngôn tha sơn chi thạch, khả dĩ công ngọc (lấy hòn đá của núi người về đánh bóng hòn ngọc của mình) ý nói lợi dụng cái hay của người bổ khuyết cho cái khiếm khuyết của mình
Hồi 11: Hữu Nữ Trường Thiệt Lợi Như Thương
Đàn bà hồ đã mấy tay,
Một lời gươm giáo rung cây gẫy cành.
Trương Tam Phong dắt Vô Kỵ xuống khỏi
núi Thiếu Thất, nghĩ bụng tính mệnh của thằng nhỏ không kéo dài được lâu, cũng không còn cách nào để trị bệnh nên nói chuyện vui cho nó nghe để giải sầu. Hôm đó đến bờ sông Hán Thủy, hai ông cháu thuê thuyền qua sông. Đến giữa giòng, nước sông cuồn cuộn, chiếc đò ngang nhồi lên hụp xuống, trong lòng Trương Tam Phong cũng dao động chẳng khác gì ba đào.
Trương Vô Kỵ bỗng nói:
- Thái sư phụ, ông đừng quá lo, cháu chết rồi sẽ gặp lại cha mẹ cháu, như thế cũng thích.
Trương Tam Phong nói:
- Cháu đừng nói vậy, dù thế nào chăng nữa, thái sư phụ cũng sẽ tìm cách cứu cháu được.
Trương Vô Kỵ nói:
- Cháu vẫn nghĩ rằng nếu như học được Cửu Dương thần công của phái Thiếu Lâm, cháu sẽ nói lại cho tam sư bá nghe, thế thì hay lắm.
Trương Tam Phong hỏi:
- Sao lại hay?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Hi vọng là tam sư bá tu luyện võ công của cả hai phái Thiếu Lâm, Võ Đương có thể trị được chân tay khỏi tàn phế.
Trương Tam Phong thở dài:
- Du tam bá của cháu bị gân cốt ngoại thương, nội công có cao cường thế nào cũng không trị lành được.
Ông nghĩ thầm: “Thằng bé này biết mình không sống được, vậy mà lại không sợ chết, lại nghĩ đến việc trị cho Du Đại Nham khỏi tàn tật, tâm địa như thế thật đúng là bản sắc của kẻ hiệp nghĩa chúng ta”. Đang định khen ngợi nó vài câu, bỗng nghe trên sông một giọng oang oang từ xa truyền đến:
- Mau dừng thuyền lại, giao đứa trẻ cho ta, phật gia sẽ tha mạng cho, nếu không đừng trách ta vô tình.
Tiếng nói đó từ sóng truyền đến, lọt vào tai vẫn rõ ràng, hiển nhiên kẻ đó nội lực không phải là yếu. Trương Tam Phong cười thầm trong bụng: “Kẻ nào lớn mật, dám bảo ta để thằng bé lại?”
Ngẩng dầu lên ông thấy có hai chiếc thuyền đang chèo như bay từ xa tới, nhìn kỹ thấy trên một chiếc thuyền nhỏ có một đại hán râu xồm, hai tay hai mái chèo thật gấp, trong lòng thuyền còn hai đứa bé một nam một nữ. Đằng sau là một chiếc thuyền khá lớn, trong thuyền có bốn phiên tăng đứng đó, lại thêm bảy tám võ quan Mông Cổ. Bọn võ quan cầm những ván gỗ làm giầm chèo phụ. Gã râu xồm rất khỏe, mỗi lần quạt mái chèo, chiếc thuyền nhỏ vọt lên cả trượng, thế nhưng đằng sau người nhiều thế mạnh, hai chiếc thuyền mỗi lúc một xích lại gần nhau hơn. Chẳng bao lâu, bọn võ quan và phiên tăng lắp tên vào cung hướng về phía đại hán nọ bắn tới, tiếng tên bay nghe vèo vèo.
Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Thì ra bọn họ bảo gã râu xồm này để đứa bé lại”. Ông bình sinh ghét nhất quan binh Mông Cổ tàn sát người Hán, thấy vậy liền định bụng ra tay cứu giúp. Đại hán nọ tay trái chèo thuyền, tay phải giơ mái giầm gạt những mũi tên bắn tới, thủ pháp thật là nhanh nhẹn. Trương Tam Phong khen thầm: “Người này võ công không phải tầm thường, quả là kẻ anh hùng lâm nạn, làm sao ta có thể ngồi nhìn mà không cứu?”. Ông quay đầu nói với người lái đó:
- Thuyền gia, chặn họ lại.
Người chủ thuyền thấy tên bay như mưa, đã sợ mất cả hồn vía, tay chân luống cuống, đang lo chạy không kịp, làm sao lại dám tiến lên ngăn họ. Y run run đáp:
- Lão … lão đạo gia có nói đùa không đấy?
Trương Tam Phong thấy tình thế khẩn cấp, cướp lấy sào chống, đẩy mạnh mấy cái xuống nước, chiếc thuyền liền quay ngang, vọt ra chặn hai chiếc thuyền kia. Bỗng nghe “A” một tiếng thảm khốc, đứa con trai trên chiếc thuyền nhỏ bị trúng một mũi tên. Gã râu xồm thất kinh, cúi xuống xem xét, đầu vai và lưng lập tức trúng mấy mũi tên, mái chèo trong tay cầm không vững, rơi tõm xuống sông, chiếc thuyền liền ngừng lại. Thuyền lớn phía sau lập tức vọt lên, bảy tám tên quan quân Mông Cổ và phiên tăng liền nhảy lên trên thuyền nhỏ.
Gã râu xồm tuy vậy vẫn bất khuất, tay đấm chân đá, hết sức chống cự. Trương Tam Phong kêu lớn:
- Thát tử dừng tay, chớ có hành hung giết người.
Ông vội vã chèo thêm vài cái nữa cho thuyền tới gần hơn, nhún mình một cái, hai tay áo phiêu phiêu, từ trên không nhẹ nhàng đáp xuống chiếc thuyền nhỏ. Hai tên quan binh Mông Cổ nhắm vào ông bắn tới Trương Tam Phong vẫy tay áo hất hai mũi tên ra ngoài. Chân ông vừa chạm thuyền, chưởng trái liền đánh ra, lập tức hai tên phiên tăng bị văng ra xa hơn một trượng, bõm bõm hai tiếng, rơi thẳng xuống sông. Bọn võ quan thấy ông như thiên tướng từ trời bay xuống, vừa ra tay đã đánh hai tên phiên tăng cao cường nhất bay đi, không khỏi kinh hãi. Tên võ quan thủ lãnh quát lớn:
- Lão đạo khùng kia, ngươi làm gì thế?
Trương Tam Phong mắng lại:
- Bọn Thát tử chó má, chỉ giỏi hành hung tác ác, tàn hại lương dân, có cút đi không nào?
Tên võ quan kia đáp:
- Ngươi biết tên này là ai không? Y là dư đảng của phản tặc ma giáo ở Viên Châu, cả thiên hạ ai ai cũng muốn tróc nã khâm phạm.
Trương Tam Phong nghe thấy “phản tặc ma giáo ở Viên Châu”, giật mình kinh
hãi, nghĩ thầm: “Không lẽ y là thuộc hạ của Chu Tử Vượng?”, quay đầu lại hỏi đại hán râu xồm:
- Y nói có đúng không?
Người râu xồm toàn thân máu me, tay trái ôm đứa con trai, hổ nhãn rưng rưng, nói:
- Tiểu chúa công … tiểu chúa công bị chúng nó bắn chết rồi.
Câu đó vô hình chung thừa nhận thân phận của mình. Trương Tam Phong trong lòng lại càng kinh khủng hơn, hỏi:
- Phải chăng đây là lang quân của Chu Tử Vượng?
Đại hán trả lời:
- Đúng thế, tiểu nhân phụ lòng ủy thác rồi, cái mạng nhỏ này cũng không muốn sống nữa.
Y nhẹ nhàng đặt cái xác đứa bé xuống, xông vào viên quan kia. Thế nhưng y vốn đã bị thương, trên vai trên lưng hai mũi tên còn cắm vào, đầu tên lại có tẩm thuốc độc, vừa nhảy lên đã kêu một tiếng "Ối" rồi ngã lăn ra sàn thuyền. Cô bé gái kia thì ôm một xác chết đàn ông ở trong khoang, khóc lớn:
- Cha ơi, cha ơi.
Trương Tam Phong nhìn trang phục người đó, hiển nhiên là người chủ thuyền. Ông nghĩ thầm: “Nếu mình biết là nhân vật trong ma giáo, chuyện không đâu này mình đã không nhúng tay vào. Thế nhưng mình đã ra tay thì không thể nửa chừng rồi bỏ được”. Ông quay qua nói với tên võ quan:
- Đứa trẻ này đã chết, còn người kia đã trúng độc tiễn, trong chốc lát cũng sẽ chết theo, các ngươi đã lập công rồi, thôi đi nơi khác.
Tên võ quan nói:
- Không được, phải chặt hai cái thủ cấp đó mới xong.
Trương Tam Phong nói:
- Sao ngươi lại quá quắt đến thế?
Gã võ quan hỏi lại:
- Lão đạo là ai? Cớ gì lại nhúng tay vào việc này?
Trương Tam Phong mỉm cười, nói:
- Ngươi hỏi ta làm gì? Việc thiên hạ thì người trong thiên hạ ai chẳng làm được.
Tên võ qua đưa mắt, nói:
- Đạo trưởng đạo hiệu là chi? Xuất gia ở đạo quan nào?
Trương Tam Phong chưa kịp trả lời, hai tên quan quân Mông Cổ đột nhiên vung trường đao, nhắm vai ông chém xuống. Thế hai lưỡi đao đó xuống thật nhanh, trong chiếc thuyền nhỏ cách nhau lại gần không cách gì có thể tránh được.
Trương Tam Phong nghiêng người, ông vốn dĩ quay mặt về phía đầu thuyền, ông chỉ xoay nhẹ, mặt quay sang phía trái, hai lưỡi đao liền chém vào khoảng không. Hai chưởng ông vung lên, đẩy luôn vào lưng của hai tên đó, quát:
- Cút đi.
Chưởng lực nhả ra, hai tên võ quan bay lên, nghe bình bình hai tiếng, rơi trúng ngay cái thuyền bọn chúng vừa đi. Mấy chục năm nay ông không cùng ai động thủ quá chiêu, lúc này ra tay quả là dùng dao mổ trâu để giết gà nhưng vẫn nhanh nhẹn như thường. Gã võ quan đầu lãnh kia há hốc mồm, lập cập nói:
- Ngươi … ngươi … ngươi … có phải là … là …
Trương Tam Phong tay áo vũ động, quát lớn:
- Lão đạo trước nay chỉ chuyên giết Thát tử thôi.
Các võ quan và phiên tăng chỉ thấy gió thổi ập vào mặt, ai nấy đều khó thở. Khi Trương Tam Phong ngừng tay, mọi người mặt trắng bệch, đều cùng la hoảng, tranh nhau chạy về thuyền lớn, cứu mấy phiên tăng rơi dưới nước rồi vội vã chèo đi.
Trương Tam Phong lấy trong bọc ra đơn được, nhét vào mồm đại hán râu xồm, chèo chiếc thuyền nhỏ đến chiếc đò ngang, định đỡ y qua, nào ngờ đại hán đó tính tình thật cứng cỏi, một tay ôm xác đứa con trai, một tay ôm đứa con gái, nhẹ nhàng nhảy qua thuyền bên kia. Trương Tam Phong thầm gật đầu: “Người này đã bị thương nặng, vậy mà vẫn trung với ấu chúa như thế, quả thực là một hảo hán tử khí khái. Tuy lần này ta lỡ tay cứu y, nhưng người như thế ra tay cứu cũng đáng”. Oạng qua trở lại chiếc đò ngang, giúp đại hán nọ nhổ những mũi tên độc ra, bôi thuốc trị thương. Đứa con gái nhìn xác cha theo chiếc thuyền trôi đi, chỉ còn nước ngồi khóc. Gã râu xồm nói:
- Bọn cẩu quan thật là tàn ác, vừa lên thuyền là bắn chết ngay thuyền phu, nếu lão đạo gia không cứu kịp, đứa con gái nhà thuyền chài kia chắc cũng bị chúng giết chết.
Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Hiện thời Vô Kỵ không đi lại được, hán tử này lại là khâm phạm, nếu vào nghỉ trong khách điếm tại Lão Hà Khẩu ta phải chiếu cố cho cả hai người, e chẳng chu toàn được”. Ông lấy ra ba lượng bạc giao cho người lái thuyền, nói:
- Chú lái đò ơi, phiền chú thuận theo dòng đi về hướng đông, qua Tiên Nhân Độ cho chúng tôi lên Thái Bình điếm nghỉ ngơi.
Người lái đò thấy ông đánh bọn quan binh Mông Cổ một trận tơi bời hoa lá, vốn đã vạn phần kính sợ, huống chi lại được thưởng nhiều tiền như thế, lập tức luôn mồm vâng dạ, bẻ lái thuyền qua hướng đông.
Đại hán đó ở tại sàn thuyền khấu đầu nói:
- Lão đạo gia cứu mạng cho tiểu nhân, Thường Ngộ Xuân này xin rập đầu bái tạ.
Trương Tam Phong đưa tay đỡ dậy, nói:
- Thường anh hùng không cần phải dùng đại lễ.
Vừa nắm tay y, thấy bàn tay lạnh như băng, hơi kinh hoảng, vội hỏi:
- Phải chăng Thường anh hùng đã bị nội thương?
Thường Ngộ Xuân nói:
- Tiểu nhân từ Tín Dương hộ tống tiểu chủ
xuôi Nam, giữa đường bốn lần tiếp chiến với bọn ưng trảo của Thát Đát đuổi theo, trên ngực và sau lưng bị một phiên tăng đánh trúng hai chưởng.
Trương Tam Phong cầm cổ tay, thấy mạch nhảy rất yếu, vội cởi áo y ra để xem vết thương, lại càng kinh hãi, thấy chỗ trúng chưởng sưng vù lên cả tấc, không phải là nhẹ, giá như người khác chắc không chịu nổi. Người này chạy trốn hàng ngàn dặm, lại còn phải chống trả cường địch, quả là anh hùng. Thấy vậy ông liền khuyên y đừng nói năng nhiều, chỉ ở trong khoang tĩnh dưỡng.
Cô bé gái tuổi chừng lên mười, quần áo cũ kỹ, hai chân không mang giày dép, tuy con nhà thuyền chài nghèo khổ, nhung mặt mày xinh xắn, thể nào sau này cũng thành một mỹ nhân, chỉ ngồi sụt sùi gạt nước mắt. Trương Tam Phong thấy cô bé đáng thương, hỏi:
- Cô nương, tên cô là gì?
Cô gái đáp:
- Cháu họ Chu, tên là Chu Chỉ Nhược.
Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Con nhà thuyền chài mà sao đặt tên thật hay” nên hỏi tiếp:
- Thế nhà cháu ở đâu? Trong nhà còn những ai? Để ta gọi đò đưa cháu về.
Chu Chỉ Nhược gạt lệ đáp:
- Chỉ có hai cha con cháu sống với nhau trên thuyền thôi … chứ không có ai khác.
Trương Tam Phong ớ một tiếng, nghĩ thầm: “Cô gái này nhà tan người mất, lại bé bỏng quá, làm thế nào bây giờ đây?”
Thường Ngộ Xuân nói:
- Lão đạo gia võ công cao cường, từ xưa tới nay, tiểu nhân chưa thấy ai như thế bao giờ, xin vô phép hỏi pháp hiệu của ngài là gì?
Trương Tam Phong cười:
- Lão là Trương Tam Phong.
Thường Ngộ Xuân “A!” lên một tiếng, vội nhỏm dậy, lớn tiếng:
- - Hóa ra lão đạo gia là Trương Chân Nhân của núi Võ Đương, thảo nào thần công cái thế, Thường Ngộ Xuân hôm nay may mắn được gặp tiên trưởng.
Trương Tam Phong mỉm cười:
- Lão đạo bất quá sống hơn vài năm, có gì là tiên với lại không tiên. Xin Thường anh hùng mau nằm xuống, đừng làm động đến vết thương.
Ông thấy Thường Ngộ Xuân khẳng khái hào sảng, ăn nói ào ào, cảm thấy mến y vô cùng, nhưng nghĩ đến y là người trong ma giáo, nên không muốn nói chuyện nhiều, liền nhạt nhẽo:
- Ngươi bị thương không phải là nhẹ, chớ nên nói nhiều.
Trương Tam Phong tính tình khoáng đạt, đối với chính tà hai đường, vốn không quá thiên kiến. Trước đây ông đã từng nói với Trương Thúy Sơn:
- Hai chữ chính tà, thật khó phân biệt. Đệ tử trong chính phái mà có tâm thuật bất chính, thì cũng là tà đồ; còn trong tà phái có người nhất tâm hướng thiện, thì cũng là chính nhân quân tử.
Lại còn nói giáo chủ Thiên Ưng giáo là Ân Thiên Chính tuy tính tình nóng nảy, hành sự khác người, nhưng cũng là kẻ quang minh lỗi lạc, có thể kết làm bạn được. Thế nhưng từ khi Trương Thúy Sơn tự vẫn mà chết, ông thương đứa học trò yêu, đối với Thiên Ưng giáo hết sức căm giận, tự nhủ đệ tử thứ ba Du Đại Nham cả đời tàn phế, đệ tử thứ năm Trương Thúy Sơn thân tử danh liệt, cũng do Thiên Ưng giáo mà ra. Tuy nén lòng không đi kiếm Ân Thiên Chính hỏi tội phục thù, nhưng dù bụng dạ có rộng rãi đến đâu, hai chữ “tà ma” càng lúc càng thấy ghét bỏ.
Kẻ tên gọi Chu Tử Vượng kia chính là đại đệ tử của Di Lặc Tông trong Minh giáo, năm trước khởi sự tại Viên Châu đất Giang Tây, tự lập làm đế, lấy quốc hiệu là Chu, chẳng bao lâu bị quân Nguyên tiêu diệt, còn Chu Tử Vượng bị bắt chém đầu. Di Lặc Tông và Thiên Ưng giáo tuy không cùng một phái nhưng đều là chi lưu của Minh giáo, có liên hệ với nhau rất sâu xa. Khi Chu Tử Vượng khởi sự, Ân Thiên Chính có thanh viện[1] tại Triết Giang. Trương Tam Phong hôm nay cứu Thường Ngộ Xuân, chỉ vì nhất thời lòng hiệp nghĩa khích động, và lúc đầu cũng không biết y thuộc Minh giáo, nên không lấy gì hợp với bản nguyện.
Canh hai đêm đó thuyền đến Thái Bình điếm. Trương Tam Phong bảo thuyền phu rời thị trấn đến một cái bến ở xa. Người lái đò lên chợ mua đồ ăn, nấu cơm, bày trên thuyền nào thịt gà, thịt heo, cá, rau cả thảy đến bốn bát lớn. Trương Tam Phong bảo Thường Ngộ Xuân và Chu Chỉ Nhược ăn trước, còn tự mình đút cho Trương Vô Kỵ ăn. Thường Ngộ Xuân hỏi nguyên do, Trương Tam Phong nói là y bị hàn độc xâm nhập tạng phủ, đã điểm huyệt đạo các nơi, tạm thời chưa nguy đến tính mệnh. Trương Vô Kỵ tủi thân, nghẹn ngào không nuốt nổi miếng cơm xuống họng. Trương Tam Phong lại gặng đút nữa, y lắc đầu, không chịu ăn.
Chu Chỉ Nhược đón lấy chén cơm trong tay Trương Tam Phong, nói:
- Đạo trưởng ăn trước đi, để cháu bón cơm cho vị tiểu tướng công này.
Trương Vô Kỵ nói:
- Ta no rồi, không muốn ăn nữa.
Chu Chỉ Nhược nói:
- Tiểu tướng công, nếu anh không ăn, lão đạo trưởng trong lòng không vui, ăn cơm không nổi, chẳng hóa ra cũng bị đói ư?
Trương Vô Kỵ nghĩ cô ta nói quả không sai, nên khi Chu Chỉ Nhược đưa cơm tới miệng vội há mồm ăn. Chu Chỉ Nhược gỡ
hết xương cá, xương gà, mỗi miếng cơm lại rưới thêm tí nước thịt, Trương Vô Kỵ ăn thấy thật ngon miệng, hết cả một bát lớn.
Trương Tam Phong trong lòng thấy an ủi, nghĩ thầm: "Vô Kỵ số khổ, từ bé cha mẹ chết sớm, lại bị bệnh nặng. Nếu được người con gái có ý tứ thế này chăm sóc quả thật là hay”.
Thường Ngộ Xuân không đụng tới thịt cá, chỉ ăn sạch bát rau, tuy đang trọng thương, nhưng cũng ăn hết bốn bát cơm trắng. Trương Tam Phong không kiêng thịt, thấy y ăn uống thật hào sảng, nên khuyên y ăn tí thị gà. Thường Ngộ Xuân nói:
- Trương chân nhân, tiểu nhân thờ Bồ Tát nên không ăn mặn.
Trương Tam Phong “A” một tiếng:
- Ồ lão đạo quên.
Lúc đó mới nhớ là người trong ma giáo qui củ rất nghiêm, không ăn mặn, từ đời Đường tới giờ, đều thế cả. Cuối thời Bắc Tống, đại thủ lãnh của Minh giáo là Phương Lạp khởi sự tại Triết Đông, đương thời quan cũng như dân gọi họ là “đạo ăn chay thờ ma”. Ăn chay và phụng thờ ma vương là hai qui luật lớn của ma giáo, đã truyền từ mấy trăm năm nay. Đời nhà Tống, quan phủ chém giết ma giáo rất ngặt, người trong võ lâm cũng coi họ chẳng ra gì, vì thế giáo đồ hành sự cực kỳ ẩn bí, tuy ăn chay nhưng đối với người ngoài phải giả xưng là thờ Phật, bái Bồ Tát, không dám tiết lộ thân phận của mình.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Trương chân nhân, ngài có ơn cứu mệnh đối với tôi, lại đã biết rõ lai lịch rồi, nên không dám dấu diếm. Tiểu nhân là người trong Minh giáo, phụng sự Minh tôn.
Triều đình quan phủ đối với chúng tôi mười phần căm ghét, người hiệp nghĩa trong các danh môn chính phái cũng coi nhẹ chúng tôi, thậm chí đến bọn đốt nhà cướp của, giết người không gớm tay trong hắc đạo cũng gọi chúng tôi là yêu ma quỉ quái. Lão nhân gia đã biết rõ lai lịch của chúng tôi mà vẫn ra tay tương cứu, cái ân đức đó, quả thực tôi không biết lấy gì báo đáp.
Trương Tam Phong cũng đã từng nghe qua về lai lịch của ma giáo, biết ma giáo phụng thờ đại ma vương tên là Ma Ni, người trong tôn giáo gọi là Minh Tôn. Tôn giáo này đến trung thổ từ đời Nguyên Hòa, Hiến Tông nhà Đường, khi đó gọi là Ma Ni giáo lại còn gọi là Đại Vân Quang Minh giáo, giáo đồ tự xưng Minh giáo nhưng người ngoài gọi họ là Ma giáo[2]. Ông trầm ngâm giây lát, nói:
- Thường anh hùng …
Thường Ngộ Xuân vội nói:
- Lão đạo gia, ngài đừng gọi anh hùng, hào kiệt gì, cứ gọi trống không Ngộ Xuân là được rồi.
Trương Tam Phong nói:
- Được rồi, Ngộ Xuân, năm nay anh bao nhiêu tuổi?
Thường Ngộ Xuân đáp:
- Cháu vừa đúng hai mươi.
Trương Tam Phong hỏi như thế vì thấy y tuy mặt đầy râu ria, nhưng ăn nói cử chỉ xem chừng còn trẻ lắm, nghe xong gật đầu:
- Anh như thế cũng chỉ mới lớn, tuy đầu nhập ma giáo, nhưng sa chân chưa sâu, nếu biết sớm quay đầu lại thì cũng chưa muộn. Ta có một câu muốn khuyên anh, anh nghe cũng đừng giận.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Lão đạo gia dạy bảo, tiểu nhân làm sao dám giận.
Trương Tam Phong nói:
- Tốt lắm, ta khuyên anh hôm nay thay lòng đổi dạ, bỏ tà giáo đi. Nếu anh không hiềm phái Võ Đương bản lĩnh kém cỏi, lão đạo sẽ bảo đại đồ nhi Tống Viễn Kiều thu anh làm đệ tử. Sau này anh hành tẩu giang hồ, hiên ngang oai phong, không ai dám coi thường anh cả.
Tống Viễn Kiều đứng đầu bảy đệ tử, danh chấn thiên hạ, những người tầm thường trong võ lâm được gặp một lần cũng không phải dễ. Võ Đương chư hiệp đến những năm gần đây mới bắt đầu thu đồ đệ nhưng tuyển chọn thật nghiêm, nếu không phải người có căn cốt tư chất, phẩm hạnh tính tình đều tốt, thì không thể nào được nhận vào làm môn hạ phái Võ Đương. Thường Ngộ Xuân xuất thân ma giáo, người thường nghe tới đã nhíu mày, vậy mà được Trương Tam Phong biệt đãi, muốn y đầu nhập môn hạ Tống Viễn Kiều, cứ như người trong võ học thì thật là một phúc duyên cực kỳ khó gặp trên đời.
Nào ngờ Thường Ngộ Xuân khẳng khái nói:
- Tiểu nhân được Trương chân nhân coi trọng, thực cảm kích không để đâu cho hết. Thế nhưng tiểu nhân đã thuộc Minh giáo rồi, suốt đời không thể nào bội giáo được.
Trương Tam Phong lại khuyên thêm mấy câu nữa, Thường Ngộ Xuân kiên quyết không nghe. Trương Tam Phong thấy y chấp mê không tỉnh ngộ, chỉ còn nước lắc đầu thở dài, nói:
- Còn tiểu cô nương này …
Thường Ngộ Xuân nói:
- Lão đạo trưởng không lo, cha cô này vì tôi mà chết, tiểu nhân sẽ tìm cách chiếu liệu cho.
Trương Tam Phong nói:
- Được rồi, nhưng anh không được để cho nó gia nhập quí giáo đâu nhé.
Thường Ngộ Xuân đáp:
- Không biết chúng tôi có làm tội ác gì lớn lao mà ai ai đều khinh thị, coi người trong Minh giáo như rắn độc, thú dữ. Vâng, đạo trưởng đã dặn như thế, tiểu nhân xin tuân mệnh.
Trương Tam Phong ôm Vô Kỵ vào lòng, nói:
- Nếu thế thì mình từ biệt nhau nơi
đây.
Ông không muốn dây dưa với người trong ma giáo, nên bốn chữ “sau này gặp lại” không nói ra. Thường Ngộ Xuân lại bái tạ một lần nữa. Chu Chỉ Nhược nói với Trương Vô Kỵ:
- Tiểu tướng công, tướng công mỗi ngày nhớ ăn cho no, để lão đạo gia khỏi lo lắng.
Trương Vô Kỵ nước mắt tuôn tràn, nghẹn ngào nói:
- Đa tạ cô có lòng tốt, thế nhưng … thế nhưng ta cũng chẳng còn bao nhiêu ngày để ăn đâu.
Trương Tam Phong lòng buồn bã, lấy tay áo, chùi nước mắt trên má Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược kinh hãi hỏi lại:
- Sao thế? Ngươi … ngươi …
Trương Tam Phong nói:
- Tiểu cô nương, lòng dạ cô thật tốt, chỉ mong sau này cô đi theo con đường chính đáng, nhất quyết đừng rơi vào vòng tà ma.
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Vâng, thế còn vị tiểu tướng công này nói là chẳng còn bao nhiêu ngày để ăn là sao?
Trương Tam Phong lặng lẽ không trả lời. Thường Ngộ Xuân nói:
- Trương chân nhân, lão nhân gia công lực thâm hậu, thần thông quảng đại, vị tiểu gia này trúng độc dĩ nhiên không phải nhẹ, có thể hóa giải được chăng?
Trương Tam Phong đáp:
- Được chứ.
Thế nhưng tay trái ông thõng bên dưới xua xua mấy cái, ý muốn nói là mặc dù bệnh tình y coi như vô phương nhưng không muốn cho Vô Kỵ biết. Thường Ngộ Xuân thấy ông xua tay, giật mình kinh hoảng, nói:
- Tiểu nhân bị nội thương nặng, đang định đi nhờ một vị thần y chữa cho, sao không cho vị tiểu gia này đi luôn thể?
Trương Tam Phong lắc đầu đáp:
- Hàn độc đã chạy khắp tạng phủ, thuốc men tầm thường chữa không khỏi được đâu, chỉ còn … chỉ còn từ từ hóa giải thôi.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Thế nhưng vị thần y này quả có năng lực cải tử hoàn sinh.
Trương Tam Phong sững người, chợt nghĩ ra bèn hỏi:
- Ngươi có phải định nói tới “Điệp Cốc Y Tiên” chăng?
Thường Ngộ Xuân đáp:
- Chính ông ta, thì ra lão đạo trưởng cũng đã nghe tới tên Hồ sư bá của tiểu nhân.
Trương Tam Phong trù trừ, nghĩ thầm: “Ta đã nghe gã Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu này tuy y đạo cực kỳ cao minh, nhưng lại là người trong ma giáo, xưa nay võ lâm nhân sĩ không ai muốn nói tới. Huống chi tính tình y lại hết sức quái dị, chỉ cần là người trong ma giáo y sẽ tận lực cứu chữa, không lấy một đồng, còn người ngoài cầu y, dù cả vạn lượng vào chồng trước mặt y cũng không đoái hoài đến, thành thử còn một cái ngoại hiệu “Kiến Tử Bất Cứu”. Nếu quả là người đó thì đành để Vô Kỵ hàn độc phát tác mà chết còn hơn để y rơi vào vòng ma giáo”.
Thường Ngộ Xuân thấy ông nhíu mày suy nghĩ, hiểu rõ tâm ý của Trương Tam Phong liền nói:
- Trương chân nhân, Hồ sư bá tuy trước nay không chữa bệnh cho người ngoại đạo, nhưng tiểu nhân được lão đạo trưởng cứu, đại ân thâm trọng, Hồ sư bá không thể không phá lệ. Nếu ông ấy không chịu ra tay thì tiểu nhân nhất định không để yên.
Trương Tam Phong nói:
- Vị Hồ tiên sinh đó y thuật như thần, ta cũng đã từng nghe tiếng. Có điều hàn độc trong thân thể Vô Kỵ, không phải tầm thường …
Thường Ngộ Xuân lớn tiếng nói:
- Vị tiểu gia này nếu như cùng lắm trị không xong, thì đằng nào cũng chết, còn có gì mà phải lo?
Y tính tình sảng trực, bụng nghĩ sao liền nói ra không kiêng dè gì cả. Trương Tam Phong nghe nói “thì đằng nào cũng chết”, trong lòng chấn động nghĩ thầm: “Tên này ăn nói lỗ mãng nhưng quả không sai, xem ra Vô Kỵ chỉ còn sống được độ một tháng nữa thôi, thôi thì đành đánh liều cầu may vậy”. Ông trước nay giao thiệp với ai luôn luôn hết lòng hết dạ, coi ai cũng như mình không nghi ngại, Thường Ngộ Xuân này quả là người trọng nghĩa, thế nhưng Vô Kỵ là giọt máu duy nhất của đứa học trò yêu, nay bảo ông giao vào tay một đệ tử ma giáo, tà ác nổi danh, làm sao có thể yên tâm, thành ra nhất thời không sao quyết định được.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Trương chân nhân không muốn đến gặp Hồ sư bá, điều đó cháu cũng hiểu rồi. Trước nay chính tà hai bên không đứng chung, Trương chân nhân là đại tông sư đương thời, lẽ nào đi cầu tà ma ngoại đạo? Hồ sư bá tính tính cổ quái, gặp Trương chân nhân ăn nói vô lễ, hai bên lại gây chuyện không chừng. Vị Trương huynh đệ này tốt hơn do cháu đưa tới, nhưng chắc Trương chân nhân không an lòng. Thôi thì thế này, cháu đưa Trương huynh đệ tới nhờ Hồ sư bá xin ông ấy từ từ cứu chữa, sau đó cháu sẽ lên núi Võ Đương làm con tin. Trương huynh đệ nếu như có gì, Trương chân nhân cứ một chưởng đánh cháu chết là xong.
Trương Tam Phong không khỏi bật cười, nghĩ thầm nếu như Trương Vô Kỵ có gì sơ sẩy, ta đánh ngươi chết để làm chi? Nếu ngươi không lên núi Võ Đương thì ta biết đi đâu mà tìm? Thế nhưng trước mắt Vô Kỵ hàn độc đã đi vào gan phổi rồi, quả đúng là” đằng nào cũng chết”, ở lúc sinh tử này đành phải quyết định dứt khoát, bèn nói:
- Thế thì đành
gửi anh vậy. Thế nhưng phải nói trước, Hồ tiên sinh không được ép Vô Kỵ nhập giáo, phái Võ Đương chúng tôi cũng không chịu ơn quí giáo đâu.
Ông biết ma giáo hành sự ngụy bí, nếu như dính dấp với họ, họ sẽ luẩn quẩn với mình hoài, không biết hậu hoạn đến chừng nào, Trương Thúy Sơn đã thân bại danh liệt, thật là rành rành ra đấy. Thường Ngộ Xuân ngang nhiên đáp:
- Trương chân nhân coi Minh giáo chúng tôi chẳng ra gì cả, nhưng thôi cứ theo đúng lời dạy bảo là xong.
Trương Tam Phong nói:
- Anh thay ta chăm sóc cho Vô Kỵ, nếu như âm độc trong thân thể trừ được, thì anh dẫn nó lên núi Võ Đương. Còn việc anh lên núi làm con tin, cái đó không cần thiết.
Thường Ngộ Xuân đáp:
- Tiểu nhân xin hết sức cố gắng.
Trương Tam Phong nói:
- Còn tiểu cô nương này, ta dẫn lên núi Võ Đương, sẽ thu xếp lo liệu sau.
Thường Ngộ Xuân lên bờ dùng tay đào một cái hố dưới một gốc cây to, đem Chu công tử lột hết quần áo rồi mới đem chôn, quì trước phần mộ lạy mấy lạy. Thì ra qui củ của Minh giáo là “khỏa táng”, khi sinh ra không một mảnh vải che thân, thì khi chết đem chôn cũng không mặc quần áo. Trương Tam Phong không hiểu lý do, chỉ nghĩ thầm bọn người này làm gì cũng tà môn thần bí.
Sáng hôm sau, Trương Tam Phong dắt Chu Chỉ Nhược, chia tay cùng Trương Vô Kỵ và Thường Ngộ Xuân. Trương Vô Kỵ từ khi cha mẹ chết đến giờ, coi Trương Tam Phong như ông nội, bây giờ bất ngờ phải xa, không khỏi nước mắt ròng ròng. Trương Tam Phong ôn tồn nói:
- Vô Kỵ, khi nào cháu khỏi bệnh rồi, Thường đại ca sẽ đưa cháu về núi Võ Đương. Cháu ngoan, chỉ xa ông vài tháng, không có gì phải buồn.
Trương Vô Kỵ chân tay không cử động được nhưng nước mắt không ngừng chảy dài trên má. Chu Chỉ Nhược trở lại thuyền, lấy trong bọc ra một cái khăn tay, lau nước mắt cho nó, mỉm cười rồi nhét chiếc khăn vào trong túi Vô Kỵ, sau đó mới lên bờ.
Trương Vô Kỵ nhìn theo thái sư phụ cùng Chu Chỉ Nhược đi về hướng tây, thấy cô gái không ngớt quay đầu giơ tay vẫy nó, mãi đến khi đi khuất sau một hàng dương liễu mới thôi. Lúc này thằng bé thấy mình thê lương lẻ bóng, đau khổ vô chừng, không nhịn nổi khóc òa lên. Thường Ngộ Xuân nhíu mày hỏi:
- Trương huynh đệ, năm nay chú bao nhiêu tuổi?
Trương Vô Kỵ nghẹn ngào đáp:
- Mười hai tuổi.
Thường Ngộ Xuân nói:
- Hay nhỉ, mười hai tuổi rồi, đâu có còn bé bỏng gì nữa, vậy mà khóc hu hu, không biết xấu. Hồi ta mười hai tuổi, bị đánh không biết mấy trăm lần, nhưng không bao giờ phải chảy nước mắt cả. Nam tử hán đại trượng phu, máu chảy thì được, nước mắt chảy thì không. Nếu chú mày còn thút thít không nín, ta sẽ cho chú mày mấy cái tát.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi không muốn rời xa thái sư phụ nên tôi khóc, còn ai đánh tôi tôi không khóc đâu. Anh muốn đánh tôi cứ việc đánh, hôm nay anh đánh tôi một quyền, ngày sau tôi đánh lại anh mười quyền.
Thường Ngộ Xuân ngạc nhiên, cười ha hả, nói:
- Hảo huynh đệ, hảo huynh đệ, thế mới là một nam tử có cốt khí chứ. Chú mày ghê gớm như thế, làm sao ta dám đánh chú mày.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi cử động còn không được, tại sao đại ca không dám đánh tôi?
Thường Ngộ Xuân cười đáp:
- Hôm nay ta đánh chú mày, sau này chú mày theo học thái sư phụ võ công, thần quyền của phái Võ Đương, làm sao ta chịu mổi mười cú đấm.
Trương Vô Kỵ nghe vậy cũng bật cười, thấy vị Thường đại ca này tuy tướng mạo hung dữ nhưng không phải là người xấu. Thường Ngộ Xuân thuê giang thuyền đi xuống Hán Khẩu, đến Hán Khẩu đổi qua thuyền lớn đi theo Trường giang xuôi về hướng đông. Nơi Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu ẩn cư là Hồ Điệp Cốc[3], ở tại bên cạnh hồ Nữ Sơn, thuộc Hoàn Bắc[4].
Trường giang từ Hán Khẩu đến Cửu Giang, chảy theo hướng đông nam, qua Cửu Giang rồi mới bẻ theo hướng đông bắc đi vào cảnh giới đất Hoàn. Hai năm trước, Trương Vô Kỵ từng đi thuyền ngược lên hướng bắc, nhưng lúc đó có cha mẹ cùng đi, lại có nhị bá Du Liên Châu đồng hành, đường đi biết bao nhiêu thích thú. Hôm nay cha mẹ đều đã mất cả rồi, còn mình sống dở chết dở theo Thường Ngộ Xuân đi chữa bệnh, sướng khổ hai đằng, thật cách nhau một trời một vực. Thế nhưng y sợ Thường Ngộ Xuân nổi cáu, tuy trong lòng đau buồn nhưng không dám chảy nước mắt. Lúc đó trên thân thể y những huyệt đạo Trương Tam Phong điểm đã tự động giải khai rồi, mỗi khi hàn độc phát tác đau đớn chịu không nổi, y chỉ còn cách nghiến răng cố chịu, đến nỗi môi trên môi dưới đầy vết răng, mà âm hàn xâm nhập mỗi ngày mỗi nặng thêm.
Khi đến Qua Phụ ở hạ du Tập Khánh, Thường Ngộ Xuân bỏ thuyền lên bờ, mướn một cỗ xe lớn, đi về hướng bắc, vài ngày sau đến Quang Minh ở phía đông của Phượng Dương. Thường Ngộ Xuân biết rằng vị Hồ sư bá này không thích
người ngoài biết được chỗ ông ta ẩn cư, khi đến cách hồ Nữ Sơn khoảng hai chục dặm thì bắt xe phải quay đầu, cõng Trương Vô Kỵ trên lưng, băng băng đi tới.
Y vẫn tưởng hai chục dặm đi một mạch là tới, nào ngờ vì bị trúng hai âm chưởng của phiên tăng, nội thương khá nặng, chỉ đi được một dặm thì gân cốt đã mỏi nhừ, đau nhức, thở hồng hộc bước đi không nổi. Trương Vô Kỵ không nỡ để y đi tiếp nên nói:
- Thường đại ca, để tiểu đệ đi một mình cũng được, đại ca đừng phí sức.
Thường Ngộ Xuân tức khí, giận dữ nói:
- Bình thời ta đi một hơi cả trăm dặm chưa thấy mệt, không lẽ mấy tên tặc hòa thượng đánh có hai chưởng, đã đi không nổi sao?
Y hiếu thắng càng ra sức đi nhanh hơn. Thế nhưng nội thương vốn đã trầm trọng, lại thêm nóng nảy cố sức, chỉ được vài chục trượng, đã thấy các khớp xương trong người như muốn rời ra, nhưng không chịu nhận mình yếu, cũng không chịu bỏ Vô Kỵ xuống, chỉ còn loạng choạng đi từng bước một.
Đi như thế thật là chậm, đến lúc trời tối, chưa được một nửa đường, đường núi lại cheo leo, càng vào sâu càng khó đi. Đi đến giữa một khu rừng, Thường Ngộ Xuân bỏ Trương Vô Kỵ xuống đất, nằm thẳng cẳng nghỉ mệt. Y lấy trong bọc ra mấy cái bánh trái chia cho Vô Kỵ một nửa cùng ăn. Thường Ngộ Xuân nghỉ độ nửa giờ, lên đường đi tiếp. Vô Kỵ cực lực khuyên y nên ngủ lại trong rừng một đêm, đợi trời sáng hãy tiếp tục. Thường Ngộ Xuân nghĩ quả thực nếu trời tối thế này mà đi tiếp, nửa đêm nửa hôm đến kinh động Hồ Thanh Ngưu, thể nào cũng làm ông ta nổi giận, đành nghe lời. Hai người ngồi dưới một gốc cây to, dựa vào nhau mà ngủ.
Ngủ đến nửa đêm, hàn độc trong người Trương Vô Kỵ lại phát tác, run rẩy không ngừng. Y sợ sẽ làm Thường Ngộ Xuân tỉnh dậy nên không dám kêu, chỉ cố chịu đựng. Ngay lúc đó bỗng có tiếng binh khí va chạm nhau từ xa vọng tới, lại có tiếng người:
- Định chạy đi đâu?
- Chặn bên phía đông, dồn y vào trong rừng.
- Kỳ này nhất định không cho thằng trọc chạy thoát.
Sau đó có tiếng bước chân, có mấy người chạy vào trong rừng. Thường Ngộ Xuân kinh hoảng tỉnh giấc, tay phải rút đơn đao ra, tay trái ôm Trương Vô Kỵ, định sẽ vừa đánh vừa chạy. Trương Vô Kỵ nói khẽ:
- Hình như không phải họ đi kiếm bọn mình đâu.
Thường Ngộ Xuân gật đầu, nép mình sau gốc cây nhìn ra, trong đêm tối thấy có bảy tám người vây đánh một người, người đó tay không, song chưởng bay múa, ép cho địch nhân không thể tới gần được. Đánh nhau một hồi, vòng vây những người kia dần dần thắt lại.
Một hồi sau, ánh trăng non từ trong đám mây chui ra chiếu xuống, dãi khắp bốn bề, thấy người bị vây kia là một nhà sư cao gầy chừng bốn chục tuổi mặc áo bào trắng. Những người vây đánh y có tăng có đạo, lại có người mặc theo lối tục gia, lại có thêm hai người đàn bà, tổng cộng tám người cả thảy. Hai nhà sư mặc áo màu xám tro một người cầm thiền trượng, một người cầm giới đao, mỗi lần thiền trượng đánh ngang giới đao múa che bên cạnh thì gió bay ra khiến lá cây rụng xuống lả tả. Một đạo nhân tay cầm trường kiếm, thân pháp nhanh nhẹn, dưới ánh trăng múa ra lấp lóe kiếm hoa từng vùng. Một hán tử thấp bé cầm song đao, lăn qua lăn lại dưới đất, dùng Địa Đường đao pháp tấn công hạ bàn của nhà sư áo trắng.
Hai người đàn bà thân hình mảnh dẻ, đều cầm trường kiếm, kiếm pháp thật là linh động nhẹ nhàng. Đấu được một hồi, một trong hai người quay ngang, nửa mặt chiếu dưới ánh trăng, Trương Vô Kỵ bất giác suýt tí nữa kêu lên: “Kỷ cô nương”. Người đó chính là vị hôn thê của Ân Lê Đình Kỷ Hiểu Phù. Lúc mới xem tám người vây đánh một người, Trương Vô Kỵ thấy họ lấy nhiều chống ít không công bình, lòng mong thầm hòa thượng nọ có thể đột phá vòng vây chạy thoát. Bây giờ nhận ra được Kỷ Hiểu Phù rồi, tin chắc nhà sư nọ là kẻ địch của Kỷ cô nương ắt không phải kẻ tốt, lòng liền xoay qua ủng hộ phe Kỷ Hiểu Phù.
Năm xưa khi cha mẹ tự tận, Kỷ Hiểu Phù từng ngọt ngào an ủi nó, tuy Vô Kỵ không nhận cái vòng vàng đeo cổ cô ta cho, nhưng sau nghĩ lại cái hảo ý của cô ta thật đáng cảm kích. Vô Kỵ thấy hòa thượng bị vây kia võ công thật cao cường, chưởng pháp lúc nhanh lúc chậm, hư hư thực thực, biến huyễn đa đoan, khi ra tay nhanh thì ngay cả đường đi của bàn tay y cũng không nhìn rõ. Bên Kỷ Hiểu Phù tuy đông người nhưng đánh lâu y vẫn không chịu kém.
Bỗng nghe một hán tử quát lên:
- Dùng ám khí tấn công.
Một hán tử và một đạo nhân liền dạt qua hai bên, sau đó nghe tiếng vèo vèo liên tiếp, thiết đạn và phi đao bắn ào ào vào hòa thượng áo trắng khiến cho nhà sư không chống đỡ nổi. Đạo nhân râu dài cầm kiếm quát lên:
- Bành hòa thượng, bọn ta
không muốn giết ngươi đâu, việc gì ngươi phải đánh đến cùng? Ngươi đem Bạch Qui Thọ đưa ra, chúng ta sẽ cười mà tha liền, có phải hay không?
Thường Ngộ Xuân giật mình kinh hãi, hạ giọng:
- Vị đó là Bành hòa thượng?
Khi trước đi thuyền, Vô Kỵ từng nghe cha mình kể chuyện dương đao lập uy trên Vương Bàn Sơn đảo cho Du nhị bá nghe, biết tại sao các môn phái kết oán thù với Thiên Ưng giáo. Bạch Qui Thọ chính là đàn chủ Huyền Võ đàn còn sống sót, lâu nay các môn phái đánh nhau với Thiên Ưng giáo cũng vì muốn Bạch đàn chủ thổ lộ tung tích của Tạ Tốn. Y nghĩ thầm: “Không lẽ vị Bành hòa thượng này cũng là nhân vật trong giáo phái của mẹ ta?”.
Chỉ nghe Bành hòa thượng lớn tiếng nói:
- Bạch đàn chủ đã bị các ngươi đánh trọng thương, không nói gì ta với y có chút uyên nguyên, dù chẳng liên quan gì cũng đâu có thể thấy người chết mà không cứu?
Đạo nhân râu dài nói:
- Cái gì mà “kiến tử bất cứu”? Bọn ta có định giết y đâu, chỉ muốn biết tin tức của một người thôi.
Bành hòa thượng đáp:
- Các ngươi muốn hỏi chỗ ở của Tạ Tốn, sao không đến tìm phương trượng chùa Thiếu Lâm mà hỏi?
Một tăng nhân mặc áo xám tro liền kêu lên:
- Đó là ác kế của yêu nữ Thiên Ưng giáo Ân Tố Tố giá họa cho chùa Thiếu Lâm ta, ai tin cho nổi?
Nhà sư đó hiển nhiên thuộc phái Thiếu Lâm. Trương Vô Kỵ nghe y nhắc đến tên của mẹ mình, vừa hãnh diện, vừa đau lòng, nghĩ thầm: “Mẹ ta qua đời đã hai năm, nhưng vẫn còn làm cho các ngươi phải đau đầu”. Bỗng nghe đạo nhân đứng bên ngoài vòng kêu lên:
- Tất cả nằm xuống.
Sáu người nghe thế, vội vàng hụp xuống, chỉ thấy bạch quang lấp loáng, năm thanh phi đao vù vù phóng ra, nhắm thẳng vào đầu Bành hòa thượng. Đúng ra Bành hòa thượng chỉ cần cúi đầu, khom lưng nhào về phía trước, hay dùng thiết bản kiều ngửa người về sau là phi đao đã bay trượt ra rồi, nhưng khi đó dưới đất sáu người cùng dựng binh khí lên, chặn hết hạ tam lộ của y, làm sao cúi mình né tránh được?
Trương Vô Kỵ kinh hãi, thấy Bành hòa thượng nhảy vọt lên, năm ngọn phi đao bay dưới chân, tuy y né được nhưng thiền trượng giới đao của hai nhà sư Thiếu Lâm, kiếm của đạo nhân râu dài vẫn đâm tới đùi y. Bành hòa thượng còn đang ở trên không, đành phải mạo hiểm, chưởng trái đánh ra, nghe bịch một tiếng, trúng đầu một tăng nhân, tay phải liền móc một cái, cướp ngay được giới đao của y, thuận thế gạt vào thiền trượng, mượn sức thân hình liền bay ra xa hai trượng.
Nhà sư Thiếu Lâm bị đánh trúng thiên linh cái chết ngay lập tức. Những người khác liền giận dữ hò hét đuổi theo, còn Bành hòa thượng chân khập khiễng ngã lăn ra đất, bảy người liền bao quanh y. Nhà sư cầm thiền trượng chẳng khác gì con hổ điên, liên tiếp đánh xuống mồm gào:
- Bành hòa thượng, ngươi giết sư đệ ta, ta quyết thí mạng với ngươi.
Đạo nhân râu dài kêu lên:
- Đùi y trúng yết vĩ câu[5] ám khí của ta rồi, chỉ chốc lát chất độc phát tác là chết thôi.
Quả nhiên chân Bành hòa thượng không đứng vững, lảo đảo không yên. Thường Ngộ Xuân nghĩ thầm: “Y là một đại nhân vật trong Minh giáo ta, không thể không cứu”. Dù y đang bị trọng thương nhưng vẫn định xông ra cứu người, nên hít một hơi dài, chân trái nhảy tới. Nào ngờ y hô hấp quá nhanh, bước lại dài liền động đến vết thương trên ngực, đau quá muốn xỉu. Ngay lúc đó Bành hòa thượng nhảy vọt lên, cũng ngã lăn ra, có lẽ chất độc làm y chết rồi. Thường Ngộ Xuân cố nhịn đau, giương mắt xem động tĩnh, thấy bảy người kia vẫn không dám đến gần Bành hòa thượng.
Đạo nhân râu dài nói:
- Hứa sư đệ, ngươi bắn hai ngọn phi đao xem thế nào.
Đạo nhân nọ liền giơ tay phải lên, nghe cách cách hai tiếng, một ngọn phi đao bắn trúng vai phải, một ngọn phi đao bắn trúng đùi trái của Bành hòa thượng. Bành hòa thượng không động đậy, hiển nhiên không còn sống nữa. Đạo nhân râu dài nói:
- - Tiếc quá, tiếc quá, y chết mất rồi, không biết y dấu Bạch Qui Thọ ở đâu?
Bảy người lập tức tiến lên vây quanh xem xét. Bỗng nghe bình bình bình bình bình liên tiếp, năm người bị đánh văng ra ngoài. Bành hòa thượng liền đứng lên, đầu vai và đùi vẫn còn cắm phi đao. Thì ra đùi y trúng ám khí tẩm độc, biết rằng không thể tiếp tục đấu, bèn giả cách chết, dụ địch tới gần, dùng Đại Phong Vân Phi Chưởng thủ pháp nhanh như điện chớp đánh vào ngực năm người đàn ông. Y nằm trên mặt đất đã ám vận chân khí chờ sẵn, nên năm chưởng đó thật là cương mãnh lợi hại.
Kỷ Hiểu Phù và sư tỉ đồng môn Đinh Mẫn Quân giật mình kinh hãi, vội vàng nhảy ra ngoài, nhìn lại năm người đồng bạn, người nào cũng ứa máu mồm, hai người công lực kém hơn luôn mồm kêu la. Thế nhưng Bành hòa thượng vận kình gấp rút, cũng đứng không vững lảo đảo muốn
ngã. Gã đạo nhân râu dài nói:
- Đinh Kỷ hai vị cô nương, mau dùng kiếm đâm y đi.
Hai bên chín người thì một tăng nhân Thiếu Lâm đã chết, Bành hòa thượng và năm người khác đều bị trọng thương, chỉ còn Kỷ Hiểu Phù và Đinh Mẫn Quân là chưa sao cả. Đinh Mẫn Quân nghĩ thầm: “Bộ ngươi tưởng ta không biết dùng kiếm hay sao mà ngươi phải chỉ điểm?” Thị liền sử chiêu Hư Thức Phân Kim vung kiếm lên chém xuống cổ Bành hòa thượng. Bành hòa thượng thở dài một tiếng, nhắm mắt chờ chết, bỗng nghe một tiếng leng keng binh khí chạm nhau, mở mắt ra nhìn, thì ra Kỷ Hiểu Phù vung kiếm gạt binh khí của sư tỉ ra. Đinh Mẫn Quân ngạc nhiên hỏi:
- Sao thế?
Kỷ Hiểu Phù đáp:
- Sư tỉ, Bành hòa thượng chưởng hạ lưu tình, mình không nên đuổi tận giết tuyệt.
Đinh Mẫn Quân nói:
- Cái gì mà chưởng hạ lưu tình, đó là vì y không còn sức đấy chứ.
Thị liền gay gắt nói:
- Bành hòa thượng, sư muội của ta lòng dạ từ bi, cứu mạng cho ngươi, vậy Bạch Qui Thọ đang ở đâu mau nói cho ta nghe.
Bành hòa thượng ngửa cổ lên cười lớn, nói:
- Đinh cô nương, cô xem Bành Oánh Ngọc này nhẹ quá. Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương đành chịu tự vẫn mà chết, nhưng quyết không nói ra chỗ ở của nghĩa huynh. Bụng dạ của Bành Oánh Ngọc này tuy không can đảm nghĩa liệt được như Trương ngũ hiệp, dù bất tài nhưng cũng cố học cho được như thế.
Nói tới đây y hộc máu, phải ngồi bệt xuống. Đinh Mẫn Quân bước tới, giơ chân phải đá luôn ba cái vào chỗ mạng sườn để y không còn cách nào bất ngờ tập kích được nữa. Mấy câu đó của Bành hòa thượng khiến nhiệt huyết trong lòng Vô Kỵ dâng lên, đối với y vừa thấy thân cận, lại sinh cảm kích. Cha y Trương Thúy Sơn tự vẫn chết, những người trong danh môn chính phái khi nói tới đều cho rằng: “Một thiếu niên anh hiệp tài tuấn như thế, chỉ vì lụy phải tà giáo yêu nữ, sẩy một bước thành cái hận nghìn thu, đến nỗi thân tử danh liệt, để cả phái Võ Đương đều phải chịu chung cái nhục”.
Những câu đó tuy Trương Vô Kỵ không nghe thấy nhưng y tại thái sư phụ và các sư thúc bá ngôn ngữ thần sắc, thấy họ ngoài việc thương tâm không khỏi oán trách giận dữ đối với mẫu thân, cho rằng cha y suốt đời việc gì cũng tốt, chỉ vì lấy vợ nhầm mà ra nông nỗi, chưa ai như Bành hòa thượng tỏ lời khâm phục cả.
Đinh Mẫn Quân lạnh lùng đáp:
- Trương Thúy Sơn mắt mù nên mới kết hôn cùng tà giáo yêu nữ, cái đó chính là tự hạ mình, có gì đáng phải học? Phái Võ Đương của y …
Kỷ Hiểu Phù xen vào:
- Sư tỉ …
Đinh Mẫn Quân nói:
- Ngươi đừng lo, ta không nói gì tới Ân lục hiệp đâu mà sợ.
Thị rung kiếm một cái chỉ vào mắt phải của Bành hòa thượng, nói:
- Nếu ngươi không nói, ta đâm mù mắt phải của ngươi trước, sau đó sẽ đâm mù mắt trái, kế đó đâm thủng tai phải, rồi đâm thủng tai trái, rồi cắt mũi ngươi, nói chung là ta không cho ngươi chết yên chết lành đâu.
Mũi kiếm của thị sáng quắc chỉ cách mắt Bành hòa thượng chừng nửa tấc, không ngừng rung động. Bành hòa thượng giương to đôi mắt, lạnh lùng nói:
- Ta thường ngưỡng mộ Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi hành sự ác độc, những học trò bà ta cũng chẳng khác bao nhiêu. Bành Oánh Ngọc hôm nay rơi vào tay ngươi, ngươi cứ việc giở những trò kiệt tác của phái Nga Mi xem thử.
Đinh Mẫn Quân lông mày dựng lên, hằn học nói:
- Thằng trọc chết toi, ngươi dám làm nhục sư môn của ta ư?
Trường kiếm liền lập tức phóng tới, đâm mù mắt phải của Bành Oánh Ngọc, rồi đưa qua đụng vào mí mắt bên trái. Bành hòa thượng cười ha hả, mắt phải máu chảy ròng ròng, mắt bên trái vẫn trừng trừng nhìn y thị. Đinh Mẫn Quân bực mình, quát lên:
- Ngươi không phải là người của Thiên Ưng giáo, việc gì phải vì chết vì Bạch Qui Thọ?
Bành Oánh Ngọc hiên ngang đáp:
- Đại trượng phu có đạo lý của mình, dù ta có nói cho ngươi nghe, ngươi cũng chẳng hiểu được đâu.
Đinh Mẫn Quân thấy y không còn cách gì phản kháng, nhưng thần sắc đối với mình vẫn tỏ vẻ khinh miệt, trong cơn phẫn nộ liền đâm tới cho y mù nốt mắt trái. Kỷ Hiểu Phù vung kiếm nhẹ nhàng gạt ra, nói:
- Sư tỉ, gã hòa thượng này cứng đầu lắm, làm cách nào y cũng không nói đâu, giết y cũng uổng thôi.
Đinh Mẫn Quân nói:
- Y dám chửi sư phụ tâm địa độc ác, để ta cho y coi tâm địa độc ác cỡ nào. Bọn yêu nhân trong ma giáo, để sống trên đời chỉ làm hại người lương thiện, giết được đứa nào là thêm công đức đứa ấy.
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Tên này xem ra là một hán tử cứng cỏi. Sư tỉ, theo ý tiểu muội mình nên tha cho hắn.
Đinh Mẫn Quân lớn tiếng nói:
- Hai vị sư huynh phái Thiếu Lâm một chết một bị thương, hai vị đạo trưởng phái Côn Lôn bị thương nặng, hai vị đại ca phái Hải Sa bị thương cũng không nhẹ, chẳng lẽ y hạ thủ
không độc ác hay sao? Để ta đâm mù nốt mắt trái y đi, rồi hãy tra hỏi.
Tiếng “hỏi” vừa dứt, kiếm liền lóe lên đâm luôn vào mắt trái Bành hòa thượng. Kỷ Hiểu Phù liền vung kiếm, nhẹ nhàng khéo léo gạt kiếm của Đinh Mẫn Quân ra, nói:
- Sư tỉ, người này dĩ nhiên không còn sức lực chống trả, nếu mình đả thương y, trên giang hồ truyền ra, không khỏi không tốt cho phái Nga Mi chúng ta.
Đinh Mẫn Quân nhướng lông mày, quát:
- Đứng tránh ra, đừng xen vào chuyện của ta.
Kỷ Hiểu Phù đáp:
- Vâng.
Trường kiếm của Đinh Mẫn Quân lại rung động đâm vào mắt trái của Bành hòa thượng, lần này tăng thêm ba phần kình lực. Kỷ Hiểu Phù trong lòng không nỡ, lại đưa kiếm gạt ra. Nàng thấy sư tỉ kiếm thế mạnh mẽ, khi đưa kiếm gạt phải dùng nội lực, hai thanh kiếm chạm nhau, nghe keng một tiếng tóe lửa. Hai người bị chấn động khiến tay tê chồn, phải lùi hai bước. Đinh Mẫn Quân giận quá, quát lên:
- Ngươi năm lần bảy lượt bảo vệ cho tên yêu tăng ma giáo, chẳng hay có ý gì?
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Tiểu muội chỉ muốn sư tỉ đừng hành hạ y, muốn y nói nơi chốn của Bạch Qui Thọ cứ từ từ hỏi được rồi.
Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
- Bộ ngươi tưởng ta không biết bụng dạ ngươi hay sao. Ngươi thử hỏi lòng thì biết: “Tại sao Ân lục hiệp của phái Võ Đương mấy lần thúc giục làm đám cưới ngươi cứ việc cớ này cớ nọ, ngay cả cha ngươi hối thúc, ngươi thà bỏ nhà ra đi chứ không nghe?”.
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Việc riêng của tiểu muội có liên quan gì đến chuyện này đâu? Tại sao sư tỉ lại giằng hai chuyện làm một?
Đinh Mẫn Quân nói:
- Hai đứa mình ai chẳng biết, có điều trước mặt người ngoài không nên vạch áo cho người xem lưng đấy thôi. Ngươi thì thân tại Nga Mi nhưng lòng dạ thì để trong ma giáo.
Kỷ Hiểu Phù mặt tái nhợt, run run nói:
- Tiểu muội lúc nào cũng kính trọng sư tỉ, không bao giờ dám đắc tội, sao hôm nay sư tỉ lại làm nhục tiểu muội?
Đinh Mẫn Quân nói:
- Được rồi, nếu lòng dạ ngươi không phải hướng về ma giáo, thì ngươi thay ta dùng kiếm đâm mù mắt trái y xem nào.
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Bản môn từ khi Tiểu Đông Tà Quách tổ sư sáng phái tới nay, đồng môn không xuất gia làm ni cô, hay không chịu lấy chồng thật là nhiều, tiểu muội không muốn xuất giá cũng là chuyện thường. Tại sao sư tỉ cứ nhất định phải ép tiểu muội?
Đinh Mẫn Quân lạnh lùng đáp:
- Ta không phải muốn nghe ngươi nói chuyện vờ vĩnh. Ngươi không đâm mù mắt y, ta sẽ nói toạc chuyện của ngươi ra cho mọi người biết đó.
Kỷ Hiểu Phù dịu dàng nói:
- Sư tỉ, mong sư tỉ niệm tình đồng môn, đừng bức bách tiểu muội.
Đinh Mẫn Quân cười đáp:
- Ta có bắt ngươi làm điều gì khó khăn đâu. Sư phụ sai chúng ta đi nghe ngóng tin tức Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, gã hòa thượng này là đầu mối duy nhất có thể biết được. Y đã không cho biết lại còn sát thương bao nhiêu đồng bạn, ta đâm mù mắt phải của y, ngươi đâm mù mắt trái của y, cái đó cũng phải thôi, vì cớ gì ngươi không chịu xuống tay?
Kỷ Hiểu Phù hạ giọng:
- Y đối với chúng ta thủ hạ lưu tình, mình cũng nên nghĩ lại mà không nên đuổi tận giết tuyệt. Tiểu muội lòng dạ mềm yếu, không hạ thủ được.
Nói rồi nàng tra kiếm vào vỏ. Đinh Mẫn Quân cười nhạt:
- Ngươi lòng dạ mềm yếu ư? Sư phụ vẫn thường khen ngươi kiếm pháp tàn độc, tính tình cương nghị, rất giống sư phụ, đã có ý truyền y bát cho ngươi, ngươi làm sao lòng dạ mềm yếu được?
Hai sư tỉ muội đồng môn lời qua tiếng lại, mọi người nghe chẳng hiểu đâu vào đâu, bây giờ nghe nói thế, xem ra Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi rất thương yêu Kỷ Hiểu Phù, đã có ý truyền y bát cho nàng, Đinh Mẫn Quân trong lòng đố kỵ, lần này không biết nắm được cái bí mật gì của sư muội, nên định nói xấu nàng trước mặt mọi người. Trương Vô Kỵ vẫn cảm kích chuyện Kỷ Hiểu Phù đối với mình thân thiết, chăm lo khi trước, nay thấy nàng bị bức bách, chỉ hận không thể nhảy ra cho Đinh Mẫn Quân mấy cái tát tai.
Lại nghe Đinh Mẫn Quân nói:
- Kỷ sư muội, để ta hỏi đây. Hôm đó sư phụ triệu tập tất cả đồng môn đệ tử trên núi Nga Mi truyền thụ hai pho Diệt Kiếm và Tuyệt Kiếm chính lão nhân gia sáng tác, tại sao ngươi không đến? Để cho lão nhân gia phải nổi cơn lôi đình?
Kỷ Hiểu Phù đáp:
- Tiểu muội ở Cam Châu đột nhiên bị bệnh, không cử động được. Việc đó tiểu muội đã bẩm rõ sư phụ rồi, sao sư tỉ lại tự nhiên hỏi đến?
Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
- Chuyện này ngươi che mắt được sư phụ, nhưng đâu có che mắt được ta. Ta còn một câu hỏi, nếu ngươi chịu đâm mù mắt gã hòa thượng kia thì ta không truy vấn nữa.
Kỷ Hiểu Phù cúi đầu không trả lời, trong lòng dường như có điều khó nghĩ, nói nhỏ:
- Sư tỉ không còn nghĩ gì đến tình nghĩa đồng môn đồng học nữa
ư?
Đinh Mẫn Quân hỏi:
- Ngươi đâm hay không đâm?
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Sư tỉ cứ yên tâm, sư phụ nếu muốn truyền y bát cho, tiểu muội cũng nhất định không dám nhận đâu.
Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:
- Giỏi nhỉ. Ngươi nói như thế, chẳng hóa ra ta vì ghen tức với ngươi sao? Ta có điểm nào không bằng ngươi mà phải vị tình, mà phải để ngươi nhường cho? Ngươi có đâm hay không thì bảo?
Kỷ Hiểu Phù nói:
- Tiểu muội có làm gì sai quấy, nếu sư tỉ muốn trách phạt, tiểu muội đâu có dám không tuân theo? Ở đây có các bằng hữu môn phái khác, nếu sư tỉ bức bách …
Nói đến đây nàng sụt sùi rơi lệ.
Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
- Hừ, ngươi đừng giả vờ làm như đáng thương lắm đấy, trong bụng không biết đang rủa thầm ta những gì. Năm đó ngươi ở Cam Châu, không nhớ ba năm hay bốn năm trước nhỉ, ta nhớ không rõ lắm, chỉ có ngươi mới nhớ được thôi. Lúc đó có thực ngươi sinh bệnh không? Sinh thì có sinh, nhưng là sinh con thì có.
Kỷ Hiểu Phù nghe nói thế, lập tức xoay mình chạy đi. Đinh Mẫn Quân đã đoán trước nàng sẽ đào tẩu, phi thân lên trước, giơ trường kiếm ra cản ngay trước mặt, nói:
- Ta khuyên ngươi mau đâm mù mắt Bành hòa thượng đi, nếu không ta sẽ hỏi cha của đứa bé đó là ai? Sẽ hỏi tại sao ngươi là đệ tử danh môn chính phái mà lại đi che chở cho yêu tăng của ma giáo?
Kỷ Hiểu Phù ấp úng nói:
- Chị … chị để tôi đi.
Đinh Mẫn Quân chỉ trường kiếm vào ngực nàng, lớn tiếng:
- Ta hỏi ngươi, ngươi nuôi đứa nhỏ đó ở đâu? Ngươi là vị hôn thê của Ân Lê Đình Ân lục hiệp của phái Võ Đương, sao lại sinh con với người khác?
Câu nói trắng trợn đó vào tai mọi người ai nấy đều giật mình. Trương Vô Kỵ trong lòng hoang mang: “Kỷ cô nương là người tốt sao lại đối xử không phải với Ân lục thúc như thế?”. Y đối với việc trai gái dĩ nhiên chưa hiểu biết, nhưng Thường Ngộ Xuân, Bành hòa thượng, đạo nhân râu dài của phái Côn Lôn mọi người, ai ai cũng đều kinh ngạc.
Kỷ Hiểu Phù mặt nhợt nhạt, chạy lao về phía trước. Đinh Mẫn Quân đột nhiên hạ sát thủ, đâm tới một kiếm lút vào vai bên phải của sư muội tới tận xương. Kỷ Hiểu Phù bị thương không phải nhẹ, cũng không nhịn nữa, tay trái rút kiếm, nói:
- Sư tỉ, chị đã khăng khăng làm khó, tiểu muội không thể nể nang được nữa.
Đinh Mẫn Quân biết rằng hôm nay đã làm cho sư muội mất mặt, nói toạc chuyện bí mật của nàng ra rồi, ắt sẽ giết mình để bịt miệng. Võ công y thị không bằng Kỷ Hiểu Phù, thể nào cũng đánh thí mạng, sự việc thật là nguy hiểm, thành thử thừa cơ đâm trước một kiếm vào vai bên phải. Nghe nàng nói thế, Đinh Mẫn Quân lập tức sử chiêu Nguyệt Lạc Tây Sơn, đâm thẳng vào bụng dưới của sư muội. Kỷ Hiểu Phù vai phải đau đớn, thấy sư tỉ sử chiêu thứ hai không chút dung tình, lập tức dùng tay trái trả lại một chiêu.
Hai chị em đều biết rõ kiếm pháp của nhau, thế công thế thủ tuy rất nghiêm nhặt nhưng cũng rất kịch liệt. Những người khác ai nấy đều bị trọng thương, không cách nào khuyên giải, cũng không giúp bên nào được, chỉ còn cách giương mắt nhìn, trong lòng không khỏi ngầm bội phục: “Phái Nga Mi là một trong bốn đại môn phái hiện nay, kiếm thuật quả nhiên cao minh, danh bất hư truyền”.
Vết thương trên vai Kỷ Hiểu Phù xuất huyết không ngừng, càng đấu máu chảy càng nhiều, nàng phải luôn luôn sử sát chiêu mong đẩy được Đinh Mẫn Quân giãn ra, để có đường bỏ chạy. Thế nhưng nàng dùng tay trái sử kiếm nên không mấy thành thục, lại thụ thương nên võ công chỉ còn độ ba phần. Thế nhưng Đinh Mẫn Quân vốn dĩ rất ngại người sư muội này, không dám tiến vào thật gần, chỉ cố đánh dây dưa chờ nàng chảy máu nhiều tự nhiên sẽ suy kiệt. Kỷ Hiểu Phù cước bộ chậm dần, kiếm pháp bắt đầu tán loạn, xem ra không còn chịu nổi nữa. Đinh Mẫn Quân lại đâm soẹt soẹt hai cái trúng đầu vai phải của Kỷ Hiểu Phù, khiến cho một nửa người nàng dính đầy máu tươi.
Bành hòa thượng đột nhiên cao giọng:
- Kỷ cô nương, cô lại đâm mắt trái tôi đi, Bành hòa thượng này đối với cô cảm kích không cùng.
Y nghĩ đến Kỷ Hiểu Phù cam chịu hi sinh tính mạng bảo vệ cho mình đã là chuyện khó, huống chi Đinh Mẫn Quân lại còn đem thanh danh trinh bạch ra uy hiếp, đối với đàn bà còn nặng hơn cái chết nhiều. Thế nhưng lúc này dù Kỷ Hiểu Phù có đến đâm mù mắt Bành hòa thượng thì Đinh Mẫn Quân cũng không bỏ qua, y thị biết nếu hôm nay không thừa cơ hạ thủ trừ khử người sư muội này, ngày sau họa hoạn không biết đâu mà lường được.
Bành hòa thượng thấy Đinh Mẫn Quân kiếm chiêu độc ác, liền lớn tiếng chửi:
- Đinh Mẫn Quân, ngươi thực là mặt dầy. Thảo nào trên giang hồ gọi ngươi là Độc Thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân cũng phải. Ngươi bụng dạ như rắn rết, mặt mày xấu hơn cả
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro