Y PHÁP HỌC
TỬ THI HỌC
Tử thi học là môn học nghiên cứu mọi vấn đề có liên quan đến sự chết, bắt nguồn từ khám nghiệm tử thi y pháp và được coi là nền tảng của Y pháp hình sự.
Chết là hiện tượng ngừng hoạt động không hồi phục các chức năng thần kinh, hô hấp, tuần hoàn và sau đó là sự hủy hoại của tổ chức cơ thể do không còn được nuôi dưỡng. Do đó cần xác định được nạn nhân đã chết thực sự hay chưa để có thể tiến hành các nhiệm vụ tiếp theo của công tác y pháp.
I. XÁC MINH SỰ CHẾT
Xác minh sự chết nhằm khẳng định hiện tượng ngừng hoạt động không hồi phục của hệ thống thần kinh, hô hấp và tuần hoàn.
1. Phương pháp đơn giản
1.1. Kiểm tra hệ thần kinh
Hệ thần kinh phải mất hết tri giác, cảm giác và các phản xạ như hỏi không nói, gọi không thưa, cấu véo hoặc dùng các loại kích thích khác tác động vào cơ thể nhưng không đáp ứng (chạm lông mi, soi ánh sáng vào mắt đồng tử không co...), mất các phản xạ nuốt, ho sặc, đồng tử giãn rộng.
1.2. Kiểm tra bộ máy hô hấp
Ðặt bông vào hai lỗ mũi không thấy bông chuyển động, đặt gương trước mũi không bị mờ, nhìn lồng ngực không di động, nghe không có rì rào phế nang.
1.3. Kiểm tra bộ máy tuần hoàn
Ðặt tay lên ngực trái không thấy tim đập, bắt mạch không thấy mạch nhảy, nghe không có tiếng tim.
2. Các phương pháp khác
Trong những điều kiện thuận lợi có kỹ thuật, chúng ta có thể sử dụng các phương pháp sau để khẳng định sự chết:
2.1. Rạch động mạch quay
Sau khi rạch động mạch quay, nếu đã chết thì máu không chảy thành từng đợt và động mạch không co lại, nếu còn sống thì các dấu hiệu ngược lại.
2.2. Nghiệm pháp éther
Tiêm 2ml éther dưới da, nếu còn sống thuốc ngấm vào tổ chức, khi rút kim ra không thấy thuốc chảy qua lỗ rút kim, vài phút sau ngửi thấy mùi éther ở mũi. Nếu đã chết, chỗ tiêm phồng lên và thuốc sẽ phun mạnh qua lỗ rút kim.
2.3. Nghiệm pháp Icard
Tiêm dung dịch huỳnh quang vào tĩnh mạch (Pluorescein ammoniac 4g+20ml nước cất), nếu hệ thống tuần hoàn còn hoạt động thì 10-30 phút sau sẽ thấy giác mạc óng ánh màu xanh nõn chuối và sau 2 giờ thấy nước tiểu màu vàng ánh.
2.4. Phản ứng của acid
Nguyên tắc, sau chết các mô tăng cường toan, dùng chất chỉ thị màu để kiểm tra sự biến đổi đó. Tiến hành, dùng chỉ chỉ thị màu Bromothymol luồn vào trong kim và đâm vào trong cơ, sau vài phút rút kim ra, sợi chỉ sẽ có màu hồng, hoặc dùng kim chọc dò, hút lấy một ít tổ chức gan đem thử giấy Tournesol sẽ thấy có màu xanh.
2.5. Ghi điện não đồ
Trên băng giấy, sóng điện não là một đường thẳng.
2.6. Ghi điện tâm đồ
Sóng điện tim biểu diễn thành một đường thẳng.
THƯƠNG TÍCH HỌC - Y PHÁP CHẤN THƯƠNG
Chấn thương bao gồm mọi tổn thương do các vật bên ngoài tác động vào cơ thể. Hình thái của tổn thương phụ thuộc vào loại vật tác động, trọng lượng, áp lực của vật và vị trí giải phẫu.
Thương tích do các vật gây nên là bằng chứng thực thể mà giám định viên dựa vào để đánh giá mức độ tác hại đối với cơ thể nạn nhân, giúp cơ quan pháp luật định đúng mức án đối với hung thủ.
I. NHỮNG TỔN THƯƠNG CƠ BẢN CỦA THƯƠNG TÍCH
1. Tổn thương phần mềm
Mức độ tổn thương của phần mềm phụ thuộc vào vật, lực tác động vì vậy tổn thương ở phần mềm có các mức độ khác nhau.
1.1. Vết xây xát
Tổn thương này có thể thấy ở ngoài da hoặc trong phủ tạng, dưới hình thức vết hoặc mảng xây xát, là tổn thương làm mất một phần biểu bì da, thanh mạc hoặc vỏ bao các phủ tạng. Lúc đầu, vết xây xát đỏ rướm máu hoặc không, có màu hơi sẫm, có vảy khô che phủ, cứng. Qua kính hiển vi
thấy đọng hồng cầu, phía trên phủ một lớp huyết tương, từ 7 đến 12 ngày vảy bong.
1.2. Bầm máu
Tổn thương này làm vỡ các mạch máu nhỏ dưới da hoặc trong phủ tạng. Ðặc điểm của vết bầm máu là nơi tổn thương vẫn bằng
phẳng, có màu tím nhạt hoặc sẫm. Sự hiện diện của vết bầm máu chứng tỏ thương tích này xảy ra khi còn sống. Tổn thương này cần phân biệt với hoen tử thi hay vết xuất huyết của một số bệnh về máu như bệnh ưa chảy máu (hemophilie), bệnh bạch cầu (leucemie). Dựa vào sự thay đổi màu sắc của vết bầm máu (mảng bầm máu trên 1cm2), ta có thể ước đoán được thời gian xảy ra thương tích:
- Màu tím: Tổn thương xảy ra khoảng một vài giờ.
- Màu đen: Tổn thương xảy ra khoảng 2 đến 3 ngày.
- Màu xanh đậm:Tổn thương xảy ra khoảng 3 đến 6 ngày.
- Màu xanh lá mạ: Tổn thương xảy ra khoảng 7 đến 12 ngày.
- Màu vàng: Tổn thương xảy ra khoảng 13 đến 25 ngày.
- Sau 25 ngày, thương tích mất dấu vết.
Sự thay đổi màu sắc này là do hiện tượng thoái hóa của huyết sắc tố.
1.3. Tụ máu
Tổn thương này làm dập vỡ các mạch máu vừa hoặc lớn, làm máu tràn vào tổ chức, tạo nên các cục máu đông. Ðặc điểm là nơi tổn thương gồ cao lên, màu tím và tổn thương này chỉ xảy ra khi còn sống.
1.4. Vết thủng
Tổn thương này được tạo nên bởi các loại vật nhọn. Ðặc điểm của tổn thương là hình khe hoặc lỗ thủng với đường hầm tụ máu. Nếu tổn thương ở ngực, bụng thì kèm theo tổn thương ở nội tạng.
1.5. Vết cắt hoặc vết đứt
Tổn thương này làm mất tính liên tục
của tổ chức, tổ chức bị tách rời ra nhưng không
mất đi. Ðặc điểm của tổn thương là:
- Mép vết đứt sắc gọn, có thể nham nhở nếu hung khí cùn.
- Tổ chức vết thương bầm máu nhẹ, không tụ máu ở mép vết đứt mặc dù xảy ra khi nạn nhân còn sống.
- Vết thương hở miệng.
1.6. Vết chém hoặc băm bổ
Tổn thương được tạo nên do các vật có diện rộng, trọng lượng lớn, tác dụng mạnh vào cơ thể như dao rựa, rìu, búa... với các đặc điểm của tổn thương là:
- Vết thương dài, diện rộng và nông.
- Xung quanh mép vết thương có các vết xước da.
- Nếu vết thương sâu, ở đáy thường thấy có cầu nối tổ chức hoặc vết mẻ xương.
- Nếu hung khí cùn thì thương tích tạo nên vừa có dạng vật chém vừa có dạng vật tày.
1.7. Dập nát
Tổn thương này gây nên do lực đè ép biểu hiện rách da, tụ máu. Tụ máu phần mềm dưới da, tổ chức cơ và các phủ tạng. Loại tổn thương này do vật tày gây nên như: giày xéo, vùi lấp, ngã cao...
2. Tổn thương phần cứng
Khác với tổn thương ở phần mềm, tổn thương ở phần cứng tồn tại được rất lâu và không bị quá trình hư thối xóa mờ dấu vết. Các hình thái tổn thương xương có thể gặp là:
2.1. Rạn xương
Là tổn thương thường gặp, được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau:
- Ðường rạn đơn độc ngắn hoặc dài.
- Ðường rạn tỏa nhánh hình nan hoa hay nan quạt.
- Nhiều đường rạn bắt chéo nhau.
- Ðường rạn kèm theo vỡ và lún xương.
2.2. Lún xương
Gồm một hoặc nhiều mảnh xương vỡ bị đẩy vào phía trong, thường gặp trong chấn thương xương sọ.
2.3. Thủng xương
Thường do các vật nhọn tạo nên như: Ðường đạn, mũi giáo, tuốc - ne - vít (tournevis)... Thủng xương ít khi đơn độc mà có kèm theo rạn xương hoặc vỡ xương.
2.4. Gãy xương
Thường gặp ở các xương dài, là tổn thương làm mất tính liên tục của xương, có thể bị gãy làm hai hoặc nhiều mảnh, tách rời hoặc dính liền nhau.
Có hai loại gãy xương là gãy xương trực tiếp và gãy xương gián tiếp.
2.5. Vỡ xương
Tổn thương do lực tác dụng mạnh tạo nên nhiều mảnh xương.
2.6. Trật khớp
Là đầu xương bị trật ra khỏi ổ khớp đối với xương dài hoặc các mảnh xương chồng lên nhau đối với xương dẹt.
ÐẠI CƯƠNG VỀ CHẾT NGẠT
I. ÐỊNH NGHĨA
Ngạt là hiện tượng ngừng cung cấp oxygen và thừa khí carbonic trong cơ thể.
Ngạt có thể xảy ra nhanh chóng hoặc từ từ và sẽ gây chết nếu nguyên nhân gây nên ngạt không bị loại bỏ.
Bình thường máu trong động mạch gần bão hòa hết oxygen chỉ còn 5% lượng hemoglobin là không bão hòa. Máu trong tĩnh mạch có lượng lớn hemoglobin không bão hòa oxygen chiếm 30%. Mao mạch là trung gian giữa động mạch và tĩnh mạch thì lượng hemoglobin không bão hòa oxygen tại đây là trị số trung bình 17,5% . Tím tái xuất hiện khi lượng hemoglobin khử oxygen tại mao mạch lên đến 30 - 35%. Màu xanh tím trong chết ngạt tươi hơn các trường hợp tím tái do ngộ độc.
Ðối với các tổ chức biệt hóa cao như não, tim... nhu cầu oxygen của tế bào rất lớn, vì nếu thiếu oxygen chúng bị tổn thương sớm nhất.
Ngừng cung cấp oxygen thừa khí carbonic trong cơ thể thấy dưới dạng: Máu thiếu oxygen thực sự nên không đủ cung cấp oxygen cho tế bào đó là những nguyên nhân lấp đường thở. Máu có đủ oxygen nhưng hô hấp tế bào không thu nhận được chúng gặp trong trường hợp ngộ độc acid xyanhydric (HCN) và một số chất khác.
II. PHÂN LOẠI ÐẠI CƯƠNG NGUYÊN NHÂN CHẾT NGẠT
1. Ngạt hoàn toàn
Gặp trong trường hợp treo cổ, chẹn cổ, chết trong chất lỏng, ngộ độc các loại khí oxide carbon (CO), khí carbonic (CO2)...
2. Ngạt không hoàn toàn
Gặp trong các trường hợp dị vật đường thở như viên thuốc, hạt ngô, răng giả... trong khí quản hoặc đường hô hấp ngoài bị cản trở do bịt mũi miệng, trùm chăn kín, ở trong phòng kín không khí không lưu thông. Trong các trường hợp đó khí oxygen giảm, khí carbonic tăng. Ngạt không hoàn toàn có thể chuyển thành ngạt hoàn toàn nếu nguyên nhân gây ngạt không được loại bỏ.
Ngạt hoàn toàn và không hoàn toàn còn gặp trong một số trường hợp bệnh lý như: Phế viêm, phù phổi cấp, bạch hầu thanh quản, khối u chèn ép đường thở...
III. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG
Bình thường trong không khí, khí oxygen chiếm 20,96% , khí carbonic chiếm 0,04%... Thực nghiệm ngạt cho thấy khi oxygen trong phòng kín hoàn toàn, giảm 12 - 14% và khí carbonic lên tới 6-8%, thì xuất hiện các triệu chứng: Nhức đầu, thở nhanh, huyết áp tăng... Khi oxygen còn 8% và carbonic lên 12% thì chết. Nếu đường thở lấp hoàn toàn triệu chứng xảy ra 4 giai đoạn:
- Giai đoạn I (khoảng 1 phút): Thở sâu và nhanh, tiếp đó là khó thở, nhịp tim tăng và bất tỉnh.
- Giai đoạn II (Khoảng 2-3 phút): Khó thở ra, nhịp tim tăng, mất các phản xạ, co giật toàn thân, co bóp cơ trơn gây ỉa đái, xuất tinh...
- Giai đoạn III (khoảng 1 phút): Nhịp thở lúc nhanh, lúc chậm, huyết áp giảm do trung tâm hô hấp bị ức chế bởi nồng độ carbonic quá cao trong cơ thể.
- Giai đoạn IV (Khoảng 30 giây): Các trung tâm hô hấp và vận mạch bị ức chế sâu do nồng độ carbonic quá cao, làm tim loạn nhịp rồi thưa dần, huyết áp giảm rõ rệt, mất các phản xạ, đồng tử giãn, cơ mềm, thở ngáp rồi ngừng thở.
Như vậy tổng cộng thời gian sức chịu đựng ngạt không quá 5 phút. Tuy nhiên có nhiều trường hợp chịu đựng tới 10 phút hoặc hơn, đó là những người có rèn luyện tốt như thợ lặn, vận động viên bơi lội, vận động viên chạy marathon...
IV. NHỮNG DẤU HIỆU TRÊN TỬ THI
Tổn thương tổ chức, tế bào trong chết ngạt không có hình ảnh đặc thù mà chỉ có những dấu hiệu chung cho mọi tác nhân gây ngạt.
1. Dấu hiệu bên ngoài
Xung huyết giác mạc, da mặt, cổ, môi. Hoen tử thi xuất hiện sớm lan rộng sau 30 phút, sự cứng xác nhanh và ngắn, sự hư thối xảy ra sớm.
2. Dấu hiệu bên trong
- Các phủ tạng có các chấm chảy máu rải rác ở thanh mạc, thượng tâm mạc, trong não, đôi khi cả tuyến thượng thận.
- Phổi phồng lớn màu tím thẫm bị ứ máu, ở mặt ngoài có những đám khí và chấm xuất huyết (Tardieu) có khi tạo thành mảng, có bọt khí lẫn máu trong khí quản, phế quản.
- Các phủ tạng xung huyết nhưng màu sắc còn phụ thuộc vào nguyên nhân gây ngạt. Nếu ngạt do thiếu oxygen và thừa carbonic thì có màu đỏ sẫm. Nếu ngạt do tế bào không tiếp nhận được oxygen nhưng oxygen trong máu vẫn đầy đủ thì màu phủ tạng đỏ cánh sen gặp trong các trường hợp ngộ độc chlorate, oxide carbon, acid xyanhydric..
- Bên cạnh những dấu hiệu chung cần tìm các tổn thương đặc thù của từng loại nguyên nhân gây ngạt: Chết treo, bóp cổ, chết trong chất lỏng...
ÐỘC CHẤT HỌC Y PHÁP
I. ÐẠI CƯƠNG
Trong thời đại hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, các ngành hóa học, dược học cũng phát triển không ngừng và đã cho ra đời nhiều sản phẩm hóa, dược học được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống, trong nông nghiệp cũng như trong y học.
Nếu sử dụng đúng nguyên tắc, phương pháp, hàm lượng, liều lượng... thì có hiệu quả rõ rệt. Ngược lại nếu sử dụng một cách bừa bãi, không có sự quản lý chặt chẽ sẽ gây tác hại nghiêm trọng cho cơ thể con người cũng như môi trường sống.
Trong cuộc sống hàng ngày xung quanh chúng ta có rất nhiều những chất gây độc, từ cây cỏ tự nhiên đến các sản phẩm hóa học, hóa dược, nên người ta thường dễ kiếm, dễ sử dụng và tình trạng trúng độc ngày càng tăng.
1. Phân loại chất độc
1.1. Chất độc vô cơ
Là các loại chất độc thường ở dạng nguyên tố hoặc các sản phẩm được sử dụng trong công nghiệp như: Arsenic, chì, thủy ngân, phosphor... có đặc tính là không, hoặc rất ít bị quá trình hư thối làm phân hủy. Vì vậy khi nạn nhân bị chết do trúng độc loại này nó tồn tại rất lâu trong các bộ phận của cơ thể.
1.2. Ðộc chất hữu cơ
Thường gặp ở các dạng tự nhiên, trong cây cỏ như: Cà độc dược, tam thất, lá ngón... các chế phẩm dùng trong y tế như: Morphin, barbituric... hoặc các sản phẩm dùng trong nông nghiệp như: DDT (Dichloro-Diphenyl-Trichloroethane), 666 (Hexachlorane), Wolfatox... Ðặc tính của các loại độc chất hữu cơ là bị thời gian và quá trình hư thối làm phân hủy.
1.3. Ðộc chất ở dạng hơi hoặc dễ bay hơi
Thường là các chất độc hữu cơ nhưng được điều chế ở dạng hơi hoặc dễ bay hơi như: Formol, ether...
1.4. Các loại ngộ độc thức ăn
Ngộ độc thức ăn là hiện tượng gây nên bởi chất độc có sẵn trong thức ăn hoặc do quá trình phân hủy thức ăn, cũng như sự bội nhiễm của vi trùng. Ðặc tính của ngộ độc loại này thường mang tính chất hàng loạt. Mức độ ngộ độc nặng, nhẹ phụ thuộc vào chất độc, cơ địa và số lượng thức ăn đưa vào cơ thể. Có rất nhiều loại nguyên nhân gây nên nhưng người ta chia ra 3 nhóm chính :
- Ngộ độc thức ăn nguyên phát
Là bản thân các loại thức ăn đó có chất độc nhưng không được chế biến hoặc khi ăn mà không xác định được như:
Nấm độc: Loại nấm ăn được rõ ràng như nấm hương (mọc ở gỗ thông mục), Nấm rơm (mọc ở rơm rạ) hoặc mộc nhĩ (mọc ở những cây mục ẩm khác). Tuy nhiên có loại nấm độc có hình thù như trên nên người ta nhầm lẫn như nấm sáng trăng (chứa phosphor) hoặc có loại nấm ăn nhiều sẽ gây độc...
Sắn: Trong sắn chứa nhiều acid cyanhydric gây độc mạnh.
Mật ong: Là loại saccharose chứa nhiều sinh tố và được sử dụng khá rộng rãi. Tuy nhiên nếu mật ong lấy tinh chất (lim, bạch đàn...) và trong đó có một số loại độc chất chưa phân lập được nếu ăn nhiều sẽ gây độc (say mật).
- Ngộ độc thức ăn thứ phát
Là bản thân các loại thức ăn đó không có chất độc nhưng trong quá trình bảo quản không tốt sẽ biến thành một số chất gây độc cho cơ thể như : Sự lên men vi khuẩn của protein phát sinh một số chất độc như histamine, esther de choline, dimethyl, guanidine gây nên triệu chứng ở dạ dày, gây dị ứng (allergie) hoặc nổi mày đay (urticaire), nhức đầu, hạ huyết áp.
Các loại thức ăn mang tính acid như khế, sấu, dấm trong nồi đồng và để lâu tạo điều kiện tác dụng lên đồng phân hủy thành muối đồng (CuSO4) gây độc.
Các loại rau xanh được phun thuốc trừ sâu: DDT, 666... mà rửa không kỹ đây là nguyên nhân thường gặp khi thời tiết hạn, nóng.
- Ngộ độc thức ăn do vi trùng
Ðây là loại ngộ độc thường gặp và rất nguy hiểm vì gây rối loạn tiêu hóa nặng, nhiễm độc, nhiễm trùng. Có nhiều loại vi trùng gây nên nhưng trên lâm sàng người ta chia làm hai thể :
Thể tiêu hóa: Xuất hiện sớm sau bữa ăn với biểu hiện đau bụng, nôn mửa, ỉa lỏng, nhức đầu, mệt mỏi, sau vài ngày sẽ khỏi, nếu nặng có thể tử vong. Ngộ độc này thường do salmonella, staphylocoque, enterocoque...
Thể thần kinh: Thường do độc tố của vi khuẩn yếm khí clostridium botulinum có trong các loại đồ hộp, với các dấu hiệu chính hoa mắt, chóng mặt, nhìn đôi, nhức đầu, giảm thị lực, khó thở , nhịp tim chậm, huyết áp giảm ngoài ra nó còn biểu hiện hội chứng tiêu hóa. Tỷ lệ tử vong 2 - 10% do sốc.
2. Phân loại đường gây độc
- Ðường hô hấp: Thường gặp do các loại chất độc ở dạng hơi hoặc dễ bay hơi như mặt nạ (mask) gây mê bị hở, phun thuốc sâu, muỗi đi ngược chiều gió...
- Ðường tiêu hóa: Ðây là đường hay gặp nhất, do ăn uống nhầm, tự dùng thuốc độc hoặc bị bỏ thuốc độc vào trong thức ăn nước uống.
- Ðường máu: Chủ yếu gặp trong tai nạn liên quan đến con đường tiêm truyền hoặc các chất độc tác dụng trực tiếp lên bề mặt các vết thương.
- Ðường da và niêm mạc: Các chất độc tác dụng trực tiếp lên bề mặt da và niêm mạc như thuốc chữa chấy rận, chữa ghẻ hoặc dùng tay khuấy thuốc trừ sâu...
3. Phân loại thể trúng độc
- Ðầu độc: Là tình trạng trúng độc do bàn tay kẻ khác sắp đặt có ý hãm hại mà nạn nhân không biết thường liên quan tới án mạng.
- Tự độc: Là tình trạng trúng độc do chính nạn nhân sử dụng các loại chất độc bằng các con đường khác nhau và con đường thường dùng nhất là đường tiêu hóa. Ðây là các trường hợp tự sát.
- Ngộ độc: Là tình trạng trúng độc do vô tình nạn nhân mắc phải trong cuộc sống sinh hoạt, trong lao động sản xuất... Ngộ độc thường gặp phải ở liều lượng lớn và thường là do tai nạn.
- Nhiễm độc: Là tình trạng trúng độc với liều lượng nhỏ, thường xảy ra đối với những người có nghề nghiệp liên quan với các chất độc như: Công nhân chế tạo ắc quy (accumulator), dược sĩ bào chế thuốc, thợ nhuộm có arsenic...
II. GIÁM ÐỊNH MỘT SỐ LOẠI TRÚNG ÐỘC
1. Trúng độc Wolfatox
1.1. Tính chất
Wolfatox có tên là Methil parathion (P6O5) hay Parathion, thuộc nhóm các hợp chất hữu cơ của phosphor (esther phosphoric) ở dạng bột đã pha lẫn với dầu hỏa, có tính chất gây độc rất cao. Nó được sử dụng để diệt sâu trong trồng trọt và có khi dùng để diệt ruồi, chuột.
Wolfatox vào cơ thể bằng nhiều con đường khác nhau với liều gây tử vong là 50mg. Ðường tiêu hóa là hay gặp nhất trong tai nạn rủi ro như ăn uống nhầm, dùng thực phẩm mới phun thuốc trừ sâu mà không rửa sạch. Tự sát khá phổ biến và đầu độc rất ít gặp. Ðường da, niêm mạc và hô hấp cũng có thể gặp trong tai nạn khi pha thuốc, phun thuốc, phát thuốc hoặc dùng thuốc để trị ghẻ, mụn nhọt hoặc chấy rận...
Trong cơ thể parathion phân hủy thành paranitrophenyl thải trừ chậm qua thận nên tình trạng nhiễm độc rất nguy hại cho nạn nhân bởi phosphoric hữu cơ ức chế men cholinesterase ở huyết thanh và tổ chức làm cho acetylcholine tích lũy ở một số phủ tạng, thần kinh trung ương (trong các synapse thần kinh), thực thể Nicotine và Muscarine vì vậy trên lâm sàng biểu hiện 3 hội chứng chính :
- Hội chứng Muscarine: Tăng tiết mồ hôi, nước bọt, tăng tiết dịch tiêu hóa.
- Hội chứng Nicotine: Gặp trong ngộ độc nặng, yếu cơ, liệt cơ, liệt hô hấp, rối loạn nhịp tim, ngừng tim.
- Hội chứng thần kinh trung ương: Hôn mê, ức chế hô hấp, suy tuần hoàn cấp.
1.2. Triệu chứng lâm sàng
- Thể tối cấp: Khoảng 30 phút sau khi trúng độc nạn nhân ngây ngất, đi vào hôn mê sâu, thân nhiệt giảm và ngừng thở.
- Thể cấp: Ðau bụng, nôn mửa, đi lỏng, tăng tiết mồ hôi, nước bọt, đồng tử co, cơ rung, rối loạn co thắt, khó thở, trụy mạch. Nếu không cứu chữa chắc chắn nạn nhân sẽ chết, nếu được điều trị các triệu chứng nhiễm độc giảm dần và qua khỏi.
1.3. Giám định y pháp
1.3.1. Khám nghiệm bên ngoài
Dấu hiệu bên ngoài thường không điển hình, cần chú ý mô tả tư thế nạn nhân, xem xét tỉ mỉ các vết tích bên ngoài để xác định tự sát hay đầu độc.
1.3.2. Khám nghiệm bên trong
- Dạ dày, tá tràng, ruột có thể có thuốc đọng xanh nhờn mùi hăng khó chịu (thuốc đọng váng như dầu mỡ). Tùy theo mức độ có thể thấy các ổ bầm máu, chảy máu nhỏ trong hoặc dưới niêm mạc, lóet hoặc hoại tử hoặc phù dày niêm mạc.
- Phổi phù, cơ tim nhão.
- Tụy tạng có thể bị hoại tử và chảy máu do men ứ đọng trong tụy và phân hủy.
1.3.3. Xét nghiệm độc chất
Lấy dịch dạ dày, ruột, gan, thận, máu, nước tiểu để tìm Parathion và Paranitrophenyl.
2. Trúng độc thạch tín
2.1. Tính chất
Thạch tín (nhân ngôn) là chất độc bảng A và là hợp chất của arsenic (As2O3). Arsenic không độc nhưng những hợp chất của nó có oxygen như acid arsenieux, acid arsenic và các muối của nó thì rất độc. Thạch tín (acid arsenieux) có màu trắng ở dạng bột tinh thể, không mùi, khó tan trong nước lạnh, tan trong cồn, kiềm. Thạch tín là chất độc nhất trong hợp chất arsenic. Nhân ngôn là sulfure của arsenic có màu vàng, thực chất nó không độc nhưng trong nhân ngôn có một hàm lượng thạch tín vì vậy nó trở nên độc.
Thạch tín có ở trong đất, trong nước, trong các mỏ dưới dạng sulfate arsenieux. Thực vật trong quá trình phát triển nó hấp thu một lượng thạch tín ở trong đất, trong nước. Trong cơ thể người có chứa một hàm lượng thạch tín nhỏ 0,01mg, nhưng có thể tăng lên rất cao 0,258mg ở những người thường xuyên tiếp xúc với thạch tín như: Công nhân khai thác và chế biến quặng arsenic, công nhân nhà máy chế biến phẩm nhuộm, thợ nhuộm, công nhân tẩy bông, dược sĩ bào chế thuốc...
Ðường vào cơ thể phổ biến nhất là đường tiêu hóa do ăn uống nhầm, tự sát hoặc đưa thạch tín vào thức ăn, nước uống để đầu độc. Tiếp theo là đường niêm mạc người ta dùng hợp chất của arsenic để thụt rửa trực tràng hoặc dùng mỡ đặt âm đạo để điều trị giang mai. Ðường máu hiện nay rất ít gặp, trước đây người ta dùng các hợp chất của arsenic như arsenobenzol (606), novarsenobenzol (914) tiêm vào mạch máu để chữa giang mai nên gây độc rất nhiều. Nếu dùng các chế phẩm của thạch tín để điều trị nó tồn tại trong cơ thể 20-30 ngày.
Liều độc 0,10-0,15 gam hoặc 1-2mg/kg.
2.2. Triệu chứng lâm sàng
2.2.1. Trúng độc cấp hoặc tối cấp
Xuất hiện từ 30 - 60 phút sau khi dùng thuốc với triệu chứng nổi bật là rối loạn tiêu hóa nặng: Ðau bụng, nôn mửa chất trắng nhầy, ỉa chảy như đi tả phân có lẫm máu, miệng khô và nóng, khát nước, đau thực quản, chuột rút, chân tay lạnh, trụy mạch, hôn mê và tử vong trong vòng 24 giờ.
2.2.2. Nhiễm độc mãn tính
Nạn nhân thường có các biểu hiện: Kém ăn, mệt mỏi, đau bụng, viêm da, viêm dây thần kinh, đau mỏi các cơ bắp, co duỗi chân tay khó khăn.
Trúng độc thạch tín thường khó chữa, trong quá trình cấp cứu có thể tạm ổn định vài ngày, sau đó nổi ban, rối loạn tim mạch trầm trọng và tử vong, nếu qua khỏi thời gian phục hồi thường kéo dài.
2.3. Giám định y pháp
2.3.1. Dấu hiệu bên ngoài
Trong tình trạng cấp thấy dấu hiệu mất nước rõ: Da nhăn nhất là ở bàn tay, bàn chân, mắt lõm, bụng xẹp.
2.3.2. Dấu hiệu bên trong
Miệng, cổ họng, thực quản không có dấu hiệu gì đáng kể. Dạ dày, ruột bị viêm loét, có trường hợp chỉ phù nề, màu đỏ, mất nếp nhăn niêm mạc, niêm mạc có các chấm tụ máu. Niêm mạc ruột phủ một lớp dịch nhầy lẫn các hạt trắng lổm nhổm do tổ chức niêm mạc bị hoại tử và bong ra.
Các phủ tạng khác xung huyết mạnh và có các điểm chảy máu nhỏ.
2.3.3. Xét nghiệm tổ chức học
Không có tổn thương đặc hiệu mà chỉ thấy gan thận thoái hóa mỡ, viêm loét niêm mạc dạ dày - ruột, xung huyết hoặc chảy máu.
2.3.4. Xét nghiệm độc chất
Thạch tín là chất độc lưu lại khá lâu trong cơ thể mà không bị quá trình hư thối làm phân hủy. Vì vậy sau khi khám nghiệm tử thi cần lấy bệnh phẩm: Chất nôn, gan, thận, ruột, dạ dày cùng dịch, phân, nước tiểu. Trong trường hợp muộn hoặc khai quật tử thi lấy lông, tóc, móng, xương, đất xung quanh quan tài 1 - 3 mét và các mẫu đất khác ở nghĩa trang để tiến hành tìm thạch tín và đối chứng.
Chẩn đoán trúng độc thạch tín dựa trên những dự kiện: Triệu chứng lâm sàng, tổn thương giải phẫu bệnh, kết quả độc chất và chú ý đến đất ở nghĩa trang các loại thuốc bổ có arsenic nghề nghiệp nạn nhân liên quan đến thạch tín, thực tế tang vật thu được ở hiện trường để phân tích và kết luận.
III. CÁCH LẤY BỆNH PHẨM ÐỂ TIẾN HÀNH XÉT NGHIỆM ÐỘC CHẤT
Ðể bổ sung cho kết quả đại thể và kết luận khám nghiệm y pháp, việc lấy bệnh phẩm để xét nghiệm là cần thiết.
1. Nguyên tắc thu giữ bệnh phẩm
- Thà thừa hơn là thiếu.
- Nhanh chóng, khẩn trương.
- Bảo quản tốt bệnh phẩm.
- Không cho người lạ vào hiện trường.
2. Cụ thể về số lượng
- Máu lấy 200ml ở trong buồng tim để phân nhóm, tìm rượu, độc chất.
- Nước tiểu lấy trong bàng quang hoặc chất nôn mỗi thứ đựng trong một lọ.
- Phủ tạng:
+ Tim và mạch máu cùng phổi: 200gam đựng trong một lọ.
+ Gan 200gam, lách 100gam, thận 150gam, não 200gam: Ðựng chung trong một lọ.
+ Dạ dày và ruột cùng chất nôn: Ðựng trong một lọ.
- Ðối với dược phẩm nghi ngờ gây độc: Thuốc bột 50-100gam, thuốc viên 50-100 viên, thuốc ống 15-20 ống và cao 50%.
3. Bảo quản và gửi bệnh phẩm
Các mảnh, mẫu phủ tạng và chất độc phải được đựng riêng trong các lọ sạch có miệng rộng và nút kín (dùng lọ thủy tinh màu). Có nhãn ghi rõ mẫu gì, ngày tháng năm thu giữ, chữ ký của cán bộ thu giữ. Bệnh phẩm phải được niêm phong, gắn xi (lọ đựng bệnh phẩm không được cho bất cứ loại hóa chất nào vào kể cả formol và bonin) kèm theo phiếu xét nghiệm ghi đầy đủ yêu cầu phân tích, giao cho cơ quan điều tra.
Các mẫu xét nghiệm này được bảo quản tốt nhất là môi trường lạnh để gửi đi kiểm nghiệm và tuyệt đối không được gửi bằng đường bưu điện.
Ðứng trước những trường hợp khám nghiệm tử thi nghi ngờ bị trúng độc, không đòi hỏi giám định viên xác định được chính xác loại chất độc gì (kết quả này do các chuyên gia kiểm nghiệm độc chất trả lời). Mà chỉ yêu cầu phát hiện và nhận diện một số loại chất độc (vì có rất nhiều loại chất độc), xác định có tình trạng trúng độc hay không, xử lý, thu giữ và bảo quản mẫu bệnh phẩm cho tốt để tiến hành xét nghiệm độc chất.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro