VPN
Tóm tắt nội dung
Mạng riêng ảo (Virtual Private Network, VPN) là một trong những dịch vụ quan trọng được cung cấp bởi nhiều nhà
cung cấp dịch vụ viễn thông của Việt nam, trong đó Công ty Viễn thông Liên tỉnh (VTN) chiếm thị phần lớn nhất với
các khách hàng lớn là các cơ quan của Đảng và Nhà nước, các bộ ngành của Chính phủ, các ngân hàng, các tổ
chức tín dụng-tài chính, các doanh nghiệp và tập đoàn lớn trong và ngoài nước, v.v.
Tuy VPN không phải là một dịch vụ mới, nhưng khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ này luôn đặt câu hỏi như
VPN được xây dựng trên những công nghệ nào? Chúng khác nhau ra sao? Công nghệ VPN nào thích hợp nhất cho
nhu cầu của tổ chức mình? Cùng với sự tư vấn kỹ càng của bộ phận chăm sóc khách hàng tại VTN, bài báo này
cung cấp một số thông tin giúp khách hàng và những người quan tâm trả lời những thắc mắc nói trên.
Từ viết tắt
BGP Border Gateway Protocol Giao thức cổng biên mạng
CE Customer Edge Biên khách hàng
IGP Interior Gateway Protocol Giao thức cổng nội mạng
IP Internet Protocol Giao thức Internet
IPsec IP Security Giao thức an ninh mạng Internet
LAN Local Area Network Mạng cục bộ/nội bộ
LDP Label Distribution Protocol Giao thức phân phối nhãn
LSP Label Switched Path Đường chuyển mạch nhãn
MAC Media Access Controller Bộ điều khiển truy nhập môi trường
MPLS Multiprotocol Label Switching Chuyển mạch nhãn đa giao thức
OSI Open Systems Interconnection Kết nối các hệ thống mở
PE Provider Edge Biên nhà cung cấp
PPP Point-to-Point Protocol Giao thức điểm nối điểm
SSL Secure Sockets Layer Một giao thức đảm bảo an ninh cho dịch vụ Web
VC Virtual Circuit Mạch ảo, kết nối ảo
VPN Virtual Private Network Mạng riêng ảo
VPLS Virtual Private LAN Service Dịch vụ mạng cục bộ/nội bộ riêng ảo
VTN Vietnam Telecoms National Công ty Viễn thông Liên tỉnh
Khái niệm về mạng riêng ảo
Mạng riêng ảo (Virtual Private Network), sau đây được gọi ngắn là VPN, được hiểu đơn giản
như là sự mở rộng của một mạng riêng (private network) thông qua các mạng công cộng, nghĩa
là thông tin và dữ liệu được mã hóa theo cách riêng và truyền qua mạng công cộng.
Kể từ khi mạng dữ liệu ra đời, đã có rất nhiều cuộc tranh luận giữa tính năng của các thiết bị lớp
3 (router) và thiết bị lớp 2 (switch, hub…), hay chính là cuộc tranh luận về việc thực hiện các
chức năng kết nối mạng tại lớp 2 và lớp 3 trong mô hình OSI, và ngày nay, chúng ta gặp lại
những tranh luận này khi nghiên cứu dịch vụ VPN.
Bản quyền thuộc về Công ty VTN và Trần Đại Dũng
Về bản chất, dịch vụ VPN lớp 2 và VPN lớp 3 tương ứng với các công nghệ hay các giao thức
lớp 2 và lớp 3 trong mô hình OSI. VPN lớp 2, ví dụ Ethernet VPN, sử dụng 2 lớp con của
Ethernet là MAC và MAC-client để thiết lập VPN; còn VPN lớp 3, ví dụ IP VPN, lại dựa trên
hai giao thức lớp 3 là IPsec (IP security) và PPP ( giao thức điểm nối điểm) cho phép các doanh
nghiệp dễ dàng kết nối nhiều mạng dữ liệu ở xa với nhau, hỗ trợ các nhân viên kết nối vào mạng
VPN doanh nghiệp bằng các thiết bị đầu cuối sử dụng IP, kể cả điện thoại di động, v.v.
Khi các nhà cung cấp dịch vụ nâng cấp mạng để kết hợp với các công nghệ mạng thế hệ sau thì
MPLS được sử dụng như một giải pháp để tăng tính hiệu quả trong các kết nối của mạng IP,
đồng thời cũng để cung cấp các dịch vụ mới. Các mạng MPLS ban đầu được sử dụng để cung
cấp dịch vụ IP VPN dựa trên tiêu chuẩn RFC2547bis. Gần đây hơn, các nhà mạng cũng đã nâng
cấp mạng của họ để hỗ trợ dịch vụ mạng cục bộ riêng ảo (Virtual Private LAN Service, VPLS) là
dịch vụ VPN lớp 2 dựa trên Ethernet, hay còn gọi là Ethernet VPN. Một số nhà mạng còn giới
thiệu đến khách hàng của mình những sản phẩm kết hợp cả 2 loại hình dịch vụ trên.
Vậy là khi đặt dịch vụ VPN vào mạng thế hệ sau ta thấy xuât hiện sự chồng chéo giữa hai loại
hình dịch vụ VPN lớp 2 và VPN lớp 3. Nhưng không giống như trong một số trường hợp khác,
khi các công nghệ ra đời sau tốt hơn sẽ thay thế các công nghệ trước, các dịch vụ VPN lớp 2 và
lớp 3 không loại trừ lẫn nhau khi nhiều nhà mạng sử dụng công nghệ Ethernet ở phần truy nhập
để kết nối đến các đám mây IP VPN và cung cấp cho các doanh nghiệp và tổ chức cả hai loại
dịch vụ VPN này.
Tuy nhiên trước khi tìm hiểu sự chồng chéo phức tạp này chúng ta cần hiểu rõ hơn về công nghệ
của các dịch vụ VPN lớp 2 và VPN lớp 3, lợi ích của các dịch vụ này thông qua một số các công
nghệ VPN đang được sử dụng hiện nay. Đối với VPN lớp 3, công nghệ VPN dựa trên
BGP/MPLS sẽ được lấy làm ví dụ, còn với VPN lớp 2 công nghệ VPN dựa trên VPLS sẽ được
phân tích như một điển hình.
VPN lớp 3 dựa trên BGP/MPLS
VPN lớp 3 dựa trên BGP/MPLS, sau đây được gọi ngắn là BGP/MPLS VPN, cho phép các mạng
LAN của doanh nghiệp kết nối với nhau qua mạng trục IP/MPLS công cộng như là kết nối qua
một mạng riêng. BGP/MPLS VPN được định nghĩa trong chuẩn IETF RFC2547bis, sử dụng
giao thức BGP để định tuyến gói tin và giao thức MPLS để chuyển tiếp gói tin trong mạng trục
IP/MPLS.
Hình 1 thể hiện một phương thức kết nối mạng riêng của khách hàng sử dụng BGP/MPLS VPN,
trong đó mỗi VPN, ví dụ VPN-A bao gồm các mạng cục bộ LAN-A1, LAN-A2, LAN-A3 là một
mạng IP riêng với các địa chỉ IP riêng, được cấu hình theo mạng khách hàng tại biên mạng (CE,
Customer Edge) và theo thiết bị ở biên mạng của nhà cung cấp dịch vụ (PE, Provider Edge).
Mối quan hệ giữa các router PE và CE trong chuẩn RFC2547bis có một sự khác biệt đáng quan
tâm. Mỗi router PE quản lý một cơ sở dữ liệu thông tin chuyển tiếp riêng của từng VPN, gọi là
bảng chuyển tiếp và định tuyến ảo (Virtual Routing and Forwarding, VRF), chứa các thông tin
định tuyến mà router PE nhận được từ router CE. Router PE lưu trữ các bảng VRF cùng với bảng
định tuyến Internet của nhà cung cấp dịch vụ. Router PE sử dụng BGP cho báo hiệu và định
Bản quyền thuộc về Công ty VTN và Trần Đại Dũng
tuyến gói tin đến các router CE. Router CE trở thành ngang hàng với router PE. Vai trò chuyển
tiếp của MPLS rất quan trọng bởi các router lõi trong mạng trục IP không cần biết về thông tin
định tuyến riêng của khách hàng. Router PE hướng vào (ingress) sẽ chèn hai mào đầu Next-Hop
BGP và mào đầu Next-Hop IGP vào gói tin. Tại router PE hướng ra (egress), các gói tin được
loại bỏ phần mào đầu MPLS và được phân phối tiếp theo như là gói tin IP đến router CE.
Hình 1. BGP/MPLS VPN và phương thức kết nối mạng riêng của khách hàng
Lợi ích của VPN lớp 3
Từ quan điểm của các doanh nghiệp, VPN lớp 3 có một số các ưu thế để có thể được lựa chọn
như sau:
Tính phổ biến toàn cầu
Hầu hết các nhà cung cấp dịch vụ toàn cầu đều cung cấp dịch vụ VPN lớp 3,
bắt đầu từ băng thông ở mức thấp nhất ví dụ như 56 Mbit/s và mở rộng theo yêu cầu của
doanh nghiệp. Trong khi đó, các dịch vụ VPN lớp 2 nói chung và Ethernet VPN nói riêng
thường chỉ phù hợp với và chỉ có thể được cung cấp tại các thị trường đã phát triển. Điều
này có nghĩa là triển khai Ethernet VPN tại các điểm ranh giới với các thị trường nông
thôn hoặc các thị trường đang phát triển là không thể hoặc quá tốn kém. Với khả năng
sẵn có cao hơn VPN lớp 2, VPN lớp 3 cho phép các doanh nghiệp có thể dễ dàng lập kế
hoạch và thiết lập mạng toàn cầu chỉ với các kết nối thuê bao đơn giản.
Nhà cung cấp dịch vụ thực hiện cấu hình và định tuyến
Bản quyền thuộc về Công ty VTN và Trần Đại Dũng
Trong kịch bản này các doanh nghiệp chỉ cần đưa ra một danh sách về thông tin định
tuyến và các yêu cầu về mạng hay yêu cầu về dịch vụ của chính họ, từ đó các nhà cung
cấp dịch vụ sẽ tạo ra các kết nối VPN phù hợp. Doanh nghiệp có thể giao
trách nhiệm cho các nhà cung cấp dịch vụ bằng cách sử dụng dịch vụ IP VPN nếu
không muốn tốn thời gian và nguồn lực của mình để duy trì và quản lý định tuyến trong
mạng nội bộ của mình.
Có thể được xây dựng bởi chính các doanh nghiệp
Một số các nhà cung cấp thiết bị cũng đưa ra một số thiết bị như VPN dialers, IADs,…
cho phép các doanh nghiệp xây dựng các VPN của chính mình, phương thức này rất hữu
dụng với những nhân viên cần truy nhập ở xa, hay nhân viên dùng điện thoại di động truy
nhập vào mạng nội bộ của doanh nghiệp. Loại VPN này dựa trên nền tảng của IPsec hoặc
mã hóa SSL. Tất nhiên có thể nó không hoàn toàn giống dịch vụ VPN cơ bản nhưng nó
rẻ, đơn giản và có thể triển khai nhanh chóng.
VPN lớp 2 với công nghệ VPLS
Giải pháp VPN lớp 2 dựa trên MPLS cung cấp dịch vụ đa điểm là dịch vụ LAN riêng ảo –
VPLS. Với VPLS, nhiều mạng LAN của khách hàng có thể giao tiếp với nhau tương tự như được
kết nối qua phân đoạn mạng Ethernet LAN của riêng mình.
Hình 2 thể hiện một phương thức kết nối mạng riêng của khách hàng, trong đó mỗi VPN, ví dụ
VPLS VPN-A bao gồm các mạng LAN-A1, LAN-A2, LAN-A3 được kết nối với nhau bằng
VPLS. Trong phương thức này, MPLS được sử dụng để chuyển tiếp gói tin, vì vậy thiết bị lõi
trong VPLS cũng tương tự như trong BGP/MPLS.
Điểm khác nhau giữa BGP/MPLS VPN và VPLS VPN chính là giao tiếp giữa thiết bị CE và PE.
Trong VPLS VPN, CE không cần phải là một router và không ngang hàng với PE nên PE không
cần quản lý bảng định tuyến của mỗi CE. VPLS đơn giản chỉ ánh xạ lưu lượng lớp 2 đến từ
khách hàng vào một đường chuyển mạch nhãn (LSP) thích hợp trong MPLS. VPLS VPN hoạt
động theo mô hình bao phủ trong khi BGP/MPLS VPN là mô hình ngang hàng.
Nguyên tắc hoạt động cơ bản của dịch vụ VPLS là sử dụng giao thức phân phối nhãn (LDP,
Label Distribution Protocol) để thiết lập một mạng đầy đủ các LSP – đường hầm giữa các nút
PE. Các đường hầm đó được gán các nhận dạng VPLS (VPLS ID) giúp nhận dạng các kết nối ảo
(Virtual Circuit Label Switched Path, VC LSP) giữa các nút PE của mạng VPN. Các kết nối ảo
sẽ tạo một kết nối logic giữa các PE dùng để cấu hình VPLS cho khách hàng.
Một trong các tính năng cơ bản của VPLS là khả năng của các router PE tự học địa chỉ MAC gửi
từ phía mạng khách hàng. Các PE tiếp nhận và học địa chỉ MAC qua các gói tin unicast hoặc
multicast gửi qua mạng. Các địa chỉ MAC sau khi tự học sẽ được gán với một LSP và là cơ sở
cho việc chuyển tiếp các gói tin giữa các nút PE.
Bản quyền thuộc về Công ty VTN và Trần Đại Dũng
Hình 2. Công nghệ VPLS và phương thức kết nối mạng riêng của khách hàng
Lợi ích của dịch vụ VPLS VPN
Từ quan điểm của các doanh nghiệp, VPLS hay Ethernet VPN có một số các ưu thế để có thể
được lựa chọn như sau:
Mềm dẻo, có khả năng mở rộng băng thông
VPLS VPN có khả năng thay đổi cấp độ băng thông. Sử dụng hạn mức tốc độ, băng
thông của dịch vụ có thể được tính toán theo nhu cầu và túi tiền của doanh nghiệp, trong
khi các công nghệ frame relay, ATM, hay các kênh thuê riêng TDM lại có mức băng
thông cố định không linh hoạt.
Dễ dàng bảo trì
Phần lớn bộ phận IT của doanh nghiệp đều có hiểu biết sâu về Ethernet, một số nhân viên
IT còn có khả năng xử lý sự cố tại điểm ranh giới có sử dụng Ethernet, và họ đều hiểu
rằng với VPN lớp 3, các giao thức lớp 3 còn phải dựa vào các giao thức ở lớp thấp hơn
trong mô hình OSI để chuyển gói tin qua mạng WAN hoặc MAN. Chính vì vậy trong
trường hợp công nghệ Ethernet được sử dụng tại các điểm ranh giới (demarcation point)
thì việc bảo trì mạng sẽ dễ dàng hơn là mạng sử dụng các công nghệ như Frame relay,
ATM, hoặc TDM vì đơn giản là các nhân viên IT không có nhiều hiểu biết về các công
nghệ đó. Tóm lại sử dụng Ethernet tại các điểm ranh giới sẽ cung cấp giao diện đơn giản
và dễ bảo trì hơn cho các doanh nghiệp.
Bản quyền thuộc về Công ty VTN và Trần Đại Dũng
Kết nối mạng và định tuyến được thực hiện bởi doanh nghiệp
Sự ưu tiên này thường được đặt lên hàng đầu cho các doanh nghiệp muốn đảm bảo sự an
toàn dữ liệu. Với dịch vụ VPLS VPN, việc cấu hình các thiết bị mạng đầu cuối và quá
trình định tuyến được quyết định bởi chính các doanh nghiệp mà không cần phải liên
quan đến các nhà cung cấp dịch vụ, và những quyết định đó chỉ cần được biết đến trong
doanh nghiệp. Cũng chính vì vậy, những thay đổi trong mạng nếu cần sẽ được thực
hiện nhanh hơn.
Có khả năng mở rộng
Với VPLS VPN, các doanh nghiệp có thể dễ dàng thêm một mạng riêng mới vào VPN
đang có mà không cần phải thay đổi về cấu hình mạng cũng như cấu hình
định tuyến cho tất cả các thiết bị trên mạng hiện có. Trong ví dụ này, khi một mạng cục
bộ mới được kết nối với một VPLS VPN, nó có thể tự động liên lạc với tất cả các mạng
hiện có, và ngược lại.
Khả năng hỗ trợ các giao thức ứng dụng cơ bản khác IP
Thông thường các giao thức được sử dụng trong loại hình dịch vụ này là các giao thức có
tính trong suốt, tức là có khả năng giao vận với tất cả các giao thức ứng dụng trước nó,
chẳng hạn như SNA, DECnet, IPX, và một số giao thức khác. Ethernet được xem như là
một giao thức lớp 2 trong mô hình OSI, có thể hỗ trợ một vài giao thức lớp cao hơn, hay
một số giao thức cũ hơn. Chính điều này làm cho nó trở thành một giải pháp lý tưởng, có
khả năng hỗ trợ các giao thức ứng dụng cũ vẫn còn sử dụng tại một số doanh
nghiệp. Trong khi đó, IP là một giao thức OSI lớp 3, vì vậy nó không thể hỗ trợ các giao
thức ứng dụng cũ, và chỉ có thể hỗ trợ các ứng dụng dựa trên IP.
Tính phổ biến của Ethernet
Hầu như tất cả các bộ định tuyến đều có cổng Ethernet. Chính vì thế các doanh nghiệp sử
dụng giải pháp này không cần phải đầu tư một khoản chi phí khá cao để mua các giao
diện nối tiếp tốc độ cao (giao diện TDM) để hỗ trợ cho mạch vòng TDM, hay thêm
CSU/DSU cho dịch vụ Frame relay. Việc sử dụng Ethernet làm đơn giản hóa, tức làm
giảm giá thành tủ thiết bị viễn thông, điều mà các doanh nghiệp nhỏ đặc biệt quan tâm.
Dịch vụ VPN lớp 2 và lớp 3 của công ty VTN
Hiện nay Công ty VTN cung cấp cả hai loại dịch vụ VPN lớp 2 và lớp 3 nhằm thoản mãn các
yêu cầu khác nhau của khách hàng, trong đó dịch vụ VPN lớp 2 có tên thương mại là MetroNET
và dịch vụ VPN lớp 3 có tên thương mại là MegaWAN.
Từ việc nghiên cứu 2 loại hình dịch vụ này, có thể thấy một cách tổng quan về những lợi
ích nổi bật của chúng mang lại cho doanh nghiệp trong bảng như sau
So sánh lợi ích của các dịch vụ VPN lớp 2 và VPN lớp 3
Dịch vụ Ethernet VPN/VPN lớp 2(VTN MetroNet)Dịch vụ BGP/MPLS VPN//VPN lớp 3(VTN MegaWAN)
Hỗ trợ các giao thức ứng dụng cơ bản khác IP Chỉ hỗ trợ các ứng dụng chạy trên giao thức IP
Tính linh hoạt cao, có khả năng mở rộng băng thông.Tính phổ biến toàn cầu.
Các sự cố của dịch vụ thường đơn giản, dễ xử lý bởi bộ phận IT của tổ chức hoặc doanh nghiệp Nhà cung cấp dịch vụ thực hiện quản lý, bảo mật, thực hiện định tuyến và thay đổi các liên kết trong mạng của các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thể tự quản lý các kết nối mạng và tự quyết định quá trình định tuyến trong nội bộ. Doanh nghiệp và tổ chức có thể outsource cho nhà cung cấp dịch vụ thực hiện quản lý, quản trị, bảo trì VPN để tiết kiệm chi phí.
Dễ dàng mở rộng khi kết nối các mạng LAN mới vào VPN của doanh nghiệp Dễ dàng mở rộng tới các thiết bị hỗ trợ IP, trong đó quan trọng là tới các thiết bị IP mobile.
Kết luận
VPN là một dịch vụ viễn thông tiện lợi với giá thành thấp, rất cần thiết cho các tổ chức, doanh
nghiệp trong việc kết nối các mạng LAN nằm trên các vùng địa lý cách xa nhau thành một mạng
doanh nghiệp thống nhất.
Có nhiều giải pháp triển khai VPN dựa trên các công nghệ thuộc lớp 2 và lớp 3 trong mô hình
OSI, trong đó tương ứng có thể kể đến VPLS VPN dựa trên Ethernet và BGP/MPLS VPN. Mỗi
giải pháp VPN kể trên đều có những đặc điểm và ưu thế riêng, và có thể được cung cấp bởi nhà
vận hành mạng một các riêng rẽ hoặc phối hợp với nhau.
Tại thị trường viễn thông Việt nam, VTN là nhà cung cấp dịch vụ VPN lớn nhất, với khách hàng
là các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, các bộ ngành của Chính phủ, các doanh nghiệp
lớn,…Các giải pháp VPN của VTN bao gồm cả VPN lớp 2 (dịch vụ MetroNET) và VPN lớp 3
(dịch vụ MegaWAN) với khả năng bao phủ rộng lớn, chất lượng tốt, giá thành hợp lý, hỗ trợ tin
cậy cho khách hàng. Khi có nhu cầu sử dụng dịch vụ VPN, đến với VTN khách hàng sẽ được đội
ngũ kỹ thuật và chăm sóc khách hàng tư vấn kỹ càng để có thể lựa chọn giải pháp phù hợp nhất
cho nhu cầu của mình.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro