Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Việt Sử Toàn Thư (phan2-het)

(Phần 2hết)

Phạm Văn Sơn

233 Việt Sử Toàn Thư 

 Phần 3 - Chương 8  

 Nhà Hồ   (1400-1407) (Một Khúc Quanh Của Lịch Sử Việt Nam)  

- Hồ Quý Ly (1400)  

- Hồ Hán Thương (1400-1407)  I. Hồ Quý Ly  (1400)  

Năm sau, tháng hai năm Canh Thìn (Kiến Tân thứ ba 1400) Thiếu đế Án bị bỏ và giáng xuống làm Bảo Ninh đại vương. 

Quý Ly không giết vì Án là cháu ngoại. Nhưng trước khi bước lên ngai vàng Quý Ly còn dùng đủ hình thức để che 

mắt thiên hạ: 

a) Thiếu đế tự ý nhường ngôi  

b) Triều thần ba lần dâng biểu xin tấn tôn. Quý Ly lên ngôi lấy hiệu là Thành Nguyên, đổi họ Lê ra họ Hồ, đặt quốc 

hiệu là Đại Ngu. Cuối năm ấy Quý Ly nhường ngôi cho Hán Thương để lên làm Thượng hoàng như các vua nhà Trần 

thuở trước. Tại Chiêm Thành, vua Chiêm là La Khải mới mất, con là Ba Đích Lại lên nối ngôi. Quý Ly cử Đỗ Mãn mang 

thủy quân, Trần Tùng lĩnh lục quân, binh sĩ tất cả là 15 vạn, nhân dịp này đánh Chiêm. Hai cánh quân thủy, bộ không 

tiến đúng nhịp nên không tiếp ứng được cho nhau. Lục quân thiếu lương phải rút lui. Trần Tùng bị đàn hặc về việc 

này và phải đày làm lính. (theo tài liệu trong Việt Nam Sử Lược). Về đoạn này ông Chu Thiên trong cuốn "Chính Trị 

Hồ Quý Ly" viết: "Nguyên năm trước, Hán Thương sai Phạm Nguyên Khôi và Đỗ Mãn đánh Chiêm. Chúa Chiêm dâng 

hai thớt voi để cầu hoãn binh rồi lại đi tâu gian với nhà Minh. Hán Thương phải khiến Phan Hòa Phủ đem hai thớt voi 

đó sang cống vua Tàu..." 

Âm Mưu Trừ Quý Ly Thất Bại Lần Thứ Hai Thượng hoàng Thuận Tông bị hạ sát đã xúc động hết sức dư luận sĩ phu 

và dân chúng trong nước, ngay cả những người trong hàng ngũ của Quý Ly xưa nay đã ủng hộ nhiệt liệt các việc cải 

cách của Quý Ly. Một số trung thần của họ Trần hợp nhau âm mưu trừ họ Hồ, đứng đầu là Thái bảo Trần Nguyên 

Hãng và Thượng tướng Trần Khát Chân, người đã có công giết Chế Bồng Nga trên sông Hoàng Giang. Họ đã dự định 

khởi sự vào ngày Hội Thề ở Đốn Sơn (thuộc làng Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Vì kinh đô ở đất Thanh, 

nên việc hội thề cũng phải dời chỗ). 

Quý Ly lên lầu nhà Trần Khát Chân để xem đàn thề dùng đủ nghi vệ thiên tử. Thích khách là Phạm Tổ Du và Phạm 

Ngưu Tất mang kiếm lên theo. Khát Chân trừng mắt, hai người không dám quyết. Quý Ly nhác thấy chột dạ liền đứng 

ngay dậy đòi các vệ sĩ ủng hộ xuống lầu. 

Ngưu Tất hoảng hốt quăng kiếm xuống đất kêu: 

- Việc hỏng mất rồi, cả lũ đến chết uổng mạng. Tức thì có lệnh bắt tất cả 370 người trong đó có nhiều nhân vật quan 

trọng như: Thái bảo Trần Nguyên Hãng, Trụ quốc Trần Nhật Đôn, Thượng tướng Vũ Tiết Hầu Trần Khát Chân, Thánh 

Dực tướng quân Phạm Khả Vĩnh, Thượng Thư Hà Đức Lân, Hành khiển Lương Nguyên Bưu, Bảng nhỡn Lê Hiến Phủ 

và bọn Phạm Ông Thiên, Phạm Tổ Du, Phạm Ngưu Tất. Rồi máu chảy xương rơi, việc bắt bớ kéo dài hàng năm chưa 

hết. Cuộc khủng bố lan tràn ra khắp nơi, đến nỗi dân chúng khi đi ngoài đường gặp người quen biết chỉ lấy mắt chào 

nhau mà không dám đứng lại nói chuyện. Từ giờ phút này mọi mầm phản động trong nước đều tắt hết. Quý Ly chỉ còn 

lo đối ngoại mà thôi.  

II. Hồ Hán Thương  (1400-1407)  Sau việc nhường ngôi cho Hán Thương, việc quan trọng và cấp bách nhất của Quý 

Ly là giao thiệp với nhà Minh. Quý Ly vốn là người rất sáng suốt nên đã tiên liệu mọi việc nhất là vấn đề Bắc triều là 

vấn đề mà vị Hoàng đế nào của Việt Nam cũng phải lo lắng đến. Quý Ly cho sứ sang nói với nhà Minh rằng con cháu 

họ Trần không còn ai nữa, nay xin cho Hán Thương lấy danh nghĩa là cháu ngoại thay thế. Năm Quý Mùi, tức năm 

Khai Đại đầu tiên (1403) nhân Minh Thành Tổ lên ngôi, Hán Thương sai sứ sang mừng và xin tấn phong. Thành Tổ 

cho Dương Bột sang nước Nam điều tra hư thực. Quý Ly cho các quan viên phụ lão làm tờ khai đúng như luận điệu 

của sứ giả trước đây qua Bắc triều, Thành Tổ không còn cớ gì để từ chối nên phong cho Hán Thương làm An Nam 

quốc vương. 

Năm Nhâm Ngọ (1402) Đỗ Mãn lại được cử đem quân đánh Chiêm Thành. Chiêm vương Ba Địch Lại sai cậu là Bồ Điền 

sang dân đất Chiêm Động (phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) để cầu bãi binh. Quý Ly đòi thêm đất Cổ Lũy (Quảng 

Nghĩa) rồi đặt ra lộ Thang Hoa để thi hành chính sách di dân. Năm sau (Quý Mùi), Đỗ Mãn đem 20 vạn binh sang 

đánh Chiêm thêm lần nữa để yêu sách những đất Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch và Sa Ly Nha về phía nam đất Chiêm Động và 

Cổ Lũy. Quân Chiêm giữ vững thành Chà Bàn. Quân nhà Hồ cạn lương thực phải rút lui. Năm sau (Giáp Thân - 1404), 

sứ Minh sang trách, hỏi vụ Chiêm Thành khiếu nại về việc binh đội của Hồ Quý Ly lấn đất và đòi tiến cống năm trước. 

Cũng năm ấy gia nô của Trần Nguyên Huy đổi tên là Trần Thiêm Bình trốn sang nước Lão Qua rồi qua Vân Nam lên 

Yên Kinh trá xưng là con vua Nghệ Tông, tố cáo việc cướp ngôi của cha con họ Hồ và xin Minh Triều đem binh qua 

nước Nam. Thành Tổ phái Ngự sử Lý Kỷ sang dò xét. Quý Ly nghe tin hoảng sợ cho người đuổi theo định bắt sứ bộ 

giết đi nhưng Lý Kỷ sau khi tìm hiểu được việc gian dối của Quý Ly đã vượt khỏi biên giới. Tháng hai năm Ất Dậu, 

Khai Đại thứ ba (1405) theo lời Thổ quan Hoàng Quang Thanh, Lộc Châu ở bên An Nam vốn thuộc đất Tàu (châu Tư 

Minh), nhà Minh trước đây đã đòi một lần, Quý Ly không chịu nhưng sau này thấy tình thế sắp trở nên gay cấn, Quý 

Ly đành cho Hoàng Hối Khanh cắt đất trả cho nhà Minh cốt để êm chuyện. Hối Khanh cắt đất Cổ Lâu tất cả 59 thôn 

nhường lại cho Trung Quốc. Việc này giải quyết xong, Hối Khanh bị trách cứ là đã trả nhiều quá. Quý Ly trong lòng 

bực tức ngầm sai thổ dân đánh thuộc độc những quan lại Minh cử sang cai trị đất mới ấy. Năm tháng sau, nhà Minh 

sai bọn hoạn giả Nguyễn Toán, Nguyễn Đạo, Từ Cá, Ngô Tín là những đầu bếp giỏi xưa kia được vua Nghệ Tông 

cống vua Thái Tổ nhà Minh về nước dò xét tình thế. Tháng 9, sứ bộ của nhà Hồ lại đem cống phẩm sang Bắc triều 

không ngoài mục đích mua chuộc nhà Minh và nghiên cứu thái độ của Minh Thành Tổ. Sứ giả Phạm Canh là Tả tư 

Lang trung bị Minh giữ lại, chỉ cho Thông phán Lưu Quang Định trở về. Thấy triệu chứng chiến tranh đã xuất hiện, 

Hán Thương vội triệu tập các quan An phủ sứ các Lộ về Kinh họp bàn để quyết định hòa hay chiến. Hội nghị chưa 

ngả bề nào, Tả tướng quốc là Hồ Nguyên Trừng (anh Hán Thương) nói: - Tôi không sợ đánh, chỉ sợ dân không theo 

thôi! Lời này trúng ý của Quý Ly, Nguyên Trừng được thưởng cái hộp vàng. Từ khi lên ngôi nhà Hồ đã tổ chức ráo 

riết việc quốc phòng ngoài việc cải cách võ bị đã được thi hành từ khi Quý Ly tham dự chính quyền. Đông Đô (Thăng 

Long) là tiền tuyến nên được bố trí rất kỹ càng. Trước hội nghị các quan văn võ cao cấp toàn quốc, Quý Ly hạ lệnh 

đắp tại Sơn Tây một cái thành lớn, tường cao, hào sâu gọi là thành Đa Bang thuộc xã Cổ Pháp, huyện Tiên Phong. Các 

đường thủy đạo từ ngoài bể tiến vào cũng có sự phòng ngự. Khúc sông Bạch Hạc thuộc Việt Trì, Hưng Hóa có đóng 

cọc gỗ để chận thủy quân của nhà Minh. Về phía Nam ngạn sông Nhị Hà có cắm cừ dài hơn 700 dặm. Về mặt bộ, quân 

đội các vệ chia nhau đóng ở các căn cứ trọng yếu. Dân các lộ Bắc Giang, 

Tam Đái phải dựng sàn nhà cửa ở những nơi đất hoang trên Nam ngạn sông Cái để có chỗ tản cư cho dân chúng. 

Những nhà có phẩm tước được lệnh chiêu mộ những kẻ đào vong, lập thành các đội quân dũng hãn đặt dưới quyền 

điều khiển của các chức Thiên Hộ, Bách Hộ để phụ lực cho đại quân của triều đình. 

Cuộc Giao Tranh Giữa Nhà Hồ và Nhà Minh 

Minh Thành Tổ cũng như các Hoàng đế Trung Hoa các triều trước, rất muốn chiếm nước Nam sau khi đã củng cố 

được địa vị của vương triều. Cơ hội tốt đã đưa đến: Trần Thiêm Bình trá xưng là con vua Nghệ Tông người duy nhất 

còn lại của họ Trần và chỉ xin vua Minh xuất năm ngàn quân đi "Điếu phạt" là đủ. Bọn hoạn giả Nguyễn Toán lại tâu 

rằng nước Nam rất giàu thịnh và có nhiều sản vật quý, vua Minh lấy làm vừa ý lắm. Việc Nam chinh được quyết định 

ngay. Tháng tư năm Bính Tuất (1406) vua Minh sai Đốc tướng là Hàn Quan và Hoàng Trung đem 5.000 quân đưa Trần 

Thiêm Bình về nước. Đến nơi địa đầu giáp giới, quân Minh đóng lại. Hoàng Trung một mình đánh vào cửa Sầm Kênh. 

Đại tướng Phạm Nguyên Khôi, Chủ Bỉnh Trung của nhà Hồ bị tử trận. Ngay lúc đó, tướng Hồ Vấn đến tiếp chiến. 

Quân Minh thua và bị hai tướng Hồ Xạ, Trần Đĩnh ngăn mất đường rút lui (Chi Lăng) từ trước. Hoàng Trung bèn sai 

quan y là Cao Cảnh Chiếu giải Trần Thiêm Bình sang trại quân Hồ nói: "Trước đây Thiêm Bình nói mình là con vua An 

Nam nên được đưa về nước. Ngay từ lúc vào cõi đến giờ không thấy một ai theo, rõ là có sự gian dối. Nay nộp Thiêm 

Bình và xin mở đường cho về". Hồ Xạ ưng thuận, đem Thiêm Bình về dâng công. Hán Thương thưởng cho mọi người, 

duy trách Hồ Xạ không bắt lấy Hoàng Trung, còn Thiêm Bình bị đem trảm quyết. Sau việc này Hán Thương lại cử sứ 

bộ sang biện bạch với Minh triều rằng Thiêm Bình giả mạo và xin thông cống như cũ. Đoàn sứ bộ này có Trần Cung 

Túc An phủ sứ Tam Giang làm chánh sứ, Mai Tá Phu Thông phán làm Phó sứ bị nhà Minh giữ lại cả. Bọn Hoàng 

Trung bỏ về, Thiêm Bình bị giết, vua Minh vẫn quyết đánh, Thành Quốc công Chu Năng được phong làm đại tướng, 

Tán Thành hầu Trương Phụ, Tây Bình hầu Mộc Thạnh làm tả hữu phó tướng, Phong Thành hầu Lý Bân, Vân dương 

bá Trần Húc làm tả hữu tham tướng chia quân làm hai đạo xâm nhập vào nước ta. Quân Minh đến Long Châu thì Chu 

Năng bị bệnh chết, Trương Phụ lên thay đi lối Bằng Tường (Quảng Tây) đánh vào cửa Nam Quan rồi đi theo hướng 

Tây Bắc chuyển xuống sông Cái. Mộc Thạnh đi đường Vân Nam, đánh cửa Phú Lĩnh (có lẽ là Hà Giang) theo dọc sông 

Thao mà xuống, hẹn nhau họp ở ngã ba Hạc (Bạch Hạc). Một thủ đoạn chính trị lợi hại: nhà Minh tiến quân vào nước 

Nam do những mánh khoé của bọn Việt gian Trần Thiêm Bình, Nguyễn Toán, Bùi Bá Kỳ bày ra nên đã thả xuống sông 

những tấm ván có viết bài hịch, đại ý nói rằng quân nhà Minh sang dẹp nhà Hồ có ý khôi phục lại dòng dõi nhà Trần 

và cứu nhân dân khỏi vòng đói khổ. Việc phản tuyên truyền này có kết quả tai hại trông thấy cho nhà Hồ. Quân sĩ của 

ta xem được bài hịch này nhiều kẻ nản lòng. Bọn Mạc Địch, Mạc Viễn, Mạc Thủy (cháu trạng Mạc Đỉnh Chi ở lộ Hải 

Dương) và Nguyễn Huân bất bình với nhà Hồ bỏ theo quân Minh được 

trọng đãi. Nhờ có sự cộng tác của bọn này, nội tình quân dân nước Nam thời đó bị phanh phui hết thảy ra trước mắt 

quân xâm lược. Rồi quân Minh nhờ đó mà lượm được nhiều thắng lợi buổi đầu. Căn cứ vào lời Mộc Thạnh bàn với 

Trương Phụ thì quân Minh bấy giờ chưa vượt qua được sông Nhị Hà vì lòng sông bị cắm cừ và chông chà. Sau đó 

như lời đã hẹn, hai cánh Bắc quân đều tập hợp cả trước Bạch Hạc rồi ở đó dĩ nhiên họ phải đánh thành Đa Bang là tiền 

tuyến của quân Hồ và là một căn cứ quan trọng của nhà Hồ để tiếp ứng cho các đồn binh hai bên bờ sông Nhị Hà. 

Quân Minh, khác với quân Tống, quân Nguyên, hơn hai thế kỷ trước là chỉ tiến vào nội địa nước ta bằng đường bộ do 

đường Thượng du tràn xuống sông Nhị Hà rồi đánh vào Trung Châu.

 Thành Đa Bang Thất Thủ 

Thành Đa Bang đáng kể là kiên cố do tường cao và lũy sâu. Quân nhà Hồ ở đây rất đầy đủ và tính rằng quân Minh 

không vượt được qua sông Cái về phía Nam thì phải tìm cách đổ bộ ở phía Tây Bắc sông Nhị Hà. Sự dự đoán này rất 

đúng. Trương Phụ tiến đến đây liền bàn với các tướng, lợi dụng bãi cát rộng và phẳng đong quân rồi ngay đêm hôm 

ấy, họ chia quân đánh thành. Trương Phụ cùng Đốc tướng Hoàng Trung đánh mặt Tây Bắc. Mộc Thạnh đem Đốc 

tướng Trần Duệ (Việt Nam sử lược chép Trần Tuấn) đánh mặt Đông Nam đều dùng thang vân thê ập vào thành mà leo 

lên. Quân Minh đánh ào ạt vào thành, quân nhà Hồ chịu không nổi lui vào giữ thành. Sáng hôm sau, nhà Hồ đào 

thành cho voi ra đánh. Quân Minh vẽ hình sư tử trùm lên ngựa rồi dùng súng thần cơ bắn xả vào quân Hồ. Voi sợ 

chạy lùi lại, quân Minh tiến vào thành. Thành vỡ các đồn ải dọc sông cũng vỡ theo. Tàn quân của nhà Hồ lui về 

Hoàng Giang (khúc sông Nhị Hà thuộc huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam). Quân Minh thừa thắng đốt sạch các đồn trại 

của nhà Hồ và tiến về Thăng Long, (bấy giờ gọi là Đông Đô) lúc này bỏ ngỏ. Quân Minh tha hồ bắt đàn bà, con gái, 

vơ vét của cải. Sau đó, họ đặt ngay bộ máy cai trị, bổ nhiệm các quan chức, chiêu tập lưu dân. 

Trận Mộc Phàm Giang 

Cuộc bại trận của nhà Hồ từ Sơn Tây về Thăng Long vào tháng Chạp năm Bính Tuất (1406). Năm sau (Đinh Hợi) 

tháng ba, Phó tướng Mộc Thạnh đem quân thủy lục tiến xuống Mộc Phàm (con sông này lấy tên làng Mộc Phàm vì 

chảy qua đó. Mộc Phàm thuộc huyện Phú Xuyên. Sông Mộc Phàm tiếp với Hoàng Giang). Quân Minh hạ trại ở hai 

bên sông. Hồ Nguyên Trừng đem 300 chiếc thuyền tấn công vào quân Minh, bị quân Minh chia ra làm hai cánh đánh 

ập lại. Nguyên Trừng không chống nổi rút lui về cửa Muộn Hải (thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định). Tại bến 

Bình Than (huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), hai bên cũng gặp nhau. Đại tướng nhà Hồ là Hồ Đỗ và Hồ Xạ cũng thua 

chạy về Muộn Hải hợp với quân của Nguyên Trừng, đào hào đắp lũy tính giữ lâu dài. Quân Minh lại sắp đến. Bọn Hồ 

Nguyên Trừng chạy về cửa Đại An (thuộc phủ Nghĩa Hưng), ở đấy lại xẩy thêm một việc phản bội: bọn Thị trung Trần 

Quang Chỉ, Trung thư lệnh Trần Sư Hiền cùng với người sở tại là Nguyễn Nhật Kiên âm mưu giết quan Trấn phủ rồi 

theo quân Minh. 

Quân Hồ và quân Minh đánh nhau kịch liệt ngày đêm. Nguyên Trừng cho đón Quý Ly và Hán Thương ở Tây Đô ra 

Hoàng Giang, định mở một cuộc phản công lớn. Tại Muộn Hải, quân Minh bị ốm đau nhiều nên phải lui về bến Hàm 

Tử, có ý đợi quân Hồ tiến lên. 

Trận Hàm Tử Quan 

Lực lượng thủy lục của quân Hồ bấy giờ có tất cả 7 vạn. Họ hư truyền có 21 vạn và đúng như sự dự đoán của các 

tướng Minh, cuộc phản công của Hồ tại bến Hàm Tử sẽ diễn ra. Nguyên Trừng cùng Đỗ Mãn chia quân như sau: Hồ 

Xạ, Trần Đĩnh đem quân đánh vào bờ phía Nam. Đỗ Nhân Giám, Trần Khát Trang đánh vào bờ phía Bắc. Thủy quân 

có Đỗ Mãn, Hồ Vấn phụ trách. Chiến thuyền nối nhau hơn mười dặm kín cả mặt sông. Minh dùng thế phục binh, nhử 

quân Hồ vào sâu trong mặt trận mới đem quân thủy bộ xông ra. Quân Minh đánh rất mạnh, quân Hồ thua, phần xin 

hàng, phần chạy xuống sông bị chết đuối rất nhiều. Được tin quân mình bị phục binh của địch đánh ráo riết, quân của 

Hồ Xạ ở mặt sau không chịu tiến. Hồ Vấn phái người đến trách, bấy giờ Hồ Xạ mới cho quân lên nhưng cũng bại nốt. 

Sau trận này, đại quân của nhà Hồ tan rã gần hết. An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hy Chu bị bắt. Hy Chu chửi Trương 

Phụ và bị giết chết. Còn Quý Ly và Hán Thương cùng một số người chạy ra bể lui về Thanh Hóa. Quân Minh đuổi 

theo kịp đến Lội Giang (là một con sông nhỏ ăn vào sông Mã), quân Hồ bấy giờ mất hết tinh thần nên không đánh mà 

tan. Giữa lúc nguy cấp, tướng Hồ là Ngụy Thức nói: - Nước mất rồi, làm vua không nên chết vì tay người, Bệ hạ nên tự 

đốt đi là hơn! Quý Ly giận lắm cho chém Ngụy Thức44 rồi chạy vào Nghệ An. Tháng 5 năm ấy (1407), Quý Ly và Hán 

Thương đến cửa Kỳ La (nay thuộc huyện Kỳ An, tỉnh Nghệ An). Trương Phụ cử Mộc Thạnh dẫn lục quân, Liễu 

Thăng lĩnh thủy quân bằng đường bộ đuổi theo. Ngự đạo được các kỳ lão ra yết kiến và tâu: - Xứ này tên là Cơ Lê, có 

núi tên là Thiên Cầm, đó là điềm không lành, xin nhà vua chớ lưu lại ở đây (chữ Cơ Lê là trói họ Lê. Thiên Cầm là trời 

bắt. Sự thật các kỳ lão đã có ý đọc trệch chữ Kỳ La ra Cơ Lê. Chữ Thiên Cầm chỉ có nghĩa là đàn trời. Tương truyền 

ngày xưa vua Hùng Vương đi chơi qua đấy nghe tiếng sáo trời bởi gió hút qua các khe núi nên đặt tên núi là Thiên 

Cầm). Quý Ly hiểu rõ tên sông núi Thanh Nghệ, biết rằng bọn phụ lão nguyền rủa mình, giận lắm cho chém hết. Ít lâu, 

quân Minh thủy bộ kéo đến nơi bắt được Quý Ly ở núi  Thiên Cầm, ngày hôm sau bắt được Hán Thương với con là 

Nhuế Lỗ ở núi Cao Vọng cũng thuộc về Kỳ Anh.                                      

[ 44 Ngụy Thức là một văn thần có nhiều mưu mẹo được Hán Thương trọng dụng thường ví với Ngụy Trưng đời 

Đường. Thật ra, Ngụy Thức họ Đồng, đậu Thái Học Sinh đời Trần, người Chí Linh, lộ Nam Sách. ]

 Các đại thần tướng tá như Tả tướng quốc Nguyên Trừng, Hữu tướng quốc Quý Tỳ, em ruột Quý Ly cùng với con là 

Phán trung đô Vô Cửu, tướng quân Hồ Đỗ, Phạm Lục Tài, Nguyễn Ngan Quang, Đoàn Kích, lần lượt bị sa lưới hết. 

Bọn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cẩn, Đỗ Mãn đã ra hàng Minh trước đó ít lâu. Ngoài ra, Hành 

Khiển hữu tham tri chính sự Ngô Miên cùng vợ là Kiều Biểu giữ chức Trực Thường không chịu nhục đều đâm đầu 

xuống nước tự ải. Tháng sau, tướng Minh là Lỗ Lân, Liễu Thăng giải Quý Ly với con là Hán Thương, Nguyên Trừng, 

Triệt Uông, cháu là Nhuế Lỗ, Phạm, em là Quý Tỳ, con Tỳ là Vô Cửu, tướng quân Hồ Đỗ, Đoàn Kích, Hành Khiển, 

Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ về Kim Lăng. 

Minh Thành Tổ hỏi Quý Ly: 

- Giết vua cướp nước có phải là đạo bề tôi không? 

Quý Ly không trả lời. Vua Minh bèn giam cả vào ngục chỉ tha có Nguyên Trừng và cháu là Nhuế Lỗ. Sau Quý Ly cũng 

được phóng thích nhưng phải làm lính tuần ở Quảng Tây. Nguyên Trừng giỏi việc chế tạo võ khí, đem súng tiến vua 

được làm quan, sau được phong đến Công Bộ Thị Lang và soạn ra sách  Nam Ông Mộng Lục  còn truyền đến bây giờ. 

Cũng khoảng tháng sáu, bình định xong nước Việt, người Minh đặt ba cơ quan hành chánh: Ty Đô chỉ huy sứ, ty 

Thừa tuyên bố chính sứ và ty Đề hình án sát sứ, thuộc quyền Đô đốc Lã Nghị và Thượng thư Hoàng Phúc. Dân được 

miễn thuế ba năm.

 Nguyên Nhân Thất Bại Của Hồ Quý Ly

 Hồ Quý Ly bước chân vào trường chính trị từ năm Tân Hợi (1371), đến năm Đinh Mão (1387), giữ chức Đồng bình 

chương sự nắm hết quyền chính trong tay. Đến năm Canh Thìn (1400) Quý Ly phế bỏ Thiếu Đế và lên làm vua. Từ 

cuối năm Bính Tuất qua năm Đinh Hợi, Quý Ly phải đương đầu với quân xâm lăng, sau 9 tháng chiến tranh, họ Hồ thất 

bại một cách đau đớn, thảm thương. Vì đâu họ Hồ đã đi tới cái kết quả bi đát đó? Các vua chúa mất ngai vàng, nghiệp 

bá, các nhà chính trị ngã gục trên nẻo đường danh vọng xưa nay không ngoài lý do thất nhân tâm. Ta hiểu câu thất 

nhân tâm là mất lòng dân và trí thức trong nước là hai thành phần quan hệ của nền tảng quốc gia. Đây là một lẽ chung. 

Họ Hồ cũng không thoát khỏi công lệ đó trong khi đổ sụp. 

Những hành động nào đã làm họ Hồ thất nhân tâm? 

1) Họ Hồ đã tiến quá nhanh trên con đường danh vọng, quyền thế lẫy lừng, dẫu không va chạm vào quyền lợi của ai 

cũng dễ khiến nhiều kẻ ghét ghen, huống chi họ Hồ đã thi hành nhiều việc cách mạng xã hội nghịch với quyền lợi của 

nhiều giai cấp. Tỉ dụ: hạn chế quyền tư hữu tài sản do việc cải cách điền địa có lợi cho dân nhưng có hại cho quý tộc. 

Việc cách mạng hết sức táo bạo này lại kèm thêm việc hạn chế gia đồng 

đã kìm hãm và giảm hẳn thế lực của đẳng cấp phong kiến khiến họ phải tìm cách chống lại họ Hồ để bảo vệ tương lai 

của họ. 

2) Việc cải cách tăng đạo cũng có tính cách hạn chế ảnh hưởng của một giai cấp rất gần dân chúng. Sự chống trả của 

giai cấp này không phải là không nguy hiểm, nhất là về mặt tuyên truyền.

 3) Việc cải cách tiền tệ, tuy có thuận tiện cho việc mua bán của dân chúng nhưng quá mới nên dân chúng chưa hiểu 

được lợi ích. Thấy tiền bạc của mình bắt buộc phải đổi lấy tiền giấy, dân chúng sao khỏi được sự hoang mang, hờn 

giận. 

4) Việc giết hại con cháu nhà Trần, nhất là vua Thuận Thông, con rể của Quý Ly, và việc hạ sát trên 370 vương hầu, 

tướng lĩnh, đại thần trong vụ âm mưu ngày hội thề ở Đốn Sơn xúc động dân chúng rất mạnh không kể các giai cấp 

quyền quý đang bị họ Hồ uy hiếp. Ngay từ khi Quý Ly thi hành các việc cải cách, Quý Ly đã bị những cuộc phản 

tuyên truyền rất dữ dội, việc thẳng tay đàn áp đối phương và lưu huyết sau này lại càng gia tăng hiệu lực cho cuộc 

phản tuyên tryền của phe đối lập. Nhân dân vào đời Lý, Trần lại đang được hun đúc trong cái lò Phật giáo và Khổng 

giáo, thấy việc giết vua triệt hạ đại thần không khỏi có sự công phẫn và nghi ngờ. Trước vấn đề này, nhà chính trị đại 

tài đó đã thiếu xót một cách tai hại một kỹ thuật trọng yếu là vận động nhân dân, lấy nhân dân làm hậu thuẫn. Việc làm 

càng bạo động càng phải sửa soạn dư luận, họ Hồ quả đã rất khinh xuất, kể từ các việc cải cách quốc gia có lợi cho 

nhân dân đến việc bước lên ngôi cửu ngũ. Họ Hồ đã không hấp thụ được bài học thân dân và dân vận của Trần triều 

thuở trước, có lẽ vì không để ý đến nhân dân, có lẽ ông cho rằng chỉ cần hướng mọi công cuộc cải cách quốc gia về 

quyền lợi đại chúng là đủ. Bởi sự thiếu sót này người ta đã nghĩ rằng việc làm của ông không vì công ích, trái lại có 

mục đích, có cứu cánh hoàn toàn tư lợi. Bàn về việc đàn áp phong kiến đời bấy giờ, ta nghĩ thế nào về Hồ Quý Ly? Họ 

Hồ tàn nhẫn lắm chăng? Xét các việc đã xảy ra, quả họ Hồ đã tàn nhẫn thật nhưng bình tĩnh và khách quan mà nói nhà 

làm chính trị như họ Hồ giữa một thời vua hèn, tôi đốn, đẳng cấp phong kiến lại quá ngoan cố, tham tàn, chống lại mọi 

việc cải cách cấp tiến vì nghịch với quyền lợi của họ thì nhà làm chính trị đó nếu muốn thành công hay đứng vững 

không thể không có những cử chỉ quyết liệt mạnh bạo. Nói một cách khác, xã hội Việt Nam bấy giờ đang bị một bạo 

bệnh, Hồ Quý Ly đã phải dùng bạo phương vì không còn thể trì hoãn được với tình thế. Họ Hồ ngồi trên lưng cọp, lên 

đã khó xuống còn khó gấp bội, có ở vào hoàn cảnh của họ Hồ mới biết, ngoài ra đứng trên quan điểm nhân dân và 

cách mạng, ta còn lý gì để thương tiếc đám vua quan bất lực, mục nát đời Trần? Thương tiếc bọn này để mất nước với 

ngoại địch, để dân hao mòn vì đói khổ, ý niệm này vào thời nào cũng phải coi là một sự phản bội quốc gia và phản 

tiến hóa! 

Hồ Quý Ly Có Làm Mất Nước Không?

 Bình luận về Hồ Quý Ly, Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược trang 120 nói: 

"Xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay, một người kinh tế như 

thế mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung thì dầu giặc Minh có mạnh thế đến đâu đi nữa cũng chưa hầu dễ đã 

ăn cướp được nước Nam mà mình lại được tiếng thơm để lại ngàn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế 

lực thì sinh ra bụng muốn tranh quyền cướp nước. Bởi thế, Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái 

cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Mà cũng vì cái cớ ấy cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà theo giặc để đến nỗi 

cha con họ Hồ thua chạy bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục nước người! Nhưng đấy là một cái tội làm hại riêng cho 

một họ Hồ mà thôi, còn cái tội làm mất nước Nam, thì ai gánh vác cho Hồ Quý Ly? ..."

 Không riêng sử gia họ Trần, ... nhiều nhà viết sử từ trước đến nay thường quy tội làm mất nước về tay nhà Minh cho 

Hồ Quý Ly và cũng viện cớ một cách giản dị rằng Hồ Quý Ly đã giết vua cướp nước nên người trong nước mới đi cầu 

cứu Minh triều. Trước vấn đề này, để tìm ra lẽ phải, ta cần đặt hai câu hỏi dưới đây: 

1) Tình trạng bang giao giữa nước ta và nhà Minh thuở đó thế nào? Nếu Hồ Quý Ly không "thí quân thoán quốc" nạn 

xâm lăng liệu có thể tránh được không? 

2) Bọn Trần Thiêm Bình và Bùi Bá Kỳ sang cầu quân "điếu phạt" của nhà Minh có ảnh hưởng gì đến sự suy vong của 

quốc gia thuở đó không? Câu hỏi trên nhắc ta rằng khi nhà Hồ ra đời, Minh Thành Tổ đã có ý nhòm ngó nước ta rồi, 

sau đó lại thêm sự tố cáo của bọn hoạn giả Nguyễn Toán giỏi nghề nấu bếp mà triều Trần đem tiến Minh Đế trước 

đây, Thiêm Bình và Bùi Bá Kỳ chỉ là những kẻ đến sau để thúc đẩy cuộc xâm lăng cho thêm phần nhanh chóng. Bảo 

rằng việc đảo chính của Hồ Quý Ly đã giúp cho nhà Minh cái cớ xuất binh qua đất Việt cũng không đúng. Nhà Minh 

muốn chiếm nước ta không thiếu cơ hội, cũng không thiếu duyên cớ nữa. Đây chỉ là chuyện con chó sói với con cừu 

non của Lã Phụng Tiên (La Fontaine) mà thôi. Một việc xâm lăng bao giờ cũng phải tính toán đầy đủ điều kiện thực tế. 

Đó là việc ta cần phải suy xét kỹ lưỡng. Nhà Minh trước khi mang quân sang nước ta phải hiểu rõ dân ta đã suy yếu từ 

bao giờ, vua quan của chúng ta như thế nào. Như vậy mọi việc bại hoại của mấy triều đại cuối cùng của dòng họ 

Đông A đều đã ghi trong cuốn sổ tay của họ. Cuộc xâm lăng bấy giờ đâu có phải căn cứ vào cái nguyên nhân gần gũi 

nhất là vụ đảo chính của Hồ Quý Ly, nhất là cuộc đảo chính ấy đã thành công, một cách êm thắm. Có thể nhà Minh 

hiểu thực lực nước ta bị suy giảm từ lâu, lòng dân Việt Nam chia rẽ, Hồ Quý Ly tuy có cải cách nhiều việc trong nước 

nhưng vẫn chưa phục hồi được nguyên khí quốc gia. Đó là duyên cớ mất nước của dân ta cũng như duyên cớ xâm 

lăng của quân Minh. Tóm lại đời Trần Mạt do đám vua quan bạc nhược, ham ăn chơi đàng điếm đã tạo cho Bắc 

phương một hoàn cảnh tốt đẹp để xâm chiếm đất đai của chúng ta. Cái nguyên nhân xã hội này mới là nguyên nhân 

chính. Các nhà làm sử hay các người đọc sử xưa nay thường chỉ nhìn vào việc trước mắt mà buông lời phê phán chẳng 

khỏi có sự quá đáng và thiếu công bình với người xưa. 

Nhưng nhà đọc sử và viết sử ngày nay hiểu Quý Ly một cách công bằng và thực tế hơn. Trong Nam Sử Liệt Truyện 

khảo cứu ở Tạp chí Nam Phong số 100, ông Lê Thúc Thông viết: "Xem Quý Ly đương buổi Tây Lịch 1411, khi ấy các 

nước Âu Châu chưa đến trình độ bán khai mà nước ta đã có Quý Ly bầy đặt các việc trước đã khêu đèn văn minh, 

phỏng Bá Kỳ chẳng đưa quân Minh về trở ngạnh để cho Quý Ly hết sức kinh lý giang sơn, trùng tân nhật nguyệt, 

nước ta hẳn kéo cờ văn minh, thủ xuất trước các nước ở Á Châu ..." 

Trong Việt Nam Cổ Văn Học Sử (do nhà Hàn Thuyên Hà Nội xuất bản năm 1942) ông Nguyễn Đổng Chi cũng viết: 

"Tư tưởng và hành vi của nhà độc tài ấy có thể sánh với Vương An Thạch (1021-1086) đời Tống bên Tàu. Vương cũng 

có một độ bài xích những lối học huấn hỗ và chú sở của tiên nho cùng là chủ trương những vấn đề cải lương Trung 

Quốc. Họ Hồ đã chịu mạnh cái tinh thần đó nên quyết tâm mở một lối thực học đi đôi với nền tảng quốc gia xã hội 

mong làm cường thịnh nước nhà. Người sau này còn hơn người trước về chỗ chiếm lấy chiếc ngai vàng cho tiện bề 

hành động. "Nhưng đáng tiếc cho chiếc ngai vàng ấy không bao lâu bị sụp đổ và lôi cuốn mọi thứ đi mất. Bàn tay phá 

hoại ấy chính là người Minh, nhưng một số đông người Việt Nam lấy cớ phục hồi nhà Trần mở đường đón giặc, họ 

phải chịu một phần trách nhiệm." 

Tin Mới số 1406 ra ngày 31-10-1944, trong bài Đọc Sử ông T.N. cũng viết: 

"Đọc Nam Sử, những cuộc cải tạo về chính trị, xã hội, học thuật không phải là ít, nhưng điều khiến cho chúng ta phải 

ngạc nhiên và nhớ tiếc hơn cả là chính sách táo bạo có thể coi như một cuộc cách mạng của họ Hồ và cuối thập tứ và 

đầu thập ngũ thế kỷ. "Đem đối chiếu những chính sách của Hồ Quý Ly với lịch sử quốc tế hồi bấy giờ và nhất là đem 

đối chiếu với hoàn cảnh Á Đông lúc ấy cuộc cải cách kia thực là lớn lao về cả tinh thần lẫn phạm vi của nó. "Cuộc cải 

cách ấy nếu được tiếp tục trong một thời gian khá lâu, tất phải đem dân tộc Việt Nam, một dân tộc lúc ấy thiếu tổ chức, 

đến một mức phú cường. "Nhưng đem reo rắc vào một đám dân chúng chưa giác ngộ, những chủ trương không gặp 

được một sức hậu thuẫn đầy đủ cho nên trước cuộc âm mưu của bọn Việt gian làm bung sung cho quân đội nhà Minh, 

sự nghiệp của họ Hồ đã tan tác sau một cuộc thất bại đau đớn".  

243 Việt Sử Toàn Thư 

 Phần 3 - Chương 9

  Bắc Thuộc Lần Thứ Năm 

 Nhà Hậu Trần (1407-1413) 

 - Chính sách thống trị của nhà Minh 

 - Giản Định Đế khởi nghĩa  

- Trần Quý Khoách nối tiếp cuộc cách mạng  

1- Chính Sách Thống Trị Của Nhà Minh 

Quân Minh đánh tan được quân nhà Hồ liền thiết lập ngay guồng máy cai trị ở khắp mọi nơi. Nhưng đối với quân xâm 

lăng, bao giờ họ cũng khôn khéo để cám dỗ nhân dân. Trước đây, họ lấy danh nghĩa đem quân điếu phạt nhà Hồ để 

mua chuộc lòng các người trí thức, các quan liêu và nhân dân còn lưu luyến họ Trần được nhiều hay ít vẫn là điều lợi. 

Dĩ nhiên họ cần các phần tử trí thức hơn hết để làm tay sai và nội công cho họ. Ngoài ra, các phần tử quan liêu trí thức 

trong một nước vẫn có uy tín đối với nhân dân, họ ngả vào đâu, nhân dân theo về đấy, chớ mấy khi nhân dân đã nhận 

định được nhanh chóng và rõ ràng con đường của Chính Nghĩa. Giờ đây, họ dùng hai thủ đoạn chính trị: 

1) Họ treo bảng kêu gọi con cháu họ Trần để tỏ rằng họ vẫn trung thành với tinh thần bản tuyên ngôn "Hưng Trần 

Diệt Hồ" đã tung ra trong giai đoạn đầu của cuộc dụng binh. Họ biết rằng con cháu họ Trần chưa dễ đã dám xuất đầu 

lộ diện. Nếu có kẻ hưởng ứng lời hiệu triệu của họ, kẻ đó sẽ bị giết ngầm đi, điều nó nào có khó gì. 

2) Ngay lúc họ vừa tung ra lời hiệu triệu, họ lại làm tiếp ngay việc bắt các phụ lão làm tờ khai rằng: "Con cháu họ Trần 

không còn ai nữa. Đất An Nam vốn là đất Giao Châu ngày trước nay xin đặt quận huyện như xưa". Đây là hai hành 

động mâu thuẫn nhau. Bằng việc trên, thực dân Bắc phương đã dễ bề thao túng nhân tâm, chúng đã khai thác được 

cảm tình của nhân dân họ Trần, bằng việc dưới chúng chính thức hóa chế độ đô hộ cổ truyền của chúng trên xứ sở 

chúng ta. 

Rồi nhà Minh chia nước ta ra 17 phủ: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Lạng Sơn, Tân An, Kiến Xương, Phong Hóa, 

Kiến Bình, Trấn Man, Tam Giang, Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, Thăng Hoa 

và 5 châu là: Quảng Oai, Hưng Hóa, Qui Hóa, Gia Bình, Diễn Châu. Ở những nơi trọng yếu, họ đặt 12 vệ tức là 12 đạo 

quân binh để đề phòng về phương diện quân sự. Về hành chính, họ đặt ra ba ty: Bố Chánh ty, Án Sát ty, Chưởng Đô 

ty. Ba ty này điều động 472 nha môn là những cơ cấu cai trị phụ thuộc. Thượng thư Hoàng Phúc là một nhà trí thức lỗi 

lạc của họ coi hai ty Bố Chính và Án Sát. Lữ Nghị coi Chưởng Đô ty tức là Thống Nhiếp về quân sự, Hoàng Trung làm 

phó. Bộ máy hành chính và quân sự bắt đầu quay thì người Minh đã khôn khéo lo việc vỗ về dân chúng và chiêu mộ 

nhân tài. Con cháu các tướng sĩ, quan liêu theo nhà Hồ trong việc kháng chiến trước đây bị bắt, nay được phóng thích 

hết, ngay cả những tướng lĩnh bị bắt trong cuộc giao tranh cũng được miễn tội. Vua Minh Thành Tổ còn ủy Trương 

Phụ đi tìm kiếm các người có danh tiếng, có văn học uyên bác thông thạo việc cai trị, những người hiếu đễ, các trai 

tráng khoẻ mạnh, các thầy bói toán, các danh y để ban thưởng phẩm hàm hoặc dùng vào các chức vụ Tri phủ, Tri 

huyện, Tri châu. Những kẻ vong bản, xu mị thời thế, ham lợi mê danh (Lương Nhữ Hố, Đỗ Duy Trung, Nguyễn Huân 

...) chạy theo lời gọi của bọn thống trị và làm rất nhiều việc tàn ác đối với dân chúng, trừ vài người có liêm sỉ như các 

ông Bùi Ứng Đẩu, Lý Tử Cấu, Lê Lợi, được ân cần mời mọc mà vẫn khước từ. Lữ Nghị và Hoàng Phúc được đặc ủy mọi 

việc quân chính sau đó bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh rút quân mang theo bản đồ nước ta, đàn bà, con gái, các sử 

sách, đồ thư, truyện ký về Kim Lăng dâng lên Minh Đế, do đó chúng ta mất rất nhiều sách quý mà nhân tài hai triều Lý 

Trần đã biên soạn. 

Theo Lịch Triều Hiến Chương Văn Tịch chú (Phan Huy Chú) những sách dưới đây đã bị tịch thu: 

1) Hình thư của vua Lý Thái Tông (3 quyển)  

2) Quốc Triều Thôn Lễ của Trần Thái Tông (10 quyển) 

 3) Hình Luật (1 quyển)  

4) Thường Lễ niên hiệu Kiến Trung (10 quyển)  

5) Khóa Hư tập (1 quyển)  

6) Ngự Thi (1 quyển)  

7) Di Hậu Lục của vua Trần Thánh Tông (2 quyển) 

 8) Cơ Cừu Lục (1 quyển)  

9) Thi Tập (1 quyển)  

10) Trung Hưng Thực Lục của vua Trần Nhân Tông (2 quyển)  

11) Thi Tập (1 quyển)  

12) Thủy Vân Tùy Bút của vua Trần Anh Tông (2 quyển)  

13) Thi Tập của vua Trần Minh Tông (1 quyển)  

14) Trần Triều Đại Điển của vua Trần Dụ Tông (2 quyển)  

15) Bảo Hòa Điện Dư Bút của vua Trần Nghệ Tông (8 quyển)  16) Thi Tập (1 quyển)  

17) Binh Gia Yếu Lược của Trần Hưng Đạo (1 quyển)  

18) Vạn Kiếp Bí Truyền của Trần Hưng Đạo (1 quyển)  

19) Tứ Thư Thuyết Ước của Chu Văn Trình (1 quyển)  

20) Tiền Ẩn Thi (1 quyển) 

 21) Sầm Lâu Tập của Uy Văn Vương Trần Quốc Toản (1 quyển) 

 22) Lạc Đạo Tập của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải (1 quyển) 

 23) Băng Hồ Ngọc Hác Tập của Trần Nguyên Đán (1 quyển) 

 24) Giới Hiên Thi Tập của Nguyễn Trung Ngạn (1 quyển) 

 25) Giáp Thạch Tập của Phạm Sư Mạnh (1 quyển) 

 26) Cúc Đường Di Thảo của Trần Nguyên Đào (2 quyển) 

 27) Thảo Nhàn Hiệu Tần của Hồ Tôn Thước (1 quyển) 

 28) Việt Nam Thế Chí (1 bộ) 

 29) Việt Sử Cương Mục (1 bộ)  

30) Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu (30 quyển)  

31) Nhị Khê Thi Tập của Nguyễn Phi Khanh (1 quyển) 

 32) Phi Sa Tập của Hàn Thuyên (1 quyển)  

33) Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên (1 quyển) 

Cũng như các triều đại trước trong 10 thế kỷ đô hộ xưa, họ rất lưu tâm đến việc đồng hóa dân Việt để chúng ta quên 

nguồn mất gốc. Họ nhập cảng các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, Tinh Lý (dùng sách đại toàn cả) và lập Tăng Đạo để 

truyền bá rộng ra các nơi dân chúng đạo Phật và đạo Lão, ngoài việc giảng dạy Nho Giáo. Trong giai đoạn này, bọn 

người đắc thời hơn cả là các thày âm dương, y phương, tăng đồ và đạo gia. Họ đã nhảy ra điều khiển cả việc giáo dục. 

Sau việc gột rửa cái tinh thần cố hữu là căn bản của mọi cá tính dân tộc chúng ta, họ còn làm cả chuyện di phong, đảo 

tục nữa: đàn ông bị cấm không được cạo đầu, đàn bà con gái phải bận quần dài, áo ngắn đúng như dân của họ. Thuế 

khóa định như sau: Mỗi mẫu ruộng phải nộp 5 thưng thóc. Mỗi mẫu phù sa phải nộp một lạng tơ, mỗi cân tơ phải nộp 

một tấm lụa (?). Họ đặt quan lại đốc thúc 

dân phu khai các mỏ vàng bạc. Hàng năm, quan bản cục và nội quan được cử lập hội đồng xem xét lại rồi đưa vàng bạc 

về Tàu. Tại các miền duyên hải, họ ép dân làm muối và cũng có sự kiểm soát gắt gao. Muối làm được bao nhiêu cuối 

tháng phải nộp hết vào ty Đề Chưởng. Ai muốn buôn muối phải thương lượng với ty Bạc Chính (như Thương Chính 

bây giờ). Họ khám xét xong rồi mới được đem bán. Nấu muối lậu hay bán muối không có giấy phép phải tội rất nặng. 

Tại Vân Đồn, họ đặt một cơ sở kiếm hạt trai. Mỗi ngày hàng ngàn người phải lặn xuống đáy biển để mò ngọc. Để kiểm 

tra dân chúng (có lẽ vì lý do chính trị), họ phát những "hộ thiếp" ghi tên tuổi, trú quán của dân đinh đóng dấu vào 

giữa, một nửa vào mặt thiếp, một nửa vào cuống. Nếu hai phần so không hợp với nhau, người mang thiếp sẽ phải đi 

sung quân (đi đày). Ngoài chế độ thuế khóa, ta còn phải nộp các quý vật như: hồ tiêu, sừng tê giác, voi bạch, quế tốt, 

hương liệu, hưu trắng. Số thóc mỗi năm phải nộp về Tàu là 13 triệu 30 vạn hộc (mỗi hộc được chừng 60 lít). Voi, bò, 

ngựa 135.900 con. Thuyền 8.700 chiếc. Quân giới 253.900 chiếc đủ loại. Về việc cai trị, các đơn vị hành chính được đặt 

ra như sau: ở các xã thôn thì có Lý và Giáp. Cứ 110 hộ hợp thành một lý và 10 hộ là một giáp. Lý thì có Lý trưởng, giáp 

thì có Giáp thủ cầm đầu. Ở các đô thị thì gọi là phường (khu phố ngày nay, tỉ dụ ở Hà Nội có phường Đồng Xuân, 

phường Thọ Xương, v.v...) ở chung quanh thành phố thì gọi là Tương. Ở mỗi lý, phường, tương đề có sổ biên số đinh 

và số điền, trạch. Những người tàn tật, cô quả thì biên ra ở sau gọi là kỷ linh. Đầu sách có bản đồ. Những cuốn sổ này 

viết ra nhiều bản để ở các phủ huyện, bộ Hộ và Bố Chánh ty. Cứ 10 năm lại làm lại loại khác để sửa đổi vì số đinh điền 

có sự thăng giảm. Những người ra làm việc ở các cấp dưới như Lý trưởng và Giáp thủ thường bị đánh đập rất khổ sở. 

Việc bắt binh lính thì cứ theo sổ bộ. Ở những nơi gọi là vệ sở thì mỗi hộ phải ba xuất đinh. Thanh Hóa trở vào ít người 

thì mỗi hộ chỉ phải 2 xuất. Ở những chỗ không có vệ sở thì lập đồn lấy dân binh ra canh giữ. Chính sách đô hộ kể đã 

chu đáo và việc bóc lột nhân dân đến thế thật là cổ kim Á, Âu chưa bao giờ có. Đẳng cấp sĩ phu và dân chúng Việt 

Nam như tỉnh một giấc mơ dữ dội. Có lẽ ngay cả những kẻ Việt Gian cũng âm thầm hối tiếc thời quá vãng, dẫu sao 

cũng không đến nỗi khốc hại như vậy, trừ những kẻ có thiên bẩm là nô lệ và không còn nhất điểm lương tâm mới điềm 

nhiên khoanh tay nhìn ngoại nhân chà đạp đồng bào, hút máu đồng loại. Nhân dân đau khổ hết chỗ nói nhất là với 

bọn Lý Bân, Mã Kỳ đến thay Trương Phụ, đã có nhiều người cha lìa con, vợ lìa chồng, trốn vào rừng sâu, có nhiều kẻ 

được nghe tiếng gọi của hồn nước nên mới nảy ra phong trào phản đế ngay hai năm sau, ồ ạt như lửa được gió mạnh. 

2- Giản Định Đế Khởi Nghĩa (1407-1409) 

Máu hàng ngày đổ chan hòa mặt đất, xương trắng kẻ hàm oan phủ khắp sơn khê đã thúc dục anh hùng hào kiệt nước 

Nam đứng dậy cứu vãn tình thế. Trong những kẻ nối giáo cho giặc, chạy theo giặc, một cũng bị lương tâm cắn rứt 

hoặc được thời thế giác ngộ đã gia nhập nhiệt liệt phong trào cứu quốc khi Giản Định vương (tên là Quỹ) con thứ của 

vua Nghệ Tông phất cờ khởi nghĩa. Giờ đó, vua Giản Định đang siêu bạt tại làng Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, được Trần 

Triệu Cơ phụ tá, liền xưng Hoàng Đế để nối nghiệp nhà Trần, đặt niên hiệu là Hưng Khánh. Phong trào khởi nghĩa 

không thắng lợi buổi đầu vì thực lực còn non nớt. Giản Định Đế thua chạy vào Nghệ An được Đặng Tất (là quan cũ 

của nhà Trần, nhà Hồ, sau khi hàng Minh được làm Đại Tri Châu ở Hóa Châu như cũ) hưởng ứng. Họ Đặng giết luôn 

bọn quan lại nhà Minh rồi đem quân ra Nghệ An theo vua Giản Định. Tại Đông Triều (Hải Dương), Trần Nguyệt Hồ 

cũng chiêu tập binh đội tự động chống nhau với quân Minh nhưng chẳng bao lâu bị bắt. Các dư đảng chạy vào Nghệ 

An hợp với quân lực của Giản Định, nhờ vậy thanh thế của Giản Định bắt đầu bốc mạnh. Tại cửa Nhật Lệ, hàng tướng 

nhà Minh là Phạm Thế Căng bị Đặng Tất giết được, rồi từ Nghệ An trở vào ảnh hưởng của nhà Trần đã được khôi 

phục. Anh hùng nghĩa sĩ các nơi ùa theo ngọn cờ cách mạng nên tháng chạp năm Mậu Tí (1408) Giản Định hội họp 

được quân Cần Vương các đạo Thuận Hoá, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu và Thanh Hóa tiến ra Đông Đô. Quân cách 

mạng ra tới Trường An (Ninh Bình) thì các sĩ phu Bắc Hà, các cố thần của tiền triều cũng hoan nghênh nhiệt liệt. Xét 

tình thế có thể nghiêm trọng, bọn quan lại nhà Minh gửi giấy báo cáo về triều tới tấp khiến Minh Đế lại phải lo chuyện 

động binh ráo riết như buổi đầu của cuộc chinh phục. Mộc Thạnh được phái đem 4 vạn quân Vân Nam sang hiệp với 

quân đội của Lữ Nghị tiến đến Bồ Cô (thuộc xã Hiếu Cổ, huyện Phong Doanh) thì gặp quân Trần. Một cuộc giao tranh 

kịch liệt đã diễn ra. Giản Định tự cầm trống thúc đại binh liều chết với giặc. Tinh thần quân Nam lên rất cao. Đại tướng 

Lữ Nghị tử trận. Mộc Thạnh phải bỏ chạy về đóng ở thành Cổ Lộng do quân Minh xây ở làng Bình Cách thuộc huyện 

Ý Yên. Giản Định muốn nhân lúc đại thắng thừa thế đánh ra Đông Đô, nhưng Đặng Tất chủ trương đợi quân các lộ về 

đầy đủ sẽ mở cuộc tổng phản công một lượt. Từ đó vua tôi bất hòa, rồi Giản Định nghe lời dèm pha bắt giết Đặng Tất 

và quan Tham Mưu Nguyễn Cảnh Chân. Việc này có ảnh hưởng rất tai hại đối với tinh thần binh tướng, nên nhiều 

người sinh chán nản và hàng ngũ cách mạng sinh rời rã. 

3- Trần Quý Khoách Nối Tiếp Cuộc Cách Mạng (1409-1413) Sự vụng về của Giản Định đã gây ra sự chia rẽ trong các 

lực lượng ái quốc Việt Nam, đáng lẽ các lực lượng này phải được đoàn kết chặt chẽ hơn bao giờ hết. Đặng Dung là con 

Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Dị là con Nguyễn Cảnh Chân giận Giản Định giết cha mình một cách oan uổng liền đem quân 

bản bộ rút về huyện Chí La (tức huyện La Sơn, thuộc Hà Tĩnh) tôn cháu vua Nghệ Tông là Trần Quý Khoách lên ngôi 

đặt niên hiệu Trùng Quang. Trong giai đoạn này, Giản Định đang đánh nhau với quân Minh ở thành Ngự Thiên, thuộc 

huyện Hưng Nhân. Quý Khoách phái tướng Nguyễn Súy lên bắt Giản Định 

đưa về Nghệ An tôn làm Thái Thượng Hoàng. Ý muốn của bọn Đặng Dung và vua Trùng Quang là thống nhất cuộc 

kháng chiến để khôi phục đất nước, nhưng giữ chủ quyền hành động vì không tin ở tài năng của Giản Định và bọn 

phụ tá. Được tin Mộc Thạnh thua trận, quân cách mạng đang đánh mạnh, nhà Minh lại phái viện binh qua nước ta đặt 

dưới quyền hai đại tướng Trương Phụ và Vương Hữu. Lực lượng của giặc Minh hùng hậu hơn lực lượng kháng chiến, 

ngoài ra Trương Phụ cũng có biệt tài chiến trận nên khi Trương Phụ sang, tình thế đôi bên thay đổi rất mau lẹ. Quân 

kháng chiến bấy giờ đang chia nhau đánh phá ở miền đông (Hải Dương) Giản Định đem quân tấn công hạt Ninh 

Giang, Quý Khoách đóng ở Bình Than. Giản Định gặp Trương Phụ, bị đánh bại đem binh thuyền chạy về xuôi đến 

huyện Mỹ Lương (giáp Sơn Tây và Phủ Nho Quan) thì quân Minh đuổi theo bắt được, sau giải về Kim Lăng. Quý 

Khoách sai Đặng Dung đến giữ Hàm Tử Quan (huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên) nhưng vì thiếu lương thực nên không 

cầm cự nổi lại bỏ chạy. Quân kháng chiến nao núng, Quý Khoách đành rút hết binh đội về Nghệ An. Quân Minh lại 

làm chủ được toàn thể Bắc Việt. Do cuộc bại trận của phái phong kiến mà nhân dân thêm một phen nữa bị giặc Minh 

khủng bố dữ dội. Những người dự vào cuộc kháng chiến, những kẻ tình nghi phản nghịch, bị chúng tàn sát thẳng tay: 

xác chết chất cao thành đống, ruột người treo lòng thòng trên các cành cây, đầu người đem nấu, làng mạc bị đốt phá, 

phụ nữ bị hãm hiếp vô kể... Trong dịp này, một số người Việt a dua với chúng giết hại nhiều đồng bào để được làm 

quan, bọn cẩu tẩu tha hồ tung hoành phỉ chí. So sánh với mấy thời Bắc thuộc trước, cảnh địa ngục của giặc Minh 

rùng rợn hơn cả. Năm sau (Canh Dần 1410), quân Kháng chiến lại tiến đánh Hồng Châu được thắng lợi rồi lại chiếm 

đóng Bình Than. Nhân dân hưởng ứng với binh đội, nổi lên đánh giết quân giặc nhưng quân kháng chiến bấy giờ 

không có tướng tài, chỉ là những đoàn quân ô hợp, hiệu lệnh bất nhất, lương thực ít ỏi nên lại bị đánh bạt về Nghệ An 

như trước. Thêm một lần nữa, Trương Phụ tuyên cáo tờ chiếu của vua Minh, lấy nhân nghĩa cám dỗ các tầng lớp xã hội 

Việt Nam. Cũng ngay trong lúc này, quân Minh tiến vào Nghệ An để tiêu diệt quân kháng chiến. Lực lượng của nhà 

Hậu Trần quá suy nhược rồi đi dần đến thế thụ động. Quân đội trước đây được 10 phần thì nay chỉ còn ba, bốn, tai hại 

hơn cả là chỗ lương thực thiếu thốn. Biết rằng không thể thắng được quân Minh. Quý Khoách mấy phen cho người 

sang Tàu cầu phong với Minh Đế. Sứ giả bị giết và quân Minh càng đánh ráo riết hơn. Quý Khoách lại phái cả người 

đến xin hòa với Trương Phụ. Người giữ cái sứ mạng đi cầu hòa với tướng Minh đó là Nguyễn Biểu đã để lại một vài lời 

khảng khái trong lịch sử trước khi bị họ Trương đem giết: "Chúng bay mượn danh nghĩa đem quân đánh dẹp để khôi 

phục họ Trần mà bề trong chỉ lo chuyện cướp nước, đặt quân, huyện rồi vơ vét của cải, thật là đồ hung bạo". Tháng 

sáu năm Quý Tỵ (1413), quân Minh đánh thành Nghệ An. Thái phó nhà Hậu Trần là Phan Quý Hữu ra hàng nhưng 

sau mấy hôm thì chết. Con Quý Hữu là Phan Liêu được Trương Phụ cho giữ chức Tri Phủ Nghệ An, muốn lập công lớn 

đã tố cáo với Trương Phụ các tướng sĩ và thực lực của Quý Khoách, các địa điểm quân sự ở địa 

phương, nhờ đó Trương Phụ định được kế hoạch tiến đánh Hóa Châu. Mặc dầu Mộc Thạnh cản ngăn rằng Hóa Châu 

hiểm trở vì núi cao bể rộng, Trương Phụ vẫn chia hai đạo quân thủy bộ tiến đánh quân kháng chiến. Tháng 9 năm ấy, 

quân Minh đã có mặt ở Hóa Châu. Nguyễn Súy và Đặng Dung đang đêm đem quân đánh vào trại của Trương Phụ đã 

lọt được vào thuyền của họ Trương nhưng không biết mặt, nên Trương trốn xuống một chiếc thuyền nhỏ thoát được. 

Quân kháng chiến mỗi ngày một tan rã, Quý Khoách cùng các thủ túc phải lẩn vào rừng núi sau này cũng bị bắt hết 

và giải về Yên Kinh. Đi đến nửa đường, Quý Khoách nhảy xuống bể tự tử, còn bọn Nguyễn Súy, Đặng Dung, Nguyễn 

Cảnh Dị cũng đều tử tiết cả. Để kỷ niệm họ Đặng có lòng trung quân ái quốc, nhân dân có đền thờ ông ở huyện Can 

Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Nhà Hậu Trần thất bại không phải là điều ngạc nhiên vì kiểm điểm tình trạng của mấy triều vua cuối 

cùng dòng Đông A, năng lực của các nhà lãnh đạo và sự kiệt quệ của nhân dân đời bấy giờ, ta thấy rõ rệt triều Trần 

không thể tồn tại mãi trên sân khấu chính trị Việt Nam. Nền móng đã lún, cột kèo đã mục, thì làm thế nào khỏi sự sụp 

đổ. Dẫu sao, ta cũng phải ngợi khen con cháu nhà Trần đến lúc suy tàn còn có một phen quật khởi, nhưng cũng do sự 

xụp đổ hoàn toàn của họ Trần, ta thấy rõ lý do xã hội Việt Nam cần phải thay trò đổi cảnh, con thuyền quốc gia mỏng 

manh như vậy mà trao mãi cho những tay lái bất tài thì sinh mạng của những kẻ đồng hành há là rơm rác sao! Ngoài ra, 

nhân dân Việt Nam đã ủng hộ cuộc kháng chiến của họ Trần đến như thế cũng là hết lòng, mà họ Trần không tái tạo 

nổi cơ đồ thì không còn phiền trách vào đâu nữa. Công nghiệp vĩ đại của họ Trần trước đây là chống xâm lăng thì sau 

này con cháu họ Trần bất lực đem lại cái họa vong quốc, họ Trần phải lĩnh một phần lớn trách nhiệm đối với quốc gia 

dân tộc. Rồi đây, cũng với trời đất, non sông ấy, nhân dân ấy, người nông dân đất Lam Sơn làm được những sự 

nghiệp thế nào, ta sẽ hiểu dân tộc chúng ta không bao giờ thiếu nhân tài, tinh thần ái quốc và chiến đấu. Để cho quân 

giặc xông pha vào bờ cõi như vào chốn không người, chẳng qua những kẻ cầm đầu chính trị cũng như quân sự quá ư 

hèn nhát. Giặc vừa tới nơi đã bỏ giáo hàng giặc, giặc vừa thét ngoài biên đã mở cửa thành đón giặc, quan liêu, trí thức 

đâu đâu cũng khoanh tay cúi đầu chịu lệnh của giặc, tâm lý của cả một lớp người thời đó như vậy mà lại trách Quý Ly 

làm mất nước chẳng đáng buồn cười lắm sao!  

250 Việt Sử Toàn Thư 

 Phần 3 - Chương 10 

Lê Lợi Chấm Dứt Chế Độ Minh Thuộc  

- Giai đoạn đen tối 

- Giai đoạn tươi sáng 

- Cuộc tổng phản công giặc Minh

 - Trận Tuy Động 

- Việt quân phong tỏa Đông Đô

 - Trận Chi Lăng 

- Cuộc hòa giải  

1- Giai Đoạn Đen Tối Nhà Hậu Trần quật khởi từ năm 1407 đến năm 1413 thì hoàn toàn thất bại. Dân Việt Nam như thua 

cay một ván cờ, thua cay vì không phải không đủ tư cách chơi ván cờ với Bắc phương, nhưng vì kẻ thay mặt toàn dân 

ra chơi ván cờ quốc sự ấy quả thật bất tài, bất trí. Nhưng vì cuộc tranh đấu để dành quyền sống của dân tộc, đất đai 

của tổ tiên từ ngàn năm đã có tính cách cổ truyền, nên mỗi lần thất bại, mọi tầng lớp nhân dân lại đoàn kết chặt chẽ để 

khôi phục độc lập. Từ nhà Hồ đổ, nhà Hậu Trần ngã quỵ, nhân dân Việt Nam không hề ngừng tranh đấu để quân xâm 

lăng thiết lập dễ dàng các cơ cấu hành chính quân sự trên lĩnh thổ nước nhà, nên 5 năm sau, một nông gia làng Lam 

Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiếu Hóa, đã bước ra lĩnh đạo cuộc giải phóng dân tộc, rửa cái nhục bại trận của con 

cháu nhà Trần. Nhân dân đã hưởng ứng với lời hịch khởi nghĩa của người anh hùng áo vải đó, trong khi đẳng cấp 

quan liêu, trí thức thử thời nằm im như thóc. Hoặc giả nhân dân không còn tin tưởng gì nữa ở nơi họ vì một số xu mị 

thời thế chạy theo địch, một số đã tỏ ra bất tài bất lực trong cuộc đấu tranh. Lần này người được chọn mặt gởi vàng là 

ông Lê Lợi và các đồng chí, phần lớn chỉ là những con người thảo dã. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trong giai 

đoạn này so sánh với các cuộc chiến tranh trước đây, có tính cách thuần túy nhân dân hơn cả, vì khi khởi nghĩa các 

lĩnh tụ đa số là tuyệt đối là nông dân. Lúc này đẳng cấp phong kiến đã rút gần hết vào hậu trường sân khấu.  Ông Lê 

Lợi là nhân vật thế nào thời bấy giờ? 

Lúc thiếu thời, ông đã trông thấy cái cảnh quốc phá gia vong như các sĩ phu khác giữa buổi ấy là lúc nhà Hồ sụp đổ, 

giặc Minh hiếp đáp đồng bào nên tuy là dòng dõi nhà hào trưởng giầu có, ông đã nuôi chí lớn, không muốn khoanh 

tay nhìn dân tộc chết dần chết mòn và phải sống cái sống nhục nhã của người dân mất nước. Ngoài kinh sử, ông 

nghiên cứu cả binh thư trận pháp để ứng dụng cái sở năng của mình vào việc cứu quốc sau này. Ông dùng tiền bạc 

dư dật trong nhà để thu phục nhân tâm, kết nạp hiền sĩ khắp nơi nên nổi tiếng Mạnh Thường Quân một phương. Bọn 

quan Tàu thấy ông được nhân dân mến chuộng cho người đến dụ, có khi dùng uy thế để dọa nạt nhưng ông nhất 

định chối từ. Ông thường nói với những người thân tín rằng: "Đại trượng phu sinh ra ở đời để phò nguy cứu khổ, lưu 

tiếng lại nghìn năm, chớ đâu để làm tôi tớ người ta!" Một mặt ông chuẩn bị thóc gạo, tiền bạc chờ ngày dùng đến. 

Ngày đêm, ông cùng một số đồng chí là Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Xí, Lê Sát, Lý 

Triện, Trịnh Lỗi, Lê Ngân, Đinh Lễ (rồi sau có Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn --45, cùng nhau bàn mưu tính kế 

trong rừng núi miền Lam Sơn. Cuối năm Đinh Dậu (1417) binh lương khí giới đầy đủ; ông chọn ngày khởi binh vào sơ 

tuần tháng giêng năm Mậu Tuất (1418). Vì cuộc bại trận của nhà Hồ và nhà Hậu Trần, lòng người còn hoang mang, 

Nguyễn Trãi phải lợi dụng lòng mê tín của nhân dân như Trần Thắng cuối đời Tần (Trần Thắng viết ba chữ Trần 

Thắng Vương vào mảnh lụa, giấu vào bụng cá. Quân sĩ mổ cá thấy cho là trời đã định nên tin theo Thắng, nhưng sau 

Thắng cũng thất bại), ông cho nhúng bút vào mật viết lên nhiều lá cây trong rừng tám chữ: Lê Lợi vi quân, Nguyễn 

Trãi vi thần, sau đó kiến theo đường mật ăn thủng lá thành hình 8 chữ kể trên. Nhân dân cho là điềm thần dị, đồn đại 

rất nhiều nên người ta theo mỗi ngày một đông. Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương, phong cho 

Nguyễn Trãi chức Hàn Lâm Thừa Chỉ Học Sĩ, ngày đêm ở trong quân trướng bàn tính mọi việc và làm các văn thư, từ 

lệnh. Lực lượng của ta và của Tàu lúc bấy giờ chênh lệch nhau nhiều lắm. Tàu có tới 10 vạn quân đóng ở khắp nơi 

xung yếu. Quân của Vương có độ vài nghìn nên cuộc chiến đấu rất là gian lao. Bấy giờ đại bản doanh miền Nam của 

Minh do Mã Kỳ và Lý Bân cầm đầu đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hóa), nghe tin Lam Sơn nổi quân cách mạng liền đem 

quân đến đánh. Vì thực lực còn mỏng manh, Vương phải dùng thế du kích và phục binh cũng có nhiều khi thắng lợi. 

Có lần Vương đóng quân ở Lạc Thủy (Cẩm Thủy, phủ Quảng Hoá) để nhử giặc đến. 

[ 45 Theo Việt Nam Sử Lược, khi Bình Định Vương đã nổi lên ít lâu (1420) mới gặp Nguyễn Trãi ở Lộ Giang. Nguyễn 

Trãi dâng bài sách Bình Ngô rồi được dùng làm tham mưu. ]

Cùng năm ấy có trận đánh Lý Bân ở Mường Một. Đã có phen Vương thua phải bỏ cả vợ con cho giặc bắt, để rút lui về 

núi Chí Linh. Tháng tư và tháng năm Kỷ Hợi (1419) Vương tấn công đồn chính và đồn Nga Lạc (thuộc huyện Nga 

Sơn, Thanh Hoá giết được tướng Minh là Nguyễn Sao nhưng thế vẫn yếu, nên lại rút về núi Chí Linh là vị trí chiến 

lược và nơi thủ hiểm duy nhất của Vương lúc bấy giờ. (Chí Linh là một ngọn núi thuộc tỉnh Thanh Hoá). Có một lần 

giặc đem nhiều binh đội đến vây Chí Linh, tìng cảnh của Vương rất là nguy khốn. Lê Lai đóng vai Kỷ Tín (Kỷ Tín ngày 

trước chịu chết cho Hán Cao Tổ)46 mặc áo ngự bào giả làm Lê Lợi cưỡi voi ra đánh nhau với giặc để cho giặc bắt. 

Quân giặc tưởng Lê Lai là Bình Định Vương giết đi, rồi yên chí lui quân về Tây Đô. Sau khi kế sách này thành công, 

Vương thu tàn quân qua đóng ở Lư Sơn (phía Tây châu Quảng Hóa) và cho ngưới sang cầu cứu Ai Lao. Trong năm 

ấy, nhiều người Việt như tri phủ Phan Liêu ở Nghệ An, Trịnh Công Chứng ở Hà Hồng, Lê Hành, Nguyễn Đặc ở Khoái 

Châu, Nguyễn Da Cấu, Trần Nhuệ ở Hoàng Giang, Lê Ngã ở Thủy Dương cũng nổi lên chống nhau với quân Minh. 

Hồi tháng 10 năm Canh Tí (1420), Vương đóng quân ở làng Thôi tính xuống phá giặc ở Tây Đô thì Lý Bân dẫn đại binh 

đến, bị đại quân của ta đánh thua liểng xiểng ở Thi Lang. Vương tiến đóng Lội Giang là một vùng thuộc huyện Cẩm 

Thủy bên sông Mã và Ba Lậm. Giặc Minh phải đặt quân giữ Nga Lạc và Quan Du để đề phòng Tây Đô. Tháng một 

năm Tân Sửu (1421), quân Minh không còn dám coi thường lực lượng của Bình Định Vương. Mấy vạn tinh binh của 

tướng Minh là Trần Trí chuyển đến Ba Lậm hẹn cùng quân Lào hai mặt đành ập lại. Quân ta theo lệnh của Vương nhân 

giặc ở xa kéo đến còn mỏi mệt liền mở cuộc tấn công vào ban đêm. Giặc bị hại mất hơn một ngàn người. Trần Trí tức 

lắm sáng hôm sau xuất toàn lực giao chiến với quân ta, nhưng bị quân ta đã sắp sẵn thế phục binh và đánh kịch liệt 

quá phải thoái lui. Trong lúc này, ba vạn quân Lào giả xưng sang giúp quân ta nửa đêm kéo tới. Bình Định Vương 

không ngờ có sự dối trá nên mất một tướng là Lê Thạch bị tên của giặc bắn chết. Tuy vậy quân ta vẫn giữ vững được 

trận tuyến và mọi căn cứ, quân Lào phải rút lui về. Năm sau (Nhâm Dần 1422) từ đồn Ba Lậm, quân ta tiến đánh đồn 

Quan Gia bị liên quân Minh-Lào đánh lối giọng kìm không cầm cự được phải chạy về giữ đồn Khôi Sách. Giặc thắng 

thế đuổi theo bao vây bốn mặt rất nguy kịch. Vương bàn với tướng sĩ liều chết mở một đường xương máu rút về Chí 

Linh. Xét ra trước sau Bình Định Vương chạy về Chí Linh ba lần sau những phen thất trận. Với lần thứ ba này, quân sĩ 

hao tổn nhiều, lương thực cạn sạch. Hai tháng liền binh sĩ phải ăn rau, ăn cỏ, làm thịt cả ngựa, voi, tinh thần kiệt quệ. 

Để khôi phục lại nguyên lực, Vương bất đắc dĩ phải sai Lê Trân xin hòa với giặc. Quân Minh ưng thuận vì xét đánh 

không lợi và có ý chiêu dụ dần. Vương đem quân về Lam Sơn, một thời bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường cho người đem 

biếu Vương trâu ngựa, cá mắm cùng thóc lúa. Vương lấy vàng bạc cho Lê Trân đem tạ. Nhưng sau có sự ngờ vực, giặc 

giữ Lê Trân lại. Vương đem quân về Lư Sơn, từ đấy đôi bên tuyệt giao.                                       

[ 46 Lê Lai chết thay cho Lê Lợi. Lê Lợi hứa rằng sau này mình chết thì con cháu phải cúng giỗ Lê Lai trước. Ngày 22-8 

nhuần năm Quý Sửu (1435) vua Lê Thái Tổ mất nên ngày 21 là ngày kỷ niệm Lê Lai. Sau này có câu: Hăm mốt Lê Lai, 

hăm hai Lê Lợi là vì việc này. ]

Năm Giáp Thìn quân đội ta đã dư sức, lương thực dồi dào, Thiếu úy Lê Chích đưa ra vấn đề đánh Nghệ An để mở rộng 

khu vực và lấy chỗ nương tựa ở vùng núi hiểm trở của địa phương, sau đó sẽ tiến đánh Đông Đô. Vương đồng ý liền 

cho đánh đồn Đa Cang do Lương Nhữ Hốt làm trấn thủ (Lương Nhữ Hốt xưa là tướng nhà Trần sau hàng quân Minh). 

Hốt bỏ chạy. Quân ta đánh tiếp đồn Trà Long đi đến núi Bố Liệp thì nghe đại quân của Trần Trí, Phương Chính kéo 

tới. Vương cho quân mai phục các địa điểm chém được tướng giặc là Trần Tùng và 2000 quân địch, bắt được 100 con 

ngựa. Bọn Trần Trí bỏ chạy thì đồn Trà Long bị uy hiếp. Tri phủ Cầm Bành chờ viện binh không thấy sau phải mở cửa 

đồn xin hàng. 

2- Giai Đoạn Tươi Sáng (Mặt Trận Miền Nam)

 Bấy giờ Hoàng Phúc đã về Tàu, Trần Hạp sang thay nhận thấy tình thế nghiêm trọng liền tâu về Minh Đế. Cho đến 

giờ phút đó quan nhà Minh vẫn coi thường quân khởi nghĩa nên không thông tin về Bắc triều. Minh Đế xuống chiếu 

quở trách bọn Trần Trí đòi phải dẹp ngay cho xong "quân nghịch". Trần Trí phải huy động toàn bộ thủy lục giao 

chiến cùng Vương trên trận tuyến từ huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) đến mạn thượng du Khả Lưu ở Bắc Ngạn sông Lam 

Giang. Ở đây quân ta dùng thế nghi binh. Ban ngày Vương cho kéo cờ đánh trống, đêm đốt lửa, còn các nẻo đường 

quân giặc tiến qua thì có phục binh chờ sẵn. Quân giặc bất ngờ đi vào trận địa bốn mặt quân ta đánh ấp tới. Minh mất 

hai tướng: Chu Kiệt bị bắt và Hoàng Thành bị chém. Trần Trí lui quân và giữ thành Nghệ An. Thành này năm sau (Ất 

Tị 1425) bị quân ta vây trùng trùng điệp điệp. Thanh thế của Vương lúc bấy giờ lừng lẫy, đi đến đâu cũng được nhân 

dân đón rước náo nhiệt và đem trâu bò, thóc gạo, cung đốn vui vẻ. Vương nghiêm quân lệnh không cho quân lính 

phạm vào tài sản của dân chúng trừ những thứ gì thuộc về giặc Minh. Nhiều phủ, huyện ra quy thuận và xin tình 

nguyện đem quân đánh thành Nghệ An (tỉ dụ tri phủ Ngọc Ma là Cầm Quý giữ phủ Trấn Định). Nghệ An lúc bấy giờ 

là điểm chính của cuộc tấn công cho Nam Quân. Toàn cõi Nghệ An chẳng bao lâu thuộc về ảnh hưởng của Nam 

Quân, bọn Trần Trí cố chết giữ lấy thành đợi viện binh tới. Sau có Lý An ở Đông Quan đem quân do đường bể vào 

cứu, họp với quân trong thành đổ ra cùng đánh. Quân Minh bị nhử đến sông Độ Gia bị quân ta đánh tan. Trần Trí 

chạy thoát về Đông Quan còn Lý An vào đóng trong thành lại bị vây như trước. Nguyễn Trãi bàn nên đem quân đi 

đánh các nơi khác còn hơn tập trung toàn lực bao vây thành Nghệ An, vì vậy Vương hạ lệnh cho Tư Không Đinh Lễ 

đem một đạo binh ra phía Bắc đánh chiếm Diễn Châu, Tư Đồ Trần Nguyên Hãn, Thượng Tướng Lê Nỗ, chấp lệnh Lê 

Da Bồ đem hơn 1000 quân tấn công phía Nam lấy Tân Bình (Quảng Bình, Quảng Trị) Thuận Hoá (Thừa Thiên, Quảng 

Nam). Tại Diễn Châu, Đô Ty của giặc là Trương Hùng từ Đông Quan kéo 300 chiếc thuyền lương vào, bị Đinh Lễ đón 

đánh. Thiên Hộ Tưởng và 300 quân tử trận; Hùng bỏ chạy được. Quân ta cướp được các thuyền lương và đuổi giặc ra 

tới Tây Đô. Nghe tin Đinh Lễ thắng, Bình Định Vương phái thêm 2000 tinh binh cùng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lý Triện 

và Bùi Bị hợp với Lễ đánh Tây Đô. Tại đây giặc và ta kịch chiến, quân ta chém 

được hơn 500 tên và bắt được rất nhiều tù binh. Sau đó ta vây chặt Tây Đô như Nghệ An. Đạo quân của Trần Nguyên 

Hãn và Lê Nỗ tới sông Bố Chính thì gặp giặc. Bọn Hãn tiến, dùng chỗ hiểm đặt phục binh ở mặt sau. Hãn giả thua 

chạy. Tướng giặc là Nhậm Năng thúc quân đuổi riết đến chỗ có phục binh thì Hãn quay lại mở cuộc tấn công các ngả. 

Giặc tranh nhau chạy trốn, lăn xuống sông chết rất nhiều. Giữa lúc này Vương cho Lê Ngân, Lê Bôi, Lê Văn An dẫn 

thủy quân và 70 chiếc thuyền dùng đường bể vào tăng cường cho đạo quân đánh Tân Bình. Quân ta đuổi quân địch 

vào tới Tân Bình, Thuận Hóa, thế mạnh như chẻ tre, giặc không sao chống đỡ nổi. Thế là từ Tây Đô trở vào Nam, 

quân ta làm chủ, trừ mấy thành lẻ tẻ. Ở đây, ta mộ thêm được mấy vạn binh sĩ nữa để đưa ra mở mặt trận miền Bắc. Từ 

đấy quân ta mỗi ngày một mạnh, tinh thần quân dân lên rất cao, các tướng tôn Vương lên làm "Đại Thiên Hành Hóa" 

nghĩa là thay trời làm việc để tăng thêm uy tín với nhân dân. 

3- Cuộc Tổng Phản Công Giặc Minh (Mặt Trận Miền Bắc) 

Ban trinh sát của ta lúc này biết rõ giặc tập trung hầu hết các đại tướng ở hai nơi quan trọng là Nghệ An và Đông Đô, 

còn các đồn ải khác lực lượng của giặc rất mong manh. Vương liền tiến quân ra Bắc Việt lập một trận tuyến theo đường 

vòng cánh cung đánh vào các miền Thiên Quan, Quảng Oai, Quốc Oai, Gia Hưng, Quy Hóa, Đà Giang, Tam Đái, Tuyên 

Quang là những căn cứ giáp Thượng Du về hai phía Tây Bắc. Trận tuyến này do Khu Mật Đại Sứ Phạm Văn Khảo, 

Thái Úy Lý Triện phụ trách đón viện binh của giặc từ Vân Nam kéo xuống do đường thủy hay đường bộ. Một trận 

tuyến thứ hai kéo từ Khoái Giang, Bắc Giang, Lạng Giang, Thiên Trường, Kiến Xương, Tân Hưng, Ninh Giang do Lưu 

Nhân Chú và Bùi Bị điều khiển phòng viện binh từ Lưỡng Quảng tiến sang và chiếm đánh miền Đông Nam Trung 

Châu xứ Bắc. Thêm vào lực lượng Đông Nam có Đinh Lễ và Nguyễn Xí cũng đem một đạo quân ra tiếp theo đánh thốc 

lên. Tại Tây Bắc, Lý Triện lấy được Quốc Oai và Tam Đoái rồi đánh xuống Đông Quan. Trần Trí đem quân ra đóng 

Ninh Kiều và Ứng Thiên, (theo Trần Trọng Kim các nơi này chắc là vùng huyện Từ Liêm, Thanh Oai, về quãng sông 

Nhuệ và sông Đáy) có lẽ để tránh sự uy hiếp và phong tỏa thành Đông Quan nhưng bị thua trận, phải rút về đóng 

phía Tây sông Ninh Giang khúc trên sông Đáy. Tháng chín hơn một vạn viện binh Vân Nam kéo sang dưới quyền tiết 

chế của Vương An Lão. Lý Triện bàn với Phan Văn Xảo đem mộ ngàn quân đón đánh ở Tam Giang (Việt Trì). Giặc bị 

giết và chết đuối ở đây rất nhiều. Còn Lý Triện và Đỗ Bí theo riết Trần Trí, cố ý không cho hai cánh quân mới cũ của 

giặc hợp nhất. Trần Trí lại bại trận một phen nữa, bị đuổi đến làng Nhân Mục mất một tướng là Lý Vi Lạng và chết hơn 

1.000 binh. Hai cánh quân của ta thắng trận xong tập hợp làm một, trở lại bao vây Đông Quan. Giặc thấy thế mỗi ngày 

một nguy ở ngoài Bắc nên Trần Trí phải gửi thư gọi Phương Chính ở Nghệ An ra, gần như phải hy sinh mặt trận miền 

Nam để cứu lấy căn bản. 

255 Việt Sử Toàn Thư 

Phương Chính được tin Đông Quan nguy ngập liền để Thái Phúc giữ thành Nghệ An, vội xuống thuyền theo đường 

bể ra Bắc.  Từ giai đoạn này trở đi, chiến thuật, chiến lược của Việt quân thay đổi hẳn vì lực lượng và quân số của ta 

có thể dồi dào như của địch. Tại các địa điểm sơn cước dĩ nhiên ta vẫn phải lợi dụng các nơi hiểm trở để phục binh đón 

giặc, còn các miền đồng bằng ta mở các trận địa chiến đại quy mô, do thế ta mới bao vây được giặc ở Đông Đô, Tây 

Đô và Nghệ An là các căn cứ quan trọng và mạnh mẽ nhất của đối phương. Lương thực cũng sung mãn vì bóng cờ 

"Đại Thiên Hành Hóa" tới đâu nhân dân các miền quê tự ý hợp nhau cung đốn trâu bò, rượu thịt, vừa để quân đội 

dùng, vừa để khao thưởng các trận đại thắng. Thật bõ lúc có lần hai tháng phải đào củ ráy, cắt măng vầu và giết voi, 

ngựa để nuôi sống nhau trong những ngày đen tối ở Chí Linh. Phương Chính vừa xuống thuyền ra Bắc thì Vương cho 

Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Thận, Lê Văn Linh, ở lại tiếp tục vây chặt thành Nghệ An, còn ngài đem quân theo 

đường bộ đuổi cấp Phương Chính. Ra đến Thanh Hóa, ngài cho đánh Tây Đô nhưng giặc cố thủ nên đánh không 

được, quân ta đến đóng ở Lội Giang. 

4- Trận Tuy Động

 Tháng 11, Minh Đế phái Chinh Di tướng quân Vương Thông và Tham tướng Mã Anh đem 5 vạn quân sang cứu Đông 

Quan. Trần Trí và Phương Chính bị lột hết chức tước, đặt dưới quyền sử dụng của các tướng mới. Tới nơi, Vương 

Thông tập họp cả quân cũ và mới được 10 vạn, cùng ta quyết chiến một trận lớn. Trận thế của quân Minh liền sắp đặt 

như sau: a) Vương Thông dàn quân ở bến Cổ Sở (thuộc huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai Sơn Tây). b) Phương Chính 

đóng ở Sa Thôi (thuộc huyện Từ Liêm) c) Mã Kỳ đóng ở Thanh Oai (bên bờ Nhuệ Giang). Các dồn ải đặt liên tiếp 

nhau dài hơn 10 dặm để tiện việc thống nhất hiệu lệnh và tương trợ. Bên ta, Lý Triện và Đỗ Bí đem quân và voi đến 

Ninh Kiều phục ở Cổ Lãm nhử Mã Kỳ tới. Mã Kỳ đến cầu Tam La chỗ giáp giới huyện Thanh Oai và Từ Liêm thì bị 

phục binh của ta đánh, nhiều kẻ phải chạy xuống đồng lầy và bị chém tới hơn 1000 người. Quân ta đuổi theo tới làng 

Nhân Mục bắt được 500 tên, riêng Mã Kỳ một người một ngựa trốn thoát. Lý Triện thừa thắng đánh luôn tới cứ điểm 

của Phương Chính. Phương Chính thấy Mã Kỳ bại cũng không dám chống với quân ta cùng Mã Kỳ về hợp với Vương 

Thông vẫn đóng nguyên vẹn ở bến Cổ Sở. Tại đây, đại quân của Vương Thông sắp đặt kế phục binh chờ quân ta đến 

tấn công. Quả nhiên Lý Triện tới. Quân Minh giả thua nhử quân Việt đến thế trận có cắm chông sắt của họ. Tại đây, 

voi bị chông không tiến lên được, quân mai phục của giặc đổ ra, Lý Triện thua chạy về giữ Cao Bộ (huyện Thanh Trì) 

và gọi quân của Đinh Lễ và Nguyễn Xí đến. Ngay đêm ấy, 2000 viện quân và 2 con voi đến hợp với quân Lý Triện chia 

ra phục ở Tuy Động thuộc huyện Mỹ Lương và Chúc Động 

thuộc huyện Chương Đức, phía Đông sông Đáy chỗ ngã ba thá. Ở đây, ta bắt được do thám của giặc, biết Vương 

Thông đã chuyển lực lượng đến Ninh Kiều và có một đạo quân đang lén đánh vào mặt sau quân Lý Triện. Họ chỉ chờ 

có tiếng súng hiệu là hai bên đánh lối gọng kìm vào quân ta. Biết được mưu giặc, bên ta định luôn kế hoạch và phân 

phối lực lượng theo chiến lược lừa giặc vào tròng. Đinh Lễ cho người bắn súng, quân giặc liền tiến vào chiến trường 

Tuy Động. Ở đây, trời đang mưa đường lầy lội. Quân ta bốn mặt đánh ập lại. Thượng thư Trần Hạp và nội quan Lý 

Lương bị chém. Quân Minh xéo lên nhau và nhảy cả xuống sông nghẽn cả dòng nước. Giặc chết ở đây tới 5 vạn người 

và bị bắt sống hơn một vạn cùng rất nhiều khí giới, đồ đạc. Trận Tuy Động đáng kể là một trận lớn nhất từ ngày có 

cuộc chiến tranh giải phóng. Trận này xảy ra hồi tháng 10 năm Bính Ngọ (1426). Xét về quân số của đôi bên trong trận 

Tuy Động, ta thấy có điều đáng hoài nghi. Nói rằng quân Vương Thông chết tới 5 vạn và bị bắt hơn 1 vạn mà quân 

của Đinh Lễ, Lý Triện chỉ mấy nghìn mà thắng được như thế có khác nào lấy tay xua đám ruồi nhặng. Quân Minh đâu 

lại hèn quá như vậy! Con sông Đáy về hạt Chương Mỹ là con sông nhỏ dẫu có ngập xác chết cũng chẳng chứa đựng 

tới 5 vạn người trên một khúc, vì chiến trường Tuy Động chỉ loanh quanh trong khu vực huyện Chương Mỹ. Cổ sử 

của ta (Việt sử) ắt có điều thiên vị mà nói ngoa như vậy. Đã đành rằng trong trận này có đại tướng xuất binh và là một 

trận mà địch quân muốn gây dựng lại uy thế. Sự thực, ta chỉ nên nghĩ rằng trận Tuy Động là một trận lớn, quân số của 

giặc nhiều hơn quân ta gấp năm, bảy mà thôi và giặc đã đại bại nên sau đó phải rút cả vào thành Đông Quan. 

5- Việt Quân Phong Tỏa Đông Đô 

 Bình Định Vương đang đóng ở Lội Giang (Thanh Hóa) thì được tin mặt trận miền Bắc của ta thắng thế. Xét cần giải 

quyết mặt trận này để kết liễu chiến tranh, vì lực lượng của địch mười phần đã suy nhược tới sáu bảy và ta đã thu phục 

được gần hết các đất đai trong nước, Vương liền tiến đại quân ra Bắc. Tới nơi, việc phân phối quân đội thủy bộ được 

dễ dàng vì địch đã rút hết binh đội vào thành Đông Quan. Bùi Bị đem một vạn bộ binh bí mật đóng ở Tây Dương Kiều 

(?). Quân của Vương hạ trại ngay ở gần thành Đông Quan. Thủy quân của giặc tan rã, các chiến thuyền từ Hát Giang 

thuận giòng sông Nhị tới đóng ở bến Đông Bộ Đầu. Từ khi Bình Định Vương có mặt tại trận tuyến Bắc Việt, nhân tài 

hào kiệt ra đón chào và nô nức theo đi đánh giặc, Vương tùy theo khả năng của mọi người mà giao phó trách nhiệm. 

Bấy giờ các tướng Minh ở nơi xa thấy Đông Đô lâm vào cảnh cơ nguy và nền đô hộ của họ không có tương lai nên 

nhiều kẻ chán nản mở cửa thành xin quy phục theo lời chiêu hàng của Nguyễn Trãi. Bình Định Vương xét có thể lập 

được guồng máy chính quyền để tăng cường tinh thần chiến đấu và lòng tin cậy của nhân dân trong giai đoạn chót, 

nên chia ngay Bắc Việt ra làm bốn đạo: 

1) Tây đạo gồm trấn Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng Hóa. 

2) Đông đạo gồm trấn Thượng Hồng, Hạ Hồng, Thượng Sách, Hạ Sách, và lộ An Bang. 

3) Bắc đạo gồm trấn Bắc Giang và Thái Nguyên. 

4) Nam đạo gồm Khoái Châu, Lý Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Trường.

 Đối với Vương Thông và các tướng lĩnh trong thành Đông Đô, Bình Định Vương cùng quan Hàn Lâm Thừa Chỉ 

Nguyễn Trãi xét họ đường đường là những quân nhân có tên tuổi của Bắc triều, không thể dùng từ lệnh chiêu hàng, 

mà cần bàn cuộc giảng hòa bằng lời thư khéo léo, mềm mỏng để giữ thể diện cho họ rút về nước là hơn, khỏi kéo dài 

chiến tranh và bớt sự hao tổn tài sản, tính mạng nhân dân. Nguyễn Trãi liền viết thư cho Vương Thông, cương nhu đủ 

giọng, cởi buộc đủ các lẽ. Có khi họ Nguyễn không từ miệng cọp vào thành Đông Quan và nhiều thành khác, lấy lẽ lợi 

hại chiêu dụ các tướng của địch. Thái độ của Vương Thông và đồng bọn thế nào? Bên trong, các tướng lĩnh Minh từ 

Vương Thông, Sơn Thọ trở xuống đều nhận thấy tình thế lúc này của họ là tuyệt vọng, cũng muốn có cuộc bãi binh 

nhưng lại thắc mắc về cái nhục chiến bại. Rồi sau họ cũng thuận việc giảng hòa và lục tờ chiếu của vua Minh niên 

hiệu Vĩnh Lạc (1407), nói về việc khôi phục họ Trần để cùng họ Vương lo liệu cuộc đình chiến. Bấy giờ, có người tên là 

Hồ Ông xưng là cháu ba đời của vua Nghệ Tông, trốn ở Ngọc Ma, Vương cho đón về đổi tên là Trần Cao, lập lên làm 

vua, Vương xưng là Vệ Quốc Công. Sau đó, Vương làm sớ lên Minh Đế xin tôn lập Trần Cao làm Quốc Vương nước 

Nam và đính ước với Vương Thông gọi quân các nơi về họp ở Đông Đô để sửa soạn việc hồi hương. Công chuyện 

nhường như ổn thỏa thì bọn Việt gian phản đối. Chúng khéo nhắc chuyện bãi chiến xưa kia giữa binh đội nhà Nguyên 

với các tướng nhà Trần đã xảy ra một việc thiếu thành thực khi Ô Mã Nhi về Tàu, Hưng Đạo Vương cho gia nhân 

ngầm đục thuyền khiến Ô Mã Nhi phải bỏ mạng trên Bạch Đằng Giang. Bọn Vương Thông bấy giờ đang bị khủng 

hoảng tinh thần liền nghe bọn họ (Trần Phong, Lương Nhữ Hốt...) Sở dĩ mấy kẻ Việt gian đó phá cuộc giảng hòa bởi 

chúng không những sợ mất địa vị lại còn lo nguy đến tính mạng của chúng cùng vợ con. Vương Thông vì thế sinh ra 

gian dối, bên ngoài mềm mỏng với Bình Định Vương, bên trong ngầm sai người về Tàu xin viện quân của Minh triều 

vừa cầu cứu cả Cố Hưng Tô, trấn thủ Quảng Tây. Hồi tháng 6 năm Đinh Tị (1427), đạo quân Quảng Tây tới cửa ải Pha 

Lũy (có lẽ thuộc Lạng Sơn) bị các tướng của ta là Lê Lưu, Lê Bôi đánh tan khiến họ Vương đành thúc thủ chờ viện 

binh chính thức. Trong giai đoạn này, Việt quân khắp mọi nơi đều giữ thế công và quân Minh giữ thế thủ vì không đủ 

tinh thần mở các trận đại quy mô nữa. Bình Định Vương vừa đánh vừa tung hịch đi khắp nơi để chiêu hàng những trấn 

thành còn đang nằm trong tình thế chờ đợi. Đầu năm Đinh Tị (1427), bọn Thái Phúc và Tiết Tụ giữ thành Nghệ An và 

Diễn Châu mở cửa xin hàng. 

Bình Định Vương tiến đóng đại bản doanh ở Bồ Đề, một căn cứ ở phía Bắc sông Nhị để chỉ huy việc công phá thành 

Đông Quan. Trịnh Khả đánh cửa Đông, Đinh Lễ đánh cửa Nam, Lê Cúc đánh cửa Tây, Lý Triện phá cửa Bắc. Trong lúc 

quân Minh suy nhược, ta mất hai đại tướng vì khinh địch. Lý Triện giữ Từ Liêm không đề phòng cẩn thận bị quân của 

Phương Chính đánh lén tử trận. Đinh Lễ, Nguyễn Xí đóng ở Tây Phù Liệt (Thanh Trì) mang 500 quân tiếp viện cho lực 

lượng Lê Nguyễn bị quân Vương Thông bao vây ở Mỹ Động, thuộc Hoàng Mai. Hai tướng bị bắt. Riêng Nguyễn Xí 

trốn thoát, còn Đinh Lễ bị giết. Một mặt vây đánh ráo riết thành Đông Quan, một mặt Vương thiết quân luật để giữ trật 

tự trong quân dân như sau: 

- Cấm tả đạo (chuyện ma quỷ để lừa dối dân chúng). 

- Những dân bị loạn ly phải siêu tán được trở về nguyên quán làm ăn như cũ. 

- Vợ con và thân nhân của những ai làm việc với giặc được phép lấy tiền để chuộc tội. 

- Tù binh được đưa về Thiên Trường, Lý Nhân, Kiến Xương, Tân Hưng, nuôi nấng tử tế.  Đối với dân thì như vậy, còn 

đối với các phần tử của chính quyền có ba điều răn này: 

- Cấm lừng khừng 

- Cấm khi mạn - Cấm gian dâm

 Các tướng sĩ phải theo 10 điều quân kỷ dưới đây: 

1) Trong quân không được làm điều huyên náo.

 2) Tránh những tin đồn nhảm làm hoang mang lòng người. 

3) Lâm trận thấy cờ phất, trống giục thì phải tiến. 

4) Thấy kéo cờ dừng quân thì ngừng bước. 

5) Nghe chiêng đánh hồi quân thì phải lui.

 6) Giữ nghiêm hàng ngũ. 

7) Phải lo việc quân trước việc gia đình. 

8) Cấm ăn cắp hối lộ của dân đinh phải đi lính và làm sổ sách mập mờ. 

9) Phải công bằng trong việc xét công trạng binh đội. 

10) Tránh việc gian dâm, trộm cắp.  

Tướng sĩ nào phạm vào một trong 10 điều răn này cũng đủ bị tội chém. 

Nhờ có quân lệnh nghiêm ngặt như vậy nên dân chúng rất có cảm tình với quân kháng chiến và nhiệt liệt tham gia 

cuộc tranh đấu. 

6- Trận Chi Lăng 

Tin Vương Thông thua trận Tuy Động, Trần Hạp bỏ mạng, đại quân hao tổn rất nhiều đã chấn động cả triều Minh. 

Vua Minh liền phái Chinh Lự phó tướng quân An Viễn Hầu Liễu Thăng, Tham Tướng Bảo Định Bá Lương Minh, Đô 

Đốc Thôi Tụ, Binh Bộ Thượng Thư Lý Khánh, Công Bộ Thượng Thư Hoàng Phúc, Thổ Quan Hữu Bố Chính sứ 

Quảng Tây tiến vào Việt Nam. Một đạo khác do Chinh Nam tướng quân kiêm Quốc Công Mộc Thạnh, Tham Tướng 

Hưng An Bá Từ Hạnh, Tân Ninh Bá Đàm Trung điều động gồm 5 vạn lính và 1 vạn con ngựa đồng thời sang tiếp viện 

cho lực lượng của Vương Thông đang bị vây hãm ở Đông Đô. Quân Liễu Thăng tràn vào cửa Pha Lũy (Nam Quan), 

quân Mộc Thạnh vượt qua cửa Lê Hoa, tương truyền thuộc Tuyên Quang. Tin viện binh đến đã được mang ra thảo 

luận rất sôi nổi. Trái với ý kiến của nhiều tướng lĩnh, Bình Định Vương cho rằng nhân dịp này đem hết sức mạnh để lấy 

Đông Đô là hạ sách mà đánh tan quân cứu viện được thì tất nhiên Đông Đô không đánh cũng phải hàng. Như vậy là 

bắn một mũi tên được hai con chim. Việc này được mọi người hoan nghênh, Vương liền hạ lệnh cho dân chúng các 

vùng Lạng Giang, Bắc Giang, Tam Đái, Tuyên Quang, Tuy Hóa tản cư, áp dụng kế thanh dã (vườn không nhà trống). 

Các cứ điểm được sắp đặt kỹ càng để đợi viện quân của đối phương, và quân giặc đến thì đánh ngay, bởi chúng vượt 

dặm trong ít ngày tới nơi phải mệt nhọc, quân ta được nhàn nhã sung sức tất có hy vọng chiến thắng dễ dàng. Lê Sát, 

Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Lê Thụ lĩnh 1 vạn tinh binh và 5 con voi phục ở ải Chi Lăng chờ quân Liễu Thăng, Phạm Văn 

Xảo, Lê Khả, Lê Trung, Lê Lý chia quân các nơi chặn giặc. Tướng giữ ải Nam Quan (Phá Lũy) là Lê Lựu (V.N. Sử Lược 

chép là Trần Lựu) thấy giặc vừa đông vừa mạnh tự lượng không chống nổi rút về Ai Lưu. Giặc tiến đánh Ai Lưu, Lê 

Lựu rút về Chi Lăng. Giặc tiến đánh Chi Lăng thì gặp phục binh của ta. Lê Lựu ra khiêu chiến nhử giặc đuổi theo. Nghe 

tiếng pháo hiệu nổ, biết Liễu Thăng và quân bản bộ đã vào đúng trận thế, các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú hô quân 

mai phục bổ vây chặt chẽ. Giặc hoảng hốt chen nhau, dầy xéo nhau mà chết, Liễu Thăng cùng 100 quân kỵ chạy đến 

chỗ bùn lầy thì không tiến được nữa, bị chém ở núi Mã Yên. Trận này khởi từ ngày 18 tháng 9 đến ngày 20 thì kết liễu, 

chủ tướng chết cùng hơn một vạn binh sĩ. Đạo quân tiếp ứng ba vạn người của Lê Lý vừa kịp đến, nhân cái đà thắng 

trận ùa vây đánh quân Minh chém được Lương Minh ngày 25. Lý Khánh lâm bước nguy kịch ba hôm sau cũng tự sát 

trong đám loạn quân. Còn lại Hoàng Phúc, Thôi Tụ, đem tàn quân chạy về thành Xương Giang (thành này xây ở xã 

Thọ Xương phủ Lạng Giang). Nửa đường họ bị quân Lê Sát đuổi kịp đánh cho tơi bời. Thôi Tụ liều chết chạy được tới 

thành Xương Giang thì thành này đã treo cờ Việt quân. Chiếm được thành này là tướng Trần Nguyên Hãn. Thôi Tụ 

đành phải rút lui ra ngoài đồng lập trại và đắp lũy để chống giữ. 

260 Việt Sử Toàn Thư 

Lúc này trời mưa bão, giặc không tiến được. Đêm tối Thôi Tụ cho bắn súng làm hiệu để quân trong hai thành Đông 

Quan và Chí Linh tới cứu, không biết hai nơi này cũng đang lâm nguy. Bình Định Vương chia quân chặn hết các địa 

điểm thủy bộ từ cửa ải Mã Yên, Chi Lăng và Pha Lũy. Trần Nguyên Hãn được đặc ủy chẹn đường vận lương của giặc. 

Thôi Tụ, Hoàng Thúc biết tiến thoái đều không có lối, xin hòa nhưng ngầm di binh đến thành Chí Linh. Vương biết 

mưu gian, cho Lê Văn, Lê Ý xông vào chém được hàng vạn thủ cấp, bắt sống được Thôi Tụ và Hoàng Phúc cùng rất 

nhiều tù binh. Thế là đạo quân Liễu Thăng chưa vào tới miền đồng bằng Bắc Việt đã bị cái cảnh trúc chẻ ngói tan vô 

cùng bi đát. Mộc Thạnh đem quân đến cửa Lê Hoa gặp các tướng Phạm Văn Xảo, Lê Khả. Theo mật lệnh của Vương, 

các tướng bố trí quân mai phục nhưng không được vội giao chiến vì Mộc Thạnh là một lão tướng có kinh nghiệm 

chiến trường, không hành quân một cách xốc nổi hẳn còn chờ xem sự thành bại của Liễu Thăng rồi mới hành động. 

Khi diệt được đạo quân của Liễu Thăng, vương cho dẫn một viên chỉ huy, ba viên Thiên Hộ trong số tù binh cùng sắc 

thư ấn tín của Liễu Thăng đưa đến hành doanh của Mộc Thạnh. Được rõ sự thật, Mộc Thạnh hết sức kinh hoàng bỏ 

chạy, bị các tướng Xảo, Khả đuổi đánh và cũng phá tan nốt đạo quân này ở ngòi Lĩnh Thủy. Hơn một vạn quân Minh 

bị giết ngoài những kẻ bị ngã xuống khe ngòi bỏ mạng không sao kể xiết. Mộc Thạnh một người một ngựa trốn thoát. 

7- Quân Minh Xin Hòa Giải  

Tới giai đoạn này viện quân của Minh triều bị đại bại, tinh thần của đối phương ở nhiều trấn thành xa xuống rất mạnh. 

Nhiều tướng lĩnh Minh xin quy phục, chỉ còn 5 thành: Tây Đô, Cổ Lộng (nền cũ của thành này còn ở làng Bình Cách, 

huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định), Đông Quan và Chí Linh vẫn chưa xao xuyến lắm. Đáng lẽ quân ta tổng tấn công các 

thành đó trong lúc quân dân của chúng ta đang thừa hăng hái, Bình Định Vương sai viên Thông Sự Đặng Hiếu Lộc 

dẫn Thôi Tụ, Hoàng Phúc và một số tù binh cùng quả ấn song hổ và cờ kiếm, sổ sách đưa vào thành Đông Quan. 

Trước đây bọn Vương Thông thấy quân ta phô những khí giới bắt được trong lúc hạ thành Xương Giang và tuy nghe 

thấy viện quân thua to nhưng vẫn còn phân vân, nay được thấy hiển nhiên tình trạng của Hoàng Phúc, Thôi Tụ thì 

tuyệt vọng và hoảng sợ hết sức. Bên ngoài chúng thấy Việt quân dựng đồn thắp lũy dự định công phá, lại càng mất 

mật. Mưu thuật này đạt được đúng kết quả mong muốn là đánh một đòn nặng vào tâm lý địch giữa lúc họ đang khủng 

hoảng tinh thần. Biết tình thế hoàn toàn đổ vỡ, Vương Thông, Sơn Thọ cử phái viên là Thiên Hộ họ Hạ đến đại bản 

doanh của Bình Định Vương đề nghị thành thực cầu hòa và xin mở đường cho chúng lui binh về nước. Tướng sĩ và 

nhân dân không tán thành cuộc hòa giải vì lòng người còn căm giận sự tàn bạo trước đây của giặc Minh. Dư luận còn 

đang phân vân, Nguyễn Trãi bàn: 

- Giặc Minh tàn bạo nhân dịp này giết hết chúng đi là phải, nhưng phải nghĩ nước mình là nước nhỏ, nước chúng lớn 

gấp mấy chục lần thì xung đột với chúng chỉ là sự bất đắc dĩ. Nếu mối thù ngày một thêm sâu, giặc mất thể diện lại kéo 

binh sang nữa thì cuộc chiến tranh biết bao giờ mới dứt được. Sao bằng chấp thuận cuộc hòa hiếu để tạo phúc cho 

sinh linh hai nước. Thả Vương Thông và đồng bọn về, hẳn chúng không còn lòng nào trở sang nữa. Xem như bài biểu 

dấu trong thỏi sáp của y gửi về Minh triều có câu: "Xin thôi đừng vì miếng đất hẻo lánh một phương mà làm nhọc 

nhằn quân lính đi xa muôn dặm. Bây giờ muốn đánh lại phải huy động đại quân như buổi ra đi, đại tướng phải sáu bảy 

người vào hạng Trương Phụ. Nhưng dù lấy lại được thì sự giữ sau này cũng vẫn khó lòng..." Vương gật đầu khen 

phải, nói: "Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng bản tâm người nhân không muốn có việc giết 

người bao giờ, huống hồ người ta đã hàng mà giết thì không hay. Thỏa cái giận một lúc mà đeo cái tiếng muôn đời giết 

kẻ đầu hàng, sao bằng cho muôn vạn người cùng sống để tránh cuộc chiến tranh cho đời sau, lại còn được tiếng thơm 

lưu truyền sử xanh mãi mãi..." Qua câu nói trên đây của Bình Định Vương Lê Lợi, ta thấy rằng người xưa cũng quan 

niệm giết kẻ đã hạ khí giới là nhỏ mọn, tầm thường, đối với đạo đức còn là điều bất nhân nữa. Ngoài ra, các nhà chính 

trị thuở đó cũng đã rõ sức mình sức người, nên trước đời bấy giờ cho tới sau này, tiền nhân ta luôn luôn có thái độ dè 

dặt, khiêm nhượng mỗi khi đuổi xong kẻ thù. Thái độ này quả là khôn ngoan lắm vậy. Sau việc bàn luận này, Vương 

cho lập đàn thề ở phía Nam thành Đông Quan hẹn đến tháng chạp thì quân Minh phải về nước. Còn với dân chúng, 

Vương tuyên lời cáo dụ cho biết chiến tranh đã kết liễu và nền độc lập của nước ta đã khôi phục xong. Các tướng lĩnh 

Minh còn lại ở các thành khi ấy là: Tại Đông Quan có Vương Thông, Mã Anh, Lý An, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ, 

Phương Chính. Tại Tây Đô có Hà Trung. Tại Chí Linh có Cao Tường. Họ phải nộp lại cho quân ta bọn người Nam lĩnh 

quan chức của nhà Minh cùng những binh dân bắt hiếp phải theo. Chúng ta sửa đường xá, cấp phát thuyền bè cho 

bọn họ tùy tiện hai đường thủy bộ để hồi hương. Số tù binh cùng hàng binh và vợ con của chúng có tới 10 vạn người 

cũng được trao trả cho họ. Xem con số này, ta phải rùng mình về cái nạn ăn bám, cái nạn đục khoét của bọn giặc Minh 

và thê tử, thân nhân của chúng trong mười năm cắm sào trên đất nước ta. Theo Trúc Khê trong cuốn "Nguyễn Trãi", 

số người Tàu vừa quân vừa dân được hồi hương là 30 vạn. Theo Trần Trọng Kim, Bình Định Vương giao cho Mã Anh 

2 vạn tù binh và cho Phương Chính, Hoàng Phúc, Sơn Thọ 500 chiếc thuyền cùng lương thảo đầy đủ để trở về bằng 

thủy đạo, Vương Thông lĩnh bộ binh đi sau và được tiễn biệt rất hậu. 

Theo sự suy cứu của chúng tôi, con số của hai ông đưa ra có lẽ không sát sự thực. Số tù binh và hàng binh có thể tới 

hai ba vạn, tàn quân trong tay Vương Thông ít nhất cũng còn một hai vạn, quân của bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ mang 

sang nước ta chuyến cuối cùng dầu bị chết nhiều cũng còn vài vạn, cộng với các viên chức hành chính và vợ con của 

họ ở ngót 500 nha môn và nhân dân theo chúng sang bên này làm ăn hoặc báo hại phải trên 10 vạn. Vậy theo con số 

của Trúc Khê e quá sự thật, của Trần Trọng Kim thì ít quá. Cứ xem trong thời Tây thuộc, kiều dân Pháp kể cả binh đội 

thường trú thời bình còn tới 50 ngàn. Với bọn người Minh trong thời chiến tranh và do sự gần gũi hai nước Việt Hoa, 

con số có thể lên tới gấp đôi, gấp ba.  

8- Việc Cầu Phong 

Về việc cầu phong, các nhà lãnh đạo thuở đó, như trên đã nói, đã cố tránh sự thất thể diện cho Minh triều nên đã đưa 

Trần Cao ra làm bung xung cho hợp với tinh thần tờ chiếu của vua Minh niên hiệu Vĩnh Lạc (1407). Minh Tuyên Tông, 

do lời báo cáo của bọn quan lại và tướng tá ở An Nam về, cũng hiểu rõ địa vị của Trần Cao chỉ là một bù nhìn, nhưng 

vì thất trận và cũng thiệt hại quá nhiều binh mã nên đành chấp thuận việc cầu phong cho êm chuyện, nhất là quần 

thần đều tán thành cuộc bãi chiến với phương Nam. Lễ Bộ Thị Lang là Lý Kỳ sang tuyên chiếu phong Trần Cao làm 

An Nam Quốc Vương và bãi tòa Bố Chính. Tháng chạp năm Đinh Tị, bọn Vương Thông thất thểu về đến Long Châu. 

Thấy tình trạng của binh tướng không sao gắng gượng được nữa, Minh Đế đành ban sắc dụ trả nước An Nam và 

khuyên giữ theo lệ triều cống khoảng năm Hồng Vũ47 xưa. 

[ 47 Niên hiệu của Minh Thái Tổ (1368 - 1398) ]

Về phương diện tài liệu, chúng tôi thấy cần chép bài chiếu xin cầu phong, đại lược như sau: "Khi vua Thái Tổ Cao 

Hoàng Đế mới lên ngôi, tổ tiên tôi là Nhật Khuê vào triều cống trước hết, bấy giờ Ngài có ban thưởng và phong tước 

vương. Từ đó nhà tôi vẫn nối đời giữ bờ cõi, không bỏ thiếu lễ triều cống bao giờ. Mới rồi, nhân họ Hồ thoán nghịch, 

vua Thái Tông Văn Hoàng Đế đem quân sang hỏi tội. Sau khi đã dẹp yên rồi, ngài có hạ chiếu tìm con cháu họ Trần để 

giữ lấy dòng dõi cúng tế. Bấy giờ quan Tổng Binh Trương Phụ tìm chưa được khắp, đã xin đặt làm quận huyện. 

Nguyên tôi lúc trước vì trong nước có loạn, chạy trốn qua xứ Lão Qua, cũng là tìm chốn yên thân mà thôi, không ngờ 

người trong nước vẫn quen thói mọi, nhớ đến ân trạch nhà tôi thuở trước lại cố ý ép tôi phải về, bất đắc dĩ tôi cũng 

phải theo. Dẫu rằng trong khi vội vàng, bị người trong nước cố ép, nhưng cũng là cái tội tôi không biết liệu xử. Mới 

đây tôi đã có xin lỗi trước hàng quân, nhưng không ai chịu               

nghe, bấy giờ người nước tôi sợ phải tai vạ, liền đem nhau ra phòng bị các cửa ải, cũng là một kế giữ mình. Ngờ đâu 

quan quân xa xôi mới đến thấy voi sợ hãi, tức khắc vỡ tan. Việc đã như vậy, dầu bởi sự bất đắc dĩ của người trong 

nước cũng là lỗi của tôi. Nhưng bao nhiêu binh mã bắt được đều được thu dưỡng tử tế, không dám xâm phạm một chút 

nào. Dám xin Hoàng Thượng ngày nay lại theo như lời chiếu của vua Thái Tông Văn Hoàng Đế tìm lấy con cháu họ 

Trần, nghĩ đến cái lòng thành triều cống trước nhất của tổ tiên tôi ngày xưa mà xá cái tội to như gò núi ấy không bắt 

phải phạt nặng bằng búa rìu, khiến cho tôi được nối nghiệp ở xứ Nam, để giữ chức triều cống. Tôi đã sai người thân tín 

mang tờ biểu tạ và đưa trả ấn tín, nhân mã tới chốn kinh sư, nay lại xin đệ tâu những danh số ấy." Ngoài tờ biểu này, 

sứ bộ là các ông Lê Thiếu Đĩnh, Lê Quang Cảnh, Lê Đức Huy, còn dâng các phương vật sau đây:

1) Hai người vàng để thay mình;  

2) Một lư hương bằng bạc;  

3) Một đôi bình hoa bằng bạc;  

4) Ba chục tấm lượt;  

5) Mười bốn đôi ngà voi; 

 6) Mười hai bình hương trầm;  

7) Hai vạn nén hương duyến; 

 8) Hai mươi bốn cây hương trầm;  

(ngoài ra còn nộp hai cái dấu đài ngân, đôi hổ phù của Chinh Lự phó tướng quân, cùng sổ quân đã bị bắt). Giặc đã ra 

khỏi bờ cõi, công cuộc giải phóng dân tộc đến đây là thành công trọn vẹn. Bình Định Vương cử ông Nguyễn Trãi làm 

bài tuyên cáo quốc dân tức là bài Bình Ngô Đại Cáo. Bài Bình Ngô Đại Cáo là một áng danh văn chính trị được ghi vào 

văn học sử nước nhà, chẳng những người đồng thời của Ức Trai tiên sinh phải khâm phục mà đến ngày nay cũng 

được coi là một tác phẩm bất hủ. Trúc Khê dịch ra văn quốc âm như sau: 

Thay trời làm việc, Hoàng Thượng dạy rằng: 

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,  

Quân điếu phạt trước vì khử bạo 

 Nước Đại Việt ta 

 Nền văn hiến cũ 

Non nước bờ cõi đã khác, 

 Bắc Nam phong tục vẫn riêng. 

Cơ đồ gây dựng trải Triệu, Đinh, Lý, Trần,  

Đế bá tranh hùng cùng Hán, Đường, Nguyên, Tống Tuy mạnh yếu từng khi có khác,  Nhưng hào kiệt chẳng thuở nào 

không. Cho nên: Lưu Cung tham công mà phải thua,  Triệu Tiết muốn lớn càng mau mất. Toa Đô đã bị bắt ở cửa Hàm 

Tử,  Ô Mã phải chết ở sông Bạch Đằng.  Xét lại việc xưa,   Hãy còn chứng rõ Gần đây, nhân:  Họ Hồ ngang ngược,   

Lòng người căm hờn,  Quân Minh thừa dịp hại dân,  Đảng ngụy manh lòng đem bán nước. Hơ lũ đầu đen trên lửa bỏng 

Đẩy phường con đỏ xuống hang sâu. Dối trời hại dân, gian xảo đủ muôn nghìn lối;  Gây binh nhóm loạn, tàn hại trải 

hai mươi năm,  Nhân nghĩa vứt đi hoài, vũ trụ tưởng chừng muốn sập; Thuế má vét cho đẫy, núi khe sạch nhẵn như 

chùi. Kẻ bị ép xuống khơi mò ngọc, cá nuốt sóng vùi. Bẫy dân cạm đặt khắp nơi nơi, Vét vật lưới chăng từng chốn 

chốn. Dẫu loài sâu bọ cỏ cây, khôn bề rảnh sống; Đến kẻ góa bụa, cùng khổ khó nỗi an thân Máu mỡ dân chúng, nay 

xây mai dựng. Chốn châu Lý nặng nề sưu dịch; Trong xóm làng quạnh vắng cửi canh. Múc cạn nước Đông Hải dễ mà 

rửa sạch thanh nhơ; Đẵn hết trúc Nam Sơn, chẳng đủ biên ghi tội ác. Thần, người đều căm giận; Trời đất chẳng dong 

tha. Ta, phát tích tự núi Lam Sơn,  Náu hình trong nơi hoang dã. Trước thù lớn làm ngơ không thể,  Cùng giặc già 

chung sống được sao! Đau lòng não ruột đã ngoài mười niên, Nếm mật nằm gai, phải đâu một buổi! Quên ăn, bỏ ngủ, 

dùi mài các sách lược thao;  Xét xưa nghiệm nay, suy cứu mọi lẽ hưng phế! 

265 Việt Sử Toàn Thư 

 Đồ hồi chính định,   Thức ngủ không quên . Giữa khi quân nghĩa nổi lên,  Chính lúc thế giặc đang mạnh Buồn nỗi 

nhân tài còn ít ỏi,  Tuấn kiệt còn vắng thưa. Chạy chọt sau trước không đủ người,  Trù hoạch mưu mô còn thiếu kẻ. 

Chỉ vì lòng cứu dân không nguôi nửa khắc; Cho nên xe đãi hiền dành sẵn một bên. Nhưng đợi người, người vẫn xa xăm 

Mà việc mình mình càng nóng sốt. Giận tặc đồ chưa trừ khử được, Buồn quốc bộ vẫn truân khiển hoài,  Linh son 

hương cạn đến hàng tuần;  Khôi huyện quân không còn một toán. Bởi trời muốn thử ta để trao nhiệm vụ,  Nên ta càng 

gắng chí để chống gian nan Tụ tập các đám lưu dân, tay vác cần câu ra đánh giặc;  Gắn bó một lòng phụ tử, rượu hòa 

nước lã để khao quân. Lấy yếu chống mạnh hoặc đánh lúc bất ngờ,  Lấy ít địch nhiều, hoặc dùng quân mai phục Rút 

lại thì lấy đại nghĩa mà thắng được hung tàn;  Lấy chí nhân mà đè được cường bạo. Dải bồ tát sấm ran chớp giật,  Miền 

Trà Lân trúc chẻ, ngói bay. Sĩ khí nhân thế càng tăng thêm,  Quân thanh nhân thế càng lừng lẫy. Một bọn Trần Trí, 

Sơn Thọ, nghe hơi mà bở vía: Mấy gã Lý An, Phương Chính nhịn thở cầu thoát thân; Thừa thắng ruổi dài, Tây kinh đã 

thu phục. Thuận đường thẳng tiến Đông Đô lại lấy về. Máu Ninh Kiều lênh láng thành sông, tanh trôi muôn dặm. Tây 

Tốt Động (Chúc Động) ngổn ngang đầy nội, như để nghìn năm. Trần Hiệp (Hạp) là tâm phúc của giặc đã phải bêu 

đầu;  Lý Lương là sâu mọt dân ta lại liền bỏ mạng. Vương Thông nhảy vào chữa cháy mà càng cháy,  Mã Anh xông 

đến gỡ nguy mà càng nguy. Bó tay đợi chết họ đã quẫn cùng; Không đánh tự tan, ta dùng mưu thuật. Vẫn tưởng 

chúng phải thay lòng đổi ý; Không ngờ họ còn giở chuyện bày trò. Vì ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ 

khác; Tham công danh một buổi, để cười cho tất cả nhân gian. 

Do đó thằng nhãi Tuyên Đức (vua Minh) nối giáo không ngừng Khéo sai thằng Liễu Thăng đem dầu chữa cháy,  Đinh 

Mùi tháng chín, Liễu Thăng dẫn binh từ Khâu Ôn tiến đến; Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam 

kéo sang, Ta đã đặt phục binh đánh cho giập đầu; Sau lại đặt kỵ binh, chẹn cho đứt cuối. Ngày mười tám, Liễu Thăng 

bị đánh, sa cơ ở Chi Lăng; Ngày hai mươi, Liễu Thăng bị thua bỏ mạng ở gò Yên Ngựa (Mã Yên) Ngày hai mươi lăm, 

Bá Tước Lương Minh lâm nguy phải tử trận; Ngày hai mươi tám, Thượng Thư Lý Khánh cùng kế phải quyên sinh. Ta 

đưa mũi nhọn rạch phăng, Họ quay đầu giáo đánh lộn;  Kế đó bốn mặt thêm quân để vây bọc; Định đến trung tuần 

tháng mười sẽ diệt trừ. Bèn tuyển những đội quân gấu hùm,  Và sai những bầy tôi nanh vuốt. Voi uống khiến nước 

sông vơi cạn,  Gươm mài nên đá núi thủng mòn. Một trận mà ngạc mổ kình phanh,  Hai trận mà chim tan, thú giãn. Tổ 

kiến lớn phá toang đê núng,  Trận gió to rung trút lá khô. Đô Đốc Thôi Tụ quỳ gối xin thương. Thượng Thư Hoàng 

Phúc cúi đầu chịu trói. Lương Sơn, Lạng Giang, thây chết nằm bề bộn;  Xương Giang, Bình Than, máu đỏ nhuộm lênh 

lang. Gió mây đến nỗi bàng hoàng,  Nhật nguyệt ra chiều ảm đạm,  Quân Vân Nam bị ta chẹn ở Lê Hoa, hồ đồ sợ bón 

mà trước tự vỡ mật; Quân Mộc Thạnh bị ta phá ở Cần Trạm, dầy đạp lẫn nhau mà chạy lấy thoát thân Lãnh câu máu 

chảy đầy sông, nước vang tiếng rú; Đan xá thây trồng khắp nội, cỏ đẫm màu hoen. Cứu binh hai đạo đã vỡ tan tành; 

Cùng khấu các thành đều cởi giáp hàng phục. Tướng giặc bị cùm, van vi họ đã xin cho toàn mạng;  Thần võ chẳng 

giết, khoan hồng ta cũng mở lượng hiếu sinh. Bọn Tham Chính Phương Chính, Nội Quan Mã Kỳ,  Trước được cấp năm 

trăm chiếc thuyền, đã vượt bể mà vẫn hồn kinh phách tán;  Lũ Tổng Binh Vương Thông, Tham Chính Mã Anh,  Lại 

được cấp mấy nghìn cỗ ngựa, đã về nước mà còn mặt xám mày xanh. Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng,  

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế đã xâu xa nhiều lắm,  Cũng là xưa nay chưa nghe 

thấy bao giờ. 

Xã tắc từ đây sẽ vững yên,  Non sông từ đây sẽ đổi mới. Càn khôn đã bỉ mà lại thái,  Nhật nguyệt đã mờ mà lại trong. 

Đặng mở nền bình trị muôn năm,  Đặng rửa vết thẹn thùng nghìn thuở? Âu cũng do trời đất tổ tông linh thiêng,  Đã 

lặng thầm giúp vì mới được thế Ôi! Ba quân rong ruổi, hoàn thành công đại định.  Mừng nay bốn bể thăng bình, bá 

cáo lời duy tân từ đó,  Bảo khắp thiên hạ, ai nấy đều hay.   

Nhà Hậu Lê  

1) Lê Thái Tổ      

2) Lê Thái Tông 

3) Lê Nhân Tông 

4) Lê Thánh Tông

 5) Lê Hiến Tông

 6) Lê Túc Tông

 7) Lê Uy Mục

 8) Lê Tương Dực 

9) Lê Chiêu Tông 

10) Lê Cung Hoàng  

I.  Lê Thái Tổ  (1428 - 1433) 

Trước đây, vì vấn đề thể diện của nhà Minh, Bình Định Vương phải đưa Trần Cao ra cho hợp lý "phù Trần diệt Hồ" mà 

bọn Trương Phụ đã tung ra trong lời hịch. Nay việc chiến tranh đã yên, nếu Trần Cao đóng vai nguyên thủ, tình thế sẽ 

ngang trái bởi quốc dân quan niệm vị cộng chủ của quốc gia phải là người có công ơn với đất nước và có tài đức khả 

dĩ để chế phục nhân tâm. Trần Cao biết địa vị mình sẽ là điều khó xử cho quốc dân nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma 

(phủ Trấn Ninh), sau bị bắt và phải uống thuốc độc mà chết. Bình Định Vương lên ngôi năm Mậu Thân (1428), đặt 

quốc hiệu là Đại Việt. Ngài cho sứ sang Tàu cầu phong nhưng nhà Minh không nghe đòi phải kiếm người khác thuộc 

dòng nhà Trần để lập làm vua. Hai ba lần biểu qua sứ lại, các phụ lão nước Nam vẫn khai họ Trần không còn ai nữa, 

sau vua Minh phải thuận. Nước ta cứ ba năm phải cống nhà Minh một lần và lần nào cũng phải đúc hai người bằng 

vàng gọi là "Đại thân kim nhân" để thế mạng cho Liễu Thăng và Lương Minh là 2 viên đại tướng đem viện quân sang 

bị ta đánh bại và tử trận. Âu cũng là một cách bòn rút của triều Minh khi họ phải gạt nước mắt rời bỏ mảnh đất phương 

Nam béo bở này. Nước ta nhỏ mà các lân quốc Đông Nam Á cũng chỉ là những tiểu dân tộc không thể hợp thành được 

một sức mạnh để chống lại Trung Quốc, đành thi hành câu "tránh voi chẳng hổ mặt" miễn là họ đừng phạm vào chủ 

quyền của chúng ta. Việc thần phục chỉ là một chuyện hình thức mà thôi. Các triều đại trước đã áp dụng mánh lới 

ngoại giao này, các triều đại sau cũng không thể làm khác được. Vua Thái Tổ phong thưởng cho các công thân, đó là 

việc tất nhiên phải làm trước. Đứng đầu quan văn là Nguyễn Trãi, đứng đầu võ quan là Lê Văn. Các đại thần có Trần 

Nguyên Hãn làm Tả Tướng Quốc, Phạm Văn Xảo giữ chức Thái Úy. Công thần chia ra làm ba bậc để hưởng tước. Bậc 

nhất được hưởng tước Thượng Trí Tự. Bậc nhì được tước Đại Trí Tự. Bậc ba được Trí Tự. 

1- Học Chính 

Vua Thái Tổ cho đặt trường Quốc Tử Giám ở kinh đô, lấy các thanh niên con các quan và con thường dân tuấn tú vào 

học tập (theo Trung Quốc thời cổ). Ở các phủ, các lộ cũng mở các trường để thông việc học khắp dân gian. Ngài cho 

lập Minh Kinh khoa buộc các quan văn võ tứ phẩm trở xuống phải thi về kinh sử và các môn võ. Có lẽ đây là một khoa 

thi có tính cách bổ túc, bởi trong thời kháng chiến chưa có sự đào luyện nhân tài. Ở các lộ cũng mở khoa Minh Kinh 

để các người ẩn dật ứng thí và xuất đầu lộ diện. Những tăng nhân (Phật Lão) cũng phải khảo hạch. Ai hỏng thì phải 

hoàn tục. Năm Thuận Thiên thứ hai (1429), triều đình mở khoa thi Hoành Từ ở nơi dinh cũ Bồ Đề. Thượng Thư Lê Văn 

Linh làm Đề Điệu, quan Thừa Chỉ Nguyễn Trãi làm Giám Thị. Trong những đầu bài ra cho sĩ tử khoa này, có bài thơ 

"Chân cho chính trực" và bài hịch Thiên hạ cần vương, lấy đỗ 6 người là Mạc Thiên Tích, Đào Công Soạn, Trịnh 

Thuấn Du, Phan Phù Tiên v.v... 

2- Luật Pháp 

Vua Thái Tổ cho thi hành hình luật nhà Đường. Có 5 thứ hình phạt: tội xuy, tội trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử. 

1) Tội xuy, chia ra 5 hạng từ 10 roi đến 50 roi. 

2) Tội trượng cũng vậy, từ 60 đến 100 trượng. 

3) Tội đồ có ba hạng: đồ làm dịch đinh, làm lính chuồng voi, làm lính đồn điền. 

4) Tội lưu có ba hạng: lưu đi châu gần là vào Nghệ An, đi xa là vào tới châu Bố Chính - đi ngoại châu là tới Tân Bình. 

5) Tội tử có ba bậc: tội thắt cổ và chém, tội chém bêu đầu, tội lăng trì. Trong hình luật còn có việc Bát Nghị, tức là tám 

trường hợp giảm khinh cho các công thần và quốc thích. Ai được vào hạng bát nghị thì Hình Quan phải tâu lên để vua 

xét lại. Những cựu thần hay công thần từ ngũ phẩm trở lên nếu phạm tội đồ hay tội lưu thì được tha. Con cháu của các 

người ấy phạm tội thì được giảm. Quan viên và quân dân lỡ phạm tội lưu thì được chuộc. Những người già 80 tuổi trở 

lên, những con trẻ từ 10 tuổi trở xuống hay có tật nguyền cứ theo thứ tự được khoan giảm, kẻ phạm tội mà ra tự thú 

cũng được ân giảm. Trong nước bấy giờ có nhiều kẻ du đãng, ham cờ bạc rượu chè, bỏ việc làm ăn, để sửa đổi phong 

hóa các nhà đương đạo tỏ ra rất nghiêm khắc. Kẻ đánh bạc phải chặt ngón tay tới ba phân. Kẻ đánh cờ phải chặt ngón 

tay một phân. Không có lý do xác đáng họp nhau rượu chè phải đánh 100 trượng. Người chứa kẻ ăn uống cũng phải 

chịu trách nhiệm và chịu hình phạt nhẹ hơn.  Luật pháp của đời Hậu Lê kể ra có phần quá khắt khe nhưng có lẽ các 

nhà cầm quyền thấy nước nhà bị bại hoại lâu năm cần phục hưng nhanh chóng nên phải khắc nghiệt với những kẻ lười 

biếng hoặc ham những việc đàng điếm, xa xí. Sử chép sự nghiêm khắc này có đem lại nhiều kết quả về thực hành. Để 

hiểu thêm chính sách kiệm cần của vua Lê Thái Tổ, xin nhắc rằng thấy dân nước nghèo nàn, công quỹ không dồi dào, 

nhà vua hạ chiếu cấm các quan không được bày các lễ nghi khánh hạ tưng bừng ở điện đình, không được tham nhũng 

và trễ biếng. Vua quan còn tự hạn chế những điều xa xỉ, tất nhiên luật pháp không dung sự đàng điếm phóng túng ở 

nơi dân dã.

 3- Hành Chính 

Nước ta chia làm bốn đạo (Đông - Tây - Nam - Bắc, gồm toàn thể các tỉnh từ trung châu lên đến các vùng thượng du 

Bắc Việt), ngay khi vua Thái Tổ ra bình định Đông Đô. Nay toàn cõi Việt Nam gió yên sóng lặng, triều đình lập thêm 

một đạo nữa gọi là Hải Tây đạo. Hải Tây đạo có các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa tức Cửu Chân 

và Nhật Nam xưa kia. Đứng đầu mỗi đạo có một quan Hành Khiển (cũng như chức Tổng Đốc) trông nom kiểm soát mọi 

việc quân sự chính trị. Các cơ cấu hành chính hương thôn chia ra ba bậc: đại tư xã có trên một trăm người, đặt ba xã 

quan cai trị; trung xã có trên 50 người đặt hai xã quan; tiểu xã có trên 10 người trở lên đặt một xã quan. 

4- Cải Cách Điền Địa 

Dân ta là một dân chuyên sống về nông nghiệp, có rất ít công nghệ và thương mại. Ai không có đất cày thì rất khó 

khăn về cách sống. Trong thời kháng chiến nhiều người lẩn tránh việc quân nên mua bán được nhiều ruộng nương, 

trái lại những người phải tòng quân khi mãn chiến trở về thường tấc đất cắm dùi không có. Muốn lập lại thế quân bình 

trong dân chúng về phương diện kinh tế và xã hôi, Thái Tổ định ra phép quân điền. Nhờ  sáng kiến này, nhà nước có 

một số ruộng và đất công (công điền, công thổ), chia cho mọi người từ quan đại thần (để thưởng công lao giúp nước 

lúc nguy vong) đến các người già yếu, cô quả (để nâng đỡ những người cùng quẫn). Phép quân điền nay đã đưa lại 

cho nước ta một chế độ tư hữu tài sản và được duy trì cho đến ngày nay.  

5- Binh Chế

 Khi còn cần dùng binh đội để đánh giặc Minh quân số của vua Thái Tổ từ cuộc tổng phản công ở Đông Đô là 25 vạn 

người. Quân Minh rút lui, triều đình cho giải ngũ 15 vạn về quê làm ăn, còn giữ lại 10 vạn đóng giữ các nơi. Số lính này 

lại chia ra làm 5 phiên, một phiên ở lại lưu dịch, bốn phiên kia cho về làm ruộng rồi cứ luân chuyển để thay đổi nhau. 

6- Việc Giết Công Thần 

Vua Lê Thái Tổ làm vua được 6 năm thì mất, thọ 49 tuổi, đã để lại nhiều công ơn cho đất nước, do dự nghiệp giải 

phóng dân tộc, phá tan ách xâm lăng. Mưu trí tài ba của Ngài thật không có chỗ nào đáng chê trách, duy trong thời 

Ngài trị vì, Ngài đã nghe lời dèm pha mà giết oan hai ông Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hãn là hai người đã lập được 

nhiều công lớn (Ông Nguyễn Trãi cũng đã có phen bị hạ ngục); thật là đáng tiếc! Sử gia cận đại Trần Trọng Kim viết 

đến đây đã than cho những người xấu số ấy như sau: "Nghĩ mà buồn thay cho mấy người công thần đời xưa chỉ lầm vì 

hai chữ công danh (!) mà đem tấm lòng son sắt đi phù tá quân vương trong lúc nguy nan, mong được chút hiển vinh 

để cho thỏa cái chí trượng phu ở đời (!), ngờ đâu chim bay đã hết, cung tốt cất đi, thỏ lanh chết rồi, chó săn phải giết; 

đến khi công việc xong rồi thì không những là một thân mình cũng không được trọn vẹn mà cả họ hàng thường cũng 

vạ lây. Thế mới biết chỉ có Trương Tử Phòng nhà Hán là người kiến cơ hơn cả!" Đây là một ý kiến có phần xác đáng 

nhưng không khỏi là một tư tưởng tiêu cực. Theo thiển ý của chúng tôi, việc giết hại công thần là điều đáng trách và 

cũng đáng buồn cho chuyện đời, khi gian lao nguy hiểm thì có nhau mà lúc vinh hoa phú quý lại là lúc xa nhau, ngờ 

nhau để một ngày kia sát phạt lẫn nhau. Từ vạn cổ, nhân sự thường như vậy và cũng khó bề nói lẽ dại khôn. Người 

trượng phu xuất thế, há chỉ vì hai chữ công danh, nước loạn dân tàn há có thể điềm nhiên tọa thị? Rồi sự nghiệp có hai 

phần: phần tranh đấu cho nước non buổi loạn ly và phần trị bình lúc sóng yên bể lặng. Nhân tài một quốc gia không 

thể đầu hôm, sớm mai mà nẩy nở được, nếu ai cũng theo Trương Tử Phòng sau khi trị loạn rồi thì tịch cốc tòng tiên, 

vậy sứ mệnh trị bình để ai gánh vác? Ngoài ra, các danh thần lương tướng sau việc dẹp loạn, yên dân cũng còn nhiều 

hoài bão giúp nhà giúp nước thêm nữa, đâu có thể nửa đường dứt gánh cho đành. Vậy thì nhiệm vụ con người ta đến 

đâu phải làm tới đó, kể chi đến điều hay dở rủi may, sẽ xảy đến cho mình sau này. Đã tự nhận là đấng trượng phu thì 

phải quan niệm sự đời khác người một chút. Nhà văn hào Alfred de Vigny, trong bài "La mort du loup", đã viết mấy 

câu thơ này đáng kể về tư tưởng hy sinh, khắc kỷ, như luận ý trên đây: "Gémir, pleurer, prier est également lâche! Fais 

énergiquement ta longue et lourde tâche,  Dans la voie où le sort a voulu t'appeler,  Puis après, comme moi, souffre et 

meurs sans parler" (Kêu cầu, than, khóc đều là hèn nhát; hãy cương quyết làm nhiệm vụ dài lâu và nặng nề của mình 

trên con đường mà số mệnh đã gọi. Rồi sau, như ta, hãy chịu đau khổ và chết đi không thèm hé miệng.) 

II.   Lê Thái Tông  (1434 - 1442) 

 Vua Thái Tông lên ngôi mới mười một tuổi. Lê Sát được cử làm quan Phụ Chính, mọi việc triều chính đều do ông quyết 

định. Ông xuất thân là một võ tướng, vì có công trong thời đánh đuổi giặc Minh nên được phong đến Đại Tư Đồ. Vì ít 

học nên khi giữ địa vị lớn ông hay lạm quyền và có tính kiêu ngạo. Một số triều thần không chịu khuất phục ông đều 

bị hãm hại. Được ít lâu, vua Thái Tông tuy còn ít tuổi nhưng thông minh, dần dà việc triều chính nhà vua nắm giữ lấy. 

Ngài giết Lê Sát để thâu lại quyền binh, nhưng sau vì không có người phụ tá đắc lực can ngăn nên ngài đắm say tửu 

sắc và thiếu nhiều đức tính của một bậc đế vương. Ta hẳn nhớ những người tay chân của vua Thái Tổ hầu hết là 

những võ tướng thiếu học. Có một số người có học là những văn quan nhưng lại ở chức nhỏ vì đến sau, trừ Nguyễn 

Trãi là một nhà văn học uyên bác, ngay tiên sinh tuy địa vị lớn nhưng do tính ngay thẳng thường bị số đông dèm pha 

mà không được tin dùng lắm. So sánh với hai tiền triều Lý, Trần buổi đầu thì triều Hậu Lê kém hiền tài rõ rệt. Dưới đời 

vua Thái Tông, thiên hạ thường bị nhiều tai trời, ách nước, hạn hán, sâu hoàng trùng cắn lúa phá hại mùa màng, dân 

gian bị đói khổ. Tại vài miền sơn cước có đôi ba đám giặc Mường, Mán nổi loạn, có khi nhà vua phải thân chinh, có 

khi cho các quan đi đánh dẹp. Còn các lân bang như Xiêm La, Ai Lao, Chiêm Thành, nhờ uy thế của vua Thái Tổ nên 

vẫn có sự giao hảo và tiến cống. Việc thi cử được chỉnh đốn lại như sau: 5 năm một lần thi Hương, 6 năm một lần thi 

Hội. Phép thi thì kỳ đệ nhất làm một bài kinh nghĩa, bốn bài tứ thư nghĩa (giải thích các điều trong tứ thư) mỗi bài phải 

từ 300 chữ trở lên; kỳ đệ nhị làm bài chiếu, chế, biểu; kỳ đệ tam làm bài phú, kỳ đệ tứ làm bài văn sách từ một ngàn chữ 

trở lên. Năm Nhâm Tuất (1442), mở khoa thi Tiến Sĩ (đời Trần có khoa thi Thái Học Sinh tức là khoa thi Tiến Sĩ đời Hậu 

Lê). Các ông nghè là những người đỗ tiến sĩ được ghi tên vào bia đá để khuyến khích nhân tài về văn học. Bia tiến sĩ 

được đặt ở Văn Miếu là nơi thờ Khổng Phu Tử, ông tổ Nho Giáo có từ thủa đó. Việc tiền tệ cũng có sửa đổi: cứ 60 

đồng là một tiền, lụa thì cứ dài 30 thước, rộng một thước 5 tấc (một thước của ta tương đương 40cm) là một tấm; vải thì 

dài 24 thước hoặc 22 là một tấm, giấy thì 100 tờ là một tập.

 Cái Án Lệ Chi Viên 

Mùa thu tháng 7 năm Nhâm Tuất, (năm Đại Bảo thứ ba 1442), vua Thái Tông ngự giá đi Đông Tuần đến duyệt binh ở 

thành Chí Linh là nơi cách Côn Sơn không xa. Nguyễn Trãi một thời đã cáo quan về trí sĩ ở đấy, bởi nhìn thấy trong 

triều thưa vắng người trung chính, bè đảng quyền thần Lê Sát ngồi đầy, vả thù nhà nhục nước đã trả xong nên ông xin 

về để tránh những tai vạ bất ưng có thể vương vào mình. Về Côn Sơn, ông lấy gió trăng, thơ văn, sách vở làm bạn 

quên lãng sự đời, nhưng chẳng bao lâu lại bị vua Thái Tông vời ra trao cho chức Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Nhập Nội 

Hành Khiển, Môn Hạ Tỉnh, Giám Thị Đại Phu, Hàn LÂm Viện Thừa Chỉ Học Sĩ coi việc tam quân và kiêm việc quân 

dân bạ tịch, từ tụng ở hai đạo Tây Bắc, ông lại phải về triều cung chức, cũng hy vọng mang cái sở học đền đáp ơn trên 

và phụng sự dân tộc. Được tin Thái Tông về Chí Linh, Nguyễn Trãi đón rước xa giá về Côn Sơn. Theo Việt Nam Sử 

Lược vua Thái Tông gặp Thị Lộ là thiếp yêu của quan Hành Khiểm rất có tài sắc ở đây, rồi nhà vua cho nàng theo giá 

về kinh thành. Điều này xét ra không đúng. Trúc Khê tác giả cuốn "Nguyễn Trãi" viết: "Thị Lộ đã được gần vua khá 

lâu trước cuộc duyệt binh ở Chí Linh. Nàng được vời vào cung giữ việc dạy các cung nhân với chức Lễ Nghi Học Sĩ. 

Rồi nhà vua đã say mê nàng. Nguyễn Trãi tuy biết việc này nhưng chỉ đành bấm bụng và Thị Lộ cũng không thể có 

một thái độ nào khác là thụ động mối tình vương giả ấy. Nàng được lệnh về Côn Sơn để cùng Nguyễn Trãi lo việc đón 

tiếp sau đó nàng theo giá hoàn cung với nhà vua cùng một lúc"48. Ngày mồng 4 tháng 8, ngự đạo về đến huyện Gia 

Định (nay là Gia Bình, thuộc tỉnh Bắc Ninh) gặp trời tối phải nghỉ lại ở Lệ Chi viên (làng Đại Lai) là một trại trồng vải, 

xưa kia là chốn ly cung của các triều Lý, Trần. Đêm hôm ấy, nhành hoa thược dược được thấm nhuần cơn thụy vũ, rồi 

rạng ngày mồng 5, Thị Lộ trong màn ngự nhảy ra kêu thất thanh. Vua Thái Tông lạnh dần. Ngự Y dùng đủ mọi 

phương để cứu mà vẫn vô hiệu. Nửa đêm mồng 6, xa giá về đến kinh sư mới khua chuông báo cho thần dân biết hung 

tín. Ai nấy đều hết sức xôn xao. Sự thật vua Thái Tông mất chỉ vì trải một đêm tửu sắc quá độ rồi cảm nhiễm sương gió. 

Cái chết đột ngột của ông vua 20 tuổi, không ốm, không đau trong tay một người đàn bà, và người đàn bà đó là thiếp 

yêu của một vị trọng thần, quả là một điều đáng nghi ngờ. Trong triều đình, vì không a dua với bọn tiểu nhân, Nguyễn 

Trãi lại giữ địa vị lớn đã từng bị nhiều sự ghét ghen hiềm khích, thì đây là một dịp tốt để họ rửa hờn báo oán và tranh 

giành ảnh hưởng. Về phía bọn quan liêu như vậy đã là mối nguy lớn, về phía Hoàng Gia, cái chết của Thái Tông càng 

tai hại hơn cho họ Nguyễn. Nguyên bà phi Nguyễn Thị Ánh, người làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn, xứ Thanh Hóa, sau 

buổi tiến cung chầu hầu vua Thái Tông đã sinh được Hoàng Tử Bang Cơ hồi tháng 6 năm Đại Bảo thứ hai (1411), và 

tháng 11 năm ấy Hoàng Tử Bang Cơ được lập làm Thái Tử sau khi Thái Tử Nghi Dân bị truất vì bà mẹ có tội. Trong giai 

đoạn này Thị Lộ vào làm Lễ Nghi nữ học sĩ. Rồi nàng đã chiếm được lòng yêu của ông vua đa tình, hiếu sắc. Ngoài 

chuyện ghen ghét nhau ở chốn phòng khuê, lại còn việc bà Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Giao, người làng Đông Bàng, 

huyện An Định, tỉnh Thanh Hóa, sinh quý tử làm bà lo ngại cho địa vị của mình và của con. Ngô Diệp Tư bị cáo dính 

líu với Huệ Phi (con gái Đô Dốc Lê Ngân) về việc mời thầy mo làm bùa để cầu được vua yêu, nhân thế Huệ Phi bị 

giáng xuống làm Tư Dung, Tiệp Dư bị xử phát lưu, được Nguyễn Trãi xui Thị Lộ lĩnh  thu giam, có ý bảo toàn cho mẹ 

con Ngô thị.                                     

[ 48 Có sách chép lúc này họ Nguyễn đang đi kinh lý Bắc Đạo. ]

Thái Tông bằng lòng truyền giao cho nàng đem giữ Ngô Tiệp Dư ở chùa Hoa Văn. Nguyễn Trãi thường sai người đem 

tiền gạo cấp dưỡngcho người đàn bà bất hạnh này. Mùa thu năm Đại Bảo thứ ba, Tiệp Dư sinh ra Hoàng Tử Tư 

Thành, Thị Lộ xui bà đem con trốn đi. Về Thị Lộ, còn một điều nữa cần biết. Khi vua Thái Tông tin yêu, nàng từng bàn 

luận cùng vua nhiều việc, cũng có thể vì thế mà làm mất lòng nhiều người nữa. Ở vào hoàn cảnh từ cung cấm ra tới 

triều đường, nhiều kẻ ghét ghen như thế thì Ức Trai tiên sinh và Thị Lộ tránh sao cho khỏi cái thảm họa chu di. Thị Lộ 

và Nguyễn Trãi bị bắt giam liền. Ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442), niên hiệu Đại Bảo thứ ba, lịch sử nhà Hậu Lê 

đã chép một cái án phản quốc của một vị đại công thần, anh hùng dân tộc, bi thảm và bất công hơn cả cái án Hàn 

Bành (Hàn Tín và Bành Việt) đời Hán Cao Tổ. Trước Nguyễn Trãi có cái chết vô lý của Trần Nguyên Hãn và Phạm 

Văn Xảo, sau họ Nguyễn trong những kẻ đã nằm gai nếm mật cùng người hào kiệt đất Lam Sơn lại thêm một số nữa... 

họ chết một cách thảm khốc, cũng do tay một người đàn bà và bọn tiểu nhân, mà nguyên nhân vẫn không ngoài 

những mối lợi riêng tây. (Theo Chu Thiên, bà Tuyên Từ Thái Hậu sợ con bà Ngô Diệp Tư ứng vào điềm lành sẽ giành 

được ngôi con mình vừa được lập làm Thái Tử, bà sẽ mất quyền nên khi vua Thái Tông băng hà, bà liền mưu với các 

đại thần Nguyễn Xý, Lê Khả, Lê Khắc Phục, nhân cái chết bất thình lình của vua Thái Tông mà giết luôn ông Nguyễn 

Trãi, sợ ông cản trở việc tôn lập vị vua còn bế ngửa, sau này bà giết luôn đến cả bọn Khả và Phục, e bọn này có lúc 

hồi tâm trở lại làm lung lay địa vị của bà). Người đời sau đọc lịch sử, viết lịch sử, nhớ đến huân nghiệp vĩ đại của 

Nguyễn tiên sinh và các bạn đồng chí không khỏi có sự ngao ngán cho công lý thời phong kiến.  

275 Việt Sử Toàn Thư 

III.  Lê Nhân Tông  (1443 - 1459) 

 Vua Thái Tông làm vua được chín năm, thọ được 20 tuổi, Hoàng Tử Bang Cơ lên nối ngôi hãy còn ẵm ngữa (chưa đầy 

hai tuổi). Bà Từ Tuyên Thái Hậu rủ rèm dự chính. Phụ tá của Thái Hậu là các vị đại thần Lê Khả, Lê Khắc Phục, 

Nguyễn Xý. Trong những năm bà Tuyên Từ cầm quyền, có mấy việc quan trọng là đặt ra mười bốn điều hộ luật về tư 

đền, sửa đổi chương trình khoa sử (bỏ thi ám tả và thi kinh nghĩa, chỉ có thi viết và thi tính), đào sông Bình Lỗ (theo 

Khâm Định Việt Sử thì sông Bình Lỗ chảy từ Thái Nguyên về đến Phù Lỗ, một địa hạt thuộc tỉnh Phúc Yên, có lẽ là 

sông Cà Lồ chăng?), để tiện việc vận tải và giao thông trong nước Bà Thái Hậu lại làm thêm việc giết hại công thần 

nữa, sau khi mưu với Lê Khả, Lê Khắc Phục, Nguyễn Xý, giết Nguyễn Trãi như trên đã nói. Lần này đến lượt chính 

bọn Lê Khả, Lê Khắc Phục (theo Chu Thiên trong cuốn Lê Thánh Tông là Trịnh Khả, Trịnh Khắc Phục là nạn nhân 

của bà, việc chém giết này cũng đã gây mối dư luận rất sôi nổi trong nước. Năm Quý Dậu (1453), Nhân Tông mới bắt 

đầu tham chính. Có lẽ ngài đã nghe được những lời chỉ trích của nhân dân về việc sát hại công thần nên ngài cho truy 

tặng những người đã quá cố và cấp ruộng quan điền cho con cháu các ông Nguyễn Trãi, Lê Sát, Lê Ngân, Lê Khắc 

Phục. Phan Phù Tiên được ủy soạn bộ Quốc Sử từ đời Trần Sơ cho đến hết thời Minh thuộc được tất cả 10 quyển. 

Trước đây các vương hầu và các quan văn võ ăn bổng lộc bằng thuế 50 hộ hay là 100 hộ (nhà) tùy theo phẩm trật. 

Bên ngoài, Chiêm Vương Bí Cai thường đem quân quấy rối Hóa Châu. Quân ta nhiều lần vào chinh phạt nhưng vẫn 

không sao dứt. Năm Bính Dần (1446), các ông Lê Thụ, Lê Khả được triều đình cử đem quân điếu phạt Chiêm Thành, 

chiếm được thành Chà Bàn, bắt được Bí Cai cùng các phi tần đem về Thăng Long. Cháu vua Bồ Đề là Ma Kha Qui Lai 

được triều đình lập lên thay Bí Cai. Chiến công năm Bính Dần đã có ảnh hưởng lớn ra ngoài biên giới nên năm Mậu 

Thìn (1448), xứ Bồn Man xin quy phục nước ta. Từ đó Bồn Man được đổi tên là châu Quy Hợp. Châu này gồm các 

thung lũng, đồi núi ở phía Đông Nam giáp Nghệ An, Quảng Bình, phía Tây Bắc giáp Thanh Hóa, Hưng Hóa.  Trong 16 

năm (1443-1459), tuy chính sự không có gì đặc sắc nhưng dân được làm ăn dễ chịu, và Nhân Tông hẳn cũng là một 

ông vua hiền. Giữa khi thuận buồm xuôi gió, bỗng xảy ra cuộc thí nghịch của Lạng Sơn Vương Nghi Dân vào năm Kỷ 

Mão (1459). Nghi Dân mưu với bọn Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lang và Điện tiền Chỉ Huy Sứ Lê Đắc Ninh, nửa đêm 

bắc thang đột nhập vào hoàng thành nơi cửa Đông, nhảy vào cung đâm chết vua Nhân Tông. Thị Hậu Phó Chưởng là 

Đào Biểu chống lại quân phiến loạn cũng bị giết. Sáng hôm sau Nghi Dân cho giết cả bà Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu 

rồi tự lập làm vua, đổi niên hiệu là Thiên Hưng, cho sứ sang Tàu cầu phong. (Nghi Dân là con cả vua Thái Tông, anh 

Cung Khắc Vương Khắc Xương, vua Nhân Tông Bang Cơ và vua Thánh Tông Tư Thành).  

Phản Ứng Của Triều Đình 

Cuộc đảo chánh xong xuôi được 8 tháng thì giữa triều Lê lại sinh biến, có lẽ nếu Nghi Dân đừng nghe lời xiểm nịnh và 

giết các cựu thần, khéo vỗ về nhân tâm thì chưa dễ bị phản ứng của các triều thần. Cái chết oan uổng của nhiều quan 

lại đã gây trong tâm hồn những kẻ còn lại một cuộc khủng hoảng và đưa đẩy họ qua phía phản động, dầu họ muốn 

hay không. Đây là một vấn đề tự vệ. Họ hợp được với nhau, vì vậy họ thành một sức mạnh. Nhưng do việc này, ta 

thấy đầu óc của giới quan liêu thuở đó hèn yếu, nhút nhát, thiếu đoàn kết, đáng lẽ họ phải có ngay sức mạnh kể trên 

để trả thù cho ông vua mà hàng ngày họ thề thốt trung thành. Tháng sáu năm Canh Thìn (1460), đến lượt Thái Bảo Á 

Quận Hầu Đinh Liệt, Nguyễn Xí, Nhập Nội Đại Kiểm Lê Vĩnh Trường, Xạ Kỵ Vệ Úy Tổng Tri Lê Niệm, Ngự Tiền Trung 

Quân Tổng Tri Lê Khoái, Ngự Tiền Hậu Quận Tổng Tri Trịnh Văn Lê, Bắc Đạo Thiêm Tri Trịnh Đạc, Điện Tiền Đô Chỉ 

Huy Sứ Nguyễn Đức Trung với con là Thiết Độ Tả Quân Đại Đội Trưởng Nguyễn Yên, Điện Tiền Tư Chỉ Huy Sứ Lê 

Yên, Lê Giai, âm mưu với nhau đóng cửa thành mở cuộc bạo động. Lê Nhân Thuần chém Trần Lang, quân thủ túc ùa 

vào giết bọn Phạm Đồn, Phan Ban ngay giữa Nghị Sự Đường. Còn Lê Đắc Ninh và hơn trăm dư đảng cũng bị hạ sát 

nốt. Việc này thành tựu, các đại thần tuyên bố phế bỏ Lạng Sơn Vương Nghi Dân, giáng xuống tước Lê Đức Hầu (lấy 

ý khuyên theo đạo đức). Nhưng sau đó, Lê Lăng bưng mâm lụa trao cho Nghi Dân bắt tự thắt cổ. Về vấn đề lập vua 

mới, đa số đề nghị lập Bình Nguyên, tức Gia Vương Tư Thành, (tước này của Nghi Dân phong cho Tư Thành trước 

đây khi vừa lên ngôi xong), căn cứ vào chỗ Ngài thông minh tài đức, duy Lê Lăng đòi lập Cung Vương, nhưng Cung 

Vương vốn không ưa công danh phú quý, lại thấy cái ngôi cao vị cả thường gây ra nhiều tai họa nên hết sức khước từ, 

các quan đành đem xe giá đến Tây Điện để mời Gia Vương.  

IV.   Lê Thánh Tông  (1460 - 1497) 

 - Việc chính trị - Tổ chức hương thôn - Việc đinh- Cấp hành chính - Các địa hạt hành chính - Quan chế - Thuế đinh - 

Thuế điền thổ - Nông nghiệp- Luật pháp bảo vệ dân quyền - Quyền lợi xã hội - Tổ chức võ bị - Các võ công dưới đời 

Hồng Đức - Trận đánh Bồn Man và Lão Qua - Văn trị của nước ta dưới đời Hồng Đức  

Ngày mồng 8 tháng sáu năm ấy, vua Thánh Tông lên ngôi tức vị ở điện Tường Quang. Ngài đổi niên là Quang Thuận, 

vẫn nhún nhường cho đến năm Quang Thuận thứ tám mới xưng trẫm và Hoàng Thượng chế cáo. Ngày mồng mười có 

lễ phát tang vua Nhân Tông và bà Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu cùng truy tặng Đào Biểu chức Thị Hậu Chánh Trưởng, 

trật tòng lục phẩm. Cuộc đảo chính tháng sáu kết liễu, tháng 10 có việc định công thưởng tước các công thần Trung 

Hưng và cấp ruộng công thần thế nghiệp từ 100 mẫu đến 350 mẫu. 

1- Việc Chính Trị Của Vua Thánh Tông 

Xã hội Việt Nam vào đầu Lê triều về phương diện tổ chức đã có quy củ và trình độ sinh hoạt của dân chúng đã lên tới 

mức khả quan. Những sự lộn xộn dưới đời Trần mạt, qua thời Minh thuộc và trong giai đoạn kháng chiến đều đã được 

san phẳng hết. Trước vấn đề này ta phải nhớ đến công lao của Nguyễn Trãi, người đã luôn luôn hoạt động và tranh 

đấu cho quyền lợi nhân dân. Đã nhiều lần giữa triều đường, ông bài xích bọn Lê Sát, khi đó làm Tể Tướng lấy lòng vua 

bày ra nhiều thứ thuế khóa. Ông đã mua thù chuốc oán vì dân, vì nước. Để đền bù cho ông, cũng có thời sự trung trực 

và lòng ái quốc của ông đã thắng, nên đời Lê Sơ đã để lại được nhiều ân nghĩa trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Ngoài 

ra nhờ phép quân điền của triều đình, mọi người dân nhứt là các cùng dân đều có ruộng đất để sinh nhai, công nghệ 

trong nước được phát đạt, nghề khắc gỗ in sách thịnh hành giúp rất nhiều trong việc truyền bá tư tưởng học thuật 

(việc này do quan Thám Hoa Hồng Liên là Lương Như Mộc dạy bảo), cửa Vân Đồn, Lục Đầu và các cửa sông có 

nhiều thuyền bè buôn bán ra vào tấp nập. 

2- Tổ Chức Hương Thôn

 Cơ cấu cai trị ở các hạ tầng nhân dân là hương thôn vẫn theo các đời Lý, Trần, tuy có thay đổi về hình thức và danh 

từ, nhưng nguyên tắc vẫn không khác. Xã quan bây giờ đổi ra Xã Trưởng và hạn định mỗi xã được cử ba người gọi là 

xã chính, xã sử, xã tư; xã nhỏ cử hai hai người xã sử, xã tư; các viên chức này là những đại diện của nhân dân về trí thức 

và hạnh kiểm. Khi dân bầu xong, họ còn phải được quan trên phúc hạch lại (năm Quang thuận thứ ba, điều lệ thi hành 

về việc bầu xã trưởng như sau: hội đồng toàn dân lựa chọn hoặc lấy người cao niên, hoặc giám sinh, sinh đồ mà học 

nghiệp chưa thành đạt, hoặc phần tử thuộc lương gia tử đệ từ ba mươi tuổi trở lên. Bầu sai nguyên tắc sẽ phải tội). 

Nếu cần thêm người giúp việc thì cho phép lấy thôn trưởng. Để tránh bè đảng, ở một làng người nào đã ra làm xã 

trưởng thì người cùng họ với xã trưởng không được ra giữ thêm chức xã trưởng thứ hai. Các xã được ấn định như sau: 

một trăm nhà là xã nhỏ. Hai trăm nhà là xã lớn. Nếu xã nào thêm đinh thì đổi bậc theo hệ thống và nguyên tắc tổ chức 

kể trên. Khi có sự đổi thay này, ruộng đất cũng được chia lại. Xem đơn vị hành chính đời Lê Sơ, nhỏ nhất mà được gần 

100 nhà, thì đủ biết nhân khẩu của nước ta từ giai đoạn này đã tiến rõ rệt. Trước đây, dưới thời Minh thuộc và dưới các 

tiền triều chỉ mới có lập ra Lý có 110 hộ (mỗi hộ là một nhà). Còn các cấp xã về thời Trần Sơ, dân số là bao nhiêu ở mỗi 

cấp không thấy các cổ sử ghi chép. Theo sự kê cứu gần đây của một vài học giả, dân số toàn quốc đời Lê Sơ đã có tới 

6, 7 triệu. 

3- Việc Đinh 

Dưới đời Lý có lập sổ Tướng Tịch ghi tất cả số dân trong làng gồm các quan văn võ, binh lính, hoàng nam, lão hạng 

và phế nhân. Đời Trần có Đơn Sổ tức là sổ này. Hồi Minh thuộc có Hoàng Sách. Đến đời vua Lê Thánh Tông, ngài lập 

sổ Hộ Tịch cứ 3 năm xem lại một lần gọi là Tiểu Điển, 6 năm duyệt lại gọi là Đại Điển. Sổ Hộ Tịch chia ra sáu hạng: 

1) Tráng hạng là những người chọn để làm lính. 

2) Quân hạng là những nông dân có đủ tư cách để động viên. 

3) Dân hạng là những người dân ở nhà đóng sưu thuế và chịu tạp dịch. 

4) Lão hạng là những người già từ sáu mươi tuổi trở lên.

 5) Cố hạng là những người vô sản đi làm mướn. 

6) Cùng hạng là những người vô sản và vô nghề nghiệp.      Nhà nào có ba đinh thì cắt vào hàng tráng, một vào hàng 

quân, một vào nhà dân. Nhà có sáu đinh: hai tráng, một quân, ba dân. Những người phiêu bạt không được ghi tên vào 

sổ Bạ, những người kiều cư cũng phải có tên tuổi trong Bạ. Các quan phủ, huyện, phải duyệt các sổ bộ trước khi đệ về 

Kinh để chuyển sang các sổ của Bộ.  

4- Cấp Hành Chính 

Một chức Tổng Kỳ được đặt ra như Chánh Tổng ngày nay có nhiệm vụ liên lạc các xã với nhau ngoài các cấp dưới 

dùng vào việc cai trị nhân dân. Trên có các chức Huyện Thừa, Tri Châu, Tri Phủ, Đồng Trị. Các chức này thuộc triều 

đình bổ dụng. 

5- Các Địa Hạt Hành Chính 

Vua Thái Tổ trước kia chia nước ra làm năm đạo (Nam, Bắc, Đông, Tây và Trung Đô). Dạo có chức Hành Khiển là chức 

quan cao nhất, có lẽ như chức Tổng Đốc gần đây. Đạo chia ra Lộ, đứng đầu có chức An Phủ Sứ và trấn có chức Trấn 

Phủ Sứ như chức Tuần Phủ hay Quản Đạo. (Tuần Phủ là quan đầu tỉnh Trung Châu. Quản Đạo là quan đầu tỉnh 

Thượng Du). Đến vua Thánh Tông, nước ta được chia làm 12 đạo:

 1) Thanh Hóa 

2) Nghệ An 

3) Thuận Hóa 

4) Thiên Trường 5) Nam Sách 

6) Quốc Oai 

7) Bắc Giang

 8) An Bang (Quảng Yên)  

 9) Hưng Hóa

 10) Tuyên Quang

 11) Thái Nguyên 

12) Lạng Sơn 

Mỗi đạo có ba Ty: Đô, Thừa, Hiến. Đô có hai viên: chính, phó Đô Tổng Binh coi việc quân. Thừa có Thừa Chính: 

chánh, phó sứ coi việc cai trị. Hiến có hai viên Hiến Sát: chánh, phó coi việc Tư Pháp. Lại có chức Giám Sát Ngự Sử xét 

công việc các đạo, như chức Thanh Tra Hành Chính và chính trị đời nay. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Thánh 

Tông cho vẽ lại bản đồ nước ta đổi tên 12 đạo ra làm 12 Thừa Tuyên. Mỗi Thừa Tuyên có số phủ huyện như sau: 

- Thanh Hóa, có 12 phủ, 16 huyện, 4 châu. 

- Nghệ An, có 8 phủ, 18 huyện, 2 châu.

 - Thuận Hóa, có 2 phủ, 7 huyện, 4 châu. 

- Nam Sách đổi ra Hải Dương, có 4 phủ, 18 huyện. 

- Thiên Trường đổi ra Sơn Nam, có 14 phủ, 42 huyện.

 - Quốc Oai đổi ra Sơn Tây, có 6 phủ, 24 huyện.

 - Bắc Giang đổi ra Kinh Bắc, có 4 phủ, 19 huyện. 

- An Bang, có 1 phủ, 3 huyện, 4 châu. 

- Hưng Hóa có 3 phủ, 4 huyện, 17 châu. 

- Lạng Sơn có 1 huyện, 7 châu. 

- Thái Nguyên đổi ra Ninh Sóc, có 3 phủ, 8 huyện, 7 châu.

 - Trung Đô đổi là phủ Phụng Thiên, có 2 huyện.  

 Tháng sáu năm Hồng Đức thứ hai, ta chiếm được của Chiêm Thành từ Thuận Hóa trở vào đặt thêm được Thừa Tuyên, 

Quảng Nam, gồm 3 phủ, 9 huyện. Đến năm Hồng Đức thứ 21 lại sửa bản đồ thêm lần nữa và đổi Thừa Tuyên ra xứ. 

6- Quan Chế 

 Đây là các cấp bộ tối cao tại triều đình. Đến đời vua Thánh Tông cũng có sự chỉnh đốn. Trước đây, quan chức đặt 

theo triều Trần, có Tả, Hữu Tướng Quốc rồi đến Lễ Bộ, Lại Bộ, Nội Các Viện, Trung Thư, Hoàng Môn. Qua thời Nghi 

Dân đặt ra 6 bộ và 6 khoa (Lại, Bộ, Lễ, Binh, Công, Hình). Nay ngài bỏ Nội Các Viện, Tả, Hữu Tướng Quốc, lập ra Hàn 

Lâm Viện và đặt thêm 6 tự (Đại Lý Tự, Thái Thường Tự, Quang Lộc Tự, Thái Học Tự, Hồng Lô Tự, Thượng Bảo Tự) và 

chức Đông Các Đại Học Sĩ để bổ dụng văn thần cùng ban thêm tước tam Thái (Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo), tam 

Thiếu (Thiếu Sư, Thiếu Phó, Thiếu Bảo) để thưởng các vị trọng thần có công lớn. Các quan ở 6 bộ có: Thượng Thư. 

Tả Hữu Thị Lang, Lang Trung Viện Ngoại Lang, Tư Vụ. Các quan ở 6 khoa có: Đô Cấp Sự Trung, Cấp Sự Trung, Lang 

Trung. Các quan 6 Tự có: Tự Khanh, Thiếu Khanh, Tự Thừa. Ngoài ra còn các quan chức coi về học vụ, binh vụ, các 

tòng quản, tân quan. Theo tờ Dụ "Hiệu Định Quan Chế", ngày 26 tháng chín năm Hồng Đức thứ hai (1471), tổng số 

quan chức văn võ nội ngoại toàn quốc có tới 5370 và chia ra như sau: 

A- Quan trong văn võ và cả tổng quản có 2755 vị: 

1) Văn quan 899 vị. 

2) Võ quan 1910 vị. 

3) Tòng quan 446 vị. 

B- Quan ngoài, văn võ mọi chức có 2615 vị:  

1) Văn quan 926 vị. 

2) Võ quan 857 vị. 

3) Tòng quan 41 vị. 

4) Tập chức 791 vị. 

Xét tinh thần lời Dụ kể trên thì việc đặt các quan lại theo nguyên tắc phân quyền và nguyên đới trách nhiệm. Tỉ dụ Lại 

Bộ cắt bổ nhân viên không hợp khả năng thì Lại Khoa được phép bác bỏ. Lễ Bộ nghi chế sai bậc, Lễ Khoa được phép 

đàn tấu: Hình Khoa luận công việc của Hình Bộ trái phải nhẹ nặng v.v... Nhà vua lại rất nghiêm ngặt đối với những 

phần tử thiếu sự liêm khiết, do đó điều 138 Hình Luật đời Hồng Dức định rằng: 

"Ăn lễ làm trái phép thì phạt từ 1 quan đến 10 quan và bị bãi chức, từ 10 đến 19 quan bị đày; từ 20 quan trở lên chém. 

Các người được Bát Nghị ăn lễ từ 1 quan đến 9 quan phạt 50 quan; từ 20 quan trở lên, phải tội đồ làm phu. Của hối lộ 

bỏ vào kho một phần, một phần trao trả bản chủ" 

Kẻ ăn hối lộ có tội mà kẻ hối lộ quan lại cũng phải bị trừng phạt. Kẻ nào đi lo việc cho người khác cũng phải tội, nhưng 

nhẹ hơn sự chủ; lễ vật đều sung công. Lại đáng chú ý một điều: vua Thánh Tông đặt thêm quan mà ngân sách quốc 

gia không tăng, vì lương bổng của các quan ít hơn trước. Ngoài số lương, các quan được tiền phụ cấp chức vụ khi đi 

kinh lý và tiền gạo cung mừng của dân khi nhậm chức. (Xin coi Việt Sử Tân Biên quyển 2 trang 538). Xét ra số lương 

bổng của các quan ít ỏi như vậy do giá sinh hoạt đời xưa có lẽ không cao, phần cổ nhân có đức tiết kiệm, ngoài ra các 

quan từ tứ phẩm trở lên còn có phần ruộng ở làng; các quan tuổi từ 65 được xin về hưu trí, những người làm nha lại có 

thể xin về từ 60 tuổi. - Xin coi vấn đề thuế khóa dưới đây: 

7- Thuế Đinh   

Trừ những lão nhiêu 60 tuổi trở lên, Hoàng Đinh là những người vị thành niên (dưới 18 tuổi), những người thuộc vào 

tráng (hạng tòng quân) cùng những người phế tật, mỗi người dân phải nộp thuế đồng niên là 8 tiền. Đối với thuế đinh 

đời Trần đánh vào ruộng (ai có một hai mẫu đóng 1 quan; 3, 4 mẫu đóng 2 quan và theo tỷ lệ mà tăng lên, trừ cùng 

đinh không phải nộp thuế). Đời vua Hiển Tông mỗi xuất đóng 1 quan 2 tiền, đời vua Thần Tông (1649-1662) mỗi xuất 

đinh không phục dịch việc quan phải đóng 3 quan năm tiền như thế thì đinh sưu đời Hồng Đức nhẹ hơn nhiều.

 8- Thuế Điền Thổ 

Chia ra làm ba hạng: 

A) Nhất đẳng điền: mỗi mẫu đồng niên phải nộp 60 thưng thóc (10 thưng là một đấu) và tiền 6 quan.

 B) Nhị đẳng điền: mỗi mẫu đồng niên phải nộp 40 thưng và 4 quan. 

C) Tam đẳng điền: mỗi mẫu phải nộp 20 thưng và tiền 3 quan. 

Ruộng bãi trồng dâu cũng chia làm ba hạng, thuế nhẹ hơn hoặc nộp bằng tơ hay bằng tiền. Ruộng tư điền không phải 

nộp thuế. Thổ trạch là đất để ở có hạn định như sau: Quan viên được 80 thước (5 sào 5 thước). Quân dân chức sắc 

được 50 thước (3 sào 5 thước) không phải chịu thuế, còn ngoài diện tích hạn định phải nộp theo thuế ruộng. Nếu so 

sánh với thuế của các tiền triều, chế độ thuế lệ dưới đời Lê Thánh Tông có sự dè dặt, các nhà cầm quyền ắt đã tiết 

kiệm nhiều lắm để khỏi phiền dân. Ngoài ra sử chép: kho tàng thuở đó không được sung túc. Năm Quang Thuận đầu 

tiên tức là năm vua Thánh Tông vừa lên ngôi, tháng sau đã có ngay Chiếu yêu cầu quân dân nộp thóc cho nhà nước. 

Ai hưởng ứng được bổ đi làm chức toán quân. Tỉ dụ ai nộp 200 hộc được bổ quan chánh thất phẩm; nộp 150 hộc bổ 

tòng thất phẩm; 100 hộc bổ chánh bát phẩm, con cái đều được miễn quân dịch. 

Nông Nghiệp 

Vua Thánh Tông rất hiểu biết vấn đề dân sinh mà vấn đề dân sinh ở nước ta là một sứ nông nghiệp đều quy tựu xung 

quanh việc mở mang ruộng đất, canh cửi và đê điều. Năm quang Thuận thứ bảy, tháng 12, ngài hạ Chiếu bắt các quan 

phủ huyện khuyến khích nhân dân cày cấy và trồng dâu nuôi tằm. Tháng 8 năm Hồng Đức thứ 6 (1475), Ngài đặt hai 

ty Hà Đê trông nom việc đê điều, phòng lụt lội cho dân và mùa màng. Trong việc khuếch trương nông nghiệp cũng 

như việc bảo vệ đê điều có quan chuyên môn là Hà Đê Ty Sứ và Khuyến Nông Sứ. Trong nước bấy giờ có 53 ty Hà Đê 

và 53 ty Khuyến Nông. Ngoài ra, nhà nước lập ra 42 sở Đồn Điền khẩn hoang các miền thượng du đặt dưới quyền 13 

quan Đồn Điền chánh sứ, 31 sở Tầm Tang, 18 sở Điền Mục kén chọn giống trứng tằm tốt, dạy dân việc nuôi tằm ươm 

tơ cho đúng phương pháp. 

10- Luật Pháp Bảo Vệ Dân Quyền

 Luật pháp đời Lê phỏng theo luật pháp đời Chu Đường bên Trung Quốc, nhưng có sửa đổi lại nhiều. Trừng trị những 

tội thường phạm có 5 bậc (Ngũ hình): 

1) Suy hình, xử riêng đàn bà, đánh bằng roi từ 10 đến 50 roi. 

2) Trượng hình, đánh bằng gậy đầu bịt đồng, xử riêng đàn ông từ 60 gậy đến 100 gậy. 

3) Đồ hình, là tội đầy ba bậc:  

a) Dịch đinh: phải làm phu hầu cơm nước trong quân, đàn bà làm vườn, nuôi tằm

 b) Tượng phương: đàn ông làm lính chuồng voi, đàn bà phải thổi cơm, đều bị thích hai chữ vào trán. 

c) Đồ chủng diễn: đàn ông phải làm phu các đồn điền, đàn bà xay lúa giã gạo, bị thích vào trán bốn chữ, đeo một khóa 

chân. 

4) Lưu hình là đầy đi xa có 3 bậc: 

a) Lưu cận châu (Nghệ An) bị phạt 90 gậy thích sáu chữ vào mặt, đeo một khóa chân.

 b) Lưu ngoại châu (Bố chính) phạt 90 gậy, thích 8 chữ vào mặt, đeo hai khóa chân. 

c) Lưu viễn châu (Quảng Nam) phạt 100 gậy, thích 10 chữ vào mặt, đeo 4 khóa chân.

 5) Tử hình tội chết có 3 bậc: 

a) Giảo (thắt cổ). 

b) Chém (bêu đầu). 

c) Lăng trì (tùng xẻo). 

Luật hình đời Hồng Đức cũng theo Chu lệ, định ra Thập ác là: 

1) Mưu phản: làm nguy xã tắc. 

2) Mưu đại nghịch: phá hủy tông miếu.

 3) Mưu bạn: phản ước theo giặc. 

4) Ác nghịch: giết cha mẹ, chú, bác, cô, dì, anh chị, cha mẹ, chồng, ông bà, v.v... 

5) Bất đạo: giết cả một nhà 3 người. 

6) Đại bất kính: tỏ ra vô thần, ở lầu vua, đi xe vua, lạm dụng nghi vệ Thiên Tử.      

7) Bất hiếu: chửi cha mẹ, không để tang. 

8) Bất mục: mưu sát hay đánh các người họ phải để tang 3 tháng và 5 tháng. 

9) Bất nghĩa. 

10) Nổi loạn: thông dâm với người cùng họ để tang 5 tháng, với vợ lẽ ông.

 Các tội này đều xử vào tội tử hình cả. Xét tỉ mỉ nội dung bộ Lê Triều Hình Luật tức là bộ luật đời Hồng Đức, các luật 

gia ngày nay rất cấp tiến, rất dân chủ và đã để một chấm son trong lịch sử tư pháp Việt Nam. Quả vậy, ta thấy Lê triều 

bảo vệ triệt để quyền lợi và an ninh của nhân dân không bỏ rơi tầng lớp xã hội nào, nhưng cũng có vài trường hợp quá 

khắc nghiệt đối với luật pháp hiện hữu, và trái lại cũng có trường hợp khinh giảm rất nhân đạo, đáng khen hơn đời bây 

giờ. 

11- Quyền Lợi Xã Hội 

Do mục đích tránh sự chênh lệch quá đáng về tài sản, vua Thánh Tông đề phòng việc lạm quyền của quan liêu, quý 

tộc hay chiếm nhiều đất công nên ra luật lệ sau đây và thi hành ngay từ nơi kinh đô: Vườn nhà ở kinh đô, quan Nhất 

Phẩm được ba mẫu, Nhị Phẩm hai mẫu, Tam Phẩm một mẫu, Tứ Phẩm năm sào, Lục, Thất Phẩm hai sào, Bát, Cửu Phẩm, 

thường dân một sào. Ai lạm chiếm bị phạt trượng 50 gậy, biếm một tư. Đã có vườn ao rồi mà còn biệt lập nơi khác, tội 

tăng thêm một bậc, trừ những người có công được đặt tứ. 

Ai chê bỏ tiền đồng nát, bán cao giá, tích trữ hàng hóa để đầu cơ đều bị tội và hàng hóa bị tịch thu. Những ai cậy thế 

hà hiếp người ta trong việc mua bán, tội cũng vậy. Kẻ hống hách nhiễu dân để lấy của cũng coi như trộm thường, 

giảm một bậc. Tài chủ sợ người quyền thế đem cho cũng tội như vậy, nếu của đó chưa lấy về trượng 60 gậy, biếm 3 tư. 

Ngự trù (bếp nhà vua), bếp nhà quyền quý hà liễm mọi vật ở chợ, ức hiếp người bán, giám thị và người ở chợ cũng bị 

giải quan phạt tội đồ, gia chủ bị phạt. Giám thị a tòng không can thiệp, trượng biếm tùy theo nặng nhẹ. Người ngoài 

bắt được sẽ có thưởng. Lấy gian rau quả của người, trượng biếm. Các quan chức vị nể người nhà quyền quý không 

trình đều bị phạt. Cấy ruộng quá hạn không nộp thóc, trượng 80 gậy. Tái phạm phải nộp thóc gấp đôi đền vào kho. 

Tái phạm lần nữa phần ruộng bị tịch thu. Ruộng công giao cho thì nhà nước thu về, còn ruộng khẩu phần lấy một nữa. 

Kẻ nào nặc danh đầu thư để hại người (ném đá dấu tay) coi là quấy rối xã hội, nếu có ảnh hưởng đến quốc gia đại sự 

thì chém, việc thường thì lưu viễn châu, gia sản tịch biên. Người nào biết và tố cáo được thưởng nhiều, ít, tùy theo 

việc nặng nhẹ. Viết thư phỉ báng thời chính: lưu cận châu, nhẹ thì đầy làm lính chuồng voi. Nếu người giữ việc nhận 

thư không hủy lá thư đó để nhân dân biết mà truyền tụng, bị suy 50 roi, biếm một bậc. Các quan nhận thư nặc danh đó 

lấy làm căn cứ để buộc tội người ta, gia thêm một bậc. Các quan làm việc hình án kéo dài công việc, quá kỳ hạn mà 

không xong sẽ bị phạt. Quá 1 tháng: biếm, quá 3 tháng: bãi chức.      Các cường hào sợ tội, đón cướp sớ tấu giữa 

đường hay bắt giam người mang sớ tấu, đều bị lưu hay xử tử. Nếu sớ đó đã qua 4 cửa Hoàng Thành rồi mà việc này 

còn xảy ra, tội lại tăng lên một bậc. Giả chúc thư, văn khế, trượng 80 gậy, đồ theo nặng, nhẹ. Gả chồng cho con đã 

thành hôn cho người khác, đồ làm lính hầu cơm nước. Người lấy sau biết mà cứ lấy cũng bị tội đồ, nếu không biết, 

được miễn tội. Người con gái trả về cho chồng trước, người này không nhận nữa thì được đền lại sính lễ. Trai hỏi vợ, 

đã đưa sính lễ sau lại bỏ không lấy, phạt trượng 80 gậy và mất sính lễ. Luật Hồng Đức cũng hết lòng bảo vệ phong 

hóa nữa nên đặt ra nhiều điều khoản để trừng trị những kẻ vi phạm. Thêm vào đó triều đình còn công bố 24 điều răn 

để đưa nhân dân đến chỗ lành mạnh và đạo đức. 

12- Tổ Chức Võ Bị 

Quân số trước đây của vua Lê Thái Tổ có 10 vạn người chia ra 5 phiên, 1 ban ở lại gọi là lưu ban tập luyện và phòng 

vệ, bốn phiên kia được giải ngũ về tiếp tục nông nghiệp rồi cùng nhau lần lượt thay đổi. Binh sĩ lưu ban thuộc về năm 

đạo vệ quân dưới quyền vị Tổng Quản. Trên Tổng Quản có Đô Tổng và Đổng Tổng Quản, dưới có Chánh, Phó Đội 

Trưởng và Cửu Phẩm Ngũ Trưởng. Tháng 7 năm Quang Thuận thứ tư (1463), năm Vệ Quân đổi ra 5 phủ Đô Đốc:  - 

Thanh Hóa, Nghệ An, thuộc Trung Quân Phủ. - Nam Sách, An Bang (tức Quảng Yên) tức Đông Quân Phủ. - Thiên 

Trường tức Nam Định, thuộc Nam Quân Phủ. - Quốc Oai tức Sơn Tây, Hưng Hóa, thuộc Tây Quân Phủ. Ngoài 5 phủ 

này còn có Phụng Trực Quân gồm quân đội hai miền sơn cước Thái Nguyên và Tuyên Quang. Mỗi phủ có 6 vệ. Mỗi 

vệ có 5 hay 6 sở. Mỗi sở có 400 người. Phủ có Tả, Hữu Đô Đốc, Đô Đốc Đồng Tri, Đô Đốc Thiêm Trị. Sở có Quản 

Lĩnh, Phó Quản Lĩnh, Chánh Võ Úy, Phó Võ Úy. Sở chia ra làm nhiều ngũ. Mỗi ngũ có một Tổng Kỵ. Vua Thánh Tông 

đổi Vệ Quân Tùy Thân Cục (tức Ngự Lâm Quân) ra làm hai Vệ Tả Hữu Võ Lâm Quân, kén con các quan từ lục phẩm 

đến tam phẩm sung vào các vệ ấy. Năm Quang Thuận thứ tám (1467), Ngài đặt thêm ra hai đạo Nội, Ngoại Chư Quân. 

Nội quân có 66 ty, 51 vệ. Ngoại quân có 26 vệ. Mỗi ty có 100 người. Mỗi vệ có 5 sở, mỗi sở có 12 đội, mỗi đội có 20 

người. Tính ra Nội quân có 51 vệ và 225 sở, 3060 đội, được tất cả 61.200 người cộng với 6.600 người ở 66 ty thành tổng 

số 67.800 người. Ngoại quân 26 vệ có 130 sở thành 1.560 đội, tổng số 31.200 người. Tất cả Nội, Ngoại gồm 9 vạn 9 

nghìn người, cộng với số quân 5 phủ và quân Phụng Trực chừng 7 vạn là 16 vạn, thêm vào còn số quân trực vệ trong 

cung. Ngoài ra, các quan Đô Đốc, Tổng Tri chăm giảng tập trận đồ cho sĩ tốt và đặt 31 điều quân lệnh để tập thủy 

chiến, 32 điều tập tượng trận, 27 điều tập mã trận, 42 điều tập bộ trận. Từ năm Quang Thuận thứ tám, cứ 3 năm 1 lần có 

một kỳ khảo hạch về võ nghệ để kiểm soát lại việc học tập của quân đội. Ai tứ thắng được thưởng một chiếc áo và 1 

quan 5 tiền; ai tam thắng được một chiếc áo. Nhị thắng 2 bình được 6 tiền. Ai nhất thắng được ba tiền, 4 bình thưởng 

20 đồng, kẻ nào thua cũng bị phạt theo như vậy. Nội, Ngoại quân, quan từ ngũ phẩm trở lên thì bắn 5 phát, chém tay 4 

phát, đánh mộc 1 phát, cũng có định cấp bậc để thưởng phạt. Lại có luật chương quân chính gồm 43 điều mà đến quá 

nửa nếu vi phạm sẽ bị chém. Tỉ dụ: tiết lậu quân cơ, hậu quân lui không tiếp viện tiền quân, đặt điều quái gở dị đoan 

để mê hoặc binh sĩ, đào ngũ v.v... Vua Thánh Tông lại chú trọng cả đến quyền lợi của các quân lính. Những người 

thuộc quân hạng, tức là để dùng vào việc quân khi cần tới, được phần ruộng tốt, nộp thuế nhẹ, nên tháng 11 năm đầu 

Hồng Đức (1470), Ngài gọi ngay một lúc được thêm 26 vạn quân đi Nam chinh. Tinh thần thượng võ thuở đó được lên 

cao do sự khuyến khích của triều đình nên có cả các vị quan văn xuất thân khoa bảng cũng xin đổi sang võ chức (Tiến 

Sĩ Phạm Phổ làm Chỉ Huy Sứ, Ngô Lôi, Lê Dũng làm Tổng Binh, Nghiêm Ích Khiêm làm Đô Chỉ Huy Sứ, Nguyễn Trinh 

làm đến Binh Bộ Thượng Thư v.v...) 

13- Võ Công Dưới Đời Hồng Đức (Cuộc Nam Phạt Của Thánh Tông) 

Trước kia, tướng nước Chiêm là Trà Duyệt, người ở Thi Nại, giết Quốc Vương là Bí Do rồi tự lập làm vua, sau truyền 

cho em là Trà Toàn, muốn học đòi Chế Bồng Nga nên đem quân cướp phá Hóa Châu của ta vào năm Hồng Đức 

nguyên niên (1470). Quan Trần Thủ ở đây là Phạm Văn Hiện chống không nổi phải giữ thế thủ và cho phi báo về triều 

đình. Ngày 6 tháng 10, nhà vua hạ lệnh kén hoàng đinh từ 15 tuổi trở lên được 26 vạn quân. Quân đội sắp lên đường, 

ngọn cờ Nam Chinh phấp phới bay thì bài chiếu Bình Chiêm được tuyên ra để báo cáo quốc dân lý do của cuộc chiến 

đấu và tình trạng Việt Chiêm qua bao nhiêu thế hệ. Lan Quận Công Đinh Liệt, Kỵ Quận Công Lê Niệm lĩnh 10 vạn 

quân đi tiên phong. Ngày 18, đại quân tiến vào đất Chiêm. Ngày mồng 2 tháng giêng là ngày Tết Nguyên Đán, e quân 

sĩ chơi bời sinh nản, ngài mở cuộc thi thuyền và tập trận cùng sai thổ tù Thuận Hóa là Nguyễn Vũ vẽ bản đồ Chiêm 

Thành để rõ các nơi hiểm yếu. Các thổ tù , phiên tù các nơi cùng sứ thần Ai Lao là Quang Bình, trấn thủ là Đầu 

Nguyệt là Lạng Lê vào chầu và dâng hương vật. Cuộc giao tranh bắt đầu ngày 5 tháng hai. Việt quân được phân phối 

như sau: Ngày mồng sáu, Lê Hy Cát, Hoàng Nhân Thiện và tướng tiên phong Lê Thế, Trịnh Văn Sái đem 500 chiến 

thuyền và 3 vạn tinh binh, nửa đêm bí mật ra cửa bể Yểm Tọa chèo gấp vào cửa bể Sa Kỳ (nay ở huyện Bình Sơn, tỉnh 

Quảng Ngãi) đắp lũy chắn đường rút lui của giặc. Sáng ngày thứ 7, vua thân đem hơn 1000 chiếc thuyền và 7 vạn 

quân tiến vào cửa Tân Yên và Cửu Tọa (nay là Đại Yêm và Tiêu Yêm, thuộc Quảng Nam) trưng cờ Thiên Tử, dóng 

trống tiến vào trận địa. Bộ binh Đại Tướng Nguyễn Đức Trung cũng mật chuyển binh đội giữ các ngã đường sơn 

cước. Về phần quân Chiêm, Quốc Vương và em là Trà Toàn cùng sáu vị đại thần đem 5000 quân và voi, lặng lẽ tiến đến 

gần đại doanh của vua Thánh Tông, có lẽ định đánh lén mặt sau nhưng thấy uy thế của quân ta hùng dũng mất ngay 

tinh thần, vội rút ngay về Chà Bàn, đến núi Mộ Tô thì gặp Tả Đô Đốc Lê Hy Cát. Giặc hoảng sợ chạy lên núi cao bị Lê 

Niệm thúc quân đánh tan và chém được một đại tướng hộ giá, tiến đên Mễ Cần giết được hơn 300 quân giặc và bắt 

được 60 tên. Trà Toàn thấy em bị đại bại, thất vọng, cho sứ sang xin hàng. Vua cho dừng quân nghỉ ngơi, sau thấy Trà 

Toàn có thái độ không minh bạch nên ngày 27, đại quân đánh vào thành Thi Nại. Ngày 29, quân ta xiết chặt ba vòng 

vây quanh thành Chà Bàn. Ở đây, Việt Chiêm kịch chiến. Chiêm bị hại tới 4 vạn quân, bắt sống tới 3 vạn, trong đó có 

Trà Bàn và cả Hoàng Gia. Cuộc chiến tranh Nam Bắc đến đây chấm dứt. Ngày mồng 2, có chiếu sửa soạn ban sư về 

kinh. Trà Toàn bị bắt, tướng là Bồ Tri Trì chạy vào Phan Lung (Phan Rang) tự xưng vương và cho sứ xin triều đình ta 

thừa nhận để tiếp tục tiến cống. Vua Thánh Tông ưng thuận. Em Trà Toàn là Trà Toại, trước đây thua chạy vào núi, 

cho người sang kêu với nhà Minh. Lê Niệm được cử đem 3 vạn quân, vào bắt sống được đem vào kinh sư. Do dụng ý 

chia rẽ nhân tâm để dân Chiêm yếu đi, vua Thánh Tông cắt Chiêm Quốc ra làm 3 nước, chia cho Bồ Tri Trì một phần 

năm đất cũ, còn bao nhiêu làm thành hai nước là Nam Phan và Hóa Anh trao cho Trà Toại và một thân vương. Còn đất 

Chà Bàn, đất Đại Chiêm và Cổ Lũy là bờ cõi cũ của ta trước đây bị Chiêm lấy mất mới trao cho hàng tướng Ba Thái làm 

Tri Phủ Đại Chiêm; Da Thủy làm Thiêm Tri Phủ; Đổ Tử Xuân làm Tru Châu Cổ Lũy được quyền tiền trảm hậu tấu đối 

với quân phiến loạn. Đầu tháng tư, quân Nam chinh về tới Nghệ An. Ngày 11 tháng tư, Trà toàn bấy lâu được ngự giá, 

vì buồn và xấu hổ nên sinh bệnh mà chết. Vua truyền chém đầu, dựng cờ trắng ở đầu thuyền đề mấy chữ: "Đầu Trà 

Toàn, vua nước Chiêm Thành" để phấn khởi tinh thần dân chúng. Ngày 22, làm lễ dâng tù tại nhà Thái Miếu ở Lam 

Kinh (Thanh Hóa) rồi tiến về Thăng Long. Tháng 6, vua hạ chiếu lấy những đất mới của Chiêm làm Thừa Tuyên 

Quảng Nam, đổi Đại Chiêm Cổ Lũy ra 2 huyện: Hà Đông, Y Giang cho thuộc phủ Thăng Hoa (nay thuộc Quảng Nam) 

đổi Châu Nghĩa Tư ra ba huyện: Bình Sơn, Nghĩa Giang, Mộ Hoa thành phủ Tư Nghĩa (nay đất Quảng Ngãi); chia Chà 

Bàn làm 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, tuy Viễn thành phủ Hoài Nhân (Quy Nhơn ngày nay) rồi tùy xa để lưu các tội 

nhân. Vua cho san (phá) cái đỉnh núi cao nhất ngoài bờ biển giáp địa giới nước Nam Ban (Phan Rang) để dựng cái bia 

làm giới hạn, gọi núi ấy là núi Thạch Bi (nay là dẫy núi giáp giới Phú Yên, Khánh Hòa chạy dài xuống bể thành mũi 

Varella). Về việc Trà Toại cho sứ sang khiếu nại với nhà Minh, vua Minh có thư sang buộc vua ta trả lại đất Chiêm 

Thành; vua Thánh Tông lấy lời lẽ nhũn nhặn, khéo léo mà xóa bỏ chuyện này. Vua Minh cũng phải thôi, ngay mấy lần 

có việc khám xét địa giới Bắc Thủy, Minh triều cũng chỉ lấy làm lệ, việc hòa hảo giữa các quốc gia phải chăng tùy theo 

tỉ lệ sức mạnh? 

14- Trận Đánh Bồn Man và Lão Qua 

Rợ Bồn Man (nay đất Trấn Ninh), và Lão Qua (nay là Luang Prabang) ở phía Tây nước ta tự ý xin lệ thuộc nước ta từ 

năm Mậu Thìn (1448), dưới đời vua Nhân Tông và đổi ra Quy Hợp. Địa phận của họ có nhiều núi rừng hiểm trở, đường 

giao thông gập ghềnh khó khăn, vì họ hay ỷ vào lợi thế sơn xuyên, thường đem quân vào quấy phá biên giới Việt 

Nam. Mỗi lần xâm phạm bờ cõi của ta, họ đều kiên kết với nhau. Năm Quang Thuận thứ 9, quan Tổng Binh Khuất Định 

cùng Đồng Tổng Binh Nghiêm Nhân Thọ, Tán Lý Quân Vụ Nguyễn Đồng phải đi đánh dẹp họ từ Long Động đến 

Mộc Châu (Mộc Châu thuộc tỉnh Hòa Bình, bấy giờ ở trong địa phận Hưng Hóa), gặp 300 tên giặc đánh tan được liền 

tiến thẳng đến Cấu Lộng trên sông Mã. Khuất Định hợp cả quân vệ Gia Hưng thuộc quyền quan Tổng Tri Lê Miễn 

tiến đến Kỳ Trúc, lại có quân hai châu Đồng, Việt và thổ binh mọi giúp sức chặn các đường xung yếu. Giặc thấy quân 

ta mạnh và có mặt khắp nơi, tan vỡ ngay. Khuất Đinh sai người lấy điều họa phúc khuyên bảo, chúng đều xin hàng 

phục. Qua năm sau, quân Bồn Man lại noi theo vết cũ. Tháng ba, vua thân chinh đi dẹp nhưng đến bến Bình Nam, nhà 

vua thấy quân ta đã thắng trận nên trở về cung. Mười năm sau tức là vào năm Kỷ Hợi, Hồng Đức thứ 10 (1479), ngày 

mồng 7 tháng sáu, vua lại hạ một bài chiếu rất dài kể tội Bồn Man. Có lẽ Ngài thấy không thể không dung tha được 

việc cướp phá luôn luôn của họ và coi họ như cái dằm trong xương nên lần này cương quyết trừ dứt cái nạn Bồn Man 

để bảo vệ nhân dân ở các miền biên giới phía Tây (Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An) đã bao nhiêu năm mất làm, mất ăn 

vì họ.    Thái Úy Sùng Quận Công Lê Thọ Vực, Phò Mã Đô Úy Thống Lĩnh Đông, Bắc quân và nhiều Đô Đốc, Đại 

Tướng, được lệnh đem 20 vạn quân tinh nhuệ đi tiểu trừ. Tháng 7, ngày 22, vua hạ chiếu thân chinh, kén 18 vạn quân 

đặt dưới quyền Đại Tướng Đô Đốc Lê Đình Ngạn, Lê Lộng, Lê Nhân Hiếu chia năm đạo đánh thẳng vào Lão Qua. 

Quân Lão Qua vỡ tan ngay. Ngày 18 tháng 10, vua tới Phù Liệt đã nghe tin đại thắng và lúc này quân ta đã chiếm 

đóng được thủ phủ của Lão Qua, chiếm được nhiều quý vật. Vua Lão Qua trốn mất. Đại quân đến hạ lưu sông Kim Sa 

(có lẽ sông này chảy ở phía Bắc, qua tỉnh Tây Khương và Tứ Xuyên), giáp Miền Điện. Triều đình Miến Điện sợ quân 

ta tiến vào nước họ, vội đưa thư đến triều đình, quân ta mới rút về. Hạ tuần tháng 1, ngự giá trở về Kinh. Mùa xuân 

năm sau, ta mở cuộc chinh phạt Bồn Man và cũng huy động tới 30 vạn binh sĩ. Ngoài tội xâm lăng bờ cõi, Bồn Man 

còn đáng ghét vì đã xui Lão Qua quấy phá nước ta. Đi đến nơi, quân Bồn Man tan vỡ ngay. Tù trưởng Bồn Man là 

Cầm Công sợ quá bỏ chạy rồi chết. quân ta vào thành đốt phá, dân Bồn Man có chừng 9 vạn, sau vì chinh chiến và 

chết đói, còn độ vài ngàn người. Vua Thánh Tông chia đất Bồn Man làm bảy huyện, đặt ra phủ Trấn Ninh và cho 

quan đến cai trị, nhưng ngài vẫn phong thân nhân của Cầm Công là Cầm Đồng làm Tuyên Úy Đại Sứ để trông nom thổ 

dân. Xét các võ công trên đây, ta thấy đời Hồng Đức đã thanh toán được một cách khả quan vấn đề biên giới. Chiêm 

Thành, Lão Qua quấy rối nước ta từ đầu Thiên Chúa kỷ nguyên, hết đời nọ đến đời kia, gây nên hận thù truyền kiếp. 

Ta dầu muốn yên họ cũng không để ta yên, chỉ vì các dân tộc này ngu muội không tự lượng sức mình lại có tính hiếu 

chiến, thật là tự chuốc lấy cái vạ diệt vong, sau này họ lại có thói a tòng với các vương triều Trung Quốc đánh vào 

hậu tuyến của chúng ta mỗi khi Việt Nam giao tranh với Bắc phương. Tỉ dụ trong cuộc chiến tranh giữa Mông Cổ với 

Việt Nam hoặc trong thời Minh thuộc, đã có khi họ lĩnh việc "Bắc tiến" (!), có khi họ lừa dối sang giúp ta đánh quân 

Minh thì là lúc họ phản ta, vua Lê Thái Tổ trong những ngày tháng khởi nghĩa đầu tiên đã lao đao vì ngón độc thủ 

của họ (Lão Qua). Giờ đây, dân họ bị tiêu diệt, nước bị qua phân không phải là vô cớ và oan uổng. Vua Lê Thánh 

Tông khi huy động đại quân mở cuộc Nam chinh đã tuyên cáo quốc dân "Rửa cái hổ của các tiền triều" tức là nhắc 

con dân Việt Nam cái thù truyền tử nhược tôn giữa ta với các man dân lân cận. Nếu chẳng cay nhau đến tột bực, có lẽ 

đâu quân lực toàn quốc nhót 30 vạn mà tung ra hết, thì ta hiểu triều đình của ta quyết liệt đến thế nào với Chiêm 

Thành, Lão Qua và Bồn Man. Lại xem việc cướp phá thành, đặt quận huyện thì rõ rệt nhà vua đã thực hiện câu không 

đội trời chung với các địch quốc dị chủng. Sau mấy chiến công oanh liệt này, các nhà chép sử phải ghi rằng: cuối thế 

kỷ XV, đời Hồng Đức đã gỡ được cho dân tộc cái họa biên cảnh miền Tây, Nam. Ngoài những thắng lợi về chính trị, ta 

còn đoạt được thắng lợi về đất đai cùng kinh tế nữa. Từ đó, ta thu được nhiều thuế má, sản vật quý giá (yến sào, đồi 

mồi, ốc trai, sừng tê, sà cừ, tơ lụa, các tượng đá rất đẹp, voi v.v...) Lại do sự xúc tiếp Việt Chiêm mật thiết hơn hết thảy 

bao giờ, ta cũng lượm được của họ ít nhiều điều hay về ca nhạc, kiến trúc, tập tục khoáng đạt khiến nền văn hóa của ta 

được phong phú thêm. 

15- Văn Trị Của Nước Ta Dưới Đời Hồng Đức 

Trình độ văn học nước ta đến Lê triều đã tới mức khả quan. Nó bắt nguồn mạnh mẽ từ đời Tiền Lê, qua đời Hậu Lý. 

Trong mười thế kỷ Bắc thuộc, việc học mới kể là sơ khai, tuy ta đã có một số người văn tự. Từ Lý, nó đã có một cái gì 

là nền tảng, vì các khoa thi, việc tuyển trạch nhân tài đã đều đều, đến đời Trần thì văn học của ta có đà tiến. Nhờ có 

mấy thế kỷ độc lập liên tiếp, việc văn học không hề bị gián đoạn, cho đến cả thời Minh thuộc hai chục năm, việc học 

của dân ta cũng không ngừng lúc nào (các quan nhà Minh cũng đôn đốc mở các trường học khắp nước và trọng dụng 

nhân tài để giúp họ). Ngay cả khi vua Lê Thái Tổ đang kháng chiến tại Đông Đô (năm Bính Ngọ, 1427), ngài cũng có 

mở khoa thi. Trong khoa thi này, bọn ông Đào Công Soạn 26 người đỗ Giáp Đệ và 6 người đỗ Ất Bảng. Rồi cuộc bình 

định vừa xong, vua Thái Tổ mở luôn khoa Minh Kinh lấy các ông Trịnh Thuấn Du, Phan Phù Tiên, Nguyễn Thiên 

Túng, Võ Văn Trinh, Nguyễn Khắc Hiếu là những danh thần của hai triều sau này. Năm Thuận Thiên thứ tư (1431), 

Thái Tổ mở khoa Hoành Từ, kén con cháu các quan, các thanh niên tài tuấn trong dân chúng vào làm học sinh thi cận, 

thị ngự tiền và giám sinh ở Quốc Tử Giám, sung làm sinh đồ các phủ. Khoa thi Tiến Sĩ thứ nhất đời Lê là khoa Nhâm 

Tuất năm Đại Bảo thứ ba, có tới 450 người ứng thí, có 33 người trúng cử, 3 vị nhất giáp tam khôi đều còn thanh niên cả, 

đáng kể nhất là Trạng Nguyên Nguyễn Trực 26 tuổi, Bảng Nhỡn Nguyễn Như Đỗ 19 tuổi, Thám Hoa Lương Như Học 

ngoài 30 tuổi, nổi danh cả ở Trung Quốc (Nguyễn Trực đi sứ được người Tàu cho đỗ Trạng Nguyên bên ấy). Với các 

khoa thi sau, số thí sinh càng nhiều thêm, rồi đến đời Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ tư (1436), số cống sĩ lên đến 

1400 người. Việc học thịnh đến như vậy là nhờ chỗ nhà Vua rất sùng thượng việc văn học. Ngài mở rộng nhà Thái 

Học, hàng năm tế đức Khổng Tử long trọng, đặt ba lớp Quốc Tử Giám, lấy thêm sinh viên lưu trú, làm kho bí thư để 

chứa các sách. Cách của Ngài cho kén nhân tài nhằm vào đức hạnh rồi mới đến văn học và do sự tuyển lựa trước của 

Hương Lý, thí sinh mới được đệ đơn thi.     Năm Nhâm Ngọ (1462), Quang Thuận thứ ba, Ngài định cứ ba năm một kỳ 

thi, năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội. Thi Hương thì cứ nhằm vào những năm Tỵ, Mão, Ngọ, Dậu; thi Hội vào 

những năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất. Trong nước, ngài đặt 12 trường thi Hương; 7 trường tại Sơn Nam, Phụng Thiên, Hải 

Dương, Kinh Bắc, Sơn Tây, Thanh Hoá, Nghệ An. Mỗi trường có 4 quan giám thí do Hàn Lâm Viện cử ra. Còn năm 

trường: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn, An Bang. Mỗi trường có hai quan giám thí do tòa Thừa và 

tòa Hiến ở đấy cắt ra. Ngài ban tờ dụ "Khuyến Học" cho sĩ tử toàn quốc, lời lẽ đầy đủ như cha dạy con, thày bảo trò, 

thật là ân cần tha thiết, điều hơn lẽ thiệt chỉ rõ như ban ngày, nhờ vậy làn sóng văn học tràn khắp nơi Kinh kỳ ra ngoài 

dân dã. Số người tài cao học rộng mỗi ngày một nhiều. Năm Nhâm Ngọ (1462) cả 12 trường thi có tới 60000 người dự 

thì rõ việc học khả quan thế nào. Số cống sĩ khoa Tiến Sĩ Ất Mùi, Hồng Đức thứ sáu (1475) tăng lên gấp ba. Số người 

này trước kia không quá hai ba chục, từ đó lên tới 60 mỗi khoa. Đỗ Trạng Nguyên tức là đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ 

nhất danh được hàm chánh lục phẩm. Bảng Nhỡn tùng lục phẩm. Thám Hoa chánh thất phẩm. Hoàng giáp tức nhị giáp 

tiến sĩ xuất thân, tòng thất phẩm. Tam giáp đồng tiền sĩ xuất thân hàm chánh bát phẩm. Các tân khoa đầu tiên được 

Viện Hàn Lâm, sau theo phẩm trật được bổ Giám Sát Ngự Sử, Tri Phủ, Tri Huyện. Để tỏ lòng tôn trọng nhân tài, vua 

Thánh Tông đãi yến các vị tân khoa ở vườn Quỳnh Lâm, ban mũ áo, cờ biền cho vinh quy. Ngài còn cho dựng bia ở 

nhà Thái Học mỗi khoa, trên có bài thuật quang cảng khoa thi, nói ý tốt của nhà vua, dưới khắc tên và trú quán các vị 

tiến sĩ theo thứ tự hơn kém. Ngày 15 tháng tám năm Hồng Đức thứ 15, mười một chiếc bia tiến sĩ được dựng lên một lúc 

ở Văn Miếu thành Thăng Long, biểu dương tinh thần trọng học và hiếu học của dân tộc Việt Nam. Các ông nghè triều 

Lê kể từ khóa đầu tiên của bản triều là khóa Nhâm Tuất đều có tên trong các bia đó. Các khoa thi sau cũng được 

hưởng sự long trọng này, tiếc rằng các bia sau không dựng đúng ngày đó để việc kỷ niệm có ý nghĩa hơn đối với lịch 

sử khoa cử.  Thiết tưởng cũng nên chép ra đây ít lời khuyến cáo và khích lệ trong một vài tấm bia để tỏ lòng kỳ vọng 

của triều đình đối với kẻ sĩ: Người học trò được khắc tên vào phiến đá này rất may mắn thay. Phải mong làm điều trung 

nghĩa. Danh và thực phải giống nhau, việc làm theo sự học để thành công nghiệp lớn lao rực rỡ khiến cho thiên hạ về 

sau mong theo tiếng tốt, hâm mộ đức hay, ngõ hầu trên không phụ lòng nhân của triều đình đã hết lòng nuôi dạy, 

dưới không uổng cái công uẩn xúc của mình khi bình sinh, thì cái phiến đá này khắc ra lâu đời không nát. Nếu chỉ khoe 

văn chương bên ngoài mà thiếu đức hạnh ở trong, kiến thức học hành sai lạc, hạnh kiểm hỏng, danh giá hư thì chỉ làm 

phiến đá kia thêm vết. Ví như bất trung bất hiếu thì tên đục đi. Chẳng phải cái ý của triều đình mong cho sĩ quân tử 

như vậy; chẳng phải sĩ quân tử tự đãi mình như thế. Ôi, bé đi học, lớn ra làm cái chí cung kính chi dụng, người ta ai ai 

cũng có. Từ nay về sau phàm là người học trò sinh ở đời này, dự vào lối học này nên để ý đến. (Trích bia khóa Đinh 

Mùi, Hồng Đức thứ 18 Thân Nhân Trung soạn). Nếu xét tổng số Tiến Sĩ đời Lý Trần, (đời Trần gọi Tiến Sĩ là Thái Học 

Sinh), đến triều Thành Thái nhà Nguyễn vừa đây là 2335 vị, thì số Tiến Sĩ triều vua Thánh Tông chiếm quá 1/5, trong 

số 30 ông Trạng, Quang Thuận và Hồng Đức có tới 9 ông. Lại có điều đặc biệt bữa là cái vị khoa mục đều trẻ tuổi cả 

(Trạng Nguyên Vũ Kiệt đỗ năm 20 tuổi. Tiến Sĩ trẻ nhất là Nguyễn Nhân Thiệp, đỗ khóa Bính Tuất, mới 15 tuổi). Ngoài 

ra, triều đình còn lấy cả mhững người không đỗ đạt lớn nhưng có văn tài, đức vọng để giữ các trọng trách nữa, đủ hiểu 

quan niệm về nhân tài thời Hồng Đức rộng rãi và thực tế biết chừng nào. (Bộ Công Vụ đời nay tưởng nên lưu ý đến 

việc này). Rồi do cái chính sách thiết tha chiêu hiền đãi sĩ ấy, do cái tinh thần sùng thượng đạo đức văn học cao tột 

bực, kẻ sĩ thời đó đã hết lòng trung quân ái quốc và sau này, vận Lê nghiêng ngửa có nhiều người đã dám sát thân để 

thành nhân vậy.  

292 Việt Sử Toàn Thư 

Nhà Hậu Lê Xuống Dốc 

 V.  Lê Hiến Tông  (1497 - 1504)  

Kế nghiệp vua Thánh Tông là Thái Tử Tăng tức vua Hiến Tông. Thái Tử là con cả trong số 14 con trai và 20 con gái 

của nhà Vua. Vua Hiến Tông là một ông vua thuần hòa, thông minh, không hề gắt với ai bao giờ và kẻ có lỗi còn được 

Ngài khuyên như êm ái. Chính sách của Ngài là tiếp tục sự nghiệp của tiền triều, mọi mối giềng khuôn phép đều nhất 

nhất để nguyên vẹn. Có lẽ Ngài không có sáng kiến nên chỉ lo theo đuổi đường lối của vua Thánh Tông để lại, và như 

ta thấy, số quần thần cũ vẫn đông đủ, trước kia với Thánh Tông thì nước ta được mở mang nhiều, vậy mà với Hiến 

Tông ta không thấy có sự tiến bộ hay sự mới lạ nào hết. Phải chăng vì Hiến Tông cho rằng chính sách cũ của vua cha 

đã tận thiện, tận mỹ rồi chớ phải đâu số nhân tài của tiền triều để lại vẫn đủ nay vua Thánh Tông qua đời lại không 

làm nổi thêm việc gì nữa?  Theo chúng tôi, ở dưới chế độ quân chủ, độc tôn, vận mệnh và sự tiến hóa của dân tộc 

thường chịu quá nhiều ảnh hưởng của vị chúa tể. Nước sinh phát đạt, nhân tài nẩy nở nhiều, chính sự được giải quyết 

mỹ mãn. Trái lại, với một ông vua tầm thường thiển cận thì bộ máy nhà nước bị ngừng trệ hoặc thoái bại, mặc dầu nước 

có người hiền và dân có khả năng tiến hóa... Nhờ có uy thế của tiền triều từ trong ra ngoài nên dưới đời Hiến Tông tuy 

không có sự tiến bộ nào hơn thuở trước nhưng nước vẫn được yên ổn. Hiến Tông chú ý nhiều đến việc nông tang, đê 

điều, sông ngòi, đắp đường làm guồng nước để tiện nghề cầy cấy. Đối với việc văn học, nhà vua cũng trông nom 

chăm sóc. Tóm lại vua Hiến Tông là một ông vua bảo thủ và nhà Hậu Lê đến đời vua Thánh Tông đã làm cho dân tộc 

Việt Nam cường thịnh đến mực nào thì đó là mực chót. Ta còn phải nghĩ rằng may cho dân tộc là vua Thánh Tông đã 

làm khá nhiều việc. Vua Hiền Tông trị vì được 7 năm thì mất thọ được 44 tuổi. Sau Ngài , dòng họ Lê bắt đầu suy 

nhược như nhiều vương triều khác.   

VI.  Lê Túc Tông  (1504- 1505)

 VII.  Lê Uy Mục  (1505 - 1509)  

Người con thứ ba của vua Hiến Tông tên là Thuần lên ngôi sau khi Hiến Tông qua đời, tức là Túc Tông. Sau 6 tháng ở 

ngôi Túc Tông mệnh một. Anh Ngài là Tuấn được triều đình tôn lập tức là vua Lê Uy Mục. Vừa nắm được quyền hành, 

Uy Mục đã giết ngay bà tổ mẫu Thái Hoàng Thái Hậu, quan Lễ Bộ Thương Thư Đàm Văn Lễ và quan Đô Ngự Sử 

Nguyễn Văn Bật để trả cái thù trước đây, khi vua Hiến Tông qua đời, ba người này không tán thành việc mình lên 

ngôi. Lê Uy Mục rất tàn ác, say mê tửu sắc, đêm nào cũng uống rượu với cung nhân, lúc sau quá chén thường đem 

giết cung nhân. Cái thú khác của Uy Mục là bắt quân sĩ lấy gậy đánh nhau để mua vui trong khi người ta vỡ đầu, xẻ 

tai. Tính hung bạo và vô nhân đạo của Uy Mục khiến dân bất phục vì vậy trong nước xẩy ra nhiều giặc giã, trộm cướp. 

Rồi Uy Mục biết mình không được cảm tình của dân chúng nên phải dùng một số ngoại thích có sức mạnh vào cung 

làm túc vệ, do sự kiện này, Mạc Đăng Dung, cháu bảy đời Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, lúc hàn vi làm nghề đánh cá ở 

Hải Dương nhờ sức khỏe và võ nghệ hơn người, đỗ Đô Lực Sĩ, được trọng dụng dần tới chức Đô Chỉ Huy Sứ là một võ 

chức tối cao trong triều đình, sau này đã gây nên một cuộc đảo lộn thời cuộc trên nửa thế kỷ (1527-1529). Ngoài ra, 

vua đã thất chính như vậy, thì không lạ gì một số công thần cùng tông thất bị đánh đuổi, dân gian bị hà hiếp hay có 

nhiều đại thần bỏ quan trốn đi nữa. Sứ Tàu qua Việt Nam nhận thấy Uy Mục bạo ngược, phản trắc, gọi Uy Mục là Quỷ 

Vương. Tháng chạp năm Kỷ Tỵ (1509) cháu vua Thánh Tông là Oanh tức Giả Tu Công là anh em thúc bá với Uy Mục 

bị bắt giam, đem tiền lót cho quân canh ngục trốn thoát về Tây Đô, triệu tập được các cựu thần, đem quân áp đảo 

thành Thăng Long bắt Uy Mục và Hoàng Hậu Trần Thị đem giết. Cuộc đảo chính thành công, Giản Tu Công lên ngôi 

tức vua Tương Dực.  

VII.  Lê Tương Dực  (1510 - 1516)  

Ông vua thứ bảy của nhà Hậu Lê cũng không hơn gì Uy Mục, trái lại còn xa xỉ và đàng điếm hơn. Mực sống của dân 

chúng đang bốc cao dưới mấy đời vua trước bắt đầu ngưng trệ, kho tàng của nhà nước cạn sạch dần. Vua ủy cho Vũ 

Như Tô xây một chiếc Cửu Trùng Đài và một cái đền 100 nóc. Quân dân nhật dạ làm luôn mấy năm không xong, hao 

tốn tiền và sinh mạnh rất nhiều. Vua lại cho đóng thuyền và tổ chức những đội binh phụ nữ để chèo thuyền rong chơi 

múa hát ở Tây Hồ. Trong đám phụ nữ mua vui cho nhà vua có cả các cung nhân của tiền triều, đáng lẽ vua phải kiêng 

kỵ điều đó nhưng nhà vua cũng chẳng đếm xỉa đến luật lệ của hoàng gia, đạo đức của dân tộc nên tư thông với cả bọn 

người đó. Vào cái thời người ta còn sùng thượng nền luân lý Khổng Mạnh, đây là cái điểm đáng chú ý và càng không 

thể tha thứ nếu những kẻ vi phạm lại là các vua chúa, những người đáng lý phải làm gương mẫu cho trăm họ. (Sứ nhà 

Minh phê bình vua Tương Dực có tướng lợn, đó là điềm loạn vong sắp xẩy ra). Việc thuế má đời bấy giờ vẫn theo các 

đời trước nhưng không rõ hàng năm thâu hoạch được những gì cho nhà nước. Sử chỉ chép dưới đời vua Tương Dực 

thuế vàng và thuế bạc đồng niên thu được: Vàng thập, thứ tốt nhất gọi là "kiêm kim" được 480 lượng; vàng cửu 2883 

lượng; bạc 2930 lượng. Nay vua Tương Dực lập lại thể lệ và thu được là:  Vàng "kiêm kim" 449 lượng; vàng cửu 2901 

lượng; bạc 6125 lượng. Số vàng bạc thu vào kho tùy nhà vua tiêu dùng theo sở thích. Việc văn học không thấy nói có 

phát triển được phần nào duy có ông Vũ Quyền làm quan Binh Bộ Thượng Thư soạn xong được bộ Đại Việt Thông 

Giám gồm hai phần, từ thời Hồng Bàng đến giai đoạn Thập Nhị Sứ Quân là ngoại kỷ. Còn từ nhà Đinh đến đời Hậu Lê 

là bản kỷ, tất cả có 26 quyển, ông Lê Trung được viết bài tổng luận.

 Các Mối Loạn 

Thế kỷ XVI của nhà Hậu Lê đã đánh dấu bằng nhiều mối loạn ly trong nước, điều dĩ nhiên phải sinh ra khi quốc chính 

bại hoại. Một số lương thần như các ông Lê Trung, Lương Đắc Bằng v.v... người thì già người thì chết, người thì cáo 

quan về ở ẩn, không còn người đứng đắn đủ uy tín ngăn cản những hành động trái lẽ của vua Tương Dực và giữ vững 

triều cương. Đây là dịp những kẻ chọc trời khuấy nước và bất mãn với chế độ tập hợp dân chúng đói khổ nổi lên 

chống lại triều đình. Tình trạng này ngày càng mở rộng vết đau thương của trăm họ. Trần Duy Nhạc và Ngô Văn Tổng 

dấy quân ở Kinh Bắc hoành hành khắp vùng Đông Ngạn và Gia Lâm. Trần Tuân đánh phá Sơn Tây. Phùng Chương 

quấy miền Tam Đảo. Trần Công Ninh chiếm giữ Yên Lãng (Phúc Yên). 

Tại Nghệ An có bọn Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Văn Triệt vùng vẫy. Đáng kể kiệt hiệt là thầy chùa Trần Cao mạo xưng con 

cháu họ Trần cùng con là Thăng, tướng là Phạm Ất người Chiêm Thành thấy sấm nói ở phương đông có thiên tử khí 

cùng với đồ đảng dấy quân ở huyện Thủy Đường chiếm đóng tỉnh Hải Dương và huyện Đông Triều tuyên truyền 

mình là Đế Thích giáng sinh. Nhân dân nhẹ dạ lại tin chuyện quỷ thần, theo Trần Cao tới hàng vạn. Bọn này tiền binh 

đóng ở Bồ Đề bên kia sông Nhị Hà sửa soạn tấn công thành Thăng Long. Nội bộ Lê triều trong giai đoạn rối ren này 

đáng kể là nghiêm trọng.  Quân của triều đình sang đánh. Trần Cao lui về Châu Sơn thuộc phủ Từ Sơn (vẫn trong địa 

hạt Kinh Bắc). An Hòa Hầu là Nguyễn Hoằng Dụ đem binh ngăn đón loạn quân tại Bồ Đề phòng vệ kinh đô. Đáng lẽ 

vua Tương Dực phải tỉnh ngộ, phải sửa đổi tư cách để định quốc an dân trong tình thế nhiễu nhương này, trái lại nhà 

vua vẫn giữ mọi tính hư hèn, khinh rẽ, bạc đãi các đại thần và do đó tự đào hố chôn mình. Nguyên Quận Công Trịnh 

Duy Sản vốn có công đánh giặc từ lâu, nhưng vì trực tính, hay can vua trong các việc đàng điếm, nhà vua không bằng 

lòng, và có lần hạ lệnh đánh họ Trịnh trước sân rồng. Uất ức cho thân thế mình là kẻ rường cột của nhà nước bị nhục 

một cách vô lý, Trịnh mưu cùng các thủ túc là Lê Quang Độ và Trịnh Chí Sấm sẵn binh đội trong tay giả tiếng đi đánh 

giặc nửa đêm đem quân phá cửa Bắc Thần vào giết vua Tương Dực. Vua Tương Dực trị vì được 8 năm, thọ 24 tuổi.  

IX.  Lê Chiêu Tông 

X.  Lê Cung Hoàng  (1516 - 1527)  

Theo Việt Nam Sử Lược cũng như nhiều cuốn sử do người Pháp viết (Cours d'histoire D'Annam par Maybon et 

Russier. Pays d'Annam par C.Luro v.v...) trong khi nhà Hậu Lê xuống dốc có nhiều sự lộn xộn và rất bi đát dưới đây: 

Sau khi vua Tương Dực bị hạ sát thì bọn Trịnh Duy Sản họp các quan trong triều tôn lập Mục Ý Vương là Quang Trị 

mới lên 8. Một người không tán thành là Võ Tá Hầu Phùng Mại bàn nên lập cháu ba đời vua Thánh Tông là _ con của 

Cẩm Giang Vương lúc đó đã 14 tuổi. Bọn Trịnh Duy Sản sẵn lực lượng quân sự trong tay thấy có sự phản đối liền đem 

chém ngay Phùng Mại tại giữa Nghị Sự Đường, có lẽ để ra oai với những phần tử khác còn lưỡng lự hoặc có ý chống 

họ. Quang Trị lên ngôi chưa kịp đặt niên hiệu thì Trịnh Duy Đại anh của Trịnh Duy Sản cầm đầu phe đối thủ của Sản 

cướp thiếu quân đem vào Thanh Hóa. Quang Trị vào Tây Kinh được ba hôm thì bị giết, vì lý do gì không thấy sử nói 

tới. Còn Cẩm Giang Vương là _ nói trên được bọn Trịnh Duy Sản tôn lập thay cho Quang Trị tức là Chiêu Tông rồi đưa 

vào Tây Kinh, có lẽ tình thế bấy giờ khẩn trương lắm. Giặc Trần Cao lợi dụng sự bối rối của triều đình liền tiến qua 

sông Nhị đánh vào kinh thành rồi tiếm hiệu xưng vương ở đây. Thế giặc lúc này rất lớn. Triều đình vào tới Tây Kinh 

truyền hịch đi mọi nơi tập trung quân đội ra Đông Đô trừ giặc. Đứng đầu các tướng lĩnh và cựu thần bấy giờ là bọn 

Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ, Trịnh Tuy, Trần Chân chia binh đánh vào Đông Đô, vây hãm các các mặt khiến 

Trần Cao phải bỏ chạy lên Lạng Sơn. Triều đình lại trở về Đông Đô là Trịnh Duy Sản được cử đem quân đuổi theo 

Trần Cao. Trịnh khinh địch bị tử trận và giặc sau khi hạ được họ Trịnh quay lại Bồ Đề nhưng bị Thiết Sơn Bá, Trần 

Chân phá được. Trần Cao lại rút về Lạng Sơn thấy không thực hiện được giấc mộng Bá Vương nên nhường binh 

quyền cho con là Thắng rồi cắt tóc đi tu để tránh mọi sự truy tầm.    Trong lúc này vua Chiêu Tông vẫn làm vua nhưng 

với cái tuổi 14 dĩ nhiên ông vua thơ ấu ấy không làm nổi việc gì. Ông thành bù nhìn hay con người máy của các đại 

thần và các chúa phong kiến. Giờ đây giữa triều đường các phe đảng mọc ra như nấm, ai ai cũng nêu danh nhà vua để 

hành động và tranh giành ảnh hưởng trong lúc từ thôn quê ra tới thành thị giặc cướp hoành hành, nhân dân nheo 

nhóc đói khổ. Rồi các đại thần thù hằn nhau, đem quân đánh lẫn nhau, chẳng một ai không vỗ ngực phò vua, giúp 

nước, an dân... Trịnh Tuy bất hòa với Nguyễn Hoằng Dụ. Hai bên đánh nhau mãi, vua can không được. Trần Chân 

đem binh giúp Trịnh Tuy, Nguyễn Hoằng Dụ phải chạy vào Thanh Hóa. 

Lại một phen nữa, Trịnh Duy Đại (kẻ cướp và giết vua Quang Trị) mưu phản bị người tố cáo nên phải giết cùng với các 

dư đảng. Trong lúc này một lực lượng thứ ba ra đời: Mạc Đăng Dung. Vua Chiêu Tông vời họ Mạc lúc này là Vũ 

Xuyên Hầu đang cầm quân ở Hải Dương về đánh Nguyễn Hoằng Dụ. Mạc Đăng Dung được thư riêng của Nguyễn 

Hoằng Dụ không đem quân vào Nam nữa. Trong triều bấy giờ Trần Chân giữ nhiều quyền binh. Có người nói họ Trần 

mưu phản. Vua Chiêu Tông liền cho vời họ Trần vào thành rồi đóng cửa giết. Bộ tướng của Trần Chân là Hoàng Duy 

Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng nghe tin họp quân đánh phá kinh thành. Vua phải xuất bôn, cho người vào Thanh 

Hóa mời Hoằng Dụ ra nhưng Hoằng Dụ từ chối, nhà vua lại phái sứ giả qua Hải Dương tìm Mạc Đăng Dung vì không 

còn trông cậy vào ai được nữa. Mạc Đăng Dung đem vua về Bồ Đề cho người mật dụ Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính. 

Bọn ấy xin giết Chư Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bình đã xui vua hại chủ tướng của họ, rồi sẽ về hàng. Vua ưng theo giết ba 

người kia, vậy mà bọn phiến loạn vẫn không chịu giải binh. Chúng lại liên kết với lũ Trịnh Tuy, Nguyễn Sư lập Lê Do 

lên làm vua đóng hành điện ở Từ Liêm. Thế giặc rất mạnh, vua lại cho triệu Hoằng Dụ ra để hợp lực cùng Mạc Đăng 

Dung đối phó với loạn quân, Hoằng Dụ đem quân ra đánh trước bị bại trận lại phải rút về Thanh chỉ còn họ Mạc trở lại 

để giải quyết tình thế. Được ít lâu họ Mạc trừ được bọn Lê Do, Trịnh Tuy và Nguyễn Sư, bắt được Trần Cao, hàng 

phục được Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng rồi phò vua trở lại kinh thành. Quyền binh của triều đình từ 

đấy lọt sang tay Mạc Đăng Dung và thanh thế họ Mạc từ đó bốc lên rất mạnh. Triều đình bấy giờ chia làm 2 cánh: một 

phò Mạc Đăng Dung, một chống lại Đăng Dung. Trong những người không tán thành quyền lực mới, có kẻ bị giết, có 

kẻ cáo quan ra về. Vua Chiêu Tông ngầm bàn với bọn Phạm Hiến, Phạm Thứ dùng võ lực trừ khử Mạc Đăng Dung và 

cử người vào Tây Kinh bảo Trịnh Tuy đem binh ra tiếp ứng. Sau khi âm mưu này đã được quyết định, nhà vua trốn lên 

Sơn Tây ngay đêm ấy để tính việc ra binh. Sáng hôm sau Mạc Đăng Dung hay tin biến, liền cử Hoàng Duy Nhạc đem 

quân đuổi theo nhưng Nhạc tới huyện Thạch Thất thì bị quân sở tại giết được. Mạc Đăng Dung liền lập ngay Hoàng 

Đệ lên thay tức là Cung Hoàng đổi niên hiệu là Thống Nguyên để yên lòng dân. Mạc Đăng Dung sợ quân đội của vua 

Chiêu Tông sẽ đánh vào kinh thành nên thiên cả triều đình mới về đất Gia Phúc nay là Gia Lộc tỉnh Hải Dương. Xét 

việc này, ta thấy lực lượng của thuở ấy cũng khá mạnh bởi được hào kiệt các nơi theo về rất nhiều nên họ Mạc phải di 

chuyển triều đình mới đi nơi khác. Tiếc thay vua Chiêu Tông phần còn ít tuổi, phần bất tài nên không đối phó nổi với 

thời cuộc trong một giai đoạn vô cùng nghiêm trọng. Vua chỉ nghe bọn hoạn quan Phạm Điền, các việc quan trọng 

đáng lẽ phải bàn với các đại thần và tướng lĩnh. Dần dần, lòng người chán nản, rời rã. Vua lại cho vời Trịnh Tuy ở 

Thanh Hóa đem binh ra giúp mấy lần nhưng Trịnh Tuy do dự, có lẽ cũng hiểu qua tình trạng của vua Chiêu Tông. Sau 

Trịnh Tuy cũng thuận lòng đem ra Bắc Hà hơn một vạn binh sĩ. Một việc vụng về đã xẩy ra. Vua Chiêu Tông nghe lời 

bọn Phạm Điền giết Nguyễn Bá Kỷ, thuộc tướng của Trịnh Tuy làm cho Trịnh bất bình. Trịnh liền bắt vua đem về 

Thanh Hóa, thật là một việc vô tình đã trực tiếp dọn đường sửa lối cho Mạc Đăng Dung bước vào Thăng Long nắm 

lấy địa vị chúa tể Bắc Hà. Không một ai chối rằng đất Bắc thuở ấy là cái nhà vô chủ bỏ ngỏ? Năm Giáp Thân (1524) lực 

lượng Nam Hà của vua Chiêu Tông và Trịnh Tuy bị binh tướng miền Bắc tấn công tại chỗ, Trịnh Tuy thua trận rồi 

chết, vua Chiêu Tông bị bắt cũng bị hạ sát ở Đông Hà thuộc huyện Thọ Xương, làm vua được 11 năm, thọ 26 tuổi. Vua 

Chiêu Tông mất, lịch sử Việt Nam mở màn cho một triều đại mới: triều Mạc. Và từ đây tấn trò tam phân ngũ liệt đã diễn 

ra trên sân khấu Việt Nam làm đổ chan hòa biết bao nhiêu máu và nước mắt của con dân đất Việt từ sông Nhị Hà tới bờ 

Nhật Lệ.  

299 Việt Sử Toàn Thư 

 Phần 3 - Chương 11 

Nhà Mạc  (1527-1667)  

- Mạc Đăng Dung (1527-1529) 

- Mạc Đăng Doanh (1530-1540)

 - Mạc Phúc Hải (1541-1546)

 - Mạc Phúc Nguyên (1546-1561) 

- Mạc Mậu Hợp (1562-1592) 

 I. Mạc Đăng Dung (1527-1529) 

1- Tình Trạng Việt Nam Đầu Thế Kỷ 16 

Đầu thế kỷ 16, vua Thái Tổ nhà Hậu Lê, với sự hậu thuẫn mạnh mẽ và kiên quyết của toàn dân, đã lập lên một sự 

nghiệp bất hủ trong sử xanh là đánh đuổi được quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, sau 10 năm chiến đấu đầy hy sinh gian 

khổ. Từ Thái Tổ đến Thánh Tông, hùng khí của dân tộc Việt Nam mạnh như sóng cồn, nếu đem so sánh Việt Nam với 

các lân quốc Á châu thì ta có thể tự hào rằng mình là một quốc gia cường thịnh bậc nhất ở Đông Nam Á về mọi 

phương diện. Văn trị, võ công rạng rỡ đến thế là tột bực, đến cả vấn đề cương vực cũng được mở rộng hơn bao giờ 

hết. Ta nhớ rằng dưới đời Hậu Lê, biên giới Việt Nam đã đi sâu vào đất Chàm, vua Thánh Tông đã xua đuổi Chiêm 

quân đến Phan Lung rồi chia Chiêm quốc thành ba tiểu quốc. Trong giai đoạn lịch sử này, ngó về cục diện Âu châu, ta 

thấy nước Pháp vừa mới phục hồi được ít lâu sau cuộc Bách niên chiến tranh (Guerre de cent ans) và nước Anh còn 

đang đau khổ trong các cuộc khói lửa vô cùng tàn hại (Guerre des deux Roses) trên khắp mọi nơi trên đảo quốc. Đây là 

nhận xét của giáo sư Jean Chesneaux, tác giả cuốn "Contribution à l'histoire de la Nation Vietnamienne", xuất bản tại 

Ba Lê (1955), kể ra để khen ngợi với đời Hồng Đức nước Việt Nam đã văn minh thịnh trị, ngay so cả với nhiều nước lớn 

ngày nay ở Âu châu vào thời ấy. Đáng tiếc đến hết đời vua Thánh Tông thì cái đà tiến hóa của dân tộc bị ngừng lại. 

Lý do của sự ngừng tiến là bởi các vua kế vị Thái Tổ, Thánh Tông, Hiến Tông đều nhỏ tuổi cả và như thế kém cả tài 

lẫn đức nên không những không thúc đẩy thêm được cái đà tiến hóa của dân tộc mà còn đi đến chỗ dật lùi rồi dần sa 

vào hố suy vong. Từ vua Tương Dực tới Chiêu Tông và Cung Hoàng, vương quyền bại hoại rõ rệt, do đó các đại thần 

tướng lĩnh tha hồ mà tranh giành quyền hành. Mối loạn bắt đầu. Tính ra từ vua Thái Tổ đến Cung Hoàng là lúc khởi 

sự cường thịnh, đến lúc tàn tạ vừa đúng một thế kỷ (1428-1527), sau 10 vị vua lớn nhỏ. Theo tác giả "Xã hội Việt 

Nam", khi nhà Hậu Lê mới dấy nghiệp, các lãnh tụ phong kiến đều vừa là quan liêu vừa là địa chủ. Bấy giờ họ còn non 

nớt và còn biết e dè uy quyền của nhà vua xây dựng trên những nguyên tắc thương dân thương nước, họ chưa dám 

tác yêu, tác quái. Các quyền lợi của họ một phần đã do ân sủng vì công lao chiến đấu với vua Thái Tổ trước đây mà 

có, sau này lại do sự bóc lột dần dần mà lớn lên mỗi ngày, buổi đầu là do những căn nguyên chính đáng rồi sau do 

chỗ lạm quyền lạm thế. Tới khi uy quyền của nhà vua sút đi thì uy quyền của họ lại mạnh thêm. Ngoài ra, giữa các 

quan liêu, phú hào, họ càng đông thì mầm chia rẽ càng nhiều, rồi một cơ hội đã thuận tiện cho mầm chia rẽ đó là nước 

Đại Việt từ thế kỷ XV đã thành một quốc gia rộng lớn nhưng nền kinh tế phát triển không kịp, lãnh thổ chia sẻ quá 

nhiều vào các quan liêu, phú hào, sau này triều đình yếu hèn quá không kiểm soát nổi họ. Rồi bọn này mạnh bao 

nhiêu, sự bóc lột và áp chế nhân dân nhiều bấy nhiêu. Dân có đau khổ mà kêu trời thì "thiên cao, hoàng đế viễn". 

Trong cái tình trạng bế tắc ấy, chính người dân cũng muốn phiến động để tìm ra lối thoát. Thế là giữa các phần tử của 

chính quyền đã có sự cạnh tranh chia rẽ mà chính quyền vì không bênh vực nổi quyền lợi của nhân dân nên đối với 

nhân dân cũng thành giáo, mộc, thù nghịch, thì xã hội Việt Nam sớm chầy phải tan rã và đi sang một thế khác. Đó là lý 

đương nhiên. Cái không khí nghẹt thở ấy đã phát sinh từ đời vua Uy Mục đến Chiêu Tông, luôn 20 năm ròng rã mới 

nẩy ra cuộc biến loạn trên toàn cõi Việt Nam kể cũng đã muộn. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu ba nhân vật đã tranh 

hùng, tranh bá, đã chịu trách nhiệm làm tan rã nền thống nhất của nước nhà và đã gây nên bao nhiêu cảnh núi xương, 

sông máu từ Cao Bằng vào tới bờ sông Nhật Lệ: Mạc Đăng Dung, Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng.

 2- Tiểu Sử Của Mạc Đăng Dung 

Mạc Đăng Dung thuộc dòng dõi Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi và là cháu 7 đời của ông, quê ở Đông Cao, một làng 

thuộc huyện Bình Hòa, tỉnh Hải Dương. Huyết thống của ông như vậy đáng kể là cao quý. Sau cha mẹ ông dời sang 

làng Cổ Trai thuộc huyện Nghi Dương, tỉnh Kiến An bây giờ. Đến thế hệ của ông thì đã sa sút nhiều nên gia đình ông 

phải sinh sống bằng nghề đánh cá nhưng nhờ có sở trường võ nghệ, họ Mạc thi đậu Đô lực sĩ dưới thời vua Uy Mục, 

rồi trên hoạn lộ ông tiến bước dần đến tước Vũ Xuyên bá. Ông thăng Vũ Xuyên hầu dưới đời vua Chiêu Tông và được 

giao trọn binh quyền thuở ấy, sau khi Hoàng Duy Nhạc vì báo thù cho chủ (Trần Chân) mà gây loạn ở kinh thành. 

Theo Đặng Đình Long, tác giả "Ai vô xứ Nghệ", lý lịch của họ Mạc có những chi tiết đặc biệt như sau: Họ Mạc thuộc 

dòng dõi Cơ Chất Khiết tức là con cháu họ Cơ nhà Châu làm vua bên Trung Hoa. Gặp hồi suy vong nhà Châu mất 

nước, Cơ Chất Khiết về ở quận Trác Lộc rồi ra làm Chấp kích lang với nhà Hán. Có công nên được đổi thành họ Mạc 

và được cai trị đất Trịnh Ấp. Ngày nay ở hạt Nhâm Khâu phủ Hà Gián còn có nơi gọi là Mạc Châu, đó là chỗ phát tích 

của họ Mạc. Về sau con cháu Mạc Chất Khiết đều hiển đạt cả, rồi dần dần thiên cư về mé Nam Trung Hoa. Đến thời 

nhà Tống, họ Mạc ở đất Quảng Đông rất thịnh. Rồi một chi họ Mạc ở đất Phiên Ngung di cư sang làng Lũng Động, 

huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, rồi đến đời Mạc Hiển Tích mới phát đạt. Mạc Hiển Tích đỗ văn học thủ tuyển năm 

Bính Dần, niên hiệu Quang Hựu triều vua Lý Nhân Tông làm quan đến Thượng thư. Em Mạc Hiển Tích là Mạc Hiển 

Quan đỗ văn học niên hiệu Quang Hựu, năm Kỷ Tỵ, huynh đệ đồng triều, sự nghiệp rất hiển hách. Sau năm đời đến 

Mạc Đỉnh Chi. Mạc Đỉnh Chi hiệu là Tiết Phu, người bé nhỏ, tướng mạo cực xấu nên người ta thường cho là hầu tinh 

giáng thế. Mạc Đỉnh Chi thông minh rất mực, đỗ Trạng nguyên năm Giáp Thìn niên hiệu Hưng Long triều vua Trần 

Anh Tông, đi xứ Tầu có tài ứng đối được vua Tầu phong cho: "Lưỡng quốc Trạng nguyên" rồi về nước làm quan đến 

Đại liêu Bang Tả bộc Xa, tính rất thanh liêm, sau xin từ chức về quê dậy học. (Nay ở xã An Ninh còn di chỉ nền nhà 

học tức là Trạng nguyên cổ đường. Làng Long Động thờ làm Thành hoàng). Con Mạc Đỉnh Chi là Mạc Khán, Mạc 

Trực đều đỗ Hương Cống làm chức Viên Ngoại Lang đời Trần Dụ Tông. Đến đời thứ tư, một chi sang đất Ma Khê, 

huyện Thanh Hà rồi lại phân sang làng Cổ Trai thuộc huyện Nghi Dương. Ở Cổ Trai hai đời thì sinh ra Mạc Đăng 

Dung. Trong việc thay đổi cảnh trên sân khấu chính trị nước ta bấy giờ, ngoài việc của Chiêu Tông bại trận bị giết, 

còn lại vua Cung Hoàng, bà Thái hậu cùng đám quan liêu không thuận theo chiều gió mới bị rơi rụng là lẽ dĩ nhiên. 

Những nhân vật tuẫn tiết bấy giờ có các ông Vũ Công Duệ, Ngô Hoán, Đô ngự sử Nguyễn Thái Bạt, Lễ bộ Thượng 

thư Đàm Thận Huy, Tham chính sứ Nguyễn Duy Tường, Quan sát sứ Nguyễn Tự Cường, Bình hồ bá Nghiêm Bá Kỳ, 

Đô ngự sử Lại Kim Bảng, Hộ bộ Thượng thư Nguyễn Thiệu Trị, Phó Đô ngự sử Nguyễn Hữu Nghiêm, Lễ bộ Tả thị 

lang Lê Vô Cương, hết thảy là những người có cơm dầy áo nặng với cựu triều. Theo Việt Nam Sử Lược, họ đã mắng 

chửi họ Mạc, nhổ vào mặt họ Mạc hoặc ôm ấn nhẩy xuống sông tử vận. Đây là phản ứng kiểu tiêu cực của những kẻ 

yếu thế hay thất thế và chỉ là những hành động tuyệt vọng mà thôi. Một số người khác như Lê Công Uyên, Nguyễn 

Ngã, Nguyễn Thọ Tường đã khởi nghĩa ở Thanh Hóa bằng binh đao nhưng thất bại. Sau có Lê Ý nổi quân ở đất Mã 

Giang, mấy lần thắng được quân Mạc nhưng sau cũng bị tiêu diệt vì khinh địch. Nhà Mạc bắt đầu từ năm Đinh Hợi 

(1527), lấy niên hiệu là Minh Đức. Mặc dù họ Mạc bị một số cố thần nhà Lê không tán thành để giữ tiết tháo. Vừa ra 

nắm giữ chính quyền Mạc Đăng Dung đã ra công thu dụng các cựu thần của tiền triều, các con cháu các nhà danh gia 

vọng tộc và truy phong cả những người tuẫn tiết. 

Mạc Đăng Dung lên làm vua, theo Minh sử, có ban bố tân chính sách gồm 59 điều luật để áp dụng cấp thời về việc trị 

nước. Rất tiếc sử ta cũng như sử Tầu không nói rõ 59 điều của họ Mạc ra sao. Mạc Đăng Dung trị vì được 3 năm thì 

theo lối nhà Trần nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh rồi về ở Cổ Trai làm Thái Thượng hoàng. Tuy vậy Mạc 

Đăng Dung vẫn trực tiếp điều khiển quốc chính. Năm Canh Dần (1530) Mạc Đăng Doanh lên ngôi lấy niên hiệu là Đại 

Chính, làm vua đến năm 1540 thì mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc Phúc Hải. Mạc Phúc Hải lấy niên hiệu là Quảng 

Hòa. Từ Mạc Đăng Dung đến con cháu, triều Mạc vẫn theo đuổi những công cuộc của nhà Lê và có nhiều thiện chí 

trong việc trị dân giúp nước. Trật tự được phục hồi dần, việc canh nông được khuyến khích, việc thi cử học hành được 

mở mang. Mạc Đăng Dung lại cho đúc tiền sắt, tiền đồng để tiện dụng trong việc mua bán. Uy quyền của nhà Mạc 

nhờ vậy mà thấu khắp cõi Bắc Việt. Trong khi này các lực lượng đối lập bị dồn hết vào Thanh Hóa, Nghệ An, và 

Thuận Hóa. 

2- Vụ Trần Thiêm Bình Thứ Hai Trong Lịch Sử Việt Nam 

Trong lúc xã hội Việt Nam đi dần đến chỗ đều hòa, thăng bằng, người dân đang tu tạo sự nghiệp sau hai chục năm 

nước nhà lụn bại về mọi phương diện, một bọn quan lại nhà Lê không thắng nổi họ Mạc lại phải dùng cái chước hèn 

hạ nhất và cũng tai hại nhất là sang lậy van con cháu Minh Thành Tổ, đúng cái vai trò vô sỉ của bọn Bùi Bá Kỳ, Trần 

Thiêm Bình đã làm hơn một thế kỷ trước. Tâm lý của người Minh trước kia thế nào thì sau này cũng lại thế. Bài học lịch 

sử xưa đã ghi rằng: khi quân Minh cất quân sang đánh nhà Hồ có tuyên ngôn rằng để dựng lại họ Trần, rồi khi nhà Hồ 

bị tiêu diệt, quân Minh dở mặt lập ngay cuộc đô hộ. Vậy với chuyện thứ hai này, con cháu Minh Thành Tổ sẽ tử tế, 

nhân đức hơn chăng? Bọn Trần Thiêm Bình chưa có kinh nghiệm về Bắc phương còn tha thứ được một phần nào, chứ 

bọn cố thần nhà Lê đầu thế kỷ 16 không còn bào chữa tội lỗi vào đâu nữa. Ngoài bọn người phản đối họ Mạc bằng 

những xuẩn động này, một bọn người khác đàng hoàng hơn, giữa thanh thiên bạch nhật, tung gươm giáo đo tài thử 

sức với họ Mạc bằng thực lực riêng của mình, tuy phải khoác cái nhãn hiệu "Phù Lê" để có lớp vàng son chính nghĩa. 

Đó là Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng, Trịnh Kiểm v.v... Còn Minh Triều lần này, nghĩ ngợi thế nào về vấn đề nước Nam? 

Cuốn "Quận huyện thời đại chi An Nam" do tác giả Lê Chinh Phụ biên soạn đã kê cứu khá đầy đủ những cuộc bàn 

luận của vua tôi nhà Minh và cũng nhân đây xin nhắc cả đến những quan niệm của Trung quốc từ Hán, Đường, Tống, 

Nguyên về dân tộc và đất đai nước ta. Ai thiết tha đến sử học xin lưu ý đến đoạn này. Lê Chinh Phụ viết: Theo Minh 

Sử cuốn 182, Lưu Đại Hạ Truyện, từ vua Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông, Việt Nam là nước hùng cường đánh Chiêm 

dẹp Lào, có phen lại dám phạm cả biên cảnh các tỉnh Quảng Đông (Quỳnh Lôi), Quảng Tây (Long Châu, Hữu Bình), 

Vân Nam (Lâm An, Quảng Nam, Trấn An) các tiền triều Trung quốc cũng làm ngơ. Đến đời vua Tuyên Đức bấy giờ, 

triều Minh cũng không muốn gây sự đến Việt Nam nhưng Thái giám Uông Trực muốn được vua yêu muốn lập biên 

công, nhận thấy Lê Thánh Tông trước đây không thành công trong việc đánh Lão Qua đã dâng kế hoạch chiếm An 

Nam49. Uông Trực kiếm bản văn kế hoạch chiếm An Nam năm Vĩnh Lạc đưa ra, Đại Hạ Nặc không tán thành, mật báo 

với quan Thượng thư Du Tử Tuấn rằng: "Nếu dấy binh đánh An Nam thì miền Tây Nam Trung quốc không khỏi tơi 

bời trong khói lửa ..." Tử Tuấn nghe ra liền đề nghị bãi bỏ ý kiến của Uông Trực. Vương Miễn phụng mệnh Minh đế 

qua khám xét việc rối ren do An Nam gây ra tại Quảng Đông trở về cũng xin động binh để hạch tội Lê Thánh Tông liền 

bị giam vào ngục Cẩm Y Vệ (Thật đáng ngạc nhiên là không thấy cuốn sử Việt Nam nào nói đến vụ này). Chiếu xét các 

việc trên đây ta thấy triều Minh rất kiêng nói đến vấn đề biên giới phương Nam (hẳn là do vang bóng các chiến công 

diệt Minh của Lê Thái Tổ) rồi cái tâm lý ấy đã hiện trong bài biểu của Đại Học sĩ Từ Phổ như sau: "Chúng tôi được biết 

Hoàng đế rất có lòng nhân, không phân biệt Di, Hạ. Nhưng trộm xét: Xuân Thu truyện có nói đấng vương giả không 

trị di địch, vậy việc ngự di và trị nước không cùng, nước An Nam tuy theo chính sóc quan chức nhưng vẫn là ngoại di 

cậy có thế hiểm hay chống lại thiên triều nhưng thường được các liệt thánh bỏ qua.  Chúng tôi lại thấy trong Tổ huấn 

chép: Mọi rợ bốn phía đều ngăn sông cách bể, ở hẻo lánh xa xôi, được đất của họ cũng không đủ tổn phí, được dân 

của họ cũng không đủ sai khiến; nếu họ không lượng sức mà làm bậy, xâm phạm biên cảnh của ta chỉ chuốc lấy điều 

tai hại mà thôi. Còn ta đánh dẹp cũng không nên, e con cháu sau này cậy giầu mạnh, ham chiến công nhất thời vô cớ 

hưng binh sẽ tổn hại sinh mạng dân chúng. Lời khuyên bảo của Liệt thánh thật là quảng đại, xác đáng cho vạn thế 

huống chi ngày nay binh mã mạnh yếu thế nào chưa rõ, hao tổn tiền bạc nhiều để chiếm mảng đất không cỏ mọc 

chẳng là một việc vô ích thì lại càng không nên". Ngự Giao Ký quyển 8 có ý phản đối như sau: Bọn Từ Phổ coi nước 

An Nam là ngoại di, đất An Nam không cỏ mọc, việc đánh An Nam là vô ích. Họ đã quên rằng từ đời Tống trở về trước 

Giao Chỉ đã thuộc Trung quốc hơn ngàn năm. Trong khoảng thời gian dài rằng rặc này, An Nam đã chịu một chế độ 

chính trị, văn hóa như các quận huyện của người Hán. Là một Đại học sĩ mà không hiểu biết một sự thực trong một 

ngàn năm lịch sử há chẳng là điều quái gở sao?                                       

[ 49 Việc này không đúng vì vua Lê Thánh Tông, trái lại có đánh qua Lão Qua và thành công. Uông Trực nghe lầm 

hay cố ý xuyên tạc sự thật để lập biên công chăng? ]

Năm Hồng Đức thứ 8 tháng 6 mùa Hạ, quan Trung thư nói về An Nam như sau:  

"Đất An Nam ở tận phía Tây Nam, gốc không phải là đất Hoa Hạ, phong tục riêng biệt, nếu gọi là xứ mọi rợ thì các rợ 

khác khó sánh kịp, có thể nói trái lại An Nam là một nước văn hiến nên lấy lễ độ mà dẫn dắt..." 

Ngự Giao Ký quyển 3 viết: Đức Minh Thái Tổ chưa từng có ý coi An Nam thuộc các rợ. Lời Tổ huấn mà bọn Từ Phổ 

đã nêu ra là: "Mọi rợ bốn phương trong đó không có đất An Nam" là đúng, vả lại từ Hán đến Đường, trải qua các triều 

đại khác dều cho đất Giao, Quảng là vùng đất phì nhiêu, tại sao đời Minh lại quan niệm về Giao Chỉ khác Hán, Đường? 

Ta có thể kết luận rằng đời Minh đa số triều thần ngán việc binh bị với Việt Nam, lại sợ trách nhiệm bởi thuở đó nước 

ta đang hùng mạnh, nên nói nước ta là đất cỏ không mọc được, người chẳng đủ để sai khiến, của cải chẳng là bao 

nhiêu chỉ là để làm nản lòng tham của triều đình vốn sặc mùi thực dân đế quốc mà thôi. Thực ra một số khá đông 

người Minh rất hiểu nước ta ở chỗ văn hiến, kiêng nể chúng ta ở chỗ quật cường và không dám xử với ta như với các 

dân mọi rợ. Đó là điều vô cùng vinh hạnh cho nòi giống Việt Nam. Nhưng đến đời Minh Thế Tông (1522-1566) con mắt 

của Bắc phương lại bắt đầu dòm ngó về phương Nam vì một số cố thần nhà Lê đã sang cáo tỏ mọi việc biến loạn trong 

nước. Thêm vào đó có vụ này: Năm Gia Tĩnh 15, mùa Đông nhà vua sinh hoàng tử, theo lệ thường ban chiếu cho các 

nước phụ thuộc biết để đến mừng. Lễ Bộ là Hạ Ngôn trình: Nước An Nam bỏ cống từ hai chục năm nay ... Nhà vua có 

ý bất bình rồi vấn đề Nam chinh được đặt ra bàn đi xét lại hằng tháng. Tuy đa số đình thần không tán thành như trên 

đã nói, vua Minh vẫn quyết định việc xuất binh "hỏi tội". Vua cho Hạ Ngôn họp bàn với Binh bộ để tổ chức việc xâm 

lược, một mặt cho hai quan Cẩm Y qua xét tình hình Việt Nam, mặt khác ra lệnh cho quan trấn các tỉnh Quảng Đông, 

Quảng Tây, Vân Nam chỉnh đốn quân lương đợi ngày hưng sự. Công tác cật vấn tội danh giao cho Thiên hộ Đào 

Phượng Nghi. Các tỉnh Tứ Xuyên, Hồ Quảng, Phúc Kiến, Giang Tây cũng phải dự trữ các thứ quân nhu để cung cấp 

cho đoàn quân "Nam phạt". Bộ Lễ và Bộ Binh sau đó đã ra chỉ thị cần thiết cho các tướng lĩnh viễn chinh. 

4- Một Cuộc Chiến Tranh Tâm Lý

 Quân đội của Cừu, Mao tới Nam Quan thì ngừng lại. Họ cũng tung ra lời hịch như bọn tiền bối50 của họ, rất thương 

dân An Nam và thương họ Lê rồi hứa ai bắt được cha con họ Mạc sẽ được thưởng hai vạn lạng bạc và quan tước. Bề 

khác, họ đưa thư lại cho Mạc Đăng Dung đòi phải sang nộp sổ sách điền thổ thì được tha chết. 

[ 50 Tiền bối nói đây là Trương Phụ, Hoàng Phúc... ]

Theo Việt Nam Sử Lược (trang 273): "Đến ngày 11 tháng 5 Canh Tý 1540, Mạc Đăng Dung thấy quân Minh sửa soạn 

sang đánh, sợ hãi quá chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng bọn Vũ Như Quế cả thẩy hơn 40 người, tự 

trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lậy phục xuống đất để nộp sổ sách điền thổ và sổ dân đinh, lại xin 

dâng 5 động là: động Tế Phù, động Kim Lạc, động Cổ Xung, động Liễu Cát, động La Phù và đất Khâm Châu. Lại đem 

vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh.  Quan nhà Minh tuy làm bộ hống hách nói đem binh sang đánh, nhưng cũng sợ 

phải cái vạ như mấy năm bình định ngày trước, và lại được tiền bạc của Mạc Đăng Dung rồi, cái lòng vị quốc cũng 

nguội đi cho nên mới tâu với vua Minh xin phong cho Mạc Đăng Dung làm chức Đô Thống Sứ hàm quan nhị phẩm 

nhà Minh." Một sự kiện cần được chú ý để hiểu rõ thái độ của triều Mạc khi nhà Minh sai Cừu Loan và Mao Bá Ôn 

đem quân sang Việt Nam vào năm Đinh Dău tức là năm 1573 ( ba năm trước khi Mạc Đăng Dung thân gặp các đại diện 

Minh triều) lúc nghe tin Minh dấy quân, triều Mạc chỉ cử một phái đoàn ngoại giao do Nguyễn Văn Thái cầm đầu. Sử 

không chép phái đoàn này đã thu xếp cách nào mà việc binh giữa nhà Minh và ta lại êm trong 3 năm51 rồi tới năm 

Canh Tý (1540) lại thấy nhà Minh đem lực lượng võ trang sang ta.  Về phía Minh đế, ta thấy có chi tiết này đáng kể: 

Minh triều buổi đầu quả có cương quyết diệt nhà Mạc để cướp nước Việt Nam nên đã cử Đô Đốc Cừu Loan và Tán Lý 

Mao Bá Ôn vào loại danh thần lương tướng của họ đem quân lên đường, vua Minh đã tặng một bài thơ lời lẽ rất trang 

trọng, đầy thân mến và khuyến khích. Nguyên văn bài thơ đó như sau: Đại tướng Nam chinh đởm khí hào Yên hoành 

thu thủy nhạn linh đao Phong xuy đà cổ sơn hà động Điện thiển tinh kỳ nhật nguyệt cao Thiên thượng kỳ lân nguyên 

hữu chủng Huyệt trung lân nghị khởi năng đào Thái bình đãi chiến qui lai nhật Trẫm giữ tiên sinh giải chiến bào Lược 

dịch: Đại tướng Nam chinh khẳng khái sao Lưng đeo sáng quắc nhạn linh đao Gió lay trống trận sơn hà động Chớp 

nhoáng cờ đồn nhật nguyệt cao Trời thẳm kỳ lân sinh giống sẵn Hang sâu kiến cỏ trốn đằng nào? Thái bình khi chiếu 

đòi về nước Trẫm cửi dùm khanh áo chiến bào                                         

 [51 Phải chăng đây là một thắng lợi chính trị mà sử thần hai triều Lê, Nguyễn muốn làm mờ đi? ]

Tới khi họ Mao tiếp xúc với ta, tương truyền Mao với cụ Trạng Giáp Hải của nhà Mạc đã trao đổi thư từ để dò xét thái 

độ nhau. Trên trường ngoại giao Hoa Việt, việc này gần như một thủ tục đặc biệt vốn có trước khi định đoạt chiến hay 

hòa. Nguyên xướng của Mao Bá Ôn là: Vịnh Cánh Bèo52 Tùy điền trục thủy mạo ương châm Đáo xứ khan lai thực bất 

thâm Không hữu bản căn không hữu cán Cảm sinh chi tiết cảm sinh tâm Đồ trừ tự xứ minh tri tán Đản thức phù thì ná 

thức trầm Đại để trung thiên phong khí ác Tảo qui hồ hải tiện nan tầm. Lược dịch: Ruộng nước lênh đênh nhỏ tựa kim 

Nơi nơi trông thấy mọc nông mèm Đã không cành cỗi còn không gốc Dám có rễ mầm lại có tim Nào biết nơi tan duy 

biết tụ Chỉ hay khi nổi nọ hay chìm Giữa trời giông tố thình lình nổi Quét bạt ra khơi hết kế tìm. Đại biểu nhà Mạc đã trả 

lời: Cẩm lân mật mật bất dung châm Đối diệp liên căn bất kế thâm Thượng dữ bạch vân tranh thủy diện Khẳng giao 

hồng nhật chiếu ba tâm Thiên tùng lãng đả thanh nan phá Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm Đa thiểu ngư long tàng 

giá lý Thái công vô kế hạ câu tầm. Lược dịch: Vẫy gấm khen dầy chẳng lọt kim Lá liền dễ mọc kệ nông mèm                      

 [52 Với cái đầu đề "Vịnh Cánh Bèo" Mao Bá Ôn đã có ý khinh thị triều Mạc, hẳn Mao muốn ví dân ta mỏng manh như 

cánh bèo mà Trung Quốc là giông tố giữa trời đánh tan cánh bèo biệt tích như chơi. Mao không ngờ đại biểu của triều 

Mạc đã trả lời họ một cách hào hùng, ngạo nghễ không kém. Ta có thể nghĩ rằng chính bài thơ họa vần này với hùng 

khí của nó đã làm cho Trung Quốc hoảng sợ mà chịu bãi binh và tất nhiên Mạc Đăng Dung có mặt ở đó, Trạng Giáp 

Hải mới dám cương quyết ăn miếng, trả miếng. ]

Mây bạc không cho soi thủy diện Ánh hồng đâu dễ rọi ba tâm Sóng dồn ngàn lớp không xô vỡ Gió rập muôn cơn khó 

đánh chìm Rồng cá ít nhiều nương dưới đó Cần câu Lã Vọng hết mong chờ. Sau cuộc gặp gỡ này Minh triều bãi binh 

và phong cho Mạc Đăng Dung chức Đô Thống sứ như trên đã nói và nhà Mạc nhường cho nhà Minh 5 động ngoài 

biên giới (Việt Nam Sử Lược kể cả Khâm Châu, đây là điều sai lầm vì đời Lý đã định biên giới với Trung quốc mấy trăm 

năm trước thì Khâm Châu là một địa hạt lớn, đã từ lâu thuộc về nội địa Trung quốc). Có thể nói rằng đây là một thắng 

lợi ngoại giao đặc biệt của nhà Mạc, vì cùng đứng trước một trường hợp mà nhà Minh đã quyết định đánh nhà Hồ, trái 

lại đã lui quân và thông hiếu với nhà Mạc. Tránh được một cuộc chiến tranh với một đại cường quốc giữa lúc trong 

nhà gặp cảnh huynh đệ tương tàn, nhân dân bạc nhược, mà chỉ mất ít vàng bạc và 5 động biên giới, nếu nhà làm sử 

công bằng hẳn chẳng đòi gì hơn nữa. 

5- Cái Án Mạc Đăng Dung: 

Theo cáo trạng của Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược trang 274: 

 "Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp ngôi, ấy là người nghịch thần, đã làm chủ một nước mà 

không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ cái 

danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cửi trần ra trói mình lại, đi đến quỳ lậy trước cửa một người tướng của quân nghịch 

để cầu lấy cái phú quý cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ.  Đối với vua là nghịch 

thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn ở của loài người là không có nhân phẩm; một người như thế ai mà 

kính phục? Cho nên dẫu có lấy được giang sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh vực mặc lòng, một cơ 

nghiệp dựng nên bởi sự gian ác hèn hạ như thế thì không bao giờ bền chặt được. Cũng vì cớ ấy mà con cháu họ Lê lại 

trung hưng lên được ..." Xét bản cáo trạng và cả lời luận tội của tác giả Việt Nam Sử Lược ta thấy có vẻ dễ dàng và quá 

giản dị khiến ta ngạc nhiên về lối suy luận của tác giả, một nhà Nho kiêm cả tân học. Căn cứ vào cuốn sử nào mà Trần 

Trọng Kim đã hạ những nhát búa quá nặng nề đối với nhà Mạc, một triều đại mà ta không thể phủ nhận tinh thần 

phục vụ quốc gia của họ? Trên tờ Đời Mới năm 1951 ông Lê Văn Hòe có viết một bài khảo luận khá đầy đủ để minh 

oan cho Mạc Đăng Dung. Họ Lê đã tỏ ra có công tâm trong vụ này. Theo ông Lê thì cả sử Tầu lẫn sử ta đã vô tình hay 

hữu ý; hữu ý có bề nhiều hơn trong việc miệt thị đối phương. Đó là thói thường của họ, mà gần đây cả các sử gia Âu 

châu cũng không tránh khỏi thói xấu này53. Sử Tầu đã chép hai bà Trưng bị quân Đông Hán bắt được, xin làm tì thiếp 

không được rồi bị đem về chém ở Lạc Dương, bà Triệu Thị Trinh thì gọi là Triệu Ẩu (chữ Ẩu có nghĩa là mụ, đã phô 

bầy rõ sự hằn học, cục cằn của sử gia Tầu khi nói đến một nữ anh hùng cách mạng của một địch quốc). Sử ta như Việt 

Sử Toàn Thư, Đại Nam Thực Lục là những cuốn sử do chúa Trịnh sai chép từ đời Lê Trang Tông đến Gia Tông, đến sử 

nhà Nguyễn thì lại càng dễ hiểu. Họ Mạc đã thí vua Chiêu Tông, và đầu độc Nguyễn Kim tổ phụ nhà họ Nguyễn, tóm 

lại nhà Mạc là kẻ thù số một của cả Trịnh lẫn Nguyễn luôn từ năm 1527 đến 1592. Hai bên đều nhúng tay vào máu của 

nhau khá nhiều thì các sử gia của Trịnh và Nguyễn há dám giữ mực vô tư chăng? Dưới thời quân chủ độc tôn, phong 

kiến chuyên chế, đa số các nho thần chỉ biết uốn ngòi bút theo giòng tư tưởng của nhà vua, nhà chúa thì ta không lạ 

gì nếu họ Mạc bị bôi nhọ, và sự nghiệp ngót 150 năm của Mạc triều bị lãng bỏ để lu mờ với thời gian. Chúng ta hãy đi 

vào các chi tiết: Mạc Đăng Dung bị buộc là nghịch thần, vì giết vua cướp nước, cắt đất dâng địch, thiếu liêm sỉ, nhân 

phẩm, gian ác không được bền vững lâu dài. Mở cuốn sử đời Hậu Lê, coi đoạn nói về các vua Túc Tông, Uy Mục, 

Tương Dực, Chiêu Tông, ta thấy các ông vua này hầu như vừa bước lên ngai vàng đã chém giết lẫn nhau, đồng thời 

giết cả các đại thần. Dĩ nhiên việc này phải xẩy ra vì mỗi ông vua hay ông hoàng thường có một phe nhóm riêng, do 

đó khi một vị bị hạ thì nhiều thủ túc thành nạn nhân của thời cuộc. Vua Uy Mục còn giết theo cả bà Thái hoàng thái 

hậu (chết theo có hai đại thần Đàm Văn Lễ, Nguyễn Quang Bật). Giản Tu giết Uy Mục rồi làm bao nhiêu chuyện hoang 

dâm, vô đạo khác, xây đắp rất nhiều điện đài, hao tốn công nhu và nhiều sinh mạng. Có thể coi thời đó là một thời 

không đại loạn chăng? Ai chịu trách nhiệm về các mối loạn này? Các ông vua trên đây có còn xứng với địa vị nguyên 

thủ của mình nữa chăng? Hậu quả của những hành động trên đây là triều đình từ đó bị một cuộc khủng hoảng tinh 

thần rất trầm trọng. Quan to quan nhỏ hoang mang, dân chúng cũng lo sợ, ai ai cũng thảng thốt sẽ đến lượt mình bị lôi 

kéo vào các cuộc tranh giành ảnh hưởng. Rồi các việc trên đây thành một cái rớp. Nó mở đường cho bao nhiêu cuộc 

phiến động khác, đúng câu "Thượng bất chính hạ tắc loạn".                                        

 [ 53 Theo lời giáo sư thạc sĩ Sử Địa Melzi d'Eril người Ý đã gặp chúng tôi trong một hội nghị các giáo sư sử địa Việt 

Nam tại Bộ Quốc Gia Giáo Dục (ngày 12 tháng 12, 1958), các nhà sử học Âu Châu cũng có cái tật xàm báng ngoại quốc 

khi viết đến một sự kiện lịch sử có liên can giữa nước mình với nước láng giềng. Ông Lê Văn Siêu tác giả Văn Học Đời 

Lý cũng thường đồng ý với chúng tôi về chỗ không thể quá tin sử liệu, vì sử thần đời sau thường xuyên tạc sự việc 

đời trước để phỉ báng theo lệnh của vua chúa. Nếu không có óc suy luận, ta sẽ vô tình tiếp tay cho một bọn văn phiệt, 

tay sai của phong kiến trả thù báo oán một cách quá ư hèn nhát cho các ông chủ. ]

Ngoài các kẻ đã bị chết, có kẻ oan, có kẻ chẳng oan, còn lại mấy nhân vật khác không kém quan trọng, đó là Trần 

Chân, Mạc Đăng Dung, Nguyễn Hoằng Dụ v.v... là những nhân vật có đầu óc, có khí cương cường và cũng có cả 

quyền bính. Tất nhiên các con người ấy, dầu muốn hay không, đã phải có một thái độ nào đối với thời cuộc, chớ đâu 

chịu ép trong cái thế bị động. Họ biết rằng nếu nằm ép trong cái thế bị động thì chắc chắn phải đi đến chỗ chết uổng 

hay sống hèn. Họ còn nghĩ rằng thời có loạn, anh hùng mới có dịp thi thố tài ba, xây dựng sự nghiệp. Vì vậy Mạc 

Đăng Dung chẳng xuất hiện vào giờ phút này tất nhiên cũng có kẻ khác bước ra để làm một cuộc cách mạng. Họ Mạc 

không ra tay cũng không xong, vì vua Chiêu Tông đã mưu với Phạm Hiến, Phạm Thư hạ sát họ Mạc, khi Mạc vừa trừ 

xong nhiều vụ loạn đời bấy giờ (loạn Trịnh Tuy, Trần Cao, Lê Do, Hoàng Duy Nhạc v.v...) bởi dẹp xong các vụ loạn 

này thanh thế Mạc Đăng Dung bốc lên như gió. Tóm lại vào thời các vua Tương Dực, Uy Mục, triều đình đã suy đốn, 

hôn ám, vô đạo, thác sinh đủ mối loạn, trên không ra trên, dưới không ra dưới, nghi ngờ mà giết nhau, hoang mang mà 

hại nhau, người làm tôi không còn biết đạt chữ trung vào đâu nữa. Tác giả Nho Giáo cũng là họ Trần, đã từng nói đến 

chữ Trung và chữ Trinh quá thiên về lý thuyết, không nhìn thấy các tội ác của mấy ông "quỷ vương" nhà Hậu Lê nên 

đã khép Mạc Đăng Dung vào tội nghịch thần. Ông Lê Văn Hòe trái lại, nói: "... Muốn họ Mạc cung cúc tận tụy thờ các 

vua Uy Mục, Tương Dực thật là bắt Võ Thang thờ Kiệt Trụ"54 Và triều Lê rối loạn hai chục năm rồi Mạc Đăng Dung 

mới bước lên sân khấu để thay trò đổi cảnh, kể ra đã chịu nghe ngóng lòng người, xét suy thời cuộc nên tới năm Đinh 

Hợi mới nhẩy ra lãnh vai trò hoán cải chánh sự không thể bảo là vội vã và thiếu thận trọng. Ông Lê còn nghĩ nếu giết 

vua là nghịch thần bất kể trường hợp hữu lý hay không thì lịch sử các quốc gia chỉ có và chỉ nên có một dòng họ làm 

vua mà thôi chăng? Lý Công Uẩn cướp ngôi nhà Tiền Lê, Lê Hoàn tư thông với Dương Hậu thay thế nhà Đinh, Trần 

Thủ Độ lừa gạt một cô gái nhỏ (Lý Chiêu Hoàng), xét việc họ Mạc cướp ngôi nhà Hậu Lê còn đàng hoàng hơn. Hạ sát 

vua Chiêu Tông, Mạc chỉ có mục đích hủy bỏ cái bình phong mà các lãnh tụ phong kiến đã dùng để che đậy hành 

động mưu đồ vương bá của họ và vì cả lý do bảo vệ cho chính bản thân nữa. Và đứng trên quan điểm nhân dân thì lại 

càng vô lý, nếu người ta muốn rằng đám vua quan ác bạo thối nát đời bấy giờ cứ đè đầu cưỡi cổ người dân mãi mãi. 

Không có họ Mạc ra đời thuở đó, thì trong nhân dân cũng phải có một người khác nhẩy ra để thiết lập trật tự mới. Có 

bao giờ trong một quốc gia chỉ có một dòng họ duy nhất xứng đáng để làm vua, còn những dòng họ khác chỉ đủ tư 

cách làm thứ dân mà thôi? Điều gàn dở của mấy nho thần viết sử đã thiếu lý luận và nhận xét thực tế, cứ luôn luôn đem 

chữ Trung và Trinh ra đọc như kinh nhật tụng, dậy người ta Trung, Trinh một cách bừa bãi, bất kể trường hợp nào. 

Nói cách khác, cuộc sống của con người vô cùng phức tạp, mỗi chặng đường đi phải có một lối xử thế riêng, đâu có 

thể lúc nào cũng Trung và Trinh một cách máy móc, phải chăng cái sở học của thời phong kiến tai hại và lạc hậu là ở 

chỗ này? 

[54 Sự so sánh có phần quá bạo một chút. ]

Tác giả Kim Vân Kiều là Nguyễn Du cũng nặng về giáo lý Khổng Mạnh mà còn có câu này: Xưa nay trong đạo đàn bà 

Chữ trinh kia cũng có ba bẩy đường Có khi biến, có khi thường Có quyền nào phải một đường chấp kinh thì ta thấy 

tuy Nguyễn Du không làm sách dậy người ta Trung, Trinh mà ông hiểu chữ Trung, Trinh rất là khoáng đạt, sáng suốt. 

Nay chúng ta thử hỏi "Họ Mạc có thể hết lòng phù trợ con cháu vua Thái Tổ nhà Hậu Lê được chăng?" Một thời đại 

hỗn loạn như thời Tương Dực đế, Uy Mục đế, Hoàng gia cũng kéo bè kéo đảng, các triều thần tướng lĩnh cũng năm 

lòng bẩy dạ, chẳng ai tin ai thì Mạc Đăng Dung có thiết tha phù Lê diệt ngụy cũng không được. Mạc dẹp xong các 

mối loạn, quy phục được các lực lượng phiến động, uy tín tất nhiên lên cao thì bao nhiêu kẻ ghen ghét xúm nhau dèm 

pha khiến họ Mạc dầu muốn hay không cũng phải bước từ thế thủ sang thế công, nhất là có sẵn binh lực trong tay. Ở 

địa vị họ Mạc, không ai làm khác hơn. Còn việc cắt đất cầu hòa của họ Mạc? Để bãi một cuộc chiến tranh với một 

cường quốc trong khi dân mình yếu hèn, rối loạn. Họ Mạc phải cắt năm động thổ mán vùng thượng du, thật ra chưa là 

bao. Đây không hơn không kém là cái lối cũ nước Tấn hiến ngọc và ngựa quý cho nước Ngu, Hán Cao Tổ nhường 

Quang Trung cho Hạng Vũ khi xưa để hòa hoãn với địch trong một giai đoạn. Lịch sử cổ kim Đông Tây, chuyện này 

rất thường. Ngay gần đây, năm 1854, Nhật phải mở hải cảng Hạ Điền, Châu Quan cho Mỹ, mở Deshima cho Hòa Lan 

vào giao thương, và gượng gạo đón chào cả Pháp, Bồ Đào Nha cùng một lúc. Năm 1876, Nhật mạnh sau cuộc duy tân, 

đến lượt Nhật bắt Triều Tiên mở ba hải cảng cùng đặt ngoại trị pháp quyền ở đây. Trung Hoa với nhà Thanh gần đây 

phải cắt Hương Cảng cho Anh, nhường Mãn Châu cho Nhật, đó là chuyện yếu phải nhường mạnh, thiếu gì việc như 

vậy, hôm qua cũng như hôm nay. Tóm lại trên trường chính trị quốc tế, việc nhường đất để giảng hòa, để bãi một cuộc 

binh đao tai hại hơn, các nhà lãnh đạo vẫn phải làm. Nhà viết sử không chiếu xét kỹ tình thế mà cứ hạ lời phê phán gắt 

gao không khỏi có sự cố chấp, nông cạn. Trái lại không lượng sức mình mà đưa cả dân tộc vào chiến tranh đến nỗi mất 

cả xứ sở, chết chóc muôn vạn sinh mạng, đó mới là xuẩn động và đáng trách. Tại đây chúng tôi xin ngừng lại để chúng 

ta cùng suy tưởng: cái bại trận dưới thời nhà Hồ chưa đủ cho ta rút kinh nghiệm sao? Nước ta dưới thời Uy Mục, 

Chiêu Tông có nên có một chính sách găng trì với nhà Minh không? Nếu nói rằng không thì Mạc Đăng Dung nhường 

năm động ngoại biên là có ý thức sáng suốt về thời vụ và đó là một hành động khôn khéo cần được tán thưởng. Ngoài 

việc nộp 5 động, Việt Nam Sử Lược còn nói Mạc Đăng Dung cửi trần, tự trói mình trước cửa viên của địch có thật 

chăng? Sử nào chép chuyện này?55 Chúng tôi e rằng việc này đã căn cứ vào tài liệu trong An Nam Truyện quyển 231 

có nói đến quyết định của vua Minh Thế Tông là: "Nếu cha con họ Mạc chịu trói và quy hàng thì sẽ tha tội chết". 

Theo chúng tôi đây chỉ là cách nói mà thôi cũng như câu "Bó giáo lai hàng", còn trên thực tế miễn có sự quy thuận 

của đối phương chứ có mấy khi người ta áp dụng hẳn hoi hình thức này. Trái lại nếu người ta bắt được kẻ địch tự trói 

ra hàng thì kẻ đó khó lòng mà thoát chết (tỷ dụ trường hợp tướng Phạm Ngô Cầu giữ thành Thuận Hóa cho họ Trịnh 

năm Bính Ngọ (1786) thấy quân Tây Sơn mạnh quá vội xé áo bào và tự trói mình xin hàng thì bị Nguyễn Huệ mang 

giết). Nay xét tình trạng và tâm lý của Mạc Đăng Dung thuở đó có thể có chuyện tự trói mình trước cửa viên của Mao 

Bá Ôn không? Chúng tôi quyết đoán rằng không, bởi vì lúc này trong nước có lực lượng của vua Lê Trang Tông và 

Nguyễn Kim đang dấy động, bên ngoài thì quân Minh đang đánh ở biên cương, họ Mạc dại gì mà nghe giặc tự trói 

mình để lao mình vào cuộc phiêu lưu vô cùng nguy hiểm. Một con người xuất thân hàn vi rồi trở thành danh tướng, 

đánh Đông dẹp Bắc hạ bao nhiêu kẻ địch lợi hại, con người ấy phải là một kẻ anh hùng lỗi lạc, đâu có thể dễ tin giặc 

Bắc như vậy. Trong trường hợp này đàn bà con nít cũng chẳng khờ khạo đến thế. Một chứng cớ nữa về sự khôn 

ngoan của Mạc Đăng Dung là khi Mao Bá Ôn đưa thư sang đòi Mạc nộp sổ sách ruộng đất, nhân dân và chịu tội thì 

được tha chết như Việt Nam Sử Lược đã chép, họ Mạc chỉ phái bọn Nguyễn Văn Thái lên Nam Quan để điều đình. Việc 

này xẩy ra vào năm Đinh Dậu (1537). Phái đoàn Nguyễn Văn Thái thành công nên Bắc quân không tiến vào nội địa 

nước ta nữa. Rồi tháng 11 năm Canh Tý (1540) quân Bắc lại sang. Lần này họ Mạc biết rõ tình ý của nhà Minh chỉ làm 

chuyện diệu võ dương uy mà thôi, nên đã thân hành lên gặp người Minh. Sự thật đôi bên cần giáp mặt nhau để cùng 

quyết định mọi vấn đề đã nêu ra ba năm trước mới có tính cách đại cương, sơ bộ mà thôi. Một điểm khác, ngoài điểm 

tâm lý của Mạc Đăng Dung, trong việc đụng chạm với người Minh thuở ấy đã nói khá nhiều ở trên, còn thái độ của 

Mạc Đăng Dung cũng cần phải xét để hiểu Mạc Đăng Dung có hèn như Việt Nam Sử Lược đã nói không. Ta xem bài 

thơ xướng họa giữa Mao Bá Ôn và cụ trạng Giáp Hải nhà Mạc thì càng rõ, kẻ xướng có vẻ kiêu căng mà người họa 

không kém phần ngạo nghễ. Nào biết nơi tan duy biết tụ Chỉ hay khi nổi nọ hay chìm                                        

[ 55 Việt Vương Câu Tiễn ngày xưa khi mất nước phải đem cả vợ con cùng các đại thần sang giữ ngựa cho vua Ngô 

Phù Sai, rồi nếm phân đoán bệnh cho Phù Sai để thi hành kế hoạch phục quốc của Phạm Lãi, các nhà viết sử còn 

không ai chê, huống hồ chỉ có chuyện trần vai áo, dầu có chăng nữa! ]

Giữa trời giông tố thình lình nổi Quét bạt ra khơi hết kế tìm.   (Mao Bá Ôn)  Sóng dồn ngàn lớp không xô vỡ Gió rập 

muôn cơn khó đánh chìm Rồng cá ít nhiều nương dưới đó Cần câu Lã Vọng hết mong chờ.  (Trạng Giáp Hải)  Vua tôi 

nhà Mạc đã dám ăn miếng trả miếng đến nơi đến chốn như vậy mà bảo rằng chính những người này đã phải quỳ lậy 

trước cửa tướng của địch, ta có thể tin được chăng? Và cứ khẩu khí bài thơ họa của nhà Mạc đã đáp lại bài nguyên 

xướng của Mao Bá Ôn ở trên, từng điểm thì đủ rõ, ta thấy nếu Minh quá găng thì Mạc cũng dám đo gươm thử giáo. 

Vậy họ Mạc không hèn như người ta đã nói. Trần Trọng Kim còn cho rằng Mạc đã xây dựng sự nghiệp trên sự tàn ác 

nên không bền. Lời phê phái này lại càng hàm hồ nữa. Ông Lê Văn Hòe cho rằng người ta đã cố ý quên rằng nhà Tiền 

Lê, nhà Hậu Lý, nhà Trần và các chúa Trịnh sau này cũng đi đường lối ấy. Các xã hội phong kiến bao giờ cũng gây ra 

những cuộc đảo lộn ngai vàng. Nó hư hỏng ngay từ nền tảng, khuôn nếp hay hệ thống tổ chức thì mối loạn là một 

tình trạng thường trực không sao tránh được nếu không làm gì có nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh bên 

Trung quốc. Nếu cho rằng nhà Mạc đã làm việc gian ác, thì Trần Thủ Độ âm mưu với Trần Thị (vợ vua Lý Huệ Tông) 

đem cháu trai vào cung bầy cuộc hôn nhân để chiếm ngôi nhà Lý. Thủ Độ lại lấy vợ của Huệ Tông là em gái họ mình, 

giết hết con cháu nhà Lý, ép vua Trần Thái Tông bỏ Chiêu Hoàng lấy chị dâu là vợ Trần Liễu, anh ruột Trần Cảnh đã 

có thai 3 tháng, ra lệnh cho con cháu nhà Trần lấy nhau, các hành động đó có gian ác không? Vậy mà họ Trần còn làm 

vua được 175 năm. Nhà Tây Sơn sau này dấy nghiệp lên trừ tham nhũng của bọn Trương Phúc Loan, đạp đổ chế độ 

tồi bại của hai họ Trịnh, Nguyễn ở miền Nam Bắc Hà, giải nạn xâm lăng cho dân tộc, oanh liệt đàng hoàng như vậy mà 

chỉ ở ngôi có 24 năm, có nói được là bền chăng?56 Nhà Mạc phát khởi từ năm 1527 đến 1667 mới tuyệt hẳn. Nhìn vào 

việc mở mang văn học, chính trị, kinh tế, ta thấy họ Mạc cũng đã có nhiều thiện chí với dân với nước và với sự lâu bền 

trên đây bảo rằng dân không theo, không mến sao được. Tiếc rằng nhà Mạc khởi nghiệp chưa lâu, trong nước đã có 

phong trào qua phân Nam Bắc rồi nước Việt Nam ở vào thế chân vạc (Trung Nam Bắc), Bắc thuộc Mạc, Trung từ 

Thanh đến Nghệ thuộc Lê-Trịnh, Nam từ Bố Chính (Quảng Bình) trở vào thuộc Nguyễn, gây nên bao nhiêu cuộc lộn 

xộn để rồi cùng mang tội với quốc dân. Tóm lại cái án Mạc Đăng Dung cần phải xóa bỏ trên bộ quốc sử của chúng ta 

để tránh một sự vu khống và thóa mạ tiền nhân một cách bất công và vô lý. Chúng tôi tin rằng các trí thức và học giả 

ngày nay suy xét hay bầy tỏ sự việc không hàm hồ như một số sử thần của thời phong kiến vừa qua.  

[ 56 Ông Lê Văn Hoè quên không kể Mạc Đăng Dung vì tình thế đã giết một ông vua (Chiêu Tông) nhà Lê, trái lại họ 

Trịnh sát hại năm bảy ông mà cũng kéo dài nghiệp chúa tới trên hai thế kỷ (238 năm). Như thế có gian ác không? Sự 

nghiệp của họ Trịnh có gọi là lâu bền chăng? ]

314 Việt Sử Toàn Thư 

 Phần 3 - Chương 12  

 Loạn Phong Kiến Việt Nam 

Nam, Bắc Triều (1527-1592) 

 - Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm 

- Biến cố tại Nam Triều

 - Những cuộc thất bại của Nam Triều 

 1- Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm: Mạc Đăng Dung lên ngôi, một số người bất cộng tác với tân trào hoặc tuẫn tiết, hoặc 

chạy thất tán đi các nơi, còn có một số chạy sang Lào. Thủ lãnh của những người này là Nguyễn Kim (hay Nguyễn 

Hoằng Kim) con Nguyễn Hoằng Dụ là một võ tướng dưới đời Chiêu Tông, cũng có nhiều tài năng, có chí lớn và cũng 

nắm giữ một phần binh sĩ trong tay. Nguyễn Kim thay cha nắm binh quyền, vì Hoằng Dụ sau vụ đại loạn ở Thăng 

Long rút về Tây Kinh ít lâu thì mất. Bấy giờ Kim đã từng làm Hữu vệ Điền tiền tướng quân, An thanh hầu dưới đời nhà 

Lê. Kim trốn qua Ai Lao được vua Xa Đẩu cho nương náu ở xứ Cầm Châu thuộc phủ Trấn Man, tỉnh Thanh Hóa. Tại 

đây Kim lo tìm con cháu nhà Lê để dễ hiệu triệu các cựu thần. Năm Quý Tỵ (1532) Kim kiếm được người con út của vua 

Chiêu Tông là Duy Ninh lập lên tức vua Trang Tông. Trong việc mưu đồ đại sự, Kim đã thâu nạp được một kiện tướng 

là Trịnh Kiểm. một thảo dã anh hùng, xuất thân tại xã Sóc Sơn, huyện Vịnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Kiểm có tài đảm, có 

mưu lược tuy không được học hành nhiều vì hàn vi thuở nhỏ. Sử sách chép về ông rất ít cũng như chép về Mạc Đăng 

Dung rất sơ sài từ lý lịch, thân thế đến sự nghiệp khiến ta thấy rõ rệt các sử thần cận đại không dám nói dài về Mạc 

Đăng Dung cũng như Trịnh Kiểm bởi hai người này là tử thù của cả hai nhà Lê, Nguyễn. Phe Nguyễn Kim ở Cầm Châu 

được bẩy, tám năm, chiêu binh luyện mã đến năm Canh Tý (1540) thì đã có một lực lượng kha khá về đánh Nghệ An. 

Hai năm sau quân vua Trang Tông tiến ra Thanh Hóa rồi năm sau nữa (1543) Kim nắm hẳn được Nghệ An và thu phục 

được cả Tây đô (Thanh Hóa) bởi Tổng trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất ra hàng. Theo Việt Nam Sử Lược, Dương 

Chấp Nhất ra hàng là một âm mưu của nhà Mạc. Năm Ất Tỵ (1545) Nguyễn Kim tiến ra Sơn Nam (vùng Nam Trung 

châu Bắc Việt gồm các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam) đi tới huyện Yên Mô (Ninh Bình)  thì bị ngộ độc 

mà chết. Người ta đã cho rằng chính Dương Chấp Nhất đã đánh thuốc độc. Nguyễn Kim chết đi, binh quyền dĩ nhiên 

sang tay Trịnh Kiểm. Kiểm thấy cuộc Bắc tiến bất lợi vì cái tang của chủ tướng liền rút quân về Thanh rồi lập Hành 

Điện ở đồn Vạn Lại (huyện Thụy Nguyên, tỉnh Thanh Hóa) để chỉnh bị thêm quân lực và lương thực. Tại đây phe vua 

Trang Tông đã bắt đầu có thanh thế và nhiều nhân sĩ đã tìm đến giúp, tỉ dụ Phùng Khắc Khoan tức Trạng Bùng và 

Lương Hữu Khánh. Bấy giờ Việt Nam chia ra làm hai lực lượng đối thủ một ở miền Bắc, kể từ Sơn Nam đổ ra thuộc ảnh 

hưởng của nhà Mạc gọi là Bắc triều. Thanh Hóa trở vào là thuộc khu vực của nhà Lê hay là Nam triều. Tương đối cho 

tới năm Bính Ngọ (1546) là năm Mạc Phúc Hải mất, truyền ngôi cho con là Mạc Phúc Nguyên lấy niên hiệu là Vĩnh 

Định, Bắc Hà còn mạnh hơn Nam Hà. Về phía Nam Hà, năm Mậu Thân (1548) cũng xẩy ra một biến cố: vua Trang Tông 

chết, Trịnh Kiểm lập thái tử Duy Huyên lên ngôi tức vua Trung Tông cũng vắn số sau 8 năm. Vua Trung Tôn không 

có người kế tự theo dòng đích tôn của vua Thái Tổ. Trịnh Kiểm bấy giờ nắm giữ hết quyền hành tính tự lập làm vua 

nhưng còn do dự chỗ chưa chắc được lòng người nên bí mật phái sứ giả ra Hải Dương hỏi ý kiến cụ Trạng Nguyễn 

Bỉnh Khiêm (tức Trạng Trình người làng Cổ Am thuộc tỉnh này). Nguyễn Bỉnh Kiêm là Trạng nguyên đời Mạc với 

Phùng Khắc Khoan (Trạng Bùng) là anh em cùng mẹ khác cha nổi danh đời bấy giờ về cái học uyên bác y nho lý số, 

nhất là về thuật số, ông được người ta coi như là một nhà tiên tri biết việc năm trăm năm trước, năm trăm năm sau. Ông 

có để lại một tập sấm truyền nói rất đúng về cả những thời cuộc xẩy ra gần đây. Vì ông đã từng làm tôi triều Mạc, dù 

bấy giờ đã về ở ẩn nhưng bởi lẽ thế nước chia đôi, lẽ thuận nghịch cũng chưa về hẳn bên nào nên ông có một thái độ 

rất dè dặt mỗi khi người ta hỏi đến việc quốc sự. Có thể nói rằng tuy ông đứng ngoài vòng chính trị, nhưng ông vẫn là 

cố vấn lâm thời cho các chính khách thuở đó. Với sứ giả của Trịnh Kiểm, ông trả lời gián tiếp bằng cách ngoảnh bảo 

với đầy tớ rằng: "Năm ngoái mất mùa, thóc giống không tốt, đi tìm giống cũ mà gieo mạ". Rồi ông lại sai đầy tớ ra bảo 

chú tiểu quét chùa và dâng hương để ông ra chơi. Ông bảo tiểu: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản". Sứ trở về Thanh thuật 

lại từng lời nói, từng cử chỉ của cụ Trạng Trình, Kiểm hiểu nên không thi hành dự định cướp ngôi nhà Lê nữa rồi đi tìm 

người cháu huyền tông ông Lê Trừ là anh ruột vua Thái Tổ, tên là Duy Bang (ở làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn). Nhà 

Mạc đến Mạc Phúc Nguyên thì không còn dám coi thường lực lượng của nhà Lê, sai Mạc Kính Điển (chú của vua 

Mạc) làm đại tướng đem binh vào Thanh tới 10 lần nhưng lần nào cũng không có kết quả. Trịnh Kiểm tiến ra Sơn Nam 

trước sau cũng đến 6 lần cũng chẳng thắng lợi hoàn toàn lại trở về. Duy năm Kỷ Mùi (1599) Trịnh Kiểm huy động tới 6 

vạn quân ra Bắc đánh các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Kinh Bắc, Lạng Sơn rồi vòng xuống Hải Dương theo 

chiến lược phá hàng rào trước đột nhập vào Đông Đô sau, bởi kinh nghiệm đánh thẳng vào quân chủ lực của nhà Mạc 

thì không đủ sức. Trên con đường cánh cung đó, Trịnh đã đánh bại được quân Mạc tưởng có nhiều hy vọng thành 

công thì nhà Mạc cũng khôn khéo chẳng kém, cử đại quân của Mạc Kính Điển theo đường bộ đánh gấp vào Thanh 

Hóa là sào huyệt của nhà Lê. Trịnh Kiểm hay tin hoảng sợ vội vã bỏ mặt trận Việt Bắc về cứu hậu phương của mình. 

Tình hình này cứ nhùng nhằng mãi, khi thì Mạc Nam chinh, khi thì Lê Bắc tiến, chẳng bên nào được thua dứt khoát 

cho tới năm Tân Dậu (1561) Mạc Phúc Nguyên qua đời, con là Mạc Mậu Hợp lên nối ngôi. 

2- Biến Cố Tại Nam Triều 

Năm Canh Ngọ (1570) Trịnh Kiểm hết số, trao binh quyền cho con trai là Trịnh Cối, nhưng Trịnh Cối thiếu nhiều đức 

tính làm lãnh tụ, ưa rượu chè, sắc dục, không chuyên cần như cha nên tướng sĩ mất cảm tình. Em Trịnh Cối là Trịnh 

Tùng liền mưu với bọn Lê Cập Đệ, Trịnh Bách rước vua về Vạn Lại là nơi hành điện cũ của nhà Lê. Ý Tùng lúc này là 

muốn cướp địa vị của anh. Tất nhiên Nam triều nẩy ra nội chiến vì sự tranh giành của hai anh em Trịnh Tùng. Nhà Mạc 

không bỏ lỡ dịp tốt này, cất luôn 10 vạn binh vào Tây Đô, Trịnh Cối tự liệu không chống nổi liền hàng nhà Mạc được 

giữ quan tước như cũ.57 Những ngày đầu, quân Mạc thừa thế tiến lên sông Mã, đóng ở đất Hà Trung rồi vây An 

Trường là chỗ căn cứ then chốt của vua Lê (thuộc huyện Thụy Nguyên). Vua Lê Anh Tông thấy thế nguy dời về 

Đông Sơn, phong Trịnh Tùng làm Tả Thừa tướng thống lãnh binh đội để chống nhà Mạc. Quân Nam do sự khéo léo 

của Trịnh Tùng đã trấn giữ được các địa điểm trọng yếu nên Mạc Kính Điển đánh mãi không xong, phải rút về Bắc.58 

Xét ra vào thời đó, hai quân Nam Bắc đã gặp một trở ngại lớn nhất là về vấn đề chuyển dịch và tiếp vận. Mỗi khi chiến 

cuộc kéo dài thì đám quân ở xa tới không chịu nổi rồi phải bỏ ra về, do đó ta không lạ sự tấn công của bên này cũng 

như bên kia luôn luôn khó khăn, thế hệ này qua thế hệ khác.  Tạm yên với quân Mạc, vua Lê phong cho Trịnh Tùng 

làm Thái úy, Trưởng quốc công và khao thưởng binh sĩ, lại sai Phùng Khắc Khoan chiêu tập các hoang dân ở Thanh 

Hóa trở về làm ăn và chỉnh đón lại mọi việc chính trị, quân sự. Giờ phút này Trịnh Tùng nắm mọi quyền, lên mặt hống 

hách.                                        

[ 57 Theo C. B. Maybon thì Trịnh Cối bị các binh tướng không phục nên phải trốn sang Mạc. ] [58 Cũng theo C.B. 

Maybon trong "Histoire moderne du pays d'An-nam", một số bộ đội của nhà Mạc chạy vào Thuận Hóa bị Nguyễn 

Hoàng là con Nguyễn Kim đón đánh tan tành. ]

Vua Anh Tông lo ngại bàn với Lê Cập Đệ tính trừ Trịnh Tùng. Công việc chưa ra sao thì Trịnh Tùng biết được liền 

dùng mưu giết Cập Đệ. Vua Lê thấy thế nguy và không còn thế  lùi, liền cùng bốn con rời bỏ Tây Đô chạy vào Nghệ 

An. Sau khi vua xuất ngoại, Trịnh Tùng cho rước ngay hoàng tử thứ 5 là Duy Đàm ở làng Quảng Thi, huyện Thụy 

Nguyên về làm vua lấy  hiệu là Thế Tông, một mặt cho Nguyễn Hữy Liên đem quân đuổi theo vua Anh Tông. Vua 

Anh Tông vào tới Nghệ An, thế cùng chạy vào ẩn ở một vườn mía bị quân Trịnh tóm được. Tùng cho giết vua rồi 

tuyên cáo vua thắt cổ tự vận. Từ năm Quý Dậu (1573) đến Quý Mùi (1583) quân Nam triều vẫn giữ vững được đất đai 

từ Thanh tới Nghệ. Các tướng Mạc là Mạc Kính Điển, Nguyễn Quyện, và Mạc Ngọc Liễn nhiều lần mang quân vào 

đánh chỉ hao binh tổn tướng mà thôi. Sau Mạc Kính Điển có Mạc Đôn Nhượng thay thế, cũng vẫn được thua một vài 

trận lại bỏ ra về cho tới năm Quý Mùi (1583) Bắc triều lâm dần vào giờ phút đen tối trước khi bị tận diệt. 

3- Những Cuộc Thất Bại Của Bắc Triều 

Như trên chúng ta đã nói, cho tới năm Quý Dậu (1573) lực lượng của Bắc triều có phần xung mãn hơn lực lượng của 

Nam triều nhưng người cầm quân của Bắc triều là các tướng lãnh, thân vương nhà Mạc không sành chiến thuật, chiến 

lược như họ Trịnh ở miền Nam, do đó Mạc chỉ mua lấy sự hao binh tổn tướng. Rồi cũng từ năm Dậu, Trịnh Tùng áp 

dụng kế cố thủ để đợi quân Mạc vào, càng va chạm bao nhiêu càng tổn thất bấy nhiêu. Tãt nhiên như vậy, Trịnh ở 

tình trạng sức số thủ có thừa, sức tấn công thì đuối. Việc tấn công của họ Mạc có khi theo thế gọng kìm là đánh cả 

vào Thanh Hóa do đường bộ và đánh thốc cả vào hậu tuyến của Tây Đô là Nghệ An. Với cuộc hành quân đại quy mô 

này Mạc phải chia quân làm hai cánh nhưng không đủ sức nên chẳng thâu lượm được thêm kết quả nào đáng kể. 

Trong giai đoạn này, họ Trịnh  dưỡng được sức quân đội và đến năm Quý Mùi thì lực lượng Nam triều bắt đầu mạnh 

mẽ. Rồi năm nào quân Nam Hà cũng ra quấy phá Sơn Nam để lấy thóc gạo về. Chắc chắn là Tây Đô không sẵn thực 

phẩm như vùng Sơn Nam, ngay từ bấy giờ đã là kho gạo như ngày nay. Nam triều mạnh thì Bắc triều không những 

đình chỉ việc tấn công mà chỉ còn đủ sức để giữ thế thủ mà thôi. Ngay tại thành Đại La (Vào đời Lý là Thăng Long 

thành, thủ đô cũ của Đại Việt ta) Mạc cũng cho xây đắp lại: lũy đắp tới ba tầng, hào cũng thành ba lần vậy mà vẫn 

không đủ chống lại quân Nam. Do vậy mà Trịnh Tùng cương quyết cả phá Thăng Long để ăn thua một lần chót với họ 

Mạc. Năm Tân Mão (1591) Trịnh Tùng bố trí cuộc Bắc tiến như sau: phòng xa quân Mạc đánh vào hậu tuyến của mình 

như trước đây khi Trịnh Kiểm đem quân ra Bắc (hành quân năm Kỷ Mùi 1559). Trịnh Tùng bèn chia một phần lượng 

phòng thủ ở nhà do Diễn Quận công Trịnh Văn Hải, Thái Quận công Nguyễn Thất Lý trấn giữ các cửa bể xét quân 

Mạc có thể tiến vào, Thọ Quận công Lê Hòa giữ Tổng hành dinh là toàn hạt Tây Đô. 

Đạo quân tiến ra Bắc gồm có 5 đội, tổng số là hơn 5 vạn có các quan Thái phó Nguyễn Hữu Liên, Thái úy Hoành Đình 

Ái, Lân quận công Ngô Cảnh Hữu mỗi người phụ trách một đội. Riêng Trịnh Tùng lãnh đại quân hai vạn người tiến ra 

Ninh Bình. Binh tướng Nam hà lần này hăng hái hơn bao giờ hết. Mạc Mậu Hợp cũng điều động tới 10 vạn quân 

(quân bốn vệ và năm phủ) để ứng chiến. Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện làm tả hữu dực, Mạc Mậu Hợp dẫn trung 

quân tiến đánh. Quân Trịnh tinh thần cao, chiến đấu rất mạnh nên chẳng bao lâu quân Mạc thua to chạy về Thăng 

Long. Bấy giờ Tết Nguyên Đán đã đến, Trịnh Tùng ngừng chiến cho binh sĩ nghỉ ngơi, rồi qua tháng sau (giêng Nhâm 

Thìn 1592) Trịnh Tùng thiết ba điều quân luật để gây cảm tình với dân chúng Bắc Hà: - Không được lấy đồ ăn và củi 

đuốc của dân. - Không được cướp bóc và phá hủy vườn tược. - Không được hiếp dâm và giết người vì tư thù. Thấy 

thế bất lợi, vua nhà Mạc đặt các tướng Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê và Nguyễn Quyện chống nhau với quân Trịnh ở 

Thăng Long, còn mình đem quân qua sông Nhị Hà đóng ở làng Thổ Khối. Mặc dù thành cao hào sâu, cuộc phòng thủ 

đáng kể là chu đáo, quân Mạc vẫn thua vì thành lũy bị phá hết. Bọn Bùi Văn Khuê và Mạc Ngọc Liễn bỏ chạy, 

Nguyễn Quyện bị bắt. Sau cuộc toàn thắng này, Trịnh Tùng cho san phẳng thành Thăng Long rồi rút về Thanh Hóa. 

Sử không chép nguyên nhân việc rút quân của Trịnh Tùng sau khi hạ được thành Thăng Long và tại sao quân Trịnh 

không thừa thắng để tiêu diệt họ Mạc, có lẽ tại Trịnh nhận thấy sức quân mình không đủ giữ cũng như không đủ để 

bình định một cách chu toàn toàn bộ miền Bắc. Hơn nữa rút quân về sớm để quân sĩ nghỉ ngơi sau cuộc viễn chinh, ắt 

kết quả của sự chiến thắng hôm nay sẽ làm nức lòng họ trong cuộc hành quân Bắc phạt tương lai. Về phần nhà Mạc 

không nhìn vào cuộc thất bại chua cay này để tu chỉnh lại quân đội, trái lại Mạc Mậu Hợp đã bạc đãi tướng sĩ, trễ nãi 

chính sự, đắm say tửu sắc, lại còn có thái độ chán nản của kẻ chiến bại (Mạc Mậu Hợp thấy vợ Bùi Văn Khuê có nhan 

sắc, định giết Khuê để chiếm lấy. Khuê hoảng sợ chạy sang hàng Trịnh Tùng. Sau này Mạc Mậu Hợp thất bại hẳn thì 

riêng cái tính hiếu sắc cũng đủ thành nguyên nhân cho họ Mạc tiêu ma sự nghiệp rồi. Xưa nay các ông vua cũng như 

các ông tướng hiếu sắc có bao giờ được ở địa vị trọn vẹn). Sử không chép trận cuối cùng giữa Mạc và Trịnh vào 

tháng nào năm Nhâm Thìn (1592), có lẽ nghỉ ngơi được ít lâu quân Nam lại tiến ra Thăng Long. Đôi bên gặp nhau 

chặng đầu tại cuối huyện Ý Yên và huyện Phong Doanh tỉnh Nam Định. Mạc mất 70 chiến thuyền, tướng chỉ huy là 

Trần Bách Niên ra hàng. Chặng thứ hai, quân Nam ra tới Bình Lục (Hà Nam) kéo lên thanh Oai, đóng ở bãi Tinh Thần 

(thuộc xã Thanh Thần, huyện Thanh Oai) bằng đường thủy rồi ra tới Hát Giang. 

Thủy quân nhà Mạc cầm cự không nổi, bị mất hàng trăm chiến thuyền. Mạc Mậu Hợp chạy sang Kim Thành (Hải 

Dương) thì quân Nam được lịnh đuổi theo. Vào thành Thăng Long, Trịnh Tùng thâu được rất nhiều của cải và bắt 

được Quốc mẫu của nhà Mạc (mẹ của Mạc Mậu Hợp). Một số quan nhà Mạc 17 người xin đầu  hàng là Đỗ Uông, Ngô 

Tạo v.v... Đại quân của Trịnh Tùng đóng ở huyện Vĩnh Lại. Phạm Văn Khoái được lệnh tiến lên huyện Yên Dũng và 

Vũ Ninh (Bắc Giang) bằng đường sông. Mậu Hợp chạy lên bộ vào ở ẩn một ngôi chùa ở huyện Phượng Nhỡn thì có kẻ 

tố cáo. Mạc Mậu Hợp bị Phạm Văn Khoái bắt được và giải về Thăng Long làm tội sống ba ngày rồi chém đầu đem bêu 

ở Thanh Hóa. Trước ngày tàn của mình, Mạc Mậu Hợp đã cử Mạc Toàn thay thế để rãnh tay chống với quân Trịnh. 

Con Mạc Kính Điển là Kính Chỉ cũng tự lập làm vua cùng 100 người trong hoàng tộc và các quan văn võ lại cố quy tụ 

phen nữa ở huyện Thanh Lâm, chiêu tập quân đội được hơn 7 vạn người (Đây là tài liệu của Việt Nam Sử Lược trang 

28159). Mạc Toàn lại theo Mạc Kính Chỉ. Thanh thế quân Mạc nổi lên, chiến cuộc kéo dài được ít tuần. Sau Trịnh 

Tùng tự mình đem quân sang huyện Cảm Giang và Thanh Lâm đánh rất gắt, bắt được Kính Chỉ cùng 60 thủ túc của họ 

Mạc. Theo tài liệu Maybon, có lẽ đúng hơn, thì Mạc Toàn bị bắt sau Mạc Mậu Hợp ít lâu do đó Mạc Kính Chỉ mới lên 

kế vị; có lẽ nào Mạc Toàn còn ở bên ngoài mà Mạc Kính Chỉ lại lên thay rồi Mạc Toàn lại chạy về với Kính Chỉ như 

Việt Nam Sử Lược đã nói.60 Điều chắc chắn là sau đó cả Mạc Toàn cùng Kính Chỉ đều bị tử hình cùng một ngày, chỉ 

khác kẻ bắt trước kẻ bắt sau. Mặc dù bị chém giết bắt bớ nhiều như vậy, con cháu nhà Mạc vẫn không tuyệt. Nhà Mạc 

còn chiến đấu dai dẳng cho tới hơn 80 năm sau nữa (1677) mới hết hẳn61. Tính ra nhà Mạc khởi nghiệp từ 1522 đến 

1592 mới tạm ngừng, vừa đúng 65 năm ở ngôi ngự trị suốt cả miền Bắc, lấy Thăng Long làm thủ đô, đàng hoàng như 

mọi triều vua trước và sau. Duy từ 1592 trở đi, con cháu họ Mạc bắt đầu tàn, phải rời khỏi Thăng Long để lên chiếm cứ 

từ Trung du và duyên hải miền Bắc lên đến Cao Bằng cho tới 1667 mới tuyệt. Vậy sử thần cần chép rằng nhà Mạc có 

hai thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất là thời ngự trị toàn cõi miền Bắc, hưng thịnh như các tiền triều. Thời kỳ thứ hai là thời kỳ 

thất thế chỉ còn nắm giữ được nửa xứ Bắc từ vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên trở lên mà thôi, cũng kéo dài 

được trên nửa thế kỷ nữa. 

[ 59 Trong giờ phút đen tối này mà chỉ trong ít ngày nhà Mạc lại chiêu mộ ngay được sáu, bẩy vạn quân thì rõ lòng 

dân không phải không theo họ Mạc. Có lẽ nhà Mạc bại vì những người lãnh đạo kém tài mà thôi. Việt Nam Sử Lược 

trong trang 282 nói: ỔChỉ tiếc vì họ Mạc không ai chịu theoỖ Chúng tôi không đồng ý theo lẽ trên ] [60 Theo Mạc 

triều thế phổ thì Mạc Kính Chỉ là chú ruột Mạc Mậu Hợp, tức là ông chú của Mạc Toàn. Ta có thể nghĩ rằng lúc này 

họ Mạc đang suy bỉ mà ông cháu tranh nhau ngôi vị chăng? Nếu có sự tranh giành thì Mạc Toàn khi nào lại theo Kính 

Chỉ. Vậy xin lưu ý độc giả sự kiện này cho hợp với sự thật.] [ 61 Các sử gia Pháp cũng chép sau khi rút khỏi thủ đô 

Thăng Long, nhà Mạc còn kéo dài được hơn 80 năm nữa ]

Sau cuộc đại thắng nhà Mạc, Trịnh Tùng cho người đón vua Thế Tông ra Thăng Long và mở tiệc ăn mừng cùng khao 

thưởng tướng sĩ. Từ giai đoạn này nhà Lê trở về cố đô, còn con cháu nhà Mạc bị phiêu bạt khỏi miền Trung châu xứ 

Bắc nhưng vẫn không thoái chí. Năm sau, tông thất nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn lại tôn lập con Mạc Kính Điển là Mạc 

Kính Cung giữ châu Yên Bắc ở đất Lạng Sơn làm căn cứ nhưng chẳng bao lâu lại bị Thái úy Hoàng Đình Ái đuổi sang 

Long Châu. Nấn ná tại đây được ít tháng, Mạc Ngọc Liễn lâm bịnh rồi trước khi chết để thư lại cho Kính Cung khuyên 

đừng tranh giành với họ Trịnh nữa: "Nay nhà Lê lại nổi lên được, đó là việc trời định, dân có tội gì mà khổ mãi vì chiến 

tranh? Nên đành phận mình ở nước ngoài, còn hơn là ganh nhau lại rước người Tàu sang, làm hại cho dân nước". Lời 

khuyến cáo tốt đẹp này không được con cháu họ Mạc nghe theo, nay xưng vương nơi này, mai dấy quân nơi khác 

khiến họ Trịnh cũng lao tâm khổ trí khá nhiều. Và sở dĩ con cháu họ Mạc còn hoạt động, một phần cũng bởi nhà Minh 

vẫn tiếp tục giúp đỡ mà dân chúng cũng chưa bỏ hẳn họ Mạc. Theo Việt Nam Sử Lược trong đám con cháu họ Mạc 

còn có Mạc Kính Chương xưng Tráng Vương ở Đông Triều, Quảng Yên bị Trịnh Tùng cử trấn thủ Hải Dương là Phan 

Ngạn đánh dẹp và bắt được. Lại có Mạc Kính Dụng (con Mạc Kính Chỉ) giữ đất Yên Bắc (Lạng Sơn) xưng Uy Vương 

sau cũng thất bại. Năm Kỷ Hợi (1599) vua Thế Tông qua đời, hoàng tử Duy Tân lên thay, lấy hiệu Kính Tông. Năm 

sau, bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm và Bùi Văn Khuê nổi loạn ở cửa Đại An (Nam Định) vì họ Trịnh kiêu hãnh và lộng 

quyền thái quá. Về phía con cháu nhà Mạc cũng không ngừng chống đói, phần bọn Bùi Văn Khuê cũng có một lực 

lượng đáng kể nên Trịnh Tùng lại rút quân về Thanh Hóa. Nhà Mạc trước tình thế này liền tôn thứ mẫu của Mạc Mậu 

Hợp là Bùi Thị lên làm Quốc mẫu rồi đón Mạc Kính Cung ở Cao Bằng về, tiếp tục chiến tranh ở trung châu Bắc Việt. 

Sau bọn Bùi Văn Khuê và Phan Ngạn nghi ngờ mà giết lẫn nhau, còn Ngô Đình Hàm chạy qua phía nhà Mạc.  Trịnh 

Tùng lúc này lo chống Mạc ở miền Bắc, lại ngại họ Nguyễn ở phương Nam đánh thốc lên nên cho người vào gặp 

Nguyễn Hoàng lúc này kế nghiệp cha là Nguyễn Kim làm trấn thủ ở Thuận Hóa. Được rõ thái độ của Nguyễn Hoàng 

không có ý phá Trịnh vì kiêng nể nhà Lê nên Trịnh Tùng có thể đem quân ra Bắc phen nữa. Thủy, bộ đại quân của 

Trịnh bắt được Bùi Thị giết đi còn Mạc Kính Cung chạy thoát được về Cao Bằng. Dưới đời vua Lê Thần Tông (1619-

1643) Mạc Kính Cung lại nhiều lần chiêu tập được những quan lại bất mãn của họ Trịnh khởi binh đánh nhau với họ 

Trịnh. Năm 1625, Kính Cung cũng bị bắt rồi bị giết. Mạc Kính Khoan là cháu Mạc Kính Cung về hàng vua Thần Tông, 

được phong tước Thái úy Thông quận công, cho giữ đất  Cao Bằng nhưng con là Mạc Kính Hoàn không chịu nộp 

cống,  năm 1660 chúa Trịnh Tạc lại đem quân đánh lui nhiều phen, sau Kính Hoàn theo Ngô Tam Quế chống lại nhà 

Thanh bị tướng Trịnh là Đinh Văn Tả chiếm mất Cao Bằng. Hoàn chạy sang Long Châu bị quân Thanh bắt được giải 

sang trả cho Trịnh. Từ đấy họ Mạc hết quật khởi, nhưng con cháu có nhiều người được về làm quan với nhà Lê.  

322 Việt Sử Toàn Thư 

 Phần 3 - Chương 13

 Nước Việt Nam Từ Bắc Vào Nam (1674-1775)

 1- Họ Trịnh Làm Chúa Miền Bắc Như ta thấy từ đầu Thế kỷ thứ XVI, sân khấu chính trị Việt Nam đã trở nên một bãi 

chiến trường đẫm máu suốt cả một trăm năm giữa hai họ Mạc Trịnh qua thượng bản XVII thì họ Mạc suy tàn, họ 

Nguyễn tại Thuận Hóa bắt đầu thay thế vào vai trò của họ Mạc cũng không ngoài mục đích tranh giành vương bá, cả 

hai họ Trịnh Nguyễn đều nêu cao chiêu bài "Phù Lê". Họ Trịnh bắt đầu từ Trịnh Kiểm chưa có thái độ gì quá đáng 

nhưng vì Trịnh Tùng sau khi dẹp được họ Mạc liền lên mặt kiêu hãnh với khắp mọi người, lấn áp cả Vua, bất chấp dư 

luận quốc dân, Trịnh Tùng còn lộng hành thêm nữa vì đã thành công trong việc bang giao với nhà Minh, tuy việc này 

không được thắng lợi đầy đủ như vua Lê và họ Trịnh mong muốn để thêm uy tín trước nhân dân. Khi họ Trịnh đã vào 

được Thăng Long và thấy tình thế bất lợi, người nhà Mạc sang kêu với vua Minh rằng họ Trịnh nổi lên tranh ngôi chớ 

không phải con cháu nhà Lê. Một phái đoàn của Minh triều được cử sang Nam Quan khám xét. Tháng 3 năm Bính 

Thân (1596) các quan nhà Lê là Hộ Bộ thượng thư Đỗ Uông, Đô Ngự Sử Nguyễn Văn Giai (sau lại có hai hoàng thân 

Lê Cánh, Lê Lựu cùng Công Bộ Tả Thị Lang Phùng Khắc Khoan) đem 10 người kỳ mục, 100 cân vàng 1.000 cân bạc, 

và cái ấn An Nam Đô Thống Sứ của nhà Mạc và cái ấn An Nam Quốc Vương của vua Lê ngày trước lên trình các quan 

nhà Minh. Các quan nhà Minh đòi vua Lê Thế Tông phải lên gặp họ. Trịnh Tùng đành cử Hoàng Đình Ái, Nguyễn 

Hữu Liêu đem một vạn quân đi hộ giá. Nhà Minh đòi phải nộp người vàng và ấn vàng như cũ, rồi không chịu đến hội. 

Chờ không lâu được vua Thế Tông lại trở về. Tháng tư năm sau, nhà Minh lại mở cuộc họp thứ hai cũng vẫn tại Nam 

Quan. Lần này 5 vạn quân đi hộ vệ nhà vua cũng do Hoàng Đình Ái chỉ huy, chừng e quan nhà Minh trở mặt bắt vua 

Lê chăng. Cuộc đàm phán thành tựu vì phái đoàn của nhà Lê chịu nhận chức Đô Thống Sứ và cử phái đoàn sang nộp 

cống tại Yên Kinh, sau này Phùng Khắc Khoan còn dâng sớ cố nài nhà Minh phong vương cho vua Lê. Từ đó hai 

nước có sự thông sứ như trước còn nhà Mạc thì được nhà Minh can thiệp nên nhà Lê phải để cao bằng thuộc quyền 

nhà Mạc. 

Năm Kỷ Hợi (1599) Trịnh Tùng tự Xưng làm Đô Nguyên Súy, Tổng Quốc Chính Thượng Phụ Bình An Vương, chỉ cho 

vua Lê thu thuế 1.000 xã gọi là lộc Thượng tiến và 5.000 lính làm quân túc vệ, 7 con voi và 20 chiến thuyền. Rồi Trịnh 

Tùng lập phủ Liêu là một triều đình riêng gồm Lục Phiên (cũng như lục bộ), tự quyền đặt quan, thu thuế, bắt lính và 

chỉ khi nào có dịp long trọng đặc biệt mới mời vua ra để thiết triều hay tiếp sứ. Tóm lại vua Lê chỉ còn hư vị, mọi quyền 

hành đều qua phủ Chúa hết. Từ đó chế độ phong kiến toàn thịnh ở Việt Nam ra đời và con cháu nhà chúa đuợc cả 

quyền thế tập với danh vị là Thế Tử (thái tử là con vua, thế tử là con chúa). Trước sự hống hách của Trịnh Tùng, vua 

Kính Tông (là con vua Thế Tông, mất năm Kỷ hợi 1599) húy là Duy Tân lên ngôi năm 1600 (niên hiệu Thận Đức) 

không chịu nổi, nhân con Trịnh Tùng là Trịnh Xuân muốn tranh quyền với anh cả là Trịnh Tráng liền mưu giết Trịnh 

Tùng. Công việc bại lộ Trịnh Tùng bức vua thắt cổ giữa năm 32 tuổi. Hoàng tử Duy Kỳ lên thay tức là Thần Tông  

Năm Quý Hợi (1623) binh quyền của nhà chúa được chia cho Trịnh Tráng và Trịnh Xuân, một làm chánh, một làm phó. 

Nhưng Trịnh Xuân không chịu, nổi loạn đốt Kinh thành, Trịnh Tùng phải chạy về xã Hoàng Mai (một làng ngoại ô Hà 

Nội ngày nay) ngụ tại nhà Trịnh Đỗ. Trịnh Tùng dụ được Trịnh Xuân đến rồi giết đi. Mấy hôm sau thì Trịnh Tùng mất 

ở chùa Thanh Xuân, thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Vì thời cuộc bấy giờ còn rối ren, dư đảng của Trịnh Xuân 

còn hoạt động, Trịnh Tráng phải tạm thời đưa vua về Thanh Hoá. Tráng được vua phong làm Thái Uý Thanh Quốc 

Công, Tiết Chế Thủy Bộ Chư Quân. Sau này dẹp xong Mạc Kính Khoan, bình định được Đông Đô. Trịnh Tráng lại 

rước vua ra Bắc và tự xưng là Nguyên Súy Thống Quốc Chính, Thanh Đô vương. Kể từ thế kỷ XVI, có thể nói rằng uy 

quyền của con cháu vua Lê Thái Tổ không còn gì nữa, họ Trịnh còn công khai giết vua này, lập vua khác, làm mưa gió 

trên sân khấu chính trị miền Bắc như không còn biết có ai dưới mắt nữa. Lúc này (1644) bên Trung Quốc nhà Thanh 

dấy nghiệp và thay thế nhà Minh sau khi Quế Vương, ông vua chót của tiền triều chạy qua Miến Điện thì bị bắt và bị 

giết

 2- Họ Nguyễn Xưng Hùng Tại Phương Nam 

 Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, Non xanh nước biết như tranh họa đồ. Ai vô xứ Nghệ thì vô?62                                      

[ 62 Đây là câu ca dao tuyên truyền cho nhà Lê khi mới nổi lên ở hai miền Thanh-Nghệ. ]

A. Giai đoạn thứ nhất 

Trong khi họ Mạc, Trịnh chống nhau gay gắt, đồng thời với Trịnh Tùng (kể từ khi Trịnh Kiểm qua đời là năm Canh 

Ngọ (1570) một nhân vật kiệt hiệt không kém bắt đầu lộ diện, Nguyễn Hoàng. Nguyễn Hoàng là con thứ hai của 

Nguyễn Kim mà các sử thần nhà Nguyễn đã đề cao vai trò phù Lê diệt Mạc và bị tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất 

đánh thuốc độc năm Ất Tỵ (1545). Dòng họ Nguyễn kể từ Nguyễn Hoằng Dụ với Nguyễn Kim đã được thiên hạ liệt kê 

vào các anh hùng thời đại, rồi tới con cháu là Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng người ta cũng thấy có nhiều khả năng và 

thủ đoạn lợi haị. Trịnh Kiểm là kẻ tinh đời thấy hai ông em vợ sớm muộn có thể trở thành nguy hiểm cho cái địa vị độc 

tôn của mình thuở ấy. Anh em Hoàng bấy giờ đang từng phục vụ dưới cờ của Trịnh Kiểm, lập được nhiều công lao. 

Nguyễn Uông được phong làm Lạng Quận Công, Hoàng được tưóc Đoan Quận Công. Rồi Nguyễn Uông chết. Người 

ta ngờ Uông đã bị độc thủ của ông anh rể. Ư Kỷ là Thái Phó của nhà Lê bây giờ và là anh cả của mẹ Nguyễn Hoàng 

thấy thế nguy hiểm khuyên Nguyễn Hoàng một thời giả ngây dại để khỏi bị Trịnh Kiểm để ý63. Trong lúc này gia thần 

của Kiểm là Nguyễn Hùng Long thúc dục Kiểm trừ Nguyễn Hoàng để tránh hậu họa. Sau này Nguyễn Hoàng ngày 

đêm tìm cách lánh xa Trịnh Kiểm, thấy không còn cách nào hơn là nhờ bà Ngọc Bảo (chị của Nguyễn Hoàng) vận 

động cho mình đi vào Thuận Hóa với chức vụ Trấn Thủ. Dịp may là lúc này Thuận Hóa thường vẫn bị người Chàm 

quấy rối, mặc dầu đất này đã thuộc về ta từ một thế kỷ. Thêm vào đó Thuận Hóa cũng như Quảng Nam hay bị nhà 

Mạc đem quân vào đánh để chia lực lượng của nhà Lê. Trịnh Kiểm bèn chấp thuận đề nghị của vợ. Người ta nói rằng 

trong khi có mưu định đi Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã cho người ra Hải Dương hỏi ý kiến cụ Trạng Trình. Cụ đang 

đứng ngắm hòn giả sơn trước nhà và tại đây một đàn kiến đang bò theo chân ngọn núi. Cụ chỉ vào giả sơn nói: 

"Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân"64. Thế là Hoàng yên trí lên đường vào cuối năm Mậu Ngọ (1558) đời vua 

Anh Tông, mang theo một số bà con họ hàng và binh sĩ vốn ở đất Thanh Nghệ. Hoàng bấy giờ đã 34 tuổi. Nơi đồn trú 

đầu tiên của Nguyễn Hoàng là xã Ái Tử (sau gọi là kho Cây khế) thuộc huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị ở giáp 

ranh của hai phủ Tân Bình và Triệu Phong. Tại Quảng Nam bấy giờ cũng có một quan Tổng binh là Nguyễn Bá 

Quýnh.Vào năm Kỷ Tỵ (1569) Hoàng ra chầu vua ở An Tràng, lại sang thăm Trịnh Kiểm rất là thân thiết. Qua năm sau 

(1570) Trịnh Kiểm cho triệu Nguyễn Bá Quýnh về kinh. Quảng Nam từ đó hợp vào Thanh Hóa và đặt dưới quyền của 

Hoàng, định lệ mỗi năm Hoàng phải nộp 400 cân bạc và 500 tấn lụa.                                       

[ 63 Nguyễn Kim khi xưa có gửi Ư Kỷ nuôi Nguyễn Hoàng từ năm hai tuổi để rảnh tay chạy qua Ai Lao vận động sự 

giúp đỡ của quốc vương xứ này cho con cháu nhà Lê.] [ 64 Nghĩa là: một giải Hoành Sơn có thể bao dung cho vạn đời. 

Cụ Trạng khuyên Hoàng vào Thuận Hóa để yên thân. ]

Chuyện này thành tựu, Hoàng cho người con thứ sáu vào trấn Quảng Nam và khuếch trương mọi việc. Các sử sách từ 

trước đến nay chép về Nguyễn Hoàng đều có sự khen ngợi ông là người khôn ngoan, có tài tổ chức, biết cách trị dân 

nên được dân chúng rất mến yêu. Chẳng bao lâu vùng Thuận Hóa của ông trở nên trù phú sầm uất. Sau khi Hoàng 

vào Thuận Hóa được một năm hai tỉnh Thanh Nghệ bị lụt to, nhiều dân ở các vùng lụt đã di cư vào Thuận Hóa để nhờ 

cậy. Năm Nhâm Thân (1572) Trịnh Kiểm vừa mất, Trịnh Tùng và Trịnh Cối dành nhau quyền bính như trên đã nói, sau 

đó Trịnh Cối thua chạy sang hàng nhà Mạc. Lúc này (1572) Mạc động binh dánh cả Trịnh lẫn Nguyễn tại Thanh Hóa 

và Thuận Hóa nhân giữa Nguyễn Hoàng và Trịnh Tùng có sự xung đột nhưng Mạc không thành công. Nguyên Trịnh 

Tùng vừa nắm được địa vị thay cha liền khiến ngay Tham đốc Mỹ Lương (Mỹ Lương là người huyện Khang Lộc, phủ 

Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình ngày nay) vào Thuận Hóa thâu thuế nhưng bề trong có lẽ Mỹ Lương được chỉ thị mật65 

đi đánh Nguyễn Hoàng thì phải hơn. Hai em là Văn Lan và Nghĩa Sơn được lĩnh chức thủ vệ. Được cơ hội thuận tiện 

bọn này chiếm luôn huyện Võ Xương (phủ Triệu Phong tỉnh Quảng Trị bây giờ) và Minh Linh trong khi Mỹ Lương do 

đường núi vượt qua địa phận Bái Trời và Cam Lộ tới Ngọa Kiều cách thành Quảng Trị bốn cây số về phía Nam. Đây có 

giòng sông nối Quảng Trị vào Thừa Thiên. Rồi hai đạo quân của Trịnh đánh nhất loạt vào căn cứ của Nguyễn Hoàng.  

Nhờ được biết trước kế hoạch này, Nguyễn Hoàng cũng chia quân làm hai cánh, một giao chỉ huy cho Trương Trà gốc 

gác ở Tống Sơn (cùng quê với Hoàng) đón đánh quân Nghĩa Sơn. Còn Hoàng thân giữ mạn Ngọa Kiều, quân Trịnh bị 

đánh bất ưng tan vỡ ngay. Mỹ Lương bị bắt sống rồi bị giết, doanh trại bị đốt sạch sẽ. Còn quân của Trương Trà gặp 

quân Nghĩa Sơn ở trên quan lộ phía Bắc Quảng Trị ba chục cây số tại làng Phúc Thị. Quân Nguyễn lúc đầu bị bất lợi vì 

chủ tướng bị bắn không còn gượng được, đã tính tháo chạy thì vợ Trương Trà vội mặc quân phục thay chồng chỉ huy 

lại thúc quân tiến lên. Người đàn bà này họ Trần và chính bà ta đã chém được Nghĩa Sơn. Văn Lan thấy anh tử trận 

núng thế đành rút về với họ Trịnh. Năm Nhâm Thân (1572) sau khi đánh Thanh Nghệ vô kết quả (dưới quyền chỉ huy 

của Mạc Kính Điển) thì quân Mạc tiến vào Thuận Hóa do tướng Lập Bạo (tước Quận Công người Bố Chính) kêu gọi. 

Mạc còn cho 60 chếc thuyền do hải đạo vào đóng làng Hồ Xá và Lãng Uyển qua cửa Việt. Theo sách "Việt Nam Khai 

Quốc" thì lục quân của nhà Mạc có 1.000 người đi từ Khang Lộc tới. Hai bên cách nhau chừng vài cây số thấy quân 

Mạc mạnh và thiện chiến vì đã đánh nhiều ở chiến trường miền Bắc. Hoàng liền dụng mưu. Ông kiếm được một cô gái 

thật đẹp là Ngô Ngọc Lâm66 (người làng Thế Lai huyện Hương Trà) sai mang vàng lụa sang  cầu hòa.                               

 [65 Vụ Mỹ Lương và Lập Bạo đánh quận Thuận Hóa có thể được coi là một chuyện miền Bắc thử sức miền Nam xem 

mạnh yếu thế nào. Trịnh lấy cớ cho người vào Thuận Hóa thâu thuế cốt để Thuận Hóa không ngờ thì đánh mới dễ có 

kết quả.] [ 66 Ngô Thị sau được gả cho một vị quan của chúa Nguyễn. ]

Lập Bạo chịu liền tin rằng Trịnh Nguyễn xung đột với nhau thì Mạc với Nguyễn đoàn kết để diệt Trịnh là điều hợp lý 

và có lợi.  Lập Bạo không phòng xa nên lúc đến gặp Nguyễn Hoàng thì bị quân của Nguyễn phục kích bắn chết và 

đánh tan hết quân của Lập Bạo, một bọn chịu hàng được đưa vào khẩn hoang ở vùng Tây Bắc Quảng Trị (vùng Bái 

Trời) lập được thêm 36 làng quanh Cồn Tiên. Năm Quý Tị (1593) vào tháng năm, Trịnh Tùng đuổi được nhà Mạc ra 

khỏi thành Thăng Long nhưng lực lượng của nhà Mạc vẫn còn hoạt động ở nhiều nơi. Nguyễn Hòang đem quân đội 

ra chúc mừng vua Lê thắng trận và ở lại Bắc Hà luôn 8 năm để giúp vua. Ông lập được nhiều chiến công nhưng họ 

Trịnh vẫn không hết e ngại. Tháng 5 năm Canh Tý (1600) bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm, Bùi Văn Khuê nổi loạn 

chống họ Trịnh. Nguyễn Hoàng tình nguyện đi chinh phạt, rồi Hoàng cho đốt doanh trại và đem thẳng quân bản bộ 

do đường thủy qua cửa Đại An về Thuận Hóa. Trịnh Tùng cho binh sĩ đuổi theo nhưng không kịp. Về được đến nhà, 

sau đó 5 tháng Hoàng đem con gái là nàng Ngọc Tú ra gả cho Trịnh Tráng là con Trịnh Tùng và đồng thời lấy lời nói 

khéo dâng biểu xin lỗi vua Lê Thế Tông cùng họ Trịnh. Sau khi Hoàng thoát khỏi nanh vuốt của họ Trịnh, Trịnh cho 

Thiêm Đô Ngự Sử Lê Nghĩa Trạch mang một bức tâm thư vào cho Hoàng. Chúng tôi gọi là bức tâm thư vì Trịnh Tùng 

không lấy danh nghĩa triều đình mà viết cho Hoàng, trái lại Tùng lấy tình cháu mà gởi thư cho cậu ruột. Bức thư này 

viết rất khéo léo, rất chánh trị đã đề cập đến các vấn đề dưới đây: 

1) Ca ngợi tài đức của Nguyễn Hoàng, những tài đức này do tổ tiên là những bậc anh hùng hào kiệt để lại. 

2) Nêu cái tình thân mật đặc biệt giữa Hoàng và Tùng nói riêng giữa hai họ Trịnh-Nguyễn nói chung.

 3) Nói đến sự nghiệp phục hưng hoàng triều, diệt Mạc phù Lê là công lao của hai họ. 

4) Nhắc nhở đến điểm Trịnh vẫn luôn luôn đề bạt Nguyễn vào những chức vụ quan trọng trong nước; ngay cả khi 

Trịnh dẹp xong Mạc vô cùng vất vả gian lao Hoàng mới ra Bắc mà vẫn được giữ chức lớn (quản đốc phủ Hà Trung 

thuộc tỉnh Thanh Hóa và 7 huyện thuộc Sơn Nam với chức Hữu Tướng). 

5) Trách Hoàng nhân địp có vụ loạn Bùi Văn Khuê, Phan Ngạn, Hoàng xin đi đánh rồi về thẳng Thuận Hóa. Trong 

việc này Tùng phàn nàn Hoàng và có ý ngờ Hoàng bí mật nhúng tay vào vụ loạn hay đồng lõa với phiến loạn mà 

Tùng không dám nói ra một cách quyết liệt. 

6) Khuyến cáo Hoàng kíp sửa đổi những điều lầm lỡ, cho người mang thư ra xin lỗi vua Lê cùng lo nộp thuế cho Triều 

đình để cung ứng cho các nhu cầu của Nhà nước, như thế là vẫn giữ được thanh danh của mình và của tổ tiên, nếu cứ 

ngang ngạnh nhà vua sẽ đem quân trị tội, e lúc đó là hối tiếc quá muộn.  

Rồi Hoàng tiếp được thư này rất niềm nở, hậu đãi sứ giả, theo lời Tùng dâng biểu lên vua Lê và đề nghị kết thông gia 

với Tùng như trên đã nói... Về vấn đề lương thuế giữa nhà Lê và họ Nguyễn, sử chép có những vụ lôi thôi như sau: 

Năm Bính Tuất (1586) Tùng cho Hiến Sát Sứ Nguyễn Tạo vào Thuận Hóa khám xét ruộng đất. Do việc này ta thấy việc 

Hoàng đóng góp với Lê triều bây giờ có lẽ rất sơ khoáng, nên kể từ 1600 tình thế giữa hai họ Trịnh-Nguyễn trở nên 

căng thẳng, việc thuế cống hẳn thất thường cho tới 1620 vấn đề thuế má đã thành cớ cho Trịnh đem quân vào hỏi tội 

Nguyễn. Sau những vụ lộn xộn với hai họ Trịnh, Mạc trên đây Hoàng được rảnh tay để mở mang địa phương của mình 

về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội và quân sự. Với Chàm năm 1607 Hoàng có mở cuộc kết giao và do một phái bộ 

ngoại giao gởi đến, nhưng việc này không được lâu bền. Hai năm sau Chàm xua quân vào đất Quảng Nam bị Hoàng 

đánh lui sau đó Hoàng chiếm thêm của Chiêm Thành một phần đất để lập ra tĩnh Phú Yên gồm ba phủ dưới đây : 1) 

Phủ Thăng Hoa có 3 huyện: Lê Giang, Hạ Đông, Hi Giang. 2) Phủ Tư Nghĩa có 3 huyện: Bình Sơn, Mộ Hóa, Nghĩa 

Giang. 3) Phủ Hoài Nhơn có 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn. Sử gia Pháp Maybon còn nói rằng Hoàng thành 

công trong việc kiến tạo giang sơn và sự nghiệp ở miền nam nhờ ở bàn tay của một số quan lại và tướng lãnh miền 

Bắc đã mến cái đức của Hoàng mà tới. Rồi với cái thời gian 55 năm yên ổn từ 1572 đến 1627, họ Nguyễn đã xây dựng 

được khá nhiều cơ sở ở Nam Hà với 3 tỉnh Quảng Bình, Thuận Hóa, Quảng Nam, và dần dần trở nên cường thịnh. Do 

những thực lực khuếch trương kể trên sau này họ Trịnh phải chịu công nhận nền tự chủ của họ Nguyễn và lấy con 

sông Gianh làm đường phân giới cho hai miền Nam Bắc. 

B. Giai đoạn thứ nhì. 

Trong giai đoạn đầu tiên ta thấy Trịnh-Nguyễn chưa ra mặt chống nhau. Cả hai tuy bên trong muốn ăn gan nuốt mật 

nhau nhưng vẫn e dè sự dị nghị của quốc dân, nên thư đi từ lại vẫn dùng lời lẽ nhân nghĩa, ôn hoà. Đôi bên còn tiếp 

tục thông gia với nhau và Trịnh còn đề nghị thăng tước cho chúa Nguyễn là khác (địa vị của chúa Nguyễn chỉ kém 

chúa Trịnh mà thôi. Trịnh được phong vương còn Nguyễn chỉ đuợc đến tước Công là hết. Tước của Hoàng tới 1593 là 

Đoan Quận Công, còn khi Hoàng vào làm Trấn thủ Thuận Hóa, Hoàng mới được có chức Thái Phó). Việc này khiến họ 

Nguyễn rất uất ức, vì Nguyễn nghĩ rằng ít nhất địa vị của mình phải ngang địa vị của Trịnh, bởi họ Nguyễn đã có công 

trung hưng nhà Lê. May nhờ được rảnh rang trên nửa thế kỷ, Nam Hà xây dựng tổ chức được mọi việc trở nên hùng 

mạnh không thiếu về một phương diện nào, thì sự kình địch, sự ghen ghét giữa hai họ càng nẩy nở thêm lên cho tới 

năm Canh Thân (1620) cuộc xung đột bằng sắt máu bùng ra không còn che đậy được nữa.  Quân lực của Trịnh-

Nguyễn nếu so sánh có khác nhau nhiều. Những giáo sĩ ngoại quốc từng ở Việt Nam thuở đó kể rằng bộ binh của Bắc 

Hà có tới 100.000 người, 500 thớt voi, 500 chiến thuyền lớn, mỗi chiến thuyền có ít nhất là 3 chiếc thần công (đại bác) 

yểm hộ. Theo A. de Rhodes, lực lượng thủy quân này với sự mau lẹ của hỏa lực có thể khuất phục được cả chiến hạm 

Âu Châu thường vãng lai trên bờ biển Trung Hoa thuở đó. Về quân lực của nhà Nguyễn, các sử của ta không thấy nói 

rõ rệt mà các nhà viết sử ngọai quốc cũng không đưa ra được những con số nào khả dĩ chuẩn đích, người ta chỉ biết 

rằng Nguyễn ít lính và chiến thuyền hơn Trịnh, bởi sông ngòi ở đây chật hẹp nên chúa Nguyễn không tính đến thủy 

chiến chăng? B. Vachet trong cuốn ký ức lục về Nam Hà do Linh Mục L. Cadière xuất bản năm 1943 (Mémoire sur la 

Cochinchine) nói tuy vậy trong năm 1674 các chúa Nguyễn có 133 chiến thuyền, nhưng lục quân của họ Nguyễn đáng 

kể hơn cả. Các giáo sĩ cũng nói Nguyễn có tới 40.000 quân chia ra như sau: 15.000 canh phòng biên giới -- 9.000 đặt tại 

Kinh đô -- 6.000 phòng vệ Hoàng Gia và các thân vương -- 1.000 trấn các tĩnh. Nhờ sự giao dịch với người Bồ Đào 

Nha, có thể Nguyễn đã tu chỉnh được một phần nào về vũ khí của mình như đóng tàu chiến, đúc súng đại bác và xây 

thành đắp lũy rất là kiên cố để chống nhau với quân Bắc. Và nói đến thành lũy là nói đến lũy Trường Dục và thành 

Đồng Hới do Đào Duy Từ kiến thiết quả đã bảo vệ được miền Nam rất có nhiều hiệu lực, nếu không, với những cuộc 

tấn công ào ạt của miền Bắc, tình thế của Nam Hà khó mà giữ vững.  

329 Việt Sử Toàn Thư 

 Phần 3 - Chương 14 

Trịnh - Nguyễn Phân Tranh (1627-1775) 

 Giai Đoạn Gây Hấn Công Khai 

Trong những năm đầu của thế kỷ XVII chính sự Trung Quốc đi đến chỗ biến chuyển mạnh mẽ, nhà Minh đã chống đỡ 

một cách rất yếu ớt cuộc tấn công của nhà Thanh bấy giờ đã thôn tính gần hết hai phần Hoa Bắc và Hoa Trung, con 

cháu nhà Mạc tại miền Cao Bắc Lạng mất hậu thuẫn về phía Trung Quốc tuy chưa hoàn toàn quỵ hẳn nhưng sự vẫy 

vùng cũng đã trở nên uể oải. Trịnh không còn thắc mắc nhiều như xưa về kẻ thù sát nách ấy nên liền chỉ ngọn cờ 

"Điếu phạt" về Nam Phương. Lúc này con chim Bằng Thuận Hóa cũng đã đủ lông đủ cánh để bay bổng dưới vòm trời 

Việt Nam (Đinh Mão 1627).  Trịnh nhận định rằng nếu không sớm diệt Nguyễn Thị thì rồi đây Nguyễn cũng sẽ tai hại 

không kém gì Mạc vừa qua, nhất là con cháu của Nguyễn Hoàng nhiều thủ đoạn, lắm mưu trí không thua gì ông cha. 

Trịnh lại còn bồn chồn bởi nỗi Thuận Hoá được một số chuyên viên Bồ Đào Nha và Pháp giúp đỡ rất lợi hại về việc 

đóng các tàu chiến và đúc các đại bác theo kiểu tây phương, mà về phần Bắc Hà vẫn chưa lợi dụng được ngoại quốc 

vào công cuộc đấu tranh của mình. (Maybon chép rằng năm Giáp Dần (1614) chúa Sãi được Jean de la Croix người Bồ 

Đào Nha mở lò đúc súng ở Thuận Hóa. Nơi có lò đúc súng bây giờ vẫn mang tên là Phường Đúc). Nguyễn Hoàng mất 

năm Quý Sửu (1613) thọ 89 tuổi, kế vị Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên con thứ 6, dân chúng gọi là chúa Sãi 

(từ chúa Sãi họ Nguyễn thêm chữ Phúc làm đệm). Chúa Sãi được cha tiểu di: đất Thuận Quảng này, bên Bắc có núi 

Hoành Sơn, có sông Linh Giang; phía Nam có núi Hải Vân và Bi Sơn là đất dụng võ trời dành cho kẻ anh hùng. Phải 

biết thương dân và rèn luyện quân sĩ để gầy dựng sự nghiệp muôn đời... Mười năm sau ở ngoài Bắc Trịnh Tùng qua 

đời, Quý Hợi (1623), Trịnh Tráng nối nghiệp. Tráng liền cho người vào Thuận Hóa đòi số thuế mà miền Nam không 

đóng góp cho triều đình từ 1620, biết rằng họ Nguyễn sẽ chẳng nộp nhưng có thế họ Trịnh mới có cớ hưng binh hỏi 

tội được67.                                        

[ 67 Từ 1620 Sãi Vương quả không nộp thuế cho nhà Lê về hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam. Họ Trịnh cho đòi lương 

thuế chỉ là để biết thái độ của họ Nguyễn mà thôi. ]

 Công Bộ Thị Lang Nguyễn Duy Thì và hoạn quan Phan Văn Trị được cử vào Thuận Hoá đòi thuế chúa Nguyễn. Sãi 

Vương trả lời sứ giả Bắc Hà rằng Thuận Quảng mất mùa luôn không thể nộp lương thuế cho triều đình, xin khất chừng 

nào được mùa sẽ hay. Thiết tưởng cũng cần chép ra đây tờ sắc mà Trịnh Tráng đã lấy lời vua Lê gởi tới chúa Sãi để 

hiểu rõ thái độ của đôi bên: "Hoàng thượng sắc dụ cho Thái Bảo Thụy Quận Công là Nguyễn Phúc Nguyên được biết 

rằng: Mệnh lệnh triều đình đạo làm tôi phải tuân thủ,  Thuế má phủ huyện, tướng cõi ngoài không được tự chuyên.  

Trước đây Trẫm có sai Công Bộ Thượng Thư Nguyễn Duy Thì, Bá Khê Hầu Phan văn Trị vào Thuận Hóa đạo đạt tình 

ý, chỉ bảo đường họa phúc để cho tỉnh biết mà phục tùng quyền chính triều đình. Không ngờ nhà ngươi mang lòng 

dùng dằng, tối đường tới lui, nói thoái thác cho lôi thôi ngày tháng, để đến nỗi thuế má thiếu thốn, không đủ việc chi 

nhu, đạo làm tôi như thế đã phải chưa? Nhà ngươi nay nên đổi lỗi trước giữ gìn phép tắc. Phàm ngạch thuế trong hai 

xứ Thuận Quảng từ năm Quý Hợi về trước, có phải đã mất mùa thì xá cả cho; còn từ năm Giáp Tý đến nay phải tính cho 

đủ theo lệ trước tải thuyền đem ra nạp cho đủ; và phải chỉnh tề binh mã, hoặc thân đến kinh đô triều hạ, hoặc phải sai 

con đi thay, để coi xem nghi vệ trong nước, và để tỏ giãi tấm lòng làm tôi. Nếu thế thì triều đình sẽ phong thêm cho 

tước vinh hiển, để rạng tỏ đến tổ tông. Nhược bằng thoái thác không đến thì tức là phạm tội với triều đình. Khâm tai 

dụ sắc" Thấy sứ giả về không, Trịnh Tráng lại cho sứ quay lại Thuận Hóa một lần nữa. Lần này Tráng không nói đến 

chuyện thuế mà đòi chúa Sãi cho con ra chầu và lấy 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền để cống nhà Minh. Chúa Sãi 

khước từ nốt nhưng tiếp đãi sứ giả thì rất ân cần trọng hậu. 

Đại Chiến Lần Thứ Nhất (Đinh Mão - 1627) 

Trịnh Tráng liền cương quyết gởi Đô Đốc Nguyễn Khải và Thiếu Bảo Nguyễn Danh Thế tháng 8 năm bính Dần (1626) 

đem 5.000 quân làm tiền phong, còn mình đem đại binh và rước vua Lê đi đánh họ Nguyễn sau. Quân trịnh gồm 2 đạo: 

một do Nguyễn Khải đã đến đóng ở Hà Trung sẵn chờ lệnh của Trịnh Tráng. Một đạo dĩ nhiên quan trọng hơn là đại 

quân do vua Lê và Trịnh Tráng chỉ huy. Theo Maybon và Alexandre de Rhodes, tổng số quân đội thủy lục của Bắc 

Hà bấy giờ có tới 200.000. Xét ra với cuộc đại chiến thứ nhất này Trịnh Tráng đã tính quyết liệt ăn thua với họ 

Nguyễn. Còn ngày thường thì quân chính quy chỉ có tới 50.000 mà thôi. Sãi vương được tin quân Bắc tiến vào liền 

phong Hoàng Thân Vệ lãnh quyền Tiết Chế, lục quân trao cho Nguyễn Hữu Dật chức Giám chiến. Con đẻ của chúa là 

Nguyễn Phúc Trung chỉ huy thủy quân để tiếp tay cho Nguyễn Hữu Dật nếu cần dến. 

Quân Bắc đến thì đóng ngay ở phía bắc sông Nhật Lệ thuộc hữu ngạn. Quân Nam cũng cắm trại bên sông này. Bắt 

đầu kỵ binh của Bắc do Lê Khuê cầm đầu xông vào đánh quân của Sãi Vương tính gây một cuộc lộn xộn lớn nhưng 

quân Nam nhờ có đại bác chống trả lại rất có hiệu lực. Quân Bắc liền rút về giữ các cồn cát nổi lên ở cửa sông để tránh 

hỏa lực của quân Nam. Đêm đến quân Nam nhân nước thủy triều dâng lên liền tiến đến đánh úp trại của Nguyễn Khải 

bằng đại bác. Quân của Khải rối loạn thì Tráng đem viện binh tới nên quân Trịnh được bình tĩnh trở lại và đánh chiếm 

được một phần quân nhu của quân Nguyễn. Quân Nguyễn rút lui một hồi rồi tung tượng binh ra. Quân Trịnh hoảng sợ 

bỏ chạy để lại nhiều xác chết trên bãi chiến truờng. Tráng vẫn còn ham chiến, chỉnh đốn lạì quân sĩ ở một nơi xa đó, và 

tính tái chiếm luôn phen nữa. Nguyễn Phúc Dật và một tướng tùy thuộc là Trương Phúc Gia liền lập mưu viết một lá 

thư nặc danh gởi đến cho Tráng nói ngoài Bắc đang có cuộc chuẩn bị dấy loạn của Trịnh Gia và Trịnh Nhạc là anh em 

của Tráng. Tráng sinh nghi lại thấy quân mình bị đẩy lui nhiều phen và bị thiệt hại nhiều liền rút quân về hậu tuyến. 

Cuộc chiến tranh này đã kéo dài đúng bốn tháng, xuất quân vào ngày đầu tháng ba dương lịch, rút lui vào đầu tháng 

bảy.

  Đại Chiến LầnThứ Hai (Canh Ngọ - 1630) 

Trận đánh này khai diễn vào mùa đông do Nguyễn Đình Hùng (cháu gọi bằng ông của Nguyễn Ư Kỷ). Mục tiêu là 

châu Nam Bố Chính đang do Nguyễn Tịch coi giữ và đóng ở Dinh Ngói. Tịch tử trận, tất cả địa phương này về tay 

quân Nguyễn. Trai tráng ở đây bị quân Nguyễn xung vào làm lính được 24 đội, đổi tên cũ ra Dinh (ý nghĩa cũ của Dinh 

là nơi vua chúa ở, năm 1626 Dinh đổi ra Phủ. Sau này Dinh chỉ có nghĩa là một đơn vị hành chánh mà thôi, và đặt ở đây 

một quan Trấn Thủ. Dưới đời Võ Vương sau này giang sơn của họ Nguyễn chia ra làm 12 dinh tức là tỉnh bộ ngày 

nay). Trương Phúc Chấn được cử đến làm Trấn Thủ đầu tiên ở địa hạt này. Đầu năm 1634 quân Bắc lại vào. Bia Trường 

Kiều chép rằng: vào tháng 12 (31 tháng 12, 1633 - 28 tháng 1, 1634) Trịnh Tráng họp quân thủy bộ mở cuộc Nam chinh. 

Chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Dật làm Đốc Chiến cà Chưởng Cơ ra ngăn địch. Quân Trịnh ngừng lại và giữ thế thủ 

cách Đồng Hới không xa. 

Hữu Dật ra lệnh tấn công. Quân Trịnh yếu thế trở nên rối loạn, thiệt hại đến một nửa rồi bỏ chạy. Lúc này người con 

thứ ba của chúa Sãi tên là Ánh ngầm tổ chức một cuộc đảo chính và thông đồng với chúa Trịnh. Năm Tân Vị (1631) 

con cả của Sãi Vương là Kỳ Trấn Thủ Quảng Nam chết. Ánh bấy giờ là Chưởng Cơ được thay thế cùng với em là Tứ 

(con thứ tám của chúa Sãi) giữ chức Tham tướng (phó tướng). Sãi vương không ưa Ánh vì tính kiêu ngạo và bất nhất 

nên có phần nghi ngờ bèn đặt một ký lục tên là Phạm rất thân với người con thứ hai của chúa là Nguyễn Phúc Lan 

(chúa Thượng) để dò xét Ánh. Sau này nhờ có Phạm mà chúa Sãi biết Ánh có dị chí. Về phần Ánh biết rằng không thể 

với vài trăm thủ túc mà cướp được địa vị của cha nên Ánh phải nhìn về Trịnh. Nhưng Quảng Nam xa, chỉ còn cách xin 

ra Quảng Bình làm Trấn Thủ thì Ánh mới dễ tư thông với Trịnh được. Do đó Ánh mới cử người ra điều đình ngầm với 

Lý Minh là văn chức ở tỉnh Quảng Bình vận động nhân dân đòi triệu hồi Trấn Thủ Tuấn là cháu của chúa Nguyễn 

Hoàng rồi xin cho Ánh ra thay. Sãi Vương thấy dân kêu ca vì sự hà khắc của Tuấn nên tin lời và cho Ánh ra Quảng 

Bình. Nhưng khi sắc phong tới Quảng Nam, Ánh lại vắng mặt bởi cuộc đi săn luôn một tuần lễ. Chúa giận nên cử 

Nguyễn Cửu Kiều. Ánh vẫn không thoái chí cho hỏi dò Lý Minh về Kiều. Lý Minh nói Kiều là người nhút nhát, nếu 

quân Trịnh vào ắt Kiều sẽ bỏ chạy. Được tin Trịnh Tráng vội đưa quân vào Nhật Lệ. Chúa Sãi liền mang quân cự địch. 

Khi quân Trịnh - Nguyễn đối diện nhau, Trịnh bắn đại bác làm hiệu cho Ánh. Nhưng rồi Trịnh không thấy động tĩnh 

về phía Nam quân. Trịnh sinh nghi, vội lùi quân lại nghe ngóng. Tình trạng này kéo dài luôn mấy tuần, chúa Trịnh rất 

bực tức. Sau quân chúa Sãi tiến lên đánh, quân Trịnh thua bỏ chạy. Trịnh đành mang quân trở về Bắc và để Nguyễn 

Khắc Liệt ở lại giữ Bắc Bố Chính. 

Đại Chiến LầnThứ Ba (Ất Hợi - 1635) 

Chúa Sãi mất năm Ất Hợi 1635, Nguyễn Phúc Lan là con lên thay tức là Công Thượng Vương và việc đầu tiên là tiến 

quân chiếm miền Bắc Bố Chính. Theo giám mục Alexandre de Rhodes: Bắc Bố Chính bị quân Nguyễn chiếm vào năm 

1640. Sự kháng cự của quân Trịnh không được bền bỉ, rồi Trấn Thủ là Nguyễn Khắc Liệt bỏ chạy về Bắc, vợ con bị bắt 

làm tù binh. Nguyễn Khắc Liệt ra đến Thăng Long thì bị Tráng bắt giam rồi để chết đói (xin nhắc Trịnh Tráng là bố vợ 

của Nguyễn Khắc Liệt). Vì quân Nguyễn lo chuẩn bị chiến tranh và đã chiếm một phần miền Bắc Bố Chính nên chúa 

Trịnh sốt ruột lại đem quân vào Nam tháng hai năm Quý Tỵ. Đại quân do Thái Bảo Trịnh Tạc và Trịnh Lê hai con của 

chúa cầm đầu với sự giúp đỡ của Thị Lang Nguyễn Quang Minh, Tự Khanh Phạm Công Trứ (một sử thần có tiếng của 

nhà Lê) và Nguyễn Danh Thọ. Hai quân gặp nhau tại Trung Hòa, (Tức Mỹ Hòa ngày nay) gần cửa sông Gianh về hữu 

ngạn. Tướng Nguyễn là Bùi Công Thắng chống không nổi bị bắt và bị giết (hay bị tử trận, chỗ này sử không nói rõ). 

Quân Trịnh thừa thắng tiến luôn vào cửa Nhật Lệ. Tháng ba, chúa Trịnh đem vua Lê Thần Tông đến An Bài lập Tổng 

hành dinh (An Bài là một làng cách sông Gianh về phía Bắc 4 cây số). Chiến sự bị ngưng ở đây vì trời nóng quá, quân 

Trịnh bị bệnh dịch chết hại rất nhiều, phải rút về, để lại 10,000 quân để phòn thủ, và chờ dịp khác tấn công. Quân 

Trịnh về Bắc được vài tháng thì vua Lê Thần Tông nhường ngôi cho con cả là vua Lê Chân Tông, vào tháng 10 năm 

Quý Tỵ (1643). 

Đại Chiến LầnThứ Tư (Mậu Tý - 1648) 

Tháng 6 năm 1647, Lê Chân Tông ra lệnh cho các địa phương miền Bắc kiểm soát những người lành mạnh bổ sung 

quân số. Năm sau là năm Mậu Tý 1648 chúa Trịnh Tráng cử Lê Văn Hiển giữ chức Đô Đốc (các sách khác nói là Trịnh 

Đào) tước Tiến Quận Công lĩnh quyền tổng chỉ huy quân đội Nam chinh. Quân Trịnh tiến thẳng đến cửa sông Nhật 

Lệ. Tướng giữ căn cứ này là Hoành Lễ đánh không lại vội xin tiếp viện của Trấn Thủ Quảng Bình là Nguyễn Cửu Kiều. 

Kiều cho Tham tướng là Nguyễn Triều Văn đi cấp cứu, nhưng Triều Văn vốn hèn nhát, đi tới nửa đường thì dừng lại, 

do đó quân Trịnh đi thẳng một mạch tới gần tỉnh lỵ Quảng Bình (bấy giờ là Dinh), đóng tại tả ngạn sông Nhật Lệ trước 

làng Văn La. Quân Nguyễn ở đây do Cai đội Trương Triều Lương và Trương Triều Nghi đem quân cự địch, bị tử trận. 

Ký Lục Thanh Hội tới đánh cũng bại trận phải rút về bên kia sông. Quân Trịnh thừa thế đuổi theo tới làng Võ Xá (giữa 

sông) là vào đúng giữa Quảng Bình dinh, một phần tiến theo hữu ngạn sông Nhật Lệ, tiến đến An Đại (tức Long Đại 

ngày nay), ngừng trước lũy Trường Dục. Lúc này Trịnh Đào lập hành doanh tại Nam Bố Chính gần Dinh Ngói. Rồi 

thành Đồng Hới và Dinh Mười lọt vào tay quân Trịnh. Trấn Thủ Nam Bố Chính là Trương Phúc Phấn thất vọng trước 

những thắng lợi liên tiếp của quân Trịnh liền lui quân vào phòng tuyến thứ hai do Đào Duy Từ xây từ 1630 tức là đồn 

Trường Dục để cự địch. Thành xây bằng cát nên bị đại bác của Trịnh bắn thủng toang khiến quân Nguyễn kinh khủng 

mười phần tháo chạy đến sáu bảy. Phấn cứ điềm nhiên thúc trống phất cờ tiếp tục trận đánh, cho quân lấy thuyền chở 

cát lấp lại các chỗ bị phá. Tên của quân Trịnh như mưa rào vào chỗ Phấn ngồi. Nhờ có sự can đảm và cố thủ này quân 

tiếp viện của Nguyễn kịp tới do Thế tử Nguyễn Phúc Tần cầm đầu (tức Hiền Vương sau này). Quân bộ có Thế Tử Lộc 

giữ chức Chưởng Dinh, Tống Hữu Đại là Trấn Thủ Cựu Dinh, và Giám chiến Nguyễn Hữu Dật chỉ huy. Thủy quân do 

Tham Tướng Nguyễn Triều Văn, nhưng trận đầu vẫn giành thắng lợi cho quân Trịnh. Quân tiền phong của Nguyễn 

đến An Đại (trước đồn Trường Dực) thì Dật bàn với Thế tử Lộc chia nhau đóng các nơi hiểm yếu, vì biết rằng Bắc 

quân không thông thạo địa hình địa vật ở đây. Cũng lúc này Thế tử Nguyễn Phúc Tần kéo đến Quảng Bình gần sát 

quân Trịnh lợi dụng đêm tối tung tượng binh bất thình lình đánh vào trại của Trịnh hồi canh năm. Nguyễn Hữu Tấn 

chỉ huy 100 con voi trong công tác này, còn Thế tử Nguyễn Phúc Tần đi sau với đại quân. Quả nhiên quân Trịnh bị 

đánh bất ngờ bỏ chạy về Đồng Hới thì bị quân Nguyễn đem thủy quân chờ ở Cẩm La chỗ đường bộ đi qua sông đón 

đánh chết hại rất nhiều. Sử của Nguyễn triều chép rằng trong các trận đánh giữa hai quân Trịnh 

Nguyễn chưa trận nào khốc liệt bằng trận này, khiến một câu tục ngữ còn nhắc lại rằng: "Hiểm nhất Lũy Thày, Thứ 

nhì đồng lầy Võ Xá" bởi ở đây quân Nguyễn nhờ có ưu thế của núi sông khiến quân Trịnh bị chết hại vô kể. Trong 

trận này Trịnh bị bắt mất mấy tướng và vài ngàn binh sĩ. Trịnh Đào thấy tiền quân bị bại trận liền rút lui, bị quân 

Nguyễn đuổi tới sông Gianh. Chiến tranh tới đây thì ngừng lại do cái chết của Công Thượng Vương cũng đi đốc chiến 

vào tháng hai năm ấy tức là lúc khởi chiến. Công Thượng Vương tới làng Trung Chỉ, cách Quảng Trị độ 10 cây số vào 

ngày 25 tháng 2 thì bị bệnh. Đến ngày 18 tháng 3 thì tình trạng quá nguy kịch, phải đưa chúa về Thuận Hóa bằng 

đường thủy, đến phá Tam Giang thì mất trên thuyền, vào ngày 19 tháng 3 năm Mậu Tý. Nguyễn Phúc Tần lên thay, 

tức là Hiền Vương. Bảy năm sau lại tái chiến với quân Trịnh. 

Trận Đánh Thứ Năm Tại Nghệ An (Ất Vị - 1655) 

Tháng tư sau Ất Vị 1655 cuộc xung đột lại tái diễn. Lê Văn Hiểu ra lệnh cho Phạm Tất Toàn đem quân vượt sông Linh 

Giang đánh vào Nam Bố Chính. Chúa Hiền cử Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến (Tấn) đối chiến với quân Trịnh ở 

đây. Quân Trịnh bị đánh bất ngờ, Phạm Tất Toàn phải đầu hàng và Bắc Bố Chính đổi chủ. Quân Nguyễn liền chia ra 

đánh Hoành Sơn. Quân của Lê Hữu Đức giữ không nổi bỏ chạy nhờ vậy mà quân Nguyễn đánh ra dinh Hà Trung. Lê 

Văn Hiểu ra công cự địch nhưng cũng thua rồi cùng Lê Hữu Đức chạy về An Trường. Nguyễn Hữu Tiến đánh Thạch 

Hà, Tham đốc của Trịnh là Đặng Minh Tác ra hàng. Văn Hiểu và Hữu Đức kéo quân về đóng đồn ở Đại Nại cố giữ 

không cho quân Nguyễn đi xa hơn. Nhiệm vụ đánh vào Hà Trung sẽ trao cho hậu quân... Chúa Trịnh Tráng thấy bọn 

Lê Văn Hiểu bại trận cho sứ triệu về Kinh giáng chức (Hiểu bị đạn ở chân về đến nửa đường thì chết), và cho Trịnh 

Trượng vào thay với chức Thống lĩnh, kinh lược đất Nghệ An. Đầu tháng 8 năm Ất Vị 1655, Trịnh Trượng đến Lạc 

Xuyên cách Bắc Hà Trung 15 cây số thì hạ đồn. Võ Văn Thiêm đem 50 chiến thuyền đóng ngay tại cửa sông Kỳ La là 

thủy đạo lên đến đồn Hà Trung. Thấy quân Bắc tới Hữu Dật và Hữu Tiến bàn nhau lui binh về sông Gianh, bí mật đặt 

lục quân phục kích ở Lũng Đông, thủy quân giữ cửa Ròn. Nhưng quân Trịnh không mắc bẫy vì biết Hữu Dật và Hữu 

Tiến là hai danh tướng của Nguyễn có nhiều thủ đoạn. Nhử địch không xong và thấy đã hơn một tháng quân Trịnh 

không cử động, Hữu Dật và Hữu Tiến liền thay đổi chiến lược. Đây là giai đoạn thứ hai của chiến dịch năm Ất Vị: 

Nguyễn chia quân đóng hết các nẻo đường. Tiền quân của Trương Phúc Hùng, Phù Dương, thuần Đúc và Khuê 

Thắng đánh vào quân tuần thám của Trịnh ở Hà Trung. Quân Trịnh bị hại, quân Nguyễn tiến vào Lạc Xuyên. Trịnh 

Trượng thua chạy về An Tràng, sau bị giáng chức xuống Đô Đốc. 

335 Việt Sử Toàn Thư 

Trước tình thế nghiêm trọng này, chúa Trịnh Tráng lo ngại cử Tây Định vương Trịnh Tạc (con của chúa) vô Nam. 

Tháng 9 năm ấy Tạc mang đại quân vào Nghệ An rồi đóng ở An Tràng. Rồi sau hai tháng Thanh Đô vương lại kêu 

Trịnh Tạc về để Hữu đô đốc Ninh quận công Trịnh Toàn thay thế. Quân Bắc đóng ở An Tràng từ tháng 9, qua tháng 

sau mới hoạt động, tiến đánh Kỳ Hoa. Hữu Tiến rút quân của mình ra khỏi Lạc Xuyên và tới đóng ở Hà Trung (có lẽ để 

nghe ngóng thực lực của Trịnh). Nhưng đến tháng 11 quân Trịnh lại trở về An Tràng. Vào tháng 12 (Ất Vị) quân Trịnh 

đóng ở Minh Lương vào đánh huyện Kỳ Hoa trước đã về hàng Nguyễn. Tháng giêng năm Bính Thân (1656) quân 

Nguyễn Bắc tiến đuổi được quân Trịnh tới sông Tam Chế thì bị một lực lượng Bắc Hà đánh lui. Trận này quân Trịnh 

thắng khá oanh liệt nên nhiều tướng lĩnh được thăng thưởng ngay lập tức. Tháng hai Hữu Dật tiến đến Hồng Lĩnh 

(quân kéo từ Bắc xuống Nam qua hai huyện Nghị Xuân và Thiên Lộc) rồi gặp Võ Văn Thiêm đang cho thủy quân đổ 

bộ. Hai bên giáp chiến. Quân Trịnh ở đây cũng như ở nhiều nơi khác lại rút về An Tràng. Hữu Dật và Hữu Tiến tập 

hợp các cơ đội về Vân Cát (huyện Thạch Hà) Chúa liền cho đem vàng lụa đến khao thưởng. Vào tháng 5, Trịnh 

Nguyễn lại khởi chiến. Trịnh Toàn mang quân đến Thạch Hà. Đào Quang Nhiêu (Trấn thủ cũ của Nghệ An) và Dương 

Hồ đóng ở Đại Nại, Hương Bộc ở ngoài thành (thành Hà Tĩnh bấy giờ) với bộ binh. Quận Công Thung, Lê Sĩ Hậu, Bùi 

Sĩ Lương đem thủy quân đóng ở cửa Nam Giới và cửa Sót. Võ Văn Thiêm đóng ở Đơn Giai (cửa sông Vinh). Bọn Hữu 

Dật thấy quân Trịnh kéo đến cũng động viên quân đội thủy lục để ứng chiến. Thủy quân của Nguyễn do Dương Trí 

kéo đánh cửa Nam giới do Quận Công Thung giữ. Tại đây cuộc thủy chiến đã diễn ra: Quận Công Thung bị đánh rất 

nguy được Trịnh Toàn cho Quận Công Lý đến cứu viện. Về phần Hữu Dật cũng đem bộ binh chạy tới tăng cường cho 

Dương Trí đang ở giữa khơi đánh quân Trịnh rất hăng đến nỗi thủy quân Trịnh vừa bị thủy quân Nguyễn tấn công mà 

trên bộ đại bác của Nguyễn cũng nã xuống tới tấp. Quận Công Lý chạy được, Quận Công Thung bị bắt với ba chục 

chiến thuyền. Phò Mã Trịnh đến giải cứu bằng thủy quân nhưng lại rút lui vì hỏa lực của Nguyễn dữ dội quá. Các 

tướng của thủy quân Trịnh là Lê Sĩ Hậu, Bùi Sĩ Lương, Nguyễn Hữu Sắc, Thái Bá Trật cũng chạy hết. Hữu Dật liền tiến 

đánh Trịnh Toàn tại bến đò Hoạt, cố bao vây nhưng bị đánh lui phải bỏ về cửa Nam Giới thủ thế với Dương Trí. Trong 

lúc nầy ở phía Nam cách đó không xa quân Nguyễn bị quân Trịnh đánh thua. Tiến quân của Nguyễn do các tướng 

Phúc Khang, Phù Dương bao vây tướng Đào Quang Nhiêu của Trịnh tại Hương Bộc rất ngặt, Trịnh Toàn liền đến cứu. 

Toàn trao cờ lệnh cho Đốc Thị Dương Hồ làm bùng cháy lòng ái quốc và trung thành rất hăng, còn Toàn tự mình dẫn 

đạo kỵ binh sát phạt quân Nguyễn như vũ bão. Nhờ có viện quân tới, Đào Quang Nhiêu mở rộng cửa thành đánh ra, 

quân Nguyễn bị đánh dồn dập cả hai mặt chịu không nổi phải thua chạy. Tại Đại Nại quân Bắc cùng quân Nguyễn 

cũng giao tranh kịch liệt. Quân Nguyễn bị thua và mất một số lớn binh sĩ, voi ngựa và vũ khí. Tướng Nguyễn là 

Nguyễn Cửu Kiều bị trọng thương ở trận nầy rồi chết (Kiều mất vào năm 58 tuổi, là em vợ của Sãi Vương). Bại trận 

luôn hai lần, quân Nam phải rút về Hà Trung, quân Bắc đuổi theo nhưng không dám vượt qua làng Tam Lộng, huyện 

Cẩm Xuyên. Hữu Tiến liền nghĩ ra một kế hoạch phục kích quân Trịnh ở các thủy lộ bằng thủy quân của mình ở Phù 

Thạch thuộc huyện La Sơn, Triều Khẩn thuộc huyện Hưng Nguyên, Việt An thuộc huyện La Sơn, lại cho Hoàng Tín 

nấp ở bên sông Minh Lương huyện Thiên Lộc với một số chiến thuyền, còn đại quân của Hữu Dật thì mai phục ở làng 

Nam Ngàn (La Sơn). Xem cách bố trí này của Hữu Tiến thì Tiến đoán Trịnh vừa thắng hai trận lớn ắt thừa thế sẽ từ Hà 

Tĩnh tiến vào Nghệ An nên cho quân ẩn nấp ở các nẻo đường thủy chờ chận đánh quân Trịnh. Thủy quân của 

Nguyễn phần lớn bấy giờ để ở Lam Giang. Được biết Hữu Dật đang có mặt ở Nam Ngàn, Trịnh Toàn cử hai tướng là 

Quận công Tào Nham và Diễn Thọ đi đánh. Đạo quân nầy bị rơi vào ổ phục kích của Nguyễn và hai tướng bị chết về 

tay Đỗ Tín. Còn Trịnh Toàn qua Bình Hồ (La Sơn) gặp quân Hoằng Tín cũng thiệt hại nhiều nhưng chạy được về An 

Tràng. Xét ra đôi bên cũng không hơn kém nhau bao nhiêu. Quân Trịnh bấy giờ không tiến được hơn đành chỉ cố thủ 

ở miền Bắc sông Lam mà thôi. Tháng 7 năm 1656, Hiền Vương do tin thắng trận định đem binh lên Bắc Bố Chính 

nhưng lại thấy mình rút về Hà Trung nên ngừng lại ở An Trạch (Nam Quảng Bình). Những tháng chót của năm Bính 

Thân (1656) hai phe Trịnh Nguyễn đều im hơi lặng tiếng. Có lẽ người ta đã muốn dưỡng sức cho quân dân sau những 

chiến trận vô cùng khốc liệt. Về phần Nguyễn tuy thường thắng trận nhưng thực lực của miền Thuận Quảng rõ rệt 

không đủ để theo đuổi một chiến cuộc trường kỳ. Về phần Trịnh đã bị bất lợi nhiều cũng xuống tinh thần và cần phải 

cởi yên bỏ giáp còn do nội tình bối rối nữa vì Trịnh Tráng lâm bệnh sắp thở hơi tàn. Trong nhà anh em lại có sự nghi 

ngờ nhau nên Trịnh Tạc đang hành quân ở Nghệ An đột nhiên được gọi về Thăng Long. Trịnh Tạc đã được phong 

vương để thay Trịnh Tráng nhưng giữa Trịnh Tạc và Trịnh Toàn có sự ghen ghét. Tháng 5 năm ấy, con Trịnh Tạc là 

Trịnh Căn được phong thế tử mang chức Thái Bảo, tước Quận công, tháng sáu được cử vào Nghệ An làm Thống Lĩnh 

bề ngoài để giúp Trịnh Toàn nhưng bề trong có ý kiểm soát và chia xẻ quyền hành của chú. Rồi liên tiếp mấy tháng 

sau nhiều mưu thần võ tướng được lĩnh chức mới gửi vào Nghệ An trong đó có Trịnh Căn và Trịnh Đống. Tháng 11 

năm Bính Thân (1656) quân đội Bắc hà lại chuyển động và tiến xuống miền Nam Lam Giang. Trịnh Toàn đóng ở Quảng 

Khuyến tại huyện Thiên Lộc; Trịnh Căn cắm trại cũng ở huyện này đào hào đắp lũy phòng nhau Rối Toàn có ý mang 

hết binh đội về An Tràng, Trịnh Căn lo ngại lui về đóng ở Phù Long huyện Hưng Nguyên, tình thế rất là gay go. Chúa 

Hiền tiến quân lên Dinh Trạm (Nam Quảng Bình) rồi lên đến Dinh Mười. Ngày 16 tháng 4 năm Đinh Dậu (1657) chúa 

Thanh Đô vương qua đời. Trịnh Tạc liền thanh toán ngay vấn đề Trịnh Toàn, và bắt giam Toàn vì không về Bắc chịu 

tang. Một số thủ túc của Toàn sợ cháy thành vạ lây chạy qua đầu hàng quân Nam. Toàn chịu bó tay về Thăng Long 

sau khi trao hết quyền binh cho Trịnh Căn. Số phận của Toàn ít ngày sau là bị giam và chết trong ngục. Rồi Trịnh Căn 

được thay Trịnh Toàn làm chủ Nghệ An. Quân Nam bấy giờ vẫn tiếp tục giữ thế thủ. Tháng 6 năm ấy Trịnh Căn khởi 

chiến, chia quân ra ba đạo vượt sông Thanh Chương (sông Vinh). Quân Nam lùi rồi phản công. Trịnh Căn thấy quân 

mình núng thế liền đến cứu viện cho Đặng thế Công. Quân Nam thua chạy. Nhưng tuy được quân Trịnh vẫn rút về An 

Tràng và khao thưởng tướng sĩ. Đến tháng 9, Trịnh Căn phái Thắng Nham đi chiếm thành Đồng Hôn ở vào một vùng 

ẩm thấp e bị nước lụt nên sau quân Trịnh lại rời tới Thổ Sơn Hạ. Quân của Hữu Dật nhân một cơn mưa to gió lớn, nước 

sông dâng lên cao tấn công quân Trịnh ở đây. Quân Bắc bỏ chạy. Bấy giờ bảy huyện ở phía Nam sông Lam-Giang 

(thuộc tỉnh Nghệ An) là huyện Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn và Thanh Chương đều 

thuộc về quân Nguyễn cả. Đầu năm Mậu Tuất, Trịnh Tạc gửi thêm tướng sĩ mới cho Trịnh Căn. Trận giặc này kéo dài 

khiến hai bên đều hao tổn mạnh. Tháng 5 (năm 1658) vua Lê Thần Tông phải ra sắc dụ yêu cầu nhân dân giúp gạo. 

Triều đình tùy theo số gạo mà cấp chức tước. Chúa Nguyễn cũng bắt dân Nghệ An nhập ngũ và đóng thuế khiến dân 

chúng vùng mới chiếm đóng rất là bất mãn. Trong những tháng chót của năm 1658 đôi bên vẫn tiếp tục đánh nhau, từ 

tháng 7 đến tháng 8, cùng có phen được thua nhưng tình thế của Trịnh cũng như Nguyễn vẫn không thay đổi là bao 

nhiêu. Rồi suốt năm 1659 hai quân Trịnh Nguyễn cũng vẫn không có hoạt động quan trọng. Quân Nam thấy mình 

không mạnh nên không tiến đánh. Quân Bắc cũng chủ trương đợi thời. Tháng 9 năm 1660, Hữu Tiến đem quân vượt 

sông Tam Chế đánh vào đồn Do Nha. Binh sĩ xa nhà đã lâu, chán nản nên đào ngũ rất nhiều, Hữu Tiến phải trở về. Sau 

này Trịnh lại chuyển binh qua sông Lam giang, tiến đánh Lận sơn, Tả Ao. Quân Nguyễn rút về Hoa Viên đến đóng ở 

Nghi Xuân. Lúc này hai đại tướng của Nam Hà là Hữu Tiến và Hữu Dật bất hòa với nhau nên rút hết quân lực về Nam 

Bố Chính. Quân Nam rút đến Hoành sơn thì quân Trịnh đuổi kịp, đôi bên cùng thiệt hại rất nhiều. Rút cục Trịnh về 

đóng ở Kỳ Hoa, Nguyễn giữ cửa Nhật Lệ. Bảy huyện ở vùng sông Lam lại trở về đất Bắc. Trịnh Căn cho Đào Quang 

Nhiêu ở lại làm Trấn thủ Nghệ An, trông coi thêm cả Bắc Bố Chính rồi về Thăng Long. Chiến dịch Nghệ An xét ra đã 

kéo dài tới 6 năm. 

Đại chiến lần thứ sáu (Tân Sữu - 1661)

 Trịnh Căn về Thăng Long hồi tháng hai năm Tân Sửu như trên đã nói do hai cớ: Cớ thứ nhất để hưởng thụ sự chào 

đón tưng bừng của vua quan và nhân dân miền Bắc đối với người anh hùng chiến thắng miền Nam. Cớ thứ nhì là để 

binh sĩ có dịp nghỉ ngơi sau nhiều năm gian lao, mệt mỏi rồi cuối năm Sửu, Trịnh lại khởi chiến68.                                        

[ 68 Cương Mục nói Trịnh khởi trận đánh vào tháng 10 nhuận. Theo De Calendrio Sinico của P. Hoàng thì vào tháng 7. 

Thực Lục cho rằng cuộc khởi hấn Trịnh - Nguyễn nhằm vào tháng chạp (tức là 20 tháng 1 - 17 tháng 2, 1662). ]

Trịnh Căn vẫn giữ chức Thống lĩnh; Đào Quang Nhiêu làm Thống Suất69 Lê Hiến và Hoàng Nghĩa là Đốc Suất thêm 3 

Đốc Thị là Lê Sĩ Triệt, Trịnh Thì Tế và Thân Tuấn. Lần này chúa Trịnh rất khôn khéo, mời vua Lê Thần Tông đi dự 

chiến để lấy thêm uy tín vì dân Hà Tĩnh và Bố Chính vừa đây nghiêng ngả theo Nguyễn. Vừa đóng ở Phủ Lộ trên hữu 

ngạn sông Gianh mà trước đây không lâu chúa Hiến đã có dịp đến hạ Tống hành dinh. Quân Trịnh chia ra 3 đạo: Thủy 

quân đến đóng ngay tại cửa sông Nhật Lệ. Bộ binh qua sông Gianh tiến vào Nam Bố Chính, còn đại quân bắt đầu từ 

làng An Nam chỗ bờ biển đến chân núi Châu Thị70. Thành này có tác dụng bao lấy thành Đồng Hới về phía Tây. 

Người ta đặt đại bác ở đây và hai quân đối diện nhau chỉ cách có bức thành này mà thôi. Trịnh cho một quan tham 

mưu là Hoàng Trung mang lọng vàng và hương án cùng vài tên lính đến dụ địch bằng một sắc chỉ của vua Lê.  Tướng 

giữ đồn là Vân Trạch không chịu tiếp sắc và đã bắn chết Hoàng Trung rồi đôi bên nổi lệnh đánh nhau kịch liệt tại tả 

ngạn sông Rào Dinh. Chúa Hiền cho lệnh rút quân tới phía sau thành Đồng Hới để cố thủ vì rào lũy phía trước không 

đủ vững để che chở cho quân đội. Quân Trịnh lại tiến đóng tại làng Trần Ninh, phía Bắc thành Đồng Hới, giữ con 

đường biển vào làng Chính Thỉ (tức Trung Ngãi bây giờ) gần phía Tây thành Đồng Hới, như thế là Trịnh giữ cả đường 

đi vào miền núi. Hữu Dật lại rút về Vũ Xá (Dinh Quảng Bình tức Lưu Đồn). Nhiều lần Trịnh muốn đánh mà không thấy 

quân Nguyễn ra mặt71, sự thực Nguyễn trốn đánh bởi không đủ sức chống chọi thì cứ kéo dài sự cố thủ để quân 

Trịnh hao mòn về lương thực có lợi hơn. (Các vùng Nam, Bắc Bố Chính vì là chiến trường lâu năm nên quân đội của 

đôi bên không nhờ được một thứ gì của dân sở tại). Quả nhiên sau một tháng quân Trịnh nao núng về điểm này, bấy 

giờ Hữu Dật mới bất thần đánh vào hậu tuyến của Trịnh trong một đêm tối, nhưng trận đánh ở đây cũng không có lợi 

gì đáng kể. Tháng ba năm Nhâm Dần (1662) quân mệt, lương hết Trịnh Tạc lại ra lệnh rút quân về Bắc. Vua Thần Tông 

về đến Thăng Long thì mất vào tháng 9. Thái tử Duy Vũ lên thay tức là vua Gia Tông.  Trong dịp này Hữu Dật và Hữu 

Tiến đắp thêm một cái lũy nữa là lũy Trần Ninh bên hữu ngạn sông Nhật Lệ có ý ngăn thủy quân của Trịnh. Bên tả 

ngạn đối chiến với lũy Trần Ninh, Nguyễn cho xây thêm lũy Sa Phụ về phía đầu sông tục gọi là Đồng Cát.                       

[ 69 Theo Việt Nam Sử Lược: Đào Quang Nhiêu làm Tổng Suất, ý nghĩa vẫn như vậy.] [ 70 Theo sự kê cứu của C.B. 

Maybon thì thành này có lẽ xưa kia đã do Trịnh Toàn đắp nên có tên là Lũy ông Ninh. Ninh là tước Ninh Quận Công 

của Toàn, vì thành này cũng đi từ đường quan lộ đến chân núi như sử sách của triều Nguyễn đã nói. Vậy lúc này 

quân Nguyễn chỉ có sửa lại mà thôi.] [ 71 Bia Trường Kiều dựng ở phía nam thành Đồn Hới cách vài cây số, từ 1661-

1662 chép: quân Trịnh không dám nhìn quân Nguyễn tận mặt. Lời nói ngoa này đã bị các sử liệu khác đính chính bởi 

10 năm sau vào 1672 quân Bắc còn kéo vào đánh Nam Hà lần nữa, làm cho chúa Nguyễn hết sức lo lắng. Đây là một 

trong nhiều chứng cớ tỏ rằng sử thần của Triều Nguyễn thường hay xuyên tạc sự thực để làm đẹp lòng vua chúa. ]

Đại chiến lần thứ bảy (Nhâm Tý - 1672)

 Tháng 6 năm Nhâm Tý (1672), tức là 10 năm sau hai họ Trịnh, Nguyễn còn xô sát với nhau một lần nữa và lần này là 

lần chót. Trịnh Căn làm thủy quân Nguyên súy. Lê Hiến làm bộ quân Thống suất. Quân Bắc có 100 ngàn nhưng phao 

đồn có 180000. Vua Lê Gia Tông cũng có mặt trong cuộc đại chiến này bên cạnh Tây Vương Trịnh Tạc. Quân Nam lúc 

này có tân nguyên soái là Thế tử Thuần (tên lúc nhỏ là Hiệp)72 mới hai mươi tuổi, phụ tá có Vệ úy Mai Phúc Lãnh, Ký 

Lục, Võ Phi Thừa làm Tham mưu, Chưởng cơ Trương Phúc Cang con thứ Trương Phúc Phấn (đã nổi danh trong nhiều 

trận vào năm 1648) và Nguyễn Đức Báu. Phấn giữ chức Tiên Phong hữu dực, Báu làm Tiên Phong tả dực. Ty Tướng 

Thần Lại73 lo liệu việc thâu thuế bằng tiền bạc hay thóc gạo để cung cấp cho quân đội sung vào ba kho ở Lai Cách 

(Bắc Quảng Trị) An Trạch và Trường Dục (Nam Quảng Bình) Tượng binh có 5 đội mỗi đội có 150 voi trận. Tháng 7 

năm ấy Hiệp mang quân đến Quảng Bình, Hữu Dật trước đây giữ chức Chưởng Dinh được thay Hữu Tiên đang làm 

Đổng Suất ở Lưu Đồn hồi tháng sáu nay phụ trách giữ thành Sa Phụ (xây năm 1662). Mỹ Đức Trấn Thủ dinh Quảng 

Bình nay được coi Chính Lũy là phần chính của thành Đồng Hới ở mạn Bắc sông Lệ Kỳ. Trương Phúc Cang được ủy 

giữ Trấn Ninh để đón cuộc tấn công đầu tiên của Trịnh. Triều Tín, Trấn Thủ dinh Bố Chính giữ thành Đồng Hới về 

phía Tây. Thuần Đức Trấn Thủ Cựu Dinh, giữ phần thành giáp núi Đầu Mâu (cũng về phía Tây, chắc nơi này cần giữ 

ráo riết hơn cả). Thuận Trung Cai Cơ đóng ở cầu Mũi Nại (nơi làm muối) ngay ở đầu ngã ba sông Nhật Lệ và Lệ Kỳ 

(sau này quân Nguyễn cũng đắp một cái lũy nhỏ gọi là Lũy Ngang, vì lũy này chạy ngang theo thành Đồng Hới ra 

sông, thành một phòng tuyến thứ hai). Tham Tướng Tài Lê lĩnh thủy quân cho đóng một hàng rào cây lớn ở cửa sông 

đề ngăn cản sự đột nhập của các chiến thuyền của Trịnh. Nhìn vào việc bố trí này ta nhận thấy thủ và lục quân của 

Nguyễn có ý đóng liền nhau để dễ liên lạc và tiếp ứng cho nhau. Tháng 8 quân Trịnh kéo đến Bắc Bố Chính. Tháng 9, 

quân Trịnh tấn công quân của Triều Tín, tướng giữ thành Đồng Hới, được thắng lợi. Trịnh còn cho tập trung một ngàn 

chiến thuyền ở cửa sông Gianh và sông Nhật Lệ. Quân thủy bộ có thể hoạt động cùng nhịp. Chiến cuộc xem chừng 

gay go. Chúa Hiền thấy lực lượng quân Bắc quá hùng hậu hợp các quan tỏ ý lo ngại bàn nên đánh hay nên giữ. Toàn 

thể đều đề nghị cố thủ để khai thác lối "Tiêu hao chiến". Ngày 23 tháng 9 năm Ất Vị hai quân thủy lục của Nguyễn lên 

đường để lại hai đạo thủy quân phòng bị hậu tuyến và cửa Thuận An lấy dân quân năm quận miền Nam Quảng Bình 

gồm tỉnh Quảng Trị và Thừa Tiên lập các đồn theo dọc bờ biển từ Đồng Hới vào tới phía Đông kinh thành Thuận Hóa. 

Thành Đồng Hới bị nhiều lần nao núng, suýt lọt vào tay quân Trịnh.                                        

 [72 Hiệp là con thứ tư của Chúa Hiền.] [ 73 Tướng Thần Lại là Ty coi việc lương thuế như nha Quân Nhu ngày nay. ]

340 Việt Sử Toàn Thư 

Hữu Dật phải đến tiếp cứu còn Hiệp tự đem quân đến trợ lực cho Sa Phụ. Chiến sự đang khai diễn gắt gao thì chúa 

Trịnh Tạc ra lệnh kéo quân về, vì đánh lũy Trấn Ninh mấy tháng trời không chuyển, thời tiết lại quá xấu (mưa lạnh 

buốt vì có gió Đông Bắc). Trịnh Căn bị bệnh nặng ở Linh Giang. Lê Gia Tông lui về Phù Lộ, thuộc tả ngạn sông Gianh. 

Theo Đại Nam Liệt Truyện, Đại Nam Thực Lục chứng minh quả quân Nguyễn bị đánh lùi nên vua Lê, chúa Trịnh mới 

vào được tới miền Nam Bố Chính. Trước khi lên đường về Thăng Long, chúa để Lê Thời Hiến ở lại làm Trấn Thủ ở 

Nghệ An, Lê Sĩ Triệt làm Đô Đốc Hà Trung giữ các căn cứ trọng yếu vùng sông Gianh. Từ đó sông Gianh là đường 

phân giới cho hai miền Nam Bắc, chiến sự ngừng lại cho đến năm Bính Ngọ (1786) tức là năm thứ 47 đời Lê Cảnh Hưng 

nhà Tây Sơn dấy nghiệp thì Nguyễn vong mà Trịnh cũng mạt.  

 Phần 3 - Chương 15

 Sự Nghiệp Của Hai Họ Trịnh Nguyễn Trên Lịch Sử Việt Nam 

A - Các Hoạt Động Của Họ Trịnh 

1- Vấn Đề Họ Mạc Và Việc Giao Thiệp Với Nhà Thanh 

Cuộc đại chiến năm Nhâm Tỵ (1672) chấm dứt thì từ đó đến 1775 tức là vừa đúng một thế kỷ, nhân dân Việt Nam được 

thoát khỏi sự khủng khiếp gây nên bởi khói lửa mịt mù, xương rơi máu đổ dồn dập liền trong 45 năm. Người dân Việt 

Nam ngày nay cũng nên tìm hiểu hai họ Trịnh Nguyễn đã làm những gì khác ngoài việc tranh giành ngai vàng, nghiệp 

chúa, khiến nhân dân phải điêu đứng, lầm than qua bao nhiêu thế hệ. Tội của họ đối với quốc dân là điều rõ rệt không 

phải nói nhiều, tuy nhiên ta cũng phải nhận họ cũng có làm được ít nhiều công chuyện có lợi ích để ta có thể giảm bớt 

một phần nào những lỗi lầm và trách nhiệm. Vấn đề dẹp họ Mạc có phải là một sự nghiệp của họ Trịnh chăng? Theo 

quan niệm của các sử thần cận kim, người ta cho rằng có công đánh dẹp con cháu nhà Mạc. Chúng tôi muốn hỏi rằng 

Trịnh đánh Mạc cho ai? Cho nhà Lê chăng? Cho nhân dân chăng? Thiết tưởng không! Theo chúng tôi việc đánh Mạc 

của Trịnh chỉ là chuyện hai thú dữ đứng trước một miếng mồi, không chia xẻ được thì chỉ còn nước một kẻ sống một kẻ 

phải chết nghĩa là cái thuyết phù Lê hay vì dân của họ Trịnh cũng như dân của họ Nguyễn chỉ là ngụy ngôn, là thuyết 

che đậy manh tâm cá nhân mà thôi. Tóm lại, dẹp Mạc trước quan điểm của chúng tôi chỉ là sự nghiệp riêng của dòng 

họ Trịnh. Việc này xét ra chẳng lợi gì cho nhân dân hết. Chúng ta còn có thể nghĩ rằng nếu Mạc không bị Trịnh hất 

nhào sớm, ngay từ khi Mạc Đăng Dung vừa lên ngôi đã tiếp tục mọi chính sách cai trị, kinh tế, khoa cử, trọng dụng 

nhân tài như các tiền triều, ai dám bảo Mạc không thể là một triều đại đứng đắn, há phải than tiếc một cách buồn cười 

mấy ông hoàng đế ấu trĩ, hoặc hôn ám, vô đạo, như Tương Dực, Uy Mục, hoặc bất tài, bất lực như Chiêu Tông để cho 

mấy ông đại thần đua nhau lợi dụng. Chúng ta không nên vì thế coi việc tiêu diệt nhà Mạc là một sự nghiệp của Trịnh 

đối với dân tộc ta để kỷ công vào lịch sử... Nhà Minh cáo chung vào năm 1663, nhà Thanh lên thay, cho sứ sang ta dụ 

triều cống. Chúa Trịnh Tạc cho sứ đem cống vật sang Yên Kinh xin mở cuộc giao hiếu và câu phong cho vua Lê theo 

tục lệ cũ. Bốn năm sau vua Khang Hy cho sứ sang phong cho vua Lê làm An Nam Quốc Vương. Cuộc giao hiếu này 

xét ra nên có, vì mềm dẻo với kẻ mạnh để được yên thân vẫn là một chính sách khôn ngoan thuộc đường lối cổ truyền 

của các nhà chính trị xưa kia của chúng ta. Cũng do chỗ biết kết thân này nên sau tuy có đôi khi xảy ra việc giặc cướp 

ở các vùng biên giới hoặc có chuyện tranh chấp đất đai ở các điểm lân cận của hai nước, nhưng đôi bên vẫn nhường 

nhịn lẫn nhau.

 2- Luật Pháp 

Luật pháp đời bây giờ vẫn theo đời Hồng Đức. Mọi tội khinh, trọng đều qui định vào 5 thứ: suy, trượng, đồ, lưu, tử, từ 

nhẹ nhất đến nặng nhất. Chỉ khác là xưa thì có thể lấy tiền chuộc tội, nhưng đến đời Trịnh Tạc đặc ân này của triều 

đình bị chấm dứt nghĩa là phạm tội thì phải chịu hình, trừ riêng những ai thuộc các trường hợp bát nghị. Ngoài ra cũng 

có sửa đổi về tội lưu (cũng thuộc tội trọng) là tội phải chặt hai bàn tay và đày đi xa. Đời chúa Trịnh Cương và vua Dụ 

Tông tội này cải sang chung thân. Trường hợp nhẹ hơn là phải chặt một bàn tay và đày ra ngoại châu (cũng như biệt 

xứ ngày nay) thì ấn định đổi làm tội đồ 12 năm. Ai phải tội chặt hai ngón tay trỏ và phải lưu cận châu nay đổi làm tội 

đồ 6 năm, những kẻ phạm tội cướp không thuộc vào những lệ này. Đời chúa Trịnh Tạc phép xử kiện cũng phân loại để 

định đoạt nặng nhẹ: a) Mưu, sát, đạo, kiếp thuộc về đại tụng (tức là đại hình). b) Hộ, hôn, ẩu, đả thuộc tiểu tụng (tức là 

tiểu hình). Có điều đặc biệt về vấn đề xử kiện và đi kiện là quan án xử không minh phải phạt tiền. Đi kiện được xử công 

bằng mà còn đi kiện nữa thì cũng phải phạt tiền. Để xét xử các vụ hộ, hôn, điền thổ, trộm cướp nhà vua cũng đặt thứ tự 

như án mạng thì cấp Phủ. Huyện xét trước rồi đệ lên Thừa ty và Hiến ty họp nhau duyệt lại. Việc trộm cướp ở kinh 

thành thì có quan Đề lĩnh xử (ở các trấn thì quan Trấn thủ xét. Trấn thủ ngày xưa là chức võ quan kiêm cả việc hành 

chính. Chế độ trấn thủ áp dụng vào thời chưa có thái bình thật sự). Xin nhắc rằng việc kiện dầu nhỏ, dầu to mà các 

Huyện, Phủ, Thừa ty, Trấn ty xét không xong, người dân còn có thể khiếu lên Hiến ty, Giám sát, Đề lĩnh và Ngự sử đài, 

tới ngự sử đài là tới triều đình tức là đến nhà vua. Ngự sử đài có nhiệm vụ đưa ra Chính đường (như hội đồng nội các 

của chính phủ đời nay) vào tháng chạp mỗi năm bản phúc trình về các vụ tố tụng đã duyệt lại các cấp dưới trở lên, đề 

nghị cải cách, tu bổ luật pháp và thủ tục tư pháp và luật lệ kháng án (việc này do sáng kiến của Trịnh Cương). Thời 

hạn xử án cũng được ấn định như sau: việc án mạng thì bốn tháng phải xử xong, trộm cướp, điền thổ thì 3 tháng; hôn 

nhân, ấu đả thì 2 tháng, không được kéo dài bất kể lẽ nào vì sợ mất thì giờ và công ăn việc làm của dân. 

Sử còn chép rằng triều đình có lệnh cho các cấp hành chính tìm cách giảm bớt những việc tố tụng xét ra vì ảnh hưởng 

sâu xa và lâu dài của thời ly loạn, dân tình, dân phong bê bối quá do đó mà xẩy ra nhiều vụ tranh chấp, bất hòa. Kiện 

lắm dân cũng coi thường mà quan cũng phát ngán, vậy ý của chính quyền là lo ngăn ngừa bớt việc kiện cáo (chỉ dụ 

ban hành từ năm 1718). 

3- Binh Chế Buổi đầu đời Trung Hưng là lúc họ Trịnh khởi đánh họ Mạc, số quân vào lúc thịnh nhất là 56.000 người 

bởi binh sĩ chỉ có thể tuyển mộ ở riêng hai tỉnh Thanh Nghệ. Nhưng sau khi đuổi được họ Mạc ra khỏi miền Trung 

châu Bắc Việt (1592) thì binh lực của Trịnh mới được nhiều hơn vì đồng bằng miền Bắc vừa là kho người vừa là kho 

của. Binh chia ra làm hai hạng: Ưu binh và Nhất binh. Ưu binh là lính mộ ở ba phủ thuộc tỉnh Thanh Hóa và bốn phủ 

thộc tỉnh Nghệ An (Đàng trong). Nhất binh là lính tuyển ở bốn trấn ngoài Bắc (Đàng ngoài): Sơn Nam, Kinh Bắc (Bắc 

Ninh), Hải Dương, Sơn Tây cứ 5 xuất đinh bắt một người sung quân ngũ. Lính Ưu binh đóng ở Kinh đô, được nhiều 

đặc ân, đặc quyền như được cấp công điền và cả chức sắc. Lính Nhất binh phục vụ tại các trấn, phục dịch các quan, 

có việc loạn ly và chiến tranh mới được gọi đến, còn bình nhật thì về làm ruộng. Đến đời chúa Trịnh Doanh có nhiều 

giặc dã ở nhiều nơi nên phải gọi lính tứ trấn, động viên cả thảy được 115.000 hợp thành các đơn vị lớn nhỏ như sau: 

1) Đội gồm có : 20 người. 

2) Cơ gồm 20 đội có: 400 người. 

3) Vệ gồm từ 5 đến 6 cơ : 2000 hay 2400 người. (Bên Vệ có Tư là đơn vị có: 100 người). Đến Trịnh Cương (1709-1729) là 

lúc Nam Bắc đã đình chiến khá lâu, việc tuyển mộ và bao dưỡng quân đội cũng cáo chung. Xưa kia triều đình cho 

phép các quan lớn nhỏ tùy sức chiêu mộ trai tráng làm lính. Ai mộ được nhiều thì được cấp nhiều ruộng đất để có lợi 

tức dùng vào việc nuôi quân cung cấp cho chiến tranh, nay thì không còn nữa. 

 4- Quan Chế 

Về việc này họ Trịnh cũng thay đổi một phần vào chế độ quan lại đã do đời Hồng Đức lập ra. Xưa kia phụ trách về 

chính trị cấp tối cao trong triều đình là hai quan Tham tụng và Bồi tụng, quyền hành như chức Tể Tướng. Dưới có lục 

bộ Thượng thư: 

1) Đứng đầu Lục bộ là Lại bộ, cơ quan tuyển dụng, thuyên chuyển, thăng thưởng, trừng phạt các nhân viên trong bộ 

máy Nhà nước. 

2) Hộ bộ coi về điền thổ, thuế khóa, chi thu của Nhà nước. 

3) Lễ bộ coi việc học hành, thi cử, lễ nghi, tế tự, định các phẩm phục, phù ấn, việc làm chương, biểu, săp đặt các sứ bộ 

ngoại giao, âm nhạc, xướng ca. 

4) Binh bộ coi các võ quan, binh sĩ, động viên, quốc phòng như bộ Quân lực hay bộ Quốc phòng ngày nay. 

5) Hình bộ tức là bộ Tư pháp coi việc án từ, tu chỉnh luật pháp. 

6) Công bộ lo xây đắp đường xá, cầu cống, thành trì, dinh thự, đào sông, lấp ngòi, khai thác rừng núi. Năm Mậu Tuất 

(1718) đời vua dụ Tông, để tiện việc nắm hết quyền hành, Trịnh Cương lập phủ Liêu là một cái triều đình thứ hai để tự 

do quyết định mọi việc lớn nhỏ. Từ đó phủ Liêu át hẳn triều đình do sự hoạt động của lục Phiên (Phiên ở đây thay Bộ) 

còn khi nào tiếp sứ Tàu hay có quân quốc trọng sự chúa Trịnh mới đem các quan đến họp với vua Lê. Về võ bị trước 

kia có ngũ phủ: Tung quân phủ, Đông quân phủ, Nam quân phủ, Tây quân phủ, Bắc quân phủ. Mỗi phủ đặt đưới 

quyền một Đô đốc. Mỗi phủ đây có ý nghĩa như một quân khu ngày nay. Tỉ dụ: dưới đời vua Lê Thánh Tông, Thanh 

Hóa, Nghệ An thuộc về Trung quân; Hải Dương, An Bang thuộc Đông quân; Sơn Nam, Thuận Hóa, Quảng Nam 

thuộc Nam quân; Tam Giang, Hưng Hóa thuộc về tây quân; Kinh Bắc, Lạng Sơn thuộc về Bắc quân. Năm quân phủ 

này được đặt đưới quyền hai cơ quan cao như bộ Tổng tư lệnh đời bây giờ tức là Chưởng phủ sự và Thự phủ sự. Hai 

cơ quan này được đặt ra từ vua Huyền Tông và chúa Tây Vương Trịnh Tạc (1657 - 1682). Giới quan lại xưa nay chỉ có 

hai ban: văn và võ, nhưng để kiện toàn chánh sách chuyên chính, họ Trịnh lập thêm một ban nữa là Giám ban. Ban này 

có vai trò như một nha Tổng giám đốc hành chánh và chánh trị mà nhân viên là Nội giám tay chân của chúa. Quan lại 

cứ sau mấy năm lại khảo hạch một lần, những kẻ bất tài bị loại, những kẻ sút kém năng lực phải giáng. Hưu bổng của 

quan lại được định như sau: quan nhất phẩm mỗi năm được lĩnh 400 quan tiền, dân lộc của bốn năm xã; quan nhị phẩm 

được 300 hoặc 250 quan tiền của hai ba xã; quan tam phẩm được từ 150 đến 250 quan của một hai xã; quan tứ phẩm 

được 150 quan của một xã; quan ngũ phẩm được 100 của một xã. Để tránh những vụ lạm dụng, áp bức dân chúng, triều 

đình cấm những quan lại lập trang trại ở địa phận đang thuộc quyền cai trị của mình. Bộ máy cai trị đời Trung Hưng 

cho tới An Đô Vương Trịnh Cương đáng được coi là lành mạnh nên các sử gia Pháp khen tốt đẹp vào bậc nhất. 

5- Chế Độ Thuế Khóa 

Muốn việc thuế khóa được minh bạch, chúa Trịnh Cương đã cải cách nhiều. Tỉ dụ, chúa sai các quan Phủ, Huyện, 

quan Thừa sát và Hiến sát định phép đo đạc và làm sổ thuế điền thổ khiến không còn ai ẩn nặc để trốn thuế hay bớt 

thuế. Chúa lại lập cả ngạch thuế mới đánh về rừng mỏ, sửa sang các hải cảng ở hai tỉnh Thanh, Nghệ cho thuyền buôn 

ngoại quốc ra vào buôn bán và lấy thuế thương chính. Điền thổ chia làm ba hạng: hạng nhất mỗi mẫu đóng đồng niên 

1 quan, hạng nhì 8 tiền, hạng ba 6 tiền. Số thâu hoạch nhờ phép mới này mà tăng lên rất nhiều. Về thuế đinh, trước cứ 

6 năm sổ hộ tịch phải làm lại một lần. Đồng niên mỗi xuất đinh tùy giai cấp xã hội và tình trạng tài sản phải đóng một 

quan tám gọi là thuế thân. Thời ông Phạm Công Trứ làm quan Tham Tụng (năm Kỷ Dậu - 1669 - đời vua Huyền Tông) 

xin đặt ra phép bình lệ nghĩa là mỗi làng chỉ phải làm sổ đinh nhất định một lần, rồi mỗi làng cứ chiếu theo số xuất đinh 

đã ghi trong sổ mà nộp thuế cho quan. Nếu làng nào đẻ thêm hay có người chết đi số tiền nộp về thuế đã ấn định một 

lần thì cứ theo thế mà nộp mãi, nghĩa là không tăng không giảm nữa. Với phép này ta thấy Tham Tụng họ Phạm muốn 

giản dị hóa vấn đề thuế đinh cho rằng khó tin và khó kiểm soát số sinh và số tử hàng năm, tốt hơn hết Nhà nước 

khoán trắng cho thôn xã tùy tiện bổ bán với các đinh miễn sao đủ số thuế nhất định hàng năm thì thôi74. Đến năm Quí 

Tị (1713) đời vua Dụ Tông sử chép: số dân nội tịch phải đóng thuế cho triều đình cả thảy chỉ được 206.315 xuất (đinh). 

Có lẽ sử chép sai việc này! Xin nhắc rằng giữa thế kỷ 15 đời Lê Thái Tổ, ông Nguyễn Trãi được lệnh kiểm tra nhân 

khẩu bấy giờ đã biết tổng số nhân dân có tới khoảng 7 triệu người (dĩ nhiên cả nam, phụ, lão ấu). Ngoài hai thứ thuế 

chính trên đây, còn một thứ thuế nữa là tiền sưu dịch, thứ tiền để Nhà nước chi dụng vào việc xây dựng cầu cống, 

đường xá, tế tự, giữ gìn đê điều v.v... các quan cũng liệu bổ bán cho các xuất đinh. Mười năm sau tức là năm Quí Mão 

(1723) Tham Tụng Nguyễn Công Hãng thay đổi phép thuế đinh điền theo kiểu nhà Đường bên Tàu như sau: a) Phép 

tô (thuế điền thổ) cứ mỗi mẫu công điền phải nộp 8 tiền thuế, ruộng cấy hai mùa thì chia ba, quan lấy một phần thóc. 

Đất bãi của quan thì mỗi mẫu phải nộp 1 quan 2 tiền; Ruộng dâu mỗi mẫu nộp một nửa bằng tơ, chỗ nào không trồng 

dâu thì nộp bằng tiền. Ruộng tư điền xưa không phải chịu thuế (!) đến đầu thế kỷ 18 mới phải nộp: ruộng hai mùa mỗi 

mẫu 3 tiền. Ruộng một mùa chịu 2 tiền. b) Phép dung (thuế thân) Mỗi xuất đinh đồng niên đóng một quan 2 tiền. Sinh 

đồ (học trò bận khoa cử), lão hạng (từ 50 đến 60 tuổi) và hoàng đinh (từ 17 đến 19 tuổi) chỉ phải đóng có một nửa. c) 

Phép điệu (tiền sưu dịch) Mỗi xuất đinh phải đóng nhất định 6 tháng một kỳ vào mùa Hạ và mùa Đông, mỗi kỳ 6 tiền 

không như trước làm đến đâu gọi dân đóng góp đến đấy, có điều phiền nhiễu lôi thôi hơn nhiều.                                        

 74 Sau này trong thời Pháp thuộc việc ruộng đất được đo đạc cẩn thận vậy mà ở nhiều nơi chính phủ thuộc địa cũng 

còn thi hành lối "khoán trắng" này. 

6- Các Thứ Thuế Linh Tinh 

1) Thuế tuần ty - thuế này đánh vào các thuyền buôn đi lại trên các dòng sông. Bấy giờ có tất cả 23 sở tuần ty trong 

nước. Tre, gỗ nứa, lá gồi thì cứ đánh lấy 1/10, hàng tạp hóa thì đánh lấy 1/40.

 2) Thuế muối - Năm Tân Sửu (1721) Trịnh Cương đặt quan Giám Đương (quan Thương Chính ngày nay) để đánh thuế 

muối, cứ 10 phần thì phải nộp 2 phần vào thuế. Người buôn muối phải có thẻ của Giám Đương mới được mua muối mà 

phải mua của quan trước sau mới được mua của người làm muối. Vì muối phải chịu thuế nên giá cao tới một tiền một 

đấu muối, dân sự ta thán rất nhiều. Năm Nhâm Tí (1713) chúa Trịnh Giang bỏ thứ thuế nầy. Đến năm Bính Thìn (1746) 

chúa Trịnh Doanh lại lập việc đánh thuế muối chia ra 50 mẫu ruộng muối thì phải làm một bếp, mỗi bếp phải nộp cho 

nhà nước 400 hộc muối làm thuế (mỗi hộc muối bấy giờ giá là ba tiền, mỗi tiền là 60 đồng kẽm). 

3) Thuế thổ sản - Năm Giáp Thìn (1724) đưới đời Trịnh Cương các thứ thổ sản như vàng, bạc, đồng, kẽm, sơn, than, gỗ, 

diêm, tiêu, tre, gỗ, tơ lụa, quế, cá, mắm, rượu, mật, dầu, giấy, chiếu, vải v.v... phải chịu thuế. Về đời Trịnh Giang, giặc giã 

nổi lên như ong, nhà nước phải chi tiêu nhiều mà vấn đề sổ sách kế toán cho tới bấy giờ chưa được thiết lập nên 

không biết được tình trạng công khố, chúa mới cho các Hộ phiên lập sổ sách chi thu đồng niên để liệu trước vấn đề 

ngân sách hàng năm. Chúa Trịnh Giang ấn định thể lệ khai mỏ, giảm bớt thuế cho người Việt nhưng đánh thuế nặng 

vào Huê kiều. Dưới đời Lê Thuần Tông, chúa lại khuyến khích việc in các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, sử ký và các loại 

sách học do nơi người Việt để khỏi mua của Tàu và chúa còn cấm không cho Tàu nhập cảng sách vào đất Việt nữa. 

Riêng về điểm này chúa Trịnh Giang được sử gia Pháp rất ngợi khen. Vấn đề khai mỏ vào thời chúa Trịnh cũng có 

nhiều điều phức tạp đối với người Tàu. Trước chúa Trịnh Giang, chúa Trịnh Cương đã phải ấn định số người Tàu sang 

khai mỏ ở nước ta chỗ đông nhất chỉ được tới 300 người, chỗ vừa 200 người, chỗ ít là 100 bởi để cho họ tập trung đông 

quá rất khó giữ gìn an ninh, trật tự. Vậy mà về sau công nhân Tàu có chỗ đông tới hàng vạn người hay sanh sự đánh 

nhau và quấy nhiễu dân chúng làm triều đình có phen phải huy động quân đội đánh dẹp như trừ giặc vậy75. Xin lưu ý 

rằng: nhân công khai mỏ phần nhiều là những người Nùng, Thổ sinh quán ở các vùng biên giới Hoa Việt (giáp Quảng 

Đông và Quảng Tây) tính tình ngang ngược và thường là những thổ phỉ nên phải áp dụng biện pháp cứng rắn trên 

đây. Sau này chúa Trịnh Giang phải sửa đổi và đưa ra thêm nhiều điều lệ mới về vấn đề khai mỏ của người Tàu lúc bấy 

giờ vẫn chưa ổn định về nhiều phương diện.                                        

 [75 Tại Thái Nguyên hai họ Trương, Cát người Tân quê ở Trào Châu, chuyên nghề khai mỏ đúc quặng đã có lần tụ tập 

được tới vạn người để hưởng ứng với quân Nghĩa Dũng Điển Châu của nhà Thanh sau này theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm 

chiếm nước ta. ]

Sử còn chép rằng trong việc khai mỏ người Tàu thu 10 phần ta không được một, hẳn họ đã gian lận, ta không có 

chuyên viên để kiểm soát chăng? Còn mỏ của chúng ta thì có khá nhiều ở các tỉnh Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng 

Sơn, Thái Nguyên. Tại các nơi này có vàng, bạc, kẽm, đồng v.v... nhưng phương pháp khai mỏ của người Tàu bấy giờ 

cũng chưa được chu đáo lắm. 

7- Việc Đúc Tiền

 Đến đời Lê Trung Hưng người ta còn tiêu tiền đúc của đời Hồng Đức. Đời Trung Hưng nối tiếp việc này cho các trấn 

tự lập sở đúc tiền lấy nên nhiều việc lạm dụng đã xảy ra. Năm Quí Dậu (1753), chúa Trịnh Doanh muốn chấm dứt tình 

trạng này đã cho bỏ các sở đúc tiền ở tứ trấn, chỉ giữ lại hai sở ở gần kinh thành. Năm Bính Thân (1776) đời vua Lê 

Hiển Tông, Trịnh chiếm được Thuận Hóa lại mở ở đây một lò đúc tiền, đúc thêm ba vạn quan tiền Cảnh Hưng nữa. Ta 

còn thấy đời bấy giờ đúc cả bạc lạng nữa. Mỗi lạng trị giá 10 đồng, mỗi đồng ăn hai tiền. Bạc ấy chặt ra tiêu cũng 

được. 

8- Sự Đo Lường 

Cho tới năm Giáp Thìn (1664) việc đo lường ở nước ta vẫn cứ 6 hạp là một thăng, có chỗ gọi là thưng. Thưng có lẽ là 

đồ đo lường lớn nhất để đong ngô, khoai, đậu, đỗ, và nhỏ nhất là đấu. Đấu cũng có đấu lớn đấu nhỏ nữa cho tới gần 

đây ở các vùng quê miền Bắc vẫn dùng. Chúng tôi ngờ thăng là đồ đo lường của Tàu mang sang từ lâu chớ không 

phải của ta có từ trước. Theo Việt Nam Sử Lược trang 314, ông Phạm Công Trứ định lại, lấy một cái ống gọi là Hoàng 

chung quản làm chừng. Ống này đựng được 1.200 hột thóc đen gọi là thược, rồi cứ 10 thược là một hạp, 10 hạp làm một 

thăng, 10 thăng làm một đấu, 10 đấu làm một hộc76. Theo Hoa Bằng tác giả Quang Trung Nguyễn Huệ, Anh Hùng 

Dân Tộc thì thưng là đơn vị đong lường ngày xưa: cứ 10 hợp (hạp) là một thăng (thưng), một thưng bằng 316 tấc khối 

tức là 10.354.688 công thăng ngày nay. 

9- Học Chính và Khoa Cử  

Về việc học vào thế kỷ XVII các triều đình nước ta vẫn không có gì thay đổi, khoa cử cũng vậy. Nho học vẫn được tôn 

sùng, duy việc học hành, khoa cử bị gián đoạn ít nhiều vì nội tình rối ren của quốc gia từ thượng bán thế kỷ thứ 16.       

 [76 Đời nhà Hồ tư điền phải đóng 5 thăng thóc; trước đó nhà Trần chỉ thu 3 thăng, thăng hay thưng cùng theo một 

nghĩa. Xin coi Quang Trung Nguyễn Huệ, Anh Hùng Dân Tộc trang 24 -- những dòng cuối cùng của phần chú thích. 

]

Khi nhà Mạc còn thịnh (1527) Mạc vẫn mở khoa cử để tuyển dụng nhân tài ở Thăng Long, còn nhà Lê bấy giờ còn 

thất thời chỉ đủ thì giờ lo việc binh nhung mà thôi. Tới năm Canh Thìn (1580), nhà Lê mới mở được khoa thi ở Tây Đô. 

Cách thức thi cử còn sơ lược và cứ ba năm mới có một kỳ thi Hội. Ngót một thế kỷ sau (1664) đời vua Huyền Tông, 

chúa Trịnh Tạc mới qui định lại thể thức thi Hội. Còn thể lệ thi Hương tới năm Mậu Ngọ (1678) cũng có chỉnh đốn lại. 

Từ đó 3 năm có một kỳ thi Hương. Trường thi đặt tại Thanh Hóa, Sơn Nam (Nam Định) Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, 

Thái Nguyên, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng Sơn và Yên Quảng. Sử chép rằng: tuy vậy thi Hương còn "hồ đồ" lắm, 

không nghiêm như dưới đời Hồng Đức. Đời Dụ Tông niên hiệu Bảo Thái, có lệ nộp tiền Minh Kinh là tiền kinh phí cho 

các quan trường. Năm Canh Ngọ (1750) đời Cảnh Hưng, nhà nước thiếu tiền, ai nộp được ba quan gọi là tiền thông 

kinh thì được thi, khỏi phải khảo hạch (!) Sự kiện này đã gây nhiều vụ lộn xộn làm mất uy tín của khoa cử do đó người 

làm ruộng, kẻ đi buôn, học hành lỗ mỗ cũng nạp quyển để thi. Vào đến trường học chen chúc nhau, có kẻ bỏ mạng, 

nhiều người còn làm những trò gian lận như thuê người gà bài, thí sinh với quan trường thông gian, khiến người ta có 

cảm tưởng là đi học chợ chớ không phải là đi thi nữa. Chúa Trịnh Cương cũng mở cả trường dạy võ, đặt quan giáp thụ 

trông coi. Học sinh thường là con cháu các quan đến học võ kinh, chiến lược, cứ một tháng một lần tiểu tập, ba tháng 

một lần đại tập. Ngoài ra trường học vào cấp sơ đẳng thì vẫn do nhân dân tự động mở lấy khắp thành thị và thôn quê 

do tư nhân, các ông đồ xuất thân là các vị khoa mục hay các nhà nho số phận hẩm hiu với cử nghiệp, các quan trí sĩ 

hay các người không muốn ra làm quan với bản triều. Về phần Nhà nước cũng có mở trường cho các thanh niên ưu tú 

đến học như Quốc Tử Giám. Giảng dạy ở đây là quan Tế Tửu hay Tư Nghiệp, mỗi lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập 

để bình luận văn thơ, thi phú và khảo hạch năng lực của các nho sinh. Mùa Xuân, mùa Thu thì tập vũ nghệ, (đánh 

côn, đánh quyền, bắn cung, cưỡi ngựa, múa khiên, múa gươm, giáo, chạy bộ v.v...). Mùa đông, mùa Hạ thì tập võ kinh 

(phần lý thuyết). Ba năm Nhà nước mở một khoa thi võ. Võ sinh phải biểu diễn các môn kể trên rồi vào vấn đáp là để 

duyệt khảo phần lý thuyết. Năm Canh Thân (1740) chúa Trịnh Doanh cho lập võ miếu thờ Vũ Thành Vương Khương 

Thái Công, Tôn Vũ Tử v.v... Đàng sau có miếu thờ Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và có cả miếu thờ Quan Vân 

Trường. Xuân Thu đôi lần triều đình cử các quan ra tế lễ. 

10- Việc Chép Sử

 Cho tới đời Lê Trung Hưng chúng ta mới có bộ Đại Việt Sử Ký gồm các bộ chánh sử làm trong hai triều Trần Lê do 

ông Lê Văn Hưu biên soạn, bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư do ông Ngô Sĩ Liên làm ra thế cho bộ sử trên mất đi, bộ Đại 

Việt Sử Ký Tạc Biên của Phan Phù Tiên phụng mệnh vua Lê Nhân Tông chép tiếp vào bộ Đại Việt Sử Ký nay cũng 

không còn. 

Đến đời vua Lê Tương Dực, ông Vũ Quỳnh được lệnh soạn ra cuốn Đại Việt Thông Giám Thông Khảo xong vào năm 

1511 cũng như bộ Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chép từ đời Hồng Bàng đến đầu năm Đại Định của Lê Thái Tổ (1428). 

Năm 1665 ông Phạm Công Trứ soạn bộ Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Tục Biên là một công trình không riêng của ông (phần 

sáng tác của ông Phạm Công Trứ từ Lê Trang Tông đến hết đời Lê Thần Tông (1662)) sau chúa Trịnh Tạc sai ông và 

nhiều người khác sửa và xét lại. Đến năm Bính Thìn (1676) vua Hy Tôn sai Hồ Sĩ Dương xét lại bộ quốc sử, chẳng bao 

lâu họ Hồ mất đến Lê Hy và Nguyễn Quí Đức chép nối từ đời vua Huyền Tông đến vua Gia Tông gọi là Quốc Sử Thực 

Lục. Năm Ất Vị (1775) đời Cảnh Hưng, chúa Trịnh Sâm sai các ông Nguyễn Hoàn, Lê Quí Đôn, Ngô Thời Sĩ, Nguyễn 

Du chép thêm từ Hy Tông đến Ý Tông gọi là Quốc Sử Tân Biên.  

350 Việt Sử Toàn Thư 

 Phần 3 - Chương 16 

Những Vụ Phiến Loạn Dưới Đời Chúa Trịnh  

- Loạn dân quê miền Bắc

 - Loạn quí tộc nhà Hậu Lê 

1- Từ Vụ Loạn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ Đến Vụ Hữu Cầu 

Từ 1527 đến 1638, ta không thấy sử chép có vụ phiến loạn nào đã xảy ra từ Mạc khởi nghiệp đến đời vua Lê Thần 

Tông. Nhưng đến đời chúa Uy Nam Vương Trịnh Giang thì nhiều việc giặc dã liên tiếp bùng nổ ở nhiều nơi trong 

nước. Lý do là Trịnh Giang thất chánh đã giết vua lại còn tàn sát các đại thần như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn 

v.v... và ăn chơi xa xỉ, dâm đãng khiến công quỹ thiếu hụt, sưu thuế nặng nề. Ở các trấn bấy giờ có Nguyễn Tuyển, 

Nguyễn Cừ nổi lên tại làng Ninh Xá, huyện Đường An (Hải Dương); Hoàng Công Chất, Võ Đình Dung ở đất Sơn Nam; 

ở Sơn Tây có Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Diên, Tế, Bồng; tại vùng duyên hải (Bắc Việt) có Nguyễn Hữu Cầu, và ở 

Thanh Nghệ có sự hoạt động của Lê Duy Mật (ở Thăng Long chạy vào). Đây là những tổ chức phiến loạn lớn, còn 

các đám cướp hay giặc cỏ thì nhiều không kể xiết. Các tổ chức phiến loạn lớn đều tuyên bố "Phù Lê diệt Trịnh". Toán 

đông có tới hàng vạn người theo, toán nhỏ cũng tới hàng ngàn đi cướp phá thành thị, thôn quê, quan quân địa 

phương dẹp không nổi77. Tình thế trong nước rối ren như vậy mà Trịnh Giang vẫn cứ dâm dật vô độ, đào hầm làm nhà 

ở đưới đất để tránh sấm sét, chính sự giao cho các hoạn quan là bọn Hoàng Công Thụ tha hồ làm các điều xằng bậy, 

nhân dân ta thán khôn xiết. Thấy thế nguy, một số đại thần của phủ Liêu là Nguyễn Quí Cảnh, Nguyễn Công Thái, Võ 

Công Tế họp nhau gây cuộc đảo chính, truất được Trịnh Giang rồi tôn em chúa là Trịnh Doanh lên thay. Sau khi nội 

tình phủ Liêu đã ổn định, một số tướng lãnh có tài trị loạn được cử đi đánh dẹp. Đó là các ông Hoàng Nghĩa Bá, Hoàng 

Ngũ Phúc, Phạm                                        

 [77 Có điều đáng chú ý là dân nổi loạn đời Lê-Mạc đi đánh phá các nơi chỉ có ít giáo, mác, gậy gộc và vác cả cầy bừa 

đi chiến đấu. Giáo sư J. Chesneaus ví các vụ loạn này giống phong trào Vendée đã ghi trong lịch sử nước Pháp năm 

1793. ]

Đình Trọng, Nguyễn Phan, Bùi Thế Đạt. Chúa Trịnh Doanh và Trịnh Sâm thân làm Tổng chỉ huy đoàn quân bình định 

đời bấy giờ. Thế quân phiến loạn đang lên rất mạnh. Vụ khởi loạn xảy ra vào năm Kỷ Mùi (1739) tại Hải Dương sau lan 

tràn ra vùng Từ Sơn, Nam Sách và Hồng Châu (ba tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên), lĩnh tụ là Nguyễn Cừ, 

Nguyễn Tuyển, Vũ Trác Oanh và Nguyễn Diên. Cừ chiếm đất Đỗ Lâm thuộc Gia Phúc. Tuyển giữ Phao Sơn thuộc Chí 

Linh (Hải Dương) cũng xây thành đắp lũy và liên lạc với nhau chống quân triều. Binh lính của họ có tới mấy vạn 

người, quan quân đánh không nổi, nhiều người bị bắt, bị giết. Năm Canh Thân (1730) bọn Vũ Đình Dung, Đoàn Danh 

Chấn, Tú Cao ở làng Nhân Già thuộc trấn Sơn Nam, cũng ùa theo phong trào, hợp dân chúng giết được quan Đốc Lĩnh 

là Hoàng Kim Qua, thế lực rất mạnh. Năm Tân Sửu (1741) lực lượng của bọn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ yếu dần. 

Quan Thống Lĩnh Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá phá được đồn Phao Sơn. Tuyển bỏ chạy rồi chết. Vũ Trác Oánh biệt 

tích, còn Cừ chạy ngược lên Lạng Sơn được ít tháng lại quay xuống Đông Triều nhưng cạn lương thực phải rút vào 

Ngọa Vân sơn rồi bị quan Hiệp Đồng Phạm Đình Trọng bắt được đóng cũi đem về Kinh trị tội. Nhưng kiệt hiệt nhất 

trong đám lĩnh tụ loạn quân đời bấy giờ có Nguyễn Hữu Cầu cũng người tỉnh Hải Dương trước có theo Nguyễn Cừ làm 

tùy tướng được mệnh danh là Quận He. Cầu có sức khoẻ hơn người, lắm mưu cơ, đảm lược, xuất quỷ nhập thần. Nhiều 

khi bị bao vây nhiều vòng, chỉ một mình một ngựa Cầu phá nổi trùng vi. Binh đội tan rã, chỉ mấy hôm sau Cầu lại kêu 

gọi được hàng vạn người theo rất dễ dàng. Nguyên do Cầu không làm loạn vì mình nên cướp được thóc gạo, của cải 

bao nhiêu đem chia hết cho dân nghèo, nhờ vậy quân của Cầu đi đến đâu cũng được dân ủng hộ, quân lương muốn 

lấy bao nhiêu cũng có. Nói cho phải Cầu cũng thuộc loại thảo dã anh hùng, có hoài bão phù nguy cứu khổ như ai. Đối 

thủ của Hữu Cầu là đám vua chúa mục nát, tham quan nhũng lại, các gian thương, các nhà trọc phú, các cường hào ác 

bá. Khi chủ tướng Nguyễn Cừ bị bắt, Cầu mang dư đảng về Vân Đồn, giữ núi Đồ Sơn, một thời vô cùng oanh liệt, nổi 

tiếng là hùm thiêng vùng duyên hải. Năm Quí Hợi (1743) Cầu giết được Thủy Đạo Đốc Binh là Trịnh Bảng, tự xưng là 

Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân, Đại Tướng Quân.  Với hai chữ "Bảo dân", Hữu Cầu đã nêu cao chính nghĩa của cuộc 

chiến đấu và thủ đoạn quỷ quyệt khôn lường của Hữu Cầu, đã từng làm binh tướng của Triều đình nhiều phen thất 

điên bất đảo, riêng có Phạm Đình Trọng mới đủ tài đối chọi với Cầu. Được cử đi đánh Hữu Cầu trước tiên bấy giờ là 

Hoàng Ngũ Phúc, một đại tướng của chúa Trịnh. Quân triều vây quân phiến loạn ở núi Đồ Sơn. Hữu Cầu phá được 

chạy về 

Kinh Bắc (Bắc Ninh). Tại đây quan Trấn Thủ Trần Đình Cầm và quan Đốc Đồn Võ Phương Đề chống không nổi bỏ cả 

ấn tín thoát thân. Kinh Bắc mất, Thị Cầu cũng bị hạ, tin này chấn động đến Thăng Long. Hoàng Ngũ Phúc và Trương 

Khuông quay binh trở lại thâu được Kinh Bắc nhưng thế quân của Hữu Cầu đang mạnh. Trương Khuông chống 

không nổi ở làng Ngọc Lâm (huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang), thống lĩnh Đinh Văn Giai cũng bại ở Xương Giang 

(cũng thuộc Bắc Giang), nhờ vậy loạn quân lại trở về phong tỏa Thị Cầu. Chiến trường lần này là Xương Giang. Chúa 

Trịnh Doanh cử Phạm Đình Trọng đến hợp sức với Hoàng Ngũ Phúc. Hữu Cầu thua trận mất một tùy tướng là Thông 

và nhiều quân nhu, chiến mã. Đến năm Bính Dần (1749) ngôi sao của Hữu Cầu bắt đầu lu mờ nên Cầu cho người ngầm 

mang vàng về đút lót cho Đỗ Thế Giai và quan Nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh để hàng. Chúa Trịnh Doanh bằng 

lòng phong cho Cầu làm Hướng Nghĩa Hầu, cử quan Thiêm Tri là Nguyễn Phi Sảng đem Dụ ra cho Phạm Đình Trọng 

bảo bãi binh. Trọng với Cầu có cái thù không đội trời chung vì Cầu đã đào mả mẹ Trọng đổ xuống sông nên Trọng 

cương quyết theo đuổi Cầu đến cùng. Trọng trả lời Nguyễn Phi Sảng: "Kẻ làm tướng ở ngoài biên mới hiểu sự thế của 

biên cương, mệnh vua có khi không thể theo được. Ông được lệnh vua thì cứ đi gọi giặc về hàng, còn tôi có phận sự 

đánh giặc, tôi cứ đánh". Nói rồi Trọng cất quân đi ngay, hăng hái hơn bao giờ hết. Bọn Đỗ Thế Giai thấy Trọng không 

tuân lệnh chúa giận lắm nhân có việc Trọng cho người tuyển mộ tân binh ở các huyện Tứ Kỳ, Thanh Hóa. Vĩnh Lại và 

Thượng Hồng đặt làm 4 cơ, giao cho hai thủ hạ cai quản liền dèm pha với Chúa. Chúa không nghe vì tin sự trung 

thành của Trọng, nên gửi Trọng một bài thơ để Trọng yên lòng. Thấy kế hoạch của mình không thành, Hữu Cầu đành 

tiếp tục chiến đấu từ miền Đông qua miền Nam. Một hôm Hữu Cầu bị đuổi đến Cẩm Giang (Hải Dương) đem quân lén 

về đánh úp Thăng Long nhân lúc bất ngờ. Quân Cầu tới bến Bồ Đề thì trời hừng sáng. Trịnh Doanh đem quân ra bến 

Nam Tân chống thì quân của Phạm Đình Trọng cũng về kịp. Quân Cầu bị hai phía đánh dồn lại, thua chạy. Từ khi thất 

trận ở Bồ Đề, quân lực của Hữu Cầu suy giảm nhiều. Cầu phải kết hợp với đảng Hoàng Công Chất đi cướp phá vùng 

Thần Khê, Thanh Quan. Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc đuổi theo, Chất chạy vào Thanh Hóa, Cầu vào Nghệ 

An. Tại đây Cầu lại nhập với một lĩnh tụ khác là Diên ở Hương Lãm (huyện Nam Đường, nay là Nam Đàn) vẫn bị quan 

quân theo ráo riết đến Hoàng Mai thì Cầu hết thời (Hoàng Mai thuộc Thanh Hóa), bị bắt đóng giải về nộp cho chúa 

Trịnh (vào năm Cảnh Hưng thứ 12).

Vụ Loạn Nguyễn Danh Phương 

Phương cũng xuất đầu lộ diện cùng thời Hữu Cầu nghĩa là vào năm 1740, bắt đầu vào làm đàn em của hai loạn tướng 

đời bấy giờ là Tế và Bổng ở Sơn Tây. Tế và Bổng không may bị Võ Tá Lý, lĩnh chức Chinh Tây đại tướng quân, bắt 

được ở huyện An Lạc thuộc phủ Vĩnh Tường (Vĩnh Yên). 

Danh Phương mang dư đảng về Tam Đảo (tỉnh Vĩnh Yên) tổ chức lại hàng ngũ, trữ lương và tuyển mộ thêm người, mặt 

khác danh Phương cho người đến điều đình với các quan để ra hàng. Trong giai đoạn này nhiều tỉnh Đông Nam đang 

bị rối ren vì những cuộc đánh phá của Nguyễn Hữu Cầu và Hoàng Công Chất nên triều đình tán thành ngay đề nghị 

của Danh Phương để được rảnh tay ở địa phương này. Nhưng thực ra, Danh Phương chỉ trá hàng để có thì giờ sửa 

soạn thêm quân lương mà thôi và để nghiên cứu thực lực của quan quân. Sau đó, Danh Phương cũng hoạt động 

chẳng kém gì Hữu Cầu và trở thành mối lo cho Triều đình tại vùng tam giác Vĩnh Yên, Sơn Tây, Việt Trì. Năm Giáp Tí 

(1744), Phương có tới hơn một vạn quân, hạ đồn tại Việt Trì cướp phá Bạch Hạc là một huyện bên kia sông, chống 

nhau với Sơn Tây là Văn Đinh Ức. Danh Phương bị vây nhưng lại thoát được sang làng Thanh Linh, (huyện Bình 

Xuyên, tỉnh Vĩnh Yên). Địa phương này vừa có rừng núi vừa có đồng bằng, đủ thế tiến thoái và rất lợi về chiến lược, 

Danh Phương đóng đại bản doanh ở trên núi Ngọc Bội (giáp huyện Bình Xuyên và Tam Dương) lập thêm hai đồn, một 

ở Hương Canh gọi là Trung đồn, một ở Ức Ký (?) tự xưng là Thuận Thiên Khải Vận Đại Nhân. Danh Phương dựng 

cung điện, đặt quan chức, đánh thuế má lên tới tỉnh Tuyên Quang, thanh thế một thời vang dậy khắp vùng Trung du 

đất Bắc luôn 10 năm ròng (Phương còn có một tục danh nữa là Quận Hẻo). Trước cái tầm quan trọng của vụ loạn này, 

chúa Trịnh Doanh phải thân mang đại quân đi đánh. Năm Canh Ngọ (1750), quân của chúa tiến theo đường Thái 

Nguyên phá được ngoại đồn của Phương (Ức Ký) rồi tấn công vào Trung đồn (Hương Canh). Loạn quân bắn như mưa 

để cản trở quân triều, Chúa Trịnh giận lắm, rút gươm trao cho Nguyễn Phan là một tướng chỉ huy bên cạnh: "Phải phá 

cho được đồn này nếu không sẽ chiếu theo quân luật trị tội". Nguyễn Phan cổi chiến bào, xuống ngựa đi bộ lấy lời 

khảng khái khích động binh sĩ và xông vào trận. Binh sĩ cảm động ùa theo hết rất là hăng hái. Trận đánh trở nên vô 

cùng mãnh liệt, chẳng mấy lúc đồn Hương Canh bị hạ. Danh Phương lui vào hậu tuyến giữ Ngọc Bội. Trịnh Doanh, và 

Nguyễn Phan bỏ quân tiến theo, thế quân triều mạnh như nước lũ, quân của Danh Phương chống không nổi, bỏ chạy. 

Danh Phương chạy đến núi Độc Tôn, làng Tĩnh Luyện, huyện Lập Thạch (Vĩnh Yên) thì bị bắt. Trịnh Doanh đem quân 

trở về Thăng Long, tới nửa đường (làng Xuân Hy, Huyện Kim Anh, Tỉnh Phúc Yên) gặp quân của Phạm Đình Trọng 

giải Hữu Cầu tới. Chúa mở tiệc khao quân ở đây. Trước khi bị đưa về Kinh để chịu tử hình, Phương phải dâng rượu, 

Cầu phải thổi kèn cho yến tiệc của binh tướng triều đình thêm phần vui vẻ. 

Thật là:  

"Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn". 

Vụ Loạn Hoàng Công Chất 

Họ Hoàng nổi lên cùng một thời với các lĩnh tụ phiến loạn là Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Nguyễn 

Tuyển, Nguyễn Cừ, và chiến đấu được lâu dài hơn các bạn đồng hội, đồng thuyền. Hoàng khởi sự từ thời chúa Trịnh 

Giang đóng vai chúa tể miền Bắc tức là từ năm 1740 đến năm Kỷ Sửu (1769) mới hết. Trường hoạt động buổi đầu của 

họ Hoàng là đất Sơn Nam, tung hành từ phủ Khoái Châu sang đến Xuân Trường (Hưng Yên và Nam Định), Năm Ất 

Sửu (1745), quân đội của Hoàng cũng rất mạnh, phá được lực lượng của Trấn thủ Sơn Nam là Hoàng Công Kỳ, giết 

được viên tướng này. Binh sĩ của chúa Trịnh cũng phải huy động rất nhiều và do các tướng lĩnh có nhiều thành tích 

điều khiển đánh dẹp rất nhọc nhằn và mãi cũng không diệt được hẳn. Chất lưu động qua nhiều nơi, hợp với một lĩnh tụ 

khác là Thành khi thì cướp phá Thanh Hóa, khi thì ra Hưng Hóa. Năm Tân Tị (1760), Thành bị bắt. Chất yếu thế chạy 

lên đóng tại động Mạnh Thiên (Bắc Hưng Hóa) mượn thế rừng núi, trấn giữ gần đó (có lẽ là Đồn Vàng, Yên Lập, Cẩm 

Khê, thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay). Vị trí chiến lược vùng nầy rất thuận lợi vì Hưng Hóa nằm bên cạnh sông Thao, 

gần hai đường thủy bộ, khi mạnh thì tiến xuống được Việt Trì sát vùng Thượng du hoặc xuống Hòa Bình vào Thanh 

Hóa. Khi yếu thì chạy ngược lên Yên Báy hay qua Tuyên Quang là vùng núi xứ Bắc. Có hồi quân của Hoàng cũng 

đông tới hàng vạn người. Mãi tới năm Kỷ Sửu (1769), Thống lĩnh đại đoàn Nguyễn Thục được lệnh chúa Trịnh Sâm 

mang đại quân từ Sơn Tây đánh vào đại bản doanh (Mạnh Thiên) của Hoàng rất ráo riết, nhưng quân triều vào tới nơi, 

Hoàng đã bị bệnh mà chết. Con Hoàng là Hoàng Công Toản kháng cự không nổi, chạy ngược lên Vân Nam biệt tích, 

từ bấy giờ còn dư đảng của Hoàng cũng tan rã hết. 

2- Loạn Quí Tộc Nhà Hậu Lê

 Dự vào cuộc phiến động chung năm Mậu Ngọ (1738), có các Hoàng thân Lê Duy Mật, Lê Duy Quí, Lê Duy Trúc (Lê 

Duy Quí và Lê Duy Mật là con vua Lê Dụ Tông. Lê Duy Trúc là con vua Lê Hy Tông). Ba người này âm mưu giết họ 

Trịnh nhưng chẳng may công việc không thành, phải bỏ chạy vào Thanh Hóa. Sau Duy Quí và Duy Trúc phải bịnh 

chết. Sử gia C.B. Maybon nói khi cuộc đảo chính này bị bại lộ, Trúc và Quí bị họ Trịnh bắt được và giết chết. Riêng Lê 

Duy Mật chạy thoát vào Thanh Hóa với một số đông đồng đảng. Duy Mật chạy vào Thanh Hóa. Tại đây đã có những 

trận đánh kịch liệt vào những tháng đầu năm Canh Thân (1740), Lê Duy Mật có bắt được một tướng của Trịnh là Phạm 

Công Thế. Duy Mật hỏi: "Ông là người khoa giáp sao lại theo quân nghịch (chỉ họ Trịnh)?" Công Thế cười đáp: "Lâu 

nay danh phận không rõ thì làm sao phân được thuận nghịch!" Nói xong, Công Thế vươn cổ chịu chém. Xem câu trả 

lời của Công Thế là một trí thức thử thời thì đủ rõ Bắc hà đã quá ngán cả vua lẫn chúa, danh nghĩa của triều đình đã bị 

nhân dân coi rẻ; từ người bình dân đến kẻ trí thức chỉ biết mạnh đâu âu đấy và mạnh ai người ấy làm, lẽ thuận nghịch 

mờ tối như đêm ba mươi tháng chạp. 

355 Việt Sử Toàn Thư 

Năm ấy, quân đội của Duy Mật vùng vẫy từ đất Thanh ra Hưng Hóa, lại được sự cộng tác của một nhóm loạn quân do 

tên Tương chỉ huy giữ đồn Ngọc Lâu (thuộc huyện Thạch Thành) sau đồn này bị hạ, Tương tử trận. Duy Mật không 

cầm cự nổi ở vùng Thanh phải rút vào Nghệ An rồi sang Trấn Ninh, chiếm đóng núi Trình Quang sửa hào, đắp lũy làm 

kế cố thủ. Cũng có nhiều khi quân của Lê Duy Mật kéo ra đánh phá ngoài Sơn Nam78 khiến Trịnh cũng không yên 

tâm. Năm 1753, Trịnh Doanh có cho người vào Thuận Hóa yêu cầu Võ vương cho quân Trịnh qua đường Cam Lộ vào 

đánh Lê Duy Mật. Võ vương không chịu (có ý ngờ quân Trịnh lợi dụng để đánh quân mình chăng?). Nhiều lần quân 

Trịnh cũng bắt được quan tướng của Duy Mật, nhưng vẫn không nắm được ông Hoàng thất thế này, và tuy Duy Mật 

không mạnh lắm đối với thời cuộc nhưng vẫn như cái dằm trong xương tủy của họ Trịnh. Về phần Duy Mật năm Giáp 

Tý (1764), cũng có cử người tới gặp Vũ Vương yêu cầu giúp đỡ. Vũ Vương cũng không khứng chịu vì thấy cần phải 

giữ thái độ trung lập cho khỏi gây hấn với chính quyền miền Bắc. Năm Đinh Hợi (1767), Trịnh Doanh qua đời, Thế tử 

Trịnh Sâm lên thay thế. Duy Mật thấy quân lực của mình đã khá, nhân cơ hội Bắc hà đổi chủ, liền Bắc tiến đánh vào 

đất Hương Sơn và Thanh Chương, thấy không lợi lại rút về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đem thư vào dụ nhưng 

không được nên mới quyết tâm đánh Duy Mật cho kỳ được. Năm Kỷ Sửu (1769), ba đại tướng của Trịnh là Bùi Thế Đạt 

làm thống lĩnh đất Nghệ An, Nguyễn Phan làm Chính đốc lĩnh đất Thanh Hóa, Hoàng Đình Thế làm Đốc binh đất 

Hưng Hóa, được cất ba đạo quân vào đánh Duy Mật. Bùi Thế Đạt và Nguyễn Phan cho quân phong tỏa núi Trình 

Quang. Duy Mật thấy thế cô không đủ sức cự địch liền cố thủ, nhưng con rể của Duy Mật làm phản mở cửa lũy quân 

Trịnh vào. Duy Mật biết không thoát chết liền cùng vợ con đứng lên một đống thuốc nổ tự đốt mà chết.                           

[ 78 Sơn Nam chia ra hai khu: Sơn Nam hạ và Sơn Nam thượng. Các tỉnh miền Nam Trung Châu Bắc Việt gồm Nam 

Định, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình v.v... là Sơn Nam hạ. Sơn Nam thượng gồm các tỉnh miền Trung du. Kinh đô 

Thăng Long đóng ở giữa. ]

 Phần 3 - Chương 17

 B- Các Hoạt Động Của Chúa Nguyễn  

- Thuế khoá 

- Binh chế 

- Quan chế - Ngân quỹ của Nam Hà

 - Các địa hạt hành chính 

- Việc cầu phong với Tàu

 - Chiếm đất của Chiêm Thành

  Nhìn vào các tổ chức của Nam Hà kể từ sau cuộc bãi chiến một trăm năm, ta thấy một sự phát triển mạnh mẽ rõ rệt. 

Cương giới của Nam Hà mỗi ngày tiến sâu vào xứ Chàm, rồi bị Chàm lấn hết thì bóng người Việt di dân lại thoáng trong 

các vùng Thủy Chân Lạp. Cuộc Nam tiến được đà và nếu không bị vấp váp là nhờ ở chỗ con cháu Chế Bồng Nga mỗi 

ngày thêm suy nhược mà triều đình Chân Lạp cũng luôn luôn lục đục hồi cuối thế kỷ XVII. Được thụ hưởng cả một 

nền văn minh cũ của miền Bắc sáng ngời qua các tổ chức, các quy mô lập quốc vô cùng tốt đẹp dưới đời Hồng Đức, 

nên con cháu Nguyễn Hoàng bắt đầu rập theo đúng khuôn mẫu của miền Bắc trong các việc cai trị, đặt thuế, khai 

khẩn, học hành, thi cử, nhưng nhiều khi Nam Hà cũng phải đối phó với những nhu cầu mới, khác hẳn với Bắc hà. 

1- Thuế Khóa 

Về việc lập sổ thuế, định các ngạch thuế, năm 1632, Sãi Vương đã áp dụng phương pháp Bắc hà (của Lê Thánh Tông - 

1465) cho đến bây giờ còn được thi hành ở miền Bắc, nghĩa là cứ mỗi sáu năm lại có một cuộc kiểm tra lớn, ba năm có 

một cuộc kiểm tra nhỏ. Dân chúng thì chia ra làm 8 hạng (Bắc chỉ có 6 hạng). Để đánh thuế ruộng cho sát với thực tế 

thì sau vụ gặt chính (vụ mùa) quan đến từng địa phương khám rồi mới định hạng ruộng nào mới phải nộp bao nhiêu 

thuế. Thuế hoa màu căn cứ vào diện tích của điền thổ và những thứ màu mỡ nào (ngô khoai, đậu, v.v...) đã được trồng 

trọt, cùng với giá trị của ruộng đất nữa. 

Thuế nộp bằng thực chất (tức là thóc gạo hay ngô khoai v.v..) hoặc bằng tiền bạc. Đời chúa Hiền đặt ra một Ty 

Khuyến Nông để giải quyết vấn đề khẩn hoang và cũng để phân hạng các đất ruộng đã cầy cấy, trồng trọt. Nhiều 

dinh điền hay đồn điền (do quân nhân khẩn trưng) có từ thế kỷ thứ XV do các vua chúa miền Bắc chiếm được của 

Chàm nay nằm trong khu vực của họ Nguyễn được đem cấp phát cho các quan lại có công lao nhiều nhất để làm thực 

ấp. Ngoài việc điền thổ chia ra làm ba hạng, chúa Nguyễn còn lập ra một thứ gọi là thu điền và khô thổ nghĩa là loại 

ruộng đất xấu nhất. Loại điền thổ này được đặt ra để có phần công bình hơn vì liệt vào đệ tam đẳng điền vẫn là điều 

oan uổng cho dân. Công điền thì cấp cho dân cày cấy để nộp thuế, còn tư điền là ruộng khẩn hoang được cho làm của 

tư. Thuế Đinh -- Chúa Sãi lập ra 8 hạng thuế đinh đánh vào cho dân chúng và ngoại kiều gọi là thuế tỷ lệ nộp bằng 

tiền. Giá biểu kể từ hai quan đến năm tiền. Ngoài ra còn nhiều thuế linh tinh khác như thuế gia súc, thuế cúng giỗ, thuế 

chuyển vận thóc lúa (ắt hẳn các quan thâu tại chỗ rồi tải về kho, đáng lẽ dân phải mang đến nộp tại các tỉnh chăng ?) 

Thuế mỏ và thương chính -- Tại Thuận Hóa và Quảng Nam có mỏ vàng, Quảng Ngãi có mỏ bạc, Bố Chính có mỏ 

sắt.Việc khai khẩn các mỏ này đã đem lại cho chúa một số thuế lớn. Tàu bè ngoại quốc qua lại ở các cửa bể phải chịu 

thuế nhập cảng và xuất cảng. Tỉ dụ tàu ở Thượng Hải và Quảng Đông tới phải nộp 3.000 quan, lúc trở ra phải nộp 1/10. 

Tàu ở Ma Cao (của Bồ Đào Nha) và Nhật Bản nộp 4.000 quan, về 400 quan. Tàu Tiêm La ở Lã Tống đến có lẽ mua bán 

kém hơn nên chỉ phải nộp 2.000 quan và 200 quan. Tàu các nước Tây phương phải nộp gấp đôi tàu Ma Cao và Nhật 

Bản (8,000 quan và 800 quan). Số thuế này chia ra làm 10 thành, nộp kho 6 thành, còn bao nhiêu cho các quan lại và 

binh lính của ty Thương Chính. 

2- Ngân Quỹ Của Nam Hà 

Năm Quý Dậu (1753), đời Vũ Vương, ngân quỹ được kiểm điểm để xét việc chi thu thì thấy có năm được hơn 338.100 

quan tiền mà chi ra lại nhiều hơn (364.400 quan). Có năm thu trên 423.300 quan, phát ra 369.400 quan. Vàng thu được 

830 lạng - Bạc thu được 240 lạng, có năm thu được 390 lạng, đó là về giáp ngân còn dung ngân thì được 2.400 lạng, có 

năm chỉ được 1.800 lạng; thứ kế ngân có năm được 10.100 đồng, có khi ít hơn được 400 đồng, lại có năm chẳng được 

đồng nào.

 3- Binh Chế 

Binh có hai loại đầu, cũng như ngoài Bắc được gọi đi quân dịch; những trai tráng khỏe mạnh thì sung thẳng vào quân 

ngũ và một số được gọi dần có tính cách trừ bị. Việc binh bị đối với các chúa miền Nam là một việc quan trọng nhất, 

gồm những đơn vị dưới đây: 

-- Ở hạ tầng là Thuyền hay Tiểu đội, có từ 30 đến 50 người cùng làng hay thuộc làng lân cận. Đội có từ hai ba đến năm 

Thuyền do một Đội trưởng hay một Cai đội trông. Cơ gồm có nhiều đội thường có tới từ 6 đến 10 Thuyền, có cơ đặc 

biệt gồm có tới 60 thuyền. Quân số có từ 250 đến 600 người, do một cai cơ hay trưởng cơ chỉ huy. Đời bấy giờ có 5 cơ: 

Trung cơ, Tả cơ, Hữu cơ, Hậu cơ và Tiền cơ. -- Dinh gồm có một số quân ngang với cơ do một Trưởng dinh điều kiển. 

Dưới quyền Trưởng dinh có các Trưởng cơ (theo sự khảo cứu của các sử gia Pháp quân số của các đơn vị trong binh 

đội Nam Hà hay thay đổi về quân số, nghĩa là quân số khi thăng khi giảm không nhất định). Số quân của miền Nam 

bấy giờ có độ 30.000 người. Năm Tân Mùi (1631), chúa Sãi mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa và sở đúc súng đại 

bác (Trên đây đã nói có người Pháp lai Bồ Đào Nha là Jean de la Croix đã giúp chúa Sãi về việc này và cơ sở đúc súng 

gọi là phường Đúc ở Thuận Hóa ngày nay).

 4- Địa Hạt Hành Chính 

Vào giữa thế kỷ XVIII, sông Gianh đã thành đường phân giới cho hai miền Nam -Bắc. Họ Nguyễn chỉ còn có thể mở 

cương vực về phương Nam. Thời chiến tranh với Trịnh năm 1634, Nam Hà mới có 4 dinh Quảng Bình dinh, Chính dinh 

gồm có Thừa Thiên Quảng Trị vùng Nam và vùng Trung ương. Quảng Nam dinh và Trấn Biên dinh (là tỉnh Phú Yên 

ngày nay). Năm Giáp Tý (1744), Vũ Vương xưng vương hiệu, đổi phủ ra điện và chia Nam Hà ra 12 dinh. 1) Chính dinh 

(Phú Xuân). 2) Cựu dinh (Ái Tử) Quảng Trị. 3) Quảng Bình dinh. 4) Vũ Xá dinh. 5) Bố Chính dinh. 6) Quảng Nam dinh. 

7) Phú Yên dinh. 8) Bình Khang dinh. 9) Bình Thuận dinh (đất chiếm của Chiêm Thành). 10) Trấn Biên dinh. 11) Phiên 

Trấn dinh. 12) Long Hồ dinh (đất chiếm của Chân Lạp). Cầm đầu mỗi dinh là một võ quan với chức vụ trấn thủ để coi 

cả hành chính lẫn quân sự. Phụ tá có Cai bộ là viên quan coi về Ngân khố và một Ký lục tức là một phán quan. Còn 

phủ Quảng Nghĩa và phủ Quy Nhơn thì thuộc về Quảng Nam. Mỗi phủ có Tuần phủ và quan Khám lý trông nom mọi 

việc. Đất Hà tiên thì gọi là Trấn có quan Đề Đốc cai trị. Dinh đầu tiên của họ Nguyễn gọi là Ái Tử thuộc huyện Đăng 

Xương, gần tỉnh lỵ Quảng Trị. 13 năm sau (1570), Nguyễn Hoàng dời qua làng Trà Bát cũng cùng huyện ấy, tức là Cát 

dinh. Đến năm Bính Dần (1626), Chúa Sãi dời vào Phúc An thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên để xa chiến 

cuộc và đổi dinh ra phủ. 10 năm sau, chúa Thượng lại dời phủ vào làng Kim Long (huyện Hưng Trà, tỉnh Thừa Thiên). 

Năm Đinh Mão (1687), chúa Nguyễn Phúc Trân lập Chính dinh ở làng Phú Xuân. Chỗ phủ cũ làm nhà Thái Tông miếu 

thờ chúa Hiền. 

5- Quan Chế 

Ở Chính dinh là chỗ Thủ phủ của chúa Nguyễn có đặt ra ba ty để giúp mọi việc chính trị: 1) Xá sai ty giữ việc từ tụng, 

văn án có quan Đô tri và Ký lục đứng đầu. 2) Tướng thần lại ty giữ việc thâu thuế, phát lương thực cho các đạo binh 

của Chúa, có quan Cai bạ trông nom. 3) Lệnh sử ty giữ việc tế tự, tết nhất và cấp bổng cho quân đội của Chính dinh, 

có quan nha úy phụ trách. Mỗi ty lại có quan Cai hợp, Thủ hợp và các Lại ty để điều hành mọi việc. Còn ở các dinh 

khác, có nơi chỉ đặt Lệnh sử ty kiêm cả Xá sai ty và Tướng thần lại ty, giải quyết mọi vấn đề quân nhân chính, thuế 

khóa, tứ tụng, dinh điền, sổ sách v.v... Nơi nào quan trọng thì được sử dụng nhiều nhân viên. Cấp hành chính dưới là 

các phủ, huyện, có Tri phủ, Tri huyện và các Đề lại, Thông lại. Ngoài ra có Huấn đạo, Lễ sinh chuyên việc cúng tế ở 

địa phương. Đến đời chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan 1635-1648), có thêm chức Nội tả, Ngoại tả, Nội hữu, Ngoại hữu 

gọi là tứ trụ tức là bốn đại thần trong triều. Xin nhắc võ quan trên các cấp chưởng dinh, Chưởng cơ, Cai cơ, Cai đội là 

các cấp người thường được giữ còn những địa vị quan trọng hơn thì do các anh em và thân thuộc của nhà chúa giữ, tỉ 

dụ chức Nguyên soái, Đô đốc, Trấn thủ v.v... Quan lại phục vụ ở kinh đô và các dinh đều được tuyển dụng bằng khoa 

cử, tuy nhiên một số đã theo chúa Nguyễn Hoàng từ 1558 và năm 1600 (khi Hoàng ra Bắc chuyến sau và chuyến cuối 

cùng khi trở về có được một số người theo).Từ 1632, chúa Sãi mở khoa thi để lấy người vào các chức vụ Tri phủ, Huấn 

đạo, Lễ sinh. Trong chương trình khoa cử về đời chúa Hiền có một sáng kiến; năm 1675, chúa mở thêm một kỳ vấn 

đáp, trước kia chỉ có thi viết mà thôi.Với kỳ vấn đáp, các khóa sinh được hỏi về nhiệm vụ của quân nhân và công dân 

đối với thời cuộc và chính quyền cùng với quan niệm của họ đối với vua Lê và chúa Trịnh79. Hồi đó, bảy người được 

tuyển dụng vào 7 ty tư pháp. Ngoài những kỳ thi bất thường trên đây để lấy nhân tài, còn những khoa thì cứ 6 năm 

một lần mở ra tại các tỉnh vào đầu mùa Xuân. Ai đỗ thì được miễn các tạp dịch cho tới kỳ đại khảo sau. Qua được kỳ thi 

ở các tỉnh, khóa sinh được dự kỳ thi mùa Thu thuộc bực cao hơn. Năm Đinh Hợi (1647) chúa Nguyễn lập ra hai bực thi: 

thi Chính đồ và thi Hoa văn. Chương trình thi Chính đồ gồm có: kỳ đệ nhất thi tứ lục - kỳ đệ nhị thi thơ phú - kỳ đệ tam 

thi văn sách. Hội đồng giám khảo có quan Tri phủ, Tri huyện làm sơ khảo, quan Cai bạ, Ký lục, Vệ úy làm Giám khảo.    

[ 79 Đây là một thứ trắc nghiệm để xét lập trường chính trị của khóa sinh. ]

360 Việt Sử Toàn Thư 

Khóa sinh trúng tuyển chia làm ba hạng: hạng thứ nhất được gọi là Giám sinh được bổ làm Tri phủ, Tri huyện - hạng 

thứ nhì gọi là Sinh đồ được bổ làm Huấn đạo; hạng thứ ba cũng gọi là Sinh đồ được bổ làm Lễ sinh hoặc làm Nhiêu 

học. Thi Hoa văn cũng mất ba ngày. Mỗi ngày khóa sinh phải làm một bài thơ. Ai đậu được bổ làm Tam ty (phủ chúa). 

Năm Ất Hợi (1695), chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) mở khoa thi tại phủ chúa gọi là thi Văn chức và thi Tam ty. Thi 

Văn chức có tứ lục, thơ phúc, văn sách. Thi Xá sai ty thì khảo về binh vụ, quân lương, từ tụng. Thi tướng thần lại ty và 

Lệnh sử ty thì chỉ có một bài thơ thôi. Năm Canh Thân (1740), dưới đời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) 

quyền lợi của khóa sinh được định như sau: những người đậu kỳ đệ nhất gọi là Nhiêu học được miễn sai 5 năm; đậu kỳ 

đệ nhị và đệ tam được miễn sai vĩnh viễn; ai đậu kỳ đệ tứ gọi là Hương cống, sẽ bổ Tri phủ, Tri huyện. Xét chương 

trình thi cử của Nam Hà bấy giờ, ta thấy sơ lược quá so sánh với các tiền triều (Trần và Hậu Lê); sự kiện này cho phép 

ta nghĩ rằng các nhà cầm quyền Nam Hà có lẽ chỉ biết ngày đêm lo việc chiến tranh, nhân dân cũng bị lôi cuốn theo 

trong công chuyện này nên tuy cuộc đình chiến luôn một thế kỷ mà việc văn học, khoa cử vẫn chưa tiến được nhiều. 

6- Việc Cầu Phong Với Tàu Năm 1702, Minh Vương đã thấy giang sơn mình đã mạnh, đủ sức đối thủ với miền Bắc 

không cần e dè như xưa là phải ẩn núp sau cái chiêu bài phù Lê, đã cử một sứ bộ mang đồ tiến cống và một tờ biểu 

sang Quảng Đông xin cầu phong với Tàu, xin cam kết xưng thần nạp cống đều đặn. Triều đình nhà Thanh tuy vẫn mê 

vàng bạc và các quý vật của nước Việt nhưng cũng không dám quá trâng tráo, vừa bắt tay với vua Lê lại cười duyên 

với họ Nguyễn, do đó việc cầu phong cũng hỏng và hậu lễ cũng trả về, căn cứ vào lẽ không thể thừa nhận hai chính 

quyền trên một quốc gia. Năm 1756, Vũ Vương cũng xin cầu phong nhưng không thành. 7- Chiếm Đất của Chiêm 

Thành Năm Tân Hợi (1611) Nguyễn Hoàng qua đời, họ Nguyễn có đem quân đánh vào nước Chiêm Thành lấy đất lập 

ra phủ Phú Yên, chia ra làm hai huyện Đồng Xuân và Tuyên Hóa.  Việc đánh Chiêm không vất vả, gian lao như ngày 

xưa vì từ hồi vua Lê Thánh Tông mang đại quân vào đất Chiêm đến bây giờ, Chiêm bị kiệt quệ không sao ngóc đầu lên 

được. Đến khi họ Nguyễn vào hùng cứ phương Nam. Chiêm Thành vẫn không ra khỏi tình trạng suy bại. Năm 1617, họ 

Nguyễn lập Trấn Biên dinh cũng là đất lấy của xứ Chiêm. Năm 1653, chúa Chiêm là Bà Thấm đánh phá phủ Phú Yên bị 

tướng Hùng Lộc dưới đời chúa Hiền đánh bại phải dâng thư xin hàng. Lại thêm một dịp cho người Việt mở rộng thêm 

cương thổ: chúa Hiền lấy đất của Chiêm lập ra Thái Ninh phủ sau đổi ra Diên Khánh (tức là Khánh Hòa ngày nay) đặt 

dinh Thái Khang giao cho Hùng Lộc làm Trấn thủ, còn từ Phan Lang trở vào vẫn để cho Chiêm làm chủ. Năm 1693, 

chúa Chiêm là Bà Tranh bỏ việc tiến cống bị Minh Vương (Nguyễn Phúc Chu) sai tổng binh Nguyễn Phúc Kính (con 

Nguyễn Hữu Dật) đem quân hỏi tội bắt được với cận thần là Kế Bà Tử và Tả Trà Viên cùng quyến thuộc là Ba Ân đem 

về Phú Xuân. Đất đai của Chiêm còn lại bị chúa Nguyễn đổi ra làm Thuận Thành phủ. Tả Trà Viên và Kế Bà Tử được 

lãnh chức Khám Lý và ba người con của Bà Ân được làm Đề Đốc giữ Thuận phủ. Chúa Nguyễn lại bắt dân Chiêm thay 

y phục, từ đó ăn mặc như người Việt. Năm sau (1694), Thuận phủ lại phải đổi ra làm Thuận Thành trấn, và Kế Bà Tử 

được làm Tả Đô đốc để trị dân và thâu thuế cho chúa Nguyễn80. Năm Đinh Sửu (1697), chúa Nguyễn đặt ra phủ Bình 

Thuận, lấy Phan Rí và Phan Rang là huyện Yên Phúc và huyện Hòa Đa. Thế là đất Chiêm từ đấy mất hẳn trên địa đồ, 

sau khi các đại thần và thân nhân của Chiêm đã thành những công chức của nước Việt và hoàng gia Chiêm từ đó 

không còn uy tín nữa.                                         

[ 80 Trong dịp này, dân Chiêm được một người Tàu cầm đầu, nổi lên chống lại cuộc đô hộ của người Việt, nhưng cuộc 

khởi nghĩa của họ thất bại nên cuối năm 1694, chúa Nguyễn đặt Kế Bà Tử lên làm Đô Đốc để giữ cả quyền hành chính 

và quân sự. Đổi Phủ ra Trấn, chúa Nguyễn có ý thiết lập đất này ra một đạo quan binh để áp dụng một chính sách 

cứng rắn, bởi dân Chiêm vốn không bao giờ chịu phục hẳn. ]

 Phần 3 - Chương 18 

Cuộc Chiến Tranh Cuối Cùng Của Hai Họ Trịnh - Nguyễn (1774) 

 Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm và Tướng Hoàng Ngũ Phúc vào Thuận Hóa

 Trịnh Sâm lên làm chúa thay Minh Đô vương Trịnh Doanh (1740-1767) được hai năm thì triều đình Nam hà của Vũ 

Vương gặp biến (Vũ Vương mất 1765); phụ chính Trương Phúc Loan chuyên quyền, chế độ hà khắc tham nhũng của y 

và bè lũ đã đưa nhân dân đến chỗ nổi lên chống đối vì đói khổ, chẳng khác chi những phản ứng của đồng bào nhân 

dân Bắc hà dưới đời chúa Trịnh Giang, Trịnh Doanh 25 năm về trước. Tại Nam hà, ngoài vụ các nông dân dấy loạn còn 

cả giới thương nhân bắt đầu thành hình từ ngày có các nhà buôn ngoại quốc ra vào buôn bán. Bọn người này cũng bị 

quan lại đời bấy giờ nặn bóp quá đáng. Anh em nhà Tây Sơn khởi nghiệp được là nhờ ở chế độ ung nhọt kể trên đã 

gieo căm hờn vào lòng mọi người, từ chốn đồng quê ra các nơi đô thị. Năm 1761, trước khi lên làm chúa, Trịnh Sâm đã 

đánh dẹp được nhiều vụ loạn ở Hưng Hóa. Ông còn đang nức lòng vì cuộc chiến thắng trước đây thì Nam hà suy sụp 

như thúc dục ông thôn tính miền này mà xưa kia tiền nhân ông suốt 54 năm ròng không giải quyết nổi. Năm 1770, Sâm 

xua quân vào Trấn Ninh. Dự vào cuộc Nam chinh có Hoàng Ngũ Phúc làm Thống tướng, Bùi Thế Đạt là phó, Phan Lê 

Phiên và Uông Sĩ Điển làm Tham biện ; Đoàn Nguyên Thục làm Đốc thị Nghệ An ; ngoài ra lại có thêm mấy danh 

tướng nữa như Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể. Nguyễn Lệ và Hoàng Đình Báu lĩnh quân đội thủy lục của 33 dinh 

từ Thanh Hóa vào Nghệ An và của các đạo Đông Nam có tới 36.000 người. Để trấn tĩnh nhân tâm ở miền ranh giới 

(chắc là Nam Bố chính), họ Hoàng vừa tới nơi liền gởi thư cho viên Trấn thủ ở đây nói rằng quân Bắc hà chỉ có mục 

đích đem quân vào trừ "giặc Tây Sơn", nếu quân Tây Sơn bại rồi thì quân Bắc sẽ rút về ngay. Đây là một thủ đoạn của 

họ Trịnh để tránh sự nghi ngờ của quân dân miền Nam. (Theo Cương Mục) Bức thư của Ngũ Phúc được chuyển ngay 

tới tay Huệ Vương. Tướng Bắc được thư trả lời ngay nhưng cũng là lúc Tống Hữu Trương được cử làm Thống suất 

quân đội ở Lưu Đồn và hoàng thân Nguyễn Phúc Thiệp, Trấn thủ Bố Chính, thi hành nhiệm vụ cản đường quân Trịnh. 

Tính ra quân Trịnh khởi xuất vào tháng 5 năm Giáp Ngọ (1774), và những vụ thư đi thư lại xảy ra vào ba tháng bảy, tám 

và chín năm ấy. 

Vào tháng 9 (Giáp Ngọ), Hoàng Ngũ Phúc tới Bắc Bố Chính. Trần Giai là viên Tri phủ của Nam hà cai trị ở địa phương 

này làm phản, tố cáo mọi điều lợi hại của chúa Nguyễn nên Ngũ Phúc vừa ra lệnh cho Nguyễn Ngô Điền dựng trại ở 

gần chợ Ba Đồn, vừa cho một cánh quân vượt qua sông Gianh trong đêm tối đến chiếm đóng ở Cao Lao, trên tả ngạn 

con sông này. Huệ Vương phải thân chinh vào tháng 7 năm ấy (1774) nhưng đến cửa Tư Dung thì ngừng lại bởi được 

tin quân Trịnh đã tiến đến nội địa của mình ở phía Bắc. Chúa vội vàng trở về Huế cùng với Thế tử Nghiêm và cho viên 

Cai đội Quí Lộc cùng viên Câu Kê81 Kiêm Long ra đón quân Bắc và mở tiệc khao quân làm kế hoãn binh. Ngũ Phúc 

hiểu nội tình bối rối của Nam hà nên cứ tiến quân. Thế tử Thiệp, Trấn thủ Nam Bố chính, và Ký lục Bảo Quang thấy 

quân Trịnh mạnh quá liền rút về thành Đồng Hới thì quân của tướng Trịnh là Hoàng Đình Thể đã đến chân thành Trấn 

Ninh. Các Cai đội coi kỵ binh của Nguyễn là Hoàng Văn Bật, Lê Thập Chí và nhiều tướng tá khác của Nam hà phải mở 

cửa thành xin hàng. Nghe quân Trịnh đến nơi, Thế tử Thiệp và viên Thống suất quân đội ở Lưu Đồn là Tống Hữu 

Tường bỏ chạy. Quân Trịnh phá ngay lũy này, chiếm đóng hết tỉnh Quảng Bình và tiến đến Hồ Xá tức là nơi giáp giới 

Quảng Trị về phía Bắc. Việc này diễn ra vào tháng 11 (cuối năm 1774). Tĩnh Độ vương Trịnh Sâm nghe tin việc Nam 

chinh được thắng lợi cũng đem quân vào để tăng cường cho Hoàng Ngũ Phúc. Đại quân đến Hà Trung vào tháng 11 

ta, gần lúc họ Hoàng tiến tới Hồ Xá. Tại đây, Hoàng tuyên bố với quân dân Nam hà rằng chủ trương của quân Bắc là 

tới trừ quyền thần Trương Phúc Loan, sau đó là diệt "giặc Tây Sơn" chớ không có ý gì khác. Triều đình Nam Hà cảm 

thấy sự hèn yếu của mình vội bắt họ Trương nộp cho quân Trịnh, nhưng Hoàng vẫn tiến quân; và để yên lòng dân 

binh đội không trưng cờ và đánh trống82. Lại một phen nữa, Hoàng Ngũ Phúc gửi thư cho Huệ Vương yêu cầu hợp 

quân trừ Tây Sơn. Dĩ nhiên chúa Nguyễn không chịu mắc lừa, liền cho hai Thế tử Thiệp và Đặng đem đại quân ngăn 

quân Trịnh. Bề khác, chúa Nguyễn cho Cai đội Tuyên Chính và Tham mưu Thành Đức trá hàng để tìm cách phá quân 

của Ngũ Phúc, cử Cai đội Phẩm Bình ra Quảng Bình và Bố Chính vận động nhân dân đánh vào hậu tuyến của Trịnh.     

 [81 Câu Kê là một chức quan Thư lại ở mỗi phòng sở hành chính.] [ 82 Theo Hoa Bằng, tác giả Quang Trung Nguyễn 

Huệ, Trương Phúc Loan đã đút lót hàng ngàn lượng vàng cho tướng Trịnh để mua lại cái đầu của mình mà vẫn không 

xong. ]

Kế hoạch nào của chúa Nguyễn cũng thất bại: Phẩm Bình bị bắt, Thế tử Thiệp bị tướng Trịnh là Nguyễn Tấn Khoan 

và Hoàng Phùng Cơ đánh bại. Thế tử Đặng bỏ trốn không dám giao tranh. Không bị sức kháng chiến nào cản trở, 

quân Ngũ Phúc bấy giờ chỉ còn cách kinh thành Thuận Hóa độ 20 cây số. Chúa Nguyễn cố thủ, cử Thế tử Chất là con 

thứ 6 của vua Võ Vương lĩnh lục quân, Thế tử Định lĩnh thủy quân ra ngăn quân Bắc. Tại đây lực lượng còn lại của 

Nam Hà mong manh, ít ỏi rõ rệt nên chống trả rất yếu ớt, sau đó quân Bắc vượt được qua sông Ba Trục, đi đến đâu 

thắng đến đấy, binh tướng của Nguyễn bị giết hoặc chạy dài thảm bại không sao kể xiết. Còn lại Chưởng Cơ của Nam 

Hà khi đó là Nguyễn Văn Chính ngăn quân Trịnh không nổi bị tử trận ngay tại chỗ rồi ngày 28 tháng 12 (29-1-1775) 

quân Trịnh kéo vào kinh đô của họ Nguyễn. Huệ Vương cho Tống Phúc Đạm là Tham mưu của quân đội Hoàng gia 

tập họp tàn quân cố ngăn quân Trịnh ở cửa Bắc để các Đội trưởng của các đội Tả thủy, Trung thủy và Tiền thủy là Võ 

Di Nguy, Nguyễn Các và Trương Phúc Đĩnh có đủ thời giờ gấp rút sửa soạn thuyền bè cho chúa chạy trốn. Ngày Mậu 

Thân 930-1-1775), thuyền chúa Nguyễn lẩn qua cửa Tư Dung tiến ra biển chạy vào Quảng Nam. Nguyễn Phúc Dương 

con Thế tử Hiệu cũng rút bằng đường bộ qua đèo Hải Vân vào cửa Hàn.

 Thuận Hóa Thất Thủ. 

Từ giờ phút này quân Bắc giữ quyền chủ động ở chiến trường cho tới khi Quảng Nam mất nốt. Sau đó đối thủ của họ 

Trịnh trên thực tế chỉ còn có Tây Sơn mà thôi. Bấy giờ quân của chúa Tĩnh Đô vương ở Hà Trung nghe tin Hoàng Ngũ 

Phúc đã chiếm được Phú Xuân mừng lắm cho người đem 100 lạng vàng thưởng cho Ngũ Phúc và 500 lạng bạc cho các 

tướng sĩ, lại phong cho Ngũ Phúc chức Đại Trấn phủ ở Thuận Hóa để giải quyết nốt mọi việc ở Nam Hà rồi rút về 

Thăng Long.  

365 Việt Sử Toàn Thư 

 Phần 3 - Chương 19 

Nhà Tây Sơn (1778-1802)  

- Vua Thái Đức

 - Vua Quang Trung 

- Vua Cảnh Thịnh 

 1- Tiểu Sử Của Nhà Tây Sơn 

Năm 1772 Lịch sử Việt Nam ghi rằng có ba anh em họ Nguyễn: anh cả là Nhạc, người thứ hai là Lữ, thứ ba là Huệ xuất 

thân ở giới thương nhân thuở đó đã tổ chức cuộc Cách mạng quanh vùng Quy Nhơn và An Khê83. Chữ Tây Sơn chỉ 

rằng trong thời khởi thủy giẫy núi phía Tây đã là sào huyệt của anh em nhà họ Nguyễn. Cuộc Cách mạng được toàn 

thể nhân dân hưởng ứng, nghĩa là có cả nông dân lẫn thương nhân, một số khách trú sinh sống từ lâu ở đây (theo tài 

liệu của các giáo sĩ và các nhà du hành Barrow đã đặt chân vào đất Tây Sơn năm 1793). Gia đình của anh em Nguyễn 

Nhạc chuyên nghề bán cau là một thứ sản phẩm rất thông dụng ở khắp các thị trường trong nước. Phong trào Tây 

Sơn, cứ lời thuật lại của giáo sĩ Diego de Jumilla đã bắt đầu hoạt động mạnh vào tháng 4 năm 1773. Quân đội của Tây 

Sơn từ miền núi phóng xuống các thôn quê, vào các chợ búa giữa ban ngày. Họ có đủ gươm, giáo, súng, nỏ nhưng 

không hại tính mạng và tài sản của ai hết. Trái lại, họ tuyên ngôn làm cái việc công bằng, thẳng thắn, chỉ trừ khử bọn 

quan tham lại nhũng, những kẻ trọc phú lưu manh và trộm cướp. Họ lấy của người giàu phân phát cho kẻ nghèo, chỉ 

dành cho họ một phần nào thóc gạo mà thôi. Ai chống thì họ giết, biết điều thì thôi. Một giáo sĩ Tây Ban Nha kể rằng 

họ đã tự xưng là những người theo mệnh trời để thi hành công lý và giải phóng nhân dân khỏi ách quan liêu phong 

kiến đúng như điều các nhà cách mạng xã hội chủ trương ngày nay.                                        

 [83 Ngày nay du khách qua vùng An Khê, cách Pleiku chừng 85 cây số, tới thăm làng Cửu An, nơi trrước kia còn phụ 

thuộc tỉnh Bình Định, và còn kêu là Tây Sơn ấp. Ở đây, giữa những khu rừng âm u, hiu quạnh, đột khởi một quả núi 

tục gọi là núi Chà Diêm. Vào khoảng năm 1778, ba anh em Nguyễn Nhạc đã dựng kho thuốc súng và luyện tập quân 

đội tại khu vực này. ]

Cũng như những cuộc khởi nghĩa của nông dân Châu Âu đời Trung Cổ, họ được giới nhà chùa, Phật giáo và Lão giáo 

ủng hộ nhiệt liệt, chính Nguyễn Lữ cũng là một nhà sư trước đây và sau này Lữ được coi gần như một vị giáo chủ ở 

Nam Hà ; ngoài ra các người Mọi, các sắc dân thiểu số, và theo sử gia Pétrus Ký, có cả vị vua cuối cùng của người 

Chàm cũng tiếp tay cho họ. Rồi quân Tây Sơn đi đến đâu, thắng đến đó như trận cuồng phong lướt cỏ. Sử ta có chép 

về lý lịch của anh em nhà Tây Sơn có đưa ra một số chi tiết như sau: Ông tổ của ba anh em nhà họ Nguyễn thực ra là 

họ Hồ và cũng là ông tổ của Hồ Quý Ly, con người đã cương quyết làm cuộc cách mạng quốc gia hết sức táo bạo 

dưới đời Trần về mọi phương diện mà Việt sử Tân Biên quyển hai đã nói đến. Đến đời anh em Nguyễn Nhạc thì chi 

nhánh của bọn Nhạc đã lưu lạc vào tới huyện Phù Ly, nay đổi là Phù Cát thuộc tỉnh Bình Định (Xưa kia họ Hồ phát 

tích ở tỉnh Chiết Giang bên Tàu, tổ là Hồ Hưng Dật sang nước ta từ đời Ngũ Quý đến ở làng Bào Đột huyện Quỳnh 

Lưu, sau dời ra Thanh Hóa). Sự phiêu lưu của gia đình các ông Nhạc, Lữ, Huệ, xảy ra từ đời Trịnh-Nguyễn phân tranh. 

Các ông cũng như nhiều đồng bào khác bị đưa vào ấp Tây Sơn84, thôn Cửu An, thuộc phủ Hoài Nhơn, theo chương 

trình khẩn hoang các vùng đất mới chiếm của Chiêm Thành. Thân sinh ra các ông là Hồ Phi Phúc, sau đổi sang ngụ ở 

ấp Kiện Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn. Nguyễn Nhạc bấy giờ xuất thân chỉ là một biện lại tại Vân Đồn, 

hay cờ bạc rồi vì tiêu sạch tiền thuế đến lúc cùng đường phải trốn vào rừng và đi làm giặc. Sử của Nguyễn triều chép 

như vậy có đáng tin chăng? Dầu sự kiện này có đúng chăng nữa thì ta cũng phải nghĩ rằng dưới một chính thể ung 

nhọt, vô trách nhiệm đến nỗi dân chúng đói rách chết nửa xứ thì người dân có nên có phản ứng này hay phản ứng 

khác không? Nếu anh em ông Nhạc tiêu tiền thuế vào cờ bạc hay dùng số tiền này vào việc dấy quân lật đổ đám vua 

quan mục nát thì những hành động đó cũng là những điều tất nhiên không thể tránh được. Chứng cớ là trước phong 

trào Tây Sơn tại Nam Hà cướp giặc dã nổi lên như ong rồi. Chúng ta lại nên nhớ rằng gia thế của bọn ông Nhạc bấy 

giờ cũng phong túc và anh em ông hẳn là những tay hào hiệp, có nhiều uy tín tại địa phương mới phát động nổi một 

phong trào cách mạng. Nguyễn Nhạc là con người can đảm và mưu trí nên việc hạ thành Quy Nhơn để khởi thanh thế 

của ông đã là một câu chuyện kỳ thú: ông ngồi vào cũi giả bị nhân dân bắt đem nộp quan tỉnh lấy thưởng.                       

 [84 Danh hiệu Tây Sơn mà anh em ông Nhạc được mang là do nơi cư ngụ này. ]

Tuần phủ ở đây là Nguyễn Khắc Tuyên tưởng thật cho khiêng cũi vào thành, nhưng đến nửa đêm Nhạc tháo cũi chui 

ra mở cửa thành cho quân của mình xông vào đánh đuổi quân quan một cách bất ngờ, trở tay không kịp. Thành Quy 

Nhơn lọt vào tay Tây Sơn, từ đấy anh em ông Nhạc, Huệ có một căn cứ để xuất phát đi các nơi khác. Trong số người 

Tàu tiếp tay, có hai lãnh tụ là Lý Tãi và Tập Đình cũng mộ quân theo. Quân Tây Sơn đặt xong đại bản doanh ở đây, tổ 

chức binh đội có qui củ và trang bị đủ khí giới là lúc ngọn cờ cách mạng tiến ra Quảng Nam rồi chẳng bao lâu Quảng 

Nghĩa, Bình Thuận cũng mất nốt. Ngay lúc đầu chúa Nguyễn bị quân Trịnh do tướng Hoàng Ngũ Phúc đuổi phải chạy 

vào Quảng Nam nương náu chưa được vài tháng ở Bến Ván ; tại đây chúa lập cháu là Nguyễn Phúc Dương lên làm 

Đông Cung để lo việc khôi phục và phòng xa nếu mình bị rủi ro đã có người kế vị ngay cho kịp với thời cuộc. Tây Sơn 

vẫn tiến lên, quân Bắc vẫn đi xuống, chúa Nguyễn bị kẹp giữa hai gọng kìm, trốn tránh vào Trà Sơn, sau rốt phải cùng 

cháu là Nguyễn Phúc Ánh xuống thuyền chạy vào Gia Định. Đông cung Nguyễn Phúc Dương ở lại xứ Quảng, đóng 

đồn ở làng Câu Để thuộc huyện Hòa Vinh cũng không làm được gì đáng kể. Nhạc liền nghĩ ra kế hoạch lợi dụng danh 

nghĩa của ông Hoàng đang thất thế này để vơ vét thêm một số người trong các giới quân dân còn lại đang theo giúp 

Đông cung hoặc vẫn có cảm tình với dòng Chúa. Nhạc cho dụ Đông Cung Dương về Hội An bề ngoài để cùng chống 

quân Bắc. Tại đây ít ngày sau Tây Sơn phải đương đầu với quân của Hoàng Ngũ Phúc khi đó đã vượt được qua đèo 

Hải Vân, đánh được đồn Trung Sơn và Câu Để. Nhạc cho Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân, tự mình làm 

hậu tập. Binh sĩ của hai viên tướng Tàu này phần đông là người Quảng Đông, vóc to lớn, mình để trần ai nấy đều sử 

dụng một thanh phạng có vẻ rất lợi hại, dữ tợn. Chiến trường bấy giờ là làng Cẩm Sa (thuộc Hoa Vinh). Tiền đội của 

Trịnh đánh không nổi, Ngũ Phúc phải cử ngay Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ đem kỵ binh đánh áp lại hai bên, 

quân Tập Đình núng thế phải rút về bến Bản và Đông cung được đưa về Quy Nhơn trong khi chiến cuộc đang khai 

diễn. Sau trận đắc thắng này, quân Trịnh vào đóng ở Quảng Nam. 

2- Tây Sơn Diệt Nguyễn Tại Nam Việt

 Như ở trên ta đã thấu từ 1775, Việt Nam có thêm một lực lượng chính trị và quân sự mới: lực lượng Tây Sơn, một mầm 

non tuy chớm nở nhưng rất mạnh trong khi hai lực lượng cũ là Trịnh, Nguyễn đang đi tới chỗ suy tàn. Lão tướng 

Hoàng Ngũ Phúc đã phải rỉ tai các tướng tá của mình để cùng thông cảm mối nguy ấy. Sau đó Ngũ Phúc được chúa 

Sâm gọi ra Bắc. Ông mất trên đường về. Bọn tùy tướng là Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể, Nguyễn Trọng Đăng, 

Phạm Ngô Cầu được ở lại chiếm đóng Thuận Hóa. Tây Sơn và Trịnh hòa hoãn với nhau luôn hai năm và Trịnh chỉnh 

đốn lại mọi cơ sở ở Thuận Quảng cho có sự đồng hóa với Bắc hà. Còn Tây Sơn, một bề xin phục tòng Bắc hà và xin 

phụ trách ba phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên lại xin lĩnh cả việc truy kích Cựu Nguyễn85 (con cháu Nguyễn 

Hoàng) đang lưu vong ở Gia Định, một bề đem Đông cung Dương về An Thái và Hà Tiên để nếu cần sẽ lợi dụng Đông 

cung làm bung sung hầu hiệu triệu thần dân của chúa Nguyễn cho dễ. Hơn thế nữa, Tây Sơn còn bí mật liên lạc với 

Thân vương Nguyễn Phúc Hiệp đang giữ trọng trách đương đầu với tình thế trong khi Duệ Tông đi trốn. Hiệp lúc này 

có mặt ở Phú Yên. Nhạc gả con gái là Thọ Hương cho Đông cung và ép lên ngôi, rồi bất thình lình Nhạc cho Huệ đánh 

úp Phú Yên. Quảng Nam lúc này mất mùa. Hai tướng của Nguyễn còn lại là Nguyễn Quyên và Nguyễn Khôi không đủ 

quân lương cũng bỏ trốn nốt. Chiếm được Quãng Nam, Tây Sơn tràn xuống Qui Nhơn. Việc này xảy ra vào mùa Đông 

năm Ất Mùi (1775). Qua năm sau Nguyễn Lữ với chức Tiết Chế đánh được Sài Gòn, Gia Định. Duệ Tông chạy qua Biên 

Hòa sau nhờ được tướng Đỗ Thành Nhân chiếm lại được Sài Gòn. Nhưng lương thực và kho tàng ở đây đã bị Tây Sơn 

chuyển về Qui Nhơn hết sạch.  Bắt đầu từ 1776 thanh thế Tây Sơn lớn trông thấy. Nhạc cho đắp lại thành Chà Bàn làm 

kinh đô, dựng cung điện, định triều nghi ngang nhiên xưng Tây Sơn Vương, phong Nguyễn Lữ làm Thiếu phó, 

Nguyễn Huệ làm phụ chính. Tay chân của Tây Sơn Vương (Nhạc) bấy giờ hầu hết là những tay giang hồ, vong mạng, 

những kẻ bấc đắc chí trong đó có Nguyễn Hữu Chỉnh là một mưu sĩ thất thế bên Trịnh chạy sang. Chỉnh là thủ túc của 

Hoàng Ngũ Phúc xưa kia. Phúc chết, Chỉnh đi với con nuôi Phúc là Hoàng Đình Bảo. Sau khi Kiêu binh đảo chánh ở 

Bắc Hà, bỏ Trịnh Cán lập Trịnh Khải, giết Đình Bảo thì Chỉnh chạy qua hàng ngủ Tây Sơn, Chỉnh đã đưa ra bài sách 

Phù Lê diệt Trịnh để đem Bắc Hà sang một khúc quanh rộng lớn của lịch sử. Năm Bính Thân, nhờ bọn Lý Tài và Tập 

Đình (trước đã theo Tây Sơn) Đông Cung Dương trốn khỏi tay Tây Sơn vào Gia Định. Bọn này lập Dương lên làm Tân 

Chinh Vương và tôn Duệ Tông làm Thái Thượng Vương, chiếm được Sài Gòn nhưng đến năm Đinh Dậu (1777) thì bị 

Nguyễn Lữ đem quân vào đánh bắt và giết chết. Trốn thoát, bấy giờ có Nguyễn Ánh vừa được 17 tuổi, là cháu Thái 

Thượng Vương (gọi Võ Vương bằng ông và là con Chương Võ, con thứ hai của Định Vương), sau này trở nên đối thủ 

lợi hại của nhà Tây Sơn và là Thế tổ của triều Nguyễn. Năm sau (Mậu Tuất - 1778) Nhạc xưng đế lấy niên hiệu là Thái 

Đức, phong Huệ làm Long Nhương tướng quân. Sau 8 năm vất vả gian lao, Nhạc cũng bước lên ngai vàng bệ ngọc 

như ai, không tài không chí gây sao nổi sự nghiệp như vậy, giữa một thời đại loạn.                                        

 [85 Tây Sơn được gọi là Tân Nguyễn. ]

3- Nguyễn Huệ Đuổi Quân Xiêm  

Từ năm Nhâm Dần (1782) ngôi sao của Nguyễn Huệ, người em út của Hoàng Đế Thái Đức, bắt đầu sáng rực. Huệ là 

một thiên tài đặc biệt về quân sự. Lối hành quân của ông là tốc chiến, tốc thắng, biến hóa như thần. Hiệu lệnh của ông 

tất nghiêm minh; kỷ luật của ông là kỷ luật thép. Và đức tính làm tướng của ông đáng kể nhất là chỗ biết chia bùi, xẻ 

đắng với tướng sĩ, lấy ân uy và lấy cả đảm lược để chinh phục lòng người. Ra trận ông đi trước ba quân, lúc nguy nan 

ông tỏ ra bình tĩnh hơn ai hết; gặp những vấn đề khó khăn, những việc mà người ta phải bở vía kinh hồn thì ông 

thường nảy ra có một khối óc thông minh, lỗi lạc phi thường.  Từ lúc ông ra làm nghề tướng giữa lúc nước nhà ly loạn 

khắp nơi, đến khi thở hơi cuối cùng xông pha trăm trận, ông chưa hề biết chiến bại. Lúc này vua Thái Đức lo củng cố 

mọi vấn đề chính trị, xây dựng triều đình, lập các qui mô như các đế vương thì Huệ là người được trao quyền đại tướng 

đi đánh Đông dẹp Bắc. Tại miền Nam con cháu họ Nguyễn và thủ hạ còn cựa quậy. Huệ bốn lần mang quân vào Gia 

Định. Năm ấy tại Ngã bảy (Thất Kỳ Giang) một trận đại chiến xảy ra Huệ đem mấy trăm chiến thuyền vượt cửa Cần Thơ 

xung đột với Nguyễn quân ở đây. Quân Nguyễn bại to. Vào tháng tư, Huệ kéo quân đến Lữ phụ bầy trận ngảnh lưng 

xuống nước đánh nhau với Nguyễn Ánh, lại thắng oanh liệt hơn bao giờ hết, Ánh phải bỏ chạy tháo thân ra đảo Phú 

Quốc. Có một người Pháp giúp Ánh tên là Manuel điều khiển thủy quân không trốn nổi phải đốt tàu mà chết. Năm sau 

(Quí Mão 1783) Chu Văn Tiếp, từ Phú Yên vào, cũng vượt cửa Cần Thơ, tính cứu Gia Định để đón Nguyễn Ánh đã từ 

Phú Quốc trở về nội địa. Trong trận này một tướng kỳ kiệt của Nguyễn Ánh là Nguyễn Huỳnh Đức bị bắt. Bấy giờ 

Đức có phận sự giữ đoạn hậu cho Ánh chạy ra Côn Lôn. Nếu trời không mưa to gió lớn, sóng gió mịt mù thì Ánh đã có 

thể bị phò mã Tây Sơn bấy giờ là Trương Văn Đa bắt được. Thuyền của Tây Sơn bấy giờ bị đắm nhiều, quân Tây Sơn 

đành phải rút lui, còn họ Nguyễn lại trốn được ra Phú Quốc. Xong trận này Huệ lại về Qui Nhơn. Trương Văn Đa được 

cử làm Trấn thủ Gia Định. Tôi trung của họ Nguyễn bây giờ có các tướng Nguyễn Văn Hoàng, Tống Phúc Khương, 

Tống Phúc Lương, Lê Văn Câu. Triều đình lưu vong này khởi binh từ Long Xuyên lên Sa Đéc, tiến đánh Sài Gòn. Sài 

Gòn vào năm 1780 lại bị quân Nguyễn tái chiếm. Nguyễn Lữ bỏ chạy về Qui Nhơn. Trong năm ấy (1780) Nguyễn Ánh 

xưng vương, phong Đỗ Thành Nhân làm 

370 Việt Sử Toàn Thư 

Ngoại Hữu, Phụ Chính Thượng Quốc Công, đặt quan cai trị, thu thuế, mộ binh và làm chiến thuyền. Sau đó ít lâu, đã 

có phen Ánh cử Đỗ Thành Nhân và Hồ Văn Lân đem binh can thiệp vào việc Chân Lạp, lập con Nặc Tôn là Nặc In lên 

làm vua và để Hồ Văn Lân ở lại giữ quyền bảo hộ. Trong dịp này Đỗ Thành Nhân có ý cậy công, lộng quyền lại bị dèm 

pha bị Nguyễn Vương giết đi, quân Đông Sơn là quân bản bộ của họ Đỗ nổi lòng công phẫn bỏ đi, một số chống lại 

cũng gây cho họ Nguyễn nhiều điều phiền phức86. Tháng mười năm Tân Sửu (1781) Tiêm La cho quân xâm lấn Chân 

Lạp (Cao Miên) do lệnh của quốc vương Trịnh Quốc Anh. Hai tướng Chất Tri và Sô Xi điều khiển binh sĩ kéo vào đất 

của Nặc In khi đó đặt dưới quyền bảo hộ của chúa Nguyễn. Nguyễn Ánh liền sai Chưởng Cơ là Nguyễn Hữu Thụy 

đem 3.000 quân sang Chân Lạp cứu nguy. Tại Chân Lạp, bọn tướng Tiêm hòa với tướng Việt rồi đem quân trở về gây 

cuộc đảo chính. Trong dịp này, quốc vương Tiêm La cho bắt vợ con của hai anh em Chất Tri đem giam giữ. Chất Tri 

trở lại thì vừa đúng lúc Tiêm La đang bị cuộc nội loạn và thủ lãnh loạn quân là Phan Nha Văn Sản. Về đến nước Chất 

Tri truy tầm được quốc vương Trịnh Quốc Anh giết đi và tự xưng vua lấy hiệu là Phật Vương sau khi trừ được cả bọn 

Phan Nha Văn Sản. Em là Sô Xi được phong làm Đệ Nhị Quốc Vương, cháu là Ma Lạc làm Đệ Tam Quốc Vương, rồi họ 

Chakkri lưu truyền đến ngày nay, và các vua Tiêm đều xưng là Rama. Năm Giáp Thìn (1784) Nguyễn Ánh lại rước quân 

Tiêm La về giúp. Hai tướng Tiêm là Chiêu Tang và Chiêu Sương kéo sang Nam Việt hai vạn quân và 300 chiến thuyền, 

đi đến đâu quấy nhiễu dân chúng rất là tai hại. Quân Tiêm thắng được Trương Văn Đa tiến đến tận Long Hồ, được tin 

này Nguyễn Huệ vội vào ngay Gia Định, áp dụng chiến thuật lùi để nhử địch vào các địa điểm chiến lược của mình là 

Định Tường. Tại Xoài Nút, Huệ đặt phục binh bên Rạch Gầm. Quân Tiêm đến thì quân của Huệ đổ ra bất thình lình 

đánh cả hai mặt thủy bộ. Quân Tiêm xoay trở không kịp, chết và bị thương mười phần chỉ còn một hai chạy về nước.

 4- Nguyễn Huệ Đánh Thuận Hoá

 Trong những tháng cuối cùng của năm Giáp Thìn (1784), người ta có thể nghĩ rằng Tây Sơn đã kiểm soát hết Nam Hà 

vào tới Hà Tiên (Mạc Cửu lúc này cũng đã chết rồi) còn Nguyễn quân tuy chưa bị tan rã hoàn toàn nhưng chỉ còn là 

một lực lượng không đáng kể, phải đào vong ra nước ngoài hầu như không có tương lai.                                        

[ 86 Năm 1777 Tây Sơn chiếm được Sài Gòn, Đỗ Thành Nhân đem quân Đông Sơn đánh chém được Tư Khấu Oai của 

Tây Sơn. Nhờ chiến công này Nguyễn Ánh lại có thực lực sai Lê Văn Quân ra đánh Bình Thuận và Diên Khánh. ]

Tại Thuận Hóa tướng lĩnh của Bắc Hà trước kia là bọn Bùi Thế Đạt, Lê Quý Đôn và Phan Lệ Phiên, nay là Tạo quận 

công Phạm Ngô Cầu, Trấn thủ cũ của Sơn Nam hay mê tín, đầu óc tầm thường. Năm Bính Ngọ (1786) Phạm Ngô Cầu 

cho Nguyễn Phú Như vào dò xét nội tình Tây Sơn. Khi Phú Như gặp Nguyễn Hữu Chỉnh tức là chỗ cố nhân, những 

điều hay dở của Thuận Hóa, cả chuyện lính Tam phủ đảo chính Trịnh Cán và nạn đói ở Bắc Hà, Phú Như cũng cho lọt 

hết vào tai Chỉnh. Tây Sơn liền quyết định lợi dụng ngày cơ hội thuận tiện này để Bắc tiến. Bấy giờ là cuối năm Giáp 

Thìn. Sau một thời gian sửa soạn, ngày 18 tháng 5 năm ấy, Huệ làm Long Nhương Tướng Quân Tiết chế thủy bộ chư 

quân, Vũ Văn Nhậm làm Tả đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu đô đốc vừa do đường thủy, vừa do đường bộ vượt 

Hải Vân Quan đánh cho tới khi hết đạn, hết sức thì tự vẫn. Quân Tây Sơn ra đến Thuận Hóa. Trấn thủ thành này là 

Phạm Ngô Cầu cử Hoàng Đình Thể cùng hai con ra kháng cự. Thể xông pha giết được vài trăm quân Tây Sơn nhưng 

khi hết đạn thì không được tiếp tế. Xét ra Cầu đã bị đòn phản gián của Nguyễn Hữu Chỉnh do một bức thư cố để lọt 

vào tay Cầu nói Thể đã bí mật hàng Tây Sơn. Thể liền quay trở lại tính giết Cầu thì cờ Tây Sơn đã bay trên mặt thành. 

Hai con Thể vì bị trọng thương đã ngã gục ở chiến trường. Tỳ tướng Vũ Tá Kiên cũng tử trận. Thể đành tự tử trên 

mình voi cho khỏi nhục. Phú Xuân thất thủ rồi đến lượt hai đồn Cát Doanh, Đồng Hải, thuộc hai tỉnh Quảng Trị, 

Quảng Bình cũng bị hãm do quân của Nguyễn Lữ, rồi mất nốt. Lữ ở lại trấn giữ Thuận Hóa, Nguyễn Hữu Chỉnh lĩnh 

một đạo thủy quân tiến ra Bắc trước. Nguyễn Huệ chỉ huy hậu quân theo sau, hẹn gặp nhau ở bến Vị Hoàng (Nam 

Định). 

5- Nguyễn Huệ Ra Thăng Long (Sơn Nam Thất Thủ) 

Quân Tây Sơn cả hai đạo thủy lục rầm rộ tiến ra Bắc Hà thế mạnh như gió bão. Bấy giờ là cuối tháng 5 năm Bính Ngọ 

(1786). Chỉnh ra cửa Việt Hải (sau này đổi ra Việt An) rồi vào bến Nghệ An, cho du binh đánh phá lung tung khiến dân 

tình bên Trịnh xao xuyến vô cùng. Tướng giữ thành Nghệ An là Bùi Thế Tuy (con Bùi Thế Đạt) đốt doanh trại bỏ trốn. 

Tướng giữ thành Thanh Hóa là Tạ Danh Thủy cũng chạy. Nhờ không có sự trở ngại, quân của Chỉnh tiến dễ dàng tới 

Vị Hoàng (ngày 6 tháng 6 Bính Ngọ 1786) lấy được trăm vạn hộc thóc (mỗi hộc chừng 60 lít). Chỉnh cho đốt lửa để làm 

hiệu từ non Côi, lửa bốc lên khiến ở xa Huệ đang dẫn một ngàn chiến thuyền theo gió Đông Nam tiến ra, trông thấy 

biết lục quân đã ra tới Sơn Nam. 

Chẳng bao lâu hai quân gặp nhau ở Vị Hoàng, thế càng mạnh thêm. Triều đình Bắc Hà được tin, vô cùng sửng sốt, vội 

cử Trịnh Tự Quyền thống lĩnh 27 Cơ hiệu ra ngăn quân Tây Sơn. Quyền đã loanh quanh mất 10 ngày mới chuyển được 

quân khỏi thành Thăng Long được 30 dặm, chúa Trịnh cử thêm Đinh Tích Nhưỡng là một danh tướng về thủy chiến 

(Nhưỡng là dòng Đinh Văn Tả, chức Liễn Trung hầu, quê ở Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương). Vùng Sơn 

Nam đã trở nên bãi chiến trường khốc liệt cho hai bên, trong khi dân chúng già trẻ lớn bé đều hoảng hốt bồng bế nhau 

đi lánh nạn. Nhất là dân kinh thành như sống trong một cơn sốt rét. Bọn quan lại, văn cũng như võ, việc nước thì 

không lo, chỉ để ý việc chôn của, gìn giữ vợ con; giữa lúc này khói lửa chiến tranh bốc mù trời. Nước lụt bấy giờ mới 

cạn, gió Đông Nam thổi không ngừng. Thuyền Tây Sơn dương buồm thẳng tiến. Quân Trịnh nạp đạn vào súng Bảo 

lân bắn ào ạt. Quân Tây Sơn lui vào bên sông chờ tối đến mới từ từ thả vài chục chiến thuyền sang mặt trận của Trịnh 

có đủ binh sĩ, kẻ giáo người kích.  Quân Trịnh bắn như mưa để ngăn lại. Thuyền Tây Sơn chìm dần trong im lặng. Trời 

tảng sáng, nhìn ra Nhưỡng mới biết đã bắn hết đạn vào những thuyền chỉ có đám binh sĩ kết bằng rơm của địch. Biết 

mắc mưu, Nhưỡng liền cho quân bỏ thuyền chạy lên cạn thì đại đội thủy quân Tây Sơn sấn đến, đạn bắn vèo vèo như 

chuyển cả núi sông, các cổ thụ bên bờ cũng gãy đổ răng rắc. Quân Trịnh vẫn lùi. Quân Nam xông lên đuổi, quân Bắc 

chết như rạ. Hai cánh quân của Trấn thủ Sơn Nam và của Trịnh Tự Quyền làm thế ỷ dốc cho Nhưỡng, thấy thủy quân 

đại bại mất tinh thần, liền tan vỡ. Quân của Tây Sơn không gặp sức kháng chiến nào đáng kể nữa, liền tiến mãi vào 

Hiến Doanh (Phố Hiến tỉnh Hưng Yên). Sơn Nam thất thủ ngày 24 tháng 6 năm Bính Ngọ (1786). 

Phòng Tuyến Thứ Hai Của Trịnh Tan Vỡ 

Bọn Trịnh Tự Quyền và Đinh Tích Nhưỡng bại trận càng làm cho triều đình Bắc Hà điên loạn. Ưu binh và Nhất binh 

(lính Tam phủ) hàng ngày vẫn vỗ ngực khoe trung thành với vua và chúa vì thuộc Quí hương87, bảo nhau mỗi nhóm 

rút một nơi. Ở lại đương đầu với quân Nam Hà chỉ còn quân Bắc: Nghĩa binh.                                        

[ 87 Vua Lê, Chúa Trịnh xuất thân ở Thanh Hóa nên chỉ tin ở đám binh sĩ Thanh-Nghệ-Tỉnh và biệt đãi họ, do đó mà 

giữa quân dân đời Trung Hưng có sự chia rẽ. Gặp biến, sự thế lại càng bi đát. Kiêu binh bỏ chạy trước và chạy đến đâu 

thì dân chúng giết đến đấy. Với đám quân dân nghịch nhau như nước với lửa, ngai vàng nghiệp chúa của Lê, Trịnh 

cũng đủ đổ rồi, còn kể chi những nguyên nhân khác.]

Và còn vài tướng lĩnh có liêm sĩ và tiết nghĩa là: Thạc Quận Công Hoàng Phùng Cơ với 500 quân nghĩa từ Sơn Tây về 

hộ vệ kinh thành. Quận Thạc cùng 8 con (kể cả rể) đem binh ra đóng ở hồ Vạn Xuân88 dàn trận đồ ở bến Thúy Ái 

(cùng thuộc huyện Thanh Trì). Chúa Trịnh đem hết tinh binh ra ngoài cửa Tây Long, bày trận dưới Ngũ Long Lâu. 

Trận này khai diễn vào ngày 25 tháng 6 năm Bính Ngọ. Quân Tây Sơn thừa thắng ở Sơn Nam liền nuốt giải trường 

giang (Nhị Hà) tiến lên bến Nam Dư để đánh bất thần vào quân Trịnh. Lúc này, đại đội chu sư của Nguyễn Huệ tới nơi 

thì tại bến Thúy Ái quân Trịnh còn neo thuyền, lên bãi chơi, chưa có phòng bị gì hết. Tây Sơn tới, quân Trịnh hoảng 

hốt không kịp xuống thuyền nữa, chạy tán loạn trong khi súng Cự thần của Nam Hà bắn như tưới. Một kẻ can đảm: 

Ngô Cảnh Hoàn, Quản Tiền Phong Cơ của Trịnh, cương quyết ở lại chống địch rồi bị tử trận trên mặt nước. Tiền 

Phong Cơ gục rồi mà Hoàng Phùng Cơ không hay. Đang khi Hoàng ăn cơm thì quân Tây Sơn đã vây chung quanh, 

khiến Phùng Cơ chỉ còn nước bỏ chạy. Một đội quân của Trịnh do Mai Thế Pháp cố chặn đường Tây Sơn, nhưng bộ 

thuộc tan vỡ dần, Pháp túng thế nhảy xuống sông tự vẫn. Trong trận này 6 con của Quận Thạc bị trúng đạn chết cả, 

Quận Thạc thấy thế nguy, đành kéo con trai là Hoàng Phùng Gia và con rể là Nguyễn Trọng Thu cùng vài chục binh 

sĩ liều chết mở một đường máu chạy về Hưng Hóa. Trong khi này, hồ Vạn Xuân là mồ chôn hầu hết quân Trịnh. Vượt 

được tiền tuyến của Trịnh tức là sau khi đánh tan quân Hoàng Phùng Cơ, Nguyễn Huệ rần rộ xông lên bến Tây Luông. 

Tiếng hỏa hổ nổ ầm ầm ghê rợn, tiếng binh sĩ hò hét và rên rỉ biến trận Tây Luông thành một cảnh địa ngục hỗn loạn 

gớm ghê máu chảy đầu rơi ào ạt. Chúa Trịnh phất cờ lệnh hò ba quân tiến. Quân Tây Sơn như hùm beo thấy mồi cũng 

lần xả vào địch như để nuốt chửng. Nhưng xông vào trận chỉ có quân Nam hà mà thôi, còn quân Bắc Hà chẳng ai dám 

liều mạng. Chúa Trịnh liền thúc voi quay về vương phủ thì trên cửa Tuyên Võ cờ Tây Sơn đang phất phới bay. Lịch sử 

ghi: Chúa Khải bỏ Thăng Long sau cuộc bại trận hết sức bi thảm vào ngày 26 tháng năm Bính Ngọ (1786). Khải chạy 

đến làng Hạ Lôi tỉnh Phúc Yên thì bị dân ở đây bắt nộp cho Nguyễn Huệ. Dọc đường Khải nhờ đêm tối rút dao đâm cổ 

mà chết (28-6 Bính Ngọ).                                                                                                                             

[88 Hồ Vạn Xuân tức là đầm Vạn Phúc thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông ở bên ngoài thành Thăng Long. ]

Huệ Gặp Vua Lê  

 Thắng trận xong, quân Tây Sơn vào đóng giữ hoàng thành rất nghiêm chỉnh, không động chạm đến tài sản và tính 

mạng nhân dân. Theo Cương Mục quyển 46, tờ 23b-25b thì trong khi còn hành quân ở Vị Hoàng, Huệ đã phái một tỳ 

tướng đem binh bí mật đến Thăng Long để hộ vệ Hoàng gia (vua Lê). Khi quân Tây Sơn tới, các hoàng tử hoảng hốt 

nhưng viên tỳ tướng dâng tờ mật thư của Huệ báo trước cuộc vấn an, bấy giờ vua Lê mới an lòng. Ngày 26 tháng 6, 

Nguyễn Huệ dẫn bọn Công Chỉnh và các tướng tá vào cung Vạn Thọ. Trước mặt nhà vua, ông chúa Tây Sơn có 

những cử chỉ hết sức khiêm nhượng. Trong cuộc đàm thoại, Huệ nói quân Nam hà ra Bắc chỉ có ý phù Lê diệt Trịnh và 

làm theo lòng trời. Lúc này các cựu thần đi lánh nạn hết không còn một ai, vua Lê nghe lời Chỉnh cho đi tìm Phan Lê 

Phiên, Trần Công Sán, Uông Sĩ Điển đến lo việc thù tiếp vị thượng khách. Rồi ít bữa sau dân chúng lại lục đục kéo 

nhau trở về, chợ búa lại họp, các hoạt động hàng ngày lại tiếp tục theo nhịp sống bình thường. Qua hôm sau, vua Lê 

sai người sang phong cho Nguyễn Huệ (Huệ trú tạm bên Trịnh phủ) làm Nguyên Súy, Dực Chính Phù Vận Uy Quốc 

Công. Huệ nhận rồi sai người vào hoàng cung tạ ơn, nhưng trong lòng có ý bất mãn, nghĩ rằng triều đình Bắc Hà lấy 

chức tước phong cho mình có ý lung lạc và coi Huệ vào loại người không biết gì chăng. Công Chỉnh khéo léo lắm mới 

làm cho Huệ nguôi giận và sang thảo luận với vua Lê kiếm cách làm đẹp lòng người đang nắm trong tay vận mệnh 

Hoàng Gia và Bắc Hà. Rồi người ta đi đến chỗ gả cho chủ súy Tây Sơn cô gái thứ hai mươi mốt của nhà vua là Ngọc 

Hân công chúa bấy giờ mới 16 tuổi, nhan sắc rất mặn mà89, lại có tài văn chương thi phú. Vài ngày sau, bệnh tình của 

nhà vua thêm trầm trọng, rồi mất vào ngày 17 tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), sau 47 năm ở ngôi làm bù nhìn cho họ 

Trịnh. Do sự chấp thuận của Nguyễn Huệ, Hoàng Tôn Lê Duy Kỳ được nối ngôi lấy niên hiệu là Chiêu Thống90.           

 [89 Thời nào người đàn bà cũng đóng những vai trò hết sức quan trọng để giải quyết những nổi khó khăn trong tình 

thế đặc biệt. Ở đây người ta mượn cái nụ cười của giai nhân để đè dẹp ngọn lửa giận của Tây Sơn có thể đốt cháy cả 

Bắc hà bấy giờ. ] [90 Về việc Duy Kỳ lên ngôi "Lê Quý Kỷ Sự" chép: "Tự tôn không xin phép trước với chúa Tây Sơn, 

vội lên ngôi ngay trước linh cữu của vua Hiến Tông rồi lại tự tiện phát tang xong mới cho người sang báo với Huệ. 

Huệ giận lắm. Công chúa Ngọc Hân phải mật sai người tin cho Duy Kỳ sang xin lỗi Huệ mới yên. ]

375 Việt Sử Toàn Thư 

Nguyễn Huệ về Nam  

 Trước khi cất quân ra Bắc Hà, sợ "kiểu mệnh" theo lời của Nguyễn Hữu Chỉnh, Huệ đã gửi thư91 về Qui Nhơn "Xin 

đại cử Bắc phạt". Vua Thái Đức có ý không bằng lòng vội cho người ra Phú Xuân đòi đình chỉ việc Bắc tiến thì Huệ đã 

ra tới Thăng Long và đã hạ được hết thảy lực lượng của Bắc Hà. Nhạc đành sửa soạn lên đường, biết rằng cử người ra 

gọi Huệ cũng không được. Tháng 8 năm Bính Ngọ, với 500 thân binh và 100 con voi, Nhạc lật đật ra Thăng Long 

tuyên bố đi tiếp ứng cho Nguyễn Huệ để tránh mọi điều dị nghị. Lại một phen nữa cờ Tây Sơn tiến ra Bắc Hà. Được 

báo động vua tôi nhà Lê và dân chúng Thăng Long nôn nao, hoảng hốt. Gặp vua Lê, vua Thái Đức tuyên bố một câu 

rất chững chạc: "Họ Trịnh chuyên quyền, chúng tôi đem quân ra đây chỉ có ý giúp nhà vua mà thôi. Nếu đất Bắc Hà 

của Trịnh thì một tấc chúng tôi cũng lấy, nhưng của nhà Lê thì một tấc chúng tôi cũng không tưởng, chỉ mong nhà 

vua giữ vững kiền cương rồi "hai nước" chúng ta đời đời giao hảo"... Trước sự dứt khoát này, vua tôi nhà Lê mới hết lo 

lắng và binh tướng Tây Sơn cũng hoan hỉ, bởi vì họ chỉ mong sớm trở về với gia đình. Trong dịp này, Vũ Văn Nhậm 

vốn ghét Nguyễn Hữu Chỉnh, liền bàn với Nguyễn Huệ bí mật rút về Nam bỏ Chỉnh lại cho dân Bắc Hà sửa trị.   Rồi 

giữa canh ba đêm ấy, quân Tây Sơn lặng lẽ kéo đi mang theo của cải, kho đụn Bắc Hà sau khi cho người từ giã riêng 

vua Chiêu Thống. Sớm hôm sau Chỉnh mới biết tin, sợ quá vội cùng vài gia nhân chạy ra bờ sông, cướp một chiếc 

thuyềm buồm, chèo gấp vô Nghệ. Một số người kẻ chợ đuổi lấy gạch, đá ném theo, Chỉnh tự tay giết vài người mới 

thoát được. Quân Huệ đến Nghệ An thì Chỉnh cũng tới kịp. Huệ có ý ngượng bên ngoài mà bề trong thì rất khó chịu, 

nhưng cũng vổ về Chỉnh. Huệ nói: "Người Bắc chưa thật lòng với ta, danh tướng của họ như Đinh Tích Nhưỡng, 

Hoàng Phùng Cơ vẫn còn hoạt động, ông nên ở lại Nghệ An cùng Nguyễn Văn Duệ để đề phòng mai hậu mới được". 

Sau đó, Huệ dặn ngầm Vũ Văn Nhậm rằng: "Chỉnh ở lại Nghệ An là quê hương của hắn, phải xem kỹ mọi hành động, 

đồng thời theo dõi lòng người đối với hắn yêu ghét thế nào, cấp báo cho ta hay..." Về phần Chỉnh, từ ngày không 

được theo sát Bắc Bình vương Nguyễn Huệ, Chỉnh đã thấy mình ở cái thế tiến cũng khó mà thoái cũng dở, biết 

Nguyễn Huệ cơ mưu ghê gớm, đã không tin thì tai họa sẽ đến chưa biết giờ phút nào. Chỉnh đành ráo riết kiếm các tay 

lưu vong, lập cơ ngũ ngầm có ý chiếm hẳn Nghệ An gây thế tam phân thiên hạ. Nguyên sau khi Tây Sơn trở về Phú 

Xuân, vua Chiêu Thống vừa lên ngôi, đình thần toàn là những kẻ bất tài nên giòng họ Trịnh có Trịnh Lệ và Trịnh 

Bồng lại xuất đầu lộ diện tranh nhau làm chúa, noi theo thói cũ. 

[ 91 Huệ sợ chưa có lệnh vua anh, đã đem quân ra Bắc là mạn phép, làm liều. ]

Vua Chiêu Thống bất đắc dĩ phải để Trịnh Bồng tái lập phủ Liêu và phong Bồng làm Án Đô Vương. Bồng lại hiếp vua 

như các tiên chúa họ Trịnh rồi trong dịp này các hào mục ở các địa phương lấy danh nghĩa vua Lê cũng nổi lên như 

mười hai sứ quân xưa kia. Chính sự Bắc Hà đã rối, lại thêm nạn đói kém, dịch lệ bùng ra càng tăng thêm cảnh lầm than, 

khổ cực. Vua Chiêu Thống không còn cách gì đối phó đành cho sứ giả vào Nghệ An, khẩn thiết mời Chỉnh ra Bắc Hà 

yên dân trừ loạn92, Chỉnh liền để người tay chân là Lê Duật ở lại với Nguyễn Văn Duệ, còn mình thì cùng quân đội, 

phất cờ "hộ vệ" kéo ra Thăng Long. Quân của Chỉnh tới đâu, quân Trịnh Bồng bỏ chạy đến đó, Chỉnh ung dung bước 

vào Thăng Long, tiền hô hậu hét. Cái địa vị cao quý của ông chúa cuối cùng họ Trịnh, một buổi mai đã sang tay chủ 

mới: Nguyễn Hữu Chỉnh. Vua Lê Chiêu Thống phong cho Chỉnh chức Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Đại Tư Đồ 

Bằng Trung Công để thưởng công đã dẹp được kẻ lộng quyền.  Việc đầu tiên của Chỉnh ở Triều Lê là chiếm đóng 

Trịnh phủ làm Đại bản doanh, xin phong cho con là Nguyễn Hữu Du làm "Thế tử" lập dinh ở phía Đông, cắt đặt tay 

chân vào các địa vị trọng yếu trong triều và ở các trấn. Sau này các quan lại tâu vua phong cho Chỉnh tước Nhất Tự 

Công, được mở phủ và đúc ấn quân Võ Thành, viện khu mật thuộc về cả đấy93.  Từ đó mọi việc Chỉnh đều quyết đoán 

lấy, không hỏi ý vua Lê, rút cục về phần vua Lê, tránh được nạn Trịnh Bồng thì lại rơi vào cái họa Cống Chỉnh, khác 

chi chuyện quỷ tha ma bắt. Không khí chính trị Bắc Hà lại nặng nề như trước. Vua ngán, dân buồn, con thuyền quốc 

gia vẫn bồng bềnh trong cơn sóng dữ. Chỉnh dò xét biết nhiều người bất mãn với mình, bởi các quan có một số cáo 

bệnh về ở ẩn nơi núi, bể hay đồng ruộng nên tìm cách mua chuộc bằng việc mở khoa thi, tuyển dụng nhân tài. Rồi 

trước những việc chuyên quyền của Chỉnh đã có phen vua Chiêu Thống mưu với bọn cận thần Ngô Vi Quý vời 

Nguyễn Hữu Chỉnh vào tiền điện để đánh thuốc độc cho chết, nhưng khi vua gặp Vũ Trinh đem chuyện này ra bàn thì 

Trinh gạt đi, lấy lẽ đang có tin Tây Sơn lăng bức ngoài biên thùy, triều đình lại chưa ổn, lòng dân còn xao xuyến, hãy 

còn cần Chỉnh làm móng vuốt, nhất là Chỉnh chưa có hình tích gì gian trá bất tín. Chiêu Thống nghe ra mới bỏ việc này 

đi, nhưng sau cũng có người mách Chỉnh việc này. Chỉnh từ đó có ý chán nản, ít nhòm ngó vào việc nước, mà hào kiệt 

các nơi lại rạo rực.                                        

 [92 Trịnh Bồng sau cuộc bại vong đã bỏ đi tu và từ đó không ai thấy tông tích của ông ta nữa. ] [93 Phủ quân Võ 

Thành có uy quyền như Bộ Tổng Tư Lệnh quân đội ngày nay. ]

Tin của Duật từ Nghệ An đưa ra cho biết anh em Tây Sơn đang lủng củng với nhau, Chỉnh liền có ý muốn lật đổ Tây 

Sơn, mật giao kết với Nguyễn Văn Duệ thực hiện mưu "Nam Bắc phân trị"94. Vũ Văn Nhậm trước đây đã được giao 

phó nhiệm vụ dò xét về bọn Duệ và Chỉnh được rõ dự định này liền dùng binh phù gọi Duệ về Nam; Duệ không chịu e 

rằng anh em vua Tây Sơn bất hòa với nhau, mình là tướng cũ của Nhạc, về chuyến này có điều bất lợi chăng. Duệ tính 

luôn chuyện thông đồng với Chỉnh để cùng chống lại với Bắc Bình vương. Trong việc này Duệ có sự kết cấu với 

Tham nghị Nguyễn Đình Viện. Vũ Văn Nhậm cho chạy thư vào báo cáo với Bắc Bình Vương tình hình Nghệ An, 

Vương trao ngay cho Nhậm toàn quyền giải quyết vấn đề Duệ và Chỉnh. Quân Nhậm đi gấp, sau một ngày đêm đến 

trại Kỳ Hoa. Duệ hoảng sợ dặn Đình Viện giữ lấy Nghệ An, còn mình trốn về với Nhạc. Tại đây tướng lĩnh Nghệ An 

bất đồng chánh kiến, Đình Viện cùng các con đánh lộn nhau với Nguyễn Thuyên nên khi Vũ Văn Nhậm tới thì Nghệ 

An lại sang tay quân đội Nam Hà, không tốn một mũi tên, hòn đạn. Trong khi bầu trời chính trị Việt Nam còn vẩn đục, 

một việc khá buồn cười đã xảy ra là triều đình Bắc Hà cử sứ bộ do Trần Công Sán cầm đầu vô Nam đòi Nghệ An (việc 

này vào tháng ba năm Đinh Mùi - 1787). Lúc này Phú Xuân đã phái Vũ Văn Nhậm đem quân ra chiếm đóng trấn này95. 

Sứ bộ vào đến Nghệ An thì Vũ Văn Nhậm đã có mặt tại đây mở tiệc khoản đãi sứ giả rất trọng hậu. Đối với việc đòi đất 

Nghệ An, Nhậm cười bảo Sán rằng: "Nghệ An là một cấp nhỏ, có nghĩa lý gì đối với đại cục mất còn, sứ bộ đi thêm 

mệt sức, uổng công mà thôi... chỉ e chim đã lìa tổ, trở về khó có cành mà đậu!". Câu này làm cho Ngô Nho hoảng sợ, 

Nho bàn với Công Sán nên đổi quốc thư đòi đất Nghệ An làm bức thư cầu Tây Sơn cho vua Lê được tập phong, 

nhưng Công Sán không chịu. Đến Phú Xuân quốc thư dâng lên, Bắc Bình Vương coi xong nổi nóng, liền mạt sát ngay 

Chỉnh và mắng triều đình Bắc Hà có ý phỉnh phờ lừa gạt. Sứ giả không đổi nét mặt, ung dung biện luận từng điểm và 

khá lâu. Khi đó trời đã tối, Bắc Bình vương bảo Công Sán: "Các ông cứ về sứ quán nghỉ ngơi, để ta nghĩ kỹ vài lần rồi 

sẽ liệu định". Sán đỡ lời luôn: "Đại vương nghĩ một lần cũng đủ, nghĩ vài lần e lẫn chăng? Tôi đây xin liều chết cho 

rồi". Vương giận lắm truyền nhốt sứ bộ mỗi người một nơi. Bây giờ giữa Huệ và Nhạc không khí đang nặng nề. Người 

ta ngại nội tình bất ổn này lọt vào mắt của phái bộ Bắc hà, rồi Bắc Bình Vương đưa trăm lạng bạc nói là của Công chúa 

(Ngọc Hân) gửi tặng sứ bộ. Đô đốc Vũ Văn Nguyệt được lệnh tiễn đưa sứ bộ về Bắc bằng đường biển cùng 20 kẻ tùy 

tùng đến cửa bể Đan Nhai, Nguyệt ngầm sai đục thuyền, cả phái đoàn đều bị chết chìm cả. Hôm ấy là ngày 11 tháng 4 

năm Đinh Mùi. 

[94 Mưu Nam Bắc phân trị là lấy Hoành Sơn và Linh Giang (sông Gianh) làm phân giới rồi chia ra hai miền Nam Bắc 

như các tiền triều để cùng hưởng phú quý. Lại có sách chép: Nghe tin Duệ có ý thông đồng với Chỉnh, Bắc Bình 

Vương liền phái Nguyễn Văn Đức ra đóng ở Diễn Châu (Nghệ An) để cùng trông coi trấn này, nhưng khi Duệ và Đức 

biết Nam hà đang có mâu thuẫn nội bộ bèn viết thư cho Chỉnh bàn cùng hợp lực kéo vào Nam gây loạn, khi thành 

công sẽ chia nhau đất đai như trên đã nói, nhưng Chỉnh do dự nên việc này không thành.] [ 95 Đây là một việc thiếu 

tâm lý vì Tây Sơn và nhà Lê chưa thật tình ở tốt với nhau, lại còn đang nghi ngờ nhau là đàng khác. ]

6- Chim Bằng Gãy Cánh (Quân Tây Sơn Ra Bắc Lần Thứ Hai)

 Giữa lúc Nguyễn Hữu Chỉnh đang sống những giờ phút vinh quang nhất thì Vũ Văn Nhậm theo kế hoạch của Bắc 

Bình Vương liền viết thư ra hỏi tội thông đồng với Nguyễn Hữu Duệ. Bấy giờ Chỉnh đã hiểu rõ Nghệ An đổi chủ rồi và 

cũng biết sức mình còn kém Tây Sơn, vội viết thư cho Vũ Văn Nhậm để giải thích thái độ của mình, đại ý nói mình vẫn 

trung thành với Bắc Bình Vương vì bị kẻ yêu người ghét nên có nhiều điều phao vu oan uổng. Được thư Chỉnh, Nhậm 

cũng hồi âm an ủi Chỉnh và khuyên Chỉnh nên dẹp nốt Nhưỡng rồi về Nam để tỏ lòng ngay thẳng. Sau này Huệ và 

Nhạc giảng hòa với nhau, Bắc Bình Vương trong một hội nghị quân sự tại Quảng Nam đã nêu ra vấn đề Nguyễn Hữu 

Chỉnh. Bắc Bình Vương cáo tội Chỉnh ôm chân vua Lê như họ Trịnh xưa kia, rồi truyền lệnh cho Ngô Văn Sở và Phan 

Văn Luân ra Nghệ An họp bàn với Vũ văn Nhậm để mở cuộc Bắc phạt. Nhưng trước khi hai tướng trên đây lên đường, 

Bắc Bình vương đã ra lệnh riêng với Sở rằng Vũ Văn Nhậm là một tướng tài nhưng cũng không đáng tin, phải canh 

chừng96. Tháng 11 năm Đinh Mùi, đoàn quân bách chiến của Tây Sơn đã ra tới Thanh Hóa. Ngựa trạm chạy rầm rập 

trên đường báo tin về Thăng Long. Quang cảnh nhân dân chạy loạn, già trẻ, lớn bé bồng bế nhau nheo nhóc lại tái 

diễn trong làn không khí đầy lo âu gần như nghẹt thở ngày nào. Vua Lê nhóm họp các tướng lĩnh, đại thần ngay tại 

phủ của Chỉnh. Sau một cuộc thảo luận, Nguyễn Như Thái được cử làm Thống lĩnh, Ninh Tốn làm Tham Tán Quân Vụ 

cùng tiến quân vào Thanh Hóa. Tại đây quân của Lê Duật đã bị quân của Ngô Văn Sở đi men núi, lén qua sông Tất 

Mã (sông Mã)97 đánh vào sau lưng. Quân Duật phải bỏ chạy giữa đêm tối, đến Cao Động thì lại thấy quân của Văn Sở 

đằng trước mặt. Lâm vào thế gọng kìm, trước sau dồn lại, quân của Duật tan vỡ trong cơn hoang mang, khủng khiếp.     

 [96 Văn Nhậm là tả quân của Bắc Bình Vương nhưng là rể của vua Thái Đức. Bắc Bình Vương có bụng nghi ngờ cho 

rằng Văn Nhậm dầu sao vẫn có cảm tình với bố vợ nhiều hơn với mình rồi kinh nghiệm cho hay trên đường chính trị 

khi người ta đã nghi nhau là sẽ kiếm cách giết nhau. ] [97 Sông Mã ở vào khoảng tiếp giáp ba huyện Thụy Nguyên, 

An Định và Vĩnh Lộc thuộc tỉnh Thanh Hóa.] 

 Khi đại quân của Nguyễn Như Thái tới Châu Cầu98 thì được tin Lê Duật tử trận rồi. Quân của Thái được hai vạn gồm 

quân tinh nhuệ của bản đạo và các đạo khác. Ninh Tốn bàn đem quân giữ núi Tam Điệp (đèo Ba Dội) lợi dụng thế 

hiểm và chỗ cao, nơi này còn là hàng rào ngăn cách Đàng trong với Đàng ngoài. Quân của Thái vội gấp rút đến giữ 

bến đò Gián Khẩu, một phần lớn đi tắt đến bến đò Nghệ99 tính đánh vào phía sau quân Tây Sơn, nhưng đến Điềm 

Xá100 thì gặp lực lượng Đàng trong đại bại chạy về Sơn Minh101. Kế hoạch của nhà Lê là chiếm trước đèo Ba Dội thì 

quân Thái bắt đầu lên đường, quân Tây Sơn thắng Lê Duật xong đã vội đến chiếm núi Tam Điệp xong rồi. Đã bất lợi 

ngay trận đầu, nay lại được tin quân Tây Sơn cách mình chỉ có vài dặm, Thái hoảng hồn không ngờ Tây Sơn đã tiến 

nhanh quá sức tưởng tượng. Một trận kịch chiến xảy ra từ sáng đến trưa, đã cô thế lại không có quân tiếp ứng, Thái 

cùng binh sĩ bị đánh tan hoang, riêng Ninh Tốn đại bại như đã đem lại một cơn sốt rét cho chính quyền Bắc Hà. Vua 

Lê Chiêu Thống cũng hoảng hốt chạy sang trao cho Chỉnh cờ Tiết và cây Việt để Chỉnh toàn quyền với tình thế. 

Chỉnh vẫn làm ra vẻ cứng để yên lòng vua Lê, rồ thân mang ba vạn quân kéo xuống Hoàng Mai, cắt Hữu Du cầm Ngũ 

Duệ cơ quân đi trước. Du đến sông Thanh Quyết thì ngừng lại, đắp lũy ở Bắc ngạn sông ấy và dựng 18 đồn. Bấy giờ 

vào tháng chạp, đêm xuống càng rét nhiều, quân lính của Du đang đốt lửa sưởi thì quân Vũ Văn Nhậm ập tới và cứ 

nhằm chỗ có lửa sáng mà bắn. Quân Du vỡ ngay lập tức. Chỉnh ở Bình Vọng (tức làng Bằng thuộc phủ Thường Tín, 

tỉnh Hà Đông) nghe báo quân Du thua vỡ, đang bối rối thì Du chạy về tới.  Chỉnh hạ lệnh rút về Thăng Long để mời 

vua Chiêu Thống sửa soạn đi lánh nạn và mang cơ thiếp của mình chạy102 đi Kinh Bắc tính nhờ Nguyễn Cảnh Thước 

là một tướng dũng lược đáng tin cậy và ở đây thành trì kiên cố, lại có sông ngăn cản, ít nhất lợi về thế thủ trong khi 

chờ gọi được quân Cần vương tới. Rồi vua Lê sang nhà Chỉnh cùng chạy khỏi Thăng Long. Chập tối Vũ Văn Nhậm đã 

kéo được quân vào thành. Vua và hoàng gia chạy được qua sông (sông Nhị). Đến đây quân lính trốn hết quá nửa chỉ 

còn 430 người và 60 cỗ ngựa (phút cuối cùng Hữu Chỉnh còn thu nhặt được vài ngàn binh để ủng hộ vua qua sông 

chạy sang Bắc...)                                        

 [98 Châu Cầu là xã sở tại huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. ] [99 Bến đò Nghệ thuộc Trại Nghệ, làng Đại Hữu, huyện 

Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. ] [100 Một làng thuộc huyện Gia Viễn] [ 101 Tục gọi là Sơn Miêng, nay thuộc phủ Ứng Hòa, 

tỉnh Hà Đông.] [ 102 Vợ con Chỉnh ở làm tin bên Tây Sơn; khi Chỉnh ra Bắc lần sau chỉ có mang hầu và con nàng hầu 

mà thôi. ]

380 Việt Sử Toàn Thư 

Bộ tướng của Vũ Văn Nhậm là Nguyễn Văn Hòa được lệnh đuổi theo đám người bại trận. Tới núi Tam Tầng thuộc 

huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang thì Hòa theo kịp Chỉnh. Hòa chia quân làm hai đạo, một đạo đi vòng sau núi đánh tập 

hậu. Chiến thuật này làm quân của Chỉnh rối loạn ngay. Hữu Du bị bắt và bị chặt đầu ngay, còn Chỉnh đang phóng 

ngựa chạy thì bỗng bị ngã vật xuống do ngựa bị thương. Quân Tây Sơn liền trói Chỉnh bỏ vào cũi mang thẳng về 

Thăng Long.  Với giọng hách dịch, Vũ Văn Nhậm kể tội Chỉnh từ chân tơ, kẽ tóc rồi vặn hỏi tại sao làm phản. Chỉnh 

không van nài, chỉ đáp gọn một câu: "Chỉ vì cái thế như vậy". Rồi Chỉnh bị xé xác.  

 Phần 3 - Chương 20 Một Võ Công Oanh Liệt Nhất Của Việt Nam Cuối Thế Kỷ 18  

- Cái chết của Vũ Văn Nhậm 

- Chiến sự Việt Thanh - Cuộc giao thiệp giữa Tây Sơn với nhà Thanh 

- Việc mở mang chính trị của vua Quang Trung  

1- Cái Chết Của Vũ Văn Nhậm 

  Chỉnh bại trận bị phanh thây, về phía hoàng gia nhà Lê cũng trải nhiều khổ cực. Vua Chiêu Thống sai Lê Quýnh cùng 

30 người tông thất đưa bà Hoàng thái hậu, ba Hoàng phi và Hoàng tử lên Cao Bằng. Từ đó nhà vua chạy lạc lõng từ 

Hải Dương về Sơn Nam cùng mấy kẻ tôi trung. Bọn Đinh Tích Nhưỡng thấy thế nhà Lê suy tàn cũng quay ra làm 

phản. Vua Chiêu Thống đành chạy qua Tàu cầu cứu. Nhà Lê tính ra trị vì dân tộc Việt Nam hai phen (Tiền Lê và Hậu 

Lê) được 360 năm tuy được một thời trung hưng nhưng chỉ đóng vai bù nhìn cho nhà Chúa. Rồi chúa đổ thì vua cũng 

tàn (1788). Về phần Vũ Văn Nhậm bình định xong Bắc Hà liền thiết lập ngay bộ máy cai trị để chấm dứt chính quyền 

của con cháu nhà Lê, và cho người đi kiếm vua Chiêu Thống nhưng không được. Nhậm phải cử Sùng Nhượng Công 

Lê Duy Cẩn lên làm Giám Quốc cho yên lòng dân Bắc Hà. Thủ đoạn chính trị này cũng không bưng mắt được sĩ dân ở 

đây, do đó vị Giám Quốc chỉ có vài Hoàng thân và vài võ tướng theo mà thôi. Vũ Văn Nhậm, từ ngày diệt được Chỉnh 

có ý kiêu ngạo và độc đoán khiến bọn Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân làm Tham Tán Quân Vụ bất bình103. Nhân trước 

đây, Bắc Bình                                        

[ 103 Trước đây Nhậm là tướng của chúa Nguyễn, bị bại trận hồi tháng 5 năm Bính Ngọ (1786) tại Gia Định. Nhậm đã 

toan tự vẫn cho vẹn tiết thì Nguyễn Huệ dụ hàng bởi Nhậm đã từng làm Tiết Chế của Nam Hà tỏ ra là một tướng có tài. 

Huệ mang Nhậm về làm tả tướng rồi Nhậm được vua Thái Đức gả con gái cho. Địa vị của Nhậm như vậy đáng kể là tốt 

đẹp. Sau ít lâu anh em Tây Sơn bất hòa. Nhậm cố giữ thái độ trung lập nhưng vẫn không quên mình là rể của Trung 

Ương Hoàng Đế rồi trong khi có nội biến Nhậm đã có phen xin về Quy Nhơn triều kiến. Huệ tất nhiên không cho lại 

còn đẩy ra Nghệ An rồi trao cho sứ mạng Bắc phạt để trừ Cống Chỉnh. Nhậm thành công như ta đã thấy rồi giữ vai 

chủ tể tại Thăng Long giữa lúc vua tôi nhà Lê lạc lõng bốn phương trời. Cái công lớn này càng làm cho Huệ nghi ngại,  

nhất là bọn Ngô Văn Sở phần muốn lập công, phần khó chịu về sự độc đoán của Nhậm trước kế hoạch thôn tính Bắc 

Hà, thường gởi báo cáo mật về Phú Xuân cho Bắc Bình Vương. Những báo cáo này tất nhiên là những bản án nặng nề 

đối với Chế Nhậm. ]

Vương Nguyễn Huệ vốn có óc đa nghi bởi Nhậm là con rể của vua Thái Đức nên đã dặn Sở và Lân canh chừng và cho 

chia xẻ quyền hành để kiềm chế Nhậm một phần nào. Nhậm mất lòng họ, Sở liền ngầm báo cáo về Phú Xuân rằng 

Nhậm có ý tự vương (Theo Thanh Triều Sử Lược và Lê Kỷ Dã Sử). Làm đại tướng ở ngoài cõi, uy danh lớn bao nhiêu 

thì dễ bị người ghen ghét bấy nhiêu rồi số phận của Nhậm đã bị kết liễu một cách bi thảm sau đó ít ngày. Bắc Bình 

vương được mật thư của bọn Sở lập tức lên đường. Mười ngày sau, Vương ra tới Thăng Long (Mậu Thân - 17880 hồi 

canh tư. Vương ập vào Tổng hành dinh giữa lúc Nhậm đang ngủ say, Vương cho võ sĩ đâm chết Nhậm ngay trên 

giường. Giải quyết xong vấn đề Vũ Văn Nhậm, Vương họp các quan văn võ của mình và của nhà Lê để tổ chức tân 

chính quyền. Nguyễn Huệ đặt bốn trấn tướng phụ trách quân sự tại Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương là Hòa 

Nghĩa hầu, Lôi Quang hầu, Nguyệt Quang hầu, và Hám Hổ hầu. Bốn võ quan khác giữ bộ Lại, Chính Ngôn hầu giữ bộ 

Hộ, Ước Lễ hầu giữ bộ Lễ và Lộc Tài giữ bộ Hình cũng là tay chân của Vương từ Phú Xuân ra. Tất cả những người 

này đều thuộc quyền Đại tư mã Ngô Văn Sở và thuộc cấp bộ Trung ương. Một số quan nhà Lê như Phan Huy Ích, 

Ngô Thì Nhậm, Vũ Huy Tấn, Trần Bá Lãm chỉ đóng vai phụ thuộc trong bộ máy chính quyền đời bấy giờ mà thôi. Ở 

cấp phủ, huyện thì Vương cho đề cử, nghĩa là theo lối giới thiệu để có quan cai trị, tại các địa phương gồm hai loại: Văn 

phân Tri và Võ phân Xuất. Còn những lại viên thuộc các Ty thì tùy sự tuyển dụng của Ngô Văn Sở. 2- Chiến Sự Việt 

Thanh   Việc vua Chiêu Thống mất nước, Tây Sơn lập tân chính quyền ở Bắc Hà được hai cố thần nhà Lê là Nguyễn 

Huy Túc và Lê Duy Đản vượt biên giới sang báo cáo cho Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị và Tuần phủ Tôn 

Vĩnh Thanh. Bọn này liền dâng sớ lên xin vua Càn Long gấp rút lợi dụng cơ hội này sang chiếm nước Nam, bề ngoài 

lấy danh nghĩa dựng lại họ Lê và trừ quân Tây Sơn. Vua Càn Long chấp thuận luôn đề nghị này và ra lệnh chu biện 

việc ăn ở cho cung quyến vua Chiêu Thống cùng cho nhà vua theo quân Thanh về Nam chinh. Việc đã quyết định 

xong, triều Thanh liền huy động binh mã bốn tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Quảng Đông, và Quảng Tây được tất cả là 

200.000 người, chia làm ba đạo kéo vào nội địa nước ta104. Đạo thứ nhất do chính họ Tôn và Đề đốc Hứa Thế Thanh 

chỉ huy theo đường Nam Quan đổ xuống. Đạo thư nhì do Đề tổng họ Ô, lĩnh quân Vân Quý (hai tỉnh Vân Nam, Quí 

Châu) từ Tuyên Quang tiến sang.                                                                                                                             

[104 Trước khi quân Thanh lên đường Tôn Sĩ Nghị họp tướng sĩ đã đưa ra tám điều quân luật. ]

Đạo thứ ba do Điền châu Tri phủ, Sầm Nghi Đống từ Cao Bằng kéo vào. Ngô Văn Sở được tin quân Thanh kéo sang 

tới tấp liền nhóm các văn võ quan liêu nhà Lê sau khi tướng Trấn thủ Lạng Sơn là Phan Khải Đức hàng giặc, phó 

tướng Nguyễn Văn Diễm thế cô rút về Kinh Bắc với Nguyễn Văn Hòa. Một bức thư ký tên Giám Quốc Sùng Nhượng 

Công, Lê Duy Cẩn được đưa sang xin hoãn binh với Tôn Sĩ Nghị. Rồi các tướng Tây Sơn mở cuộc thảo luận. Nhiều kẻ 

bàn dùng phục binh đánh quân Thanh như vua Thái Tổ nhà Lê diệt bọn Liễu Thăng, Lương Minh trước đây duy Ngô 

Thì Nhậm chủ trương kế hoach, nhử giặc vào sâu nội địa, thủy quân rút về Biện Sơn trước, lục quân kéo vào đóng giữ 

núi Tam Điệp rồi báo tin vào cho Bắc Bình Vương. Chiến lược này được chấp thuận, binh sĩ các đạo đều được lịnh về 

hội ngay dưới cờ của Tiết Chế Ngô Văn Sở tại bờ sông Nhị vào năm hôm sau. Sở bàn kế hoạch lui quân. Riêng Phan 

Văn Lân khảng khái xin đem 1000 quân đi đánh. Trời bấy giờ rét buốt. Quân Tây Sơn vượt sông Nguyệt Đức đánh vào 

quân Thanh đang đóng ở núi Tam Tầng. Súng đạn của Thanh bắn ra như mưa. Quân Tả Hữu Dực bắn châu vào quân 

Tây Sơn chết rất nhiều. Tôn Sĩ Nghị lại phái một toán kỵ binh từ mạn thượng lưu vượt qua sông đánh úp lấy đồn Thị 

Cầu. Đồn này phát hỏa, Lân cả sợ rút về. Ngày 21 tháng 11 năm Mậu Thân (1780) không còn một bóng quân Tây Sơn 

ở trên đất Bắc, thành Thăng Long bỏ ngỏ, quân của Nghị vào đóng và tướng doanh của Nghị đặt tại Tây Long Cung. 

Theo lời vua Thanh đã dặn lấy xong thành này rồi trao ấn cho Duy Kỳ để tấn phong làm An Nam Quốc Vương. Đây là 

một chước để ràng buộc lấy lòng dân... Ngày 22, Sĩ Nghị làm lễ ở điện Kính Thiên để làm lễ sách phong cho vua Lê 

Chiêu Thống. Trước biến cố năm Mậu Thân, nông dân Bắc Hà đã mất luôn mấy vụ mùa liền, cảnh huống rất là nheo 

nhóc, bi thảm. Quân Thanh tới nhân dân càng điêu đứng thêm. Đã đói lại loạn mà loạn luôn mấy năm thì còn sức nào 

mà chịu nổi. Bọn ngoại nhân ỷ thế làm bậy, hàng ngày như đánh người, cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái không còn 

kiêng nể một thứ gì. Tình dân đã rối ren mà hoàng gia cùng quan liêu cũng hết sức lủng củng do tính nhỏ nhen vụng 

dại của vua Chiêu Thống khiến nhiều người sinh chán nản. Nguyên vừa về đến Thăng Long vua Chiêu Thống đã nghĩ 

ngay đến sự đền ơn trả oán: đàn bà trong tông thất lấy tướng tá của Tây Sơn đã có mang vậy mà vua Chiêu Thống sai 

mổ bụng, lấy thai quăng đi để chết cả mẹ lẫn con; ba vị Hoàng thúc bị chặt chân quăng ra giữa chợ, Hoàng đệ Duy 

Lưu, Trấn Thủ Tuyên Quang Phạm Như Toại, Phò mã Dương Hành, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Hoàn, 

Phan Lê Phiên, Mai thế Uông v.v... kẻ bị tử hình, người bị cách chức giáng chức khiến bà Thái Hậu phải bất bình: "Ta 

cay đắng mới xin được quân đến cứu. Nay đền ân mai trả oán, phá hoại thế này nước nhà phỏng còn gì nữa? Việc 

hỏng đến nơi rồi!" 

Còn việc quân đáng lẽ phải thúc đẩy gấp thì thầy trò vua Chiêu Thống chẳng hề nghĩ đến, khiến nhiều đạo quân Cần 

vương phải chán nản. Sau nhiều người thúc dục vua Chiêu Thống mới cho dựng ba cái đồn tại Bắc ngạn sông Thanh 

Quyết tỉnh Hà Nam làng Nhật Tảo và ở làng Ngọc Hồi tỉnh Hà Đông. Sau Nghị mới quyết định sang Xuân vào mồng 6 

sẽ xuất sư và bảo Lê Quýnh là người được vua Chiêu Thống cử sang giục Nghị ra quân rằng: "Nếu muốn đi gấp thì 

thầy trò nhà ngươi cứ việc đem quân tiến trước cũng được". Ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân (1788) Ngô Văn Sở từ 

núi Tam Điệp cho tin cấp báo về Phú Xuân việc quân Tôn Sĩ Nghị dưới danh nghĩa "cứu Lê" đem quân vào Thăng 

Long, khí thế rất mạnh mẽ. Bắc Bình Vương tỏ ra rất bình tĩnh. Các tướng sĩ yêu cầu ngài hãy chính vị hiệu để buộc lấy 

nhân tâm, dương thanh thế rồi sẽ tiến quân ra Bắc. Bắc Bình Vương cho là phải liền cho đắp đàn Giao ở Bàn Sơn, phía 

Nam núi Ngự Bình tế cáo trời đất và làm lễ đăng quang. Từ giã Bàn Sơn, đoàn quân thủy bộ của Bắc Bình Vương như 

hùm beo, tràn đầy hùng khí rầm rộ tiến ra Bắc Hà mạnh như thế chẻ tre, bạt núi. Ngày 29 đại quân tới Nghệ An. Ở đây 

Vương cho lấy thêm lính mới, cứ ba xuất đinh lấy một, quân số cộng lại được 10 vạn và tượng binh được vài trăm con. 

Thân quân Thuận, Quảng chia làm 4 doanh: Tiền, Hậu, Tả, Hữu, lính mới sung vào Trung quân. Trừ đám tân binh còn 

những thân quân của Vương vốn được tập tành thuần tục đã lâu, chiến đấu dẻo dai, bơi lội giỏi, đi đứng rất nhanh. 

Vương nảy ra sáng kiến để cuộc Bắc tiến được cực kỳ thần tốc, cho hợp ba người làm một tốp rồi lần lượt thay phiên 

để võng nhau (chắc hẳn lúc đó võng làm bằng tre vì tre là thứ vật liệu dễ có nhất ở khắp nước ta và có thể làm thành 

chiếc võng dản dị nhất và mau chóng nhất). Nhờ có sự chuyển vận tối tân và kỳ dị này quân Tây Sơn đi rất nhanh và 

đỡ cả sự mệt nhọc. Ngày 20 tháng 12 năm ấy đại quân đến núi Tam Điệp nơi tiếp giáp của hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh 

Bình. Tư Mã Sở và Nội Hầu Lân ra đón cùng xin chịu tội đã phải rút lui trước quân địch. Vua Quang Trung chỉ quở 

trách qua loa. Để nuôi lòng kiêu căng của giặc, vua Quang Trung vừa cho gấp rút tiến quân vừa cử một sứ đoàn gồm 8 

người đi theo Trần Danh Bính đến gặp Tổng đốc họ Tôn với ba đạo bẩm văn (một của Lê Duy Cẩn, một của các cựu 

thần nhà Lê, một của nhân dân) bày tỏ sự tình phải thay nhà Lê và ngỏ ý "cung thuận" với "thiên triều", đồng thời 

nhà vua lại nộp trả bọn tuần dương binh của nhà Thanh có bốn chục người bị tướng Tây Sơn bắt được khi còn đóng ở 

Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị xé thư, giết Trần Danh Bính và giam toàn thể nhân viên sứ đoàn lại, rồi truyền hịch kể tội 

vua Quang Trung và cho biết sẽ bắt nhà vua cùng đánh tới Quảng Nam cho sạch cả gốc lẫn ngọn. Ngày 30 tết, quân 

Tây Sơn vượt qua bến đò Gián Khuất. Tướng nhà Lê trấn giữ Sơn Nam (Nam Định) là Hoàng Phùng Nghĩa hoảng sợ 

bỏ chạy về sông Nguyệt Quyết thuộc huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam. Bọn thám tử của nhà Thanh cũng bở vía lẩn 

nốt bị đuổi đến Phú Xuyên (Hà Đông) rồi bị bắt hết. Giặc mất liên lạc nên không biết chiến cuộc đã xẩy ra bất lợi cho 

chúng tại miền Nam trung châu xứ Bắc thuở đó. Mồng 3 tháng Giêng Kỷ Dậu (1789), nửa đêm giặc Thanh đang ngủ kỹ 

trong đồn Hà Hồi, tiếng loa, tiếng trống bỗng nổi lên, tiếng gào thét thay đổi nhiều giọng như có thiên binh vạn mã 

đang ào tới gây nên một cuộc khủng khiếp như trời sắp long, đất sắp lở. Quân Thanh không còn hồn vía liền kéo ngay 

cờ hàng. Quân của Vương ở đây không tốn một mũi tên, một hòn đạn, đàng hoàng vào tiếp thu quân nhu và khí giới 

của giặc. Ngày mồng 5. Đầu trống canh năm, vua Quang Trung cho thu quân lương vào một khu rồi truyền đốt sạch. 

Ngài quấn chiếc khăn vàng ở cổ tỏ lòng quyết tử với giặc rồi xắn áo cưỡi voi thúc quân xung phong vào phá đồn 

Ngọc Hồi; đi trước ngài là đạo tượng binh hơn một trăm con. Đạo tượng binh này có hiệu lực như một đoàn thiết giáp 

xa phá đồn trại rất mạnh. Quân Thanh ứng chiến bằng kỵ binh, nhưng ngựa gặp voi hoảng sợ, rống lên rồi chạy nhảy 

tán loạn. Địch bị tan vỡ ngay hàng ngũ, vội vã rút vào trong cố giữ. Lũy của giặc có cắm chông sắt tua tủa. Đạn của 

giặc trong đồn bắn ra như mưa rào. Quân ta vẫn tiến một cách cảm tử. Để tránh tên đạn, quân ta lấy 60 tấm ván gỗ, cứ 

ba tấm xếp lại thành một bó ngoài phủ rơm nhào với bùng rồi 10 người khiêng một bó đi trước, lưng đeo đoản đao, 

theo sau 20 khinh binh tiến thành hàng chữ nhất. Trời tối mịt không trăng, không sao. Quân Thanh đốt thuốc súng 

khói mù mịt bốc ra do gió Bắc thổi tới, quân ta mờ mắt, thế trận gần như ngừng lại rồi lát sau trời quay gió nồm khói lại 

trở lại phía địch. Đám quân có ván rơm liền lăn xả vào tiền tuyến, quăng ván xuống đè lấy chông. Bọn có đoản đao ùa 

theo, lướt qua làn đạn, phá cửa lũy tràn vào đồn như nước lũ. Tại đây hai quân đánh giáp lá cà. Lớp này ngã lớp kia lại 

xông tới. Sắt thép va vào nhau vang lên những tiếng lanh lảnh, như gào thét ghê hồn. Thân người đổ xuống như rạ. 

Mùi thịt cháy khét lẫn với mùi thuốc súng và máu tanh nồng lộn mửa. Lửa đỏ rực góc trời. Người ngựa chỉ là những 

bóng đen nhào lộn, lăn xả vào nhau, vung gươm giáo đâm nhau tới tấp như diễn một cảnh loạn xạ trong âm ty, địa 

ngục. Súng nổ rền động cả không gian trong đêm dầy đặc. Muôn nghìn tiếng hò hét, tiếng kêu khóc chen nhau giữa 

tiếng trống, tiếng loa, tiếng thanh la gây nên một không khí đầy khủng khiếp đè nặng xuống chiến trường. Cuộc chém 

giết mỗi lúc một thêm tàn ác, man rợ, cuồng nhiệt.  Quân Thanh chịu không nổi cắm đầu, cắm cổ chạy. Chính họ lại rơi 

vào các máy ngầm hay các nơi có rắc chông do họ đặt sẵn từ trước. Địa lôi nổ ầm làm chúng tan ra như xác pháo. Đồn 

Ngọc Hồi thất thủ. Đoàn quân chiến thắng của ta hò reo tiến thẳng về phía Thăng Long hạ thêm được hai tiền đồn của 

giặc ở đây là đồn Văn Điển và Yên Quyết. Giặc tổn thất quá nửa phần quân số, tai hại nhiều hơn cả là các tướng lĩnh: 

Đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Triều Long, Tả dực Thượng Duy Thăng v.v... bỏ mạng ngay tại chiến địa. 

Cùng lúc này là lúc quân Tây Sơn đang thắng ào ạt, một đạo quân do Đô Đốc Long cầm đầu theo kế hoạch đã tiến 

đến Khương Thượng, vây kín đồn binh của Sầm Nghi Đống. Quân Bắc cố cầm cự, nhưng khi kiệt sức đến nơi vẫn 

không được tiếp ứng người và đạn dược. Chủ tướng họ Sầm không chịu hàng, trốn ra Đống Đa thắt cổ tự vẫn trên một 

cành đa. Cuộc chiến đấu đã kéo dài được suốt một đêm, tới sáng thì dứt. Tàn binh của giặc chạy tản ra các nơi. Vua 

Quang Trung đã liệu trước đặt sẵn quân từ Thanh Trì sang Hà Đông chỗ thì đón đánh, chỗ làm nghi binh khiến từ làng 

Đại Áng sang đến làng Quỳnh Đô hàng vạn quân Thanh bị chết vì voi giày đạp hay bị phục kích. Khoảng giờ Thân (4 

giờ chiều) mồng 5 Tết, vua Quang Trung cùng đại quân và 80 thớt voi ung dung tiến vào kinh đô nhà Lê đúng lời đã 

hẹn từ 20 tháng Chạp. Chiếc áo bào đỏ của người anh hùng dân tộc qua nhiều trận huyết chiến đã đổi ra màu đen 

cháy vì hơi khói của thuốc súng. Ngày hôm trước (mồng 4) Tôn Sĩ Nghị được tin báo cấp tốc rằng các đồn Hà Hồi, 

Ngọc Hồi bị phá, đã cho Thang Hùng Nghiệp đi cứu thì sáng sớm đã thấy phía Tây Bắc chìm trong khói lửa, súng nổ 

không ngớt. Kỵ binh đi dọ thám về cho hay đồn Điền Châu cũng đã bị hạ, quân Nam đang ầm ầm kéo vào các cửa ô. 

Nghị mất tinh thần không kịp đóng yên ngựa cùng vài thân binh vượt cầu phao trên sông Nhị Hà chạy sang Bắc Ninh. 

Quân đội các doanh cũng chạy theo chủ tướng, xô đẩy nhau không còn chút gì là trật tự. Cầu phao bị đè nặng, chịu 

không nổi rồi hàng vạn con người bị hất xuống lòng sông làm tắc cả giòng nước. Tiếng rên than, kêu khóc vang cả 

một góc trời. Nghị chạy đến Phượng Nhỡn nghe nói quân Tây Sơn từ mặt Đông sắp tới chẹn đánh, sợ quá. Mấy kẻ thủ 

túc vất vả cả sắc thư, cờ hiệu, bài lệnh, ấn tín cho dễ thoát thân. Hai đạo quân của Vân Nam, Quí Châu vừa sang tới 

Tây Sơn nghe Nghị thua chạy cũng vội rút lui nốt. Thế là chỉ trong vòng 7 ngày chiến đấu ào ạt, vua Quang Trung đã 

tiêu diệt được hai trăm nghìn quân Thanh mau như chớp nhoáng. Đây là một vũ công oanh liệt đáng xếp vào bậc nhất 

trong các vũ công lớn lao của các danh tướng cổ kim trên thế giới. Nhưng quân ta còn bắt được một tài liệu vô cùng 

quí giá do Tôn Sĩ Nghị quẳng bỏ hay đánh rơi trong lúc hốt hoảng trên con đường gần Phương Nhỡn. Đó là một sắc 

thư bí mật của vua Càn Long gửi họ Tôn có những chỉ thị đánh chiếm nước ta để làm thuộc quốc như xưa. 

3- Cuộc Giao Thiệp của Tây Sơn với Thanh Đình   

Tin Tôn Sĩ Nghị và hai chục vạn quân Thanh bị đại bại ở Thăng Long bay về đến Bắc triều làm cho vua Càn Long và 

các đình thần vô cùng căm tức. Rồi Thanh triều cử ngay Phúc Khang An thay Tôn Sĩ Nghị làm Lưỡng Quảng Tổng 

Đốc để xuất 50 vạn quân, định ngày kéo xuống Việt Nam. Biết chưa phải lúc gây một cuộc trường chiến với nhà 

Thanh, vua Quang Trung cho quan sang giao thiệp với Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp là Tả Giang Binh Bị 

Đạo để mở cuộc giảng hòa. Phúc Khang An thấy quân ta đang mạnh nên trong bụng đã có ý muốn làm hòa lại được 

vua Quang Trung cho vàng bạc nên cùng Các thần là Hoà Thân đề nghị bãi binh. 

Phúc Khang An còn đề nghị phong vương cho Nguyễn Huệ vì con cháu nhà Lê không còn đủ tư cách làm chủ nước 

Nam nữa. Việc này được thực hiện vào ngày 26 7 năm Kỷ Dậu (1789). Để biết mặt người anh hùng đã phá cả 20 vạn 

quân của Tôn Sĩ Nghị nhanh như chớp nhoáng, vua Càn Long giáng chỉ vời Quốc Vương An Nam sang chầu. Vua 

Quang Trung chọn Phạm Công Trị có hình giáng giống mình đi thay trá làm quốc vương. Cùng đi với giả vương có 

Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn. Tổng Đốc Lưỡng Quảng và Tuần phủ Quảng Tây phải đưa 

phái đoàn lên Yên Kinh. Tại đây vua Quang Trung được tiếp đón rất long trọng và lúc về nước được vua Càn Long sai 

thợ vẽ làm một bức ảnh truyền thần để ban cho cùng các quý vật. 

4- Chính Trị Của Vua Quang Trung (Việc Nội Trị)

 Sau khi nhà Thanh đã thừa nhận vua Quang Trung là Quốc Vương An Nam, Lê Duy Kỳ (vua Chiêu Thống) ở lại đất 

Tàu, nhưng ở trong nước em là Hoàng ba Lê Duy Chỉ vẫn hiệu triệu các cố thần nhà Lê mưu việc khôi phục. Duy Chỉ 

nhờ có thổ tù châu Bảo Lạc, trấn Tuyên Quang là Khoan Triều chiêu binh mãi mã, khi ẩn khi hiện ở vùng Thượng du 

Bắc Hà. Binh đội Tây Sơn dẹp mãi không yên. Sau này Duy Chỉ hoạt động dần xuống các vùng Trung du như Mục 

Mã, Thái Nguyên và chiếm giữ Tuyên Quang, Cao Bằng làm căn cứ để xuất phát xuống Thăng Long. Tại đây Duy Chỉ 

được bọn Nùng Phúc Tấn và Hoàng Văn Đồng giúp sức. Có thời ông Hoàng ba nhà Lê đã liên kết được cả với chính 

quyền Vạn Tượng, Trấn Ninh, Trịnh Cao và Quí Hợp mưu đánh Nghệ An. Năm Canh Tuất (1790) Đại tổng quản Trần 

Quang Diệu và Đô đốc Nguyễn Văn Uyển đem 5.000 binh của trấn Nghệ An đi đánh dẹp. Thắng được liên quân của 

nhà Lê ở đây, quân Tây Sơn vây luôn vùng Bảo Lạc là nơi lẩn lút cuối cùng của Duy Chỉ. Duy Chỉ bị bắt sống cùng 

với hai thổ tù kể trên nhốt vào cũi đem về Thăng Long. Ngoài việc đề kháng của Lê Duy Chỉ đáng kể hơn cả, còn 

những vụ chống đối lẻ tẻ có tính cách địa phương như vụ Trần Quang Châu vào năm Quang Trung thứ nhất (1788) - 

vụ Dương Đình Tuấn người huyện Yên Thế (Bắc Giang) đem hai con và cháu chống nhau với Tây Sơn khi vua Chiêu 

Thống chạy đến huyện Nhân Mục (1788) - vụ Phạm Đình Đạt gồm hai anh em là tạo sĩ Phạm Đình Phan và tiến sĩ 

Phạm Đình Dữ, tại Võ Giàng (Bắc Ninh) v.v... Các liệt sĩ này đều thất bại hay tử tiết để thỏa lòng trung với một triều đại 

mà họ nặng cảm tình theo giáo lý Khổng Mạnh, hoặc để tỏ sự bất cộng tác với tân chính quyền.

 Việc Quân Sự  

 Vua Quang Trung lên ngôi từ 1788 đến 1792 thì mãn phần, như vậy chánh quyền trong tay ngài không được lâu dài là 

bao nhiêu. Lại nữa, trong 5 năm đó ngài có mấy khi được ngơi tay, rảnh trí để lo việc nội trị nếu ta bàn đến việc nội trị 

của ngài. Tuy nhiên về tổ chức binh chế đời Tây Sơn ta thấy cũng có vài điều đáng chú ý. Như nhiều triều đại trước, 

Tây Sơn cũng có ngũ quân: Tiền, hậu, trung, tả, hữu. Đó là 5 đạo quân trong hồi đánh nhau với nhà Thanh. Ngoài ra 

nhà vua còn nhiều đội quân đặc biệt khác lấy hiệu là: Tả bật, Hữu bật, Ngũ chế, Kiện thành, Thiên cán, Thiên trường, 

Thiên sách, Hổ bôn, Hổ hầu, Thị lân, Thị loan. Ta có thể đoán ngũ quân là năm đạo quân căn bản và 11 đội quân sau 

đây là những đạo quân đặc biệt để tăng cường cho ngũ quân và thường được cử đi bình định hay chiến tranh đại qui 

mô mới sử dụng đến cả ngũ quân. Ngũ quân và 11 đội quân trên đây hợp thành quân chủ lực của quốc gia. Còn ở các 

phủ huyện thì quân Tây Sơn chia ra từng đạo, cơ, đội, lấy Đạo thống cơ, Cơ thống đội, có võ phân xuất cầm đầu. Dưới 

triều Tây Sơn vì đánh ngoại xâm là một việc hết sức quan trọng, đã có phen chính quyền tổng động viên đinh tráng từ 

12, 13 đến 60 tuổi. Tinh thần chiến đấu của binh đội Tây Sơn theo nhận xét của nhiều nhà truyền giáo ngoại quốc, rất 

là cao. Người lính nào cũng gan dạ, thuần thục, một chống nổi mười nên đánh đâu thắng đấy. Nghe lời Ngô Thời 

Nhậm vua Quang Trung theo chính sách nhà Chu, nhà Hán lấy người đồng tính làm tay chân để giữ vững địa vị và 

chính quyền, do đó ngài phong cho con cả là Quang Toản làm Thái tử, Quang Thùy làm Khanh công, lĩnh Tiết Chế 

Bắc Thành thống xuất thủy bộ chư quân, Quang Bàn làm tuyên công, lĩnh Đốc trấn Thanh Hóa kiêm Tổng lý quân dân 

chính.  Bên cạnh ba vị hoàng tử này có các quân thần, danh tướng giúp sức. 

Quan Chế 

 Bộ máy triều đình có những quan chức như sau: Cấp trung ương: Tam công, Tam thiếu, Đại chủng tể, Đại tư đồ, Đại 

tư khấu, Đại tư không, Đại tư cối, Đại tư lệ, -- Thái úy, Ngự úy, Quán quân, Tham đốc, Tham lĩnh, Trung thư sảnh, 

Trung thư lệnh, Phụng chính, Thị trung đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Thị trung ngự sử, Lục bộ thượng thư, Tả, hửu 

đồng nghị, Tả, hửu phụng nghị, Tư vụ, Hàn lâm. Tại các trấn có: về võ có Trấn thủ, văn có Hiệp trấn. Tại mỗi huyện 

có: Võ phân suất, Văn phân tri, Tả quản lý, Hữu quản lý. Văn quan phụ trách binh lương, thuế khóa, từ tụng. Võ quan 

cai quản và thao luyện binh đội. Hành chính xã, thôn có: - Xã trưởng ,thôn trưởng, tổng trưởng (như chánh tổng đời 

nay). 

Các Địa Hạt Hành Chính Trong Nước 

 Tình hình chính trị, xã hội trong nước dưới triều Tây Sơn mới được ổn định hoàn toàn từ Đàng trong ra tới Đàng 

ngoài, tức là từ Trung Việt trở ra Bắc Việt. Còn miền Nam Việt bấy giờ thuộc Đông Định Vương Nguyễn Lữ nhưng vẫn 

luôn luôn bị quân Cựu Nguyễn (Nguyễn Ánh) đánh phá nên chưa sắp đặt, mở mang được bao nhiêu. Riêng về đất đai 

thuộc ảnh hưởng của Quang Trung thì phải kể từ Thuận Hóa ra Bắc. Vua Quang Trung cho Nguyễn Thiếp tức là La 

Sơn Phu Tử xây dựng lại Nghệ An một đô thành nữa gọi là Trung Đô. Nhà vua rời ra đó có ý muốn khống chế miền 

Bắc về chính trị cũng như quân sự. Trung đô thành lập xong thì Thăng Long đổi ra Bắc Thành, hẳn để người ta quên 

dần nhà Lê, một vương triều dài 360 năm đã đặt nhiều kỷ niệm sâu đậm trong lòng nhân dân. Bắc Hà từ đời nhà Lê đã 

chia ra 11 xứ (hay trấn): 1) Xứ Nam (Sơn Nam). 2) Xứ Đông (Hải Dương). 3) Xứ Bắc (Kinh Bắc). 4) Xứ Đoài (Sơn Tây). 

5) Xứ Yên Quảng (Hải Ninh). 6) Xứ Lạng (Lạng Sơn). 7) Xứ Thái (Thái Nguyên). 8) Xứ Tuyên (Tuyên Quang). 9) Xứ 

Hưng (Hưng Hóa). 10) Xứ Thanh (Thanh Hóa). 11) Xứ Nghệ (Nghệ An). Chín xứ trên được để nguyên vẹn, duy hai xứ 

Sơn Nam và Thanh Hóa có sự thay đổi như sau: A) Sơn Nam nay thành hai trấn: phía trên gọi là Nam hay Thượng 

trấn. Phía dưới giáp biển gọi là Nam Hạ hay Hạ trấn. Phố Hiến trước là sở lỵ của Sơn Nam, bây giờ là sở lỵ của Hạ trấn 

đóng ở Vị hoàng cách Phố Hiến vài dặm; còn của Thượng trấn thì đóng ở Châu Cầu tỉnh Hà Nam. B) Thanh Hoá cũng 

chia làm hai: nửa ra Bắc gọi là Thanh Hoá ngoại; nửa về Nam gọi là Thanh Hóa nội. Mỗi xứ (tức tỉnh) gồm có một số 

phủ, huyện và châu (nếu gần sơn cước), rồi mỗi phủ, huyện chia ra nhiều tổng, xã, nếu xã lớn thì chia thêm ra thôn. Kẻ 

chợ là thành Thăng Long trước đây nay gồm một phủ, hai huyện và mười tám phường. 

Thuế Khóa và Nông Chính  

Dưới đời Lê dân phải đóng một thứ tiền xâu dịch cũng có thể coi như là một thứ thuế dùng vào các việc đê điều, tạp 

dịch. Thuế này còn được gọi là "điệu" hay "điệu tiền". Nhà nước thu của dân rồi khi có việc tạp dịch lấy tiền này mà 

thuê mướn người làm. Đây là một thứ thuế bắt chước phép cố dịch của nhà Đường (618-906). Đến đời Quang Trung thì 

phép đánh thuế này bỏ đi có ý giảm bớt sự gánh vác cho dân. Từ năm có giặc Thanh sang nước ta (1788) loạn ly đã 

hại, dân lại mất mùa luôn luôn, thêm vào dịch lệ tràn khắp nơi dân chết quá nửa. Nhà nước phải đánh thuế vào các tư 

điền để lấy gạo, lúa. Trong giai đoạn này đinh thì ít, điền thì nhiều, nhiều nhà giàu bỏ ruộng không nhận để đỡ nộp 

thuế. Tập "Hân Các Anh Hoa" của Ngô Thời Nhậm có chép bài chiếu "Khuyến Nông" của vua Quang Trung nêu ra 

hai điều mà chính quyền đời bấy giờ lo lắng nhất là: 1) Sao cho ruộng đất xuất sản được nhiều.  2) Sao cho nhân khẩu 

gấp rút tăng gia để dân số chóng đông đảo. Đối với điều thứ nhất, vì ruộng bị bỏ hoang nhiều nên kém sinh sản 

lượng. Nhà nước ra lệnh cho những người di cư trốn tránh sưu dịch hay sang ở quê mẹ, quê vợ, hay vì đi buôn bán xa 

xôi nếu đã ngụ đâu thì trên ba đời mới được ở lại nơi đó, còn phải trở về sinh quán làm ăn. Những người này được lĩnh 

hay phải lĩnh ruộng đất để cầy cấy, không được từ chối. Các xã trưởng, thôn trưởng phải xem lại sổ đinh và điền thực 

sự có bao nhiêu. Hai thứ sổ sách này phải trình các viên phân suất, phân tri ở huyện đệ lên triều đình xét, rồi quan sẽ 

đến khám lại cho việc bổ thuế được công bằng. Nếu xã nào không cương quyết áp dụng lệnh hồi cư và thể lệ cư ngụ 

đều bị nghiêm trị. Nếu xã nào để ruộng hoang đến hạn mà chưa khai khẩn thì chức dịch phải chịu trách nhiệm nghĩa là 

chiếu theo ngạch thuế điền cũ mà nộp gấp bội. Ruộng tư khi đã sáp nhập vào hạng công điền thì thuế tính theo ngạch 

công điền. Các mệnh lệnh trên đây xét ra chỉ có mục đích đem lưu dân về làng cũ, khuyến khích và thúc đẩy các nông 

gia cầy cấy để xây nền thịnh vượng chung cho quốc gia mà thôi. Ruộng tư và ruộng công bấy giờ được chia làm 3 

hạng để chịu riêng mỗi hạng một thứ thuế. Công điền: Hạng nhất mỗi mẫu nộp: 150 bát thóc Hạng nhì mỗi mẫu nộp: 80 

bát thóc Hạng ba mỗu mẫu nộp: 50 bát thóc Cả ba hạng mỗi mẫu phải nộp một tiền quý về thuế thập vật và 50 đồng 

kẽm về thuế khoán kho. (mỗi bát nói đây độ nửa lít). Tư điền: Hạng nhất mỗi mẫu nộp: 40 bát thóc Hạng nhì mỗi mẫu 

nộp: 30 bát thóc Hạng ba mỗi mẫu nộp: 20 bát thóc Cả ba hạng mỗi mẫu phải nộp mỗi mẫu 30 đồng kẽm về thuế khoán 

kho, còn tiền thập vật theo như ruộng công trên đâỵ Ngoài thuế ruộng, triều Quang Trung cũng theo lệ cũ đánh 

những thứ thuế như dung tiền (thuế thân do chúa Trịnh đặt ra từ năm Quí Mão 1723 mỗi xuất là một quan hai tiền), 

cước mễ v.v... Năm Quang Trung thứ tư, trong nước khắp nơi đều được mùa vì mưa hòa gió thuận. Cuộc sinh hoạt đã 

bắt đầu đầm ấm, phát đạt tới nửa phần thuở thanh bình trước do chính sách ưu ái nhân dân của triều đình. Xin nhắc 

rằng nếu năm nào có tai trời ách nước, triều đình lại ra ân xá thuế, giảm tội cho dân chúng. Chính sách nhân hậu này 

của triều Tây Sơn được nhiều người ngoại quốc ca ngợi và minh chứng: tỉ dụ nhà du hành người Anh là ông Crawford 

đến viếng nước ta vào năm 1822 là năm vua Gia Long đã mất, và Minh Mạng lên ngôi được 3 năm. Ông chống hẳn lại 

những lời phê bình bất công của một số sử gia Tây phương đối với nhà Tây Sơn. Ông viết như sau: 

"Bảo rằng nhân dân khao khát dòng vua chính thống dược khôi phục như một số người Tây phương chỉ biết có tán 

tụng vua Gia Long chưa chắc đã đúng và triều Tây Sơn đâu có thất nhân tâm như thế. Tôi được một số nhà buôn 

Trung Hoa đã sinh sống lâu năm tại xứ này dưới quyền chúa Nguyễn và cả dưới quyền nhà Tây Sơn đoan chắc với tôi 

rằng các nhà cầm quyền Tây Sơn cai trị dân chúng còn công bằng và khoan hòa hơn nhà vua hiện tại (chỉ Minh Mạng 

và phụ vương của ngài là vua Gia Long)..." 

Việc Dùng Nhân Tài Việc Học và Khoa Cử 

Quang Trung Hoàng Đế tuy là một quân nhân thượng võ, múa gươm trên mình ngựa mà lấy thiên hạ, nhưng sau cuộc 

đại định cũng đã tỏ ra biết chú trọng đến nhân tài, văn hóa và chính trị. Trong các sự việc này nhà vua có nhiều sáng 

kiến đặc biệt phát sinh ở một tinh thần cách mạng và quốc gia rất sáng suốt và cấp tiến. Trong việc dùng người, nhà 

vua biết phục thiện nghĩa là nghe ai là kẻ tài giỏi hoặc hiền đức, nhà vua biết lấy lễ tân sư (vừa coi là khách vừa coi là 

thầy) để mời tham gia việc nước. Đó là trường hợp đối xử với Nguyễn Thiếp tức La Sơn Phu Tử, Nguyễn Đăng Trường, 

Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích v.v... Về việc học, nhà vua cho lập trường học từ ở các thôn xã trở lên, dùng đền, chùa 

làm nơi giảng dạy. Các Huấn đạo được cử đến đây để khuếch trương nền giáo dục. Dưới quyền các quan Huấn đạo là 

các nho sĩ lựa trong đám người có học và có hạnh. Khoa thi Hương được mở ra để lấy khóa sinh tú tài, hạng ưu được 

vào quốc học, hạng thứ cho vào xã học. Các ông Cống triều Lê cũng được đắc dụng, nếu chưa làm chức gì triều đình 

vời ra nhận các chức Huyện quan hay Huấn đạo. Các cựu nho sinh và sinh đồ phải đợi khoa thi, nếu là hạng ưu thì lấy 

đỗ, hạng liệt thì bãi về xã học. Còn loại sinh đồ mua bằng ba quan (đời Lê cần tiền đã có việc buôn quan, bán tước, 

việc học hành thi cử cũng thành chuyện thương mãi nên mất cả giá trị) thì cũng bị loại làm dân nghĩa là phải chịu 

những sự gánh vác các tạp dịch như mọi người chớ không được miễn như xưa. Đáng chú ý là việc trọng dụng chữ 

Nôm đã biểu lộ một tinh thần quốc gia mãnh liệt, một ý niệm cách mạng rất thực tế của vua Quang Trung, nghĩa là tuy 

trong khoa cử, học hành chữ Nho vẫn được dùng nhưng trong chiếu, biểu, sắc, dụ, thi phú, văn Nôm đã được đặc vào 

một địa vị quan trọng. 

Việc Đúc Tiền và Sự Thay Đổi Thái Độ với Mãn Thanh 

Vốn là con người có óc thực tế, vua Quang Trung sau khi lên ngôi liền nghĩ ngay việc đúc tiền bằng đồng để tiêu 

dùng trong nước và có sự thuận tiện trong việc thương mãi. Rồi đồng tiền "Quang Trung Thông Bảo" được thay 

đồng tiền Cảnh Hưng khắp chợ cùng quê. Năm Quang Trung thứ tư (1791) do cần chuẩn bị việc đánh Mãn Thanh, nhà 

vua đã cho đi thu hết các đồ bằng đồng tốt trong nước để đem làm binh khí và đúc tiền cho rộng tài nguyên. Nhà vua 

rất chú trọng đến việc khuếch trương kinh tế, thương mãi ra tới bên ngoài nên phái người sang điều đình với Mãn 

Thanh mở chợ ở Bình Thủy Quan thuộc tỉnh Cao Bằng và ở Du Thôn ải, tỉnh Lạng Sơn. Vua Quang Trung lại còn xin 

lập Nha Hàng ở phủ Nam Ninh thuộc tỉnh Quảng Tây cũng không ngoài mục đích đưa dân ta sang làm ăn buôn bán 

với Trung Quốc. Các điều yêu cầu trên đây được vua Thanh thỏa mãn cả, nhưng một việc nhà vua không hài lòng, dó 

là chuyện đòi bảy châu thuộc Hưng Hóa xưa. Vua Quang Trung lấy làm tức giận lắm và càng hăng hái trong ý chí vẽ 

lại mảnh địa đồ Việt Hoa để rửa cái hận nghìn thu trên Lịch Sử bị mất đất về phương Bắc. Nhưng trước khi tính chuyện 

đánh Thanh, nhà vua cho quấy rối nội địa Trung Quốc bằng cách lợi dụng đảng "Thiên Địa Hội" làm chuyện khiêu 

khích Mãn Thanh. Người của đảng chính trị này là những di dân, chí sĩ của nhà Minh thuộc giống Hán vốn bất phục 

triều Thanh bí mật tổ chức cơ quan này tính xoay lại thời thế. Các biên thần nhà Thanh tuy biết rõ Đại Việt có bí mật 

nhúng tay, nhưng cũng phải bấm bụng chịu vì thấy lực lượng quân sự của nước ta đang thịnh phát.

 Bãi Việc Cống Người Vàng 

Một quốc hận đáng kể cho người Việt từ đời Hậu Lê tới nay còn là một kỷ niệm chua cay, tức là việc cống người vàng. 

Nguyên trong cuộc kháng Minh vào ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi (1427) hai tướng của Bình Định Vương Lê Lợi là 

Lê Sát và Trần Lựu chém được Chính Lự tướng quân An Viễn Hầu Liễu Thăng của địch tại Mã Yên Sơn (làng Mai Sao, 

thuộc Ôn Châu tỉnh Lạng Sơn) nhà Minh lấy làm đau đớn lắm vì Liễu Thăng là một danh tướng của họ. Sau này hai 

nước mở cuộc giảng hòa, Minh triều đã bắt đền chúng ta phải đúc người vàng thế mạng cho viên tướng tử trận đó. 

Vua Lê Thái Tổ thấy dân tình đau khổ, nheo nhóc từ cuộc bại trận của nhà Hồ đến nhà Hậu Trần, rồi lại 10 năm chiến 

tranh vừa xong, trước sau ngót ba chục năm ròng, không muốn kéo dài thêm chiến họa e hao mòn dân số và tài 

nguyên quốc gia nên phải nhắm mắt chấp nhận điều kiện trên đây của Minh triều. Sau Tiền Lê đến Mạc và các vua Lê 

đời Trung Hưng cũng vẫn tiếp tục việc cống người vàng. Nhà Tây Sơn khi đã yên vị không chịu lệ này do đó vua 

Quang Trung có gửi thư cho Phúc Khang An xin bãi bỏ, vua tôi nhà Thanh phải nghe theo. Đi xa hơn nữa, năm Nhâm 

Tý tức Quang Trung thứ 5, nhà vua bắt đầu thi hành công chuyện nói trên. Ngài gửi cho bọn biên thần nhà Thanh hai 

bức thư liên tiếp nhờ đề đạt lên vua Càn Long ngỏ ý cầu hôn với công chúa Thanh và đòi đất Lưỡng Quảng để làm 

quốc đô. Sự thực nhà vua chỉ muốn làm một việc khiêu khích để lấy cớ khởi binh nếu Thanh đình bác bỏ lời yêu cầu 

của Đại Việt.  

Hai việc yêu sách105 của vua Quang Trung nêu trong tấu chương đều được đem ra đình nghị và đều được chuẩn cả: 

việc xin hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây thì vua Thanh ưng cho một, tức là cho tỉnh Quảng Tây để đóng đô. Việc 

cầu hôn được mỹ mãn hơn nghĩa là sau ngày tiếp Nam sứ tại _ Lương Các, vua Càn Long liền sai bộ Lễ sửa soạn nghi 

lễ cưới gả và định ngày cho Công chúa lên đường. Xem thế ta đủ hiểu thuở bấy giờ nhà Thanh đã nhượng bộ đến bực 

nào đối với Đại Việt ta. Tiếc thay sau đó mấy hôm thì sứ đoàn được tin vua Quang Trung mất vào ngày 29 tháng 7 

(Nhâm Tí 1792, miếu hiệu là Thái tổ Vũ Hoàng Đế)106. Câu chuyện khôi phục Lưỡng Quảng trên bản đồ của người Việt 

hay cuộc đánh chiếm Trung Quốc và cuộc nhân duyên Việt Hán từ đấy tan ra mây khói vì vua Quang Trung qua đời 

rồi thì nhà Thanh còn sợ ai nữa! 

4- Vua Chiêu Thống Bị Nhục Trên Đất Tàu 

Sau khi Tôn Sĩ Nghị bại trận chạy về Nam Ninh (Quảng Tây) Khang An đến thay Sĩ Nghị, vì đã có chủ trương giải hòa 

với nhà Tây Sơn nên cho người đưa vua Chiêu Thống về Quế Lâm cùng một số văn thần võ tướng là các ông Lê Duy 

Án, Đinh Nhạ Hành, Đinh Lịnh Dận, Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Phan Khải Đức v.v... Khang An cho Đinh Nhạ Hành giữ 

chức thủ bị Toàn châu, Phan Khải Đức làm Đô Tư Liễu Châu còn những người khác bị phân tán đi nhiều nơi. Duy chỉ 

vài người thân thần của nhà vua được ở lại. Tháng 4 năm Kỷ Dậu (1789) vua tôi nhà Lê vào yết kiến Khang An xin xuất 

quân về đánh quân Tây Sơn, Khang An tìm cớ khất quanh rồi khuyên nhà vua và các bề tôi nên cắt tóc thay áo theo 

Tàu để khi về nước, Tây Sơn sẽ không nhận được mặt. Vua tôi nhà Lê tin lời cho rằng việc binh cần phải biến trá, có 

ngờ đâu Khang An chỉ muốn mượn hình thức này để tâu lên vua nhà Thanh rằng: "Vua nước Nam là Lê Duy Kỳ 

không muốn xin viện binh nữa, đã gióc tóc, thay áo, sống theo người Tàu và xin ở lại đất Tàu". Vua nhà Thanh liền 

xuống chỉ bãi binh và triệu vua Lê lên Yên Kinh. Đến đây được mấy hôm, Đô thống Nhương Hoàng Kỳ là Kim Giản, 

phụng chỉ vua Thanh phong chức Tả lĩnh và trao mũ áo quan Tam phẩm cho vua Chiêu Thống. Nhà vua biết mình bị 

lừa đau đớn lắm bèn cùng bề tôi là Phạm Như Tùng, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích uống máu 

ăn thề, định sống chết thế nào cũng xin cho được viện binh mới nghe. Nếu việc này không xong thì xin cho hai tỉnh 

Thái Nguyên, Tuyên Quang để phụng thờ tổ tiên hoặc xin về nước hợp cùng Cựu Nguyễn ở Gia Định mưu việc khôi 

phục. Thấy thái độ quyết liệt của vua tôi nhà Lê, Kim Giản bàn với Hòa Thân di chuyển vua Chiêu Thống và các vong 

thần mỗi người đi một nơi. Việc này xảy ra vào năm Tân hợi (1791), kẻ đi Phụng Thiên, người đi Trực Lệ riêng Phạm 

Đình Thiện, Đinh Nhạ Hành ở lại hầu vua.                                        

 [105 Theo Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, sơ tập quyển 30, tờ 41b cũng như gia phả của họ Vũ thì có việc cầu hôn 

và đòi Lưỡng Quảng trên đây nhưng nhiều sách khác chép lại có vài chi tiết sau là khi sứ đoàn đến đất Tàu nghe được 

tin vua Quang Trung mất liền bỏ tờ biểu khiêu khích kể trên và đổi ra tờ biểu "CÁO AI" báo tin buồn cho Thanh đình 

biết. ] [106 Vua Quang Trung bị chứng huyết vận mà mất. (Huyết vận là chứng bệnh bị hoa mắt, choáng váng cả 

người) Sử chữ nho, theo Hoa Bằng chép: "... Một hôm vào buổi chiều đang ngồi chợt bị huyết vận..." ]

Một hôm vua Chiêu Thống cưỡi ngựa đến tư dinh Kim Giản để can thiệp về vụ các tùy thuộc bị lưu đày, nhà vua gặp 

Kim Giản vào chầu vua Càn Long ở vườn Viên Minh, lính canh gác không cho Chiêu Thống vào vườn, người đi hầu 

vua Lê là Nguyễn Văn Quyên thấy bọn lính Tàu vô lễ với chúa mình liền lấy gạch ném vào chúng và hết lời chửi rủa. 

Bọn lính xúm vào đánh Quyên chẳng bao lâu Quyên bị bệnh mà chết. Từ giai đoạn này trở đi, Chiêu Thống biết rằng 

hết trông cậy vào người Thanh, nên tuyệt vọng, thân thể cùng tinh thần mỗi ngày một hao mòn. Qua tháng 3 năm 

Nhâm Tí (1792) hoàng tử lên đậu mùa rồi chết. Nhà vua càng đau đớn thêm rồi thở hơi thở cuối cùng vào tháng 10 năm 

Quí Sửu (1793), thọ 28 tuổi. Nhà Thanh lấy lễ tước Công mà mai táng ở ngoài cửa Đông Trực. Sáu năm sau, tháng 11 

năm Kỹ Mùi (1799) đời vua Gia Khánh, Hoàng thái hậu cũng qua đời. Xét ra, trên Lịch sử vua Chiêu Thống là một ông 

vua xấu số nhất. Thuở ấu trí cha là Lê Duy Vĩ bị chúa Trịnh hạ sát, mẹ con bị cầm tù khá lâu đến khi lên ngôi thì bị 

cảnh quốc phá, gia vong rồi bị nhục trên đất Tàu cho tới lúc không còn gượng sống thêm được nữa.  

395 Việt Sử Toàn Thư 

Những Cuộc Chiến Tranh Cuối Cùng  Giữa Tân Nguyễn và Cựu Nguyễn 

1- Nguyễn Vương Quật Khởi (Tây Sơn Mất Gia Định)

 Sau cuộc bại trận tháng tư năm Ất tị (1785) tại Mỹ Tho cùng với quân Tiêm, Nguyễn Ánh chạy qua Vọng Các nương 

nhờ Quốc vương xứ này sau bao nhiêu phen đào vong qua các đảo Phú Quốc, Côn Lôn, Cổ Cốt, Panjang. Rồi Nguyễn 

Ánh gặp Giám mục Bá Đa Lộc cũng đi tị nạn tại một hòn đảo gần vịnh Komponsom. Vào tháng 2-1784, Giám mục bàn 

với Nguyễn vương nên cầu viện nước Pháp để gỡ nước cờ bí. Bấy giờ người Anh, người Hòa Lan, người Bồ Đào Nha 

cũng có ý giúp Nguyễn Vương, nhưng chúa Nguyễn đã theo lời Bá Đa Lộc. Cuối năm 1784 Giám mục mang Thế tử 

Cảnh xuống tàu đi Pondichéry (thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ) để qua Pháp.  Sứ đoàn rời Pondichéry vào tháng 7-1786 

và tháng hai năm sau đã bước chân lên đất nước Pháp. Giám mục đã hết lòng vận động giữa Pháp đình về việc giúp 

cho Nguyễn, điều này theo sự trình bày của Giám mục còn có lợi cho nước Pháp là chiếm được một thị trường quan 

trọng ở Á Châu, một đất dụng võ ở Viễn Đông và với Nam Hà, Pháp có thể ngăn cản bước tiến của người Anh ở địa 

phương này nếu hợp tác được với Tây Ban Nha đang làm chủ quần đảo Phi luật Tân, lại nữa giúp chúa Nguyễn sau 

này thành công thì việc truyền giáo cũng có nhiều tương lai ở xứ này. Vua Louis XVI liền ký hiệp ước tại Versailles 

ngày 28-11-1787 thuận giúp Nguyễn Vương 4 chiến hạm, 1750 sĩ quan và binh sĩ có đủ súng đạn (Điều 2) Giám mục 

thay mặt Nguyễn Vương nhận quyền sở hữu về cửa Hàn (Tourane) và đảo Côn Lôn sẽ thuộc cả Việt lẫn Pháp (Điều 5), 

nước Pháp được độc quyền thương mại trên khắp lĩnh thổ của Nguyễn Vương (Điều 4). Người Pháp được tự do đi lại 

và trú ngụ ở nước Nam, còn người ngoại quốc nào muốn nhập cảnh ở đây thì phải có sự chấp nhận trước của nước 

Pháp. Việt và Pháp lại tương trợ về quân sự mỗi khi hữu sự (Điều 8 và9). Trong khi Giám mục hoạt động ở Pháp thì 

Nguyễn Vương còn nương náu trên đất Tiêm đã giúp vua Tiêm đánh quân Miến Điện và Mã Lai vào cướp phá xứ này 

Nguyễn Vương được tin anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ lủng củng với nhau và quân của Nhạc ở Gia Định đã rút 

nhiều về Qui Nhơn, Nguyễn Vương liền cho người bí mật đến Hà Tiên cổ võ nhân tâm và tổ chức binh đội. Rồi 

Nguyễn Vương phải trốn về Nam Việt vào một buổi tối, sợ vua Tiêm giữ lại. Tháng 7 năm Đinh Vị (1787) quân Nguyễn 

đánh vào Long Xuyên có kết quả. Nguyễn Vương mạo một bức thơ để Nguyễn Lữ hiểu lầm thái độ của viên Trấn thủ 

Sài Côn là Phạm Văn Tham, lợi dụng sự nghi ngờ của tướng Tây Sơn, Nguyễn Vương chiếm Sa Đéc, Vĩnh Long rồi 

đóng quân ở Mỹ Tho dùng nơi này làm căn cứ. Ngày 7- 9-1788 Nguyễn-Vương đánh được Gia Định đuổi được tướng 

Phạm Văn Tham đang quyết tử giữ thành này. Từ giờ này trở về sau thành Gia Định nằm mãi mãi trong tay họ Nguyễn. 

Nguyễn Vương liền thi hành ngay ở đây chính sách định quốc an dân. Việc cờ bạc, đàng điếm, mê tín nhảm nhí đều 

cấm ngặt. các ngạch thuế khóa được đặt ra để lấy tiền nuôi quân đội và việc khẩn hoang, trồng trọt được thúc đẩy rất 

là mạnh mẽ. Mười hai Điền Tuấn quan trong đó có Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Chu, Lê Quang Định được cử ra để dạy 

bảo dân làm ăn cầy cấy. Thuế ruộng nộp bằng thóc. Ruộng đồng bằng nộp 100 cơ (mỗi cơ là 42 bát), ruộng đồi núi 

nộp 70 cơ trở lên. Binh sĩ cũng như phủ binh nộp đủ thì miễn cho một năm tạp dịch. Nhà nước cấp trâu bò và nông cụ 

cho ai quá nghèo rồi các thứ này được trả bằng thóc vào ngày mùa. Nguyễn Vương còn tổ chức các đồn điền ở những 

vùng cao nguyên. Khai khẩn ở đây là những đội gồm quân lính và dân chúng gọi là đồn điền đội, mỗi người phải nộp 

đồng niên 6 hộc thóc. Dân mộ được 10 người trở lên đi làm đồn điền thì cho làm cai trại và miễn sưu dịch. Nhờ có sự 

khôn khéo này Nam Kỳ xưa kia hoang vu dần dần trở nên trù phú, đông đảo và vui vẻ. Người ngoại quốc ra vào buôn 

bán tấp nập. Bấy giờ Nguyễn Vương chú ý rất nhiều đến việc mua các đồ đồng, sắt, gang, thép để làm quân khí và trả 

bằng ngũ cốc cùng đường cát. Nguyễn Vương đang gặp may thì nhều người Pháp do Giám mục Bá Đa Lộc chiêu mộ 

đã tới giúp. Nguyên hiệp ước Versailler tuy đã ký nhưng Pháp đình còn giao cho Toàn Quyền De Conway ở Ấn Độ 

nghiên cứu lại. Tướng De Conway phần vì không ưa giám mục, phần thấy chính giới Pháp có ý rụt rè về việc xuất quân 

bởi kém cả khả năng tài chính, ông ta lại sợ trách nhiệm nữa nên đã bác bỏ hiệp ước kể trên. Giám mục không còn cách 

nào khác hơn là xuất tài lực riêng của mình ra để chiêu binh, mộ tướng cho họ Nguyễn. Tháng 9-1788, các tàu Dryade, 

Garonne, Đại úy Cook và Moyse mang nhiều vũ khí đến Sài Côn và một số võ quan Pháp là: Olivier, Dayot, Vannier, 

Laurent Barizy, de Forsans phần nhiều sở trường về hải quân và tổ chức các ngành quân đội theo lối Âu châu. Xét ra 

Giám mục đã đóng vai trò một Bộ trưởng Chiến tranh và Ngoại giao rất đắc lực cho Nguyễn Vương. Từ giai đoạn này 

quân Gia Định mỗi ngày một mạnh bởi được chỉnh bị và cải tổ theo Tây phương về chiến thuật cũng như về chiến 

lược. Tháng 3 năm Quí Sửu (1793) thế tử Cảnh được lập làm "Đông Cung" lãnh chức coi Tả quân danh.  

2- Nguyễn Vương Tấn Công Vào Qui Nhơn Lần Thứ Nhất

 Được Gia Định làm căn cứ có đủ thóc gạo nuôi quân, ngay năm sau là năm Canh Tuất, vào tháng tư (1790) vương cho 

Lê Văn Câu là Chưởng Tiền Quân đem 5000 quân thủy bộ ra đánh thành Bình Thuận. Võ Tánh và Nguyễn Văn Thành 

về Gia Định. Lê Văn Câu ở lại giữ Phan Rí. Sau việc thất bại này Câu bị lột hết chức tước, lấy làm xấu hổ nên uống 

thuốc độc mà chết. Những việc xuất quân của Gia Định trên đây xét ra không lợi. Bấy giờ là tháng 7, gió Bắc thổi mạnh 

phải đợi gió thuận thủy quân mới đi đánh nhau được. Cuối mùa Xuân năm Nhâm Tí (1792) quân Gia Định, do các 

tướng Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành, Dayot, Vannier đem các chiến hạm, chiến thuyền ra đánh thủy quân 

cuả Tây Sơn ở Thị Nại (cửa Qui Nhơn) rồi bỏ về. Năm sau, Quý Sửu (1793) Thế tử Cảnh được chỉ định giữ Gia Định, 

Nguyễn Vương tự lĩnh thủy quân cùng bọn Nguyễn Văn Trương, Võ Tánh đánh vào Nha Trang, lấy hai phủ Diên 

Khánh và Bình Khang rồi tiến ra đánh phủ Phú Yên; trong khi này lục quân của Tôn Thất Hội, Nguyễn Huỳnh Đức và 

Nguyễn Văn Thành tấn công Phan Rí. Thủy quân Gia Định toàn thắng, nhưng lục quân Gia Định chỉ hạ được phủ Bình 

Thuận mà thôi. Vương liền gọi bọn Thành tiến lên cùng hợp sức đánh Qui Nhơn. Trước thế mạnh của Gia Định, tại Thị 

Nại, Nguyễn Nhạc sai Thái tử Nguyễn Bảo ra cầm trợ. Vương cho Võ Tánh, Tôn Thất Hội, Nguyễn Văn Thành đánh 

tập hậu, quân Tây Sơn thua to phải chạy về giữ thành Qui Nhơn. Thành này bị quân Gia Định phong tỏa rất là nguy 

ngập. Vua Thái Đức phải cho người ra Phú Xuân cầu cứu vua Cảnh Thịnh tức Nguyễn Quang Toản vừa lên kế vị 

Quang Trung (1792). Quân của Toản vào giải vây, Nguyễn Vương liệu sức chống không nổi viện quân liền rút hết 

binh sĩ về Diên Khánh (tức Khánh Hòa ngày nay) rồi trở lại Gia Định và giao cho Nguyễn Văn Thành giữ Diên Khánh, 

Nguyễn Hoàng Đức giữ Bình Thuận. Bọn Phạm Công Hưng giải vây cho thành Qui Nhơn xong thì vào lấy hết kho 

tàng và ra mặt chiếm đóng thành khiến vua Thái Đức uất lên, hộc máu mà chết. (Nguyễn Nhạc làm vua được 16 năm). 

Cảnh Thịnh phong cho Nguyễn Bảo tước Công, cấp lộc một huyện gọi là Tiểu triều rồi cử Lê Trung và Nguyễn Văn 

Huấn ở lại giữ Qui Nhơn. Tuy vậy Bảo vẫn giận và qua hàng Nguyễn Vương107. Cuộc chiến tranh giữa Tân Nguyễn 

và Cựu Nguyễn vẫn tiếp tục. Quân Nguyễn tuy thường thắng trận nhưng vẫn không chiếm được Qui Nhơn. Năm 1797, 

vua Cảnh Thịnh đem nhiều lực lượng đến bảo vệ Qui Nhơn. Nguyễn Vương phải bỏ việc tấn công thành này rồi mang 

quân đánh lén cửa Hàn, phá được nhiều chiến thuyền của Tây Sơn rồi rút về Sài Côn. Đầu 1798, Nguyễn Bảo đánh 

được vào Qui Nhơn báo tin cho Nguyễn Vương ra hợp sức, nhưng quân Nguyễn chưa ra kịp thì thành Qui Nhơn lại bị 

Phú Xuân tái chiếm và Bảo bị giết.

 3- Qui Nhơn Thất Thủ Lần Thứ Hai Và Thứ Ba   

 Đầu năm Giáp Dần (1794) như ta đã thấy Tây Sơn cho tướng Nguyễn Văn Hưng đem bộ binh vào đánh Phú Yên, Trần 

Quang Diệu vây thành Diên Khánh. Đông Cung Cảnh phải cầu cứu về Gia Định. Đại binh của Nguyễn Vương ra giải 

vây được thì Diệu rút quân về. Võ Tánh ra thay Đông Cung Cảnh để giữ Diên Khánh.                                        

[ 107 Theo C. B. Maybon. ]

Năm sau Diệu trở lại. Diên Khánh bị uy hiếp nặng nề, Nguyễn Vương lại đem thủy sư ra cứu. Lúc này giữa triều Tây 

Sơn, các đại thần bất hòa với nhau vì vua Cảnh Thịnh quá non nớt. Năm Ất Mão (1795) Thái sư Bùi Đắc Tuyên cho 

Ngô Văn Sở ra Bắc thay Võ Văn Dũng. Dũng về Phú Xuân đến trạm Hoàng Giang gặp Trung thư lịnh Trần Văn Kỷ 

phải tội bị đầy ra đây. Kỷ vốn được Dũng quý trọng đã xui Dũng về trừ Bùi Đắc Tuyên. Dũng nghe theo nên liền mưu 

với Phạm Công Hưng đem quân vây nhà Bùi Đắc Tuyên vào một đêm tối. Con Tuyên là Trụ đang ở Qui Nhơn cũng bị 

bắt nốt. Bọn Dũng còn lấy lệnh vua sai Tiết chế Nguyễn Quang Thùy giải Ngô Văn Sở về Phú Xuân. Những người 

này đều bị cáo làm phản và dìm xuống sông mà chết. Thế lực nhà Tây Sơn từ đấy sút kém hẳn. Năm Đinh Tị (1797) 

đánh không được Qui Nhơn, Vương để Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường ở lại giữ Diên Khánh. Ảnh hưởng 

của Gia Định vẫn chưa ra khỏi địa phương này. Năm Kỷ Vị (1799), Vương lại mang đại quân thủy bộ ra đánh Phú Yên, 

Qui Nhơn. Riêng thành Qui Nhơn cho đến bấy giờ rất là kiên cố, quân Nguyễn ra công mấy lần mà vẫn không lấy 

được. Năm ấy, Giám mục Bá Đa Lộc cùng Đông Cung Cảnh cầm đầu một đạo quân lớn đến bao vây phen nữa. Tháng 

tư Nguyễn Vương dẫn thủy quân đánh vào cửa Thị Nại. Hậu quân Võ Tánh và Hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức đổ bộ 

lên đóng ở Trúc Khê. Tiền quân có Nguyễn Văn Thành ra đánh Phú Yên rồi được lệnh đi tiếp ứng cho Võ Tánh. Ba 

đạo quân khác theo đường bộ, đạo thứ nhất có quân Lào hợp sức nhắm vào Thanh Hóa làm mục tiêu; đạo thứ nhì men 

theo bờ bể, đạo thứ ba đi con đường ngắn nhất đến Qui Nhơn, nối tiếp với các đạo quân đang đổ bộ. Các đồn Tây 

Sơn thuộc tiền tuyến bảo vệ thành Qui Nhơn bị mất dần vào tay các tướng Lê Văn Duyệt và Võ Tánh. Triều đình Phú 

Xuân cho Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem binh vào cứu nhưng đến Quảng Ngãi thì Tây Sơn bị quân của 

Nguyễn Văn Thành ngăn lại ở Thạch Tân. Đạo quân của Vũ Văn Dũng đến Chung Xá cũng ngừng lại, đêm tới có 

người trông thấy con nai trong rừng lạc ra liền reo lên: Con nai! Quân Tây Sơn nghe lầm ra là: Quân Đồng Nai! liền bỏ 

chạy vỡ tan hết, Quân Nguyễn cứ thế đuổi đánh. Trấn thủ thành Qui Nhơn lâu không thấy viện binh của mình đến 

lương thực lại cạn sạch đành mở cửa ra hàng. Nguyễn Vương đổi tên Qui Nhơn ra Bình Định từ đó. Qui Nhơn bị mất, 

vua Cảnh Thịnh lại cho đại binh vào đóng ở Trà Khúc (Quảng Ngãi) tính đánh lấy lại Qui Nhơn nhưng vì trái mùa gió 

không dùng được thủy chiến phải rút về. Nguyễn Văn Giáp được lệnh ở lại Trà Khúc, Trần Quang Diệu và Vũ Văn 

Dũng giữ Quảng Nam. Về phía quân Nguyễn, một phần rút về Gia Định, một phần lại giữ Bình Định. Thành này được 

đặt dưới quyền Phò mã Võ Tánh và Ngô Tùng Chu. Trong dịp này vì trải nhiều vất vả, gian lao lại thêm thủy thổ bất 

phục Giám mục Bá Đa Lộc bị bệnh lỵ mà chết tại Thị Nại ngày 9-10-1799. Xác người được đưa về mai táng rất trọng thể 

ở Tân Sơn Hòa (Gia Định) và Giám mục được truy tặng tước Thái Phó Bí Nhu Quận Công. 

Tuy mất Qui Nhơn, Tây Sơn vẫn không thoái chí nên đần năm sau (1800) Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng lại mang 

đại quân vào bao vây ở thành Qui Nhơn. Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành, Văn Dũng đem hai chiếc tàu lớn 

và 100 chiến thuyền nhỏ ra đóng giữ cửa Thị Nại, đặt các hải đồn và đại bác quay ra mặt biển để phòng quân Nam ở 

ngoài khơi tiến vào. Trước một lực lượng quá hùng hậu lại do danh tướng chỉ huy, Võ Tánh cố thủ chờ quân Gia định 

ra tiếp sức. Lúc này Nguyễn Vương cử Nguyễn Văn Thành, Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc, Trương Tiến Bảo lĩnh ba đạo 

quân đánh vào Phú Yên rồi kéo ra đóng ở Thị Dã (thuộc Bình Định). Còn Ngài dẫn thủy quân tính phá Thị Nại. Kế 

hoạch này không có thực hiện được vì quân thủy bộ không liên lạc được với nhau. Một năm qua, tháng Giêng năm 

Tân Dậu (1801) quân Nguyễn do Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương, Lê Văn Duyệt, Võ Duy Nguy lại tấn công 

cửa Thị Nại, đốt được nhiều tàu, thuyền của Tây Sơn, khiến Vũ Văn Dũng phải chạy về hợp sức với Trần Quang Diệu; 

vòng vây của quân Tây Sơn lại càng xiết chặt vào thành Bình Định, rồi Võ Tánh cùng Ngô Tùng Chu hết lương thực, 

quân nhu tự sát, Võ Tánh làm lầu bát giác, chất cỏ rơm và thuốc súng ở dưới và tự hỏa thiêu, Ngô Tùng Chu cũng 

không ham sống, tử tiết bằng chén thuốc độc. Trần Quang Diệu vào Bình Định, chiếu theo lời khẩn cầu của Võ Tánh 

đã tha chết cho mọi phần tử quân dân trong thành và làm lễ mai táng rất trọng thể cho hai kẻ chiến sĩ biết nêu cao 

gương tiết liệt. 

4- Phú Xuân Đổi Chủ (15-6-1801) 

Trong khi thành Bình Định lâm vào tình thế tuyệt vọng, Nguyễn Vương đã gởi mật thư bảo Võ Tánh lén bỏ thành này 

thì trái lại Võ Tánh đã khuyên vương nên lợi dụng lúc đại quân của Tây Sơn bị cầm chân ở Bình Định mà đánh úp Phú 

Xuân, Nguyễn Vương nghe theo để Nguyễn Văn Thành ở lại chống nhau với Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, còn ngài 

đem thủy sư đánh vào cửa Tư Dung. Thủy sư của Vương gồm có 6 chiếc tàu Âu Châu do Vannier, Chaigneau, Forsans 

và De Barisy chỉ huy với một đạo quân đổ bộ 15.000 người. Ngày 11-6-1801 quân Nguyễn chia ra làm hai cánh tiến vào 

cửa sông Hương vừa tầm súng đại bác trên hải đồn. Các tàu và các pháo thuyền lớn chặn ngay cửa Hữu; 45 chiến 

thuyền có mái chèo và 300 chiếc pháo thuyền nhỏ chặn ở cửa Đông. Thủy quân của Nguyễn bị hỏa lực của Tây Sơn 

đẩy lui. Vương hạ lệnh cho binh sĩ lên bộ ngay khi đạn của Tây Sơn bắn rất ráo riết. Phò mã Nguyễn Văn Trị xông ra 

tính bắt sống hết đám thủy quân này thì bị Lê Văn Duyệt và Lê Chất đánh bọc hậu. Trị mất hết liên lạc với căn cứ phải 

bỏ chạy nhưng chưa quá vài trăm thước đã bị bắt. Ba giờ sau Nguyễn Vương đã đứng trước kinh đô Phú Xuân, và 

ngày 15-6 là hai hôm sau Vương mới chính thức nhập thành. Lúc này vua Cảnh Thịnh và một số cận thần chạy được ra 

Bắc. Lê Chất đem bộ binh đuổi theo. Sự thất bại của vua tôi nhà Tây Sơn (Cảnh Thịnh) đã chỗ vua thì nhỏ tuổi, các đại 

thần ghen ghét và tìm cách hại nhau, việc chính trị không ai ngó tới. Dân chúng trước tình trạng này mất cả tin tưởng 

và cảm tình, phần bị chiến tranh liên miên nên kiệt quệ mà sinh biến ở nhiều nơi, các tín đồ và đạo trưởng đạo Thiên 

Chúa cũng nổi lên; ở Thanh Hóa có Tù trưởng Mường là Hà Công Thái đánh phá, ở Nghệ An có tướng Nguyễn là 

Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phúc Tường đem quân Vạn Tượng sang khiến tình thế của Tây Sơn thêm bấn loạn. 

5- Nguyễn Vương ra Bắc Hà 

Đầu tháng 7-1801, vua Cảnh Thịnh đổi niên hiệu ra Bảo Hưng rồi truyền hịch đi các trấn lấy thêm binh sĩ. Em là 

Nguyễn Quang Thủy được cử vào giữ Nghệ An. Tháng 11, vua Cảnh Thịnh đem quân 4 trấn ngoài Bắc và quân 

Thanh, Nghệ cả thảy ngót 30.000 vượt sông Linh Giang, 100 chiến thuyền vào đóng ở cửa Nhật Lệ. Nữ tướng Bùi Thị 

Xuân, vợ Trần quang Diệu cũng đem 5000 quân đi theo. Nguyễn Vương thân ra chỉ huy chiến cuộc, Chưởng Trung 

Quân Bình Tây đại tướng quân Nguyễn Văn Trương dẫn thủy quân ra giữ Linh Giang thấy quân Tây Sơn mạnh phải 

rút về Đồng Hới. Nguyễn Vương phải tới trợ chiến. Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thưởng giữ mặt bộ. Tháng giêng 

năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Quang Thủy tiến đánh lũy Trấn Ninh nhưng không có kết quả. Vua Cảnh Thịnh toan 

lui quân nhưng Bùi Thị Xuân thúc voi vào trận cương quyết tiếp chiến hùng dũng và gan dạ phi thường. Trận đánh 

diễn ra từ sáng đến tối chưa ngã ngũ bề nào thì có tin của thủy quân của Tây Sơn bị thua ở cửa Nhật Lệ, quân Tây 

Sơn liền mất ngay tinh thần. Vua Cảnh Thịnh bỏ chạy ra Bắc. Ngày 15-2-1802, Nguyễn Vương về Phú Xuân để 

Nguyễn Văn Trương giữ Đồng Hới và cho Lê Văn Duyệt vào đánh lấy lại Qui Nhơn. Trần Quang Diệu và Vũ Văn 

Dũng nghe quân mình bị bại ở Trấn Ninh, tháng 3 năm ấy bỏ thành Qui Nhơn rồi qua đường núi Ai Lao ra Bắc tính hội 

với vua Cảnh Thịnh. Tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Vương lên ngôi, đổi niên hiệu Cảnh Hưng ra Gia Long 

nguyên niên. Xét ra từ giờ phút ấy Vương khôi phục xong Phú Xuân, thâu lại được vùng Linh Giang vào đến Gia Định, 

thế là hoàn thành được sự nghiệp như ông cha thuở trước. Giờ đây quân Nguyễn chỉ còn việc truy kích vua tôi nhà 

Tây Sơn. Bọn Trần Quang Diệu chạy ra Bắc đến châu Qui Hợp, xuống huyện Hương Sơn thì thấy Nghệ An đã mất 

cùng Bùi Thị Xuân liền chạy qua huyện Thanh Chương. Binh sĩ bấy giờ đã thất tán hết. Được ít lâu hai vợ chồng bị 

bắt. Vũ văn Dũng ra đến Nông Cống cũng bị một số phận như Diệu. Quân Nguyễn cứ rong ruổi ra Thanh Hóa, không 

còn gặp một sự kháng cự nào hết. Rồi đến lượt vua Tây Sơn cùng hai anh em là Quang Thùy, Quang Thiệu, Đô đốc 

Tú, Nguyễn Văn Tứ trốn tới huyện Phượng Nhỡn tỉnh Bắc Giang cũng bị bắt nốt. Riêng Quang Thùy, vợ chồng Đô 

đốc Tú tự vẫn được. Các phạm nhân của Nguyễn Vương đều bị mang về làm lễ hiến phù ở đền Thái miếu vào tháng 7 

năm Nhâm Tuất (1802) rồi bị lăng trì (tội nhân bị xẻo thịt, đây là một hình phạt dã man nhất của đời phong kiến). Còn 

vợ chồng Trần Quang Diệu cũng bị xử tử hình: bà Bùi Thị Xuân và con gái hãy còn nhỏ tuổi, bị voi giày, (theo sử 

Pháp). Diệu có lẽ bị chém, riêng mẹ già của Diệu đã 80 tuổi được tha, vì Diệu đã không sát hại quân dân thành Qui 

Nhơn theo lời yêu cầu của Võ Tánh trước khi tử tiết năm Tân Dậu (1801). Mả vua Thái Đức và Thái tổ Nguyễn Huệ 

cũng bị quật lên, thây bị vứt đi, còn đầu bỏ vào chum giam vào ngục tối. Bọn văn thần của nhà Tây Sơn như Ngô 

Thời Nhậm, Phan Huy Ích ra hàng bị nọc đánh trước nhà Văn Miếu (Bắc Thành) rồi tha về. Riêng Ngô Thời Nhậm bị 

Đặng Trần Thường có hiềm riêng cho đánh đến chết... 

Nhà Tây Sơn khởi đầu từ năm Mậu Tuất (1778) đến năm Nhâm Tuất (1802) thì cáo chung, được tất cả 24 năm. Trong 24 

năm nhà Tây Sơn không ngơi tay đánh Đông dẹp Bắc nên sự nghiệp về nội trị không được là bao nhiêu. Nhưng nếu 

vua Quang Trung không sớm mất thì nhà Tây Sơn không phải chỉ để một số công vĩ đại trên Lịch sử là đuổi quân xâm 

lăng nhà Thanh mà thôi. Ví con người lỗi lạc, thông minh giàu sáng kiến và đảm lược ấy sống thêm ít năm nữa thì 

chính tình nước ta và cục diện Đông Nam Á rất có thể thay đổi lớn. Mông Cổ vào làm vua đất Tàu, người Mãn ngự trị 

Hoa tộc, với Nguyễn Huệ chưa quá 7 ngày đã dẹp tan được 20 vạn quân Thanh, ai bảo rằng dân tộc Việt Nam sẽ 

chẳng có phần ăn nói trên lục địa của con cháu Hoàng đế. Tiếc rằng Thái Tổ qua đời, sau này con cháu bất tài, đại 

thần tướng lĩnh chia rẽ, nên triều đại Tây Sơn đã tàn tạ một cách bi thảm mở đường cho triều Nguyễn nổi lên được do 

sự giúp đỡ của Tây phương, nhưng nửa thế kỷ sau lại chìm đắm trong vòng lệ thuộc cũng do Tây phương mà ra.   

402 Việt Sử Toàn Thư 

 Phần 3 - Chương 21 Người Âu Châu Sang Việt Nam 

 - Việt Nam dưới con mắt của người Pháp. 

- Việc giảng đạo Thiên Chúa tại Việt Nam.  

1- Việt Nam Dưới Con Mắt Của Người Pháp

 Âu Á cùng chung một lục địa nhưng từ thế kỷ thứ III, năm 226 sau C.L. đã có người La Mã đi qua nước ta (khi đó còn 

gọi là Giao Chỉ) để sang nước Ngô, rồi tới thế kỷ VII có ít người theo đạo Cảnh Giáo (Nestoriens) mà người thứ nhất 

tên là Olopen đã từ Ba Tư đến kinh đô Hoa Lư của vua Đinh Tiên Hoàng. Đến thế kỷ XIII, phái viên của chúa Mông 

Cổ là Marco Polo người Ý (nguyên quán ở thành Venice) cũng có lần đi công cán qua Việt Nam cho tới thế kỷ XV 

Chritophe Colomb tìm được Châu Mỹ, Vasco de Gama lần được qua Hải Vọng Giác (Cap de Bonne espérance) sang Ấn 

Độ Dương và qua cả Thái Bình Dương. Từ đó về sau người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hòa Lan tranh nhau sang Á 

Châu lập thị trường và chiếm đất làm thuộc địa (Bồ đến Áo Môn ở bờ biển Trung Quốc (1563), Tây Ban Nha chiếm 

quần đảo Phi Luật Tân (1568), Hòa Lan lấy đất Chà Và (1596) sau đó Anh và Pháp ló mặt ở Ấn Độ). Rồi nhiều người 

Tây phương từ thế kỷ XV, XVI và XVII đã biết đến nước ta trong thời Nam-Bắc phân tranh. Họ tới xứ ta để mở mang 

việc thương mại và cũng để lo thực hiện chủ trương đế quốc bởi lúc này dân tộc Á Đông chúng ta quá lạc hậu. Năm 

1614 một người Bồ Đào Nha tên là Jean de la Croix đến Thuận Hóa mở lò đúc súng giúp chúa Nguyễn. Một ít kỹ thuật 

gia Bồ còn dạy người Đàng Trong đóng tàu theo lối Âu Châu và tổ chức cả binh đội cho Nam Hà... Những người Pháp 

đầu tiên đặt chân tới Việt Nam gồm hai loại: các nhà buôn và một số giáo sĩ trong đó người nổi danh hơn cả là giáo sỉ 

P. Alexandre de Rhodes. Sau một thời gian lưu lại Việt Nam, giáo sĩ trở về Pháp (1649) cho in tấm bản đồ đầu tiên của 

xứ An Nam, cuốn tự điển Việt--La Tinh--Bồ Đào Nha, và kế đó, vào năm 1652 cuốn Sử Ký Bắc Hà bằng tiếng La Tinh 

cũng được xuất bản... Sau khi công ty của Pháp tại Ấn Độ được thành lập, viên giám đốc Franẫois Caran đã soạn thảo 

một kế hoạch đầy đủ với tham vọng tôn tính thị trường tại Viễn Đông. Vào năm 1666, củng cố địa vị tại vùng đảo Java 

xong, F. Caran có ý định mở một chuyến viễn du qua Nhật Bản rồi sẽ tới xứ Nam Hà để đặt cơ sở thương mại tại đây. 

Rủi thay, hoài bão đó không được thành tựu vì trong khoảng 1665 và 1667 nước Pháp gặp nhiều thất bại tại đảo 

Madagascar. Năm 1678 một người Pháp tên là Boureau-Deslandes vào yết kiến chúa Trịnh ở Bắc Hà, dâng một bức thư 

của vua Louis XIV xin cho các giáo sĩ Pháp được vào giảng đạo tại Việt Nam. Năm 1682, giám mục Metellopolis và 

Lanneau tới Huế gặp chúa Hiền Vương và làm quà cho ngài hai cỗ đại bác. Hai năm sau, công ty Ấn Độ phái một 

người Pháp tên là Chappelier ra Bắc. Tại đây ông này đã lập một cửa hàng. Nhận xét về xứ này, Chappelier viết: "Đất 

đai phì nhiêu, dân tình hiền hòa và có thiện chí buôn bán với ngoại quốc". Năm 1686 một người Pháp tên là Verret 

được phép mở thương điếm ở cù lao Côn Lôn. Y báo cáo về cho Công ty, như sau: "Cù lao không có dân cư ở, có 

nhiều đồ gia vị, cù lao chính có ba hải cảng tốt..." Tuy nhiên báo cáo trên không được Công ty lưu tâm tới vì gặp 

những khó khăn liên tiếp về mặt tài chánh của Pháp thuở đó do chiến tranh gây ra. Mãi tới năm 1721, Công ty mới bắt 

đầu nghiên cứu những dự án về Nam Hà. Từ giai đoạn này trở đi một ít người Hòa Lan, Bồ Đào Nha đã cho tàu cập 

bến cửa Thái Bình và cửa Luộc để giao dịch với vua chúa cùng dân chúng Bắc Hà. Họ được phép lập hiệu buôn ở Kẻ 

Chợ và Phố Hiến (Việt Sử Tân Biên quyển 3 đã nói đến). Năm 1721, viên toàn quyền Pondichéry là Pierre Lenoir phái 

Renault sang Nam Hà để quan sát tình hình, và khác với Verret, ông này ít chú ý tới cù lao Côn Lôn. Renault cho rằng 

chính trong đất liền mới có nhiều điều đáng kể. Vào năm 1723 Công ty gặp cơn khủng hoảng và không sao tiến lên 

được tới mức bình thường để duy trì các cơ sở cũ. Từ đó về sau, Công ty luôn luôn nghĩ đến Bắc và Nam Hà, đồng 

thời các chuyến tàu đặc biệt thường hay ghé vào các xứ này. Năm 1737 viên toàn quyền Pondichéry là Dumas gửi một 

bản phúc trình cho ban giám đốc Công ty nói về xứ Bắc Hà. Dumas nhận xét: "Xứ Bắc Hà đất đai phì nhiêu, khí hậu tốt 

lành và đặc biệt, gần Trung Quốc có nhiều mỏ đồng và nhiều đồ gia vị". Rồi Dumas giao cho De la Baume, một người 

đã từng sống lâu năm ở Nam Hà, khảo xét về những thổ sản của xứ này. Nhưng mọi việc đều không đưa tới kết quả 

mong muốn. Vào năm 1748, Công ty phái một nhân viên tên là Dumont tới miền Trung, ông này mở cửa hàng ở Hội An 

với ý định biến cửa bể này thành một trung tâm thương mại. Năm 1749 một người Pháp tên là Pierre le Poivre sang Nam 

Hà, vào cửa Hội An, xin yết kiến chúa Nguyễn và dâng tờ quốc thư cùng phẩm vật để tỏ tình giao hiếu của hai nước. 

Chúa Nguyễn cũng đáp thư lại, thuận cho người Pháp vào thông thương và được quyền mở thương điếm ở cửa Hội 

An. Sau này những chuyến viễn du của Bennelat, của giáo sĩ d'Eucarpié, của tu sĩ Saint Phalle tới Việt Nam cũng đều 

có ý xem xét tình hình Việt Nam về mọi phương diện. 

Vào 1753, Prolias-Leroux đề nghị mở một cửa hàng tại đảo Côn Lôn. Nhưng vì cuộc chiến tranh "Thất Niên" đem lại sự 

thất bại cho Pháp tại Ấn Độ nên Công ty này bị tan rã (1769) khiến dự định trên không được thành tựu. Vào cuối đời 

Louis XV, chương trình thiết lập cơ sở tại Việt Nam lại được đem ra nghiên cứu một lần nữa. Sau khi trình bày sự bành 

trướng và uy thế của Anh Cát Lợi tại Á Châu, một người Pháp tên là De Rothé cho biết: "Cho đến bây giờ chỉ còn Nam 

Hà nằm ngoài vòng ảnh hưởng của Anh Cát Lợi; nếu họ quyết định trước ta, thì chẳng bao giờ ta còn có thể đặt chân 

tới xứ này được nữa". Xem các sự kiện đã kể trên, ta thấy nước Pháp cũng như nhiều nước Âu Châu đã thèm muốn 

nước ta rất nhiều và từ lâu chẳng cần phải có việc cáo tỏ của giám mục Bá Đa Lộc sau này hoặc có việc vua Gia Long 

khi còn là chúa Nguyễn Ánh yêu cầu họ mang binh sang nước ta. Việc xâm chiếm Việt Nam vào đời Tự Đức đối với 

nước Pháp nếu so với hành động thực dân của các nước Tây phương khác chỉ là lẽ tự nhiên phải xảy ra. Nếu sự việc 

này tới muộn là bởi Pháp chưa có hoàn cảnh thuận tiện từ hai thế kỷ trước mà thôi. Ngoài những thương nhân có ảnh 

hưởng đến thời cuộc Á Đông, phải kể cả một số giáo sĩ nữa, vì họ đã hoạt động không riêng gì cho tôn giáo. 

2- Đạo Thiên Chúa 

Xưa kia Âu Châu là một nơi có nhiều tôn giáo khác nhau. Dân tộc nào cũng có thần thánh riêng để thờ phụng, lấy các 

hiện tượng trong trời đất để tưởng tượng ra các thánh thần rồi làm các đền đài vĩ đại để cúng vái. Dân Hy Lạp, La Mã 

thờ thần Jupiter (Thái Dương), thần Apollo (thần Ánh Sáng). Riêng Do Thái thờ Jéhovah ở Jérusalem, tin rằng vị thần 

này sinh ra loài người và muôn vật trong vũ trụ. Khi La Mã làm chủ được cả đất Tiểu Á-Tê-Á và Tây Âu, đạo Do Thái 

trở nên suy tàn. Lúc này chúa Gia Tô108 ra đời lập ra thuyết trong trời đất chỉ có Thượng Đế là cao siêu, là vĩ đại, là 

nhân từ hơn cả. Thượng Đế đây tức là Chúa Trời có ba ngôi: ngôi thứ nhất là Cha, ngôi thứ hai là Con và ngôi thứ ba là 

Thánh Thần. Tuy chia ra ba mà vẫn là nhất thể. Chúa Trời cho con xuống thế làm người chịu đủ điều cực hình, khổ 

nhục để chuộc tội cho Nhân loại. Chúa Gia Tô khuyên người ta kính Chúa (Trời) và mến người, chỉ làm những điều ân 

ích và trút bỏ mọi oán hờn, ghen ghét. Công tội sau này sẽ được Chúa phán xét để lên Thiên Đường hay xuống địa 

ngục đời đời, kiếp kiếp... Từ đời bạo chúa Néron cho tới các đế vương sau, đạo Thiên Chúa bị triệt hạ cấm đoán nhiều 

lần nhưng sau đến năm 325 đời vua La Mã Constantin do chỉ dụ Milan, đạo này được tự do truyền bá. Tuy vậy cho tới 

thế kỷ XVIII đạo Thiên Chúa còn gặp nhiều trở lực và phải tranh đấu rất nhiều với các đạo giáo khác mới tồn tại được 

đến ngày nay để thành một giáo lý được tin tưởng nhiều nhất ở các nước Tây phương. Đạo Gia Tô đã lần sang Á 

Đông trước thế kỷ thứ IV sau T.C. qua Ba Tư, qua đảo Socotora, Tích Lan, Malabar, Tartaria và Trung Quốc. Những 

giáo sĩ đầu tiên trên đất Việt Nam là những ai?                                        

[ 108 Đạo Thiên Chúa còn gọi là đạo Gia Tô bởi chữ Gia Tô phiên âm ở chữ Christ mà ra. ]

405 Việt Sử Toàn Thư 

Họ là những người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha... tu sĩ cũng như lái buôn đều tự cho mình là những tên lính tiên phong 

cảm tử đi mở việc buôn bán với Á Châu để làm giàu cho xứ sở mình và đem đức tin Công Giáo đến với những người 

không tín ngưỡng ở khắp nơi trên thế giới. Hạt tiêu và linh hồn, đó là mục đích của những cuộc mạo hiểm vô cùng táo 

bạo của họ. Đạo Công Giáo đến nước ta vào đời Hậu Lê, giữa lúc nền thống nhất của Việt Nam bị tan rã do sự tranh 

giành quyền lợi của các ông chúa phong kiến Mạc -- Trịnh -- Nguyễn. Theo Khâm Định Việt Sử, từ năm Nguyên Hòa 

nguyên niên đời vua Lê Trang Tông (1532-1533) khi giáo sĩ dòng Franciscan đến xứ Bắc đã có một người Tây Dương 

là I-Ni-Khu đi đường bể lén vào giảng đạo Thiên Chúa ở làng Ninh Cường, làng Quần Anh, huyện Nam Trực, làng Trà 

Lũ huyện Giao Thủy thuộc các tỉnh Nam Định, Thái Bình và Ninh Bình. Sau đó các giáo sĩ P. Busomi đến Nam Hà vào 

năm Ất Mão (1615) đời chúa Sãi, giáo sĩ Jean Rhodes đến giảng kinh Phúc Âm ở Phú Xuân, giáo sĩ Baldinoti vào xứ 

Bắc năm Bính Dần (1626) đời vua Lê Thần Tông, v.v... Trong thuở sơ khai các giáo sĩ nhờ vào các thương gia mới có 

tàu bè qua Á Đông. Đầu thế kỷ XVII việc triều đình truyền giáo đã được tổ chức đầy đủ và tiến mạnh dần. Áo Môn 

(một địa điểm duyên hải của tỉnh Phúc Kiến) bấy giờ trở nên một trung tâm cho việc truyền bá đạo Thiên Chúa và là 

nơi phân phối các giáo sĩ đi các xứ Á Đông do người Bồ Đào Nha cầm đầu. Đáng chú ý là sự mở mang Đế Quốc của 

Liệt cường Tây phương và việc bành trướng đạo Thiên Chúa cũng song hành đều nhịp, liên hệ với nhau, nên người Á 

Đông sau khi thấy nhiều dân tộc da vàng bị nô lệ hóa đã nhìn người Tây phương bằng con mắt căm hờn, với đạo 

Thiên Chúa họ cũng nghi ngờ về phương diện chính trị. Quả vậy, một số giáo sĩ đã là mật báo viên cho Hoàng Đế Tây 

Ban Nha và Pháp. Họ không thể làm khác hơn được bởi họ phải dựa vào quyền lực và sự cung cấp của Hoàng Đế 

Pháp-Tây Ban Nha mới có phương tiện qua Á Đông làm nhiệm vụ cao cả của họ. Rồi do sự cạnh tranh chính các nhà 

buôn cùng giáo sĩ của các nước Tây phương đã tố cáo nhau, dèm pha nhau nên các vua chúa của ta nghi ngờ họ là 

phải lắm. Đây là một trong nhiều nguyên nhân về việc bài đạo và giết đạo mỗi ngày thêm khốc liệt khiến lịch sử Công 

Giáo Việt Nam đã đầy huyết lệ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Buổi đầu trong thời Nam-Bắc triều, sau là thời Nam-Bắc 

phân tranh vua chúa Nam, Bắc Hà tỏ có nhiều cảm tình với các giáo sĩ. Thực ra không phải vì hâm mộ một đạo giáo, 

mặc dầu đạo giáo này có chủ trương Bác Ái, Nhân Hòa nhưng vì các vua chúa muốn lợi dụng các giáo sĩ để liên lạc 

với các nước Tây phương hòng có những kỹ thuật gia giỏi về quân sự, tài đóng tàu chiến, đúc súng đồng, đạn dược 

và mua được nhiều khí giới để hạ thủ đối phương. Tới khi không lợi dụng được như ý muốn lại thấy người Tây phương 

chinh phục được nhiều nước ở Á Châu, các vua chúa sinh ra e sợ rồi quyết liệt thi hành chính sách bài đạo và bế quan 

tỏa cảng. 

Từ năm Tân Tỵ (1631) trong Nam dưới đời chúa Thượng ngoài Bắc dưới đời Cảnh Hưng (1754) đã nổi lên nhiều phong 

trào giam cầm bắt bớ và giết tróc các đạo trưởng Tây phương cùng các tín đồ. Các giáo sĩ bị hại ở Bắc Hà nhiều hơn vì 

vua Lê, chúa Trịnh gần như thất bại trong việc kêu gọi người Tây phương đến giúp mình. Một căn nguyên khác 

không kém phần quan trọng trong việc bài đạo là chỗ đạo Thiên Chúa bị hiểu lầm là một tà đạo, nghịch với thuần 

phong mỹ tục bản địa. Chính quyền cho kẻ theo đạo là những kẻ đi ngược với luân thường, bỏ rơi tiên tổ, khinh mạn 

vua quan, tóm lại tôn giáo này bị coi là có thể làm đảo lộn trật tự của xã hội đương thời từ gia đình ra tới ngoài đại 

chúng.  

 Phần 3 - Chương 22  Nhà Nguyễn (1802-1945) 

- Gia Long (1802- 1820) -Minh Mạng (1820- 1840) - Thiệu Trị (1841- 1847) - Tự Đức (1847- 1883) - Dục Đức (1883)   - 

Hiệp Hòa (1883) - Kiến Phúc (1883- 1884) - Hàm Nghi (1884- 1885) - Đồng Khánh (1885- 1889) - Thành Thái (1889- 1907) 

- Duy Tân (1907- 1916) - Khải Định (1916- 1925)  

1- Thế Tổ xưng Đế hiệu: 

Ngày 1/6/1802, Nguyễn Ánh làm lễ tại nhà Thế Miếu, lấy hiệu là Gia Long và tuyên bố cáo chung niên hiệu Cảnh 

Hưng của nhà Hậu Lê. Tính ra Thế Tổ nhà Nguyễn đã chiến đấu suốt hai mươi lăm năm (1777-1802) để hoàn thành sự 

nghiệp thống nhất và bình định nước Việt Nam từ Cà Mau tới Nam Quan. Trong một phần tư thế kỷ đó Người đã trải 

qua bao phen vào sinh ra tử, nhục nhả gian lao, nếu không phải là người có tài, có chí, cương quyết và nhẫn nại thì 

khó mà thành công được. Đến khi bước lên ngai vàng, Thế Tổ vừa đúng 40 tuổi. Lo việc trị loạn xong, Người bắt tay 

vào việc bình trị. Công chuyện này rất là phiền toái, khó khăn và vĩ đại. Các cơ quan hành chính và các quan lại ở các 

địa phương bấy giờ đều thất tán hết, nay phải lập lại các sổ sách về đinh điền, thuế khóa và tuyển trạch nhân viên. 

Đồng ruộng bỏ hoang, kho tàng rỗng tuếch, cướp bóc lung tung, thật là một cuộc đổ nát hoàn toàn. Việc thứ nhất là 

Người đổi tên quốc hiệu ra Việt Nam, chính thức dùng Phú Xuân làm kinh đô, tha cho dân một vụ thuế, thăng thưởng 

cho tướng sĩ, phong tước và cấp ruộng đất cho con cháu hai họ Lê, Trịnh để giữ việc khói hương. 

2- Bộ Máy Chính Quyền Trung Ương: 

 Vua Gia Long không đặt ngôi hoàng hậu trong nội cung, và chức Bồi tụng, hay Tham tụng (tức là chức Tể tướng) 

ngoài triều đình để tránh những ảnh hưởng quá lớn về chính trị, do đó chỉ có chức Hoàng phi và cung tần trong biệt 

điện, việc nước thì có Lục bộ phụ trách. Mỗi bộ có một vi Thượng thư đứng đầu gồm Tả Hữu Tham Tri Tả, Hữu Thị 

Lang cùng các thuộc viên Lang Trung, Viên Ngoại Chủ Sự, bát cửu phẩm, thơ lại v.v... Sáu bộ là: 1) Bộ Lại trông coi 

việc bổ dụng, thuyên chuyển, ban thưởng phẩm trật, khảo xét công trạng, phong tặng ấm tước, thảo các chiếu, sắc, dụ 

v.v... 2) Bộ Hộ chịu trách nhiệm về các việc đinh điền, thuế má, tiền bạc, kho tàng, hóa vật như bộ Tài chính và Kinh tế 

ngày nay. 3) Bộ Lễ lo việc tế tự, triều hạ, tôn phong, triệu hội, học chế, khoa cử, phong sắc cho bách thần, khen tặng 

các người sống lâu, tiết hạnh. 4) Bộ Binh bổ dụng, tuyển mộ binh tướng, tổ chức quân đội, mở các cuộc thao diễn, lập 

khoa thi võ cử, ban bố các mệnh lệnh hành quân v.v... 5) Bộ Hình xét hình án, sửa sang pháp luật, duyệt lại các án từ 

đáng nghi ngờ hay các đơn kháng tố tối cao. 6) Bộ Công phụ trách các công tác xây dựng cung điện, thành trì, hào 

lũy, tự tạo tàu bè, nghiên cứu các kiểu mẫu lăng tẩm, công thự, mua bán vật liệu, thuê mướn thợ thuyền. Để kiện toàn 

việc chính trị cũng như hành chính, nhà vua lập Đô sát viện gồm Tả, Hữu Đô Ngự Sử và Tả, Hữu phó Đô Ngự Sử 

đứng đầu, cơ quan này giống như Nha Thanh Tra hành chính và chính trị đời nay nhưng rộng quyền hơn là có quyền 

cản ngăn nhà vua và đàn hặc các quan lớn, nhỏ nếu thấy việc gì trái với phép nước về phương diện này hay phương 

diện khác. Xét trong triều Gia Long bấy giờ chưa có quan nhất phẩm về hàng văn, các quân nhân hầu hết giữ các việc 

trọng yếu, có lẽ do tình thế đặc biệt buổi đó. Các việc thưởng phạt, truất biếm, bãi miễn đều có những thể lệ rõ ràng để 

tránh những việc lạm quyền và thiên vị. 

3- Các Địa Hạt Hành Chính Lớn:

  Đối với từng địa phương, vua Thế Tổ có một chính sách riêng biệt:  A) Tại Bắc Hà và Nam Hà, nhà vua đặt một quan 

Tổng Trấn để trông nom mọi việc. Quan Tổng Trấn Bắc Hà bấy giờ là Nguyễn Văn Thành, Tổng Trấn Nam Hà là Lê 

Văn Duyệt. Cả hai đều là võ quan cấp tương đối cao. Dĩ nhiên ý của nhà vua là vì việc loạn chỉ mới tạm yên, cần phải 

có võ tướng để toàn quyền hành động mới giải quyết được mọi vấn đề. Dưới quyền Tổng Trấn có phó Tổng Trấn, có 

quan Ký Lục và Cai Bạ giúp việc cai trị. Quan lại ở Bắc Hà được tuyển dụng trong các cựu thần của nhà Lê và các thổ 

hào sở tại. 

Bắc Hà được kể từ Thanh Hóa ngoại tức là từ Ninh Bình trở ra, gồm 11 trấn chia ra làm 5 nội trấn: Sơn Nam thượng, Sơn 

Nam hạ, Sơn Tây Kinh Bắc, Hải Dương. Ngoại trấn có: Tuyên Quang, Hưng Hoá, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, 

Quảng Yên là những tỉnh bao vây vùng Trung Châu từ Tây qua Đông (giáp biển). Nam Hà từ Bình Thuận trở vào là 

Gia Định thành gồm 5 trấn: Phiên An (thành Gia Định cũ) Biên Hòa, Vĩnh Thanh (Vĩnh Long và An Giang) Vĩnh Tường 

và Hà Tiên109. Đứng đầu các trấn có các quan Lưu Trấn hay Trấn Thủ. Trấn lại chia ra phủ, huyện, châu (châu là đơn 

vị hành chính ở các vùng có rừng núi và đồng bào Thượng). Miền Trung gồm: Thanh Hóa trấn, Nghệ An trấn, Quảng 

Nghĩa trấn, Bình Định trấn, Phú Yên trấn, Bình Hòa trấn (tức Khánh Hòa) và Bình Thuận trấn. Vùng Kinh Kỳ tức là các 

tỉnh trực tiếp với hoàng triều gồm bốn doanh: Trực Lệ Quảng Đức doanh (Thừa Thiên ngày nay), Quảng Trị doanh, 

Quảng Bình doanh, Quảng Nam doanh. P. Cultru cho rằng Bắc Hà và Nam Hà bấy giờ tuy bị lệ thuộc về Phú Xuân 

nhưng không bị một chế độ cai trị nghiệt ngã vì vua Gia Long xét việc tập trung quyền hành thái quá là điều không 

thuận lợi.

 4- Binh Chế: 

 Vua Thế Tổ sau khi thống nhất đất nước liền phong thưởng tướng sĩ. Ngài chỉnh đốn binh đội theo tục cũ: đối với 

quân chính quy cứ 7 xuất đinh từ 19 đến 25 tuổi lấy một Người ra lính thì gia đình được lĩnh một phần ruộng và cứ một 

năm chỉ ở trong quân ngũ một thời hạn là 4 tháng rồi lại được trở về quê làm ăn cày cấy 8 tháng, nhưng khi Nhà nước 

động dụng đến để làm các tạp dịch thì phải có mặt (xây thành, đắp lũy, mở đường v.v...), gặp thời chiến thì cứ ba xuất 

đinh lấy một. Ở Bắc Hà thì 10 người lấy một tại trấn Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên và 

Quảng Yên. Ở Nam Hà thì 8 người lấy một tại các làng đông đảo. Ở kinh thành có ba loại lính: thân binh, cấm binh, và 

tinh binh. Thân binh mỗi vệ có 500 người và có 50 người binh tập quân nhạc. Ở các trấn thì có lính cơ, lính mộ. Các 

binh sĩ chia ra làm ba phiên: 2 phiên về làm ruộng, 1 phiên ở lại phục vụ rồi thay đổi cho nhau.  Vũ khí có: gươm, giáo, 

mã tấu. Súng có: đại bác, thạch cơ điểu thương (súng nhỏ) mổ bằng máy đá lửa. Có ba trường để tập bắn ở kinh thành 

gọi là xạ trường. Ở các cửa bể có các hải đài là đồn binh có đặt súng để bảo vệ an ninh và kiểm soát tàu bè ngoại quốc. 

Vua Gia Long đặt ở mỗi hải khẩu một cơ lính thủy và làm thuyền lớn bọc đồng để tuần phòng miền bể. Lính thủy được 

lấy ở hai doanh Quảng Đức và Quảng Nam, lập thành 6 vệ đóng tại kinh thành.                                        

 [109 Năm 1802, Vua Gia Long phong cho cháu Mạc Cửu là Mạc Tư Thiêm làm Trấn Thủ địa phương này. Thiêm là con 

Mạc Thiên Tứ. Năm 1809 Thiêm chết, Vua Gia Long không tin người con cả của Thiêm nên đặt tạm một viên quan lại 

người Việt ở Hà Tiên. Tiêm La phản đối rằng Hà Tiên là đất của họ Mạc gây dựng. Năm 1826 Mạc Công Du con Thiêm 

được làm Hiệp trấn ở địa phương này sau thăng chức Trấn thủ, Hà Tiên lại thịnh vượng như xưa. ]

410 Việt Sử Toàn Thư 

Cấp bậc về Võ ban: cũng như về Văn ban có 9 bậc: mỗi bậc có chánh, có tùng (phó). Cao nhất là: Trung quân, Tiền 

quân, Tả quân, Hữu quân, Hậu quân. Chức này vào cấp tướng coi một đạo quân gồm 8 đại đội và 9 cơ ( mỗi cơ có 60 

binh sĩ ). Mỗi đạo quân có một số tượng binh. Cấm quân là quân canh gác hoàng thành có 30.000 gồm lục quân, kỵ 

binh, tượng binh. Tổng số lục quân vào năm 1800 là 113.000 người (trong thời chiến), nhưng có thể lên tới 200.000 nếu 

có chiến tranh. Tổng số hải quân có 26.800 người, đó là theo lời của De Barisy, người đã cộng tác với nhà vua trong 

thời chiến tranh với nhà Tây Sơn. Tàu chiến mang 16 đến 22 khẩu đại bác có 200 chiếc. Thuyền chiến có 40 đến 44 tay 

chèo mang máy bắn đá cò 500 chiếc. Thuyền lớn có từ 50 đến 60 tay chèo mang đại bác, máy bắn đá có 100 chiếc. Binh 

đội thủy lục này đều luyện tập và áp dụng chiến pháp theo lối Âu Châu. Còn kỵ binh thì không có vì xứ ta nhiều núi 

non sông ngòi, chỉ có một ít để dùng vào việc liên lạc và bảo vệ hoàng thành.

 5- Công Vụ:  

Mỗi tỉnh có một số nhân viên phụ trách việc sửa sang đường xá, đê điều, sông ngòi. Nhà vua lưu tâm nhiều hơn cả là 

vấn đề đê điều ở Bắc Hà, vì xứ này hàng năm thuờng xảy ra việc lụt lội khiến Nhà nước phải bãi thuế cho dân. Cuối đời 

của vua Thế Tổ (1820) việc sửa sang đê điều ở đây mới tạm yên, tiếc rằng việc gìn giữ vẫn thường không được chu 

đáo lắm nên việc lụt lội vẫn còn xảy ra. Các quan lộ trong nước đều được chăm nom, chỗ nào cách sông ngòi thì quan 

địa phương cho làm cầu. Cứ 15.000 trượng đường thì dân được lãnh 10.000 phương gạo. Từ cửa Nam Quan vào đến 

Bình Thuận, cứ 4.000 trượng đường có một trạm bên cạnh quan lộ để quan khách nghỉ ngơi, cả thảy có 98 trạm, còn từ 

Bình Thuận vào đến Hà Tiên đã có thủy đạo. Ở mỗi trấn Nhà nước có một kho chứa thóc gạo phòng khi đói kém hay 

mất mùa để chẩn cấp hay bán rẻ cho dân. Thành Huế được xây dựng vào năm 1813 hay 1814 đến 1820 mới xong. 

Thành hình vuông chu vi tới 5 đến 6 dậm theo kiến trúc Tây Phương kiểu Vauban (như thành Strasbourg của Pháp) có 

24 pháo đài (mỗi pháo đài có 26 khẩu đại bác từ 18 đến 68 livres), do chính sở đúc của nhà vua làm ra. Thành cao 

chừng 4 thước tây có những cổng đá cao tới 60 thước Anh (peds) toàn bằng đá phiến rất lớn và dầy dặn, nóc cổng 

cao tới 8 thước. Đây là một công trình kiến trúc vĩ đại và kiên cố rất đáng khen ngợi nếu đem so sánh với những thành 

lũy ở cửa Hội An hay Nha Trang.  

6- Việc Học Hành Và Luật Pháp:

  Vua Thế Tổ cũng tôn trọng Nho học, biết rằng việc trị dân cần phải có nhân tài nên cho lập nhà Văn Miếu ở các 

doanh, các trấn thờ đức Khổng tử. Ngài lập Quốc Tử Giám (1803) ở Kinh đô để dạy cho các quan và các sĩ tử, mở khoa 

thi Hương lấy các người có học, có hạnh ra làm quan. Cũng trong năm này, Ngài cho ban hành hai đạo dụ về việc mở 

các trường ở các tỉnh, ấn định nhân viên giáo giới và chương trình học chế cùng tái lập các khoa thi ở các trấn. Ở mỗi 

trấn có một quan Đốc Học, một phó Đốc Học hay Trợ Giáo. Cứ tháng 10 hàng năm triều đình mở một kỳ thi. Binh bộ 

thượng thư Lê Quang Định đã được phụ trách làm một cuốn Địa dư tức là cuốn Nhất Thống Địa Dư Chí biên soạn từ 

năm 1806 đến năm 1811. Vua Thế Tổ còn ra lệnh sưu tầm các sách sử ký liên hệ đến Lê triều và nhà Tây Sơn, kêu gọi 

dân chúng xuất trình các tài liệu bấy lâu thất tán vì ly loạn đem nộp cho các quan tỉnh lấy thưởng. Cũng năm này một 

số giáo viên được mời về kinh đô để chép sử. Năm 1818 Mạc Công Du là con cháu Mạc Cửu được lệnh sưu tầm các tài 

liệu về lịch sử đất Hà Tiên. Về luật pháp, vua Thế Tổ đặt Nguyễn Văn Thành vào chức Tổng Tài để soạn một bộ luật 

mới. Nguyễn Văn Thành đã mang bộ luật của nhà Thanh ra chép lại gần trọn nguyên văn nên khi áp dụng bộ luật này 

đã có nhiều điều quá khe khắt. Xin nhắc rằng bộ luật của Thanh triều cay nghiệt là bởi vua quan nhà Thanh là người 

Mãn vào thống trị Hoa tộc tất nhiên nó không có thể có những điểm khoan hòa của bộ luật Hồng Đức. Quốc âm như 

ta thấy dưới đời Lê Mạt và Tây Sơn đã bắt đầu thịnh đạt. Tới đời Nguyễn Sơ, thái bình trở lại thì mầm non của quốc âm 

cũng nảy nở mạnh dần. Bài văn tế tướng sĩ trận vong đọc tại Bắc Hà do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành không rõ do ai 

viết, "Hoa Tiên chuyện" của Nguyễn Lai Thạch, "Kim Vân Kiều" của Nguyễn Du, là cả một sự tiên báo văn chương 

Việt Nam đang đi đến chỗ phong phú, sáng sủa để dân ta có thể bằng tiếng mẹ diễn tả được mọi điều tình cảm hay 

trình bày được mọi tư tưởng, vẽ nên mọi cảnh trí. Những tác phẩm này đến nay còn được coi là những áng văn 

chương đại bút trong đó phát xuất được nhiều tinh hoa của dân tộc. 

7- Việc Tài Chính:  

Tài chính là huyết mạch của quốc gia, là sinh khí của bộ máy Nhà nước, Gia Long quan niệm như vậy nên đã gia công 

chỉnh đốn mọi ngành thuế khoá như sau: 1/ Từ Quảng Bình đến Bình Thuận dân đóng thuế mỗi năm một lần từ tháng 

4 đến tháng 6. 2/ Nghệ An, Thanh Hoá và Bắc Hà được nộp thuế làm hai lần. Nguyễn triều lập ra Đinh bạ và Điền bạ 

cùng công bố nhiều đạo luật về công điền, công thổ do sự gian lận, ẩn nặc đã xảy ra bởi nhiều người đã lợi dụng thời 

chiến tranh đem bán hoặc tự chia nhau công điền, công thổ. Nay triều đình bắt chia lại và cấm ngặt việc bán công 

điền, cùng vào danh sách những người từ 18 đến 59 tuổi hầu tránh những trường hợp khai tử hay khai vắng mặt để 

khỏi đóng thuế này, nếu việc gian xảy ra không những đương sự phải phạt mà cả lý trưởng cũng phải chịu trách nhiệm 

(hoặc phạt trượng hay phạt tù). Kẻ tố cáo việc này được thưởng tiền hay được miễn tạp dịch, nhưng tố giác sẽ bị 

nghiêm hình110. Thuế điền: chia ra làm ba hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp 20 thăng. Nhị đẳng điền 15 

thăng. Tam đẳng điền 10 thăng. Còn thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10 thăng. Thuế đinh: Nghệ An ra nội ngoại 

Thanh Hóa mỗi xuất hàng năm phải nộp thuế thân từ 1 đến 2 tiền -- Mân tiền: từ 1 đến 2 tiền -- Cước mễ: 2 bát. Năm nội 

trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên (Hoài Đức bây giờ) mỗi xuất phải nộp: thuế thân từ 1 đến 2 tiền. 1 mân tiền 1 tiền. 

Điệu tiền (tạp dịch) 6 tiền -- Cước mễ: 2 bát. Sáu ngoại trấn Bắc thành mỗi xuất phải nộp: thuế thân 6 tiền -- Mân tiền: 1 

tiền -- Điệu tiền: 3 tiền -- Cước mễ: 1 bát (1803 và 1805). Ngoài các thứ thuế kể trên, ta thấy dưới đời Gia Long còn 

những thuế đánh vào các quý vật như quế ở Thanh Hóa, yến sào ở Quảng Nam, gỗ, chiếu hoặc nộp bằng thực chất 

hoặc bằng tiền cùng lập ra quan thuế đối với ngoại quốc vào giao thương và các thuê khai thác các quặng mỏ. Nhà 

vua lại cho lập cả sở đúc tiền (1803 làm ra hai loại tiền đồng và tiền kẽm cùng đúc vàng bạc ra thành lương, thành nén. 

Tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ Gia Long thông bảo, một mặt in chữ thất phân. Mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 

lạng. Giá vàng định là: một lượng vàng đổi lấy 10 lạng bạc. Nhà vua cũng chuẩn định lại các thước vuông, chế tạo ra 

thước đồng để đo ruộng. Năm Gia Long thứ 12, triều đình lập ra cân thiên bình để cân đồng, sắt, chì, và thiếc. Còn cân 

vàng thì dùng cân trung bình. 

8- Việc Ngoại giao Với Nước Pháp: 

 Như chúng ta biết, chúa Nguyễn Ánh xưa kia gửi con (Thế Tử Cảnh) cho Giám mục Bá Đa lộc sang ngoại giao cầu 

viện trợ của Pháp hoàng Louis XVI nếu không có sự hiểu lầm, hoặc rụt dè của Pháp đình thì ngay từ thuở đó nước 

Pháp đã đặt được nhiều ảnh hưởng ở Việt Nam. Việc này còn bị ngăn trở nữa vì cuộc cách mạng (1789-1793) ở nước 

Pháp đã xảy ra thuở ấy, thêm vào là Pháp đã không dồi dào tài chánh cùng quân lực để tranh giành với Liệt cường ở 

các vùng Á Châu. Sau này chúa Nguyễn Ánh đã thành công do sự giúp đỡ của Giám mục Bá Đa Lộc, một số tư nhân 

Pháp, và cả chính giới Pháp lại đề ra việc tái lập ngoại giao với Việt Nam. Vẫn như dụng ý hai chục năm trước, Pháp 

muốn giành nhau với Anh quốc nhiều hơn cả vì Anh đã nắm được nhiều nguồn lợi từ Ấn Độ Dương qua Thái Bình 

Dương. Nay Pháp thấy cần chặn đứng lối tiến của Anh vào bờ biển Trung Hoa vì Trung Hoa là một miếng mồi ngon 

và vĩ đại hơn hết.                                        

[ 110 Về thuế khoá thời Gia Long theo Langlois (viết ngày 14 4 1804) và theo ký sự của Chaigneau ngày 12.5.1808, dân 

chúng đau khổ về chế độ thuế khóa của vua quan nhiều quá và về việc tạp dịch thì dân chúng không được trả bằng 

tiền hay bằng gạo (Tài liệu của giáo sĩ Cadière trang 60). ]

Năm 1812, theo lệnh Hoàng đế Nã-Phá-Luân (Napoleoné), Quốc vụ khanh d'Hauterive được xem xét lại vấn đề Việt 

Nam nhưng việc này lại gián đoạn vì sau đó ít lâu Nã-Phá-Luân bị lật đổ.  Dưới thời phục hưng của nước Pháp 

(Restauration), khi Bá tước Portal làm giám đốc các thuộc địa, một thân nhân của Dayot đã nêu ra ý kiến nước Pháp 

nên mở cuộc ngoại giao trở lại với Nam Hà rồi Pháp đình đã miễn nhiều thuế má cho các tàu buôn đi giao dịch với các 

xứ Viễn Đông. Vua Gia Long lên ngôi được hai năm (1804) do lời đề nghị của Công ty Đông Ấn, Anh gửi xứ thần Sir 

Robert đến Việt Nam. Bấy giờ Chaigneau và Vannier đang có nhiều uy thế bên vua Gia Long đã xúi nhà vua khước từ 

ngoại giao với Anh, tuy vậy Anh còn đưa thư hai ba lần nữa nhưng Thế Tổ cũng vẫn từ chối.  Sau này vào năm 1803, 

một hạm đội của Anh gồm 7 chiếc tàu tiến vào Hà Nội bị quân ta đốt cháy, nhưng không thấy Anh phản ứng. Vào 

tháng 9 năm 1817, tàu La Paix của Pháp cập bến Đà Nẵng do nhà Balguerie và Sarget công ty giới thiệu đến. Tàu này 

được tiếp đãi tử tế, sau đó là một chiếc tàu nữa của nhà Philippon. Tàu này không bán được hàng bởi không có hóa 

phẩm nào hợp với nhu cầu của địa phương. Vua Gia Long có trao cho họ một danh sách hóa phẩm để kỳ sau họ mang 

hàng tới và sẽ không bị lỡ. Năm 1817, chiếc Cybèle đến Tourane vào tháng 12. Thuyền trưởng của tàu này là Bá tước 

Kergariou đã nhân danh Pháp hoàng Louis XVIII xin nhà vua thi hành hiệp ước 1787111 để Pháp được hưởng các 

quyền lợi ở Cửa Hàn và Côn Đảo. Lời yêu cầu này không được thỏa mãn. Đó là điều dễ hiểu vì chính nước Pháp đã 

không thi hành hiệp ước trước. Năm 1819, hai chiếc tàu Larose và Henri cũng của mấy nhà trên đây gửi qua, vua Gia 

Long cũng vẫn mua bán với họ. Tiền nong và giá cả rất là sòng phẳng, phân minh. Trở về họ mua của ta đường, chè, 

lụa, mộc và bạc nén. Tóm lại chỉ riêng về phương diện thương mại người Pháp được ưu thế và ưu thế này có thể dài lâu 

nếu vua Gia Long còn sống thêm nữa bởi ngài đã hàm ơn một số người Pháp giúp đỡ ngài trong việc tranh đấu với nhà 

Tây Sơn xưa kia. Trong giai đoạn này thủ tướng De Richelieu có viết thư cho Chaigneau để hỏi thăm tình hình Việt 

Nam về nhiều phương diện và giới thiệu các tàu buôn cùng các thủy thủ, sau đó Chaigneau được thưởng Bắc Đẩu Bội 

Tinh. Chaigneau trở về thăm nhà tháng 11/1819 được Pháp Hoàng giao cho chức Lãnh sự Pháp ở Việt Nam, có giấy tờ 

đàng hoàng với nhiệm vụ điều đình lập các thương ước với vua Gia Long. Vua Louis XVIII gửi chiếu vua Gia Long một 

chiếc đồng hồ quả lắc, hai cây đèn thờ, các bình bằng đồng mạ vàng, 16 bức tranh chạm nổi về các trận đánh dưới thời 

Đế Chính, một khẩu súng trường kiểu mới nhất, một cặp súng lục và một tấm gương rất lớn (ở Huế vẫn còn giữ được 

tấm gương này).                                        

[ 111 Hiệp ước Versailles do Giám mục Bá Đa Lộc ký với Bộ trưởng ngoại giao Montmorin. ]

Nhưng khi Chaigneau trở lại Việt Nam năm 1821, thì vua Gia Long đã tạ thế, vua Minh Mạng lên kế vị thì sự liên lạc 

Việt Pháp thay đổi hẳn. Trong thời vua Gia Long còn sống, người Pháp ở lại làm quan với Nguyễn triều có Philippe 

Vannier, Jean Baptiste Chaigneau, De Forsans và y sĩ Despiau. Những người này đã được nhà vua phong tước112 rất 

trọng hậu (trừ Despiau). Nhà vua miễn cho họ khỏi phải lạy khi vào chầu mà chỉ phải khấu đầu 5 lần. Mỗi người được 

50 tên lính phục vụ tại tư dinh. Sau vua Gia Long qua đời thì những người Pháp trên đây bỏ về hết vì sự ghen ghét của 

các quan Việt Nam và sự ghẻ lạnh của vua Minh Mạng. Kể từ giai đoạn này trở đi cuộc giao tiếp giữa Nguyễn triều với 

nước Pháp bắt đầu nổi sóng gió. 

9- Giao Thiệp Với Trung Quốc:

  Sau khi lấy được Bắc Hà, vua Gia Long đã cử một sứ đoàn qua Tàu xin cầu phong. Cầm đầu sứ đoàn là Trịnh Hoài 

Đức. Sứ đoàn này chưa hồi hương thì cuối năm đó 1802, vua Gia Long cử luôn Binh bộ Thượng thư Lê Quang Định 

sang xin vua Gia Khánh nhà Thanh đổi tên cho nước ta. Năm sau 1802, triều đình Mãn Thanh cho Tổng đốc Quảng 

Tây sang làm lễ tấn phong cho vua Gia Long và đưa ra hai sắc dụ: một đặc tên nước ta là Việt Nam, một ấn định thể lệ 

tiến cống từ nay cứ hai năm một lần và cứ 4 năm một lần Việt Nam phái sứ bộ sang làm lễ triều kính. Lễ cống gồm có: 

ngà voi, sừng tê, lụa vải, gỗ trầm, cau khô. Rồi vua Gia Long thân hành ra Thăng Long để làm lễ thụ phong. Năm sau 

Gia Long lại cử sứ bộ sang cảm tạ vua Tàu tại Bắc Kinh. tháng 8 năm 1809, sứ đoàn Việt Nam sang mừng thọ vua Gia 

Khánh (lúc đó được 50 tuổi). Luôn từ 1813, 1817, và 1819 việc giao dịch giữa Gia Long và nước Tàu được đều hòa, êm 

đẹp. 

10- Giao Thiệp Với Miên, Lào và Tiêm La:  

Gia Long lên ngôi, nước Nam được yên trị, nước Cao Miên tuy mất đất (Thủy Chân Lạp) nhưng vẫn chịu thần phục 

Việt Nam. Từ lâu đời nước này hay bị ngươi Tiêm quấy rối nên vẫn phải nhờ Việt Nam che chở. Trong thời họ Nguyễn 

còn đang mắc míu với Tây Sơn, Tiêm La đã định lợi dụng cơ hội để phân chia đất Cao Miên đó là việc đã xảy ra hồi 

1779 dưới đời quốc vương Trịnh Quốc Anh (Phya Tak) như trên đã nói. Thời Tây Sơn còn nắm được miền Nam Việt 

(1794), Nặc Ấn lưu vong qua Vọng Các rồi được vua Tiêm La cho một đạo quân đưa về nước. Từ ngày đó hai tỉnh 

Battambang và Angkor nhượng cho Tiêm. Nặc Ấn mất năm 1796. Năm 1802 Miên mới có vua tức là Nặc Ông Chân, con 

Nặc Ông Ấn. Tuy đã thần phục Tiêm La, Ông Chân vẫn cử sứ đoàn ra chầu vua Gia Long tại Thăng Long. Thế là từ 

năm 1805 Miên làm tôi triều đình Việt  Nam và năm sau lại sang Vọng Các thụ phong.                                       

[ 112 P. Vannier được gọi là Nguyễn Văn Chấn được phong Trấn Oai Hầu, J. B. Chaigneau là Nguyễn Văn Thắng được 

phong Thắng Tài Hầu, Victor Olivier là Ông Tín làm Vệ úy - Théodore Le Brun làm Cai đội Thạch đai hầu... ]

415 Việt Sử Toàn Thư 

Tiêm không tán thành chính sách nước đôi này nên ngầm xui Nặc Ông Nguyên em Ông Chân nổi loạn. Ông Chân phải 

chạy sang Việt Nam cầu cứu. Tiêm liền tiến quân đánh thành La Bích và gửi thư cho vua Gia Long nói quân Tiêm vào 

đất Miên chỉ có ý thu xếp việc của hoàng gia Miên mà thôi. Vua Gia Long làm bộ tin lời vua Tiêm rồi cử Lê Văn Duyệt. 

Tổng trấn thành Gia Định dẫn 10.000 binh hộ vệ Ông Chân trở về nước: Tiêm và Nặc Ông Nguyên phải rút lui. Để 

phòng ngừa mầm loạn, Lê Văn Duyệt đặt chế độ bảo hộ trên đất Miên từ đấy và xây thành Nam Vang cùng thành La 

Lem. Sau đó vua Thế Tổ cử Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân sang trấn giữ xứ này như một thuộc quốc. Dù sao việc 

giao thiệp giữa triều Gia Long và Tiêm La vẫn giữ được sự hòa hảo. Từ 1802 trở đi hai bên vẫn có sự sứ bộ qua lại trao 

đổi tình thân thiện và tặng phẩm. Tại Ai Lao, Việt và Tiêm cũng đặt ảnh hưởng nhưng không vì thế mà có sự gây lộn. 

Rồi quốc vương Ai Lao xin thân phục cả Việt lẫn Tiêm. Các rợ Cam Lộ ở các vùng Cao Nguyên hai tỉnh Thanh Nghệ, 

các dân thượng (Mọi) và Thủy Xá, Hỏa Xá (người Rhadé) cũng có cống phẩm đến để tỏ lòng tuân theo chính quyền 

của triều Nguyễn. 

11- Bàn Về Loạn Phong Kiến Việt Nam:  

Các nhà viết sử Pháp xưa và nay khi nói đến vua Gia Long và những trận giặc cuối cùng Tây Sơn và chúa Nguyễn đã 

không thể ngăn được những tiếng thở dài. Quả vậy, trận giặc này là một cuộc nội tranh, một cuộc xung đột chỉ liên hệ 

đến quyền lợi giữa hai dòng họ. Theo ý này chúng tôi, hãy đặt ra vài câu hỏi: 

1. Ngót 300 năm ly loạn từ đời Lê mạt 1527 đến 1802 là năm cuộc nội chiến kết liễu có phải tự người dân dấy loạn hay là 

tự hai họ Trịnh Nguyễn giành nhau ngôi bá chủ mà mở màn cho cảnh núi xương sông máu?. Đứng trên lập trường 

nhân dân, nhà làm sử phải có bổn phận lên án những kẻ gây loạn khiến dân đã điêu đứng lầm than. Ta thử nghĩ: dưới 

thời Trịnh Giang cũng như dưới thời Võ Vương vì tệ chính đói rét, dịch lệ, và giặc giã đã lượm đi quá nửa phần dân số; 

để theo đuổi chiến tranh Trịnh Nguyễn và Tây Sơn bắt lính cứ 10 người lấy tới ba bốn xuất ở mỗi làng, đám trai tráng 

này có đi chẳng có về, cuộc thủy chiến tại Thị Nại mấy tao làm chết tới ít nhất năm bảy chục ngàn sinh linh, đó là việc 

gần, còn kể con số nạn nhân chiến tranh trên khắp các nẻo đường đất nước luôn ba thế kỷ trước ngày bình định (1802) 

thì rõ rệt hàng triệu con người đã làm cô hồn trên các chiến trường từ Nam ra Bắc. 

2. Như vậy, từ thế kỷ thứ XVI là từ buổi ở Việt Nam bị cái thảm cảnh thiên hạ tam phân (Mạc Trịnh Nguyễn, rồi sau là 

Tân Nguyễn và Cựu Nguyễn) đến cuối thế kỷ XVIII những vụ loạn ly đó là công hay tội của các ông Chúa phong kiến 

nước ta? Trong cuốn sách này chúng tôi đặt riêng ra chương "Loạn Phong Kiến Việt Nam" là do ý nghĩ kể trên để trái 

lại, chỉ tán thành, chỉ ca ngợi, chỉ hoan nghênh những trận giặc chống đế quốc, diệt xâm lăng mà thôi. Xương máu của 

người dân lành đâu có phải là những thứ để xây ngai vàng, nghiệp bá cho những cá nhân, cho những dòng họ! 

3. Nước Việt Nam cũng như dân Việt Nam tự nó trên thực tế đã đồng nhất và bất phân, nhưng có chuyện qua phân, đó 

là do tham vọng của các nhà chính trị, các người lĩnh đạo. Mỗi kẻ năm quyền chúa tể một địa phương, nền thống nhất 

quốc gia tất nhiên bị tan rã. Thật chẳng khác chi hai võ sĩ đấu gươm trên võ đài, kẻ bại ngã gục, kẻ thắng đứng lại, 

không còn đối thủ nữa thì kẻ ở lại ca khúc khải hoàn, có gì lạ! dĩ nhiên quốc gia lại thống nhất. Riêng giữa hai họ Tân 

Nguyễn, Cựu Nguyễn, đồng ý với các sử gia Pháp, chúng tôi nghĩ rằng Việt Nam đã thống nhất dưới thời Tây Sơn bởi 

khi nhà Tây Sơn toàn thắng (1788), Nhạc làm Trung Ương Hoàng Đế, Huệ làm Bắc Bình Vương, Lữ làm Đông Định 

Vương, chúa Nguyễn Ánh lưu vong hải ngoại, ai đừng bảo khi đó Việt Nam không thống nhất? Sau này nhà Tây Sơn 

bị diệt, còn lại chúa Ánh, ai chia xẻ nước Việt Nam nữa mà chẳng thống nhất? 4. Còn việc mở rộng cương vực miền 

Nam tới đất Hà tiên, sát Vịnh Tiêm La cũng là một sự kiện tất nhiên của Lịch sử. Trịnh nắm được toàn cõi Việt Nam từ 

Linh Giang ra tới Cao Bằng. Nguyễn không khuếch trương thế lực thì tranh giành với Trịnh sao được! Huống hồ 

Nguyễn ở cạnh Chiêm Thành, một dân tộc đang bị hao mòn suy nhược do ảnh hưởng của nhiều chiến cuộc với nhà 

Hậu Lê xưa kia, không mở đất về phương Nam chẳng hoài lắm ru! Và còn đợi cơ hội nào khi mà Nguyễn đang cần có 

một cái vốn để chạy đua với miền Bắc? Ngoài ra cũng đừng quên rằng trong việc bành trướng cương thổ vào vùng 

Đồng Nai, chính người dân cày của chúng ta đã gây được nhiều thành tích. Một phần lớn những người dân ấy đã tự 

động vượt biển hay tràn qua đất Chiêm vào khẩn hoang tại Biên Hòa, Bà Rịa, Gia Định do đó ta có thể nói rằng chính 

họ đã viết nhiều trên những trang sử Nam tiến của dân tộc chúng ta. 

12- Vài Ý Kiến Về Vua Gia Long: 

 Ở vua Gia Long, từ con người quân nhân đến con người chính trị có nhiều điểm khác biệt khiến ta phải coi vua Gia 

Long cũng là một nhân vật kỳ kiệt của Lịch sử trên nhiều phương diện. Nhân vật này có nhiều điều hay cũng như có 

nhiều điều dở. Chiếu theo cỗi rễ thì Gia Long thuộc về một dòng họ có nhiều danh tướng, giầu mưu cơ, đởm lược, 

nhẫn nại, cần cù, thông minh, trác lạc nhờ vậy mà trong thời trung suy, Nguyễn Ánh mới 17 đã cầm đầu được binh 

tướng, nắm vững được lòng dân, bốn phen vinh nhục ở đất Gia Định, nhiều tao siêu bạt ngoài khơi, trôi dạt cả vào đất 

Tiêm, nương nhờ triều đình Vọng Các có lúc phải hy sinh cả tính mạng (trừ giặc Miên và Mã Lai cho Tiêm) để mua 

thiện cảm của người hòng có chỗ nương thân. Trên 20 năm ròng, vua Gia Long xông xáo khắp các chiến trường từ 

vùng Đồng Nai ra Thuận Hóa, vượt biển trèo non trong vòng khói lửa mịt mùng mà vẫn không bao giờ lui bước, con 

người ấy thật đáng là một chiến sĩ. Trước điểm này ta không thể không vỗ tay khen ngợi Thế Tổ nhà Nguyễn. Về 

chính trị, khi sức cùng lực tận, Gia Long đã cho Giám mục Bá Đa Lộc đem con đi cầu cứu nước Pháp rồi luôn luôn giao 

thiệp khéo léo với các lân bang để lấy ngoại viện, nhờ đó chẳng những người Âu Châu mà cả các quân Tiêm, Miên, 

Lào thường qua lại đánh Tây Sơn giúp mình. Ngoại giao đến thế là khéo léo tuy rằng mang người ngoài về đánh anh 

em nhà là làm một hành động không đẹp nếu so với việc 12 sứ quân trên tám thể kỷ trước. Nhưng đến khi sự nghiệp đã 

thành, ngôi quốc chủ đã vững. Gia Long thay đổi luôn thái độ, lên tiếng kẻ cả với Tiêm, đặt Miên và Lào vào vòng lệ 

thuộc. Tiến thoái, kinh quyền đến thế quả thật là mau lẹ, quỷ quyệt... Tuy vậy vua Gia Long có ít nhiều sở đoản: 1. 

Các cộng sự viên người Pháp đã chê Thế Tổ ở điểm khi đang chiến tranh, ngài đã quá cẩn thận nên hay do dự, nếu 

biết đánh dấn Tây Sơn đang lúc đại thần, tướng lĩnh của họ chia rẽ thì ngày vinh quang của nhà vua còn sớm hơn 

nhiều. 2. Đối với các công thần, vì hay nghe lời sàm tấu Gia Long đã có khí quá bạc bẽo và tàn nhẫn, vì vậy Đỗ Thành 

Nhân, Lê Văn Cầu, Nguyễn Văn Thanh, Đặng Trấn Thường là những kẻ đã theo phò Nguyễn chúa từ lúc gian nan đều 

bị bất đắt kỳ tử. Đời Lê còn có trường hợp "Bát nghị"; Nguyễn triều với bộ luật của nhà Thanh y sao chính bản, chẳng 

nương nhẹ cho ai dầu kẻ đó đã có nhiều công lao hãn mã. Đến Minh Mạng, nắm xương khô của Lê Văn Duyệt và Lê 

Chất cũng không khỏi xiềng xích, và họ tội tình gì cho cam! 3. Khi suy bĩ, Gia Long biết cầu cứu nước Pháp, đã mục 

kích được dã tâm đế quốc của Liệt cường Tây Phương trước thời của ngài và cả trong thời ngài, vậy mà không tìm nổi 

một kế sách giữ nước cho khỏi "Bạch họa", chỉ biết "bế quan tỏa cảng", các triều đại kế tiếp cũng chẳng sáng suốt 

hơn làm gì mà không mất nước. 4. Đặt quốc đô ở Phú Xuân là một mảnh đất gầy, dân thưa, của ít về phương diện quân 

sự nơi này là một vị trí chiến lược bất lợi cả về thủy lẫn bộ. Trái lại Bắc Hà là cỗi rễ của dân tộc, nói gần là từ hai chục 

thế kỷ trở về đây ruộng đất phù nhiêu, dân cư đông đảo, anh hùng hào kiệt đời nào cũng sẵn chống xâm lăng nhiều 

phen như trúc chẻ, ngói tan. Vậy mà vua Gia Long bỏ thật là uổng. Phải chăng Gia Long đã e ngại những uy tín còn 

xót lại của hai họ Lê Trịnh, nhưng nếu đủ tài thi thố ân uy thì mình là thái dương mà các triều đại đã qua chỉ là những 

ngọn lửa tàn, đâu đáng sợ! Sau này Bắc Hà ly loạn liên miên, lòng dân khảng tảng vì triều đình ở quá xa rồi 50 năm sau 

giặc Pháp tiến vào nội địa của ta, hàng vạn quân của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết không 

chống nổi mấy chiếc tàu, vài trăm lính của Francis Garnier, H. Rivière và De Courcy. Đấy chẳng là sự vụng tính của 

vua Gia Long vì đã bỏ gốc lấy ngọn đó sao? Còn về các qui mô lập quốc, ta thấy vua Gia Long cũng làm đủ mọi việc, 

tỏ được sự siêng năng, cần mẫn nhưng không có gì đặc biệt hơn các triều đại trước. Thế Tổ mất năm Kỷ Mão (1819) ở 

ngôi được 18 năm, thọ 59 tuổi, miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế.  

II- Thánh Tổ (1820 - 1840) 

- Việc nội trị  - Các vụ phiến loạn  - Việc ngoại giao  - Việc Ai Lao - Việc Chân Lạp  - Việc cấm đạo  

1- Hoàn Thiện Bộ Máy Chánh Quyền: 

 Tháng giêng năm 1820, lên kế vị vua Thế Tổ là Hoảng tử Đởm, niên hiệu là Minh Mạng. Bấy giờ, Ngài đã 29 tuổi lại 

sẵn óc thông minh, ham nghiên cứu việc triều chính, am hiểu văn học nên tới khi ra cầm quyền, có thể nói vua Minh 

Mạng không có chút gì bỡ ngỡ. Ngài là một ông vua rất hoạt động nên trong 20 năm trị vì, Ngài đã làm được rất nhiều 

việc và trong đời Ngài cũng đã xảy rất nhiều điều quan trọng. Ngài đặt thêm ra các tự, các viện. Hai cơ quan trọng yếu 

nhất là Nội các và Cơ mật viện. Trước đây vào hồi vua Thế Tổ đã có Thị Thư Viện coi các biểu, sách, chế, cáo, 

chương, tấu, sắc, mệnh v.v...Năm 1820, nhà vua đổi ra Văn Thư Phòng và năm sau ra Nội các, lấy các quan Tam Tứ 

Phẩm vào giúp việc. Năm 1834, do nhiều việc quan trọng, cơ yếu, Ngài đặt ra Cơ Mật viện lấy các đại thần vào làm 

nhân viên. Năm 1836, Ngài lập Tôn Nhân phủ. Cơ quan này trông coi mọi việc trong họ nhà vua cho có trật tự tôn ty 

và cấp dưỡng cho kẻ cơ ấu, giúp đỡ việc hiếu hỷ. Quan chế được đặt từ Nhất Phẩm cho đến Cửu Phẩm, mỗi phẩm có 2 

trật cho 2 ban văn võ, đặt các chức Tuần phủ, Bố chính, Án sát, Lãnh binh v.v... ở các tỉnh (Minh Mạng thứ 20), các 

chức vị quan lại này còn tồn tại đến sau này và thay thế cho chế độ Tổng Trấn, Trấn Thủ, Lưu Trấn kể từ Minh Mạng 

thứ 12 theo lối nhà Thanh. Để tránh nạn tham nhũng. Ngài phát cho quan lại hàng năm một số tiền dưỡng liêm tùy 

theo đẳng cấp.

 2- Việc Học Hành Thi Cử:  

Vua Minh Mạng rất chú trọng vào việc văn học để lấy nhân tài vào việc trị nước an dân. Ngài mở Quốc Tử Giám và 

cấp lương bổng cho các giám sinh. Về tiền triều chỉ có thi Hương, sáu năm mới có một kỳ thi, nay đổi làm 3 năm một 

khoa, cứ năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thi Hương; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi Hội, thi Đình. Hai khoa thi này mở ra để lấy 

Tiến Sĩ, đến năm Minh Mạng thứ 10 (1829), nhà vua lấy thêm Phó Bảng ở những người trúng cách. 

Vua Minh Mạng có một quan niệm rất sáng suốt về việc học. Ngài thấy lối học cử nghiệp chỉ chuyên về thi phú phù 

phiếm để thi lấy đỗ chứ không thể có một thực học là một lối học đi tới chỗ thấu đáo nhân tình, am hiểu việc đời một 

cách thực tế để mở mang xã hội, nâng cao trình độ dân sinh. Cái học từ chương cử nghiệp, than ôi, đến nay vẫn còn là 

một điều mà trong xã hội Việt Nam còn nhiều người ham chuộng. Kể cũng đáng buồn thay! Ngài có lần đã nói: "Lâu 

nay cái học khoa cử làm cho người ta sai lầm, Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay những 

văn cử-nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự 

đó. Khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập 

tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại". Tiếc rằng biết điều này là một cái bệnh nguy hại cho 

sự tiến hóa của dân tộc, Ngài muốn canh cải nhưng lại không biết canh cải ra sao. Triều thần của Ngài lại phần nhiều 

chỉ là những hủ nho lạc hậu, nên không giúp đỡ được Ngài kế hoạch nào cho quốc phú dân cường. Sự thực nếu là cái 

cổ học thì cổ học không lầm bởi nó cũng rất vụ thực. Trái lại từ đời Đường cái học vụ thực suy tàn để trở nên cái học 

huấn hỗ, cái học tầm chương trích cú, chỉ lo việc khoa cử hơn là lo việc thiết yếu cho thiên hạ. Tóm lại cái học nghĩa lý 

đã mất, cái học mà Trình Tử đã nói ở câu: Phong chi tác dĩ lục hợp, quyển chi tắc thoát tăng ư mật kỳ vị vô cùng giai 

thực học dã (Phóng ra thì đầy cả vũ trụ, thu vào thì náu ẩn ở thâm tâm; Ý vị của nó vô cùng xác đáng nhưng người 

Tàu lầm mà ta cũng lầm theo.) Sau này Phan Tây Hồ trong bài phú Lương Ngọc Tất Danh Sơn đã phải than dài: - Đời 

chuộng văn chương, người tham khoa mục. - Đại cô, tiểu cô, suốt tháng dùi mài. - Ngũ ngôn, thất ngôn, quanh năm 

lăn lóc. - Ngóng hơi thở của quan trường để làm văn sách. - Chích có thể phải, mà Thuấn có thể sai. - Nhặt dãi thừa 

của người Tàu để làm từ phú. - Biền thì phải tứ, Ngẫu thì phải lục. - Tíu tít những phường danh lợi. - Chợ Tề chực đánh 

cắp vàng. - Lơ thơ bao kẻ hiền tài, sân Sở luống buồn dâng ngọc. - Ấy chẳng riêng gì kẻ vị thân gia, tham vì lợi lộc. - 

Mà đến cả mấy kẻ quần chùng áo rộng trong một nước. - Lùa vào mấy ngàn vạn nơi hắc ám địa ngục... 

420 Việt Sử Toàn Thư 

3- Sách vở

 Ngài chăm lo văn hóa, khích lệ việc tu thư bằng những sự ban thưởng, cho nên vào thời Ngài nhiều sách có giá trị 

được ra đời. 1) Gia Định thống chí 2) Minh bột di hoán văn thảo của Trịnh Hoài Đức 3) Bản triều ngọc phả và 2 bản Ký 

sự của Hoàng Công Tào 4) Khai quốc công nghiệp điển chí (7 quyển) của Cung Văn Hi 5) Minh lương khải cáo lục của 

Nguyễn Đình Chính (34 quyển). 6) Cố sự biên lục của Vũ Văn Bưu 7) Khâm Định tiểu bình lưỡng kỳ phỉ khấu phương 

lược 8) Ngự chế thi tập... (2 cuốn sách này do các quan họp lại cùng soạn) Ngoài ra, Ngài còn giải quyết được nhiều 

việc khác không kém phần quan trọng như sửa đổi phong tục vì trải bao nhiêu thời loạn ly, trật tự xã hội đổ nát, nhân 

tâm đồi bại. Ngài lập ra 10 điều răn bảo dân chúng để gây lại tinh thần luân lý của trăm họ. Ngài cho dựng nhà dưỡng 

tế để nuôi những người tàn tật, cô độc. Việc đinh điền cũng có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn. Ruộng đất ở Nam 

Việt được đo đạt lại, tính ra được 630.075 mẫu. Tổng số đinh toàn quốc là 970.516 xuất và 4.063.892 mẫu ruộng, đất. 

Người Tàu sang làm ăn khai khẩn cũng được đối đãi tử tế. Đồng niên mỗi người phải nộp hai lạng bạc. Những người 

lão hạng và tàn tật chỉ phải chịu một nửa. Việc võ bị cũng được Ngài lưu ý rất nhiều: lập đồn ải, pháo đài ở các nơi 

hiểm yếu. Binh chế có thủy binh chia ra từng Cơ, Đội, Vệ, Doanh. Tiếc rằng việc binh bị thiếu người chuyên môn và có 

năng lực, lại thêm vào thời đó có quan niệm trọng văn khinh võ gây nhiều ảnh hưởng tai hại nên tuy nhà vua luôn 

luôn ra lệnh và khuyến khích, việc này chẳng tiến được là bao mà mỗi ngày còn suy nhược thêm nữa.

 4- Những Cuộc Phiến Loạn 

Những cuộc phiến loạn xẩy ra dưới thời vua Minh Mệnh suốt Trung, Nam, Bắc, kể từ năm 1822 đã do nhiều nguyên 

nhân: A) Về phía ngoại bang, nước Tiêm la vẫn giữ thái độ hằn học về vấn đề Chân Lạp (chúng ta đã thấy ở trên đây) 

nên ngoài mặt tuy êm dịu nhưng bên trong Tiêm La vẫn tìm cơ hội để quấy rối Việt Nam. B) Ngoài Bắc, một phần nhân 

tâm còn luyến tiếc Lê triều, vẫn chờ dịp nổi lên chống lại nhà Nguyễn và để khôi phục lại dòng họ Lê. C) Bọn quan lại 

hay nhũng nhiễu dân chúng, dèm pha nhau, tâng công, nịnh hót mà nhà vua lại thường không minh, nhất là đối với kẻ 

công thần. Nhiều người trung lương đâm ra chán nản, trái lại phe gian nịnh nẩy nở mỗi ngày một nhiều, nước tất nhiên 

phải sinh loạn do đó ngoại quốc mới dám nhòm ngó vào. Những vụ phiến loạn quan trọng đáng kể là vụ Phan Bá 

Vành khởi sự ở Nam Định, Lê Duy Lương ở Ninh Bình và Nông Văn Vân ở Tuyên Quang (vụ Phan Bá Vành xẩy vào 

năm 1826 đã làm cho quan quân của triều đình tổn hại rất nhiều, đến năm 1827 Nguyễn Công Trứ lúc đó làm Tham Biện 

được cử đi dẹp mới yên). Vụ Lê Duy Lương phát sinh vào 1832, tức là năm Minh Mệnh XIII ở Ninh Bình. Lê Duy 

Lương là con cháu nhà Lê cũng dấy động với các thổ tù là Quách Tất Công, Quách Tất Tế và Đinh Thế Đức, v.v... Vua 

Thánh Tổ huy động Tổng Đốc Nghệ Tĩnh là Tạ Quang Cự đem quân ra Ninh Bình cùng với Tổng Đốc Thanh Hóa là 

Nguyễn Văn Trọng đi đánh, sau vài tháng Lê Duy Lương bị bắt giải về Kinh trị tội và tất cả con cháu Lê bị đày ở 

Quảng Nam, Bình Định. Biện pháp này tỏ rằng chính sách "Phù Lê" đã chấm dứt. 

Vụ Nông Văn Vân và Lê Văn Khôi 

Việc Lê Duy Lương ngoài Bắc Hà chưa yên hẳn thì trong Nam Việt bấy giờ có Lê Văn Khôi cũng chống lại Triều đình. 

Vì Khôi là người Bắc và có anh em họ hàng ở Tuyên Quang nên có lịnh cho bắt các thân nhân của Khôi. Nông Văn 

Vân là anh vợ Khôi và là Tri Châu Bảo Lạc hồi đó hoảng sợ liền chiêu tập đồ đảng nổi lên cướp phá Tuyên Quang, 

Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn từ tháng 7 năm 1833 cho đến tháng 3 năm 1835 làm quan quân đã tổn phí rất 

nhiều. Dự vào việc tiểu trừ Nông Văn Vân có Sơn-Hưng-Tuyên Tổng Đốc Lê Văn Đức làm Tam Tuyên Tổng Quân Vụ, 

Hải An Tổng Đốc là Nguyễn Công Trứ làm Tham Tán và Ninh Thái Tổng Đốc Nguyễn Đình Phổ. Các tỉnh Thượng du 

hồi đó bị quân giặc vây hãm kịch liệt. Họ nhờ được thế rừng núi hiểm trở và lại thông thuộc các miền này, nên quan 

quân phải chật vật vô cùng mới dẹp xong. Theo Việt Nam Sử Lược từ khi ông Lê Văn Duyệt mất đi, đất Nam Việt tuy là 

nơi lập nghiệp của nhà Nguyễn mà lại xẩy ra nhiều sự rối ren là vì vua Thánh Tổ thiếu sự rộng lượng đối với các cựu 

thần (trên đây chúng tôi đã nói qua về các vị đó) lại nghe bọn xu nịnh nên dân sự bị áp bức quá nhiều. Vụ án Lê Văn 

Duyệt đáng lẽ yên rồi thì Bạch Xuân Nguyên ra làm Bố Chánh Gia Định (bây giờ là thành Phan An) nói rằng phụng 

mật chỉ truy xét thêm về Tả Quân Lê Văn Duyệt. Lê Văn Khôi tuy là con nuôi của Lê Văn Duyệt nhưng vẫn bị nghi ngờ 

sẽ có phản ứng nên người ta bắt giam Khôi liền. Hành động này đã khiến cho Khôi nẩy ý làm loạn. Đêm 18-5 năm 1833 

tức Minh Mệnh XIV, Lê Văn Khôi thông với các đồng đảng cùng một số tù nhân người Bắc trong lao và một số cũng 

ở trong trại giam hoặc ở bên ngoài được làm ăn như dân sự hay bị bắt làm lính hồi hương (27 người) phá ngục vào dinh 

Bố Chánh Bạch Xuân Nguyên và giết cả nhà. Tổng Đốc Nguyễn Văn Quế đem quân đến cứu cũng bị giết. Còn các 

quan khác như Án Sát, Lãnh Binh đều bỏ chạy cả chẳng bao lâu quân đội trong thành Phan An đều theo Khôi hết. 

Khôi bèn thiết lập các chức vị cho đảng viên, rồi tự phong cho mình làm Đại Nguyên Soái, lập triều đình riêng một góc 

trời. Sau đó Khôi cho đi đánh phá các nơi, chỉ trong một tháng, sáu tỉnh miền Nam lọt cả vào tay Khôi. Trong dịp này 

Khôi lấy danh nghĩa tôn phù một người con của Hoàng Tử Cảnh mất năm 1801. Vị Vương tôn đó bấy giờ đang ở Huế. 

Nghe tin này vua Minh Mệnh cho giết ngay con cháu và chị dâu để bọn Khôi hết đường lợi dụng. Triều đình phái 

Tống Phúc Lương làm Thảo Nghịch Tướng quân và Nguyễn Xuân làm Tham Tán Quân Vụ cùng nhiều tướng tá đem 

quân thủy bộ vào đánh Khôi. Trung quân của Khôi là Thái Công Triều trước kia là vệ úy người ở Thừa Thiên, coi về 

biền binh đóng ở Gia Định, khi Khôi dấy động liền theo Khôi nay thấy quân đội của Triều đình tới lại phản Khôi trở về 

với Triều đình. Lê Văn Khôi đại bại ở nhiều nơi, sau chỉ cố thủ ở thành Phan An và cho người đi cầu cứu quân Tiêm 

La. Tiêm La liền đưa sang giúp Khôi 5 đạo quân, chia đường thủy bộ tiến vào Việt nam. Đạo thứ nhứt là 100 chiến 

thuyền vào Hà Tiên, đạo thứ hai là lục quân đánh Nam Vang (Pnom Pênh) mục đích chiếm Châu Đốc và An Giang, đạo 

quân thứ ba đánh Cam Lộ, đạo thứ tư đánh Cam Cát, đạo thứ năm đánh Trấn Ninh. Chủ đích của Tiêm La tất nhiên 

không phải là đến giúp Khôi mà nhân cơ hội này cướp đất Chân Lạp và Nam Kỳ, họ tung quân ra đánh nhiều nơi để 

phân tán lực lượng của Việt Nam. Triều đình ta liền huy động ngay quân lực để đối phó, Trương Minh Giảng và 

Nguyễn Xuân được lệnh giữ mặt An Giang về phía Tây Nam đánh đuổi được Tiêm ra khỏi bờ cõi. Việc này khởi từ 

tháng giêng năm Giáp Ngọ (1834) đến tháng năm thì kết liễu. 

5- Việc Ngoại Giao Với Người Pháp 

Vua Minh Mệnh không có cảm tình với người Pháp, điều này xét ra thuở đó cũng là một thái độ chung của người Á 

Đông đã coi người Âu Châu là bọn man di, là quân xâm lược. Ngài đã không ưa người ngoại quốc vì lý do chính trị, lại 

không thích cả tôn giáo của Âu Châu, một thứ tôn giáo cách mạng mà nhiều vua chúa La Mã xưa kia đã kịch liệt đả 

phá. Ngài đã quyết liệt trong việc giết đạo, cấm đạo do đó nhiều giáo sĩ đã đặt cho vua Minh Mệnh biệt hiệu là "Néron 

Việt Nam". Với cộng sự viên người Pháp, Ngài cũng có ý lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại Việt Nam, tuy các lễ vật 

được thâu nhận vui vẻ nhưng bọn ông không được trọng dụng nữa. Rồi nhà vua cho Chaigneau hay rằng không cần 

phải ký thương ước giữa hai chính phủ, người Việt Nam vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ. Tóm lại vua Minh 

Mệnh chỉ thỏa thuận mua bán với người Pháp nhưng không chấp nhận xây dựng cuộc bang giao chính thức với nước 

Pháp, nên quốc thư của Pháp đình xin đặt Chaigneau làm Lãnh Sự Pháp ở Việt Nam không được đếm xỉa đến. Năm 

1822, tàu Cléopâtre đến Tourane; mặc dầu có sự can thiệp của Chaigneau tàu này cũng không được đổ bộ. Hai năm 

sau một thương thuyền khác bị quan ta làm khó dễ. Rồi ông Bougainville đến với tàu Thétis và L'Espérance ngạc 

nhiên là Chaigneau đã rời khỏi đất Việt113. Vua Minh Mệnh không tiếp lấy cớ rằng ở đây không ai hiểu tiếng Pháp nên 

quốc thư của Pháp không phiên dịch nổi. Sự thực lúc này thiếu gì giáo sĩ Pháp đang truyền giáo ở Việt Nam để làm 

công chuyện đó cho triều đình của Ngài. Tuy vậy cuộc giao thiệp giữa ta và Pháp không gián đoạn ngay sau khi hai 

ông Vannier và Chaigneau về Pháp. Người Pháp vẫn cố chấp nối lại mối liên lạc. Năm sau (1826) cháu Chaigneau là 

Eugène Chaigneau còn trở qua Việt Nam nhưng cũng không lượm được kết quả gì tốt đẹp, năm 1829 ông này phải bỏ 

về nước. Xét ra các vua đầu tiên của nhà Nguyễn đã thấy cái Bạch họa lan tràn từ thế kỷ XVII và XVIII ở khắp Á Châu 

nên không muốn giao dịch với nước Tây Phương nào hết. Vua Gia Long đối xử tốt với người Pháp chỉ vì hàm ơn một 

số người Pháp đã giúp mình xưa kia nhưng trong thâm tâm vẫn có sự e dè. Đến đời Minh Mệnh thì người ta coi rằng 

không cần nể vì người Pháp nữa và không liên lạc mật thiết với Pháp càng khỏi gặp nhiều điều khó khăn phiền phức 

với các cường quốc Âu Châu khác. 

6- Việc Ai Lao và Chân Lạp 

A.- Năm Minh Mệnh thứ VIII (1827), Tiêm La đánh Vạn Tượng, Quốc Vương xứ này là A Nộ chống không nổi phải 

sang cầu cứu triều đình Việt Nam. Vua Thánh Tổ cho Thống Chế Phan Văn Thúy làm Kinh Lược Biên Soạn Đại Thần 

mang viện quân theo đường Qui Hợp và Lạc Phàm sang giúp. Việc xuất binh này bị thất bại. A Nộ phải theo quân ta 

về Nghệ An đợi thu xếp quân sĩ xong sẽ đánh báo thù. Năm sau (1828) A Nộ chiêu mộ được quân Lào liền xin quan 

quân của ta hợp sức. Phan Văn Thúy và Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào được lệnh vua Thánh Tổ đem 3000 

quân và 24 con voi đưa A Nộ về Trấn Ninh, rồi tiến vào Vạn Tượng (Vientiane). Đạo quân của ta và A Nộ lại bị thua 

phải xin viện binh Nghệ An. Vua Thánh Tổ chán việc này hạ lệnh bãi bỏ và chỉ phòng vệ các địa điểm biên giới mà 

thôi. Sau A Nộ chạy về Trấn Ninh bị thủ lĩnh Chiêu Nội bắt nộp cho Tiêm La. Quân Tiêm được đà đánh dấn vào các 

miền phụ cận Quảng Trị. Thống Chế Phạm Văn Điển và Tham Tán Quân Vụ Lê Đăng Doanh cùng với các đạo quân ở 

Lào phải đi ngăn giặc, đằng khác gửi thư cho Tiêm La để trách cứ. Tiêm La trả lời khiêm nhượng rồi rút quân về. Tuy 

vậy Tiêm vẫn bí mật dung túng người Chân Lạp nổi lên chống lại chính quyền của ta hoặc hà hiếp Vạn Tượng và các 

xứ quy phụ triều đình Việt Nam. Rồi cuối năm Quí Tỵ (1833), Tiêm lại lợi dụng lời kêu gọi của Lê Văn Khôi mang quân 

vào nội địa Nam Hà và Chân Lạp như trên đã nói. Tóm lại Tiêm La từ khi mất quyền bảo hộ ở Chân Lạp vẫn hằn học 

với Việt Nam, lúc không sinh sự được với ta thì lại quay ra quấy rối Ai Lao và Chân Lạp, hoặc khi thấy có biến cố xảy 

ra trên đất Việt Nam liền nắm ngay cơ hội để xâm lấn.                                        

 [113 Chaigneau và Vannier thấy sự lãnh đạm của nhà vua nên đã xin nghỉ vĩnh viễn để về quê hương vào ngày 15-11

-1825. Đơn của hai ông này được chấp thuận ngay lập tức tuy có đủ hình thức nhã nhặn. ]

Xin nhắc rằng dưới đời Thánh Tổ nhiều xứ nhỏ thuộc về Ai Lao và ở sát đất nước ta cũng xin quy phục như đất Lạc 

Phàm, Tam Động (hai xứ này được triều đình của ta đổi làm hai phủ), Xa Hổ, Sầm Tộ (Sam-Teu), Mường Soạn (?), 

Mang Lan (Mường Lam), Trình Cố (Xiêng-Khô), Sầm Nứa (Sam-Neua), Mường Duy, Cam Cát (Kham-Keut) ở Ngọc 

Ma, Cam Môn và Cam Linh (các xứ này hợp thành ba phủ Trấn Biên, Trấn Định và Trấn Man. Phủ Trấn Biên chia ra 

làm 4 huyện, còn hai phủ Trấn Định và Trấn Man chia mỗi phủ làm 3 huyện. Ở Cam Lộ thuộc Quảng Trị, các dân 

Mường, Mang Vang, Ná Bí, Thượng Kế, Tả Bang, Xương Thịnh, Tầm Bồn, Ba Lan, Mang Bổng, Lang Thời cũng xin 

nội thuộc và được chia ra làm 9 châu theo lệ triều cống. Có thể nói rằng đất Sầm Nứa, Trấn Ninh, Cam Môn và 

Savanhaket bấy giờ đã thuộc về Việt Nam dưới đời Thánh Tổ và nước ta bấy giờ kể cả các xứ nội phụ rộng lớn hơn 

bao giờ hết. Việc lệ thuộc của các xứ kể trên đã được ghi vào năm Đinh Hợi (1827) do ý muốn tránh sự quấy nhiễu của 

Tiêm La và được sự che chở của triều đình Việt Nam. 

B.- Cuối năm 1834 vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân qua đời không có con trai kế tự, quan phụ trách việc bảo hộ 

Chân Lạp là Trương Minh Giảng liền đặt em gái Nặc Ông Chân là Ang Mey lên làm Quận Chúa gọi là Ngọc Vân Công 

Chúa. Việc này được sắp đặt vào đầu năm Ất Vị (1835) rồi Chân Lạp được đổi ra Trấn Tây thành chia làm 32 phủ và 2 

huyện. Trông nom việc quân dân xứ này trên có một Tham Tán Đại Thần, một Đề Đốc, một Hiệp Tán và dưới có bốn 

chánh-phó lãnh binh. Năm Canh Tý (1840) Lê Văn Đức làm Khâm Sai Đại Thần và Doãn Uẩn làm phó cùng Trương 

Minh Giảng sang khám xét việc buôn bán, đặt các thứ thuế đinh, điền, đò giang, sản vật. Sau này quan lại Việt Nam 

làm nhiều điều càn rỡ, lại bắt cả Ngọc Vân công chúa đem về Gia Định cùng đày bọn quan Chân Lạp là La Kiên, Trà 

Long ra Bắc Kỳ nên dân Chân Lạp bất mãn nổi lên đánh phá, Tiêm La lợi dụng dịp này giúp em Nặc Ông Chân là Ông 

Đôn khởi nghĩa, quan quân của ta dẹp mãi không xong. Tới khi vua Thánh Tổ mất (1840) thì các nhà cầm quyền của ta 

ở Trấn Tây thành phải rút về hết. 

7- Việc Cấm Đạo 

Buổi đầu vua Minh Mệnh mới lên ngôi, Ngài chưa có áp dụng ngay chính sách sắt máu với các đạo trưởng Tây 

phương và các tín đồ Thiên Chúa, nhưng dần dà triều đình Việt Nam thấy người Pháp đến Việt Nam có một thái độ 

ương ngạnh, tàu buôn Pháp thỉnh thoảng lại đổ bộ bí mật một số giáo sĩ vào nội địa mặc dầu người Pháp đã biết rõ 

chính quyền Việt Nam không ưa đạo này. Tỉ dụ năm Ất Dậu (1825) tàu Thétis vào cửa Hàn đã đem giáo sĩ Logerot tới 

một cách lén lút. Nếu ngược dòng lịch sử mà nói thì việc này chẳng phải là lần đầu. Các quan Việt Nam khám xét ráo 

riết mà vẫn không xiết được. Ngoài ra nhà vua đã ban nhiều đạo dụ để khuyên nhủ và nghiêm cấm dân chúng, còn với 

các giáo sĩ, Ngài cho mời về Huế để dịch các sách Tây ra tiếng Việt, thực ra chỉ để ngăn cản việc giảng kinh Phúc Âm 

mà thôi. Mọi phương sách rốt cuộc đều vô hiệu, rồi chính quyền Việt Nam dầu muốn dầu không đã phải đi đến chỗ 

quyết liệt. Đạo dụ cuối cùng tuyên bố xử tử hình những ai vi phạm lệnh và cả những ai chứa chấp giáo sĩ cũng như 

giáo dân. Năm ấy một giáo sĩ đã bị bắt và bị xử giảo, quân quan lục lạo khắp nơi, đốt nhà thờ, bắt giáo sĩ và giáo dân 

gần như loạn. Ngoài Bắc nổi lên nhiều phong trào chống nhà Nguyễn, tất nhiên có một số giáo dân dự vào các vụ 

phiến động này. Trong vụ đánh thành Phiên An, người ta bắt được Cố Du (P. Marchand, giáo sĩ này bị tra tấn rất 

nhiều nhưng vẫn không nhận có giúp Lê Văn Khôi) việc giết đạo từ đó (1834-1838) lại càng dữ dội hơn trước, nhưng 

sắt và máu của nhà vua chỉ làm cho các giáo dân say mê thêm đạo Thiên Chúa. Người Công Giáo cho rằng chết vì đạo 

là "chết vì Chúa" và sẽ được lên nước Thiên Đàng để hưởng hạnh phúc vô tận bên cạnh Chúa Trời. Vua Minh Mệnh 

thấy mọi việc cấm đoán, giết chóc không có kết quả phải cử một sứ đoàn sang điều đình với chính phủ Pháp. Sứ đoàn 

tới nơi nhưng bị Hội Truyền Giáo Ngoại Quốc xin Pháp Hoàng Louis Phillippe đừng tiếp. Phái đoàn đành ra về, đến 

nước nhà thì vua Minh Mệnh đã mất. Rồi việc cấm đạo vẫn cứ tiếp tục mà việc truyền đạo, theo đạo cũng vẫn không 

ngừng, sau này Pháp chiếm được nước Việt Nam (cuối thế kỷ XIX) đạo Thiên Chúa mới chấm dứt được những trang 

thảm sử. 

8- Bàn về Vua Thánh Tổ 

Vua Thánh Tổ mất năm Canh Tý (1840), thọ được 50 tuổi, ở ngôi được 21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân hoàng đế. 

Ngài là một ông vua biết chăm nom việc nước, bên trong sửa sang được các việc chính trị, quan chế, học hành, khoa 

cử, phong tục, thuế má, võ bị khiến trong nước có nền nếp chỉnh tề. Bên ngoài nhà vua và triều đình đánh Tiêm, dẹp 

Lào, thu phục được nhiều bộ lạc, gây được nhiều uy thế cho quốc gia nhưng không có sáng kiến nên việc canh cải 

không có gì đặc biệt lắm. Và xét cái căn bản của giai tầng trí thức đời đó, học chỉ vụ từ chương, cử nghiệp thì cũng khó 

mà có những nhân tài xuất sắc, lỗi lạc để làm những việc kinh bang, tế thế cho nhân dân được nhờ. Tuy nhiên người ta 

không thể không quy trách nhiệm cho Ngài về các vụ loạn ly đã xảy ra ở Bắc Hà, Nam Hà và Chân Lạp do quan lại 

tham nhũng gây nên, đáng lẽ ở những miền xa xôi này nhà vua phải lựa đặt những cán bộ ưu tú, biết lấy ân làm uy, 

khéo léo vỗ về dân chúng, bởi từ lâu họ đã thiếu cảm tình với tân triều. Việc bảo hộ Chân Lạp rõ rệt kém chính trị là đi 

đến chỗ quá ngược đãi người bản xứ, khiến Tiêm La lợi dụng nhược điểm này kết hợp cùng dân Miên đánh ta bật ra 

khỏi Trấn Tây thành. Việc Lê Văn Khôi tuyên bố lập con Hoàng tử Cảnh để có chính nghĩa hoàn toàn là chuyện vu vơ 

mà nhà vua lại nỡ giết cả chị dâu góa cùng cháu nhỏ thì thật là quá lo cho cái ngai vàng của mình mà xả tình cốt 

nhụt114. Đến vụ án Lê Văn Duyệt và Lê Chất cũng đáng phàn nàn bởi khi sống đã không làm tội (mà họ cũng chẳng 

có tội gì đáng kể) đến khi họ chết lại đem ra hành hạ nắm xương khô, thật là bày một chuyện cười cho hậu thế.                

 [114 Sử Pháp của C. B Maybon có chép chuyện này. ]

Còn về việc cấm đạo, giết đạo thiết tưởng cũng nên rộng xét cho nhà vua, vì Thiên Chúa Giáo bấy giờ quá mới đối với 

dân ta, lại có nhiều nghi lễ không hợp với tục lệ cổ truyền gần như làm đảo lộn một phần nào đời sống tinh thần của 

ta. Huống hồ mỗi dân tộc có một mối sùng kính riêng, ai chẳng cho điều sùng kính của mình là hay và khi mình có 

quyền tất nhiên phải bảo vệ điều sùng kính đó bằng đủ mọi cách. Thêm vào, tình hình chính trị ở Á Châu đang rối 

loạn từ Ấn Độ Dương qua Thái Bình Dương do các cuộc xâm lăng của các đế quốc Tây phương, vua chúa Á Đông 

nào mà chẳng ít nhiều tư tưởng bài ngoại, chỉ đáng hận rằng mình thua kém người thì việc bài ngoại chỉ đem lại sự thiệt 

thòi mà thôi. 

III - Hiến Tổ (1841-1847) 

- Cá nhân của vua Hiến Tổ - Việc Chân Lạp và Tiêm La - Cuộc đánh phá đầu tiên của Pháp ở Việt Nam  

1- Cá Nhân của Vua Hiến Tổ 

Vua Thánh Tổ thăng hà, Hoàng tử Miên Tông lên ngôi vào ngày 21 tháng giêng năm Tân Sửu (12-2-1841) lấy niên 

hiệu là Thiệu Trị. Nhà vua lúc này được 31 tuổi. Vua Thiệu Trị cũng giống vua cha ở chỗ ham văn chương, sử ký 

nhưng tính tình thuần hòa hơn. Năm 1852, Ngài cho biên soạn cuốn Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên gồm đủ tình tiết về 

các nhân vật chính trị quan trọng của nước nhà. Ngài lại làm nhiều bài thơ vịnh các phong cảnh có tiếng trong nước 

đóng vào thành tập gọi là Ngự đề danh thắng đô hội thi tập và Ngự chế Bắc tuần thi tập, cũng soạn ra sách Ngự chế 

võ công thi tập để ca ngợi các việc đánh dẹp dưới đời Ngài. Về việc chính trị, Ngài noi theo các qui mô của vua cha để 

lại, tỉ dụ việc học hành, thi cử, thuế má. Các bề tôi như Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Hiệp, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, 

Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải hết sức phò tá để giải quyết những việc quan trọng, nhất là các việc giặc giã ở Nam 

Hà, việc chống đối của dân Chân Lạp, việc quấy phá của quân Tiêm. Các vụ lộn xộn này đã làm quân ta gian lao, vất 

vã khá nhiều. Năm vua Thiệu Trị lên ngôi, Ngài có gửi sứ bộ qua Tàu để xin cầu phong. Năm sau, Ngài ra Hà Nội để 

làm lễ thụ phong. Năm 1845, hai sứ bộ đi Tàu liên tiếp, một để cảm tạ và một để mang đồ tiến cống. 

2- Việc Chân Lạp và Tiêm La 

Cuối đời Minh Mệnh giặc dã nổi lên ở Nam Kỳ và Chân Lạp không chịu phục tòng ta nữa. Triều đình cử các ông 

Trương Minh Giảng, Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Đức, Nguyễn Tiến Lâm đi tiễu trừ mãi không xong, ở Nam Kỳ có cuộc 

dấy loạn của Lâm Sâm cùng bọn thày chùa tại Trà Vinh. Tại Chân Lạp (Cao Miên) người Miên hợp với người Tiêm 

đánh phá chính quyền bảo hộ của ta. Quan quân Việt Nam chống không nổi phải rút về, lúc đó vua Thiệu Trị vừa lên 

ngôi xong, triều đình Việt Nam phải chấp thuận đề nghị của ông Tạ Quang Cự xin bãi bỏ việc cai trị ở Trấn Tây thành 

(Chân Lạp). Rồi quân đội của ta trở về đóng ở An Giang. Trước đây ông Trương Minh Giảng phụ trách Trấn Tây 

thành, nay không đối phó nổi với tình thế phải rút lui, họ Trương lấy làm xấu hổ nên lâm bệnh, về đến An Giang thì 

mất. Lúc các ông Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Công Trứ dẹp xong giặc Lâm Sâm thì quân Tiêm mang binh thuyền 

vượt biên giới sang đánh phá. Quan quân của ta dưới quyền tổng chỉ huy của Lê Văn Đức đã chia làm ba đạo: Nguyễn 

Tri Phương, và Nguyễn Tiến Lâm giữ mặt Tiền Giang; Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Công Nhân giữ mặt Vĩnh Tế; 

Phạm Văn Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặt Hậu Giang, nhất tề tiến lên, quân Tiêm thua to phải rút về Trấn Tây 

thành. Quân ta không đuổi theo chỉ bố phòng các chỗ hiểm yếu mà thôi. Nguyên khi quân ta ở Chân Lạp lui về Nam 

Kỳ thì người Tiêm La ở đấy đã ủng hộ Nặc Ông Đôn (em Nặc Ông Chân, chú của Ngọc Vân Công Chúa) về nước làm 

vua, sau đó họ đã áp chế dân bản địa quá đáng. Người Chân Lạp chịu không nổi lại sang cầu cứu Việt Nam. Bấy giờ 

vào năm Ất Tị (1845) tức là Thiệu Trị thứ 5, Vũ Văn Giải được lệnh thanh toán việc này. Hơn một lần nữa binh sĩ Việt 

Nam lại chỉ ngọn cờ sang đất chùa Tháp. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị phá được đồn Dây Sắt, thâu 

lại được thành Nam Vang (1845) hàng phục được 23.000 dân Miên. Nặc Ông Đôn và tướng Chất Tri bị quân ta vây ở Ô 

Đông (Oudon) nguy quẫn quá phải xin hòa vào tháng chín năm ấy. Rồi hai bên ký hòa ước, sau đó quân Việt Nam rút 

về đóng ở Trấn Tây đợi Tiêm thi hành các điều đã ký kết. Tháng chạp năm Bính Ngọ (1846) Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ 

tội và nộp các cống phẩm. Năm sau Ông Đôn được phong làm Cao Miên Quốc Vương và Ngọc Vân Quân Chúa phong 

làm Ngọc Vân Công Chúa. Mọi việc ổn thỏa quân Việt lại trở về An Giang và đất Nam Hà lại được yên lành như cũ. 

3- Cuộc đánh phá đầu tiên của Pháp ở Việt Nam 

Vua Thiệu Trị lúc mới lên ngôi có rõ rệt thái độ hòa hoãn với người ngoại quốc. Ngài không ghét đạo quá đáng như 

vua cha nhưng vẫn không bãi bỏ các sắc dụ cấm đạo và phóng thích những giáo sĩ cùng giáo dân. Bấy giờ dư luận 

quần chúng Pháp vẫn chưa hết xúc động về những vụ tử đạo ở Việt Nam dưới đời Minh Mệnh. Tờ Annales de la 

Propagation de la Foi là một cơ quan truyền tín của hội Truyền giáo ngoại quốc luôn luôn nhắc nhở đến những việc 

giết đạo, cấm đạo rất là tàn nhẫn tại Việt Nam nên một số người Pháp đã yêu cầu Pháp đình can thiệp. Ngày 24-2-1843, 

một chiến thuyền cỡ nhỏ của Pháp tên là Héroine vào cửa Hàn, viên Thiếu tá thuyền trưởng là Favin-Lévêque xin 

phóng thích cho 5 giáo sĩ bị kết án tử hình đang bị giam tại Huế trong đó có giám mục Michel. Quan của ta có ý lẩn 

trốn trước việc này sau Favin-Lévêque cương quyết tới Huế, ba tuần sau các giáo sĩ này được thả ra. Trước đấy hai 

năm, giám mục Lefebvre bị bắt ở Vĩnh Long rồi giải về Huế để chịu tử hình cũng được hải quân Thiếu tướng Cécile 

đem chiếc tàu Alemène vào Đà Nẵng xin cho. Nhưng việc bắt bớ giáo sĩ vẫn tiếp tục khiến chính phủ Pháp phải lên 

tiếng phản đối. Năm Đinh Vị (1847) Đại tá Lapierre và Trung tướng Rigault de Genouilly có đệ lên vua Thiệu Trị một tờ 

kháng nghị của nước Pháp về việc cấm đạo, giết đạo và yêu cầu triều đình Việt Nam bắt chước nước Tàu cho người 

Pháp được tự do giảng đạo Thiên Chúa. 

Đôi bên còn đang điều đình và công việc này đã kéo dài một tháng rồi mà vẫn chưa dứt khoát, các sĩ quan Pháp lại 

thấy 5 chiến thuyền của Việt Nam chuẩn bị tấn công, các hải đài cũng có sự hoạt động khác thường nên Đại tá 

Lapierre cử người sang yêu cầu các chiến thuyền Việt Nam đừng tiến ra khơi. Tối hậu thư này không được đếm xỉa đến 

nên tàu Pháp phải bắn trước rồi cuộc xung đột khai diễn ngay liền khi đó. Một giờ sau chu sư của ta bị phá tan. 

Lapierre không cho quân đổ bộ và ngày hôm sau rời khỏi cửa Hàn. Vua Thiệu Trị giận lắm, gửi sắc dụ đi các tỉnh, 

trọng thưởng những ai giết được những giáo sĩ Tây phương, mặt khác Ngài cho tăng cường quân sự và việc chế tạo 

thêm quân khí. Nhưng sau biến cố này được vài tháng thì Hiến Tổ qua đời vào ngày 4-11-1847 tức năm Thiệu Trị thứ 

bảy. Ngài làm vua được 7 năm và chết năm 37 tuổi.  

430 Việt Sử Toàn Thư 

 Phần Thứ Tư Việt Nam Mất Độc Lập Về Tay Pháp  

Chương 1 IV- Dực Tông (1847 - 1883)  

- Vua Tự Đức và tình thế nước ta giữa thế kỷ XIX - Việc ngoại giao và cấm đạo - Việc văn học và binh chế - Hai vụ đảo 

chính - Cuộc kinh lý của De Montigny  

1- Vua Tự Đức và tình thế nước ta giữa thế kỷ XIX 

Vua Thiệu Trị sau bảy năm ở ngôi thì hết số. Trước khi chết Ngài cử ông hoàng Hồng Nhậm là con thứ lên kế vị. Hồng 

Bảo tuy là con cả nhưng bị gạt bỏ vì ông này ham chơi bời, phóng đãng không được cảm tình của vua cha. Hồng 

Nhậm bước lên ngai vàng vào tháng 10 năm Đinh Tị (1847) tại điện Thái Hòa, lấy niên hiệu là Tự Đức. Lúc bấy giờ nhà 

vua mới 19 tuổi, nhưng ngài đã có học nhiều. Có thể nói rằng ngài là một ông vua "từ chương" nhất của triều Nguyễn, 

thờ mẹ rất hiếu, tính tình điềm đạm, giản dị. Đối với quốc sự ngài rất chăm chỉ không bỏ sót một việc nào dầu nhỏ 

nhặt. Ngài làm ra ba tập Ngự Chế Thi Văn. Thập Điều Tự Học Diễn Ca và Luận Ngữ Diễn Ca. Hai tập sau có tính cách 

giáo dục cho hoàng gia và dân chúng. Phò tá ngài bấy giờ có các ông Trương Đăng Quế, Vũ Trọng Bình, Hoàng Diệu, 

Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản là những bề tôi tận tâm và tận trung nhưng đối với nhiều biến cố hết  sức lớn 

lao đời bấy giờ thì vua Tự Đức cũng như triều thần rõ rệt là không đủ tài đủ sức để đảm đương sứ mạng đối với quốc 

dân và lịch sử. Quả vậy, các nước Âu Châu thuở đó đối với dân ta nói riêng, đối với các nước Á Đông nói chung đã 

tiến bước quá xa. Họ tổ chức xã hội rất có qui củ, làm ra được nhiều máy móc tinh xảo để phục vụ đời sống hàng ngày, 

đóng được tàu bè, xe cộ, tha hồ ngược xuôi năm châu bốn bể, chế tạo ra máy điện máy nước vô cùng thuận tiện, lại 

biết làm các súng đạn hết sức lợi hại. Nhờ vậy kỹ nghệ, kinh tế, thương mại của họ phát đạt vô cùng, sản phẩm đủ thứ 

được đem bán. Còn ta thì thiếu sót hẳn cái học thực tế và cái thuật phú quốc cường binh, bởi không biết trông xa thấy 

rộng, ai ai cũng chỉ cho rằng nước Tàu là mạnh, tự cho mình văn minh còn người Tây Phương là dã man, mọi rợ. Giới trí 

thức do cái lò từ chương, cử nghiệp đào tạo luôn luôn nghĩ rằng thơ hay phú giỏi là đủ, bàn đến việc đời, việc nước thì 

chỉ biết đem các chuyện cổ nước Tàu ra làm mực thước. Thảng hoặc có người đã qua các nước Âu Châu đem chuyện 

văn minh, khoa học của họ ra mà bàn thì cho là ngụy ngôn, tà thuyết. Đó là trường hợp các ông Nguyễn Đức Hậu, 

Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều đã đi du học Tây phương năm Bính Dần (1866) trở về dâng lên nhiều bản điều trần 

xin canh cải nước nhà, hòng theo dịp các nước tân tiến thuở ấy, nhưng chẳng chịu nghe cả. Năm Mậu Thìn (1868) tức 

là năm Tự Đức XXI ông Đinh Văn Điền ở Ninh Bình đã dâng sớ xin nhà vua khai mỏ vàng, lập dinh điền, mở cửa cho 

người ngoại quốc vào buôn bán, thao luyện quân đội, thêm lương cho sĩ tốt, bớt sưu thuế cho dân v.v... Từ năm Kỷ 

Mão (1879) đến năm Tân Tỵ (1881) ông Nguyễn Hiệp đi sứ Tiêm La, ông Lê Đĩnh đi sứ Hương Cảng cũng đều trình 

việc Tiêm La lập điều ước giao hảo với các nước Anh, Pháp, Ý, Phổ là khôn ngoan, nhờ đó Tiêm không bị họ gây sự và 

hiếp chế, vì ai cũng có quyền lợi. Tàu, Nhật cũng học theo Tây Phương nên đã bãi bỏ các công cuộc bài ngoại. Nhưng 

khi đem ra duyệt nghị, vì lòng tự ái cũng như do sự u mê, các quan đại thần của vua Dực Tông đều cho rằng các việc 

đã trình bày không hợp thời, rồi kiếm cớ bác bỏ đi. Tới khi nước Pháp đem binh hùng, tướng mạnh vào Việt Nam, 

chiếm đánh từ lục tỉnh ra tới Bắc Hà dễ dàng như vào chỗ không người, chỉ khổ đám dân đem làm mồi cho súng đạn 

mà nước mất vẫn hoàn mất. Còn đám người lãnh đạo bấy giờ mới thấy mình bất tài, bất lực, hối hận rằng mình ươn hèn, 

lạc hậu thì đã muộn. 

2- Việc ngoại giao và cấm đạo

 Cũng theo đường lối của hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Dực Tông khước từ mọi việc giao thiệp với các nước 

ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ có mục đích thương mại. Năm Canh Tuất (1850) là năm Tự Đức thứ ba, tàu Mỹ Lợi Kiên 

vào cửa Hàn có quốc thư xin thông thương không được tiếp nhận. Rồi từ năm 1955 và trên hai chục năm sau nữa các 

nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha nhiều lần có tàu vào cửa Hàn, cửa Thị Nại và Quảng Yên xin mua bán với dân ta cũng 

không được. Sau này Gia Định lọt vào tay Pháp, việc ngoại giao với các nước Tây Phương khó khăn, nhà vua mới thay 

đổi chính sách rồi đặt ra Bình Chuẩn Ty để coi việc buôn bán và Thượng Bạc Viện để giao dịch với các người ngoại 

dương, nhưng các người được ủy thác vào các việc này chẳng biết gì cả, bởi họ có đâu được học ngoại giao và điện 

thoại bao giờ... Vua Tự Đức lên ngôi, đối với việc truyền bá đạo Thiên Chúa buổi đầu không gay gắt lắm tuy đã có ban 

hành dụ cấm đạo. Dụ này nói rằng người ngoại quốc nào giảng đạo sẽ bị xử tử hình, các linh mục Việt Nam không bỏ 

đạo sẽ bị khắc chữ vào mặt rồi phải đày đi các nơi lam chướng, còn dân chúng ngu muội thì các quan phải răn bảo chớ 

không được chém giết. 

Nhưng khi có việc ông hoàng Hồng Bảo âm mưu gây cuộc đảo chính bị thất bại, vua Tự Đức thấy có bàn tay ngoại 

quốc bí mật nhúng vào bên trong, lại có cuộc thảo luận giữa các đảng viên phiến loạn với các giáo sĩ nên ngài cho thi 

hành ráo riết sắc dụ ngày 21.3.1851 là xử tử hình tất cả các giáo sĩ Âu Châu và Việt Nam trên khắp lãnh thổ nước nhà. 

Các giáo dân khi ấy bị coi như có đồng lõa với quân phản nghịch. Augustin Schoeffer là một giáo sĩ mới 29 tuổi bị 

chém ở Sơn Tây ngày 1.5.1851, năm sau có Jean-Louis Bonnard cũng phải trảm quyết ở ngoài Bắc và rất nhiều giáo 

dân nữa. Năm 1855, một đạo dụ khác ra đời cay nghiệt hơn là trọng thưởng những ai bắt được các giáo sĩ và tố cáo 

được các giáo dân, do đó mà Pháp cùng Tây Ban Nha ít năm sau nắm được cơ hội dùng vũ lực ra mặt xâm chiếm nước 

ta. 

3- Việc văn học và binh chế 

Vua Tự Đức là một ông vua hay chữ nhất của họ Nguyễn. Ngài rất trọng Nho học, chăm về việc học hành, sửa sang 

việc thi cử. Ngài đặt Nhã sĩ khoa và Cát sĩ khoa để lấy người ra làm quan. Ngài lập Tập Hiền Viện và Khai Kinh Viện 

cũng như vua Lê Thánh Tông lập ra Tao Đàn để cùng các quan bàn sách vở, ngâm thơ phú hay thảo luận chính trị. 

Do lệnh ngài, bộ Khâm Định Việt Sử được biên soạn gồm các việc từ đời Hồng Bàng đến hết đời Hậu Lê... Năm Tự Đức 

thứ XIV (1861) triều đình truyền cho các tỉnh lựa người khỏe mạnh ra làm lính Võ Sanh. Năm Ất Sửu (1865) có kỳ thi Võ 

tiến sĩ. Việc võ được xúc tiến bởi trong nước có nhiều cuộc phiến loạn xảy ra, nhưng tổ chức binh chế, việc huấn luyện 

vẫn theo lề lối cổ truyền chỉ có ảnh hưởng trong việc đối nội mà thôi. Còn đối với cơ giới hóa chiến cụ và chiến pháp 

của ngoại quốc rõ rệt là vô hiệu. Bấy giờ ta chỉ có súng điểu thương cũ phải châm ngòi đạn mới nổ (súng này có lẽ là 

súng hỏa mai ta còn thường thấy ở các vùng Mường, Thổ gần đây). Trong mỗi đội 50 người chỉ có 5 người được dùng 

súng này. Súng đã ít, việc tập bắn lại ít hơn. Mỗi năm chỉ bắn một lần, mỗi người lính chỉ được bắn có 6 phát đạn. Ai 

bắn quá số này phải bồi thường. Còn súng đại bác của ta đã nổ rất chậm lại hay hư hỏng. Trái lại, lúc này súng đại bác 

của người Tây Phương rất là lợi hại, súng trường nạp hậu, các đạn của ta chỉ là trò trẻ. Tình trạng quân sự hèn kém, 

chính trị hủ bại như thế là tự mình rước lấy sự bại vong rồi còn kêu ca vào đâu nữa. 

4- Những vụ phiến động trong nước 

Vua Dực Tông lên ngôi được ba năm (1850) đã cử những danh thần làm Kinh Lược Đại Sứ để đi khám xét công việc 

quân dân ở các khu vực trong nước. Tỉ dụ: Nguyễn Tri Phương phụ trách xứ Nam Kỳ, Phan Thanh Giản coi ba tỉnh 

miền Nam Trung Việt, Nguyễn Đăng Giai kiểm soát ba tỉnh phía Bắc miền Trung. Nhưng từ năm Tân Hợi trở đi (1851) 

giặc dã nổi lên ở nhiều nơi, nhất là ở Bắc Kỳ. Ta thấy rõ rệt lòng dân ở đây còn tưởng nhớ đến nhà Lê nên đã dấy 

động để phá chánh quyền nhà Nguyễn. Có vài vụ loạn mà người cầm đầu xưng mình thuộc dòng dõi nhà Lê, đã lôi 

cuốn được khá nhiều nhân dân. Ngoài người trong nước phá trật tự an ninh, lại còn giặc Tàu tràn sang. Bọn này thuộc 

dư đảng Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn tổ chức chống lại nhà 

Thanh bị bại chạy qua nước ta. Chúng cướp phá các vùng thượng du khiến quan quân ta phải đi đánh dẹp vất vả. Đã 

thế dân còn phải chịu nhiều thiên tai như lụt lội, vỡ đường liên miên. Đê Văn Giang thuộc tỉnh Hưng Yên vỡ luôn 18 

năm thì miền Nam Trung Châu là nơi đông dân nhất sao khỏi được rối loạn. Đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân 

phát sinh ra những vụ phiến động của đồng bào Bắc Kỳ, nếu không có mục đích chính trị. Cũng trong năm này có 

giặc Tam Đường do ba lãnh tụ: Quảng Nghĩa Đường, Lục Thắng Đường, Đức Thắng Đường hoành hành tại Thái 

Nguyên được quan Kinh Lược Nguyễn Đăng Giai đến phủ dụ nên đất Bắc được yên ổn một thời. Đến năm Giáp Dần 

(1854) Nguyễn Đăng Giai mất, Bắc Kỳ lại mất an ninh, trật tự như cũ. Bấy giờ ở Sơn Tây có một người tôn phò Lê Duy 

Cự là con cháu nhà Lê lên làm minh chủ. Cạnh Cự có Cao Bá Quát làm quốc sư. Quát sinh ở làng Phú Thụy, huyện Gia 

Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Đổ cử nhân, giữ chức giáo thụ phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây. Ông này là một trí thức thông minh 

bậc nhất đời bấy giờ nên đã được tôn là "thần Siêu, thánh Quát" và đã có thơ ca ngợi tài của ông:  Văn như Siêu, Quát 

vô tiền Tấn  Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường115 Con người có tài này chẳng may có tính kiêu ngông nên bị quan 

lại đương thời ghen ghét, vì vậy không bước cao được trên thang danh vọng. Lại nữa, ông thấy vua quan thuở đó hủ 

bại nên có ý bất mãn, do đó mà tay kiếm tính xây dựng lại thời thế. Tháng Chạp năm ấy phó lãnh binh Sơn Tây là Lê 

Thuận dánh bắt được Cao Bá Quát rồi đem về chém tại làng. Vụ khởi nghĩa của Lê Duy Cự bùng ra cuối năm ấy mà vào 

khoảng tháng 5 thì có châu chấu phá hoại mùa màng dữ dội nên người ta gọi vụ loạn này là giặc châu chấu. Ông Quát 

chết rồi, bọn Lê Duy Cự còn hoạt động thêm được vài năm nữa. Vụ Cao Bá Quát không thể gọi là một đám giặc tầm 

thường vì là một đảng cách mạng có chủ trương lật đổ chính quyền nhà Nguyễn bởi nó không cướp của giết người 

như những vụ loạn khác. Kế tiếp "giặc châu chấu" là vụ Lê Duy Minh do tên Tạ Văn Phụng mạo xưng dòng dõi họ Lê 

cùng với người đạo trưởng (trùm đạo Thiên Chúa) tên là Trường dấy động ở miền Quảng Yên vào tháng Chạp năm 

Tân Dậu (1861). Phụng đã làm lính mộ cho liên quân Pháp - Tây Ban Nha khi trung tướng Charner ra đánh Quảng Nam. 

Lúc này tại Bắc Ninh có cai tổng Nguyễn Văn Thịnh tức cai tổng Vàng đã xướng nghĩa và nổi danh một thời ở khắp xứ 

Bắc. Thịnh lập tên Uẩn cũng xưng là con cháu nhà Lê lên làm minh chủ kết liên với Phụng đánh phủ Lạng Giang, 

huyện Yên Dũng và Bắc Ninh nhiều phen rất nguy ngập. Để trừ bọn Phụng và Thịnh không những quan quân tại địa 

phương mà còn cả quân Kinh, quân Thanh Nghệ ra tiễu trừ dưới quyền chỉ huy của các đại thần như hình bộ thượng 

thư Trương Quốc Dụng làm Hải An tổng đốc, Sơn-Hưng-Tuyên tổng đốc Nguyễn Bá Nghi, tham tán quân vụ Đào Trí 

v.v...                                       

[ 115 Tùng, Tuy đây là Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương, cả hai đều là chú vua Dực Tông và nổi tiếng thơ hay văn 

giỏi. ]

Vụ loạn này cũng có tính cách chính trị và kéo dài được 4 năm (1861-1865). Sau đó có cả Nguyễn Tri Phương làm Tây 

Bắc tổng thống quân vụ đại thần ra tiếp sức. Bấy giờ lại có nhiều đảng giặc khác hoạt động ở Tuyên Quang, Thái 

Nguyên, Cao Bằng vừa là người Tàu vừa là người Thổ. Đã có lần Phụng cho người vào Nam Kỳ điều đình với thiếu 

tướng Bonnard đem quân ra giúp, hứa nếu thành công sẽ để cho Pháp bảo hộ, nhưng không xong vì lúc này Pháp còn 

lo củng cố xứ này và đang cần tạm thời có sự hòa hảo với triều đình Huế. Sau bọn Phụng chiếm miền duyên hải để tiện 

việc tiến thoái. Cuối năm Quí Hợi (1863), Phụng đã tổ chức được đạo thủy quân gồm 500 chiếc thuyền ở ngoài đảo Cát 

Bà và Đồ Sơn, tính đánh vào Huế, chẳng may bị bão; nhưng thế lực của giặc đến năm Ất Sửu (1865) vẫn còn lớn. Đốc 

binh Ông Ích Khiêm được cử sang thương nghị với quân nhà Thanh ở Khâm Châu cùng tấn công thành Hải Ninh là 

căn cứ lọt vào tay Phụng từ lâu. Phụng thua to, theo đường bể chạy vào Quảng Bình, Quảng Trị, sau bị bắt về Huế trị 

tội. Sau việc Phụng có đám giặc khách đánh được tỉnh Cao Bằng. Quan kinh lược Võ Trọng Bình và tuần phủ Phạm 

Chi Hương đem quân lên Lạng Sơn đánh dẹp, đến tháng 9 năm Ất Sửu mới yên. Tính ra Bắc Kỳ mất trật tự luôn 15 

năm, triều đình hao quân tổn tướng khá nhiều và bởi miền Bắc quá rối loạn nên triều đình đã phải ký hòa ước năm 

Nhâm Tuất (1862) để được rảnh tay đối phó với loạn quân kể trên. Trong khi miền Bắc đang có nhiều cuộc rối ren thì 

ngay ở nội bộ của hoàng gia cũng nổi lên vài cơn giông tố nữa, đó là vụ âm mưu cướp ngôi của Hồng Bảo và cuộc 

đảo chính của ba anh em họ Đoàn, con rể Tùng Thiện Vương. 

Vụ Hồng Bảo: 

Như trên đã nói, An Phong Công Hồng Bảo là con cả nhưng là thứ xuất (con vợ thứ) và kém phong độ nên không 

được lên ngôi. Vào năm 1851, ông sinh ý dùng bạo lực của ngoại quốc để đoạt lại ngai vàng. Trong bức thư đề ngày 

23.2.1851 in trong Annales de la Propagation de Foi, giám mục Pellerin có nói rằng ông hoàng thất thế này đã điều 

đình với những người công giáo ở kinh thành để ủng hộ mình, hứa sẽ cho họ tự do hành đạo một cách đắc ý. Các giáo 

hữu hỏi ý kiến giám mục, giám mục nói rằng tôn giáo không tán thành việc tham gia chính trị như việc truất ngôi vua. 

Rồi cuối tháng Giêng năm 1851, nhân ngày Tết Nguyên Đán, Hồng Bảo sửa soạn trốn sang Tân Gia Ba, tính qua cầu 

viện người Anh thì bị bắt. Một hôm người ta thấy xuất hiện trên sông Hương một chiếc tàu nhỏ, còn ở ngoài cửa bể 

lân cận (chắc là cửa Thuận An) có một chiết tàu lớn nữa. Các nhà chức trách đã đến khám xét chiếc tàu nhỏ. Thấy có 

khí giới và các thứ đạn dược tích trữ trong tàu làm người ta phải nghi rằng tàu này tính dùng vào việc đem Hồng Bảo 

thoát ra ngoại quốc. Nếu như việc này xảy ra dưới đời Minh Mạng thì Hồng Bảo đã bị xử tội lăng trì rồi, nhưng với vua 

Tự Đức thì chỉ có sự canh chừng mà thôi. Hồng Bảo định tự tử, may mấy kẻ đầu tớ ngăn cản kịp. Rồi ông mặc áo chế, 

để đầu bù, ôm đứa con sáu tuổi vào đại nội khóc lóc thảm thiết. Ông trình bày với vua Tự Đức là ông không có ý trốn 

khỏi hoàng thành gọi người ngoại quốc về gây loạn mà để xa lánh nơi mà mọi người lìa bỏ ông, khinh bỉ ông bởi lúc 

này ông nghèo khó. Giờ ông xin qua Pháp để sống một cuộc đời thường dân. Nhà vua tin lời rồi vỗ về an ủi ông, lại 

ban cho ông 100 thoi bạc và một nén vàng cùng bảo ông không cần phải đi xa. Kẻ nào có ý làm hại ông, vua sẽ trừng 

phạt cho. Tuy được sự khoan hồng đặc biệt như vậy mà Hồng Bảo vẫn nuôi ý chí cướp ngôi của em. Theo lời thư viết 

năm 1855, cũng của giám mục Pellerin, An Phong Công lại họp với một số người bất đắc chí, có nhiều cuồng vọng để 

tính đại sự phen nữa. Họ uống máu ăn thề rồi cho người ra ngoại quốc liên lạc với các đồng chí khác. Một người đã từ 

Tiêm La về, qua Cao Miên mang theo một nhà sư cũng là đảng viên nhưng đối đãi không được tử tế nên khi hai người 

về tới nội địa Việt Nam, nhà sư liền tố cáo âm mưu chính trị của bọn Hồng Bảo. Các đảng viên của Hồng Bảo bị bắt liền 

và bị tra tấn, đã khai mọi chi tiết về vụ mưu loạn kể cả chuyện cái tàu đậu ở bờ sông Hương và chiếc tàu ở ngoài khơi 

không  rõ quốc tịch nào, tên có khá đông người Tiêm La, Trung Quốc, Nam Kỳ và cả người Âu Châu nữa. Đoàn người 

này đợi mãi không thấy ai đến liên lạc nên phải chạy ra khơi. Việc này đã làm náo động cả kinh thành như sắp có giặc. 

Các nhà cầm quyền phải ra nghiêm lịnh mới trấn tĩnh được nhân tâm. Triều đình nghị án xử Hồng Bảo vào tội lăng trì, 

nhưng vua Tự Đức giảm xuống án chung thân. Hồng Bảo đã dùng chiếc vải trải giường thắt cổ chết cho khỏi nhục 

nhã. Con cháu phải đổi họ Nguyễn sang họ Đinh là họ mẹ và tài sản bị tịch thu hết. Thảm sử huynh đệ tương tàn của 

anh em vua Tự Đức đến đây chưa là hết. Giặc Chày Vôi: Năm Bính Dần (1886) là năm sau (Tự Đức thứ XIX), nhà vua 

cho xây Vạn Niên Cơ, tức Khiêm Lăng. Dân phu, binh sĩ phải phục dịch nhọc nhằn, vất vả. Đám người này tất nhiên 

không khỏi sự oán hận nhà vua. Ở kinh bấy giờ có ba anh em họ Đoàn: Đoàn Trung, Đoàn Hữu Ái và Đoàn Tự Trực 

muốn nổi lên lật đổ chính quyền đương thời. Họ khai thác ngay lòng căm hờn của dân chúng, lợi dụng họ làm công cụ 

cho cuộc phản nghịch. Họ Đoàn kết liên được với Trương Trọng Hòa, Phạm Lương lập ra Đông Sơn Thi Tửu Hội để 

che dậy hành vi chính trị của mình. Họ lấy danh nghĩa tôn phù Đinh Đạo là con ông hoàng Hồng Bảo (trên đây đã nói 

đến). Như vậy ta có thể hiểu rằng việc truất ngôi cửu ngũ của Hồng Bảo có lẽ đã khiến một phần nào nhân dân miền 

Trung bất mãn, bởi lòng dân thường không ưa chuyện bỏ trưởng lập ấu đã gây nên nhiều biến cố ở các dòng vua họ 

chúa. Dư luận của một vài người tông thất họ Nguyễn cho rằng động lực trong cuộc phản nghịch này một phần là do 

họ Đoàn muốn mưu đồ phú quý, lại còn có sự trả thù cho Hồng bảo và gây thanh thế cho Tùng Thiện Vương là nhạc 

phụ của họ Đoàn (Tùng Thiện Vương là chú vua Tự Đức). Hồng Bảo xét ra lại là học trò và là bạn thân của Tương An 

Công, em ruột Tùng Thiện Vương nữa. Ý kiến này đã được ông Bửu Kế, tác giả bài "việc Hồng Bảo bị truất" in trong 

Nguyệt San Đại Học số 8 ra tháng 3.1959. Theo chúng tôi, họ Đoàn thuộc loại người ngang tàng và bất mãn với chế 

độ, về phương diện này hay phương diện khác mà nổi lên, những điều mà ông Bửu Kế nói ra có thể chỉ là nguyên 

nhân phụ mà thôi. Rồi do uy tín của Tùng 

Thiện Vương, một số võ quan, binh sĩ và dân chúng đã dự vào cuộc phản nghịch của anh em họ Đoàn. Ta còn có thể 

nghĩ rằng chưa dễ Tùng Thiện Vương đã là người ngoại cuộc. Bọn họ Đoàn lấy chùa Pháp Vân làm nơi tụ họp và chế 

tạo binh khí. Trong thành họ liên lạc được với Tôn Thất Cúc giữ chức hữu quân đại nội làm vây cánh, bên ngoài họ có 

người ở Khiêm Lăng tuyên truyền trong đám quân, dân kiến thiết nơi này qua hai câu:   Vạn Niên là vạn niên nào?  

Thành xây xương lính, hào đào máu dân Rồi ngày 8 tháng 9 năm Bính Dần, vào lúc canh ba nhóm phản nghịch kéo 

đến Khiêm Lăng bắt thống chế Nguyễn Văn Xa và các quan chức phụ trách việc xây Vạn Niên Cơ. Họ tuyên bố bãi bỏ 

công tác xây lăng, hô hào dân chúng về kinh thành hạ bệ đương kim hoàng đế và lập Đinh Đạo lên làm vua. Ai trái 

lệnh sẽ xử tử ngay tại chỗ. Được một số người tham dự thêm nên đoàn quân của Đoàn Trưng lên tới chừng một ngàn, 

họ mang gươm, giáo, đùi, gậy và cả chày giã vôi116 rồi do cửa Nam họ kéo vào Ngọ Môn cướp thêm khí giới ở các kho 

Cẩm Y và Kim Ngô. Tôn Thất Cúc có mặt ở đây liền gia nhập đám phiến loạn. Thấy động, phó vệ úy Nguyễn Thanh 

và phó chỉ hy sứ Phạm Viết Trang đóng cửa chống nhau với giặc. Lúc này nhà vua nằm cách chỗ quân phiến loạn 

đang phá phách chỉ một bức tường. Chưởng vệ Hồ Oai xông ra hăng hái hơn cả, kêu gọi thị vệ và binh sĩ hết sức chiến 

đấu. Hai bên xô xát, bên phản nghịch yếu thế bỏ chạy dần. Ít giờ sau Đoàn Trưng bị thương và hai anh em đều bị bắt. 

Những cánh quân khác kế tiếp đạo tiền phong cũng bị tan rã khi nghe tin anh em Đoàn Trưng đã lỡ việc. Sự thất bại 

của Đông Sơn Thi Tửu Hội không ngoài nguyên nhân là thiếu sự hậu thuẫn sâu rộng trong dân chúng, tổ chức quân 

lực không đầy đủ, sự công phẫn của nhóm quân dân tại Khiêm Lăng chỉ như ngọn lửa rơm chóng bốc mà chóng tàn, vì 

vậy vụ phiến động chỉ nổi lên được một vài giờ rồi bị dẹp tan ngay. Sau vụ đại náo kinh thành này Đinh Đạo bị xử tử 

cả nhà, và sử của triều Nguyễn117 chép rằng bọn Đoàn Trưng đã "mượn tiếng phò Đinh Đạo", vậy thì vua Tự Đức đã 

làm đúng việc của vua Minh Mạng là chỉ mới nghe Lê Văn Khôi tung lời tuyên ngôn phò con hoàng tử Cảnh mà đã 

giết cả nhà chị dâu lẫn cháu ruột (bấy giờ gia đình đông cung Cảnh đang ở cả tại Huế trong khi đó vụ loạn tại Gia 

Định). Ngày nay người ta cho rằng cái án Đinh Đạo hoàn toàn giống cái án Cao Bá Nhạ, nó chỉ có ý nghĩa dưới một 

chế độ hà khắc của đám người tàn bạo mà thôi...                                        

 [116 Do đó sau này vụ loạn này được gọi là giặc chày vôi.] [ 117 Sử liệu dùng để viết bài này trích ở Quốc Triều 

Chánh Biên Toát Yếu, Khâm Định Việt Sử, Tiểu Sử Trần Tiến Thành của Đào Duy Anh, Tùng Thiện Vương của Ưng 

Trình và Annalles de la Propagation de la Foi của Hội truyền giáo người ngoại quốc. ]

Cùng một nhịp với vụ phản nghịch ở kinh thành, nhiều vụ loạn khác cũng nổi lên làm cho triều đình của vua Tự Đức 

thêm rối. Tại Quảng Ngãi giặc Đá Vách quấy nhiễu dân chúng. Quan tiễu phủ Nguyễn Tấn đánh dẹp mãi mới yên. 

Ngoài Bắc giặc Khách lại liên tiếp nổi lên, đó là dư đảng của Hồng Tú Toàn (Thái Bình Thiên Quốc) thất bại ở bên Tàu 

được Ngô Côn dẫn sang cướp phá các tỉnh miền Thượng du và Trung du. Triều đình phải nhờ quân Tàu sang dẹp hộ, 

thắng được Ngô Côn ở Thất Khê (năm Mậu Thìn 1868) nhưng đến tháng 7 năm ấy các quan tham tán Nguyễn Mại, 

phó đề đố Nguyễn Viết Thành tử trận, thống đốc Phạm Chi Hương bị bắt. Thay thế cho các bại tướng kể trên, Vũ 

Trọng Bình ra làm Hà Ninh tổng đốc hợp sức với đề đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài lấy lại được Cao Bằng vào tháng 

5 năm Kỹ Tỵ (1869). Ngô Côn chạy xuống Bắc Ninh vào cuối năm Canh Ngọ (1870), vây quân triều đình ở đây rồi bị 

quan tiểu phủ Ông Ích Khiêm bắn chết (theo lời dân chúng ở Tuyên Quang thì Ngô Côn bị bắt và xử chém ở đây). Chủ 

tướng Ngô Côn tuy không còn nữa nhưng các bộ tướng là Hoàng Sùng Anh (hiệu cờ vàng), Lưu Vĩnh Phúc (hiệu cờ 

đen), Bân Văn Nhị, Lương Văn Lợi (hiệu cờ trắng) vẫn hoạt động ở các vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên. Quan tổng 

thống quân vụ Bắc Kỳ là Đoàn Thọ lên hành binh ở Lạng Sơn bị Tô Tứ nửa đêm hãm thành bắt được và giết đi, còn 

Vũ Trọng Bình trốn thoát. Trước tình thế nghiêm trọng này triều đình vội phái Hoàng Kế Viêm và Tôn Thất Thuyết ra 

cứu viện. Qua tháng Tư năm Tân Mùi (1871) hình bộ thượng thư Lê Tuấn được phái thêm ra Bắc để tiếp ứng. Vào 

tháng 11 năm ấy tại Quảng Yên, giặc Hoàng Tề thông với Tô Tứ và giặc Tàu Ô ở ngoài bể tràn vào. Sau Tề bị quan 

quân bắn chết ở huyện Thanh Lâm, tỉnh Hải Dương. Riêng quân Cờ Vàng và Cờ Đen là khó trị hơn cả. Sau nhờ chỗ 

chúng đánh phá lẫn nhau, quan ta dụ được Lưu Vĩnh Phúc cho giữ việc quản trị tỉnh Lào Kay, được thu thuế má để 

chống giữ với đảng Cờ Vàng ở Hà Giang. Tháng 7 năm Nhâm Thân (1872) Nguyễn Tri Phương được cử ra Bắc làm 

tuyên sát đổng sức đại thần để chỉ huy việc đánh dẹp. Đến tháng 8 năm Ất Hợi (1875) Hoàng Sùng Anh về đóng ở 

làng Châu Thượng, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên bị quan tán tương quân vụ bắt được, bấy giờ mới hết nạn Cờ 

Vàng. Nhưng từ năm này đến năm Canh Thìn (1880) còn nhiều đám giặc khác nổi lên nữa (giặc Trận, giặc Lý Dương 

Tài). Quan Tàu và ta lại hiệp nhau đánh dẹp, sau bắt được loạn tướng họ Lý giải về Tàu. Vì đất Bắc loạn liên miên, 

triều đình đặt ra chức Tĩnh Biên Sứ để bảo vệ các tỉnh đường ngược. Nguyễn Hữu Độ và Trương Quang Đản được làm 

Tĩnh Biên phó sứ để trông coi hai đạo Lạng Giang và Đoan Hùng (thuộc Tuyên Quang) dưới quyền Tĩnh Biên sứ 

Hoàng Kế Viêm. Trong những năm cuối cùng này triều đình lo nội trị đã đủ mệt lại gặp nhiều sự khó khăn với Pháp 

nữa thì rõ rệt là quá bất lực trước sự tiến triển quá gấp của tình thế.   

Phần 4 - Chương 2 Pháp Ra Mặt Xâm Chiếm Việt Nam 

" Quand un peuple, pour des raisons quelconques a mis le pied sur le territoire d'un 

autre peuple, il n'a que trois partis à preder: exterminer le peuple vaincu, réduire au 

servage honteux ou l'associer à ses destinées." 

          Paul Bert 

"Khi một dân tộc vì một lẽ nào đó đã đặt chân lên lãnh thổ của một dân tộc khác thì 

chỉ có ba việc: Tiêu diệt kẻ bại, nô lệ hóa họ một cách nhục nhã, hoặc đồng hóa họ 

theo mình. "

 - De Montigny đi công cán Á Châu - Chiến sự từ Đà Nẵng vào Sài Gòn - Ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị mất - Pháp 

chiếm nốt ba tỉnh miền Tây   

1- Nguyên nhân của việc Pháp xâm lăng Việt Nam  Từ đời Tự Đức nước Việt Nam đi dần tới chỗ ngã ba của lịch sử. 

Nước Việt Nam độc lập từ thế kỷ thứ X, sau ba thế kỷ nội chiến (1527) nguyên lực quốc gia bị hao mòn thì Tây Phương 

với một nền văn minh mới, một nguồn sinh lực dồi dào đã tràn sang Á Châu làm đảo lộn tình thế của hầu khắp các 

quốc gia. Vì kém hèn, cuối thế kỷ XIX chúng ta rơi vào vòng lệ thuộc của người da trắng. Nếu xét sự tiến triển của 

phong trào thực dân và đế quốc của Tây Phương khởi từ thế kỷ XV, cuộc chạy đua mãnh liệt để giành nhau thị trường 

cùng đất đai từ thế kỷ sau liên miên và ráo riết cho đến cuối thế kỷ XIX, việc đánh cướp lấy đất của người Việt như thế 

là quá muộn. Ngoài ra, biến cố có ảnh hưởng tai hại nhất cho Việt Nam là sự thất bại chính trị và quân sự của Trung 

Quốc vào cuối thế kỷ XIX sau trận chiến tranh nha phiến. Lần lần nhà Thanh ký các Nam Kinh Điều Ước, Trung-Mỹ, 

Trung-Pháp Điều Ước ký ngày 3-7-1844, 23-10-1884. Mười năm sau nữa Pháp mới cương quyết xâm chiếm Việt Nam. 

Một mặt Pháp bấy giờ đã có hoàn cảnh thuận tiện để xuất binh, mặt khác Pháp cho rằng nếu quân đội Pháp không gấp 

bước vào Việt Nam, có thể Anh sẽ đến Việt Nam trước. Thêm vào đó, một nguyên nhân nữa là chuyện nước Tàu vốn 

là "thiên triều" đối với Việt Nam còn bại trận thì Việt Nam nước nhỏ dân thưa dại gì mà chẳng thôn tính. Nếu như trong 

khoảng thời gian Pháp còn lúng túng với nội bộ cùng với liệt cường, vua chúa Việt Nam sớm có một chính sách đối 

ngoại khôn khéo, am hiểu thuật phú quốc cường binh thì chúng ta đâu phải viết những trang quốc sử bằng máu và 

nước mắt vào hạ bán thế kỷ XIX. Tiếng súng của trung tướng Rigault de Gnouilly và đại tá Lapierre vào mùa thu năm 

Đinh Vị (1847), tiếc thay, chưa đủ là một cảnh cáo cho cái triều đình hôn ám của vua Thiệu Trị. 

2- Đặc phái viên Pháp De Montigny đến Việt Nam 

 De Montigny là lãnh sự Pháp ở Thượng Hải, tháng 11-1855 được đặc ủy từ Pháp sang Đông Nam Á bằng đủ mọi cách 

để thết lập các cơ sở chính trị và thương mại cho nước Pháp. Bấy giờ Pháp nhắm vào Tiêm La, Cao Miên và Việt Nam. 

Dĩ nhiên Việt Nam được chú trọng hơn cả. Sau khi nhân danh hoàng đế Nã Phá Luân đệ tam ký xong với triều đình 

Tiêm La một hiệp ước chấp thuận cho Pháp được vào tự do buôn bán, giảng đạo, nghiên cứu khoa học, đặt đại diện 

ngoại giao, mua các bất động sản, De Montigny qua Cao Miên vào tháng 10-1856. Tại đây sứ giả Pháp cũng có một 

công tác tương tự nhưng bị Tiêm ngăn trở bởi Tiêm vẫn muốn giành độc quyền ảnh hưởng chính trị tại xứ Chùa Tháp 

(còn nếu Tiêm ký gấp với Pháp chỉ là kéo Pháp về phe mình cho có uy thế để khỏi bị Anh hiếp chế). Bị người Tiêm để 

ý, quốc vương Miên không dám ra mặt thân Pháp, rồi giám mục Michel chỉ mới thu xếp được một bức thư, trong đó 

vua Nặc Ông Tôn gửi Napoléon đệ tam xin Pháp che chở nước Mên. Tóm lại, với Cao Mên, De Montigny thâu lượm 

được gì. Cuối tháng 10 ông tới Tourane bằng tàu Le Marceau. Đến trước tàu của viên đặc ủy này là chiếc Catinat vào 

ngày 16-9-1856. Thuyền trưởng của tàu Catinat là Le Lieur nói cho các quan Việt Nam ở Tourane biết có một bức thư 

đệ lên nhà vua do đặc ủy của Pháp mang đến. Và chỉ vài ngày nữa viên đặc ủy sẽ có mặt ở đây. Quan ta tiếp thư và 

bảo Le Lieur chờ hồi âm. Nhưng bức thư của De Montigny được mở ra coi rồi lại đem trả lại trên bãi biển. Le Lieur liền 

tuyên bố rằng việc quăng bức thư của nước Pháp trên bãi biển là cả một sự nhục mạ, và như vậy Việt Nam đã tuyên 

chiến với Pháp. Mấy ngày sau viên thuyền trưởng này thấy quân đội ở các hải đồn có phần hoạt động khác thường 

liền cho đổ bộ 50 tên lính và bắn vài phát đại bác vào đồn chính của ta. Đội quân đổ bộ của Pháp hạ được cổng đồn, 

quân ta bỏ chạy và bị bắt khoảng 40 người. Pháp hạ được thành Đà Nẵng, thu được 45 khẩu đại bác và một số thuốc 

súng rất lớn. Hôm sau quan ta trở lại điều đình, Le Lieur bảo phải đợi viên đặc ủy tới vì ông này mới đủ thẩm quyền 

nói chuyện với nhà cầm quyền Việt Nam. Nhưng De Montigny không lên Đà Nẵng mà đi thẳng qua Hồng Kông. Đến 

ngày 23-1-1957 De Montigny mới trở lại. Hai bên nói chuyện, De Montigny đưa ra việc xin tự do buôn bán, đặt lãnh sự 

ở Huế, đặt một thương điếm ở Tourane và việc truyền giáo. Triều đình Huế đều từ chối hết. Cuộc thương thuyết thất 

bại. Trước khi rút lui De Montigny đã để lại cho sứ thần của vua Tự Đức một văn kiện nói rằng ông ta sẽ phải đệ trình 

với hoàng đế nước Pháp rằng vua Việt Nam đã khước từ ký kết với nước Pháp một hiệp ước trên những căn bản và 

hình thức đã được các nước văn minh công nhận, và nếu vua Việt Nam cứ giết đạo, cứ ngược đãi người Pháp, nếu 

nước Pháp phải trừng phạt thì đó là tại triều đình Việt Nam. Kết quả của những sự lôi thôi trên đây là các việc giết đạo 

càng mạnh, càng gay gắt hơn bao giờ hết. Khắp trong nước, chỗ nào cũng có những vụ giết giáo dân, đốt nhà giáo 

dân và giáo đường. Một giám mục Tây Ban Nha là Diaz bị bắt và bị chém vào ngày 20-7-1857 tại Bắc Kỳ. Tin này bay 

về Paris, các nơi chính quyền nhao nhao lên tiếng, đòi phải đem quân lực sang đối phó thẳng tay với Việt Nam. Giám 

mục Pellerin và Huc được cử qua Việt Nam xét tình trạng của việc truyền giáo để về trần thuật tỉ mỉ các việc xảy ra. Rồi 

ngày 4-11-1857 trung tướng Rigault de Genouilly đang coi căn cứ hải quân Pháp ở Viễn Đông được lệnh mở ngay một 

cuộc thị uy mãnh liệt tại các vùng duyên hải Việt Nam. Nhưng bấy giờ nước Pháp đang đánh nhau với nhà Thanh nên 

ngày 31-8 năm sau tất cả hạm đội Pháp gồm 14 chiến thuyền và một tàu Tây Ban Nha mới kéo xuống được bờ biển Việt 

Nam. Ngày 1-9 Pháp gửi tối hậu thư cho các nhà cầm quyền ở Tourane, buộc phải nộp hết cả đồn ải và định giờ cho 

quan Việt Nam trả lời. Quá thời hạn, Pháp nổi súng, Việt Nam chống lại, nhưng nửa giờ sau bên Việt Nam ngừng bắn. 

Chỉ hai hôm cửa Đông và cửa Tây thành Đà Nẵng bị Pháp uy hiếp nặng nề, triều đình Huế cử Đào Trí và Trần Hoằng 

là tổng đốc Nam-Ngãi ra chống cự. Hai ông tới Đà Nẵng thì hai đồn An Hải và Tồn Hải đã thất thủ. Hữu quân Lê Đình 

Lý làm đô thống ra sau để tiếp ứng cho quân Nam Ngãi với một bộ đội 2000 người. Quân của Lý xô xát kịch liệt với 

quân Pháp ở Cẩm Lệ. Lý bị đạn được mấy hôm thì chết. Trước sức mạnh của Pháp, triều đình lại cử luôn Nguyễn Tri 

Phương làm đô thống và Chu Phúc Minh làm đề đốc hợp lại tăng cường cho lực lượng của Đào Trí. Rồi Nguyễn Tri 

Phương lập đồn Liên Trì, đắp lũy từ Hải Châu đến Phúc Ninh, cố ngăn bước tiến của Pháp-Tây. Rigult de Genouilly 

thấy quân Việt ở đây dồi dào tinh thần chiến đấu, lại có người cho tin 10000 quân Việt sắp từ Huế kéo vào nên ngừng 

lại. Và y cũng ngần ngại một phần nữa vì không thuộc đường giao thông từ Đà Nẵng ra Huế về mặt bộ. Bấy giờ là mùa 

Đông, tiến quân bằng hải đạo thì ngược gió, binh đội lại bị dịch tả. Viên trung tướng này còn thất vọng thêm ở chỗ 

không thấy có giáo dân nổi lên hưởng ứng nên đã kỳ kèo giám mục Pellerin vì trước đây giám mục đã đoan quyết như 

vậy. Lúc này giám mục cũng theo quân đội và có mặt trên chiếc tàu Némésis. Giám mục vừa xấu hổ, vừa tức giận nên 

bỏ về ở nhà tu Pinang tại Mã Lai. Còn Rigault de Genouilly thấy không thể vượt ra Huế được liền chú mục về Nam Kỳ 

rồi cương quyết để đại tá Toyon ở lại Đà Nẵng. Rigault de Genouilly đã rất thực tế: Nam Kỳ là xứ giàu, nhiều thóc gạo, 

lại xa chủ lực quân của triều đình Huế, đánh dễ và có nhiều nguồn lợi. Tháng Giêng năm Kỷ Mùi (1859) lên quân nhổ 

neo kéo và Nam Kỳ. Kể từ giờ phút này đất nước Đồng Nai lâm vào khói lửa. Còn người thay R. de Genouilly là đô đốc 

Page, đến Đà Nẵng vào 19-10-1859. Vào ngày 18 tháng sau Page cho hai pháo thuyền "Némésis" và "Phlégéton" ra 

khơi lần theo bờ biển bắn phá hết các hải đồn của Việt Nam.Việt quân chống trả ở đây rắt hăng nhưng pháo đội của 

Pháp-Tây ở các chiến hạm bắn lên đã hủy diệt được mọi cơ cấu bố phòng của Việt Nam. Tuy thắng trận mà Liên quân 

vẫn rút lui vào ngày 23-3-1860 để sang tăng cường cho quân đội của hải quân trung tướng Charner đi đánh Tàu (Lúc 

này liên quân Anh-Pháp đang giao tranh với quân nhà Thanh tại Hoàng Hải). Page sang Việt Nam với huấn lệnh ký 

một hòa ước với triều đình Huế, có mục đích xin bãi việc cấm đạo, giết đạo cùng đặt ba lãnh sự quán ở ba hải cảng tại 

Việt Nam và một đại diện ngoại giao bên nhà vua Tự Đức. Họ không đòi bồi khoản chiến tranh và nhượng đất chi hết 

cũng như với triều đình Mãn Thanh trước đây (1842-1847); và triều Mãn đã nhận các điều kiện này. Triều đình Huế 

không tỏ ý kiến nào về vấn đề này, chỉ xin gửi người sang ngoại giao với Pháp đình mà thôi. Pháp cho rằng Việt Nam 

có ý kéo dài cuộc thương thuyết để cho họ chán rồi họ phải đi. Do đó Page đã đoạn tuyệt cuộc giao thiệp và tiến đánh 

phía Bắc Tourane. Thiếu tá Dupré-Déroulède bị đạn chết trong trận này trên chiếc tàu Némésis. 

3- Việt Nam mất ba tỉnh miền Đông 

Ngày 2-2-1859 Rigault de Genouilly đem 2000 quân vào tấn công Nam Kỳ. Ngày 9-2 quân Pháp tới sông Đồng Nai và 

tàu lớn cũng vào được bến. Miền Nam Việt khác hẳn miền Trung. Đây là vùng đồng bằng, nhiều sông lớn, sông con 

chạy ngoằn ngoèo ra biển. Có những chi lưu ăn vào sông Cửu Long, lại có những sông nhỏ nối vào sông Đồng Nai. 

Hạm đội của Pháp bắn tan các hải đồn từ Vũng Tàu đến cửa Cần Giờ luôn trong hai ngày 10 và 11-2-1859, rồi ngược 

dòng sông mà tiến vào Gài Gòn. Các cơ cấu phòng thủ hai bên bờ sông của Việt Nam đều bị phá hủy tan tành. Ngày 

15-2 họ tới Nhà Bè trước phòng tuyến phía Nam Sài Gòn và ngay chiều hôm đó họ đã hạ được một đồn binh của Việt 

Nam trong nhiều đồn binh khác. Ngày 16-2 họ tiến lên Tân Thuận Đông để vào sông Sài Gòn. Ngày 17-2 thiếu tá 

Jauréguberry, Dupré-Déroulède, đại úy Lacour trên pháo thuyền Avalanche đi thị sát ở tại phía Bắc thành Sài Gòn 

cách đồn phía Nam 1800 thước (thành này do Olvier dựng lên xưa kia và được xây lại vào năm 1837, một lũy bao bọc 

bên ngoài dài tới 1475 thước, trong có rừng và vườn cây xum xê, rậm rạp, nhà cửa san sát từ mé bờ sông cạnh Gia 

Định). Liên quân Pháp-Tây đổ bộ đánh mặt Đông Nam thành này. Ngày 18-2 Pháp pháo kích kịch liệt hơn. Quân Pháp 

vẫn tiến mặc dầu quân Nam trong thành bắn ra rất dữ dội. Các mặt khác do đại tá Lanzarotte, trung tá Raybaud chỉ huy 

cũng gây nên một tình thế khẩn trương cho quân Nam. Trọn ngày đầu, quân Pháp chưa rõ lực lượng của Việt Nam nên 

vừa đánh vừa nghe ngóng. Qua hôm sau, nhờ sự thám xét của Jaureguiberry và sự chỉ dẫn của giáo sĩ Lefèbvre, quân 

Pháp đã hiểu rõ tình thế thành Gia Định. Rạng ngày 19-2 Pháp dốc hết lực lượng thủy bộ vào việc đánh thành. Tàu 

Phlégèton, Primauguel, El, Cano khạc đạn ầm ầm, thành Gia Định đổ dần từng quãng. Quân Phá vượt lũy, ném lựu đạn 

rồn bắc thang nhảy vào thành. Tổng đốc Võ Duy Ninh đích thân chỉ huy trên thành, hò hét ba quân không ngớt. Rồi 

thành bị vỡ, Võ Duy Ninh tự tận. Liên quân Pháp-Tây vào thành lấy được 200 đại bác, 85000 cân thuốc súng, còn binh 

khí và thóc gạo nhiều vô kể, đốt hàng tháng chưa hết. Đánh xong Gia Định trung tướng Rigault de Genouilly lại mở 

cuộc hòa giải nhưng triều đình Huế có ý loanh quanh rồi De Genouilly trở ra đánh Đà Nẵng phen nữa trước khi về 

Pháp nghỉ. Xét ra, từ Đà Nẵng đến Gia Định hai phen Việt Pháp đánh nhau và hai phen bàn việc giải hòa nhưng triều 

đình Huế đã bỏ mất cơ hội. Rồi giữa Trung Quốc và Pháp lại tái chiến. Page được lệnh bỏ Tourane hợp với thủy sư đô 

đốc Charner để qua Tàu chỉ để một số quân đủ giữ các địa điểm đã chiếm đóng được ở Sài Gòn (700 quân Pháp và vài 

trăm quân Tây Ban Nha đặt dưới quyền của hải quân đại úy d'Ariès và đại tá Palanca).  

Từ tháng 3-1860 đến tháng 2-1861 nhóm quân nhỏ này bị 12.000 quân Nam bao vây. Tướng chỉ huy của Việt Nam bấy 

giờ là kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương. Lúc này Liên quân giữ một chiến tuyến từ Sài Gòn vào Chợ Lớn và 4 đồn giữa 

hai thị trấn này. Đó là đồn Cây Mai, Tân Kiểng, O Ma và chùa Berber. Đồn phía Nam của họ chỉ có 200 lính mà thôi. 

Đây là một chiến tuyến đường vòng để liên lạc với các căn cứ, vậy mà bên liên quân cầm cự suốt được một năm. Trong 

đêm 3, rạng này 4 tháng 7-1860 quân Nam tấn công ồ ạt vào đồn Tân Kiểng nhưng thất bại và bị đẩy lui. Ngày 24-10-

1860 Trung Quốc và Pháp ký hiệp ước bãi binh thì toàn thể bộ đội của Pháp ở Tàu lại trở về Nam Việt (70 chiến hạm 

vừa để chuyên chở vừa để chiến đấu, 3500 lính, 17 đội thủy quân lục chiến, hai tiểu đoàn bộ binh, 4 lữ đoàn lính Tàu 

mộ ở Quảng Đông và Tourane, 12 đại đội thủy quân trọng pháo v.v...). Ngày 24-1-1861 họ lên đường và ngày 7-2 đến 

Sài Gòn. Sau mấy ngày nghỉ ngơi và để chỉnh đốn lại hàng ngũ, đô đốc Charner cho đánh chiến tuyến Kỳ Hòa: Lục 

quân đánh thành phá lũy, thủy quân thì do sông cái, sông con chặn đường rút lui của quân Nam không cho tháo về 

Biên Hòa. Cuộc xô xát của hai quân rất là kịch liệt. Pháp mất 300 quân nhưng ta bại, phải rút ra ngoài các vùng đồng 

ruộng. Họ tung ra một đạo quân lưu động đuổi quân ta tới Trảng Bàng. Pháo thuyền La Dragonne của họ tiến vào Tây 

Ninh. Sử gia Pháp P. Cultru cho rằng: "Nếu muốn, chắc chắn Liên quân bấy giờ có thể lấy được cả lục tỉnh Nam Việt 

thuở ấy...". Sau cuộc đại thắng này, Charner cử trung úy Lespès sang Cao Mên nói cho vua xứ Chùa Tháp hay rằng 

nước Pháp đã chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa và muốn có tình hòa hảo với vương quốc Mên. Vua Mên gửi một sứ bộ 

sang chúc mừng Liên quân thắng trận. Đây là lần đầu có cuộc ngoại giao giữa Pháp và Cao Mên. Rồi Charner xua 

quân tiến dánh Mỹ Tho. Quân Nam phục kích Liên quân ở nhiều nơi. Charner phải cho đi nghiên cứu các sông ngòi, 

từ ngày 1 đến 3-4-1861 thiếu tá Bourdais tấn công Mỹ Tho, phá được nhiều đồn ải nhưng rồi viên tướng này bị bắn 

chết trên pháo hạm số 18. Đại úy Quilo  lên thay và ngày 12-4 đến được Mỹ Tho. Quân ta lúc này rút cả về phía Bắc 

Biên Hòa. Bấy giờ Nguyễn Bá Nghi được thay kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương bị thương tại đồn Kỳ Hòa (tức Chí 

Hòa) phải ra Phan Rí dưỡng bịnh. Lúc Mỹ Tho bị chiếm thì Nguyễn Bá Nghi đến Biên Hòa với sứ mạng tiếp tục công 

cuộc chống Pháp. Thấy quân mình quá sút kém mà quân Pháp lại hùng dũng, có nhiều tàu và súng đồng lợi hại rõ rệt, 

Nghi liền gửi thư xin giải hòa với đô đốc Charner (không sách nào nói rõ việc nghị hòa này là do mệnh lệnh của ai). 

Charner nhận lời và đưa ra 12 điều kiện (xem Nam Bộ Chiến Sử, trang 93-94). Rồi từ vua đến triều thần, hết thảy không 

tán thành yêu sách của Pháp. Dĩ nhiên đôi bên lại tiếp tục đối phó với nhau bằng súng đạn. 

Pháp liền thiết lập các cơ quan hành chánh, buổi đầu do những người Pháp đảm nhiệm, nhưng sau cũng phải dùng 

người Việt làm các chức phủ, huyện. Charner về Pháp ngày 29-11-1861. Đô đốc Bonard kế tiếp việc chinh phục và cai 

trị các vùng chiếm đóng. Vào khoảng đầu năm 1852. Pháp hoàng coi như đã hoàn thành việc chiếm Nam Việt để làm 

đất đứng ở Viễn Đông. Từ giai đoạn này trở đi họ bắt tay vào việc mở mang thương mại, nông nghiệp và kỹ nghệ ở 

đây. Có vài điều đáng chú ý: Trước con mắt người Pháp, nước Việt bấy giờ có một tổ chức xã hội rất dân chủ. Các 

hương chức bầu ra các chức quyền ở thị trấn (!), công chức và quan lại chỉ thuộc nhà vua mà thôi, nghĩa là không chịu 

thuộc quyền của quý tộc như ở Âu Châu. Nước ta cũng không có giai cấp. Quan ta chỉ biết có nhà vua. Họ không 

theo Pháp nên Pháp không lôi cuốn được họ. Tất nhiên Pháp chỉ còn nước vơ bậy bạ những phần tử lưu manh, vong 

bản ra làm tay sai cho mình mà thôi. Rồi Pháp phải phàn nàn rằng bọn này chẳng làm nổi việc gì đáng kể vì họ không 

có uy tín lại dốt nát. 

4- Phản ứng của triều đình Huế 

Từ tháng 6-1861 đến cuối năm này, chiến tranh lan rộng từ Gò Công, Cần Giuộc, Thủ Dầu Một, Tây Ninh và Trảng 

Bàng. Vua Tự Đức thông cáo cho nhân dân biết rằng triều đình sẽ thưởng tiền bạc, phẩm tước cho ai giết được giặc 

Pháp. Bonard tung ra ba đạo quân đánh Biên Hòa (tháng Chạp 1861 - tháng 1-1862) rồi Biên Hòa và Bà Rịa bị thất thủ. 

Chiếm đến đâu Pháp đặt người cai trị đến đấy, thâu thuế má (30-1-1862), đặt đường giây thép từ Sài Gòn qua Chợ Lớn, 

Biên Hòa, Bà Rịa và Vũng Tàu, lập nhà thương, nhà in, nhà thờ, phủ thống đốc. Việc kiến trúc các cơ sở bấy giờ rất là 

sơ sài. Pháp mộ người Nam ta vào các bộ đội trú phòng (lính khố xanh) để đóng giữ Gò Công, Gò Giao, Cái Bè v.v... 

Trong  lúc này ông Quản Định phát động phong trào kháng Pháp, lấy Gò Công làm tổng hành dinh. Kháng chiến 

quân được nhân dân ủng hộ rất mạnh, và một số quan người Việt ở Vĩnh Long cũng dự vào việc kháng chiến nên 

ngày 20-3-1862 Bonard phải đem 1000 lính và 11 chiếc tàu chiến xuống đánh miền này. Ngày 22 cuộc xung đột diễn ra. 

Vĩnh Long bị chiếm vào buổi tối và ngày 23 Bonard vào thành. Tháng 4 có cuộc giao tranh ở Mỹ Tho. Liên quân cũng 

lấy được tỉnh này dễ dàng. Nhưng Liên quân đang hoạt động tại Vĩnh Long, Mỹ Tho thì ở Chợ Lớn họ bị quân kháng 

chiến đốt phá và có vụ người Tàu giúp việc ở câu lạc bộ hải quân bỏ thuốc độc vào thức ăn của các tướng tá Pháp. Cơ 

đồ dường như khó khăn, lúng túng thì triều đình Huế yêu cầu thiếu tá Simon đang tuần hành dọc theo Đông Hải 

tháng 5 năm ấy, báo về súy phủ Sài Gòn rằng Huế muốn mở cuộc điều đình. Bonard cho Simon trở ra Tourane gặp đại 

diện Nam triều để đưa điều kiện nghị hòa, hẹn 3 ngày phải điều đình xong và nộp trước 10 vạn quan tiền (1000 000 

quan bấy giờ). 

Ngày thứ ba, chiếc Hải Bằng có 40 chiếc thuyền nhỏ tháp tùng đi theo tàu Forbin của Pháp vào Sài Gòn đưa sứ bộ do 

Phan Thanh Giản và quan Binh Bộ Thị Lang Lâm Đức Hiệp cầm đầu. Tàu của ta có 23 khẩu đại bác cở thường đã han 

rỉ, quân lính ăn mặc rách rưới, lôi thôi đã làm trò cười cho lính Pháp. Nhưng người Pháp đã phải khâm phụ ông Phan 

Thanh Giản về sự thông minh và cử chỉ chững chạc. Ngày 5-6-1862 hiệp ước thành hình. Đôi bên cùng thỏa thuận các 

điều khoản dưới đây: 1) Triều đình Việt Nam nhường ba tỉnh miền Đông cho Pháp (Gia Định, Biên Hòa và Định 

Tường). 2) Triều đình Việt Nam chịu khoản bồi thường chiến tranh cho Pháp-Tây là 4 triệu quan, phải trả hết trong 

vòng 10 năm. 3) Pháp-Tây trả lại cho triều đình Việt Nam tỉnh Vĩnh Long khi nào trật tự ở đây được vãn hồi. Sử gia 

Cultru đạt câu hỏi ở đây: Tại sao Việt Nam lại chịu nhường tỉnh Gia Định cho Pháp? Nơi này là sinh quán của mẹ vua 

Tự Đức và là kho thóc của miền Trung. Rồi sử gia này tự trả lời: "Nam triều đã không còn sức  kháng chiến nữa. Lại 

thêm Bắc Kỳ đang rối loạn do đảng Lê Duy Phụng tự xưng là con cháu nhà Lê. Phụng đã liên lạc với Bonard để xin 

cộng tác nhưng bấy giờ Bonard chưa nghĩ đến việc thôn tính miền Bắc, bởi Bonard cho rằng miền này sẽ dành cho 

Tây Ban Nha. Xét ra nếu Pháp tiếp tay cho Lê Phụng, có thể miền Bắc cũng mất nốt, do đó mà các nhà cầm quyền ở 

Huế đã vội vã ký với Sài Gòn cho xong, vì hòa với Sài Gòn mới có cơ cứu vãn Bắc Hà, vả chăng giữa hai kẻ địch, Pháp 

vẫn nguy hiểm hơn". Quả vậy, yên với Pháp xong, vua Tự Đức liền tung hết quân lực ra Bắc, bắt được Phụng và đem 

ra lăng trì (là tội phân thây xé xác). Bàn cho kỹ thì vụ loạn Lê Phụng đã giúp cho Pháp rất nhiều vì nó đưa triều đình 

Huế vào cái thảm cảnh nhà cháy hai đầu, nếu không, chưa dễ gì có cuộc nghị hòa mau lẹ và có lợi cho Pháp như vậy. 

Nhưng tới nay người ta ngờ rằng biết đâu chẳng có bàn tay sai bí mật của Pháp trong các vụ loạn ở xứ Bắc. 

5- Phong trào Nam Kỳ kháng Pháp 

Triều đình Việt Nam hòa với Pháp nhưng nhân dân Việt Nam không thể tán thành việc hòa giải này. Đó là ý kiến ông 

Quản Định (tức Trương Định), người đã chiếm Gò Công và lôi cuốn đồng bào Nam Việt vào cuộc bài Pháp, trước cũng 

như sau việc nhượng ba tỉnh miền Đông. Ông Quản Định trước đây chỉ là một võ quan cấp chánh quản, nhưng là con 

người có khí tiết và có nhiều nhiệt huyết đối với thời cuộc bấy giờ. Sau Hòa Ước 5-6 ông tăng cường quân sự, xây đồn 

lũy kiên cố hơn nên đô đốc Bonard phải mang toàn lực thủy bộ vây để đánh lấy Gò Công. 

445 Việt Sử Toàn Thư 

Rồi ta với Pháp lại điều đình, nhưng hai bên có chỗ bất đồng: Ta đòi Pháp trả lại ngay Vĩnh Long, nếu không Hòa Ước 

5-6 sẽ không thể duyệt y trong một năm. Bonard trả lời không có hạn định thời gian nào cả và Huế phải bắt Quản Định 

giải giáp gấp mới được trả lại Vĩnh Long. Pháp bấy giờ vừa được thêm viện quân ở Thiên Tân về, cuộc ngoại giao vì đó 

đi dần đến chỗ tan vỡ. Nguyên do thứ hai: Ngày 2-12-1862 Huế vừa nộp xong một số tiền về bồi khoản chiến tranh 

cho Pháp thì hôm sau có lời yêu cầu xét lại hòa ước và xin bãi bỏ việc nhượng ba tỉnh miền Đông. Pháp đòi nội một 

tháng triều đình Huế phải duyệt y hòa ước. Ngày 16-2 Việt-Pháp lại nói chuyện bằng súng đạn. Sài Gòn, Biên Hòa lại 

tơi bời trong khói lửa. Các đồn binh của Pháp lại bị quân ta tấn công. Mỹ Tho, Bà Rịa lần lượt cũng xảy ra nhiều cuộc 

xung đột. Vào tháng hai năm sau (1863) quân của ông Quản Định bị bao vây ráo riết ở Gò Công. Trong lúc này thì đại 

úy Tricault, ủy viên ở bộ hải quân ở Pháp sang, mang theo chữ ký của Pháp Hoàng đã duyệt y Hòa Ước 5-6; đồng thời 

thủy sư đô đốc De la Grandière sang tạm quyền cho Bonard. Bonard muốn cụ thể hóa thành tích của mình, đòi Huế 

phải duyệt y ngay Hòa Ước 5-6 và dọa nếu triều đình do dự sẽ gây loạn ở miền Bắc. Lời hăm dọa này có kết quả. Rồi 

ngày 2-4-1863 Bonard kéo một phái bộ ngoại giao gồm cả đại diện Pháp lẫn Tây Ban Nha ra Huế. Ngày 5-4-1863 họ 

được tiếp đón long trọng ở cửa Hàn. Năm hôm sau sứ bộ ra tới kinh đô (đi bằng võng) và ngày 14-4 hai bên Việt-Pháp 

làm lễ trao đổi văn kiện. Ngày 19 Bonard rời Huế về Sài Gòn và ngày 30 tháng ấy ông ta về nghỉ ở Pháp và chết vào 

năm 1867. Năm 1863 triều đình Huế lại cử Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Khắc Đồng với một đoàn tùy tùng 

63 người mang đủ gạo nước vào Sài Gòn để nhờ tàu Pháp qua Paris. Phái đoàn này đi từ ngày 4-6 và tới  Âu Châu vào 

tháng 9-1863. P. Cultru nói rằng: "Họ đến đất Pháp vừa đúng lúc Pháp đình bắt đầu chán với các cuộc viễn chinh. Dư 

luận Pháp cho rằng các cuộc viễn chinh chỉ làm hao tổn tiền tài và sinh mạng. Tuy vậy vẫn có một số nhân vật chủ 

trương lấy đất Nam Việt làm thị trường và thuộc địa. Báo chí Pháp cũng bàn tán xôn xao về vụ phái đoàn Việt qua điều 

đình để chuộc lại ba tỉnh miền Đông. Sau một tháng có mặt trên đất Pháp, phái đoàn mới được sự tiếp kiến chính thức. 

Trong dịp này, Pháp Hoàng đã nói một câu rất dõng dạc: "Nước Pháp rất khoan hồng với mọi quốc gia và sẵn sàng 

bảo vệ các dân tộc hèn yếu nhưng rất nghiêm khắc với những ai ngăn trở bước đi của nước Pháp". Nhưng viên thông 

ngôn là ông Aubaret vì không thạo tiếng Việt Nam đã dịch ra "phải biết sợ nước Pháp". Rồi người ta cho phái đoàn 

hay Pháp đình sẽ trả lời triều đình Huế trong vòng một năm. Tóm lại việc sửa đổi Hòa Ước 1862 có thể nói là vẫn loanh 

quanh, chưa ngã ngũ bề nào. Phái đoàn Phan Thanh Giản về nước rồi, chính giới Pháp bàn chỉ nên giữ lấy Sài Gòn, 

Chợ Lớn và Vũng Tàu cùng một giải đất hẹp theo dọc sông Đồng Nai với sự bảo hộ sáu tỉnh Nam Kỳ, xét rằng việc 

trực trị ở đây sẽ gặp nhiều điều phiền toái về mọi mặt. Aubaret là trung úy hải quân của thủy sư đô đốc Bonard, một 

nhân viên đã dự cuộc đàm phán về Hòa Ước 5-6-1862 đã viết nhiều sách truyện về Nam Việt, đưa ra nhiều ý kiến và đã 

được chính giới tán thành. Do đó mới có việc lập một chế độ chiếm hữu thâu hẹp. Việc này tuy được chấp thuận 

nhưng còn giữ bí mật. Rồi Aubaret được cử làm lãnh sự ở Vọng Các  và sẽ là công sứ Pháp ở Huế để đề nghị với vua 

Tự Đức các dự định do ông ta tạo tác nên. Tháng Chạp năm 1863 ông Aubaret lên đường. Khi đô đốc De la Grandière 

được biết việc này, ông ta hết sức phản đối (trước khi đến Nam việt De la Grandière lại là người không tán thành lập 

thuộc địa ở Nam Kỳ). Theo De la Grandière, dầu nước Pháp thâu hẹp phạm vi chiếm đóng ở xứ này thì việc chi tiêu và 

sự khó khăn cũng sẽ không giảm đi phần nào. Chính giới Pháp gồm nhiều quan chức và quân nhân có đầu óc thực 

dân nhao nhao phản đối dự án sửa đổi Hòa Ước 1862 của Aubaret, cho rằng xứ này giàu có, dân chúng cần cù, thuần 

thục, việc buôn bán rất phát đạt v.v... Việc phản đối này làm cho Pháp Hoàng xúc động rồi người ta gửi chỉ thị mới cho 

Aubaret. Năm 1864 ông này đến Sài Gòn. Giới thực dân đã đón tiếp ông một cách lạnh nhạt. Tháng 5 ông tới Huế với 

dự thảo hòa ước đem theo. Đôi bên mở cuộc đàm phán. Aubaret ký thuận về việc chuộc lại ba tỉnh miền Đông vào 

ngày 15-7-1864118, nhưng hiệp ước mới phải trình về Pháp đình để lấy sự phê chuẩn của nhà vua. 

6- Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây 

Trong khi Pháp xâm chiếm Nam Kỳ, thấy Cao Mên cũng là một quốc gia lạc hậu, lại còn yếu hèn hơn Việt Nam vừa lấy 

ngoại giao, chính trị để đặt chế độ bảo hộ ở xứ Chùa Tháp. Pháp cũng mất khá nhiều thì giờ với xứ này vì những vụ 

lộn xộn trong nội bộ hoàng gia và sự lấn áp của chính quyền Tiêm La. Lại thêm cuộc dấy quân của nhà cách mạng Pu 

Cam Bo xuất thân ở chốn thiền môn nhưng không đành lòng nhìn "Bạch họa" tràn qua nước mình. Nhưng cuộc quật 

khởi của Pu Cam Bo chẳng được tổ chức chu đáo và có đủ sức mạnh nên nhà chiến sĩ này nhiều phen phải thất bại, 

sau bị bọn đồng bào vong bản bắt và giết vào tháng 7-1857 để lấy công với Pháp. Từ giai đoạn này Pháp được rảnh 

tay để nghĩ đến chuyện chiếm đoạt nốt ba tỉnh miền Tây của chúng ta. Về phía triều đình Huế đã thấy rõ manh tâm của 

người da trắng nói chung, của người Pháp nói riêng trên khắp các lãnh thổ Á Châu. Sau khi mất ba tỉnh miền Đông liền 

chuẩn bị quân sự để đối phó với người Pháp, vì biết rằng họ còn đi xa hơn nữa. Tổng đốc Vĩnh Long Trương Văn 

Uyển có tờ mật trình người Pháp có thể tiến binh đánh Vĩnh Long, và tương lai của An Giang, Hà Tiên rất là bấp bênh. 

Bấy giờ là năm 1866, tức là năm Tự Đức 19, đô đốc De la Grandière vừa ở Pháp trở qua, liền phái trung úy hải quân 

Paulin Vial đến Huế xin sửa lại Hòa Ước 1862 và chiếm lãnh nốt ba tỉnh miền Tây, lấy cớ là miền này rối loạn và quan 

quân của ta không giữ nổi trật tự.                                        

[ 118 Lúc này Cao Mên vừa ký hiệp ước công nhận chế độ bảo hộ của Pháp (11.8.1863) vừa bí mật ký với Tiêm La để 

nhường hai tỉnh Angkor và Battambang. ]

Triều đình Huế yêu cầu súy phủ Sài Gòn chờ đợi đại diện của mình vào thương lượng. De la Grandière thuận theo thì 

vài tuần sau cụ Phan Thanh Giản đến. Theo P. Cultru, tác giả Histoire de la Cochinchine francaise des (origines à 1883) 

cụ Phan chỉ nói đến chuyện Pu Cam Bo đang hoạt động ở Hà Tiên không có dính líu đến các quan lại Việt Nam ở Vĩnh 

Long như để kéo dài và khỏi phải giải quyết việc ba tỉnh miền Tây và điều này sẽ làm cho người Pháp quên đi hay 

chán nản. Tháng 2, vào ngày 14 năm 1867 De la Grandière cho trung úy Monet de la Marek ra Huế đòi tiền bồi thường 

chiến tranh chưa được triều đình ta thanh toán đúng kỳ hẹn. Quan lại của ta từ chối và tuyên bố rõ cả việc không chịu 

nhượng ba tỉnh miền Tây. Theo Nam Bộ Chiến Sử trang 161 của Nguyễn Bảo Hóa, bấy giờ tại Pháp đình Nã Phá Luân 

đệ tam thấy trong các triều thân phái thì chủ hòa, phái thì chủ chiến, lấy làm hoang mang về vấn đề Việt Nam nên đầu 

năm 1867 nhà vua phái trung tướng De Varannes sang Nam Kỳ điều tra tình hình. Rồi phái đoàn De Varannes về Pháp, 

sau đó có lệnh xâm lăng ba tỉnh thuộc vùng Hậu Giang của chúng ta. Lúc này De la Grandière đã sửa soạn xong chiến 

sự miền Tây (sắp đặt lệnh hành quân, việc bố phòng các vị trí hiện hữu, tuyển mộ người cho bộ máy hành chính mới, 

lấy lính bản xứ để đưa đến các vùng sắp chiếm đóng v.v...). Ngày 17 và 18-6 quân Pháp lên đường gồm 1.000 người Âu 

Châu và 4.000 lính tập. Ngày 20 De la Grandière có mặt trong trận đánh Vĩnh Long119. Hạm đội của Pháp gồm có các 

pháo thuyền "Mitraille, Bourdais, Alom Frah, Espignole, Glaive, Fanconneau, Hallebarde, Arc" và một đoàn tàu vận 

tải. Nhờ có sa mù của buổi sớm mai, đoàn tàu chiến của Pháp tiến đến đậu trước thành Vĩnh Long mà bên ta không 

hay chi hết. Rồi họ đổ bộ, binh sĩ chĩa súng vào thành. Quá bảy giờ sáng thành bị vây hoàn toàn, ta mới biết! Bộ tham 

mưu Pháp phái Legrand de la Liraye đem một tối hậu thư vào thành buộc quan ta phải nhượng Vĩnh Long, An Giang 

(Châu Đốc) và Hà Tiên. Quá hai giờ sau Pháp sẽ công phá thành. Cụ Phan cùng án sát Võ Doãn Thanh hết sức lúng 

túng, xin hội kiến với De la Grandière và xin khoan hạn để hỏi ý kiến triều đình vì biết rằng không thể đối phó nổi bằng 

quân sự với Pháp. Nhưng cuộc hội kiến vô kết quả. Hai người trở ra về thì thành đã bị mất. Hôm ấy là ngày 20-6-1867. 

Giữa lúc tuyệt vọng này, vị kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây lại được tin báo: An Giang và Hà Tiên cũng vừa đổi chủ. Cụ 

Phan bắt đầu tuyệt thực. Cụ khuyên các con đừng hợp tác với Pháp và mai táng mình ở quê nhà là làng Bảo Thạnh 

(Bến Tre). Sau 7 ngày cụ vẫn chưa chết, phải uống thuốc độc mới mất. Trước khi đặt chén vào môi, cụ mặc triều phục 

day mặt về phương Bắc lạy vọng 5 lạy. Ngày tuẫn tiết của cụ là ngày 7-8-1867. Cụ thọ đúng 71 tuổi. Vua Tự Đức hay 

tin, rất giận về việc thất thủ miền Tây, liền cho lột hết chức tước của cụ và đục bỏ tên cụ ở bia tiến sĩ.                                

 [119 Khi ba tỉnh miền Tây lâm vào khói lửa thì quân kháng chiến của Trương Định, Nguyễn Trung Trực và Thủ Khoa 

Huân đã thất bại. ]

7- Những cuộc kháng Pháp ở Nam Kỳ 

Giữa khi tình thế Nam Kỳ nghiêng ngửa trước những cuộc xâm lăng như vũ bảo của quân Pháp, mặc dầu điều kiện 

chiến đấu rất eo hẹp, hoàn cảnh hầu như tuyệt vọng mười phần đến chín, Nam Kỳ vẫn hăng hái trổi dậy. Tại Biên Hòa, 

Mỹ Tho, Tân An có Thái Văn Nhíp và ông Quản Sư khởi nghĩa dưới khẩu hiệu "Dân chúng tự vệ". Tại Vĩnh Long, một 

số quan lại nhóm phong trào "Cần Vương", sau này có Phan Tôn và Phan Liêm là con cụ Phan Thanh Giản gia nhập. 

Tại Ba Động, Trà Vinh có Nguyễn Xuân Phụng phất cờ "Bình Tây sát tả"; rồi một thời trên khắp lãnh thổ lục tỉnh Nam 

Kỳ, cuộc cách mạng phản Đế tràn ngập khiến người Pháp tuy binh hùng tướng mạnh, vũ khí lợi hại phải xoay trở cực 

nhọc vô cùng liên miên tới hai chục năm ròng. Đó là lời thú nhận của Le Myre de Vilers, viên toàn quyền dân chính 

đầu tiên ở Nam Kỳ. Về các anh hùng, nghĩa sĩ để lại ngày nay những thành tích oanh liệt trong lịch sử kháng Pháp 

miền Nam, chúng ta không thể quên ngoài ông Trương Định, tức Quản Định đã nói đến, các ông Nguyễn Trung Trực, 

Thủ Khoa Huân, Võ Duy Dương, tức Thiên Hộ Dương v.v... Hòa Ước 5-6-1862 thành hình thì nộ khí của đồng bào ở 

đây bốc ngút trời xanh, mặc đầu triều đình đã chịu chính thức chấm dứt chiến tranh với địch. Lòng ái quốc của nhân 

dân đã có phen làm lay chuyển cả đám người chủ hòa ở Huế. Do đó có khi triều đình lột chức của ông Trương Định và 

trái lại cũng có khi ngầm giúp các cuộc khởi nghĩa làm cho súy phủ Sài Gòn bực tức vô cùng. Ông Nguyễn trung Trực 

là chiến sĩ cách mạng đồng thời với ông Trương Định chỉ huy nhiều trận du kích, phục kích từ Tân An qua Rạch Giá. 

Một lần giữa ban ngày, cùng 150 chiến hữu ông bày mưu xông vào đốt chiến thuyền Espérande do trung tướng Parfait 

điều khiển vào ngày 11-2-1861 tại rạch Vàm Cỏ bên làng Nhật Tảo. Đồng bào miền Nam còn lưu võ công táo bạo này 

trong hai câu:   Hỏa hồng Nhật tảo oanh thiên địa  Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần Trường chiến đấu của ông đã 

mở rộng sang cả Thủ Thừa, Thuộc Nhiêu, Bến Lức, Phước Lý, Long Thành, Tân Uyên, liên lạc cả với quân triều, thanh 

thế vang dậy khiến Pháp phải treo giải để bắt ông. Từ năm 1862 đến 1868 Pháp ráo riết đánh gò Công, Tây Ninh, Bà 

Rịa, ông yếu thế phải lui về Hòn Chông, Kiên Giang rồi bị bắt. Ông không chịu hàng nên bị tử hình vào ngày 27-10 

năm ấy Ông Thủ Khoa Huân lãnh đạo phong trào "Dân chúng tự vệ" ở nhiều miền Hậu giang như Mỹ Tho, Rạch Gầm, 

Cai Lậy. Nhiều kẻ Việt gian đã bị ông thẳng tay trừng trị trong những công tác phục vụ ngoại nhân ở các lãnh vực 

hành chính và quân sự. Tháng 6-1863, thua trận ở Thuộc Nhiêu (Mỹ Tho), ông chạy qua Châu Đốc, đã có khi triều 

đình bắt giam do chính sách bất nhất của nhà vua và các đại thần. Ông bị đem nộp cho Pháp. Vào năm 1864 ông phải 

đày sang đảo Reunion, sau được ân xá. Năm 1875 Pháp hoàn toàn cuộc xâm chiếm Nam Kỳ, ông lại khởi nghĩa lần nữa. 

Sau bị bắt và bị hành hình ở Cai Lậy vào ngày 15-4 năm Ất Hợi (1875). Nhân sĩ Trung-Nam-Bắc có nhiều thơ chữ Hán 

ca ngợi chí khí của ông, trong đó có bài dịch của tác giả khuyết danh như sau: Ruổi dong vó ngựa báo thù chung Binh 

bại cho nên mạng mới cùng Tiết nghĩa vẫn lưu vùng vũ trụ Hơn thua xá kể với anh hùng Nổi xung mất vía quân Hồ Lỗ 

Quyết thác không hàng rạng núi sông Thọ thủy ngày rày pha máu đỏ Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong. Đồng bào 

Nam Kỳ ngày nay cũng thường nhắc đến ông Võ Duy Dương, tức Lãnh Dương là người khởi nghĩa ở Đồng Tháp 

Mười. Thấy ông giàu lòng ái quốc, triều đình phong cho ông chức lãnh binh vào ngày 22-7-1865. Ông đã có phen 

được một số lính Tagals, tức lính Lê Dương và một người Pháp tên là Linguet hâm mộ nghĩa cử của ông mà theo giúp. 

Ông tấn công binh đội của thủy sư đô đốc Roze ở Cái Bè, Mỹ Trà (Sa Đéc), Mỹ Quý, chọc thủng phòng tuyến của 

Pháp do các tướng Roubet, Paris de la Bollardière, Passebox thiết lập. Bọn này phải chia quân làm ba đạo đổ bộ vào 

Đồng Tháp ngày 16-4-1865. Ở đây ông chỉ có 350 binh sĩ mà đánh quân Pháp chết cùng bị thương rất nhiều dưới 

những trận mưa đạn. Sau ông bị bịnh mà chết, phong trào "Dân chúng tự vệ" cũng mờ theo bóng người nghĩa sĩ. 

Ngoài những vị anh hùng hữu danh kể trên còn biết bao nhiêu anh hùng vô danh mà lịch sử ngày nay không tìm ra 

được dấu vết, chứng tỏ rằng cho tới sau này (1945), cuộc đô hộ của Pháp tuy dài được trên 80 năm, nhưng các chính 

phủ thực dân đã không hẳn được ăn ngon ngủ kỹ.  

450 Việt Sử Toàn Thư 

 Phần 4 - Chương 3 Pháp Quân Đánh Bắc Kỳ  

- Francis Garnier ra Hà Nội - Hòa Ước năm Giáp Tuất (1874) - Thành Hà Nội bị đánh lần thứ hai  

1- Nguyên nhân việc Pháp ra Bắc 

Lục tỉnh Nam Kỳ thôn tính xong, nền hành chính đã được sắp đặt đâu vào đấy, việc khai thác nông nghiệp ở xứ này 

bắt đầu được tiến triển, Pháp liền ngó ra miền Bắc. Kế hoạch của Pháp là lối "tằm ăn lá dâu" chặt tay chân trước ắt cái 

đầu và cái thân phải tê liệt. Nếu đánh ngay Trung Kỳ không khỏi gây một xúc động lớn cho toàn quốc. Năm 1886 

Thiếu tướng De La Grandière sai Trung tá Doudard De Lagrée và Đại úy Francis Granier cùng mấy người Pháp lần theo 

sông Cửu Long để tìm đường sang Tàu. Ngày 16-10-1866 họ đã tới biên giới Trung Quốc nhưng tính riêng đường đi 

trước khi tới nội địa nước Tàu đã thấy có nhiều sự khó khăn, phái đoài thám hiểm này quay ra nghiên cứu tình trạng 

con sông Nhị Hà, Francis Garnier đã gặp một lái buôn Pháp là Jean Dupuis ở trên đấu Tàu. Họ đồng ý với nhau là đất 

Bắc có con sông Nhị Hà rất tiện lợi cho việc giao thông với Trung Quốc. Lúc này đảng Thái Bình Thiên Quốc đang 

hoành hành ở đây. Jean Dupuis được chúa tỉnh Vân Nam đặt mua các đại bác để chống nhau với quân nghịch. Y có 

dịp giao thiệp với Lưu Vĩnh Phúc là tướng Cờ Đen ở Lao Kay và thấy xuống Yên Báy có đường thủy ra biển dễ dàng 

nên quyết định dùng con sông Hồng Hà để chở hàng đến Vân Nam, xét con sông Thạch Giang của Tàu có nhiều 

ghềnh thác chở các đồ nặng vô cùng vất vả khó khăn. Jean Dupuis đến Bắc Kỳ (Quảng Yên) vào ngày 9-11-1872 điều 

đình với quan ta mở con sông này cho y đi lại buôn bán với Trung Quốc. Y xin chịu nộp thuế lưu thông và thương 

chính. Trước khi ra Bắc, Jean Dupuis đã được Súy Phủ Sài Gòn thuận giúp cho mọi sự dễ dàng để giao thiệp với các 

quan của ta và sẽ bảo vệ y để khỏi bị nạn giặc cướp ở đất Bắc. Thống đốc Nam Kỳ bấy giờ là lục quân Thiếu tướng D' 

Arhaud cho Trung tá hải quân Sénès đem tàu Bourayne ra Bắc Kỳ lên Hải Dương, Hà Nội, Bắc Ninh xem xét. Khâm sai 

Lê Tuấn yêu cầu Jean Dupuis đợi triều đình quyết định và hứa sẽ trả lời sau. Y đợi không thấy gì liền bỏ lên Hà Nội rồi 

thuê thuyền chở hàng thẳng đi Vân Nam. Bấy giờ là cuối năm Nhâm Thân (1872), đi với Jean Dupuis có mội lái buôn 

nữa là Millot. Jean Dupuis giao hàng cho quan Tàu được mọi sự yên ổn rồi lại được mua muối. Y về đến Hà Nội vào 

tháng tư năm Quý Dậu (1873) đem theo một bọn lính Cờ Vàng đang bị quan ta căm ghét. Millot trở vào Sài Gòn làm 

báo cáo tình hình Bắc Kỳ cho Súy Phủ. Xin nhắn rằng Bắc Kỳ bấy giờ đã là cả một vấn đề cho các nhà thực dân Pháp 

nên Súy Phủ Sài Gòn theo dõi việc Jean Dupuis rất có lợi và con sông Hồng Hà rất thuận tiện cho việc giao thương 

với Tàu, Đô đốc Dupré gửi ngay giấy về cho Bộ Hải quân nói Jean Dupuis đã hai lần ngược Vân Nam bằng con sông 

Hồng hà của xứ Bắc, con sông này là một lối mới rất tốt để qua Tàu nhưng nếu xứ này lọt vào tay một cường Quốc 

khác thì nước Pháp khó lòng mà đặt được nền thống trị của mình ở Viễn Đông sau này. Rồi Dupré xin dùng võ lực để 

tới đóng vùng đồng bằng sông Nhị (Nhị Hà tức là Hồng Hà), nếu gặp sự khó khăn với quan lại Việt Nam... Lúc này 

Pháp biết Việt Nam yếu nên mỗi khi bàn đến việc gì, phe quân nhân đều chủ trương dùng sức mạnh, đến bọn lái buôn 

của họ cũng muốn ỷ vào quân đội để lấn áp ta. Do đó Muối là thứ sản vật cấm bán sang Tàu theo luật lệ của triều đình 

ta, Dupuis cũng bất chấp. Việc mở con sông Hồng Hà lúc đó cũng chưa có sự định đoạt, Dupuis tuyên bố trắng trợn 

rằng quan Tàu mua bán với y thì y không cần phải theo luật lệ của nước Nam, bởi nước Nam là chư hầu của Tàu. Quan 

ta cố nhẫn nại trước sự ương ngạnh của Dupuis, phải mời giám mục Puginier ở Kê Sở Lên can thiệp cho khỏi có sự 

phiền phức, vì triều đình ta đã có lệnh tránh sự lôi thôi với Pháp. Dẫu sao quan ta vẫn phải bắt hai tên khách Quan Tá 

Đình và Bành Lợi Ký do Dupuis mang sang Việt Nam, vì bọn này chở Muối và Gạo lên Vân Nam không có sự thỏa 

thuận của chính quyền. Dupuis trả thù cho bắt Quan huyện Thọ Xương và quan Phòng Thành Hà Nội đem xuống 

giam dưới tàu. Tóm lại bên ta cố tránh sự bất hòa, Dupuis cố tình gây sự. Sau triều đình sai quan Tham Trí Bộ Binh là 

Phan Đình Bình làm Khâm Phái ra thu xếp việc này. Ông Nguyễn Tri Phương liền mời Dupuis đến nói chuyện tại hội 

Quán Quảng Đông cho hay rằng việc giao thiệp giữa nước Pháp và Việt Nam đã minh định trong Hòa Ước năm Giáp 

Tuất (1862), việc chở Muối và Gạo đi Vân Nam là trái với hòa ước và luật bản quốc. Dupuis không chịu, cãi rằng y chỉ 

biết theo lệnh quan Tàu là đủ, rồi đứng dậy ra về. Sau triều đình phải giao cho sứ đoàn Nguyễn Tăng Doãn, Lê Tuấn 

và Nguyễn Văn Tường có nhiệm vụ vào Sài Gòn thương nghị việc ba tỉnh miền Tây, nhân thể yêu cầu Súy Phủ giải 

quyết việc Dupuis cho yên. Từ lâu Đô Đốc Dupré chỉ mong có cơ hội này, ông ta liền điện về Ba Lê rằng: "Việc Jean 

Dupuis đã thành công, cần chiếm Bắc Việt để mở đường thông thương sang Tàu.... Không cần viện binh, xin cho tự 

tiện nếu hỏng việc chịu lỗi." Dupré lại cho Đại Úy Francis Garnier mang hai pháo thuyền 170 thủy binh và thủy quân 

lục chiến ra Hà Nội ghé qua Tourane vào ngày 15-10-1973, gửi cho triều đình Huế một bức thư trách cứ về việc dân 

công giáo bị ngược đãi ở Bắc Kỳ, ngỏ ý rằng Việt Nam không thể đóng cửa sông Hồng Hà là con đường duy nhất để 

giao thương với các tỉnh miền Hoa Nam và Đại Uý Francis Garnier phải ở lại Hà Nội để giải quyết vụ này cho xong...." 

Rõ rệt là lời nói của kẻ cả và về phía người Pháp, quân dân đều hiểu vừa đây họ hợp sức với Anh bắt nạt được cả Tàu 

là thượng quốc đối với Việt Nam thì họ còn ngại gì vua tôi Việt Nam ta nữa. 

2- Pháp Quân Đánh Bắc Kỳ Lần Thứ Nhất 

Trước khi lên đường để ra Bắc Francis Garnier viết thư về cho người anh ở bên Pháp như sau: "Súy Phủ đã cho tôi tùy 

thời ứng biến, việc gì hải quân Thiếu tướng cũng cậy ở nơi tôi. Vậy tôi sẽ vì nước Pháp mà cố gắng phen này..." Ngày 

5-7-1873, Garnier ra tới Hà Nội liền đưa ra hai bản tuyên cáo: 1) hiệu triệu binh sĩ nên có những tác phong tốt đẹp với 

dân chúng phải giúp họ, luôn luôn tỏ ra công bằng và nhân hậu. 2) hiệu triệu dân chúng Bắc Kỳ rằng mình được Súy 

Phủ Nam Kỳ phái ra để xem xét mọi việc lộn xộn ở đây và để giúp đỡ dân Việt Nam, người Pháp muốn trừ các giặc cướp 

để xứ này được làm ăn yên ổn, thịnh vượng..." Lần đần gặp Nguyễn Tri Phương, y nói: "Tôi được lệnh ra thảo luận 

cùng ngài những căn bản một hiệp ước thương mại giữa hai nước. Do hiệp ước này chúng ta mở con sông Nhị Hà để 

làm đường giao thương, điều đó sẽ có lợi nhiều cho quý quốc. Vậy xin ngài cùng tôi thảo luận về thuế thương chính 

mà việc này sẽ nêu lên". Mặc dù lúc này đã có một đại diện của Triều Đình Huế, ông Phan Đình Bình, Nguyễn Tri 

Phương trả lời ông còn phải hỏi ý kiến của nhà vua. Thực ra, Nguyễn Tri Phương đã biết rõ thái độ của Pháp nhưng 

chưa biết xoay trở thế nào. Francis Garnier lại đòi đem quân vào đóng trong thành, quan ta phải nài nỉ mãi y mới chịu ra 

hạ trại ở Trường Thi. Lúc này, Garnier đã liên lạc được với Dupuis khi vừa tới Hải Dương và bây giờ Dupuis đang ở Kẻ 

Sặt (thuộc tỉnh Hưng Yên giáp Hải Dương), Garnier cho Dupuis biết chủ trương ra Bắc của mình và tỏ ý trông cậy vào 

Dupuis để thi hành mọi công tác vì Dupuis thông thạo các vấn đề đất Bắc. Được thư của Garnier, Dupuis đi đón 

Garnier bằng chiếc tàu Manhao, rồi cùng lên Hà Nội. Trong cuộc đàm thoại của Garnier và quan ta, giám mục Puginier 

làm thông ngôn. Garnier lờ hẳn việc Dupuis mà chỉ nói mình ra vì chuyện dẹp giặc và mở sự buôn bán cho nước Pháp, 

Y pha Nho và Tàu. Rồi chiến thuyền của Pháp từ Sài Gòn liên tiếp theo ra. Francis Garnier biết thế nào quan ta cũng 

chẳng chịu nên bàn với Dupuis việc sửa soạn đánh thành, còn bên ta thì chuẩn bị để ứng phó. Đầu tháng Mười, F. 

Garnier viết thư cho ông Nguyễn Tri Phương trách quan Việt Nam đã ngăn trở việc thương mại của Jean Dupuis rồi 

cho quan Việt Nam biết dù muốn dù không y vẫn sẽ thi hành mệnh lệnh của Súy Phủ Sài Gòn. Sáng hôm 15-10 năm 

Quí Dậu (1873) đại bác Pháp đã khạc đạn như mưa vào thành Hà Nội. Ông Nguyễn Tri Phương cùng con là phò mã 

Nguyễn Lâm lên thành thúc quân giữ Đông và cửa Nam. Hỏa lực của Pháp quá mạnh, chưa nói tới giờ đồng hồ thì phò 

mã Nguyễn Lâm tử trận. Ông Nguyễn Tri Phương bị thương nặng cùng quan Khâm sai Phan Đình Bình bị bắt xuống 

tàu. Ông Nguyễn Tri Phương uất giận không chịu cho băng bó vết thương lại cương quyết chịu đói mà chết. Xuất 

thân là một đại điền, làm quan từ đời Minh Mệnh trải qua ba triều vua, nhà cửa thanh bạch ông Nguyễn Tri Phương 

thật là một ông quan hết lòng vì nước, vì dân, hy sinh cả toàn gia cho xứ sở thật đáng làm gương sáng cho người đời 

trước cũng như đời sau vậy. Còn quân Pháp hạ được thành Hà Nội liền đánh dấn vào các tỉnh Nam Định, Phủ Lý, Ninh 

Bình, Hải Dương và tuy họ chỉ có một nhóm cỏn con mà đi đến đâu quân dân Việt Nam cũng bỏ chạy tán loạn. 

Hautefeuille và 7 tên lính hạ được thành Ninh Bình và chỉ trong 20 ngày Pháp hạ được 4 tỉnh Trung Châu Bắc Ký. Cái 

hào khí của con cháu Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo đánh Tống diệt Nguyên thảm bại đến thế là cùng... mà cũng vì 

đâu? 

3- Hòa Ước Giáp Tuất (15-3-1874) 

Nghe tin Thăng Long và bốn tỉnh miền Trung Châu thất thủ vua Tự Đức liền cử ba ông Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng 

Hợp và Trương Gia Hội ra điều đình ở Hà Nội; các ông Lê Tuấn làm Khâm mạng toàn quyền, Nguyễn Văn Tường làm 

phó vào Sài Gòn thương thuyết về biến cố vừa xảy ra ở Bắc Kỳ. Hoàng Kế Viêm lãnh chức Tiết Chế Quân Vụ để đối 

phó về mặt quân sự. Viêm được chủ tướng Cờ Đen là Lưu Vĩnh Phúc giúp đỡ trong việc chống Pháp. Đôi bên Việt 

Pháp đang thỏa luận thì Francis Garnier được tin quân Cờ Đen đánh ào ạt vào thành Hà Nội do lối ô Cầu Giấy, Francis 

Garnier đem quân lên ứng chiến. Đại bác của Pháp bắn ra, quân Cờ Đen bị đẩy lui, Francis Garnier với 18 binh sĩ xông 

lên bị quân phục kích giết chết tại trận. Tuy vậy, Việt Pháp ở Sài Gòn vẫn tiếp tục thương nghị và ngày 28 tháng Giêng 

năm Giáp Tuất (15-3-1874 (đôi bên cũng ký một hiệp ước trong đó "nguyên tắc bảo hộ" đã được nêu ra. Đại diện cho 

vua Tự Đức là Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường. Đại diện cho chính phủ Pháp là Đô Đốc Dupré. Hòa ước gồm 22 khoản, 

duy có những khoản dưới đây quan trọng hơn cả: Khoản II. - Quan Thống Lãnh nước Pháp nhận quyền độc lập của 

Việt Nam từ nay không hệ thuộc nước nào nữa. Nếu nước Nam có giặc dã và cần thì nước Pháp sẵn lòng giúp và 

không yêu cầu gì. Khoản III. - Vua Việt Nam phải đoan theo chính lược ngoại giao của nước Pháp. Quan Thống Lãnh 

lại tặng Vua Việt Nam: 1) Năm chiếc tàu có đủ máy móc và súng đạn. 2) 100 khẩu đại bác, mỗi khẩu có 200 viên đạn. 3) 

1.000 khẩu súng trường và 5.000 viên đạn. Khoản IV. - Quan Thống Lãnh nước Pháp hứa sẽ cho chuyên viên sang dạy 

lính thủy, lính bộ và các kỹ thuật gia các ngành để chỉ bảo mọi việc cho nước Nam như tổ chức việc thuế má và việc 

thương chính v.v... Khoản V. - Vua Việt Nam nhường đứt 6 tỉnh Nam Kỳ cho nước Pháp. Khoản IX. - Vua Việt Nam 

phải chấp nhận việc truyền bá đạo Thiên Chúa và việc dân chúng tự do theo đạo. Khoản XI. - Vua Việt Nam phải mở 

cửa Thị Nại, Ninh Hải (Hải Phòng), thành Hà Nội và sông Nhị Hà cho việc giao thương của ngoại quốc. Khoản XIII. - 

Nước Pháp được quyền đặt các lãnh sự ở các cửa bể và thị Trấn để ngoại quốc vào buôn bán. 

Khoản XV. - Người Pháp hay người ngoại quốc nếu có giấy thông hành của lãnh sự Pháp và chữ của nhà cầm quyền 

Việt Nam kiểm nhận thì được phép đi viếng các nơi trong nước. Khoản XVI. - Người nước Pháp và ngoại quốc nếu có 

sự tranh tụng, thì quyền xét xử thuộc quyền lãnh sự Pháp. Khoản XX. - Hòa ước này ký xong, thì nước Pháp sẽ đặt 

một sứ thần ở Huế để thi hành các điều đã giao ước. Nước Việt Nam cũng được đặt một sứ thần tại Ba Lê và Sài Gòn. 

Sau việc ký kết này Thiếu Tướng Dupré về Pháp, tạm thay thế ông là Thiếu Tướng Krant. Tháng 6 năm đó hai ông 

Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Tăng Doãn lại có mặt tại Sài Gòn để qui định với Pháp các điều lệ về sự buôn bán ở 

Việt Nam. Ngày 20 tháng 7 thương ước này được thành tựu. Lễ phế chuẩn Hòa ước Nhâm Tuất được long trọng cử 

hành tại Huế vào ngày 13-4-1875. Ngoài ra ta cũng không nên quên rằng trước khi Huế và Sài Gòn thảo thuận về Hòa 

ước Nhâm Tuất thì ông Philastre cùng với ông Nguyễn Văn Tường được cử ra Hà Nội để ổn định mọi việc. Philastre tới 

Cửa Cấm (Hải Phòng) thì được tin Lưu Vĩnh Phúc vừa hạ xong Francis Garnier. Philastre giận quá toan bỏ ra về. 

Nguyễn Văn Tường khuyên ông ta cứ lên Hải Phòng, Hải Dương để thi hành việc trả các thị Trấn cho Việt Nam, sau 

đó lên Hà Nội trả nốt mấy thị Trấn vùng Trung Châu rồi điều tra việc Francis Garnier. Ông Tường đã được tiếng có tài 

ngoại giao, ăn nói giỏi đã làm Philastre nguôi giận bằng một câu: "Hà Nội giết Đại Úy Francis Garnier thì cũng như Đại 

Úy Francis Garnier giết ông Nguyễn Tri Phương, việc đó xuất ư ngoại ý, bây giờ chúng ta bỏ về chẳng là uổng công 

lắm sao!" Ông Philastre vốn là người biết điều đành nghe theo rồi lên Hà Nội làm tờ giao ước trả lại các thành cho 

quan ta, sau đó ông ra lệnh rút quân Pháp xuống Hải Phòng đợi hòa ước ký xong thì về Sài Gòn hết. Bấy giờ là tháng 

giêng năm Giáp Tuất (1874) năm Tự Đức thứ 27. Được tin ông Philastre công cán xong, Súy Phủ Sài Gòn cử ông 

Rheinard ra thay để ông Philastre cùng ông Nguyễn Văn Tường vào Nam Kỳ định các điều ký kết về Hòa ước Nhâm 

Tuất để tướng Dupré kịp hồi hương.

 4- Thành Hà Nội Bị Hạ Lần Thứ Hai 

Sau 10 năm mắc míu vào chiến tranh với Phổ, Pháp mới được rảnh trí để nghĩ đến vấn đề Việt Nam. Chủ trương của 

Pháp, dĩ nhiên sớm muộn cũng phải chiếm hết nước này cho kỳ được. Nhưng Pháp đình ở xa ít am hiểu tình thế, nên 

tuy thường nhận được báo cáo của phái quân nhân thực dân, các quyết định của Thượng, Hạ nghị viên vẫn có nhiều 

dè dặt. Đến Súy Phủ Sài Gòn có mặt ở đây đã 20 năm rất rõ nội tình Á Châu nói chung và Tàu cùng Việt Nam nói riêng, 

cũng nhiều khi lúng túng, rồi khi thì Pháp đình do dự, khi Súy Phủ Sài Gòn ngần ngại, luôn luôn kẻ không người muốn 

còn các quân nhân thực dân (F. Garnier, H. Rivière v.v...) thì lại quá ham việc xâm chiếm nước này. Sự thực những 

tướng lãnh vẫn có lý bởi tình trạng nước ta bây giờ quá hèn kém, chính quyền với một ông vua chỉ ham ngâm vịnh, 

đám nho thần hủ bại chẳng biết tính trước, lo sau, quyền biến chậm chạp lúng túng như cho tay vào bị thì đuổi sao kịp 

sự tiến triển của thời cuộc. 

455 Việt Sử Toàn Thư 

Vì những điều sở đoản đó cuộc bại vong của Việt Nam đến ngày càng gấp, đáng lẽ trong thời gian 10 năm chiến trang 

Pháp Phổ khai diễn, triều đình ta phải có người tài định ra kế phù nguy cứu khổ thì chưa dễ hòa ước Patenôtre (ký năm 

1884) đã ra đời. Xin kể sơ ra đây những điều vụng về và bất lực của mấy triều vua đời Nguyễn Sơ nhất là triều Tự Đức: 

1) Việc cấm đạo, giết đạo trên quan điểm của Việt Nam là một việc hợp lý, nhưng không hợp thời, nên đã giúp cho 

Pháp một duyên cớ dùng võ lực can thiệp vào nội tình Việt Nam. 2) _ lại vào Trung Quốc mà không rõ thực lực của họ 

đang suy bại, vẫn cứ tiếp tục cuộc bang giao với Tàu, xin Tàu mang quân sang dẹp giặc hộ (1878-1879) là trái với 

chiến lược ngoại giao đã thừa nhận với Pháp. Đây cũng là cớ để cho Pháp thôn tính nốt những phần đất còn lại của 

Việt Nam, đành rằng nếu chẳng có cớ này Pháp vẫn có cớ khác. 3) Có thái độ khuyến khích hay xúi giục quân Cờ Đen 

nhục mạ các đại diện Pháp ở Bắc Kỳ và ngăn trở hai người Pháp là Courtin và Villeroi có giấy thông hành của quan 

Việt Nam lên buôn bán với Vân Nam bị Cờ Đen chận lại ở Lao Kay. 4) Triều đình Huế có cử chỉ khiếm nhã với Khâm sứ 

Rheinard khiến ông này phải bỏ vào Sài Gòn.  Do các việc kể trên và các sự lôi thôi xảy ra gần nhất, Thống Đốc Le 

Myre De Vilers đã gửi công điệp ra Huế khiếu nại với vua Tự Đức, đã nêu các sự kiện này làm lý do việc xuất quân ra 

Bắc để "bênh vực quyền lợi của người Pháp". Người mang mệnh lệnh của Sài Gòn chuyến này là Đại Tá hải quân H. 

Rivière. Trước khi lên đường H. Rivière được căn dặn như sau: "Biện pháp mở rộng và củng cố ảnh hưởng của chúng 

ta ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ là biện pháp chính trị và ôn hòa. Việc ta sắp làm chỉ là để đề phòng mà thôi. Dùng võ lực chỉ 

khi nào cần thiết hết sức...". Ngày 26 tháng 3 Năm 1882, Henri Rivière rời bến Sài Gòn với hai chiến hạm Drac và 

Perseval, hai đội thủy và lục quân, một tiểu đội pháo thủ và một toán lính tập người Việt. Tổng số có độ 800 binh. 

Chiều ngày mồng 2 tháng 4 dương lịch, Henri Rivière đến Hà Nội xuống đóng tại Đồn Thủy. Ở đây, Berthe De Vilers 

đã có hai đội lục quân rồi. Ngày 4, Henri Rivière vào thăm Tổng Đốc Hoàng Diệu. Ông Diệu cho Tuần Phủ Hoàng Hữu 

Xứng đón tiếp rất lịch sự, nhưng dù khéo léo đến đâu, khi một trong hai bên đã có hậu ý thì không làm sao tránh được 

sự xung đột, Tuần Phủ Hoàng Hữu Xứng hỏi vì cớ gì mà quân Pháp ra Hà Nội? Henri Rivière trả lời vì Pháp muốn bảo 

vệ tính mệnh và cuộc kinh doanh của người Pháp do quân Cờ Đen đe dọa và ngăn trở. Sau đó, quân lính Pháp hằng 

ngày nghênh ngang ra các phố phường gần như để khiêu khích và phao đồn sẽ vào đóng trong thành. Thấy tình thế 

có vẻ đáng ngại, Hoàng Diệu liền cho mời quan Tiết chế quân vụ Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc ở Sơn Tây về 

đóng gần phủ Hoài Đức. Cánh quân này có độ 1.000 người, trong thành có 2.000 quân và 100 tướng tá. Kể về lượng thì 

Việt Nam hơn Pháp nhưng chiến cụ thô sơ, quân lính lại kém phần tinh nhuệ. Về phía quân Pháp, họ cũng sửa soạn 

tấn công. Ngày 17 tháng Tư Dương Lịch, Henri Rivière báo tin cho Ba Lê biết sẽ hạ thành Hà Nội. Việc chiếm Sơn Tây, 

Bắc Ninh, Nam Định cũng đã chuẩn bị. Ông ra lệnh cho đội thủy quân ở Hài Phòng và ngoài vịnh Hạ Long kéo lên, 

gồm có các chiến hạm Hamelin, Drac và Perseval trên có 14 khẩu đại bác và 390 ngưòi, các tuần giang hạm Fanfare, 

Massue, Carabine trên có hai đại bác và ngót 30 người ở mỗi chiếc. Năm giờ sáng ngày mồng 8 tháng 3 Nhâm Ngọ 

viên thông ngôn của Đại tá Henri Rivière là tên là Phong được lệnh đem tối hậu thư cho Tổng Đốc Hoàng Diệu. Bức 

tối hậu thư này do Phong dịch ra, Hán Văn từ hôm trước, trong đó có 3 điều như sau: 1) Phải nộp thành cho quân 

Pháp. 2) Các quan Việt Nam phải tới nộp mình tại lãnh sự quân Pháp. 3) Việc cai trị sẽ không thay đổi. Nếu không tuân, 

đúng 8 giờ sáng quân Pháp sẽ đánh thành. Thật là những điều kiện quá ngặt nghèo và khắt khe. Henri Rivière cũng 

như nhiều quân nhân khác còn lạ gì những người đại diện triều đình Huế sẽ từ chối việc thi hành ý muốn của hắn. 

Trước đây ngoài 20 năm, khi mất thành, Phan Thanh Giản đã uống thuốc độc tự sát (mất lục tỉnh và nột thành Sài Gòn 

cho Pháp). Mười năm qua, Tổng Đốc Nguyễn Tri Phương thua Francis Garnier tại Thăng Long cũng quyết tâm không 

ham sống. Giờ đây cũng một nhân vật đường đường đại diện cho triều đình, biểu dương cho liêm sỉ, cho giá trị của dân 

tộc đâu có thể nộp đất, dâng thành cho địch như vậy. Tôn Thất Bá xin với Hoàng Diệu cho ra ngoài để điều đình với 

giặc lấy thêm một ngày nữa. Trong thành dòng thang dây xuống góc trông ra phía cửa Bắc (chỗ sở cảnh sát Hàng Đậu 

bây giờ) cho Bá xuống, lúc ấy đã 7 giờ. Việc xin điều đình này chỉ tỏ rằng về bên Việt Nam ta không muốn có chiến 

tranh và muốn lập một cuộc thương thuyết giữa triều đình Huế, và Súy Phủ Sài Gòn vì không thể làm gì hơn. Sau này 

Hà Thành thất thủ, Tôn Thất Bá có nhiều hành vi minh chứng rằng y xin ra ngoài với Henri Rivière chỉ là một gian kế 

để thông đồng với địch, quả nhiên sau đó y được nhận quyền lãnh mọi việc. Giờ khói lửa đến. Theo kế hoạch của 

Thiếu Tá Chanu, việc đánh thành đã do hai đạo quân, một đánh vào cửa Đông, một đánh vào cửa Bắc. Đúng 8 giờ, đội 

thủy quân Retrouvey tiến vào cửa Đông. Khi gần tới thì ngưng lại để nã đại bác số 12 vào thành. Đồng thời ở ngoài 

sông 3 tàu chiến cũng cho đại bác khạc đạn vào thành liên tiếp nhằm phá cửa Bắc và pháo đài góc Tây Bắc. Hai phát 

trúng vào thành nhưng không chuyển được phần nào. Quân trong thành cũng bắn ra ráo riết. Quân đội Retrouvey 

đánh cửa Đông cũng không ngoài ý phân tán lực tượng của Việt quân tức là để Việt quân phải cố sức chống đỡ về mặt 

này cho đội quân khác của Pháp tù phía Đồn Thủy tiến qua Yên Phụ đến công phá cửa Bắc. Đội pháo thủ của Trung 

Úy Deviternes cũng chiếm được một chỗ đất cao, cách thành chừng 800 thước, đại bác cũng nhằm mé cửa Bắc và 

pháo đài góc Tây Bắc. Đạo quân này có 200 người gồm 100 tay súng trường, 50 thủy binh và 50 bộ binh dùng súng 

lục cùng thang tre. Sau đoàn này là một đội khác có 100 bộ binh và một đoàn pháo thủ. Hậu quân là 40 thủy binh do 

Thiếu Úy Fiashi điều động cùng tiến với Henri Rivière. Ngoài pháo đài và mé cửa Bắc bị tấn công dữ dội, các dinh trại 

và kho tàng, nhà đạn cũng là mục tiêu cho quân Pháp do đại bác số 4 bắn vào không ngớt. Xét ra thì một giải đất ngót 

500 thước về mạn thành này đã do các đạo binh đánh vào 3 nơi kể trên vừa hải, vừa lục quân gồm theo các toán ngụy 

binh do người Pháp vừa mộ ở đây. Cuộc giao tranh rất là đều nhịp: trong bắn ra, ngoài bắn vào liên tiếp. Những lớp 

nhà lá ở ngoại thành bị đạn cháy ngất trời, mỗi lúc một thêm to, tàn lửa bay lung tung. Quân Pháp phải luôn luôn đổi 

chỗ, kéo đại bác đi rất là vất vả. Viên Chánh Suất đội hùng nhuệ đang thúc quân ứng chiến rất hăng thì bị trúng đạn 

ngã gục. Bố Chánh tuyên bố bỏ chạy vào kho thuốc súng thì vừa đúng lúc đại bác của Pháp thủ Deviternes bắn 

trúng. Lửa bốc cháy rừng rực, tiếng nổ inh tai, khói tỏa mịt mù. Lửa cháy mạnh quá đến nỗi những dãy nhà cách thành 

vài trăm thước cũng bị lửa lan tới. 9 giờ 15! Tình thế Việt quân đã có vẻ nguy ngập. Nhà kho, dinh trại nhiều nơi bị 

cháy do một số quân nội phản. Tin dữ cáo cấp Hoàng Diệu không sờn lòng, truyền lấy thêm quân và đạn dược lên cửa 

Bắc. Tiếc thay đại bác của ta không di chuyển được, phần bắn không có cách thay đổi gần xa nên hầu như vô dụng, 

do chỗ địch quân biết tiến thoái. 10 giờ 15! Quân Pháp toan thôi bắn nhưng Việt quân vẫn hăng lên Henri Rivière lại ra 

lệnh bắn phá kịch liệt. Đạn nhỏ, đạn lớn bắn như mưa trong nửa giờ dồn dập vào các kho tàng, doanh trại. Thỉnh 

thoảng có những tiếng nổ vang trời dậy đất, lửa bốc đùng đùng, tro tàn tung tóe khắp nơi. Ở cửa Đông, thấy thế 

nguy, Đề Đốc Lê Trinh bỏ chạy, lãnh binh Lê Trực ở cửa Tây cũng rút. Thế là hai mặt bị tan vỡ cả. Ở cửa Nam, Thủy 

Sư lãnh binh Nguyễn Đình Đường còn cố chống giữ. Chỉ còn ở cửa Bắc do Hoàng Diệu và phó lãnh binh Hồ Văn 

Phong đốc chiến là còn mạnh. 10 giờ 45, đại bác của Pháp chợt im tiếng. Quân Pháp thay chiến lược. Họ xoay sang thế 

đánh giáp lá cà. Đại Úy Martin dùng mìn phá thành (cửa Bắc). Những tiếng nổ dữ dội ghê gớm phát ra, nhưng thành 

vẫn trơ trơ như đem cả cái kỳ công từ đầu triều Lý với sức cần cù của dân tộc Việt Nam non nghìn năm ra để đối phó 

với mọi phũ phàng của tình thế. 

Rồi tại góc Tây Bắc, quân Pháp nhờ có thang tre trèo vào được, rầm rầm kéo xuống. Tiếng hò hét như long trời, lở đất, 

tiếng gươm dao lưỡi lê đụng chạm nhau nghe lạnh cả người. Cuộc hỗn chiến vô cùng ác liệt. Quân Việt vừa đánh vừa 

tháo trước những làn khói tỏa và trận mưa đạn. Đại cục trông thấy đổ vỡ rõ ràng về phía ta. Hoàng Diệu khi đó đầu đội 

khăn xanh, mình mặc áo the thâm, thắt lưng nhiễu điều buộc múi bên sườn, cùng 10 viên võ cử rút về phía Hành cung 

trong đám tàn quân. Khi đến nơi, ông truyền: "Ai muốn về Kinh thì về, còn ai muốn đánh nữa thì lên Sơn Tây hợp với 

Hoàng Kế Viêm!" Mọi người giải tán, ông cắn ngón tay chảy máu, viết trên mảnh lụa trắng mấy lời di biểu tạ tội cùng 

triều đình: "Thành mất không sao chịu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, 

nguyện xin theo Nguyễn Tri Phương xuống đất. Quân tướng muôn dặm, huyết lệ đôi hàng..." Rồi ông trút bỏ khăn đội 

đầu, tròng vào cành đa trước miếu Quan Công mà tuẫn tiết. H. Rivière hạ xong thành Hà Nội. Triều đình ta rất xúc 

động hạ lệnh cho hai quan Kinh Lược Chánh, phó sứ Nguyễn Chính và Bùi Ân Niên (tức Bùi Dị) cùng tướng Hoàng 

Kế Viêm rút quân ra Mỹ Đức. Việc đánh lúc này là bất đắc dĩ vì triều đình biết Pháp mạnh nên cho cầu hòa trước đã. 

Đây là điều kiện của H. Rivière đã đưa ra cho đại diện của ta là Trần Đình Túc và Nguyễn Hữu Độ: 1) Pháp trả thành 

Thăng Long nhưng vẫn đóng ở Hành Cung. 2) Nước Nam phải nhận quyền bảo hộ của nước Pháp. 3) Nước Nam phải 

nhường Thị Trấn Hà Nội cho nước Pháp. 4) Pháp được quyền đặt Thương Chánh ở Bắc Kỳ sửa đổi lại các thể lệ, và tổ 

chức lại cơ sở Thương Chánh đã sẵn có và bổ người quản trị. Các điều kiện này đều bị bác bỏ, vì bên ta còn đặt nhiều 

hy vọng vào Lưu Vĩnh Phúc để đối phó với Pháp: hơn thế nữa vua Tự Đức còn cho ông Phạm Thận Duật sang xin 

Thiên Tân can thiệp, không nhớ rằng từ 40 năm qua nước Tàu sau Nha phiến chiến tranh bị liệt cường chia xẻ đất đai, 

như vậy Tàu cứu mình còn chẳng nổi thì làm sao giúp ta được nữa, nhưng người Tàu vẫn có nhiều tham vọng thực 

dân. Nguyên sau khi Hà thành thất thủ được ta cần đến, Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh đã đệ lên 

Thanh Đình tờ biểu lập lại đúng luận điệu của Tôn Sĩ Nghị xưa kia là nhân sự suy kém của nước Nam nên đem quân 

sang Thượng Du đợi khi có biến chiếm lấy các tỉnh miền Bắc sông Hồng Hà... Sau đó, Đường Cảnh Tùng, Từ Diên 

Húc và Tạ Kinh Bửu mang binh sang đóng ở Bắc Ninh và Tây Sơn. Chủ trương của Pháp lúc này vẫn là khủng bố 

mạnh rồi đổi điều kiện để tiến dần tới chỗ lấy đứt nước Việt cho ít hại tiền tài và sinh mạng, vì vậy H.Rivière lấy xong 

thành Hà Nội thì ngưng lại không đánh nữa. 

Henri Rivière đình chỉ chiến tranh được ngót một năm tại Bắc Kỳ, nhưng biết rằng quân Tàu vẫn can thiệp vào việc 

Việt Nam tất nhiên sẽ có nhiều sự khó khăn nên xin Pháp Đình tăng thêm quân số. Sau Sài Gòn được lệnh Ba Lê gửi 

thêm 750 người nữa cộng vào 400 lính bản bộ đã ra Hà Nội cùng với y hồi năm trước. Có thêm lực lượng lại được tin 

triều đình Huế nhường việc khai thác mỏ than Hòn Gay cho Tàu, nhưng Tàu không đủ kỹ thuật gia và tài lực, nên định 

nhường lại cho một công ty Anh. H. Rivière sợ mất quyền lợi cho Pháp liền vội kéo binh xuống chiếm ngay Hòn Gay 

vào ngày 12-3-1883 không cần chờ lệnh của chính phủ. Đánh chiếm xong Hòn Gay, H. Rivière được bọn Việt Gian báo 

hay cho rằng Tổng Đốc Nam Định đang huy động từ 15 đến 20 ngàn binh vào vây đường tiếp tế của mình qua Hải 

Phòng, liền cho Đại Úy Berthe De Vilers đánh thành Nam Định vào ngày 28-2 năm Quí Mùi (tức là 27-3-1883). Quân ta 

cầm cự không được quá nửa ngày. Tổng Đốc Vũ Trọng Bình bỏ chạy, Đề Đốc Lê Văn Điếm tử trận, Át-sát-sứ Hồ Bá 

Ôn bị thương. Nhưng về phía Hà Nội, được sự cộng tác của quân Tàu, Tổng Đốc Bắc Ninh là Trương Quan Đản và 

phó Kinh lược Bùi Ân Niên đem quân đóng ở Gia Lâm tính tấn công nơi thủ phủ này. Hoàng Kế Viêm cử Lưu Vĩnh 

Phúc đánh phủ Hoài Đức trở lên theo kế hoạch uy hiếp Pháp cả hai mặt. Henri Rivière đem 500 quân tiến ra mạn Cầu 

Giấy bị quân Cờ Đen phục kích. H. Rivière đã tiêu ma sự nghiệp làm tướng ở đây cũng nhu Francis Garnier mười năm 

trước. Còn Berthe De Vilers thì bị trọng thương. Thảm sử này của quân đội viễn chinh Pháp được ghi vào ngày 13-4 

năm Quí Mùi (tức là 19-5-1883). Lúc này bên Pháp, nội các Jules Ferry vừa lên cầm quyền, Hạ nghị viện còn đang do 

dự về việc chiếm đánh Bắc Kỳ khi được tin H. Rivière tử trận liền quyết định ra 5 triệu rưỡi phật lăng làm binh phí và cử 

một văn quan sang làm toàn quyền, rồi điện cho lục quân Thiếu Tướng Bonet và Hải quân thiếu Tướng Courbet đem 

lực lượng thủy bộ ra Bắc Kỳ tiếp ứng. Trong dịp này ông Hamanrd sứ thần Pháp ở Vọng Các được sang làm toàn 

quyền bên Nam Kỳ. Lãnh chức xong ông theo quân đội ra Bắc. Ngày mùng 3 tháng 5 viện quân Pháp tới Hà Nội. Họ 

liên lạc với Georges Vlavianos, một kẻ tùy tùng của J. Dupuis để tuyển mộ quân Cờ Vàng làm tiền quân, sửa sang lại 

thành lũy ở Hà Nội và Nam Định. Cuộc tấn công của ta vào khu tam giác Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng không có kết 

quả. Mà có thể nào đánh nổi được quân Pháp khi việc tuyển mộ quân lính trong giai đoạn này rất là vội vã, kém tổ 

chức nhất là thiếu huấn luyện. Vì thế mà vừa nghe thấy hỏa lực của Pháp đã xô nhau mà chạy. Ngoài ra tiếng súng đã 

nổ giữa hai bên, vai trò đại diện ngoại giao của Pháp, Việt ta trở nên vô ích, do đó mà lãnh sự của ta ở Sài Gòn là 

Nguyễn Thành Ý bị đuổi về trong khi vua Dực Tông qua đời và chính tình đang rối ren nhất. 

5- Sự Phối Lập Ở Huế 

Vua Dực Tông mất ngày 16-6 năm Quí Mùi (1883) việc tôn lập có sự bất đồng giữa các đại thần. Nguyên vua Tự Đức 

không có con nên đem cháu gọi bằng Bác làm kế vị, tức là vua Dực Đức lúc đó là Thụy Quốc Công. Theo di chiếu của 

vua Tự Đức thì triều đình phải lập Thụy Quốc Công, nhưng vua Dực Đức ở ngôi được ba ngày thì bị ông Tôn Thất 

Thuyết và Nguyễn Văn Tường phế lập và đem giam vào Trấn Phủ (một nhà lao đặc biệt của nhà vua), vì không được 

tiếp tế lương thực gì cả nên bảy ngày sau Ngài mất (6-10-1883). Ông Thuyết và Tường liền đem ông Hoàng Út, em của 

vua Tự Đức là Lạng Quốc Công húy là Hồng Dật lên ngôi, lấy hiệu là Hiệp Hòa. Vua Hiệp Hòa cũng không tồn tại 

được lâu sau phải uống thuốc độc mà chết. Nguyên nhân nhà vua thấy thế lực của Pháp đã tràn khắp từ Nam ra Bắc, 

đại cục ở trong tay họ rồi, nên đã bí mật giao thiệp với Pháp để giữ vững địa vị, có lẽ ngài quan niệm rằng chống Pháp 

chỉ có hại mà thôi, một phần triều thần cũng nghĩ như vậy và một phần trái lại, nhất định chống Pháp để bảo vệ chủ 

quyền. Hai ông Tường và Thuyết đứng đầu phe dưới đây. Một cuộc phân tranh đã ngấm ngầm phát xuất trong hàng 

ngũ phong kiến, rồi bọn ông Thuyết bắt được tang chứng về sự phản bội của vua Hiệp Hòa là một bức thư của nhà 

vua gởi cho Khâm Sứ Pháp do Hồng Sâm con của Tuy Lý Vương mang đi. Họ bắt vua Hiệp Hòa chịu tam ban triều 

điển120 và chém ngay Hường Sơn 30-11-1883. Theo số phận vua Hiệp Hòa và Hồng Sâm là Trần Tiễn Thành cũng ở 

trong hàng ba quan Phụ Chính, vì ông không tán thành chính kiến của Tường và Thuyết. Phe chủ hòa gần như mất 

tinh thần và bị tiêu diệt dần, còn phe chủ chiến đặt ông Dưỡng Thiện (con nuôi thứ ba của vua Tự Đức) bấy giờ mới 

15 tuổi lên ngôi tức là vua Kiến Phúc121. 

6- Hòa Ước Năm Qúi Mùi (1883) 

Từ ngày 12 tháng 7 (Quí Mùi 1883) đến ngày 17 tháng Pháp chia quân đánh khắp nơi từ Trung ra Bắc. Quân Pháp 

thắng quân Cờ Đen ở làng Vòng (Phú Hoài) và Hải Dương đồng thời toàn quyền Harmand ra lệnh cho thủy quân tấn 

công vào cửa Thuận An. Các tướng trấn thành và chỉ huy quân đội thủy bộ của ta Lê Sĩ, Lê Chuẩn, Lâm Hoằng, Trần 

Thúc Nhẫn vị tử trận hoặc nhảy xuống sông tự tử. Triều đình chỉ còn một cách là hạ lệnh cho các quan ta giải binh và 

xin ký thêm một hòa ước nữa: tức là hòa ước ngày 23 tháng 7 năm Quí Mùi (1883) ký kết giữa toàn quyền Harmand, 

Khâm sứ Champeaux, Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hiệp. Hòa ước này có 37 khoản, đáng chú ý là những khoản 

sau đây: Khoản thứ Nhất: Nước Nam chịu quyền bảo hộ của Pháp, việc ngoại giao của Việt Nam phải để Pháp chủ 

trương. Khoản thứ Hai: Tỉnh Bình Thuận sát nhập vào Nam Việt. Khoảng Thứ Ba: Quân Pháp đóng ở Đèo Ngang và 

cửa Thuận An.                                        

 [120 Tam ban triều điển là thứ hình phạt buội tội nhân phải chịu uống thuốc độc hoặc thắt cổ hay tự đâm cổ. Vua Hiệp 

Hòa phải uống thuốc độc mà chết vào ngày 30-11-1883. ] [121 Vua Kiến Phúc tức là ông Hoàng Ưng Đăng được tôn 

lập ngày 7-10 năm Quí Mùi (1883). Theo dư luận ở Huế nhà vua bị đầu độc do tay bà học phi và Nguyễn Văn Tường. 

Hai người này tư thông với nhau. Nhà vua biết được đang định sẽ trừng trị việc thông gian thì Tường ra tay trước. Cái 

chết của vua Kiến Phúc như vậy không phải là vì chính trị. ]

Khoản thứ Sáu: Từ tỉnh Khánh Hòa ra đến Đèo Ngang quyền cai trị thuộc về triều đình. Còn những khoản sau nói 

Khâm sứ ở Huế có quyền ra vào yết kiến nhà vua. Từ Đèo Ngang trở ra Bắc Việt, Pháp đặt công sứ để kiểm soát công 

việc của các quan ta nhưng không dự vào các việc hành chính. Hòa ước này ký xong. Pháp rảnh tay về phía Việt Nam 

chỉ còn phải giải quyết với quân đội Tàu. Sau khi ký xong hòa ước Qúi Mùi (1883) triều đình Huế cử Khâm sai đại thần 

Trần Văn Chuẩn và Lai Bộ Tham Tri Hồng Phi ra Bắc Kỳ với toàn quyền Harmand để thi hành lệnh bãi chiến nhưng 

quan quân của ta ở đây có nhiều người không chịu, vì vậy việc chiến tranh vẫn tiếp tục. Cầm đầu lực lượng kháng 

chiến ở Bắc Kỳ với một tấm lòng sắt đá bấy giờ là Hoàng Kế Viêm đang giữ mạn Sơn Tây, Trương Quan Đản giữ Bắc 

Ninh tức là hai bên tả hữu ngạn sông Hồng Hà. Chủ trương của Pháp chuyến này là Bình Định toàn cõi Bắc Kỳ để 

thực hiện cuộc bảo hộ cho kỳ được. Hạ nghị viên đã bỏ thăm chấp thuận 17 triệu quan, ngày 18-12-1883 lại cấp thêm 3 

triệu nữa cho quân đội viễn chinh đặt dưới quyền Đô Đốc Courbet. Tổng tư lệnh quân đội thủy lực, thêm với ba ngàn 

sáu trăm binh sĩ đổ bộ lên đất Bắc vào hạ tuần tháng 11-1883. Lần này mũi dùi của Pháp nhắm vào Sơn Tây vì ở đây 

có chủ lực quân của Việt Nam do hai đại tướng Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc điều khiển. Quân Pháp chia ra hai 

đạo: Tướng Bichot dẫn thủy quân từ sông Hồng Hà tiến lên tới cửa sông Đáy Tướng Belin đem lục quân do Hà Nội 

xuất phát tới Sơn Tây. Quân ta mai phục ở Phú Sá từ hai hôm trước. Ngày 14-12 hai bên gặp nhau, xô xát kịch liệt. Qua 

ngày 15-12 phòng tuyến thứ nhất của ta bị chọc thủng. Rồi quân Pháp vây thành Sơn Tây. Pháp không cho quân 

nghỉ. Một trận long trời lở đất và rất kinh khủng đã diễn ra, như chưa bao giờ đã xảy đến như vậy trong lịch sử chiến 

tranh Việt Pháp trên đất Bắc: Chiến sự khởi từ chiều 16-12. Quân Trung Hoa tích cực chiến đấu. Pháp nhờ có hỏa lực 

rất mạnh phá được vòng thành ngoài nhưng binh sĩ mệt nhoài, tối đến phải ngừng lại. Quân ta và Trung Hoa thấy khó 

giữ nổi thành liền nhân đêm tối rút hết ra phía Đông Nam, sáng 17-12 quân Pháp vào thành. Trong trận này ta mất 

1.000 binh sĩ, Pháp bị 83 người chết, 319 bị thương. Được tin thắng trận ở Sơn Tây, Hạ nghị viện Pháp gửi thêm 7.000 

quân nữa qua Việt Nam. Giữa lúc này Khâm sứ Champeaux xin về Pháp nghỉ. Ông Tricon sứ thần Pháp ở Trung Hoa 

được lệnh đến Huế điều đình, sửa lại hòa ước 25-8-1883. Vào ngày 28-12-1883, mấy ngày đầu triều đình chưa nói đến 

chuyện tiếp ông nhưng khi có tin Sơn Tây bị thất thủ, triều đình mới cho ông Tricon gặp rồi thỏa thuận để cùng xét lại 

Hòa ước Harmand. Hai bên chưa ký xong thì tổng tư lệnh Courbet sau khi hạ được Sơn Tây cho khinh khí cầu dọ thám 

Bắc Ninh. Nhưng chưa khởi sự đánh thành này thì Courbet bị triệu về Pháp và tướng Millot được lên thay. Quân tiếp 

viện của Pháp lại kéo sang thêm nữa và đã đổ bộ lên Bắc Kỳ vào ngày 12-2-1884 trong đó có 470 sĩ quan, 16.000 lính 

và phu phen nô dịch chiến trường có tới 6.000. Từ khi thua Pháp ở Sơn Tây, quân đội Việt Hoa nỗ lực giữ Bắc Ninh. 

Tại đây bên cạnh Trương Quang Đản có tướng Hoàng Kinh Lan, tổng tư lệnh quân Trung Hoa đến tăng cường việc 

bảo vệ thành Bắc Ninh. Quân Trung Hoa đóng từ Lạng Giang (tỉnh Lỵ) xuống huyện Yên Dũng. Một đạo khác vượt 

qua tả ngạn sông Đáp Cầu chặn thủy quân định tiến lên Bắc Ninh. Một đạo nữa giữ Hùng Lâm (?). Đại tướng họ 

Hoàng đặt bộ tham mưu ở trong thành để chỉ huy Liên Quân. Quân Cờ Đen đóng dài từ Đáp Cầu đến Yên Dũng lập 

thành một phòng tuyến kiên cố bao quanh tỉnh tỵ. Tướng Millot, Brière De L'isle, Négrier đem các chiến đỉnh, pháo 

đỉnh và các giàn trọng pháo đánh vòng lại phía sau thành, cố tránh phía Tây Nam phủ Từ Sơn vì ở đây quân Trung 

Hoa, đóng nhiều. Họ nhắm hướng Nam và Đông Nam mà tấn công nhân thể chặn đường tiếp viện Lạng Sơn, Bắc Ninh. 

Sáng sớm ngày 7-2-1884 họ vượt sông Hồng Hà, sông Đáp Cầu để yểm trợ cánh tả của lục quân, thủy quân lục chiến 

đổ bộ tại phủ Lạng Thương. Ngày 9-3 đến 11-3 quân Pháp chia nhau vây bốn mặt thành. Trận đánh rất hăng, khắp mọi 

nơi Liên quân đều bại và bỏ chạy. Ngày 12-3-1884, Pháp làm chủ thành Bắc Ninh, Đáp Cầu. Quân Tàu không rút về 

Lạng Sơn được phải chạy lên Thái Nguyên. Đánh xong Bắc Ninh, Pháp đánh luôn Hưng Hóa và Tuyên Quang. Thiếu 

tướng Brière De L'isle dàn trận ở Đà Giang khởi chiến từ sáng ngày 15 tháng ba đến ba giờ chiều thì quân Pháp sang 

sông gần địa hạt Bạch Hạc, chín giờ sáng hôm 16-3 tướng Négrier lên tiếp viện. Thế quân Pháp càng mạnh, quân Tàu 

rút lên Mạn Ngược. Trưa ngày 17, Pháp vào được thành Hưng Hóa. Bọn ông Hoàng Kế Viêm lần theo đường thượng 

đạo về Kinh với cả một sự thất vọng. Còn một thành nữa trong tay Cờ Đen là Tuyên Quang, Thống tướng Millot cho 

thủy quân vượt Lô Giang, Trung Tá Duchesne đem 5 chiếc tàu chiến đánh vào thành này. Họ đi từ mồng 3 tháng 5 

đến mồng 8 thì đã tới trước thành Tuyên Quang. Đôi bên giao phong được một giờ thì quân Cờ Đen thua chạy. Kiểm 

điểm về các đồn ải, căn cứ, chiến lược, liên quân Hoa Việt mất hết vùng Trung Châu và Trung Du xứ Bắc nhưng quân 

Tàu còn đóng ở ba tỉnh Cao Bắc Lạng. Pháp liền ngoại giao với Tàu, để Tàu nhận cuộc bảo hộ của mình cho yên. Sau 

nhờ người Đức tên là Détring làm trung gian, Trung tá Fournier được lên Thiên Tân gặp Lý Hồng Cường là tổng đốc 

Trực Lệ để lập cuộc hòa giải hai chánh phủ Pháp Hoa. Ngày 18-4 năm Giáp Thân (11-5-1884). Hòa ước thành hình, 

nghĩa là Trung Quốc nhận rút quân về và nhường quyền cho Pháp tự do xếp đặt mọi việc ở Việt Nam. 

7- Hòa Ước Thiên Tân Thứ Hai (27-4 Ất Dậu) 

Với hòa ước này, Pháp đã mừng từ nay có thể yên trí để dẹp hết các cuộc chống đối cuối cùng của triều đình Huế, 

nhưng trái lại quân đội Tàu ở các vùng Cao Bắc Lạng vẫn không rút qua biên giới như đã quyết định vào tháng 5 năm 

Giáp Thân (1884). Quân Pháp liền tiến đánh đồn Bắc Lệ, vừa qua con sông Thương (thuộc tỉnh Bắc Giang) thì bị quân 

Tàu bắn tới tấp, ba tên lính Pháp bị chết. Tàu mới cho Pháp hay tuy họ biết có hòa ước Thiên Tân, nhưng chưa được 

lệnh hồi quân. Pháp đòi sau một giờ quân Tàu phải rút về nếu không Pháp sẽ đánh, rồi đôi bên xô xát kịch liệt đến tối, 

sáng hôm sau quân Pháp và đại bại, phải kêu về Hà Nội lấy viện quân. 

Thiếu Tướng Négrier được lệnh mang quân lên tiếp ứng cho Trung Tá Dugenne. Được tin này chính phủ Ba Lê liền 

điện cho hải quân Trung Tướng Courbet và Patenôtre đang làm công xứ Pháp ở Bắc Kinh đòi chính phủ Tàu vì 

chuyện này phải bồi thường 28 triệu chiến phí. Đại diện của đôi bên thương thuyết mãi tới 29-6 thì Pháp hạ số tiền này 

xuống 80 triệu phật lăng, hẹn trả trong 10 năm. Nhưng cuộc thương thuyết vẫn tan vỡ. Lần này Pháp cho đánh ngay 

vào các lãnh thổ của Tàu là Phúc Châu vào tháng sau (tháng 7 năm Giáp Thân 1884). Pháp vây cả Đài Loan và phá 

vùng duyên Hải Trung Quốc đến tháng 6 năm Ất Dậu !885) là lúc Tàu chịu ký hòa ước mới thôi. Vào mùa thu năm ấy 

tướng Brière De L'isle thay tướng Millot được thêm 6.000 viện binh, cộng tất cả là ngót hai vạn liền chia ra bốn đạo 

đánh Đông triều, Đồn Chũ, Đồn Đầm, Phủ Lạng, Thương Tức là vùng Đông Bắc, Bắc Kỳ. Quân Cờ Đen lúc này đóng 

ở Tuyên Quang cũng bị Pháp tới đánh. Quân Tàu thua ở khắp các địa điểm kể trên, số thiệt hại gấp mười so với quân 

Pháp. Cuối năm Giáp Thân thành Lạng Sơn bị Pháp lấy được, quân Tàu phải chạy qua Nam Quan trốn về Tàu, một 

phần rút lên Thất Khê. Trong khi đại quân của Pháp đánh Lạng Sơn, quân Cờ Đen trở lại phong tỏa thành Tuyên 

Quang do Thiếu Tá Dominé giữ. Vì lực lượng ít ỏi nên quân Pháp ở đây phải cố thủ. Đến 17 tháng giêng năm Ất Dậu, 

tướng Brière De L'isle dẫu lục quân tiến đến Đoan Hùng và thủy quân vượt sông chảy lên cứu Tuyên Quang. Thành 

này được giải vây. Trong cuộc xung đột này hai bên Pháp Hoa đều thiệt hại lớn. Ngày mồng 6 tháng 2 năm Ất Dậu 

(1885) quân Tàu lại tràn qua Đồng Đăng. Tướng Négrier lên ngăn định đánh luôn tới Long Châu nhưng đến mồng 8 lại 

rút về Lạng Sơn. Quân số của Pháp ở trong thành có 3.500 người. Ngày 13 quân Tàu tấn công Kỳ Lừa là một đồn giáp 

thành. Thiếu tướng Négrier bị thương nặng ở đây. Thế quân Pháp đuối dần vì quân Tàu quá đông, rồi Pháp rút lui về 

giữ đồn Chũ, Kép và Tuần Muội. Brière De L'isle lúc này đã được thăng trung tướng, đánh điện về Pháp xin thêm quân 

bởi còn phải giữ cả Quan Nam và quân Tàu ở Hưng Hóa cùng Lâm Thảo nữa. Nơi này cũng là một trận tuyến quan 

trọng. Nghe tin quân mình bất lợi ở Lạng Sơn, dư luận Pháp xôn xao, thủ tướng Jules Ferry phải từ chức. Chính phủ 

Pháp liền ủy Patenôtre mở cuộc thương thuyết lại với chính phủ Tàu, đồng thời Ba Lê cho thêm hai sư đoàn sang Bắc 

Kỳ dưới quyền Trung Tướng Roussel De Courcy làm thống đốc quân dân sự vụ, Trung Tướng Warnel làm tham mưu 

trưởng vùng hai thiếu tướng Jamont và Prudhomme. Chính phủ Tàu thấy kéo dài chiến tranh có thể bất lợi nên ngày 

27-4 năm Ất Dậu chịu cho Lý Hồng Chương ký kết với Patenôtre một phen nữa. Với tờ hòa ước Thiên Tân thứ hai này 

cũng vẫn có khoản chính yếu là Trung Quốc nhận cuộc bảo hộ ỏa Pháp ở Việt Nam, và hai nước Pháp Hoa tiếp tục 

giao thương như cũ. Còn Pháp phải trả lại các chỗ mà hải quân đã chiếm được ở các vùng duyên hải. Khoản Tàu phải 

bồi thường chiến tranh cho Pháp được bỏ đi. Từ giờ phút này trên trận địa Việt Nam chỉ còn hai lực lượng đứng lại là 

Việt và Pháp. Mất bạn đồng minh, dĩ nhiên cuộc kháng Pháp của ta yếu hẳn và cũng từ giai đoạn này Pháp tha hồ ăn 

hiếp, bắt nạt triều đình Huế. 

8- Hòa Ước Patenôtre (1884) (tháng 5 năm Giáp Thân)  

Ngày 6 tháng 6 năm 1884 Pháp lại đòi sửa hòa ước Quí Mùi. Ông Patenôtre ở Pháp sang, cùng với ông Nguyễn Văn 

Tường, Phạm Thận Duật và Tôn Thất Phan ký hòa ước mới, đại cương giống hòa ước trước như lần này chỉ có 19 

khoản và có phần sửa đổi mấy khoản nói về Bình Thuận và ba tỉnh ngoài Đèo Ngang là Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh 

Hóa vẫn thuộc Trung Việt. Từ ngày có hòa ước 1884 122 lãnh thổ Việt Nam (trừ Nam Kỳ đã thành thuộc địa) chia làm 

hai xứ, tuy cùng chịu quyền bảo hộ của Pháp nhưng việc cai trị khác nhau. Nếu thống nhất do con dân Việt Nam xây 

dựng bằng biết bao nhiêu xương máu này vì hòa ước Patenôtre lại lâm vào cảnh tam phân, bởi chính sách thâm hiểm 

của đế quốc Pháp là "chia để trị". Tóm lại nói đến hòa ước 1884 là nói đến sự toàn thắng của đế quốc Pháp trên mảnh 

đất này và sự suy vong toàn hoàn của phong kiến Việt Nam cuối thế XIX, bấy lâu đã ăn sâu bén rộng vào các tầng 

lớp xã hội Lạc Hồng qua bao nhiêu thế hệ. Và trong dịp bắt đầu thi hành bá quyền của nước Pháp trên đất Việt Nam. 

Rheinard hội các quan tại tòa Khâm làm lễ thủ tiêu cái của nhà Thanh đã trao cho vua Gia Long khi phong vương123. 

Hành động này có tính cách chính thức chấm dứt ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc và mở ra một kỷ nguyên mới: 

Kỷ nguyên Việt Nam lệ thuộc Pháp. Lễ hủy ấn đã thi hành ngày 6-6-1884.                                         

 [122 Hòa ước 1884 đến ngày 9 tháng 3 năm 1945 thì mất hết hiệu lực về pháp lý, do chỗ Pháp không đảm bảo nổi cho 

Việt Nam khi có vụ ngoại xâm của Nhật trong thời kỳ đại chiến thứ hai (1939-1945) như Pháp đã cam kết.] [ 123 Cái ấn 

được để trên một cái bễ nấu lên chảy ra thành một cục bạc trị giá 280 đồng bạc Mễ Tây Cơ thuở đó. ]

465 Việt Sử Toàn Thư 

 Phần 4 - Chương 4  Tàn Cuộc Của Phong Kiến Việt Nam 

 - Phong trào Cần Vương cứu quốc - Phong trào Văn Thân, kháng Pháp - Chế độ bảo hộ của Pháp ở Việt Nam  

1- Phong Trào Cần Vương Cứu Quốc 

Bắc kỳ như trên đã nói, có thể coi là bị lọt hết vào bàn tay của quân đội viễn chinh Pháp. Tại Huế cuộc khủng hoảng 

chính trị mỗi giờ phút một nặng nề. Ai cũng thấy rõ thế nước chông chênh, mất còn chỉ là thời gian. Trong các quan 

chia làm hai phe: phe chủ chiến có hai ông Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, phe chủ hòa có Trần Tiển Thành, 

Nguyễn Hữu Độ, Gia Hưng quận vương... Với danh nghĩa Phụ chính đại thần, hai ông Thuyết, Tường, nắm hết qưyền 

hành và ra mặt độc đoán. Hai ông triệt hạ hết các nhân vật của phe chủ hòa và huy động việc kháng chiến từ Trung ra 

Bắc. Do đó ta đã thấy Khâm sai Hoàng Kế Viêm trở ra hoạt động tại Sơn Tây, Trương Quang Đản ở Bắc Ninh, Tạ Hiện 

ở Nam Định, Phạm Vũ Mẫn, Hoàng Văn Hòe, Nguyễn Thiện Thuật ở các tỉnh khác. Các ông này đều là các quan văn 

võ cao cấp của triều đình, nhiệt liệt hưỡng ứng lời hịch Cần Vương. Bị Pháp phản đối nhiều lần lại thêm thất trận nặng 

nề nên có phen họ Hoàng và Trương phải về kinh, nhưng vẫn không phải là triều đình đã thay đổi chính sách vì lúc 

này ông Tường vẫn ngoại giao khéo léo với Pháp để ông Thuyết ngầm tổ chức kháng chiến. Ở Trung, đoàn quân 

Phấn Nghĩa có hàng vạn người được bí mật sửa soạn chờ ngày tổng phản công. Một trường diễn võ được lập ra để 

huấn luyện quân đội. Tại Sơn Phòng, phe kháng chiến xây dựng một chiến khu với mục đích bên trong tiếp ứng cho 

Quảng Bình, Quảng Trị, phía ngoài liên lạc với các miền thượng du Thanh Nghệ và có đường rút sang Lào và Xiêm. 

Quân đội đóng ở đây có hơn một ngàn với hơn 20 cỗ đại bác. Chiến khu này xét ra là con đường lùi của kháng chiến 

một khi cuộc đánh úp đồn Mang Cá bị thất bại. Vua Kiến Phúc ở ngôi được hơn 6 tháng và mất ngày mồng 7 tháng 4 

năm Giáp Thân (1884) trong một trường hợp vô cùng thê thảm như trên đã kể. Em Ngài là vua Hàm Nghi lên thay, tức là 

Chánh Mông, húy là Ưng Lịch khi đó mới 12 tuổi. Để đánh dấu những biến cố trên đây, sĩ phu Việt Nam đã có hai câu 

thơ: 

  Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết   Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường124 Khâm sứ Rheinart trách cứ rằng 

việc đặt vua Hàm Nghi lên ngôi không có xin phép nước Pháp và đại tá Guerrier đem 600 quân cùng một đội pháo binh 

từ Bắc vào Huế để thị uy. Sau đó Rheinart và Guerrier sang làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi rồi mới rút binh sĩ 

về Hà Nội. Xét tình hình có thể rối loạn to về phía phong kiến Việt Nam, sau khi hòa ước Thiên Tân ký vào ngày 27-04

-1885 tức là năm Quang Tự thứ 11 (Ất Dậu) giữa Patenôtre đại diện Pháp và Lý Hồng Chương đại diện Thanh triều, 

Pháp liền dốc toàn lực để tiêu diệt cuộc kháng chiến của Cần Vương mà thái độ giờ phút đó rất khả nghi và quan ngại. 

Ngày 18 tháng 4 năm Ất Dậu (1885), thống tướng De Courcy vừa sang tới Bắc kỳ liền đem ngót một ngàn quân vào 

Huế bàn việc giao thiệp giữa ông với Nam triều, đòi các quan phụ chính đại thần phải sang tận sứ quán Pháp để hội 

thương. Viên tướng Pháp còn bắt Nam triều ra lệnh cho sĩ phu và dân chúng tòng phục hoàn toàn chính thể bảo hộ. Y 

lại có ý nhân dịp này bắt ông Tôn Thất Thuyết ngay giữa cuộc đàm phán vì ông này là linh hồn của kháng chiến. 

Thuyết biết mưu này liền cáo ốm không sang và để Nguyễn Văn Tường cùng Phạm Thận Duật sang tòa Khâm (theo 

tin các báo Ba Lê hồi ấy) Trong cuộc đàm thoại, De Courcy yêu sách nhiều điều làm nhục quốc thể Việt Nam, đại khái 

y đòi khi y đến, vua Hàm Nghi phải bước xuống ngai nghênh tiếp, sau lại bó buộc ông Thuyết nếu ốm thì nằm cáng mà 

sang sứ quán Pháp. Thật là đưa nhau vào bước đường quyết liệt, vì vậy mà cuộc chiến tranh Việt Pháp không sao 

tránh được. Thuyết không chịu, De Courcy tính sao? Có kẻ Việt gian báo cho Khâm sứ De Courcy biết rằng Thuyết 

không ốm, ông vẫn đi kiểm soát đồn trại và kho thuốc súng. Một ngày qua tức là ngày 22-5 năm Ất Dậu (5-7-1885), 

Pháp khao thưởng quân đội định sáng hôm sau sang vây bộ binh bắt Thuyết, thì vào một giờ đêm Thuyết và Soạn 

cho bắn một phát đại bác làm hiệu lệnh để nhất tề tấn công vào đồn Mang Cá và Sứ quán Pháp. Quân Pháp xuất kỳ 

bất ý, vội vàng nghênh địch, nhưng vẫn giữ thế thủ để chờ buổi sáng. Họ ẩn núp trong trại không chịu ra ngoài. Khi 

mặt trời hé mọc, quân Pháp thủy lục đều phản công, họ chở súng lên đài và nóc tàu bắn qua rằm rằm giết hại quân 

nhân rất nhiều, Hoàng thành và cung điện nhiều nơi bị phá hủy. Họ chia ra làm nhiều đạo quân tiến đánh các mặt. Hai 

đạo quân của ta ở bên trong và bên ngoài chống không nổi, bị vỡ. Nguyễn Văn Tường thấy thế nguy liền vào Nội yêu 

cầu nhà vua xuất cung. Hữu quân Hồ Văn Hiển phò giá, đầu giờ Thìn ra cửa Tây Nam. Từ Dũ thái hậu ủy Tường ở lại 

lo việc giảng hòa, Thuyết chạy kịp theo, còn chừng trăm người.                                        

 [124 có nghĩa là một con sông (Hương) bên kia bờ là tòa Khâm (Pháp) bên này là triều đình (Việt) hai nước, hai chính 

sách, quyền lợi chống nhau thì mọi việc đều khó. Bốn tháng ba vua đó là điềm chẳng lành. ]

Quân Pháp liền trèo lên kỳ đài treo cờ Tam Tài. Kiểm điểm lại trận đánh tại Kinh thành đêm 22 tháng 5 năm Ất Dậu 

(1885), ta thấy phần bại hoàn toàn về phía chúng ta. Pháp chỉ chết có 16 người, bị thương 80 người. Quân ta chết đến 

vài ngàn, còn khí giới, lương thực mất đến hàng triệu bạc. Sáng ngày 23 quân ta rút lui khỏi Huế, xa giá nghỉ ở Trường 

Thi một lát rồi lên đường đi Quảng Trị. Nguyễn Văn Tường được lệnh ở lại thu xếp mọi việc125. (Tài liệu của giáo sĩ 

Delvaux viết trong bài La prise de Huế của tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Huế) Trưa hôm ấy, ông nhờ giám mục 

Caspard đưa ra đầu thú với thống tướng De Courcy, Tường được đến trú tại Thương bạc viện và bị đại úy Schmitz coi 

giữ. Pháp buộc ông ta nội hai tháng phải thu xếp cho yên mọi việc. Ông Tường gửi sớ ra Quảng Trị xin rước Tam cung 

(bà Từ Dũ Thái hoàng thái hậu, mẹ đức Dực Tông, bà Hoàng thái hậu là vợ đức Dực Tông và là mẹ nuôi ông Dục Đức, 

Kiến Phúc và Đồng Khánh. Một tướng Pháp tham gia trận đánh đồn Mang Cá khen quân ta thiện nghệ phòng thủ vì 

các đường giao thông có đào hầm hố hoặc chẹn bằng các chướng ngại vật. Binh sĩ nấp đằng sau những tấm phên nứa 

căng hai lần da trâu mà bắn đến giờ chót mới chịu rút lui. Trong khi đó, Thuyết đem vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở 

(Quảng Trị) người Pháp treo giải 2000 lạng bạc cái đầu của ông Thuyết và ai bắt được vua Hàm Nghi thì được thưởng 

500 lạng. Từ Dũ thái hậu viết thư mấy lần khuyên cháu trở về nhưng vô hiệu. Từ Trung ra Bắc, cờ khởi nghĩa bay khắp 

nơi. Sau biến cố này, mọi việc trong triều do khâm sứ Pháp điều khiển hết và các quan ta, mỗi khi có việc gì đều nhất 

nhất phải hỏi ý tòa Khâm. De Courcy cho gọi Silvestre ở Bắc vào Huế để tổ chức một chính phủ lâm thời. Hoàng thân 

Thọ Xuân được cử ra quyền nhiếp chính phủ này và Nguyễn Văn Tường điều khiển Cơ mật viện. Lúc này người Pháp 

thấy khó có hy vọng dụ được vua Hàm Nghi trở về, liền đặt ông Chánh Mông là Kiên Giang quận công theo lời đề 

nghị của Từ Dũ thái hậu (vua Đồng Khánh là anh vua Kiến Phúc và Hàm Nghi126). Ngày 6 tháng 8 ông phải thân 

hành sang tòa Khâm để chịu lễ thụ phong. Vị hoàng đế này tính tình hiền lành, ưa trang sức và cũng thích duy tân, rất 

được lòng người Pháp. Đình thần bấy giờ có Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình đang ở Bắc được Pháp gọi về giúp vua 

mới cùng với Nguyễn Văn Tường. Ít ngày sau, Nguyễn Hữu Độ không hợp ý với Nguyễn Văn Tường nên lại trở ra Hà 

Nội. Giữa hôm vua Đồng Khánh bước lên ngai vàng thì Tôn Thất Thuyết tung ra bài hịch Cần Vương.                               

 [125 Sau đó hai tháng người Pháp cách chức Nguyễn Văn Tường đày đi Haiti, lập vua Đồng Khánh lên ngôi ngày 14-

9-1885 ] [126 Vua Đồng Khánh bấy giờ được 23 tuổi. ]

Bài hịch này hẳn là của Tôn Thất Thuyết lấy lời của vua Hàm Nghi kể nông nổi của nước Việt Nam từ ngày người 

Pháp bước chân lên đất Nam kỳ cho đến khi họ tràn lan ra Trung, Bắc, bày mưu lập kế dùng bạo lực đặt nền thống trị 

lên toàn cõi Việt Nam. Họ chiếm nước là đã làm một chuyện khiến quân dân Việt Nam đau đớn lại còn sỉ nhục triều 

đình cùng sĩ phu đất Việt nữa. Nhà vua thống trách Nguyễn Văn Tường chạy theo kẻ địch, lại lập tâm tìm bắt nhà vua 

để nộp cho Pháp. Ngài kể lại nổi khổ sở từ khi rời bỏ kinh thành, lặn suối trèo non và Ngài hiệu triệu thần dân trong 

nước, muôn người như một hãy đồng tâm gắng sức giải phóng quốc gia, nêu cao tinh thần kháng chiến. Lời lẽ tờ hịch 

hết sức lâm ly thấm thiết, nên có nhiều nhân sĩ hồi ấy đọc đến phải nghẹn ngào sa lệ, vỗ gươm đứng dậy. Kết quả là 

những cuộc khởi nghĩa đã nổi lên ầm ầm như phong ba bảo táp. Lê Trung Đỉnh ở Quảng Nghĩa Mai Xuân Thưởng ở 

Bình Định Nguyễn Huệ ở Quảng Nam Đề đốc Lê Trực ở sông Gianh (Quảng Bình) Phan Đình Phùng ở Nghệ Tỉnh 

Tống Duy Tân, Cầm Bá Thước ở Thanh Hóa Đinh Công Tráng ở Ba Đình Nguyễn Thuật đứng đầu quân Cần Vương 

xứ Bắc Hoàng Hoa Thám hoạt động vùng Yên Thế Sau đó, Thuyết sang Tàu với mục đích cầu viện vì ông vẫn tin 

tưởng ở sức mạnh của nhà Thanh. Ông cho rằng người khác đi thay không bày tỏ hết tình trạng nước nhà, e lỡ việc 

lớn, nay lấy danh nghĩa mình là người trong hoàng tộc, lại là phụ chính đại thần và đại tướng thì sự giao thiệp có lợi 

hơn. Ông bắt đầu đi từ Hương Khê theo đường rừng ra Nghệ An, qua Thanh Hóa, Lai Châu, lên Lào Kay tới Vân Nam 

rồi sang Quảng Đông. Cùng đi với ông có đề đốc Trần Xuân Soạn, Võ cử nhân Nguyễn Viết Tốn, đi đến đâu, cổ động 

kháng chiến đến đấy chớ không đi thẳng một mạch nên hành trình từ Hà Tỉnh sang Quảng Đông kéo dài một năm. Khi 

đến Trung quốc, Tôn Thất Thuyết ở lại nhà Liêu Văn Chỉ ít bữa rồi sang Vân Nam. Ông gặp Sầm Xuân Huyên là tổng 

đốc tỉnh này, sau Huyện lại giới thiệu ông với tổng đốc Quảng Tây là Trương Minh Ký. Do họ Trương, ông lại làm 

quen với thống đốc Quảng Đông là Lý Hàn Chương (anh Lý Hồng Chương). Tại Quảng Đông, ông Thuyết làm một lá 

sớ đệ lên Bắc Kinh. Khi đó Pháp cho người lên Bắc Kinh vận động với Lý Hồng Chương, bấy giờ làm toàn quyền Đại 

thần triều Mãn, họ Lý tâu với Tây thái hậu, chiếu theo lời đề nghị của Pháp, giữ ông Thuyết ở huyện La Định, sau đem 

về huyện Thiêu Quan. Xét ra Tàu hồi đó bị Liệt cường bắt nạt, sau cuộc nha phiến chiến tranh với người Anh, phải cắt 

đất xin hòa, vì vậy Tàu rất e dè người da trắng. Ốc còn chẳng mang nổi mình ốc, đó là trường hợp Trung Quốc thuở 

ấy. Rồi việc cầu viện của ông Thuyết rốt cuộc chỉ là công dã tràng. Năm 1912, ông Thuyết tạ thế tại Thiêu Quan, được 

ông Lý Can Nguyên, bấy giờ chấp chính Bắc Kinh, xót thương người tiết liệt cho xây một ngôi mộ rất to và lập bia đề 

là "Nguyễn Phúc Thuyết Ngự tiền Thân sương chi mộ" Nhân sĩ Quảng Đông có câu đối viếng ông như sau: Thù 

nhung bất cộng đái thiên, vạn cổ phương danh lưu Tượng quận Hộ giá biệt tầm tỉnh địa, thiên niên tàn cốt ký Long 

châu127  Về phía người Pháp, sau khi bọn ông Thuyết rời bỏ kinh thành, đại tá Chaumont được lệnh đem quân ra đóng 

ở Quảng Bình để chận đón phe kháng chiến, không cho giao thiệp với Bắc kỳ. Nhưng ở Nghệ An và Thanh Hóa, 

nghĩa quân hoạt động rất mạnh, thiếu tá Grégoire ở lại giữ Quảng Bình, còn đại tá Chaumont trở về Đà Nẳng lấy thêm 

viện binh đưa tàu chiến ra đóng ở Nghệ An và tuần tiểu khắp nơi. Tháng 9 năm Bính Tuất (1886) Hoàng Kế Viêm được 

vua Đồng Khánh phong làm An phủ kinh lược đại sứ ra Quảng Bình chiêu dụ vua Hàm Nghi và các Văn Thân, yêu cầu 

các vị trở về và sẽ được hưởng địa vị như cũ. Việc chiêu dụ này có thể nói là thất bại vì các lãnh tụ Cần Vương không 

ai theo, trừ một số thủ hạ không đáng kể. Ông Hoàng Kế Viêm bị rút công tác vào tháng 5 năm Đinh Hợi (1887) vì lẽ 

đó. Bấy giờ quân Cần Vương chiến đấu rãi rác khắp nơi. Đề đốc Lê Trực đóng ở Thanh Thủy, thuộc huyện Tuyên 

Chánh, Tôn Thất Đạm (con ông Thuyết) đóng ở thượng du Hà Tỉnh, thuộc hai hạt Kỳ Anh và Cẩm Xuyên, Tôn Thất 

Thiệp (con ông Thuyết) và Phạm Tuân theo vua Hàm Nghi loanh quanh ở huyện Thanh Hóa. Suốt Trung Nam Bắc, 

lúc đó tình hình rối ren, người Pháp phải chia nhau đi đánh dẹp khắp nơi vì mọi cuộc phủ dụ đều thất bại. Đại úy 

Mouteaux ở Quảng Bình cùng với cố Tortuyaux đem quân đi đánh Lê Trực ở Thanh Thủy. Biết ông Trực là người 

nghĩa khí, Mouteaux viết thư lấy lời trang trọng mời ông trở về nhưng bị ông khước từ như sau: "Tôi vì vua, vì nước, 

đã quyết lòng làm hết bổn phận, đâu dám tham sự sống mà quên việc nghĩa" Trong giai đoạn này, người Pháp đóng 

quân ở đồn Minh Cầm, bọn ông Trực phải lui về phía trên, sau đó Lê Trực ra mạn Hà Tỉnh, Nguyễn Phạm Tuân đóng ở 

Yên Lộc, thuộc miền Nam sông Gianh. Qua tháng ba, thám tử chỉ cho Mouteaux nơi ông Nguyễn Phạm Tuân đồn trú. 

Ông bị vây bắt được cả bọn, vì bị đạn bên cạnh sườn, mấy ngày sau thì mất.                                        

[ 127 Thù ngoài không đội trời chung, muôn thuở tiếng thơm lưu Tượng quận Phò chúa riêng tìm cõi thác, ngàn năm 

xương bạc gửi Long châu ]

470 Việt Sử Toàn Thư 

Điều người Pháp cần nhất là tìm bắt vua Hàm Nghi, biết rằng nhà vua là linh hồn của Cần Vương lại được dân chúng 

mến yêu nên vì thế mà cuộc khởi nghĩa Cần Vương được hậu thuẩn rất mạnh. Nhưng khi ấy chưa rõ được tông tích của 

Ngài thì ít tháng sau có kẻ mách rằng muốn bắt được vua Hàm Nghi phải có tên Trương Quang Ngọc, ở làng Trà Mạc, 

lúc đó đang được ra vào hầu cận vua, Ngọc là kẻ tiểu nhân có thể mua chuộc được. Đại úy Mouteaux liền dùng tiền 

bạc, danh lợi dỗ dành được bọn tổng lý hạt Minh Cầm liên lạc với Trương Quang Ngọc. Ngọc nhận lời giúp quân Pháp 

nhưng chưa dám hẹn có thể bắt được nhà vua ngay. Khi ấy, bên cạnh nhà vua Hàm Nghi có Tôn Thất Thiệp là một 

thiếu niên anh dũng, không bao giờ rời vua nữa bước. Kẻ nào bàn đến chuyện về đầu thú đều bị Thiệp giết ngay, vì 

vậy mà bọn Ngọc còn e dè. Còn nhóm ông Lê Trực và Tôn Thất Đạm cùng nghĩa quân lưu động, nay chỗ này, mai chỗ 

khác, người Pháp mệt sức mà cũng không tiêu diệt nổi, vì thế mà đại úy Mouteaux xin về Pháp nghỉ. Thay ông trong 

việc này là một viên đại tá chỉ huy ở Huế, ông ra Quảng Bình tiếp tục công việc kể trên nhưng tình thế của đôi bên 

cũng không ra khỏi chỗ bế tắc. Người Pháp vẫn không diệt nổi Văn Thân, nhưng Văn Thân cũng chỉ làm được việc 

quấy rối lung tung khắp nơi mà thôi. Cho đến tháng 9, quân Pháp mỏi mệt đã định rút về miền bể thì có một kẻ hầu cận 

vua Hàm Nghi ra thú ở Đồng Cả, phía trên đồn Minh Cầm. Tên này khai rõ tung tích vua Hàm Nghi và nhân viên 

quanh Ngài. Người Pháp lại dùng hắn để liên lạc với Trương Quang Ngọc và tên Nguyễn Định Tình, bọn này bấy giờ 

mới tình nguyện mấy hôm sau sẽ bắt sống được vua Hàm Nghi. Chúng được chỉ thị ngoài nhà vua ra, còn ai chống cự 

thì cứ giết. Ngày 26 tháng 9 năm Mậu Tý là ngày tuyệt vọng của ông vua bôn đào, một ngày tan vỡ mộng khôi phục 

đất nước và là ngày tàn lụi của cuộc Cách mạng Phong kiến Việt Nam. Bấy giờ vào hồi nửa đêm, Ngọc và Tình đem 20 

thủ hạ, người làng Thanh Lang và Thanh Cuộc, đến vây làng Tả Bảo là chỗ trú ẩn của nhà vua, Tôn Thất Thiệp đang 

ngủ, nghe có biến vùng vậy vừa cầm gươm nhảy ra thì bị chúng đâm chết ngay. Vua Hàm Nghi nhận thấy Ngọc, giận 

uất vô cùng, trao cho nó thanh kiếm mà bảo rằng: - Mày giết tao đi còn hơn đem tao nộp cho Tây. Một kẻ lanh tay ôm 

lấy lưng Ngài và kẻ khác giật lấy thanh kiếm. Từ lúc bị bắt cho đến khi tới trại Pháp, Ngài đau đớn không nói năng 

được nửa lời. Sáng hôm sau bọn tên Ngọc võng Ngài ra bến Ngã Hai, xuống bè đi hai ngày đến đồn Thanh Lang nộp 

cho đại úy Boulangier. Ngay lúc đó, Boulangier đưa Ngài về đồn Thuận Bài, gần chợ Đồn bên tả ngạn sông Gianh. Rồi 

Ngài bị đưa xuống tàu về Thuận An và sau đó bị đày đi Algerie, mỗi năm được cấp 25.000 phật lăng. Bấy giờ Ngài mới 

16 tuổi. Trương Quang Ngọc được hàm Lãnh binh, Nguyễn Định Tình được thưởng hàm võ quan. Việc vua Hàm Nghi 

bị bắt quả đã đem lại ảnh hưởng tai hại cho phong trào Cần Vương như chúng ta đã nói ở trên và làm nản lòng một 

phần chiến sĩ trong hàng ngũ cứu quốc. Ngoài ra, địa vị của người Pháp mỗi ngày một vững vàng và mạnh mẽ, trái lại 

sức đấu tranh của Văn Thân mỗi ngày một bị tê liệt thêm, rồi tan rã dần đi. Nghe tin vua Hàm Nghi bị bắt, Tôn Thất 

Đạm liền hội các tướng sĩ đến hiểu dụ rằng tình thế rõ rệt sớm muộn sẽ thất bại, nếu kéo dài cuộc kháng chiến càng 

thêm hại. Ông khuyên mọi người nên ra thú để về an cư lạc nghiệp. Rồi ông có gửi về Huế hai bức thư: một cho vua 

Hàm Nghi là cả một thiên trường hận, lâm ly, thấm thiết của một người tôi trung, một thiếu niên anh hùng chỉ biết sống 

chết cùng đất nước, một lá thư gửi cho thiếu tá Debat ở đồn Thuận Bài yêu cầu sự an toàn cho các đồng chí. Viết thư 

xong ông nói: - Quân Pháp có muốn bắt ta thì vào mà tìm mả ta ở trong rừng. Ngay lúc ấy, ông thắt cổ mà chết. Hai bức 

thư này được đại úy Gosselin phiên dịch sang tiếng Pháp và in trong cuốn "Empire d'Annam" của ông, lời lẽ rất cương 

quyết và khẳng khái. 

2- Phong Trào Văn Thân Chống Pháp 

Năm Ất Dậu (1885) sau khi thất bại trong việc đánh thành Mang Cá và sứ quán Pháp, vua Hàm Nghi cùng các người 

kháng chiến rút khỏi Kinh. Ông Tôn Thất Thuyết mượn lời vua Hàm Nghi tung ra lời hịch kêu gọi toàn dân kháng 

chiến, sau ông qua Tàu cầu viện. Ông đi và không trở về nữa như ta đã biết. Ở trong nước, các đạo binh Cần Vương 

hưởng ứng lời hịch, nổi lên ở khắp Trung, Bắc để tranh đấu giành lại quyền tự do, độc lập, mặc dầu cũng dư biết rằng 

mình có thể chỉ làm chuyện châu chấu đá xe mà thôi. Nhưng có lẽ các vị tiền bối đó đã quan niệm rằng nếu chiến đấu 

chẳng thành công ngay thì cũng gây được căm thù đối với địch và giữ vững được cái hào khí của dân tộc cho đám 

người sau. Cách mạng của một quốc gia lạc hậu như nước mình chống với một đế quốc tân tiến đang đầy sinh lực sao 

có thể thâu lượm được kết quả mau lẹ như lòng mong muốn. Ở Trung kỳ, bấy giờ phất cờ khởi nghĩa có các ông Mai 

Xuân Thưởng, Bùi Điền, Nguyễn Đức Nhuận đem dân binh đánh phá Phú Yên và Bình Định, công sứ Aymonier, thiếu 

tá De Lorme và Việt gian Trần Bá Lộc đem lính Tây và lính tập đi đánh dẹp, và bắt được ba ông đem đi giết. Cuộc khởi 

nghĩa bắt đầu từ tháng 6 năm Bính Tuất đến tháng 6 năm Đinh Hợi (1887) thì tắt. Nhưng lực lượng mà Pháp lo ngại hơn 

cả vẫn là lực lượng của vua Hàm Nghi. Hướng về ngọn cờ cách mạng của nhà vua, hoặc gần hoặc xa từ Bình Thuận 

trở ra Bắc, hay là qui tụ chung quanh nhà vua bấy giờ có Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thiệp (hai con của Tôn Thất 

Thuyết), các cựu thần Trương Văn Ban, Nguyễn Phạm Tuân, Lê Trực, Nguyễn Chữ, Trần Văn Dự, Trương Đình Hội, 

Lê Mô Giai, Phan Trọng Mưu, Nguyễn Nguyên Thành, Lê Doãn Nhạ, Nguyễn Xuân Ôn, Ngô Xuân Quỳnh, Hà Văn 

Mao, Mai Xuân Soạn, Tống Duy Tân, Đinh Công Tráng, Phạm Bành, Phan Đình Phùng, ... Ngày 16-5 năm Bính Tuất 

(1886), Pháp cử vua Đồng Khánh ra Quảng Bình tuần thú mạn Bắc để dụ vua Hàm Nghi và các chiến sĩ Cần Vương, đại 

úy Billet đi theo nhà vua. Cuối tháng 7, vua Đồng Khánh ra tới Quảng Bình nhưng chẳng kêu gọi được ai cả, cuộc 

chống đối của Văn Thân và cựu thần vẫn tiếp tục, nhà vua ở lại vài tuần rồi xuống tàu trở về Huế. Hai tháng sau 

(tháng 9) Hoàng Kế Viêm được khai phục nguyên hàm và được phong làm Hữu Trực Kỳ An Phủ Kinh Lược Đại Sứ 

cũng ra Quảng Bình tiếp tục việc khuyến dụ các đạo quân Cần Vương. Theo ý vua Đồng Khánh (tức là ý người Pháp) 

nếu các người kháng chiến trở về, họ sẽ được bảo đảm về địa vị, phẩm tước, riêng vua Hàm Nghi thì sẽ được làm tổng 

trấn ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tỉnh. Hoàng Kế Viêm rốt cuộc cũng thất bại như vua Đồng Khánh. Trong giai 

đoạn này, đứng điều khiển bộ máy của Bảo hộ là thống đốc Paul Bert. Tại Bắc kỳ, Văn Thân cũng nổi lên sau khi hòa 

ước Thiên Tân ráo mực. Sĩ phu ở đây coi rằng giải quyết các biến cố của nước nhà mà vọng ngoại là điều không có 

bảo đảm chắc chắn, nên thế tuy mỏng manh nhưng họ vẫn xông ra chiến trường để thay thế cái triều đình đã trở nên 

bất lực và hết tín nhiệm đối với quốc dân sau khi vua Hàm Nghi rút khỏi kinh thành. Các cựu thần còn nối tiếp cuộc 

chiến đấu thuở ấy ở Bắc kỳ có Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật, đề đốc Tạ Hiện giữ vùng Bãi Sậy thuộc Hải 

Dương cùng với các thổ hào như Đốc Tích ở vùng Đông Triều, Đề Kiều ở vùng Hưng Hóa, Cai Kinh, Đốc Ngữ ở Bắc 

Giang, Lương Tam Kỳ dư đảng Cờ Đen dấy quân ở vùng chợ Chu (Thái Nguyên). Pháp cho Hoàng Cao Khải và 

Nguyễn Trọng Hợp đi đánh dẹp, Văn Thân chống đỡ được ít tháng rồi tan vỡ dần, hoặc bị bắt hay tử trận. Nguyễn 

Thiện Thuật trốn qua Tàu, Đốc Tích ra hàng phải đày sang Algerie, Đề Kiều và Lương Tam Kỳ được ở yên lập ấp tại 

địa phương. Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, và Hoàng Hoa Thám lúc hàng, lúc đánh, sau bị Lương Tam Kỳ cho thủ 

hạ đến ám sát giữa vùng rừng núi Thượng du để lấy công với Pháp. Trong đám chiến sĩ này, Đề Thám kéo dài cuộc 

chống đối nhiều hơn cả và đã làm cho Pháp nhiều phen điêu đứng ở các miền Nhã Nam, Yên Thế, Tam Đảo, Pháp 

khâm phục ông vô cùng. Bên cạnh Hoàng Hoa Thám có người vợ ba cũng đáng kể là một anh thư nước Việt, tuy quần 

vận, yếm mang mà đã từng làm cho các võ tướng của Pháp nhiều phen bở vía trước ngọn cờ nương tử. Hoàng Hoa 

Thám khởi nghiệp vào năm 1887 và thất thế vào năm 1913. Nhưng trong giới Văn Thân cứu quốc, người ta không quên 

được ông Phan Đình Phùng, người làng Đông Thái, tỉnh Hà Tỉnh, đỗ Đinh nguyên về đời Tự Đức làm quan đến Ngự 

sử. Cần Vương tan rã vào năm 1888, nghĩa là sau khi vua Hàm Nghi bị bắt và bị đày đi Algerie, ông là ngọn lửa cuối 

cùng bùng lên trên nền trời kháng chiến. Ông dùng đồn điền Vụ Quang làm chỗ tập hợp binh sĩ và các đồng chí. Ông 

có tài tổ chức quân đội, giỏi thao lược, biết gây tinh thần kỹ luật và biết huấn luyện binh sĩ theo lối Âu Châu. Binh đội 

của ông mặc đồng phục, chiến đấu hăng hái, có tinh thần đồng đội và đoàn kết, nhờ vậy, cuộc kháng chiến của họ 

Phan trường cửu được 11 năm. Đại úy Gosselin, từng nhiều phen đối thủ với ông, đã nhiệt liệt ngợi khen ông về việc 

đúc được kiểu súng 1874 của Pháp do sáng kiến của một bộ tướng là Cao Thắng, tiếc rằng súng của ông, nòng không 

xẻ được nên đạn bắn không được xa như súng Pháp. Ông khéo dùng chiến thuật du kích từ Trung Khê, Trí Khê (Hà 

Tỉnh, Nghệ An), các đảng viên cũ của Văn Thân lại tìm về với ông để hoạt động. Pháp ra công đánh ông từ cuối năm 

Quí Tị (1893) đến cuối năm Ất Mùi (1895) không thâu được kết quả gì mà lính tráng thì chết hại rất nhiều. Bảo hộ sai 

Hoàng Cao Khải lấy tình cố hữu viết thư dụ ông ra hàng không được, sau giao nhiệm vụ tiểu trừ họ Phan cho tổng 

đốc Bình Định là Nguyễn Thân. Vì chịu quá nhiều gian khổ, thế lực mỗi ngày một kém, ông Phan Đình Phùng mắc 

bệnh kiết lỵ mà chết. Nguyễn Thân cho người vào rừng đào mả ông lên, đốt thây ông ra tro trộn vào thuốc súng bắn 

xuống La Giang. Để tưởng lệ hai tên Việt gian phản quốc Nguyễn Thân và Hoàng Cao Khải, Bảo hộ cho ông làm phụ 

chính đại thần thay ông Nguyễn Trọng Hợp về hưu trí, Khải được lĩnh chức Bắc Kỳ Kinh Lược Sứ. Xét về hoạt động 

của Văn Thân, riêng từ Trung kỳ trở ra Bắc ta phải kể rằng Văn Thân đã phất cờ, dóng trống từ 1874 tức là từ khi có 

hòa ước Giáp Tuất. Bắc đầu là sĩ phu Thanh Nghệ Tỉnh, thủ lãnh có 2 ông Tú Đỗ Mai và Trần Tấn, chủ trương chống 

cả triều đình và Pháp xâm lăng. Đồng thời Văn Thân cũng sát phạt cả giáo sĩ và giáo dân vì giáo dân một số khá đông 

đã bị lôi cuốn vào chính trị của bọn thực dân, đế quốc. Nhưng khi triều đình có rõ rệt mục đích chống Pháp thì Văn 

Thân gia nhập phong trào Cần Vương để cứu nước, đến đầu thế kỷ XX các nhà cách mạng của chúng ta thấy rằng 

ngòi bút lông không chống nổi đại bác và cơ giới Tây phương liền thay đổi chiến lược. Lớp người của Tự Đức, Hàm 

Nghi ngã gục hết, lớp tuổi trẻ lên thay bấy giờ có các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Tăng 

Bạt Hổ128,... Các cụ đã học được nhiều sách khảo luận và phiên dịch về chính trị của Âu Châu qua phái nhà nho tân 

tiến của Trung Quốc là Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi nên đã nhận xét được nhiều tư tưởng tiến bộ và cao đẹp của 

các nhà cách mạng Âu Châu (Rousseau, Montesquieu,...) ngoài ra cuộc Duy Tân tự cường của Minh Trị Thiên Hoàng 

và trí thức Nhật Bản cuối thế kỹ XIX cũng kích thích tâm hồn các cụ rất mạnh. Rồi ở giữa đám thanh niên hầu như lạc 

lõng bơ vơ sau một giấc mơ dữ dội của thời đại có một chuyển hướng: bỏ chủ trương dùng bạo lực chống Pháp, xuất 

dương cầu học và bí mật vận động các phong trào ái quốc. Trong quốc nội, đả kích kịch liệt cái học từ chương khoa 

cử, cái học "đi làm ông Phán" để "tối rượu sâm banh, sáng sữa bò" mà nhà nho đất Vị Hoàng đã mỉa mai trong lời thơ 

đầy cảm khái129. Khoảng năm 1904 -1905 cụ Sào Nam Phan Bội Châu họp các đồng chí ở sơn trang Nam Thịnh tại 

Quảng Nam lập ra "Việt Nam Quang Phục Hội" rồi cùng Tăng Bạt Hổ bí mật đi Nhật, giao thiệp với chính giới Nhật 

đem cụ Cường Để và một số thanh niên sang Đông Kinh. Các thanh niên này đều thụ huấn ở Trấn Võ học hiệu là một 

trường quân sự lớn nhất của Phù Tang thuở ấy tại Đông Kinh. Nhưng nơi cầu học và hoạt động cách mạng nhiều hơn 

cả vẫn là đất Tàu do đó nhiều thanh niên của ta đã có mặt ở các trường Hoàng Phố, Bảo Định và các Lục quân học 

hiệu ở Bắc Kinh. Các cụ hy vọng nhờ các học hiệu của Nhật và Tàu tạo nên một số cán bộ để tranh thủ độc lập và xây 

dựng những cơ sở mới cho quốc gia sau này. Phong trào xuất dương du học ngày nay được gọi là phong trào Đông 

Du. Còn ở trong nước, một số nhà cách mạng khác là Lương Ngọc Can, Đào Nguyên Phổ, Dương Bá Trạc, Nguyễn 

Quyền,... gây nên phong trào "Đông Kinh Nghĩa Thục".                                        

 [128 Cụ Tăng thuộc nhóm Mai Xuân Thưởng, khởi nghĩa ở Bình Định.] [ 129 Nhà nho đất Vị Hoàng đây là ông tú Trần 

Tế Xương người tỉnh Nam Định. ]

Thực ra Đông Kinh Nghĩa Thục là một trường tư mà các vị tiền bối của chúng ta lập ra theo gương ông Phúc Trạch 

bên Nhật mở Khánh Ứng nghĩa thục để giáo dục nhân dân theo một đường lối cấp tiến. Nhưng bên trong, Đông Kinh 

Nghĩa Thục còn là một tổ chức bí mật để các nhà cách mạng gặp nhau phân chia công tác đưa thanh niên đi ngoại 

quốc, tuyên truyền cổ động việc phục quốc và liên lạc với các đồng chí hải ngoại. Cũng trong dịp này, Văn Thân 

Nghệ Tỉnh lập ra Minh Xá và Âm Xá có chủ trương quá khích, nghĩa là vẫn thiên về vũ lực hơn là làm cách mạng văn 

hóa, chính trị và kinh tế. Tại Nam kỳ, hai ông Xã Định và Trần Chánh Chiếu lập hội Minh Tâm cũng có mục đích tương 

tự với các tổ chức trên đây. Đông Kinh Nghĩa Thục hoạt động từ năm 1907, qua năm sau thì bị đóng cửa vì đã có 

nhiều tiếng vang để cho bảo hộ Pháp phải e ngại. Rồi vụ đầu độc trại lính Pháp ở Hà Nội bị phác giác, Pháp cho điều 

tra, được biết vụ này có bàn tay bí mật của nhân viên Đông Kinh Nghĩa Thục nên nhiều yếu nhân của cơ quan này bị 

bắt và bị đày. Liên tiếp với vụ trên đây, tại Trung kỳ dân quê các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên, hàng 

ngàn người kéo nhau đi biểu tình đến tòa sứ yêu cầu bãi sưu, bớt thuế. Họ mặc áo cộc, đội nón lá, lưng đeo nồi và 

thực phẩm. Đi đường thấy ai mặc áo dài và tóc dài thì họ xúm nhau vào cắt áo, cắt tóc cho ngắn. Vụ này gọi là "loạn 

đầu bào" hay "vụ cúp tóc". Bởi hai vụ vừa kể dây nên rất nhiều người bị bắt bớ giam cầm bi thảm nhất là ông nghè 

Trần Quí Cáp bị viên Bố chánh Khánh Hòa, một cẩu tẩu của Pháp quá trung thành, mẫn cán với mẫu quốc đem chém 

ngang lưng. Rồi từ 1908 cho tới 1926, người Việt Nam vẫn tiếp tục tranh đấu dưới đủ mọi hình thức. Trong khi cuộc Đại 

chiến thứ nhất xảy ra (1914-1918) ngày 20-10-1914, Trương Nhị đánh phá đồn Lục Nam. Ngày 13-3-1915 các cụ Nguyễn 

Hữu Thần, Hoàng Trọng Mậu, Phan Sào Nam mộ quân từ biên giới Quảng Tây về đánh đồn Tà Lùng (Lạng Sơn) 

nhưng bị thất bại. Thánh 3 năm 1913, hai đảng viên Cách Mạng Việt Nam Hải Ngoại Nguyễn Văn Tráng và Nguyễn 

Khắc Cần về ném bom ở Thái Bình giết được tuần phủ Nguyễn Duy Hàn. Cách mấy hôm sau giữa khách sạn "Hà Nội 

Hotel" có một vụ ném bom thứ hai. Nạn nhân là hai sĩ quan Pháp: Mongrand và Chapuis. Mục đích của hai vụ khủng 

bố này là cảnh cáo người Pháp phải sửa đổi việc chính trị của họ tại Việt Nam và lũ tay sai vong bản quá tham tàn đối 

với đồng bào. Nhưng tới năm 1924 trở đi, để xúc tiến phong trào cứu quốc, các nhà nho Hậu Văn Thân lập ra Việt Nam 

Quang Phục Hội và Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí, Hội Duy Tân, Á Tế Á, Áp Bách Nhược Tiểu Dân Tộc 

Việt Nam Chi Bộ, v.v... Các đảng, các hội này sau chịu nhiều việc thay đổi, cải tổ để thành các đảng Đông Dương 

Cộng Sản Đảng, Phục Việt Đảng, Tân Việt Đảng, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh 

Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhưng đứng lại để trực tiếp với thời cuộc cho tới khi đánh đổ được nền thống trị của 

đế quốc Pháp còn hai đảng là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng (Xin coi sự nghiệp của 

hai đảng này ở các trang sau). 

475 Việt Sử Toàn Thư 

3- Vua Thành Thái (28-1-1888) 

Vua Đồng Khánh mất ngày 27 tháng chạp năm Mậu Tý thọ 25 tuổi, ở ngôi được 3 năm, miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần 

Hoàng Đế. Người Pháp bèn đưa con ông Dục Đức là Bửu Lân lên thay, lấy niên hiệu là Thành Thái. Pháp nại cớ con 

vua Đồng Khánh còn nhỏ, xét ra cớ này không đúng hẳn, vì chính vua Thành Thái lúc lên ngôi cũng chỉ mới có 10 

tuổi thôi. Lý do đúng hơn cả về việc tôn lập vua Thành Thái là bởi người Pháp có cảm tình với vua Dục Đức. Có điều 

đáng chú ý là trước khi bước lên ngai vàng, ông Hoàng Bửu Lân đang bị giam trong ngục cùng với bà mẹ. Triều đình 

vào rước Ngài từ ngục ra và đặt lên ngôi. Hai ông Nguyễn Trọng Hợp và Trương Quang Đản được cử làm Phụ chính 

cho vị thiếu quân. Vua Thành Thái là một người thông minh và có khí phách anh hùng. Sinh ra vào buổi loạn ly, đất 

nước đã nằm trong tình trạng nô lệ của người Pháp nên thời cuộc bấy giờ ảnh hưởng rất nhiều đến tâm hồn của Ngài, 

vì tính tình của Ngài can cường độc lập bao nhiêu thì cuộc đời Ngài càng mau đi tới chỗ oan trái bấy nhiêu. Lúc này, 

Pháp đã công nhiên thao túng chính sự Việt Nam, ai ai cũng biết sức mạnh của họ. Đa số các đại thần trong triều đình 

đã ngã theo Pháp, huống hồ họ lại được nhìn sự thất bại của vua Hàm Nghi trước đấy không lâu. Hơn nữa, địa vị và 

quyền lợi cá nhân đã làm mê muội họ rồi, bấy giờ họ chỉ đua nhau tranh giành ân huệ của Bảo hộ. Như vậy, nhà vua 

gần như bị hoàn toàn cô lập. Các bề tôi đã chẳng giúp đỡ gì cho Ngài mà có khi lại còn phản bội để bí mật lập công với 

Pháp, ngay cả Trương Như Cương là người có con gái tiến cung và đang nắm mọi quyền hành trong nước. Phía ngoài, 

phong trào Văn Thân và dân chúng bấy giờ đã gần như tắt hết. Vua Thành Thái sở trường về Nho học, chịu ảnh 

hưởng rất nhiều những tư tưởng của các nhà cách mạng Nhật và Trung Hoa. Ngài tìm hiểu phong trào duy tân của hai 

nước này và khao khác việc cải cách quốc gia về mọi mặt, những mong sớm đưa đất nước đến chỗ phú cường. Buổi 

đầu, Ngài bắt các hoàng thân, quốc thích lo việc học theo hướng Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng rồi mọi ý tưởng cấp 

tiến của Ngài đều bị tòa Khâm sứ ngăn trở. Ngài cắt tóc ngắn trước nhất, học lái xuồng máy và xe hơi bằng sách vở. 

Năm 1904, Bắc kỳ và Trung kỳ lâm vào cảnh đói kém, Ngài thân hành ra tận nơi để trông nom việc chẩn cấp. Cử chỉ 

này càng làm cho nhân dân mến phục Ngài. Khi còn ông Nguyễn Trọng Hợp, triều chính vẫn giữ được trật tự một 

phần nào, tình nghĩa quân thần chưa đến nổi quá suy bại, bởi mọi việc còn tùy sự quyết định của nhà vua. Khâm sứ 

Pháp đối với nhà vua vẫn có lễ độ. (Có khi Khâm sứ Pháp sang yết kiến, nhà vua không tiếp mà vẫn không tỏ sự bất 

mãn). Nhưng tới khi Trương Như Cương nắm giữ guồng máy triều đình thì sức mạnh của chính quyền lọt hết vào tay 

bọn thân Pháp, người trung trực chỉ còn là những chiếc bóng mờ. Địa vị của nhà vua, trên thực tế lúc bấy giờ không 

còn gì nữa. Không khí triều đình mỗi ngày thêm nặng nề. Nhà vua bực dọc lại nóng tính, thường trút những nỗi tức 

bực vào những lời phê phán trên các từ lệnh. Cảm tưởng của vua là phần lớn các quan bấy giờ bất tài, lạc hậu, chỉ biết 

nịnh hót để mưu cầu danh lợi. Ngay đối với Trương Như Cương là quan đầu triều, có khi nhà vua cũng không có chút 

nể nang. Những lời thóa mạ của Ngài trên các biểu chương đã gây dần mối ác cảm giữa Ngài và người Pháp. Thời 

Khâm sứ Ruverque thì sự giao hảo giữa ta và Pháp còn khá nhưng sau đến Moulié và sau cùng là Lévêque thì sự mâu 

thuẩn càng lớn dần. Lévêque vốn có chân trong hội Tam Điển (France Marcon), nhờ thế lực của Hội mà được cử vào 

chức quan trọng. Ông ta không rành việc Đông Dương mà tính tình lại cũng nóng nảy, hách dịch, luôn luôn muốn lấn 

áp nhà vua. Sự bất bình giữa hai bên kéo dài luôn hai năm trước khi nhà vua bị đưa đi đày. Sau đây là vài việc đã quyết 

định tình thế của nhà vua một cách tai hại và là điều không thể tránh được:  1) Nhân có việc bổ dụng nhân viên và ít 

việc nhỏ khác, triều đình đã có bàn với tòa Khâm nhưng khi giấy tờ đệ lên nhà vua thì Ngài không ký. Lévêque nói với 

Hội đồng Thượng thư rằng: "Nhà vua không thành thực cộng tác với Bảo hộ và Ngài đã mất trí khôn thì mọi việc Hội 

đồng Thượng thư cứ tùy tiện". Sự thực đây là một mưu mô có tính toán trước giữa Lévêque và nhiều quan triều thần 

để sữa soạn việc phế lập sau này. 2) Việc thứ hai là người Pháp bắt ông Bữu Thạch, em con chú của vua Thành Thái. 

Lévêque nói rằng khi y đang đi dạo chơi trong vườn thì thấy một người cao lớn (ông Bữu Thạch) từ trong vườn nhảy 

qua hàng rào chạy trốn, lính đuổi theo bắt được, nay Lévêque xin trao cho triều đình xử. Hành động như trên, Lévêque 

muốn vu cho nhà vua sai Bữu Thạch ám hại mình. Sự thật, Bữu Thạch đang dạo mát ngoài đường thì bị bắt. Việc này, 

triều đình không biết xử trí ra sao, cuối cùng vì có sự thúc dục của tòa Khâm sứ nên phải tâu lên nhà vua. Vua Thành 

Thái châu phê rất hay, đại khái: "Các người lại đi nghe một ông Khâm sứ như muốn gián tiếp buộc tội vua để làm cái 

việc "dĩ thần nghị quân" chăng?. Cứ trả lời với Khâm sứ rằng: "Nhà vua muốn ông chuyển việc này lên Pháp đình để 

họ cử người công bình sang họp với các quan triều thần mà nghị xử". Lévêque phản đối rằng không cần phải lập hội 

đồng, một mình y chứng kiến là đủ. Vào khoảng năm 1903, vua Thành Thái ra Bắc rồi định trốn sang Tàu nhưng đến 

Thanh Hóa thì cơ mưu bại lộ. Khâm sứ Trung kỳ đánh điện ra chặn xe và đưa nhà vua về Huế. Vì không có bằng cớ, 

vua Thành Thái vẫn còn tại vị. Liên quan đến vụ này, có nhiều người bị đày đi Côn Lôn như các ông Dương Công 

Lương, ông Dư, ông Nghiêm, ...bị đi Lao Bảo. Từ khi xảy ra vụ này, vua Thành Thái bị tòa Khâm sứ kiểm soát rất gắt, 

không hoạt động gì được. Để che mắt người Pháp, nhà vua giả điên, hò hét hay đánh đập người trong cung. Vua bỏ 

tiền chiêu mộ một số đông phụ nữ, lập thành một đội nữ binh, mặc quần áo theo kiểu riêng, hàng ngày tập luyện quân 

sự và canh gát hoàng thành. Vua thân hành dạy họ cỡi ngựa, bắn cung, tính dùng họ vào việc khởi nghĩa nếu cơ hội 

đến. Đây cũng là hành động của một người ôm hoài bảo lớn nhưng không thực hiện được đành phải làm việc nhỏ cho 

thỏa chí một phần nào. Từ khi bị áp lực của Lévêque, Hội đồng Thượng thư quyết định lấy mọi việc, không còn tâu 

trình gì lên nhà vua như thuở trước. Có người phản đối sự kiện này nhưng vô hiệu quả vì đa số các quan lớn trong 

triều chỉ biết có mệnh lệnh của Lévêque, thậm chí đến việc tiếp tự, Lévêque cũng bỏ nhà vua ra ngoài, y bắt cử một 

người lớn nhất trong triều thần để thay thế. Xem như vậy, ta thấy rõ ràng Lévêque đã ra mặt hủy bỏ địa vị và uy 

quyền của vua Thành Thái. Màn cuối cùng của triều đại Thành Thái đã kết thúc ở chỗ các quan vào lạy nhà vua và đệ 

một tờ biểu yêu cầu Ngài thoái vị. Tờ biểu này đã có đầy chữ ký của họ. Riêng ông Ngô Đình Khả không chịu ký vào 

tờ biểu trên đây, mặc dầu có sự dọa nạt của Pháp và bè lũ vong nô, cho nên sau này từ cửa miệng sĩ phu Trung phần 

mới có câu: "Đày vua không Khả". Chính ra, lúc ấy Toàn quyền Broni và Khâm sứ Trung kỳ Lévêque rất e ngại về vua 

Thành Thái. Muốn dẹp yên nỗi lo ngại ấy, họ đã dùng áp lực gây nên việc ép vua phải thoái vị. Sau đó, họ đày Ngài đi 

Vũng Tàu (Cap St Jacques) và cuối cùng đưa Ngài đi Phi Châu. Hoàng tử Vĩnh San lên thay, lấy hiệu là Duy Tân 

(1907). Việc phế bỏ và lưu đày nhà vua không những đã làm sôi nổi dư luận ở Việt Nam mà còn làm xao xuyến cả chính 

giới Pháp, nên mấy tháng sau, Lévêque bị triệu hồi cho êm dư luận, nhưng các việc đã thi hành không có hoàn cải, đó 

là mánh lới của chính giới Pháp, khôn ngoan lắm thay! Còn phản ứng của sĩ phu Việt Nam như thế nào? Thời bấy giờ, 

các vị khoa mục thường vào Huế tọa giám tức là theo học ở Quốc Tử Giám, trường này được coi như trường đại học 

ngày nay. Một số cử, tú trẻ tuổi đã sôi bầu máu nóng khi nghe triều đình chạy theo sức mạnh của ngoại bang. Họ liền 

thảo hịch kể tội và thóa mạ Trương Như Cương cùng đồng bọn. Sau đó, Phan Phúc Hòe, tác giả bài hịch bị bắt liền. 

Năm 1914, chiến tranh Pháp Đức bùng nổ. Các nhà cầm quyền Pháp ở Việt Nam thấy vua Thành Thái có thể là mấu 

chốt cho cuộc khởi nghĩa chống Bảo hộ trong dịp này, liền bí mật chở Ngài sang an trí tại Réunion. Việc này xảy ra 

vào năm 1915. Sau 32 năm trời đằng đẳng sống với thổ dân trên hòn đảo xa xôi ấy, đến tháng 5-1947, nhờ con gái Ngài 

là vợ luật sư Vương Quang Nhường vận động với cao ủy Bollaert, cựu hoàng Thành Thái mới được trở về nước nhà. 

Thuở ra đi Ngài là một thanh niên tráng kiện, với vẻ mặt phương phi, lộ khí phách anh hùng, ngày trở về Ngài đã là 

một cụ già lưng còng tóc bạc. Về nước, vua Thành Thái phải chịu một điều kiện là chỉ ở miền Nam thôi. Sáu năm sau, 

cựu hoàng yêu cầu nhà cầm quyền Pháp cho Ngài trở lại Huế một thời gian ngắn để thăm viếng mộ phần các tiền đế, 

lời yêu cầu được chấp thuận. Sau cuộc thăm viếng này, vào ngày 24 tháng 3 năm 1953, Ngài lại từ giả sông Hương, núi 

Ngự trở về tư thất ở Sài Gòn đường Lucien Mossard. Đúng một năm sau, cũng ngày 24 tháng 3 năm 1954, cựu hoàng 

Thành Thái lại trở lại cố đô Huế, nhưng lần này, Ngài chỉ còn là cái xác nằm gọn trong chiếc quan tài, để bao thương 

tiếc cho quốc dân. 

4- Vua Duy Tân 

Lên thay vua Thành Thái bị người Pháp truất phế là hoàng tử Vĩnh San bấy giờ mới lên 8 tuổi lấy hiệu là Duy Tân. Vì 

Ngài non nớt, có một hội đồng phụ trách được đặt ra để điều khiển mọi việc trong triều. Vai trò quan trọng nhất khi đó 

tại Huế là Trương Như Cương, một phần tử được người Pháp rất tin dùng. Lớn lên, vua Duy Tân tỏ ra là một thanh 

niên tuấn tú, hiên ngang, lỗi lạc và cũng như vua cha, có ý bài Pháp. Tất nhiên rằng lúc đó đã có người bí mật liên lạc 

với Ngài để trình bày nông nỗi vua cha bị người Pháp áp bức, triều thần phản bội và sự khổ nhục của quốc dân từ 

ngày mất nước, do đó mà tâm trạng của Ngài bị kích thích, rồi Ngài hay đòi ra ngoài, lấy cớ chốn cung điện quá tù 

túng. Người Pháp cho làm nhà thừa lương ngoài cửa Tùng (Quảng Trị) để Ngài ra nghỉ mát và tiêu khiển. Thực ra, Ngài 

ra ngoài để xem xét dân tình và để bắt liên lạc với nhân sĩ trong nước. Ngài đã gặp Khóa Bảo là một nhân vật cách 

mạng và một số nhân sĩ ái quốc tại địa phương này. Một hôm, Ngài chơi các ở ngoài bãi biển, một cận thần lấy nước 

cho Ngài rửa tay, Ngài hỏi: "Tay nhớp lấy nước rửa, thế nước nhớp thì lấy gì mà rửa?" Được biết Ngài khẳng khái và 

yêu nước thương dân, nhiều lãnh tụ phong trào Hậu Văn Thân (kể từ đầu thế kỷ XX phái nhà nho trẻ tuổi kế tiếp các 

nhà lãnh đạo Cần Vương, tức là phái Hậu Văn Thân) bí mật tìm đến Ngài để cùng gây phong trào cứu quốc nối tiếp sự 

nghiệp của vua Hàm Nghi và Thành Thái. Vào khoảng tháng 9 năm 1915, đảng Việt Nam Quang Phục họp đại hội ở 

Phú Xuân (Huế). Theo lời đề nghị khởi nghĩa của đảng bộ Quảng Ngãi, đảng quyết định mở cuộc bạo động để cứu 

quốc. Dự vào cuộc thảo luận kế hoạch bạo động có: Nguyễn Thúy, Lê Ngưng, Lê Triết, Nguyễn Nậm đại diện cho 

Quảng Ngãi. Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Thành Tài, Đỗ Tư đại diện cho Quảng Nam. Đoàn Bổng đại diện cho 

Thừa Thiên. Phan Phú Tiên đại diện cho Quảng Trị. Nguyễn Chánh đại diện cho Quảng Bình. Đại hội họp tại nhà ông 

Đoàn Bổng ở đường Đông Ba (Huế). Ông Thái Phiên được cử làm chủ tịch. Sau mấy ngày bàn bạc, đại hội quyết định 

ý chí kể trên và mời nhà vua tham gia vào cuộc khởi nghĩa. Họ chia nhau công việc như sau: - Ông Thái Phiên và ông 

Trần Cao Vân phụ trách việc liên lạc với vua Duy Tân. - Ông Lê Ngưng phụ trách thảo tờ hịch và chương trình bạo 

động. - Ông Nguyễn Thúy và ông Lê Đình Dương (y sĩ) đi thương lượng với cố đạo Bàn Gốc để thông đồng với viên 

quan tư người Đức ở Mang Cá có cảm tình với cuộc khởi nghĩa. - Ông Nguyễn Chánh làm ủy viên kiểm soát. Các tỉnh 

đều phải cấp tốc vận động binh lính và dân chúng để tiếp tay vào cuộc bạo động này. 

Lúc bấy giờ vua Duy Tân đã 16 tuổi. Vua thường lấy làm đau lòng khi thấy dân tình cực khổ, chịu sắc thuế nặng nề lại 

phải đánh giặc mướn cho người Pháp, vì lúc này Pháp lấy người Việt đi dự vào cuộc Thế chiến Đệ nhất (1914 -1918). 

Vua Duy Tân đã tỏ thái độ chống Pháp trong việc giao cho ông Huỳnh Côn, Thượng thư bộ Lễ gửi một bức thư cho 

chính phủ Pháp trách cứ về việc không thi hành triệt để Hoà ước 1884. Rốt cuộc không ai dám đem bức thư này đi cả, 

có kẻ lại đi ton hót với Khâm sứ Trung kỳ, nên việc này khiến toà Khâm sứ rất lấy làm bất mãn. Ông Thái Phiên và ông 

Trần Cao Vân tìm cách vào tiếp xúc với nhà vua. Hai ông bỏ ra một số tiền lớn cho người tài xế của nhà vua, thu xếp 

cho y thôi việc để nhờ y giới thiệu Phan Hữu Khánh tốt nghiệp trường thương mại và kỹ nghệ ở Huế vào thay. Khánh 

là một thanh niên lanh lợi, khôn ngoan, được nhà vua tin dùng. yêu mến. Nhờ đó, đảng cách mạng biết được rõ ràng 

tâm chí của nhà vua. Hai tháng sau, Phan Hữu Khánh dâng vua một bức thư của Trần Cao Vân, đại ý nói thảm họa của 

nước nhà từ ngày trở nên một quốc gia nô lệ và nguyện vọng phục quốc của đồng bào. Trong thư có câu: "Thiên khải 

thánh minh hữu bài Pháp hưng bang chí".  Nghĩa là Trời sinh vua thông minh chính trực, có chí khí chống Pháp phục 

quốc. Lại có câu vạch rõ tội ác của người Pháp: "Phụ hoàng Hoàng đế hà tội kiến thiện? Dực Tôn lăng hà cớ kiến 

quật?" Nghĩa là Đức vua cha (vua Thành Thái) có tội gì mà bị đày? Lăng tẫm vua Dực Tôn (vua Tự Đức) cớ gì bị đào 

lên?. Nhà vua đọc thư cảm động vô cùng. Ngài yêu cầu trực tiếp với người viết thư. Ông Trần Cao Vân bèn bàn với 

ông Thái Phiên và ông Phan Thanh Tài tìm đến Ngài. Theo kế hoạch, ngày 12 tháng 3 âm lịch (1916), vua ngự xem tập 

lính ở bãi Trường Thi. Sau khi duyệt binh qua loa cho xong chuyện, vua đi chơi hóng mát dọc theo con sông đào gần 

đó. Đến một nơi bên bờ sông dưới gốc cây, vua thấy ông Trần Cao Vân và ông Thái Phiên xách giỏ ôm cần câu ngồi 

đợi sẵn từ lâu. Sau khi hỏi qua công việc, nhà vua định ngày mồng 1 tháng 4 khởi sự và xin chia phần việc, Trần Cao 

Vân ngần ngại, song vì nhà vua nài nỉ mãi nên Vân bèn ưng cho Ngài đúc 4 cái ấn kinh lược để dùng vào việc điều 

khiển công việc bốn khu dưới đây: 1) Bình Trị (Quảng Bình, Quảng Trị) 2) Nam Ngãi (Quảng Nam, Quảng Ngãi) 3) 

Bình Phú (Bình Định, Phú Yên) 4) Khánh Thuận (Khánh Hòa, Bình Thuận) Trước khi từ giả, hai người còn dặn ngày 

đến hộ giá nhà vua đi Quảng Ngãi. 

480 Việt Sử Toàn Thư 

Khoảng trung tuần tháng 3 năm 1916, Việt Nam Quang Phục Đảng (Trung Bộ) họp đại hội lần thứ hai ở Phú Xuân để 

nghe báo cáo lại tình hình, kiểm điểm lại lực lượng, duyệt lại chương trình và định kế hoạch bạo động. Xét về lực 

lượng, đại hội thấy rằng thực lực cũng tạm đủ. Các tỉnh hầu hết đều có cơ sở vững chắc, lực lượng trung kiên, lại thêm 

ở Thừa Thiên có lính khố vàng, lính khố xanh, lính Tây do quan tư người Đức chỉ huy ở Mang Cá và một đội lính mới 

tuyển ước chừng một ngàn người chịu ảnh hưởng của cách mạng. Thêm vào đó có một số quan lại, viên chức và nhân 

dân chung quanh Huế và miền quê tham gia. Quảng Trị chỉ có đội lính khố xanh do các ông Quản Thiện, Quản 

Nguyên chỉ huy, tổ chức về dân chúng thì đã có ông Khóa Bảo cầm đầu. Quảng Bình chỉ có vài ba đồng chí. Các tỉnh 

miền Nam lực lượng chẳng được là bao. Kế hoạch khởi nghĩa đại lược như sau: Đại hội tính rộng cả đường tiến thoái 

nếu chẳng may thất bại hoặc gặp sự khó khăn, các tỉnh phải tiếp ứng cho nhau. Việc sắp đặt như vậy đáng kể là chu 

đáo và được nghiên cứu rất tỉ mỉ. Rồi đại hội định khởi sự vào ngày mồng 1 tháng 4 âm lịch (tháng 5 năm 1916). Vì tình 

riêng, ngày 30, một viên cai khố xanh có chân trong đảng tên là Võ Cử đóng ở đồn Quảng Ngãi bị đổi đi Đức Phổ. 

Trước khi lên đường, Cử có dặn với người em họ là Trung làm lính giản ở dinh ông Án nên về nhà đừng lại dinh. Trung 

không hiểu, vặn hỏi, vì thương em, Cử đành nói sự thật, Trung vâng lời, chiều hôm ấy đến xin phép viên Án sát Phạm 

Liên. Thấy sắc mặt Trung khác thường và điệu bộ khả nghi, Liên liền gạn hỏi, Trung bèn thưa thật. Trung liền bị đưa 

qua tòa Sứ. Lập tức, Cử bị bắt đưa về tra hỏi, Cử phải khai Thiểm và Cẩn. Cẩn làm tùy phái tòa sứ được đảng giao cho 

trọng trách đầu độc viên Công sứ. Còn Thiểm, cai lính khố xanh được đảng cử làm giám binh, đứng đầu việc chỉ huy 

trại lính. Thiển và Cẩn bị bắt, tra khảo nhưng không chịu khai ai cả. Chiều mồng một, binh lính Việt Nam bị lột khí giới 

và bị tống lao hết. Thành phố Huế thiết quân luật, lính Pháp đi tuần xét các ngả đường. Đến giờ đã định, dân chúng 

kéo đến các điểm đã hẹn. Đội lính khố xanh ở Nghĩa Hành do đội Luân, cai Xứ chỉ huy cũng kéo đến cách thành hai 

cây số, nấp vào một chỗ nhưng đợi mãi không thấy, đành phải rút về. Mấy ngày sau đó, nhiều người bị khám nhà, bị 

bắt và bị tra tấn. Cả thẩy, 14 người bị chém, trong đó có Lê Ngưng. Hơn 200 bị án khổ sai, đày đi Côn Lôn và Lao Bảo. 

Ở Quảng Nam, đảng cũng bị vỡ lở trước ngày bạo động. Nguyễn Đĩnh phản đảng, đem giấy má sổ sách báo cho người 

Pháp, Đĩnh người An Quán, trước làm tuần phủ. Vì vậy ở Hội An, y sĩ Lê Đình Dương bị bắt đưa vào Nam rồi lên Ban 

Mê Thuột. Ở Đà Nẳng, Phan Thanh Tài bị xét nhà. Tài trốn thoát nhưng sau bị bắt và bị chém vào ngày mồng 9 tháng 

6 năm 1916. Một số khí giới và quần áo sắm cho dân quân bị tịch thu. Cuộc bạo động ở Hội An và Đà Nẳng vì vậy 

cũng thất bại. Người Pháp canh phòng rất ráo riết. Riêng ở Tam Kỳ, phó đảng chỉ huy dân quân đến vây phủ và giết 

chết viên đại úy người Pháp. Hôm sau, quân cách mạng bị dẹp tan. Kết quả hơn một trăm cái án chém và một số đông 

bị đày đi Lao Bảo và Côn Lôn. 

Ở Huế, tòa Khâm được tin có biến cuộc vội ra lệnh đề phòng gắt gao. Tuy vậy đối với Nam triều, họ vẫn giữ bí mật, 

ngày mồng một, Khâm sứ Charles ban hành mật lệnh giới nghiêm. Trần Cao Vân và Thái Phiên chẳng hay gì cả. Đêm 

mồng 1 rạng ngày mồng 2 tháng 4 năm Duy Tân thứ mười (3 tháng 5 năm 1916) hai ông cùng đội Xiêm, tức Nguyễn 

Quang Xiêu đến cửa Hòa Bình để đón vua Duy Tân, nhà vua lẫn ra khỏi thành không may lại gặp tên mật thám 

Nguyễn Văn Trứ làm thông phán tòa Khâm. Liền đó vua bị lính đuổi theo, túng thế, nhà vua phải gói ấn bỏ lại trên cầu 

Tràng Tiền rồi đánh lừa quân lính mà theo Thái Phiên và Trần Cao Vân lẫn trốn. Tòa Khâm phái Phan Đình Khôi mang 

quân đi tầm nả, bắt được Thái Phiên ở chùa Thiên Mụ, đưa về Huế và nhốt vào đồn Mang Cá. Trần Cao Vân cũng bị 

bắt ở làng Hà Trung thuộc huyện Phú Lộc (Huế). Ngày 17 tháng 5 năm 1916, các ông Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phạm 

Hữu Khánh và hai tên thị vệ bị đem ra chém tại An Hòa, còn vua Duy Tân sau 10 ngày bị nhốt ở đồn Mang Cá, Pháp 

liền đưa Ngài sang đảo Réunion ở Phi Châu. Cuộc cách mạng của Phong Kiến lại một phen nữa đổ nhiều xương máu 

và vô cùng uổng phí. Rồi từ đó gọng kìm đế quốc lại xiết chặt hơn bao giờ hết vào giới quan liêu và trí thức Việt Nam. 

5- Cuộc Bảo Hộ Của Nước Pháp

 Vua Duy Tân rời khỏi nước thì ông hoàng Bửu Đảo, con vua Đồng Khánh lên ngôi, lấy niên hiệu là Khải Định vào 

năm 1916. Vua Khải Định trị vì đến năm 1925 thì mất vào ngày 6-11-1925. Ngày 8-1-1926, hoàng tử Vĩnh Thụy được tôn 

lập, lấy niên hiệu là Bảo Đại. Vĩnh Thụy bấy giờ mới lên 9 tuổi. Khi vua cha còn sống, Vĩnh Thụy được gửi sang Ba Lê 

du học vào tháng 3-1922. Mặc dầu Vĩnh Thụy đã lên ngôi nhưng vẫn còn ít tuổi nên phải trở qua Pháp tiếp tục việc 

học. Ở nước nhà, Pháp đặt Tôn Thất Hân làm phụ chánh thay Bảo Đại điều khiển triều đình. Năm 1932, Bảo Đại mới 

thật sự ở ngôi cho tới trung tuần tháng 8 năm 1945. Ông vua thứ 13 này của Nguyễn triều do cao trào cách mạng mùa 

thu đã bị đẩy ra khỏi sân khấu chính trị Việt Nam, để nhường địa vị cho chánh phủ Hồ Chí Minh. Lúc này, chính 

quyền Pháp đã bị quân phiệt Nhật thủ tiêu sau cuộc đảo chính 9-3-1945 (sẽ được nói tới dưới đây). Thuở sinh tiền, vua 

Khải Định không để lại được điều gì đáng kể cho quốc dân vì công việc của nước nhà hoàn toàn do người Pháp sắp 

đặt và định đoạt. Vua Khải Định không hơn không kém, chỉ là một ông vua bù nhìn. Đến vua Bảo Đại, tình thế cũng 

chẳng sáng sủa gì hơn. Hai vị hoàng đế này chỉ là công chức ăn lương của Pháp để ký vào sắc dụ cho người Pháp thi 

hành mọi ý muốn của họ ở hai xứ theo chính thể Bảo hộ và Trung Bắc lưỡng kỳ kể từ ngày Paul Bert giữ chức toàn 

quyền trên toàn thể lãnh thổ Đông Dương (lúc này hai nước Cao Mên và Ai Lao cũng đã trở thành xứ Bảo hộ của 

Pháp do sự thỏa thuận của Xiêm La). Còn Nam kỳ kể từ Hòa ước 5-6-1862 đã thành thuộc địa nên nằm trực tiếp dưới 

quyền thống trị của người Pháp. Nguyên thủ ở Nam kỳ là một vị thống đốc nhưng mọi việc quan trọng của Nam kỳ 

đều phải có sự kiểm duyệt của viên Toàn quyền là vị chỉ huy cao nhất. Tại đây, Pháp vẫn để chức Phủ, Huyện, Cai 

tổng và Hương chức. Nhưng các quan Tổng trấn và Bố chính thì bãi đi. Người Pháp đặt ra chức Tham biện do trường 

Hành chánh tập sự Sài Gòn (Collège des Stagiaires à Saigon) đào tạo ra để thay thế và dĩ nhiên các viên tham biện đều 

là người Pháp. Tham biện có nhiệm vụ thâu thuế, thi hành việc cảnh bị, xử án ở mỗi tỉnh và trực thuộc viên Thống đốc 

Nam kỳ. Các viên Thống đốc đầu tiên là những hải quân Đề đốc nhưng kể từ 1879 chức vụ này giao cho các người dân 

chính. 

a) Việc cai trị ở Nam kỳ 

Tại các xã thôn Nam kỳ có Hội đồng Hương chính gồm 12 người Kỳ mục do dân trong xã bầu ra. Người ra ứng cử Kỳ 

mục phải có tài sản và uy tín. Quyết định của Hội đồng Hương chính sẽ được thi hành do ba vị Hương thân, Thôn 

trưởng và Hương hào là ba cấp thấp nhất của Hội đồng. Hội đồng quản trị về việc thuế má, tài sản, đường xá, cầu 

cống, trường học, miếu đình và các cơ sở công cộng,... Trên đơn vị xã là tổng do một chánh, phó Cai tổng được lựa 

chọn và bầu ra do các xã. Các tổng hợp lại thành tỉnh, đặt dưới quyền một quan cai trị người Pháp. Ở một vài tỉnh 

chánh, phó Cai tổng là những người trung gian giữa các xã và quan chủ tỉnh người Pháp (Tham biện). Ở những nơi 

khác, các tổng hợp lại thành quận do các quan Đốc phủ (cao cấp nhất trong ngạch hành chánh ở Nam kỳ) quan Phủ 

hay Huyện cầm đầu. Cũng có một vài quận quan trọng đặc biệt đã được công chức Pháp bổ đến giữ việc cai trị. Còn ở 

tại tỉnh lỵ, ngoài viên tham biện người Pháp và một vài công chức Pháp làm phụ tá, giữ kế toán, có một số công chức 

người Việt là các Đốc phủ sứ, Phủ, Huyện, Thông ngôn, Thư lại. Một Hội đồng dân biểu hàng tỉnh hay hàng quận mỗi 

năm họp với viên Tham biện để định ngân sách và mọi vấn đề linh tinh trong tỉnh. Viên Thống đốc ngụ ở Sài Gòn có 

trách nhiệm về việc cai trị toàn xứ, điều khiển các quan cai trị các tỉnh và các cơ sở chuyên môn (Thương chính, Bưu 

điện, Công chánh, Học chính,...) lại được một Hội đồng tư vấn, Hội đồng tư pháp, Hội đồng quản hạt giúp đỡ và biểu 

quyết ngân sách toàn sứ hàng năm. Thêm vào, có Phòng thương mại, Phòng canh nông gồm các hội viên Pháp, Việt, 

cử ra một đại diện tại Nghị viện Pháp. Riêng Sài Gòn, Chợ Lớn, có một Hội đồng thành phố, hội viên cũng vừa là Pháp, 

vừa là Việt. Các hội viên này bầu ra một viên Đốc lý để điều khiển guồng máy cai trị ở Sài Gòn, còn ở Chợ Lớn thì có 

một công chức khác do phủ Thống đốc bổ nhiệm.

 b) Việc cai trị ở Bắc kỳ

 Ở đây, nền hành chánh không trực tiếp với Pháp nhiều như ở Nam kỳ. Đứng đầu phủ là huyện, có các quan Tri phủ, 

Tri huyện, buổi đầu tuyển lựa trong các người khoa mục nho học (Tú tài hay Cử nhân) sau chính phủ Pháp lập ra 

trường Hậu bổ cùng trường Luật để lấy người tân học ra làm quan. Giúp việc họ có một văn phòng có Thông phán 

hay Đề lại giúp việc. Phụ tá có hai viên thông lại và một ít lính lệ. Năm bảy phủ, huyện hợp lại thành một tỉnh, đặt dưới 

quyền một viên Tuần phủ. Ở tỉnh lớn gồm nhiều phủ, huyện hơn thì có Tổng đốc (Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định). 

Bên cạnh viên Tuần phủ hay Tổng đốc có một quan Án (Án sát) và một quan Đốc học, các vị này đều thuộc quyền 

một viên Công sứ Pháp là chủ tỉnh. Tại mỗi tỉnh Bắc kỳ cũng có một hội đồng hàng tỉnh như ở Nam kỳ, thành phần 

của hội đồng toàn là người Việt có nhiệm vụ giúp ý kiến cho viên Công sứ Pháp về mọi vấn đề cai trị trong tỉnh. Ở các 

miền biên giới và thượng du, Pháp lập ra các Đạo do các võ quan Pháp cai trị và Tù trưởng địa phương mang chức 

Quản đạo. Trên các Công sứ có viên Thống sứ (ở Bắc kỳ) và Khâm sứ (ở Trung kỳ). Trước đây, Pháp đặt chức Kinh 

lược người Việt để trông coi toàn xứ, nhưng từ năm 1897, Pháp bãi Nha Kinh lược để cho người của họ nắm hết mọi 

quyền hành và cũng vào năm 1897 Pháp lập ra một Nghị viện có tính cách tư vấn như ở Nam kỳ. Người có sáng kiến 

này là Toàn quyền Paul Bert. Nhân viên của Nghị viện do các tỉnh bầu ra để họp với Thống sứ hay Khâm sứ mỗi năm 

một đôi lần. Bắc kỳ cũng có Phòng thương mại đặt tại Hà Nội và Hải Phòng và một Phòng canh nông. Hai thành phố 

này, trên Pháp lý đã nhượng đứt cho Pháp cũng như Đà Nẳng ở Trung kỳ, có chức Đốc lý đứng đầu và có một hội 

đồng gọi là Hội đồng thành phố để xem xét các việc cai trị. 

c) Việc cai trị ở Trung kỳ 

Tại Trung kỳ, trên có vua và triều đình nhưng chỉ là hư vị mà thôi. Nếu người Pháp thi hành đúng tinh thần Hòa ước 

năm 1884 thì vua của ta chưa mất hết quyền hành, nhưng từ giai đoạn này, những người ra làm quan thường là những 

phần tử hoạt đầu hay thân Pháp hoặc là tay sai của Pháp, có công lao với Pháp trong việc bình định nước ta trước đây 

thì còn ai là người tranh đấu cho mọi vấn đề quyền lợi của đồng bào nhất là ở Trung kỳ, chính ra Pháp chỉ có thể đặt 

chức Khâm sứ để quyết định mọi việc bang giao và kiểm soát việc thi hành hòa ước bảo hộ mà thôi, còn việc cai trị các 

tỉnh thuộc các quan ta, trừ việc thương chính, công chính hay một vài cơ sở có tính cách chuyên môn mới phải dùng 

đến các kỹ sư Pháp. Nhưng đến triều Thành Thái thì Pháp đã dùng áp lực để đặt bộ máy thống trị như ở Bắc kỳ.  

 Phần 4 - Chương 5  Những Cuộc Tranh Thủ Độc Lập Của Việt Nam Từ 1928 - 1951  

- Việt Nam dưới chế độ Pháp thuộc - Những cuộc tranh đấu của thế hệ chúng ta - Nhật Bản can thiệp vào nội tình của 

Việt Nam - Những mưu mô của hai phe Thực, Cộng - Chế độ Pháp thuộc cáo chung  

1- Xã Hội Việt Nam  

Việt Nam do hai Hòa ước 1862 và 1884 cùng với lân quốc Ai Lao, Cao Mên từ hậu bán thế kỷ XIX đã thành thuộc địa 

của nước Pháp. Các việc lớn nhỏ đều do người Pháp nắm giữ hết, vì vậy nếp sống vật chất và tinh thần dần dần cũng 

thay đổi theo quan niệm văn hóa và chính trị của các nhà thực dân, đế quốc. Năm 1897 ông Doumer làm toàn quyền 

Đông Dương đặt các thuế đinh, điền, thổ trạch, muối, thuốc phiện, xuất nhập cảng, đặt đường xe lửa, xây dựng cầu 

cống, mở mang canh nông, công nghệ. Năm 1902, ông Beau thay ông Doumer xúc tiến việc dạy chữ Pháp để bãi bỏ 

Nho học, lập Y tế cục, nhà thương, các sở bưu điện, ... Đứng vào địa vị người Việt Nam ở thế hệ cũ, ta thấy quả bộ mặt 

cũ của xã hội Việt Nam có thay đổi rõ rệt vì đã bớt được nhiều con đường nhỏ hẹp, nhiều thị thành lụp xụp, nghèo nàn 

ánh sáng, trục giao thông thủy lộ mở được nhiều, tin tức thư từ đi lại mau lẹ, xe điện, xe hơi, tàu hỏa đi khắp xứ. Về văn 

hóa, cái học của Tây phương có phần khoáng đạt và có tinh thần dân chủ hợp với sở nguyện của nhiều người tuy 

chưa sâu rộng lắm. Nhưng có nhìn bằng con mắt sâu sắc của các nhà chính trị với những nhận xét tinh tế thì mới rõ 

Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng, đã chỉ là một thuộc địa để khai thác và là một thuộc địa khai thác ngon 

lành nhất nếu so với nhiều thuộc địa khác cũng của Pháp. Trong quan niệm của Đề đốc Pháp, người Pháp đến đây 

đâu có phải để thi hành nhân nghĩa và thật tình gieo rắt hạt giống văn minh. Như vậy những công cuộc xây dựng mở 

mang ở nước ta dĩ nhiên chỉ để phục vụ quyền lợi cho các nhà tư bản và đế quốc mà thôi. Xin hãy coi danh sách một 

số hội buôn dưới đây để có một ý niệm về sự khai thác của tư bản Pháp ở Đông Dương tai hại đến chừng nào:  

485 Việt Sử Toàn Thư 

Các nhà ngân hàng đứng đầu có Đông Dương ngân hàng, việc phát hành giấy bạc Đông Dương, công ty nấu rượu 

Fontaine, công ty Thủy điện, sở si măng Hải Phòng, công ty chế tạo rượu Bia và nước ngọt Hommel, công ty nông 

nghiệp An Nam, công ty rừng núi và các xưởng cưa Biên Hòa, công ty tàu điện Đông Dương, công ty xây dựng các 

cầu cống, công ty các đồn điền cao su đất đỏ, công ty hỏa xa Vân Nam, Địa ốc ngân hàng, công ty cao su Cửu Long 

Giang, công ty dệt sợi Nam Định, công ty các xưởng làm đường Đông Dương, công ty vận tải hàng hải Nam Kỳ và 

Đông Dương, công ty khai thác thiếc và Wolframs Bắc kỳ, nhà máy diêm, công ty khai thác khoáng chất Đông Dương, 

công ty than Hongay, Đông Triều, và nguy hiểm nhất là Đông Dương ngân hàng, viện phát hành giấy bạc Đông 

Dương. Như thế thì đường xá, cầu cống làm ra chỉ để chuyển dịch hàng hóa, sản phẩm của các nhà buôn, nhà kỹ nghệ, 

nhà trồng tỉa và để hành quân bảo vệ quyền lợi của người Pháp ở đây hơn là để phục vụ đám dân bản xứ. Trong khu 

vực kinh tế, thương mại trên đây, nhìn vào các người tai to mắt lớn, không thấy người Việt nào hết từ Hà Nội vào tới 

Sài Gòn, họa chăng có một ít mại bản tôi tớ của các nhà ngân hàng đưọc vay tiền về làm sét ty bóc lột tá điền hay mở 

mang vài kỹ nghệ nhỏ đã thành một thứ vật hy sinh mà Đông Dương ngân hàng đã thẳng tay bóp chết hồi kinh tế 

khủng hoảng năm 1930. Nhưng số người ít ỏi này riêng đối với Hoa kiều, Ấn kiều cũng chỉ là những cái bóng qua, kể 

chi đối với các nhà thực dân Pháp. Về ruộng đất, những chỗ tốt lành người Pháp cũng chiếm hết, ngay cả những nơi 

người dân quê đã khai thác thuộc công điền hay công thổ. Năm 1890 ruộng đất người Pháp khai thác trên toàn cõi 

Đông Dương là 11.390 mẫu tây, tới 1939 diện tích này đã lên đến 1 triệu mẫu, riêng ở Nam kỳ tới 610.000 mẫu, theo sự 

kê cứu của Piere Naville trong cuốn La Guerre du Việt Nam. Rồi những người dân quê hiền lành của ta đã bị cưỡng 

bách đi làm phu phen, cu ly ở các đồn điền, các xí nghiệp có đi mà chẳng có về, nhất là các người đi làm cho các đồn 

điền cao su đất đỏ, mỏ than Hongay, thường bị đánh đập dày vò lại thêm ma thiêng, nước độc chết vô kể. Trong các 

ngành hành chánh cũng như trong quân đội, người Việt chỉ được giữ những chức hạ đẳng và một số người được làm 

quan Phủ, Huyện cũng không được người Pháp trọng vọng. Ta cũng nên biết rằng phần nhiều quan lại thời Pháp 

không thuộc về những danh gia, tử đệ. Vì cuối thế kỷ XIX nước ta bại trận, sĩ phu ta có phong trào bất cộng tác với 

địch, các nhà nho ái quốc đều cấm con cháu học cái thứ "chữ như con dun của đám người man di, mắt xanh lè". Vậy 

nên chỉ có những người ít liêm sĩ mới nhảy ra xu mị tân trào, do đó văn chương Việt Nam đã phản ảnh được nhiều sự 

kiện rất hài hước qua các câu thơ dưới đây: Đem thân khoa giáp làm tôi Pháp Lầm bởi nhà nho học chữ Tàu ... Con nên 

khoa giáp, cha mòn gối Em được công danh, chị ... 

Trong nhà bà đầm cong đít vịt Ngoài sân ông cử ngẩng đầu rồng để đánh dấu sự sa đọa của một hạng người tự phụ là 

trí thức và phương diện quốc gia trong thời nô lệ. Qua các trang trên đây. ta thấy sự khai thác của giới tư bản và tài 

phiệt Pháp quá vĩ đại và không thể không có cảm tưởng rằng nước ta là một miếng thịt cho trăm dao xâu xé. Quả vậy, 

nếu người Pháp còn tồn tại trên giải đất này thì cái họa diệt chủng của người Việt cũng không phải là điều xa xôi lắm. 

Chính một số người vô tư Pháp cũng nhận thấy tình trạng này và trách các nhà thực dân Pháp quá già tay nặn bóp, 

quá miệt thị và ác độc đối với người Việt. Và đây là cả một sự sai lầm về chính sách nên đế quốc Pháp tan tành sự 

nghiệp trên toàn cõi Đông Dương thật là dĩ nhiên. Sự sai lầm ấy là đã hạ người Việt Nam xuống một loại bồi thần hạ 

cấp, một loại nô lệ còm cõi về vật chất, nhục nhã về tinh thần, gây nên căm hờn trong khắp các tầng lớp xã hội ở thuộc 

địa này, nên khi biến cố xảy ra, người Pháp ở Đông Dương không có một bạn đồng minh nào trong những giờ phút 

đen tối, đáng lẽ nếu họ khôn ngoan hơn, nhân đạo hơn, đám quan trường tay sai trực tiếp của họ có nhiều uy tín để lôi 

kéo quần chúng cho họ, thương gia địa chủ bản xứ mạnh mẽ có thể góp phần tranh đấu với họ, giới lao động không bị 

chà đạp và bóc lột quá, sẽ không chạy theo đối phương. Thời bấy giờ cụ Phan Tây Hồ đã cảnh cáo các nhà cầm 

quyền Pháp trong một bức thư như sau: "Chính Phủ nên chọn hiền tài trao cho quyền bính, lấy lễ mà tiếp, lấy thành 

mà đãi, nới rộng quyền ăn nói cho các thân sĩ, báo quán cho mở rộng để thông đạt tình dân, thưởng phạt cho nghiêm 

minh, khuyên răn quan lại, sửa đổi luật pháp, giảm bớt sưu thuế, khuếch trương công nghệ thì sĩ dân vui lòng giúp 

chính phủ, chứ còn ai lo toan chống cự nữa" Nhưng chính phủ thuộc địa còn quá say sưa với thời hoàng kim và quá 

tin tưởng ở cái dư uy của các chiến công F. Garnier, H. Rivière, Rigaul de Genouilly cuối thế kỷ XIX nên đã bỏ ngoài tai 

lý thuyết "Pháp Việt đề huề" của cụ Sào Nam và lời khuyến cáo của cụ Tây Hồ. Rồi "Vật cùng tắc biến, nhân cùng tắc 

phản" đó là một định luật ở thế gian này. Cái hậu quả của một chế độ "Người bóc lột người" đã đưa nước Pháp tới 

đâu? 2- Các Cuộc Chiến Đấu Của Phái Tân Học Năm 1925, cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt được ở Thượng Hải dẫn về 

Việt Nam, sau cụ được ân xá nhờ ở dư luận công phẩn của đồng bào toàn quốc, đáng lẽ Pháp đã thẳng tay tiêu diệt 

nhà lão thành cách mạng của chúng ta. Dù sao việc cụ Phan kể trên cũng tỏ rõ rằng cuộc vận động Đông Du đã thất 

bại, hai nước Tàu, Nhật không giúp được phái cách mạng như lòng ta muốn. Rồi cụ Sào Nam và nhiều thanh niên của 

ta bị mời ra khỏi đất Nhật. Chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Quốc chỉ làm được một việc là cho cách mạng Việt Nam tá 

túc mà thôi, mặc dầu một số nhân tài của ta đã có công chiến đấu bên cạnh cách mạng quân của Trung Tôn Sơn để 

dựng nên Trung Hoa Dân Quốc. Song song với phong trào Hậu Văn Thân từ 1917, nhiều cuộc bạo động vẫn xảy ra. 

Những người tân học cũng thấy mình có nhiệm vụ nối chí tiền nhân và hưởng ứng với các nhà cách mạng hải ngoại, vì 

vậy đã có những vụ dưới đây liên hệ rõ ràng với chương trình hành động của phái Đông Du: - Ông Lương Ngọc 

Quyến ở Nhật Bản về năm 1917. Đến Hương Cảng, ông bị mật thám Anh bắt giao cho Pháp, Pháp đem giam ông tại 

nhà lao Thái Nguyên. Sau ông đội Cấn khởi nghĩa ở tỉnh này, ông Quyến có tham gia nhưng bị què chân nên trước khi 

quân khởi nghĩa thất bại, ông tự tử để anh em khỏi vì mình mà lúng túng. Cuộc dấy động của đội Cấn kéo dài được vài 

tháng. - Năm 1923, toàn quyền Đông Dương Martial Merlin đi công cán bên Nhật về đến Sa Điện (Quảng Châu) được 

Pháp kiều đãi tiệc ở Victoria, bị một thiếu niên Việt Nam là Phạm Hồng Thái ném bom, chỉ riêng Merlin thoát hiểm, còn 

một số người chết và bị thương, họ Phạm nhảy xuống sông mà chết. Việc này có ảnh hưởng rất lớn tới tinh thần dân 

tộc ta ở trong nước vì bấy giờ quốc dân có vẽ thờ ơ, chán nản với việc chống Pháp. - Năm 1924-1925, nhiều đảng phái 

cách mạng được tổ chức ra. Thoạt tiên là Việt Nam chi bộ của hội Á Tế Á Áp Bức Nhược Tiểu Dân Tộc thành lập ở 

Quảng Đông do Nguyễn Ái Quốc và Lâm Đức Thụ chủ trương. Một chi bộ hoạt động ở Việt Nam sau đổi ra Việt Nam 

Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội như trên đã nói. - Ở Ba Lê có đảng Việt Nam Độc lập do ông Nguyễn Thế 

Tuyên tổ chức trong giới sinh viên và anh em làm tàu biển. Năm 1926 Tân Việt Cách Mạng Đảng tức Phục Việt cũ hoạt 

động ở Hà Tỉnh và Sài Gòn. Năm 1927, nhóm Nam Đồng Thư xã có Phạm Tuấn Tài, Hoàng Phạm Trân tức Nhượng 

Tống, Nguyễn Thái Học lập ra Việt Nam Quốc Dân Đảng. Năm 1928 Tạ Thu Thâu và Nguyễn An Ninh lập Đệ Tứ Quốc 

tế. Năm 1929 Việt Nam Cách Mạng Đồng Chí Hội đổi ra Đông Dương Cộng Sản Đảng. Năm 1930, Việt Nam Quốc dân 

Đảng khởi nghĩa ở Yên Bái vào mùng 10 tháng 2 bị thất bại. Đế quốc thực dân ra tay khủng bố. Mười ba yếu nhân 

VNQĐD bị lên đoạn đầu đài vào ngày 17-6-1930, còn hàng ngàn đảng viên bị đày đi Côn Đảo, Sơn La và Lao Bảo. Từ 

năm 1931-1932, khắp Nam Bắc có những vụ biểu tình do đảng Cộng Sản bí mật tổ chức bị lính Lê Dương đàn áp rất tàn 

nhẩn. Năm 1937, Mặt Trận Bình Dân bên Pháp lên cầm quyền thì các nhà cách mạng thuộc các đảng phái đều đứng 

lên công khai lập Đông Dương Đại Hội Nghị yêu cầu cải cách chính trị và giải phóng các quốc sự phạm. Pháp chịu 

nhượng bộ khá nhiều bằng cách ưu đãi quốc sự phạm, kiếm việc cho họ làm. - Năm 1940 cuộc Đại chiến Đệ nhị xảy ra, 

quân đội của Thiên Hoàng tiến vào Việt Nam thì Phục quốc quân của ta đánh chiếm Lạng Sơn nhưng vì Nhật không 

hết lòng giúp đỡ nên ít tuần sau, Pháp điều đình xong được với Nhật, liền vây đánh tan quân cách mạng. Chủ tướng là 

Trần Trung Lập bị bắt và bị xử bắn cùng hàng trăm binh sĩ ở Lạng Sơn dưới thời Công sứ Chauvet. Cũng nên nhắc 

rằng trước khi quân Nhật bước vào nội địa, một đảng quốc gia mới là Đại Việt Dân Chính ra đời do ông Nguyễn Tường 

Tam lập ra gồm nhiều trí thức, công chức và sinh viên và cũng có liên lạc với quân phiệt Nhật Bản. Khi Phục quốc 

quân tan vỡ, Pháp đem các quốc sự phạm trong nước đi an trí thì Đại Việt Dân Chính cũng có một số đảng viên bị bắt, 

riêng ông Nguyễn Tường Tam chạy thoát qua Tàu. Sau ít lâu, 

Đại Việt Dân Chính được tổ chức lại và mang tên là Đại Việt Quốc Xã trong đó có mấy nhân vật trọng yếu là Nguyễn 

Văn Tiếu, Nguyễn Đăng Đệ, Trương Đình Trí,... - Từ 1943-1944 Việt Nam Ái Quốc Đảng của các ông Nguyễn Xuân 

Chữ, Lê Toàn, Vũ Đình Di, Dân Chủ Đảng của các ông Vũ Đình Hoè, Dương Đức Hiền cũng xuất đầu lộ diện (sau này 

Dân chủ Đảng lệ thuộc hẳn mặt trận Việt Minh cho đến ngày nay) Và trước cuộc đảo chính 9-3-1945, một số đảng phái 

quốc gia tập hợp lại thành một đảng lớn lấy tên là Đại Việt Quốc Gia Liên Minh trong đó có Đại Việt Quốc Xã và Đại 

Việt Quốc Dân Đảng là hai cột trụ. Đại Việt Quốc Gia Liên Minh bước ra sân khấu trong thời Nhật thuộc nhưng kém 

thủ đoạn, ít kinh nghiệm tranh đấu tuy được tay Nhật bí mật ủng hộ mà vẫn bị Mặt Trận Việt Minh dành mất địa vị, 

đáng lẽ chính quyền trên toàn cõi Việt Nam phải chuyển qua tay họ.

 3- Cuộc Đảo Chánh 9-3-1945  

Trận Đệ nhị Thế chiến bùng nổ là lúc Việt Nam cũng như nhiều quốc gia bị trị bước sang những giai đoạn mới của lịch 

sử. Phong trào Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đông Dương Cộng Sản Đảng mặc dầu bị đế quốc Pháp đàn áp từ năm 

1930 vẫn ngấm ngầm hoạt động. Cách mạng Việt Nam bấy lâu thu nanh dấu vuốt sửa soạn nắm thời cơ, thì thời cơ ấy 

bắt đầu tới giữa lúc tiếng súng đại bác của Phát xít Đức nổ trên bờ sông Rhein, phi cơ Nhật oanh tạc các căn cứ Đồng 

Minh ngoài bờ bể Thái Bình. Tuy mất liên lạc với chính quốc, chính phủ Đông Pháp, kinh nghiệm từ cuộc đại chiến 

đầu tiên, đã bắt các quốc sự phạm đem đi an trí ở các nơi như trên đã nói, vậy mà nhiều cuộc bạo động vẫn tung ra 

ngay sau đó. Ở Nam bộ, Lê Hồng Phong cùng vợ là Nguyễn Thị Minh Khai hô hào dân chúng khởi nghĩa. Ở Đô 

Lương, ông đội Cung chỉ huy bảo an binh chiếm đồn. Phục quốc quân do cụ Trần Trung Lập theo quân đội Nhật về 

hoạt động ở Lạng Sơn. Tình thế trở nên rối ren hơn bao giờ hết. Dân chúng đau khổ vô cùng vì cái nạn nộp thóc cho 

Nhật dùng, cho chính phủ Đông Pháp dự trữ để chờ sự đổ bộ của quân đội Đồng minh. Một phần lớn ruộng đất bị 

trưng dụng để trồng thầu dầu, đay, gai hầu cung ứng cho kỹ nghệ chiến tranh Nhật. Quan lại được dịp bóp nặn, dân 

chúng vô cùng điêu đứng, từ nơi thôn quê cùng tận đến chốn thị thành, dường như tới mức không thể chịu đựng 

được nữa. Thêm vào đó, một nạn đói không tiền khoáng hậu, khốc liệt quá sức tưởng tượng đã diễn ra: ngót hai triệu 

người chết la liệt khắp các bờ bến, ven đường, xó chợ, suốt từ miền Trung ra tới miền Bắc. Ngoài Bắc phần bị hại nhiều 

nhất. Cảnh ngộ bi đát đến như vậy đã thúc dục mọi người đứng dậy tìm sinh lộ cho cuộc sống bế tắc, đầy kinh khủng. 

Từ 1940 đến 1945, máu bắt đầu chảy, tang tóc mịt mù khắp bầu trời Việt Nam. Lòng người Việt đang sôi nổi căm hờn 

gần hóa điên, hóa dại thì sáng ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đánh úp đế quốc Pháp tại Đông Dương. Sau 24 

tiếng đồng hồ, bộ máy cai trị của chế độ cũ bị xụp đổ, và trên các nẻo đường, người Nhật dán đầy những bản tuyên 

cáo kết liễu chính quyền của Pháp và tung ra khẩu hiệu "Châu Á của người Á". Cái chiêu bài đó quả rất dễ nghe khi 

mà người da vàng đã quá chán chường cuộc tình duyên bất đắc dĩ với người da trắng suốt 80 năm ròng. Từ kẻ bình 

dân đến người trí thức, tất cả đều hướng về phía lá cờ mặt trời đỏ. Nhưng với một số người sành chính trị, người ta 

hiểu thế nào là chủ nghĩa Đại Đông Á trên đất Trung Hoa với hơn 450 triệu người Hán trước đó không lâu. Tất nhiên 

bộ máy chính quyền phải sang tay người Việt cho danh chính ngôn thuận, miễn là ở hậu trường sân khấu, người Nhật 

đóng vai chỉ đạo. Hệ thống chính trị do tay người Pháp xây dựng suốt 80 năm thế là một phút tan tành. Các quan lại 

xưa nay vỗ ngực tuyên bố trung thành với nước Pháp bấy giờ lặng lẽ rút lui. Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời được 

hoan nghênh nhiệt liệt từ Bắc vào Nam thay thế cho Nội các Phạm Quỳnh cáo chung tại Huế. Thành phần của nội các 

gồm có những vị sau đây: 

1- Trần Trọng Kim: Thủ Tướng 

2- Trần Đình Nam: Bộ Trưởng bộ Nội Vụ 

3- Trần Văn Chương: Bộ Trưởng bộ Ngoại Giao 

4- Vũ Văn Hiền: Bộ Trưởng bộ Tài Chánh 

5- Hồ Tá Khanh: Bộ Trưởng bộ Kinh Tế 

6- Nguyễn Hữu Thí: Bộ Trưởng bộ Tiếp Tế 

7- Hoàng Xuân Hãn: Bộ Trưởng bộ Giáo Dục & Mỹ Thuật 

8- Trịnh Đình Thảo: Bộ Trưởng bộ Tư Pháp 

9- Lưu Văn Lang: Bộ Trưởng bộ Công Chánh & Giao Thông 

10- Vũ Ngọc Anh: Bộ Trưởng bộ Y tế & Cứu Tế 

11- Phan Anh: Bộ Trưởng bộ Thanh Niên 

A- Hai việc cần thiết tức khắc để biểu dương nền độc lập của một quốc gia là quốc kỳ và quốc ca. Chính phủ mới liền 

làm cờ quẻ ly màu vàng đỏ giữa, thay cờ long tinh là dấu hiệu của thời lệ thuộc. Bài "Tiếng Gọi Thanh Niên" của sinh 

viên trường đại học Hà Nội được dùng làm quốc ca thay bài "Đăng Đàn Cung" ủy mị và hủ bại. 

B- Việc giáo dục cũng phải canh tân. Ông Hoàng Xuân Hãn nghiên cứu ngay một chương trình mới bằng tiếng Việt 

dùng làm căn bản trong mọi việc, từ giáo dục đến các công văn, từ lệnh. 

C- Ông Trần Đình Nam ra lệnh tẩy uế guồng máy hành chánh khắp ba kỳ. Một số tham quan, lại nhũng bị triệu hồi và 

nhiều nhân sĩ có uy tín trong dân chúng được mời làm việc nước. Ở ngoài Bắc, bác sĩ Trần Văn Lai được cử làm Đốc Lý 

thành phố Hà Nội. Ông liền cho hạ tượng Paul Bert và các tượng đồng trong các phố Hà Nội không ngoài mục đích 

xóa hết vết tích của thời đế quốc. 

D- Ông Phan Anh diễn thuyết ở Hà Nội, cổ võ dân chúng hưởng ứng với phong trào mới. Ông nêu lên một chương 

trình cải tổ thanh niên, vạch con đường phụng sự quốc gia để lo tiến hóa về ba phương diện: Đức dục, Trí dục, Thể 

dục mong có những phần tử hăng hái và có đầy đủ khả năng. Ông lập ra hai ngành thanh niên: Thanh Niên Tiền 

Tuyến và Thanh Niên Tiền Phong. Buổi diễn thuyết của ông trước nhà hát lớn làm sôi nổi lòng ái quốc của mọi người, 

nhất là các bạn trẻ. Các vị bộ trưởng khác cũng đều tỏ nhiều thiện chí trong nhiệm vụ của mình, nên nội các do học giả 

họ Trần lĩnh đạo đã được nhiều cảm tình và tín nhiệm của quần chúng. Các đảng phái quốc gia đối với cuộc biến 

chuyển chính trị này và nội các Trần Trọng Kim có vẻ dè dặt, nhất là đối với người Nhật, tuy vẫn có sự giao thiệp 

công khai với họ. Riêng có Mặt Trận Việt Minh là hoạt động hơn cả. Họ tuyên truyền ầm ĩ trong dân chúng, ám sát 

một số mật thám của chính phủ Pháp và tung ra khẩu hiệu "Đánh Nhật, đuổi Pháp". Giữa lúc này, dân chúng Việt Nam 

đã bắt đầu đánh nhiều dấu hỏi về cái độc lập mà Nhật vừa trao cho họ trước sự lủng củng giữa chính phủ Trần và Đại 

bản doanh Thiên Hoàng sau khi đã xảy ra một vài việc bất đồng ý kiến. Dù sao, nội các Trần Trọng Kim ra đời vào 

buổi đầu đã là một luồng gió mát thổi vào lòng của hai mươi triệu đồng bào Việt Nam. Nó đem lại một nguồn hy vọng 

mới cho một dân tộc đã chịu bao nhiêu điều tai hại vì cuộc Đệ nhị Thế chiến gây nên: bao nhiêu tang tóc, bao nhiêu 

cuộc phá sản, bao nhiêu thảm họa vô nghĩa, vô lý, do các cuộc oanh tạc của Đồng minh trên đất ta, lại còn do sự tranh 

giành Nhật-Pháp trên các địa điểm quân sự và chính trị. Người Việt đối xử với người Pháp như thế nào khi chính quyền 

của Pháp đã đổ? Trừ ở một hai thành phố lớn như ở Hà Nội, Hải Phòng, có một vài sự cướp bóc, giết người mà Pháp 

kiều là nạn nhân bởi bọn lưu manh, người Việt không hề lợi dụng cái thế cùng của người Pháp để gây những phong 

trào quá khích hoặc tịch thu tài sản của họ. Cử chỉ quân tử đó đã làm cảm động rất nhiều người Pháp và có lẽ họ đã âm 

thầm hối hận về các lỗi lầm ở quá khứ.  Từ khi ra đời cho đến khi giải tán để nhường vai trò lịch sử cho mặt trận Việt 

Minh xuất hiện ngày 15 tháng 8 năm 1945 tại Hà Nội, nội các Trần Trọng Kim chỉ đứng được 4 tháng, nếu không làm 

được nhiều việc vĩ đại nhưng ít nhất phải nhận nội các này đã tỏ ra có nhiều thiện chí, tuy nhiên xét về năng lực, ta 

thấy nội các này chỉ có thể thích hợp cho thời bình, do đó ta không lấy làm lạ khi thấy nó lùi bước nhanh chóng trước 

sự tiến triển mau lẹ của cao trào Cách mạng năm 1945. Nhật đầu hàng Đồng Minh vào ngày 13 tháng 8 năm 1945 sau 

khi bom nguyên tử của Hoa Kỳ dội xuống hai đô thành lớn là Trường Kỳ và Quảng Đảo định đoạt rõ rệt cuộc hơn 

thua. Lúc này, tại Bắc Việt hai lực lượng Cách mạng tranh nhau cướp chính quyền. Đại Việt Quốc Gia Liên Minh, một 

mặt trận quốc gia gồm có nhiều đảng phái và quan trọng hơn cả là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Xã của 

các ông Nhượng Tống, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Văn Tiếu,... và Mặt Trận Việt Minh do các lãnh tụ Đông Dương 

Cộng Sản Đảng là Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp điều khiển. Dân chúng hướng cả về các lực lượng, và trong khi Việt 

Nam là cái nhà bỏ ngỏ, dĩ nhiên ai vào trước thì người ấy làm chủ. Việt Minh có nhiều kỹ thuật cách mạng và thủ đoạn 

sâu sắc, đã đi bước trước sau khi tổ chức được nhiều cuộc biểu tình cổ động quần chúng từ ngày 15 tháng 8 năm 1945 

đến ngày 19 tháng 8 năm 1945, nắm được hậu thuẫn của các tầng lớp quần chúng. Ngày 25 tháng 8, vua Bảo Đại thoái 

vị, chính phủ Trần Trọng Kim bị giải tán và một chính phủ lâm thời do ông Hồ Chí Minh làm chủ tịch, ra mắt quốc dân 

ngày 2 tháng 9. Vài tuần sau, quân đội Trung Hoa lấy danh nghĩa, tiếp phòng quân của Đồng Minh sang giải giáp và 

hồi hương quân đội Nhật, chiếm đóng từ Bắc Việt vào đến vĩ tuyến 16 (Tourane). Cũng trong dịp này, quân đội hoàng 

gia Anh Ấn đổ bộ ở Nam Việt. Đó là cả một sự khó khăn cho chính phủ Hồ Chí Minh vì quân đội Trung Hoa khi ấy đã 

giúp nhiều cho các yếu nhân Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải 

Thần, Nguyễn Tường Tam) trở về nước và ra mặt ủng hộ các đảng phái quốc gia. Cuộc xung đột giữa hai ông Hồ Chí 

Minh và Nguyễn Hải Thần rất kịch liệt, bằng báo chí, bằng những cuộc xô sát đẫm máu, ... Quân đội Trung Hoa giúp 

VNQĐD, chiếm cứ nhiều tỉnh ở Bắc Việt đã từng nhiều phen làm nao núng Mặt Trận Việt Minh. Sau này, tướng Tiêu 

Văn đứng ra hòa giải đôi bên để lập một chính phủ Quốc gia Liên hiệp, trong đó có ông Nguyễn Hải Thần được cử làm 

phó chủ tịch, Nguyễn Tường Tam làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Trương Đình Tri làm Bộ Trưởng Y Tế, Chu Bá Phương 

coi Bộ Kinh Tế. Trong quốc hội, VNQĐD (kể cả Đồng Minh Hội) giữ 70 ghế. Nhưng đây chỉ là một cuộc họp bất đắc dĩ 

về phía Việt Minh để Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 thành hình. Ông Nguyễn Hải Thần cùng một số lãnh tụ quốc gia lại 

phải rút sang Tàu vì không đồng ý với tinh thần Hiệp định kể trên. 

Xin coi đây nội dung của Hiệp định 6-3-1946: 

A- Nước Pháp nhìn nhận nước Việt Nam là một nước tự do đứng trong khuôn khổ Liên Bang Đông Dương và Liên 

Hiệp Pháp. 

B- Sự sáp nhập Nam Việt vào Việt Nam sẽ do một cuộc trưng cầu dân ý định đoạt. 

C- Việt Nam có quân đội riêng, nhưng quân Pháp được quyền chiếm cứ trong kỳ hạn 5 năm. Mỗi năm, số quân đội 

Pháp phải rút bớt 1/5. Số quân đội Việt Nam không quá 10.000 người. 

D- Nước Việt Nam có tài chánh riêng, nhưng phải chịu quan thuế chung và đồng bạc do ngân hàng Đông Dương phát 

hành sẽ được thông dụng như trước. 

E- Nước Việt Nam có quyền đặt lãnh sự tại mấy nước lân cận. 

G- Nước Việt Nam có quyền tiếp nhận lãnh sự của mấy nước lân cận. 

Ký tên Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh, Saiteny 

Ngay sau việc ký kết Sơ ước 6-3-1946 Việt Minh liền dốc toàn lực tiêu diệt Việt Nam Quốc Dân Đảng hết sức tàn nhẫn 

ở khắp mọi nơi, còn Pháp quân được Việt Minh tuyên truyền là Pháp mới, Pháp dân chủ đàng hoàng từ Hải Phòng kéo 

lên Hà Nội trước sự bỡ ngỡ của dân chúng thủ đô. Ngày 24 tháng 4, lại có cuộc hội nghị Đà Lạt để hai bên đi sâu vào 

cuộc đàm phán. Hai tuần lễ sau (ngày 11 tháng 5 năm 1946) hội nghị này bế mạc vì không thể dung hòa lập trường của 

nhau khi đi vào chi tiết của những vấn đề chính. Trong lúc này, phái đoàn Phạm Văn Đồng đã có mặt ở Pháp. Ông Hồ 

Chí Minh tuy không dự vào cuộc bàn cải nhưng gián tiếp điều động phái đoàn ở Fontainebleau. Ngày 14 tháng 8, phái 

đoàn này rũ áo đứng dậy sau một tuần lễ tranh đấu gay go. Lập trường của Pháp bấy giờ là thiết lập Liên Bang Đông 

Dương, chế độ này có thể kiềm chế sự phát triển mọi khả năng dân tộc của các nước hội viên về chính trị, kinh tế cũng 

như ngoại giao và đối với Liên Bang Đông Dương, Pháp giữ vai trò chủ tịch và nắm giữ mọi ưu thế. Phái đoàn về nước. 

Ông Hồ Chí Minh ở lại Pháp để thu xếp công việc một lần nữa. Ngày 14 tháng 9 năm 1946, ông ký với Marius Moutet 

một tạm ước, trong đó có sự xác định của bang giao đã ghi trên hiệp định 6-3 và còn thỏa thuận với nhau sẽ mở cuộc 

đàm phán đầy đủ hơn vào tháng giêng năm sau (1947). Nhưng đến 8 giờ tối ngày 19 tháng 12 năm 1946 thì cuộc giao 

thiệp Việt Pháp đã nhường lời cho chiến xa, phi cơ và đại bác. 

4- Lá Bài Bảo Đại và Hiệp Định Hạ Long 

Cuộc xung đột Việt Pháp xảy ra đêm 19-12-1946 đã kéo dài đến tháng 9-1947 mà vẫn chẳng có sự thắng bại về bên nào 

hết. Pháp xoay ra dùng chính trị để giải quyết vấn đề Việt Nam. Ông Bollaert, đại diện Pháp, đọc tại Hà Đông một bài 

diễn văn kêu gọi sự ngưng chiến thêm một phen nữa, nhưng vô hiệu quả. Các chính khách tại Ba Lê liền quay sang 

phía quốc gia Việt Nam và mở cuộc điều đình với cựu hoàng Bảo Đại130 lúc này đang lưu vong ở Hồng Kông. Rồi một 

chính phủ lâm thời do thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân thành lập vào cuối tháng 5 năm 1948 dưới quyền bảo trợ của cựu 

hoàng và ký tại Vịnh Hạ Long một hiệp định vào ngày 5-6-1948. Hiệp định Hạ Long gồm những điều chính cương sau 

đây: 

1- Nước Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của dân tộc Việt Nam và Việt Nam có quyền thực hiện thống nhất. 

Nước Việt Nam công bố gia nhập khối Liên Hiệp Pháp với tư cách là nước liên hiệp với nước Pháp. 

2- Nền độc lập của Việt Nam không bị hạn định gì ngoài việc gia nhập khối Liên Hiệp Pháp. 

3- Nước Việt Nam cam đoan tôn trọng các nguyên tắc dân chủ và mượn những cố vấn và chuyên viên Pháp trước 

những người ngoại quốc khác, trong các công cuộc tổ chức nội bộ và kinh tế Việt Nam.                                        

 [130 Ngày 17-2-1947, cụ Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam cùng một số chiến sĩ cách mạng đã tiếp xúc với 

Bảo Đại và đã thành lập một Mặt Trận mệnh danh là Mặt Trận Quốc Gia nhóm tại Hương Cảng gồm: Việt Nam Cách 

Mạng Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn có 

mục đích lợi dụng Bảo Đại để tranh thủ độc lập nhưng Bảo Đại cũng như các nhà thực dân khác không chịu được sự 

"khó tính" của Mặt trận này nên đã gạt khéo Mặt trận ra ngoài và sau này, Bảo Đại về lập chính phủ chỉ có nhân viên 

của các nhóm tư bản và của đế quốc cộng tác mà thôi. Với những thành phần "Nam kỳ quốc" và bọn tay chân của đế 

quốc, Pháp tạo ra các chiêu bài độc lập, tính đánh lừa dân chúng Việt Nam nhưng đã thất bại. ]

4- Ngay sau khi chính phủ trung ương lâm thời Việt Nam thành lập, các đại biểu Pháp liền sửa soạn để ký kết những 

thỏa hiệp riêng về các vấn đề văn hóa, ngoại giao, quân sự, kinh tế, tài chánh cùng các vấn đề kỹ nghệ chuyên môn. 

Ngày 8 tháng 3 năm 1949, cựu hoàng Bảo Đại lại cùng tổng thống Vincent Auriol ký tại điện Élysée một thỏa hiệp xác 

định rõ ràng lập trường chính trị đôi bên, đã thỏa thuận về đại cương hồi năm trước. Với thỏa hiệp này dĩ nhiên nước 

Pháp phải nhượng bộ nhiều hơn, vừa để gây một tiếng vang với quốc tế vừa để lôi cuốn các tầng lớp nhân dân Việt 

Nam. Nhưng sau 80 năm sống dưới quyền Pháp, nhân dân Việt Nam đã hiểu người Pháp quá nhiều, lại nhìn vào Bảo 

Đại và thành phần của chính phủ Bảo Đại, nhân dân cũng hết tin tưởng, vì vậy mà cây bài quốc gia tức cây bài Bảo 

Đại không có hiệu nghiệm. Ta nhận thấy rằng trong giai đoạn này, Pháp rất lúng túng. Từ cuối năm 1946 họ dùng 

quân sự đối với chính phủ Việt Minh, cho tới năm 1949 không thâu được kết quả theo ý muốn. Những lời ước đoán 

của đại tướng Valluy và Morlière đều sai hết bởi dân tộc Việt Nam năm 1946 đã khác dân tộc Việt Nam 1858. khi mà 

người Pháp bước chân vào xứ Nam kỳ là lúc mà dân trí của ta còn thấp kém hơn nhiều. Dân vẫn theo kháng chiến, 

kháng chiến vẫn có vẻ bền bỉ, trường tồn. Cái độc lập trao trả cho Bảo Đại và các tay sai của Pháp là Trần Văn Hữu, 

Nguyễn Văn Tâm, ... vẫn là cái trò bánh vẽ không đánh lừa được ai hết. Sau này vì thất vọng, Pháp đã cho Nguyễn 

Văn Tâm ra làm thủ tướng để hiệp với tướng De Lattre de Tassigny thi hành chánh sách đánh mạnh đánh mau, chánh 

sách này buồn thay vẫn chỉ là chuyện cầm dao chém nước ... Nay nhìn về phía Thực, Cộng ta thử hỏi: Việc ký kết hiệp 

định sơ bộ 6-3-1946 có những ẩn ý gì? Đối với Pháp việc ký kết này rõ rệt rất cần về phương diện quân sự trước nhất. 

Nếu không tạm hòa với bọn ông Hồ Chí Minh thì có được Đồng Minh cho thay thế quân đội Trung Hoa cũng khó 

khăn, vì Pháp biết rằng không khi nào ông Hồ Chí Minh chịu để quân Pháp vào Bắc Việt một cách yên ổn. Dùng võ 

lực mà đổ bộ lên đất Bắc cũng không dễ dàng, vì phong trào ái quốc của dân chúng Việt Nam đang bốc lên tới cao độ, 

Pháp lại còn ngại đàng sau Việt Minh có Nhật nữa. Vậy hòa hoãn với Việt Minh để quân đội được vào đóng Bắc Việt 

đã không tốn xương máu mà lại chiếm được các vị trí then chốt thì mới là kế tuyệt dịu hơn cả. Ngoài ra theo tinh thần 

Sơ ước 6-3, Việt Minh chịu gia nhập Liên Minh Đông Dương và Liên hiệp Pháp thì sự kiện này là một sự lệ thuộc rất có 

lợi cho Pháp, nếu sau này có điều bất trắc thì Pháp cũng nắm được Hải Phòng trong tay để có nơi quân mình đổ bộ rồi. 

Về phần Việt Minh, chống với tiếp phòng quân Trung Hoa là chống với Đồng Minh, và chống với Pháp cũng là điều 

có thể tai hại về chính trị, nhất là lúc này quân đội Anh Ấn đã lấy danh nghĩa Đồng Minh đem binh đội của đại tướng 

Leclerc bước chân lên Sài Gòn. Do sự tính toán trên đây, chính phủ Hồ Chí Minh đã rót hết tuần lễ vàng vào túi bọn 

Tiêu Văn, Lư Hán và Hoàng Cường để họ kéo quân về bên kia biên giới, căn cứ vào chỗ hai phe Quốc, Cộng, Việt Nam 

đã thành lập xong một chính phủ liên hiệp và đã cùng ký vào Sơ ước 6-3 với Pháp. Thêm vào đó, quân Pháp đã có mặt 

ở Bắc Việt, tất nhiên không có Mỹ ùa vào theo và như vậy, quân đội Anh cũng sẽ ra về. 

Tóm lại việc ký Sơ ước 6-3 là điều lợi cho cả hai phe Thực, Cộng và chỉ tai hại cho những người quốc gia mà thôi. Việt 

Minh loại được quân Tàu, nắm chắc được chính quyền để diệt phe quốc gia và đang cô lập được Đồng Minh thừa 

nhận. Pháp cho quân vào được Bắc Việt, giúp cho Cộng Sản lập được chính phủ thì sau này sẽ không có Trung Hoa 

và Mỹ nhúng tay vào (bởi Pháp tin sẽ đè bẹp được Việt Minh trong ít tháng). Vấn đề Việt Nam nằm trong khuôn khổ 

Liên hiệp Pháp, Pháp sẽ hiếp đáp được Việt Minh và ngay lúc đó, Pháp đã hợp sức với Việt Minh ở thượng du Bắc 

Việt để tiêu diệt phe quốc gia bởi phe này cũng là kẻ thù nghịch cố hữu của Pháp. Xin nhớ rằng Pháp cũng đồng tình 

với Việt Cộng thu xếp cho phe quốc gia ký vào Sơ ước 6-3 có mục đích tránh sự phiền phức với Đồng Minh là Pháp đã 

hợp tác với một chính phủ cộng sản. Vì hiểu được dụng ý trên đây của Thực, Cộng, nên hai ông Nguyễn Hải Thần và 

Nguyễn Tường Tam đã lẫn mặt rồi băng qua Tàu. Ông Vũ Hồng Khanh ở lại đã đặt chữ ký vào Sơ ước không khỏi chịu 

trách nhiệm đối với Đảng cũng như đối với quốc dân. Sơ ước 6-3 thành tựu đã là cái hố chôn vùi sự nghiệp của những 

người quốc gia ở đây và làm đảo lộn cả tình thế chính trị đang có lợi chung. 

5- Cuộc Chiến Tranh Thực-Cộng 

Từ tháng Chạp 1946 đến 1950 cuộc chiến tranh trên toàn cõi Việt Nam chỉ là những cuộc đột kích, phục kích, du kích 

từ các miền đồng bằng lên đến các miền sơn cước, Bắc Việt là chiến trường náo nhiệt hơn cả. Với chiến thuật này, binh 

đội Việt Nam chỉ là những đám ma trơi xuất nhập bất thần, co dãn không chừng, nhờ được sức chịu đựng gian khổ dẻo 

dai và sự am hiểu tường tận địa hình, địa vật, lại thêm nhân dân ủng hộ nên có nhiều ưu điểm để chiến đấu mặc dù cho 

tới cuối năm 1951, Việt Minh còn kém Pháp về cả hai phương diện: lượng và phẩm. Pháp quân bấy giờ có tới 150.000 

người, võ khí tối tân, luyện tập đầy đủ, phương tiện chuyển vận mau lẹ. Nhất là các cấp chỉ huy của quân đội Pháp 

đều xuất thân ở các trường Đại học Quân đội, Cao đẳng Chiến tranh, có nhiều thành tích rực rỡ trong cuộc Đại chiến 

vừa qua. Từ năm 1950 đến 1954, Việt Minh mới thỉnh thoảng có những cuộc hành binh đại qui mô và công khai nhờ ở 

sự viện trợ chiến cụ và chuyên viên của Trung cộng bên kia biên thùy Hoa Việt. Giữa thu, đông 1947, đại tướng Valluy 

tấn công Việt Bắc do hai ngã: A) Hà Nội tiến lên Sơn Tây, Hưng Hóa, Phú Thọ, Phủ Đoan. B) Lạng Sơn tiến lên Thất 

Khê, Đông Khê. Theo kế hoạch "Cloclo" lính Pháp nhảy dù xuống Cao Bằng, Bắc Cạn, Chợ Chu, Tuyên Quang và các 

tỉnh thuộc miền duyên hải. Từ năm 1948 -1950 Pháp quân chiếm các trục giao thông trên đường số 5 và chiếm đóng 

khắp miền Nam Trung châu. Tại Trung Việt, tướng Lebris xua binh kiểm soát ba tỉnh Bình Trị Thiên và nhiều thị trấn từ 

Nam Ngãi trở vào Nam Việt. Ở đây tướng Boyer de la Tour dồn Việt Minh vào ba khu Đồng Tháp, Cà Mau, Thủ Dầu 

Một và nắm được hầu hết các trục giao thông, giải tỏa được các đồn điền và các vùng công nghệ của Pháp. Trong giai 

đoạn này, trên khắp các chiến trường Bắc Nam, Pháp hay dùng chiến thuật "bừa cào" tức là đánh ngang, đánh dọc, rồi 

lại rút về căn cứ. Việt Minh được dân chúng ủng hộ nên đã được che đậy trong các vụ càn quét của Pháp. Hơn nữa, 

Pháp quân đi đâu cũng hãm hiếp phụ nữ, cướp của, giết người nên khiến nhân dân căm hờn, sự cộng tác của dân 

chúng với kháng chiến vì thế mà thêm chặt chẽ. Sau này tướng Carpentier và Gambièze cố gỡ các lỗi lầm này bằng các 

biện pháp chính trị nhưng đã quá muộn. Giữa năm 1950 chiến tranh Cao Ly phát động. Biến cố này có tính cách quốc 

tế nhường làm chìm hẳn cuộc chiến tranh Đông Dương. Tuy vậy kể từ giờ phút này, hai khối Nga Mỹ bắt đầu gián tiếp 

can thiệp vào thời cuộc Việt Pháp. Bên Pháp có phái đoàn Mỹ từ Manille qua Sài Gòn do ông John Melby cầm đầu. 

Bên Việt Minh có đại tướng Trần Canh là một trong 5 hổ tướng của Trung cộng. Trong quân đội của Việt Minh có 

nhiều cố vấn và chuyên viên Tàu giúp đỡ. Việt Minh liền mở chiến dịch Hoàng Văn Thụ tức chiến dịch Cao Bắc Lạng 

vào ngày 16-9-1950, đáng chú ý hơn cả trong lực lượng Việt Minh ở chiến dịch này có trung đoàn Thủ Đô và trung 

đoàn Sông Lô vốn nổi tiếng anh dũng xưa nay. Chiến dịch này kéo dài trên 100 cây số. Pháp đại bại phải triệt thoái 

khỏi khắp các căn cứ miền Đông Bắc cũng như Tây Nam Bắc Việt mà cuộc hành binh L E A mùa đông 1947 đã chiếm 

được. Thấy binh đội Việt Minh đã có cơ lợi hại, chính phủ Ba Lê cho đại tướng Revers sang điều tra và nghiên cứu 

tình hình. Ngày 17-12-1950, đại tướng La Lattre de Tassigny được đặc phái sang Đông Dương làm Tổng cao ủy kiêm 

nhiệm mọi quyền văn võ. Xin nhắc, De La Lattre là một thượng tướng của Pháp từng cầm quân đội Đồng Minh trong 

thời Đệ nhị Chiến tranh ở Âu châu. Viên tướng này, sau khi nhận rõ chiến thuật và chiến lược của đối phương đã cho 

lập: 1) Nhiều đội quân lưu động chống du kích Việt Minh. 2) Xây các chiến lũy bê tông quanh khu Hà Nội. 3) Đặt một 

hành lang trắng ngăn thượng du Bắc Việt với Trung châu. Vậy mà quân đội của Việt Minh chọc thủng được hệ thống 

phòng thủ của De Lattre, rồi ngày 9-1-1951 Việt Minh đánh thử mặt trận địa chiến và áp dụng chiến thuật biển người 

tại Vĩnh Yên. Hai bên quân đội Thực-Cộng trong trận này hết sức quyết liệt ăn thua. Pháp quân phải cho dội bom 

xuống như mưa vào giữa trận tuyến, hy sinh cả quân đội mình trong động tác quân sự này để cứu vãn tình thế, nếu 

không, quân đội Việt Minh đã thắng và có thể tràn vào Hà Nội tết năm đó. Ngày 17-3-1952, Việt Minh tiến vào đất Lào 

với Liên minh Việt Miên Lào. Cuộc hành quân "Hautes Alpes" thả dù binh đội xuống cánh "đồng Chum" và đánh vào 

khu Tư (Thanh Hóa) và Hòa Bình, hy vọng cắt mọi sự liên lạc của Việt Minh với miền Thượng du kế cận Trung cộng. 

Việt Minh đã tung ra tới 40.000 quân ở đây tiến về Luang Prabang, uy hiếp vùng Đông Bắc Sầm Nứa, chặn đường liên 

tỉnh 41 (Sơn La - Lai Châu) và hoạt động ở khắp lãnh thổ Đông Dương để phân tán lực lượng của Pháp. Giữa lúc chiến 

cuộc đang ào ạt thì tướng De Lattre bị tử thương ở Hòa Bình vào ngày 11-1-1952. Tướng Salan lên thay quyền Tổng 

Tư Lệnh. Xét ra, cho tới năm 1952, Pháp quân luôn luôn lâm vào thế bị động, lo phòng thủ đã đủ mệt rồi. Chính đại 

tướng Navarre người kế vị Salan vào mùa thu năm 1953 đã phải công nhận rằng quân Pháp lúc này hết lạc quan, trên 

khắp các mặt trận đều có sự thiếu thốn cán bộ. Thế là Pháp bị ba thứ khủng hoảng: khủng hoảng tinh thần, khủng 

hoảng vật chất, khủng hoảng cán bộ, mặc dù Pháp được Mỹ tiếp tục viện trợ đầy đủ. Đến tướng Navarre, Pháp quân 

đổi chiến pháp, sau những kinh nghiệm chua cay từ năm 1945 -1953, xét rằng không thể áp dụng được lối đánh cổ điển 

và cũng không thể chấp nhận được lối đánh tối tân do tình trạng đặc biệt của chiến trường Việt Nam lúc này. Cho tới 

bấy giờ, Pháp đã điêu đứng về giao thông chiến, du kích chiến, lại còn đau khổ về cả lối đánh mìn, đánh giáp lá cà 

bằng mã tấu (bạch binh), lối độn thổ, độn thủy và lối đánh chông rất ác độc của Việt Minh. Xét ra, nếu Việt Minh kém 

hậu thuẫn của nhân dân, thì họ khó mà dùng được một cách hiệu nghiệm các chiến thuật kể trên, bởi nếu nhân dân tố 

cáo, họ sẽ thất bại trông thấy. Nhưng Pháp, quân đi tới đâu tàn phá đến đấy, gieo căm thù tang tóc khắp nơi. Pháp 

quân lại là quân xâm lược, thì cũng đủ là kẻ địch của nhân dân rồi. Navarre liền thi hành một chủ trương mới: 1) Triệt bỏ 

các đồn lẻ loi để khỏi bị Việt Minh phá được, làm lợi khí về mặt tuyên truyền. 2) Giành lại quyền chủ động chiến trường 

bằng cách tìm địch mà đánh, bắt địch ứng chiến. 3) Hành binh bất thường, tránh sự dự liệu của địch quân. Rồi ngày 18

-7-1953, Navarre mở cuộc hành quân "Con én" vào Lạng Sơn và cuộc hành binh "Camargue" vào Quảng Trị phá hủy 

được một số dụng cụ và máy móc của Việt Minh. Ở Lạng Sơn, Pháp diệt được hai tiểu đoàn, một số căn cứ của địch 

trong khu tam giác ở dãy phố Buồn Thiu là mối hăm dọa trên quốc lộ số 1 (Trung Việt). Liên tiếp với hai cuộc hành 

quân này, mồng 9-8-53 Pháp rút quân ra khỏi Na Sản bằng không vận. Trước đây, 10-52, Pháp đặt chiến lũy Na Sản để 

ngăn Việt Minh trên con đường tiến của họ qua xứ Lào. Cho tới 1953, chiến trường Bắc Việt vẫn gay go hơn cả. Ngoài 

những trận lớn kể trên, còn có những trận lẻ tẻ: trận Tarentaise diễn vào tháng 8 năm 1953 tại Bùi Chu, trận Claude tại 

Tiên Lãng (Kiến An), trận Brochet tại Hưng Yên,... Tại Nam Việt, Pháp mở trận Savoie tại Hậu Giang và Sông Bé. Tại 

Ai Lao, có trận Bearn giữa các vùng Nong Het, Ban Ban, trận Dampierre thâu lại hai thị trấn Paksé và Mương Sung. 

Xét ra, quả Navarre đã nắm được quyền chủ động chiến trường cho tới cuối năm 1953, nhưng Việt Minh nhờ được sự 

che đậy, tiếp tế đều hòa của dân chúng nên vẫn có thể trường kỳ chiến đấu được. Cuối năm 1953, vào ngày 15-10 

Pháp quân xuất toàn lực phá Liên khu Tư của Việt Minh. Vùng đất này có tới 255.000 mẫu tây ruộng và một triệu dân 

chúng cung cấp được hàng vạn quân chính quy và địa phương quân. Việt Minh đặt hai sư đoàn 304 và 320 ở đây. Hai 

tướng Cogny và Gilles đem hải lục quân vào Thanh Hóa. Cuộc xô xát lâu tới 23 ngày, gây được nhiều thiệt hại cho Việt 

Minh, cắt đứt được giao thông của Việt Minh một thời, nhưng Pháp cũng tổn thất không kém. 

Ngày 11-12-1953 sư đoàn 320 của Việt Minh ra công quấy phá kịch liệt miền Trung châu. Pháp tưởng đã tiêu diệt được 

sư đoàn này bằng cuộc hành quân Mouette, vậy mà ngày 20-12 sư đoàn này lại xuất hiện ở Lai Châu và Điện Biên 

Phủ. Từ giờ phút này, hai quân Thực-Cộng quần nhau riêng ở vùng Điện Biên. Tại đây, đại tá De Castries hy vọng 

cầm chân Việt Minh để tiêu diệt họ, yên trí rằng do đường núi gập gềnh hiểm trở, Việt Minh không chuyển được các 

trọng pháo đến. Rồi sau 48 tiếng đồng hồ, cạm bẩy gài ở Điện Biên Phủ chống Việt Minh trở lại khép kín quân đội Liên 

hiệp Pháp. Cuộc giao tranh đầu tiên vào pháo lũy này nhằm ngày 13-3-1954, lực lượng Việt Minh có tới 45.000. Pháp 

có 12.000. Điện Biên Phủ là một khu vực lòng chảo của xứ Thái, Pháp đã chiếm đóng hồi tháng 4 năm 1953. Tới 20-11-

1953 tướng Cogny cho quân nhảy dù chiếm lại cứ điểm này để ngăn việc Việt Minh tiến vào xứ Lào. Sự thực, Việt 

Minh tiến vào xứ Lào để nhử Pháp đến đóng quân ở Điện Biên Phủ rồi tiêu hao lực lượng của thực dân tại đây. Pháp 

đã trúng kế. Đầu tháng 3-1954, Việt Minh tấn công ráo riết pháo lũy này. Hàng ngàn trái phá từ các sườn núi lao xuống 

khu đất rộng 140 cây số vuông biến "lòng chảo" này thành một biển lửa. Nhiều trận giáp lá cà diễn ra rất là ác liệt. 

Hàng vạn con người xô nhau trong khói lửa, hò hét, bắn chém, kinh khủng chẳng khác gì quang cảnh của chiến trường 

Âu châu vừa qua. Suốt 55 ngày bom nổ, đại bác rền không ngớt. Rồi người chỉ huy pháo đội của Pháp là đại tá Pirotte 

tuyệt vọng trước hỏa lực quá hùng hậu của Việt Cộng đã tự sát. Thiếu tướng De Castries đầu hàng và cuộc chiến Điện 

Biên Phủ hạ màn vào ngày 7-5-1954. Nhìn vào các việc đã xảy ra trên đây, ta thấy Việt Cộng đã mua cuộc chiến thắng 

bằng một giá vô cùng đắt đỏ để gây áp lực đối với Hội nghị bên hồ Leman bấy giờ đang họp bàn đến việc ngừng bắn 

ở Đông Dương. Hội nghị này lúc đầu đã do sự thăm dò của ngoại trưởng Pháp J. Bidault với ngoại trưởng Nga 

Molotov sau khi hội nghị tứ cường tan vỡ vào những tháng đầu của năm 1954 ở Genève. Rồi hai phe Nga Mỹ đều 

hưởng ứng với tiếng kêu gọi hòa bình của dư luận Quốc tế, đại diện của Việt Minh, Trung cộng, Nga Sô đã họp với đại 

diện Anh, Pháp, Việt, Miên, Lào. Đêm hôm 20-7-1954 Pháp và Việt Minh đã đi tới chỗ ký kết một thỏa hiệp ngừng bắn 

được mệnh danh từ nay là Hiệp định Genève gồm các khoảng dưới đây: 

6- Nội Dung Của Thỏa Hiệp Genève về Việt Nam131 

1) Đường phân ranh tạm thời về quân sự được ấn định vào nơi vĩ tuyến 17 (thuộc tỉnh Quảng Trị) từ đông sang tây 

như sau: Vàm sông Bến Hải (sông cửa Tùng) và dòng sông này mang tên Bảo Thanh chảy qua vùng núi đến tận làng 

Bo Ho Su kế đó đi sóng đôi với làng Bo Ho Su cho đến biên giới Lào Việt.                                        

 [131 Chúng tôi xin nhắc rằng trong nội dung của thỏa hiệp Genève ngoài phần liên hệ với Việt Nam còn phần nói về 

sự cam kết giữa Việt Minh với hai quốc gia Cao Miên và Ai Lao. ]

Ở bên này cũng như bên kia vĩ tuyến 17, mỗi bên phải lập một khu phi chiến cách xa đường phân ranh 5 cây số để 

dùng làm khu trái độn và tránh mọi sự lộn xộn có thể gây ra tái chiến,... 

2) Nam Việt cũng như Bắc Việt cam kết không chấp thuận việc lập thêm những căn cứ quân sự mới (tỉ như Mỹ hay 

Trung Cộng) và không tham gia một tổ chức liên minh quân sự nào. Nhưng Pháp được duy trì binh sĩ ở Việt Nam nếu 

chính phủ quốc gia ở đây yêu cầu như vậy... 

3) Trong thời hạn 2 năm chờ đợi tổ chức tổng tuyển cử, quốc gia nào được lòng dân bằng các cuộc cải cách sáng suốt 

và cấp tiến sẽ có hy vọng tồn tại. 

4) Cho tới ngày đó, quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp tại Bắc Việt vẫn được Việt Minh bảo đảm. 

5) Một ủy hội được đặt ra gọi là Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến gồm có đại diện Pháp, Việt Minh, Gia Nã Đại, 

Ấn Độ, Ba Lan và Việt Nam được lập ra để trông coi việc thi hành thỏa hiệp Genève, được đặt trụ sở tại Hà Nội và Sài 

Gòn cùng Bến Hải. Mọi việc khiếu nại của bên này hay bên kia đều do ủy hội phân xử. Cho tới ngày nay là 1960, tình 

trạng Việt Nam cũng như Đức Quốc và Hàn Quốc vẫn chưa thay đổi là vì hai khối Nga Mỹ chưa quyết định được cuộc 

tổng tuyển cử. Trước hiệp định Genève và qua các biến cố đã kể ra ở các chương trên đây, chúng ta có thể kết luận 

rằng Pháp hoàn toàn thất bại trên cả hai địa điểm chính trị và quân sự. Sự thất bại đó đưa Đông Dương tới một hiểm 

họa nguy vong đã do sự lỗi lầm liên tiếp của những chính phủ luôn luôn thay đổi, bất nhất và vô trách nhiệm đúng 

như lời tiên đoán của J. Decoux, nguyên toàn quyền Đông Dương trong thời Nhật thuộc ở cuốn A la barre de 

l'Indochine của ông. 

7- Kết Luận 

Qua giai đoạn thực thi, chính phủ Việt Cộng đã tiếp thu Bắc Việt vào cuối năm 1954, lập nên một chính phủ Cộng Hòa 

Nhân Dân, và ở Nam vĩ tuyến 17, các cường quốc Tây-Minh đã ủng hộ ông Ngô Đình Diệm, một cựu chiến sĩ cách 

mạng quốc gia về nước cũng lập ra một chính phủ theo khuôn khổ và tinh thần dân chủ. Lúc này, một biến cố đặc biệt 

xảy ra: ngót một triệu đồng bào Bắc Vĩ tuyến không tán thành chế độ Cộng Sản đã di cư vào Nam. Ông Ngô Đình 

Diệm có mặt ở Sài Gòn ngày 25-6-1954, lập xong nội các vào ngày 7-7-1955 và ông cho mở một cuộc trưng cầu dân ý 

vào ngày 23-10-1955. Sau việc này, ông vua thứ 13 của triều Nguyễn bị triệt hạ. Ngày 26-10-1955 chính phủ Ngô Đình 

Diệm tuyên bố từ nay nước Việt Nam là một nước Cộng Hòa, theo Tổng Thống Chế. Ngày 5-3-1956 Quốc Hội Việt Nam 

ra đời. Kể từ giai đoạn này trở đi, Việt Nam cắt đứt mọi liên hệ với thực dân và phong kiến, thành lập một quốc gia độc 

lập tại Đông Nam Á và có mặt trong đại gia đình Thế giới Tự do. Chúng tôi xin ngừng lại nơi đây vì nguyên tắc viết sử 

không cho phép đi quá sâu vào những việc còn đang diễn tiến. 

Nhưng trước trang sử cuối cùng này, kẻ viết khi buông cán bút không thể ngăn cản mối cảm xúc tràn ngập lòng mình, 

nghĩ rằng dân tộc chúng ta còn tồn tại đến ngày nay, còn một mãnh đất này để mà sống, đó là nhờ công nghiệp đấu 

tranh, xây dựng bằng biết bao nhiêu mồ hôi và nước mắt của tổ tiên từ 40 thế kỷ nay. Nhớ thuở còn luân lạc bên bờ 

Dương Tử, mình trần khoác da thú, lặn lội nơi sông ngòi, chúa tôi, cha con, chồng vợ, nương tựa vào nhau mà sống 

cho đến khi Hán tộc quá mạnh, đẩy người Bách Việt chúng ta xuống khắp miền Hoa Nam, kẻ lên rừng, người xuống 

biển nảo nề, bi đát vô cùng. Trước kỷ nguyên Thiên Chúa, ông cha chúng ta lại trải thêm một cuộc phù trầm với nửa 

triệu binh sĩ viễn chinh của Thủy Hoàng Đế đang tràn đầy nhựa sống. Họ đã nuốt đứt ba chi phái Đông Việt, Mân Việt 

và Nam Việt, còn lại Âu Lạc là nhóm cuối cùng của chúng ta đã chiến thắng vẻ vang và anh dũng nên giống nòi ta mới 

còn sống sót đến bây giờ. Trên mãnh đất bao la gồm những rừng núi Quảng Tây, thượng du miền Bắc và lưu vực 

sông Nhị, chúng ta tái tạo lại cơ đồ, dựng triều đình riêng một cõi, tiếc thay chẳng bao lâu lại lâm vào Hán họa để lệ 

thuộc Bắc phương luôn 10 thế kỷ. Mười thế kỷ làm tôi dị tộc, sống như trâu ngựa, toàn dân xác như vờ, sơ như nhộng 

vì sự bóc lột của quan lại Trung quốc đến nổi trai không lấy nổi vợ, gái không lấy nổi chồng, nhân khẩu mỗi ngày một 

hao hụt gần như diệt chủng. Những kẻ có chút đầu óc hơi khác ý thì bị moi gan, móc mắt, gông cùm xiềng xích đầy 

mình, do đó mà gái anh thư đã có khi phải thay đấng tu mi phất cờ cách mạng, họ Khúc, họ Ngô, thế cô mà dám đuổi 

xâm lăng. Tới khi khôi phục được nguyên lực quốc gia, Lý Thường Kiệt Bắc tiến, Trần Quốc Tuấn diệt Nguyên, 

Nguyễn Huệ mộng dành lại Lưỡng Quảng để thỏa cái thù mất đất về tay Hán. Xét các sự kiện này thì lịch sử Việt Nam 

thật là cái gì ly kỳ nhất, lâm ly nhất mà cũng oai hùng đến tột bực, bởi một dân tộc nhỏ bé năm ba triệu người trước 

đây mà dám ganh tài, đọ sức với một cường quốc đông gấp trăm, giàu gấp ngàn, và là cái lò văn minh cố cựu nhất thế 

giới. Phải chi thêm người, thêm của, đất đai rộng rãi hơn nữa thì Mông Cổ vào Trung Nguyên, Mãn Thanh ngự trị Hoa 

tộc, có lẽ đâu người Việt chẳng có phần mênh mông của con cháu Hoàng Đế. Từ Lý qua Trần, qua Lê, văn hóa của 

chúng ta cũng đi xa, tiến mạnh, khiến Trung Quốc dưới thời Minh phải xác nhận không thể coi người Việt như các rợ 

và phải đãi vào hàng quốc gia văn hiến, do đó vài vần thơ kiêu hùng dưới đời Mạc đã bãi được một cuộc đao binh của 

Minh Thế Tông (thế kỷ XVI). Nhưng cũng buồn thay, cái đà của dân tộc đang được đẩy mạnh thì từ những con cháu 

cuối cùng của vua Lê Thái Tổ và giới phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đốn hèn dần nên mới phát sinh ra cái bi 

trạng tam phân thiên hạ, kế đó là cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh đưa nước nhà vào vòng suy bại. Trong những thế hệ 

gần đây, giới lãnh đạo quốc gia đã tỏ ra quá vụ lợi, ích kỷ, thoái hóa nên tinh thần dân tộc không biết quy tụ vào đâu 

cho tới khi ngọn trào Đế quốc Tây phương tràn qua Thái Bình Dương thì xã hội Việt Nam tan rã như cành khô, cỏ mục. 

Trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử trước vấn đề này, ai phải chịu? 

500 Việt Sử Toàn Thư 

Sau hai hòa ước 1862,1884, nước nhà bị Pháp thuộc luôn 80 năm ròng. Cha con tủi nhục, vợ chồng lầm than, cái thảm 

họa vong nô lần này cũng hết sức não nề bi đát. Rồi cũng luôn 80 năm ấy, toàn dân lại vùng lên tranh đấu. Máu đào 

xương trắng lại tràn ngập Bắc Nam. Mười năm qua, (1944-1954) lợi dụng được cuộc Hoàn cầu Đại chiến, Việt Nam cùng 

Thực dân Pháp đánh một canh bạc cuối cùng, liều như một mất, một còn132. Kết cục, con cháu Trần Quốc Tuấn, 

Nguyễn Huệ đã rửa được cái nhục mất nước. Nhưng cũng từ năm 1954 đất nước ta chia hai, tuồng sông Gianh lại tái 

diễn như ngày nào. Giờ đây trên giấy mực, người Việt làm chủ người Việt, miền Bắc thuộc ảnh hưởng của Đệ Tam 

Quốc Tế, miền Nam đứng trong hàng ngũ Thế giới Tự do. Lý thuyết chính trị nào mà chẳng được tô điểm bằng nước 

sơn tươi đẹp, nhưng lý thuyết nào cũng không thể ra ngoài nguyện vọng của nhân dân là Cơm áo được bảo đảm, 

hạnh phúc được chu toàn, nhân vị con người được tôn trọng. Và nhìn vào xã hội nhân loại hiện tại, qua các kinh 

nghiệm lịch sử, chúng ta không khỏi có nhiều thắc mắc: con người làm chính trị mỗi ngày một thêm sa đọa. Cái ý niệm 

vì dân, vì nước, vì nhân loại mỗi ngày một thêm hiếm hoi, trái lại, cái óc vụ lợi cá nhân, gia đình, bè đảng, mỗi ngày một 

nhiều khiến một điểm lương tâm có khi không thoi thóp nỗi, đến nỗi đồng loại, đồng bào giết chóc, băm vằm mổ xẻ 

nhau quá loài lang sói. Trên 40 thế kỷ trước, Nghiêu, Thuấn không nhường ngôi cho con, đó là do quan niệm lấy thiên 

hạ làm đại nghĩa, coi gia đình, bè đảng là nhẹ, mỗi khi tai trời, ách nước xảy ra, kẻ cầm quyền tự cho mình lầm lỗi, làm lễ 

cáo minh cùng Trời đất và dân chúng, lại xin sửa đổi chính sách. Kẻ lãnh đạo đối với quốc dân có thành ý như vậy là 

cùng. Nhưng các người như Nghiêu, Thuấn của giống Hán, như St. Louis của nước Pháp, như Lý Thánh Tông của 

nước Việt thì ít mà Néron Cèsar, Charles 1er, Kiệt, Trụ thì quá nhiều, tự cho mình là con Trời, con Thánh, có quyền cầu 

vui, hưởng lạc mà đám dân đen thì chỉ đáng làm tôi mọi. Kết cục, họ đã bị những phong trào cách mạng của quần 

chúng triệt hạ như cỏ may bị gió lướt, lúc hối tỉnh thì đã muộn. Chúng tôi, với nhiệm vụ sử học, thấy có bổn phận giới 

ý những nhà cầm quyền những sự việc đã từng xảy ra trên sân khấu chính trị cổ kim với hy vọng nhắc nhở một vài 

định luật và qui tắc bất di dịch cho giới người lãnh đạo quần chúng. Định luật và qui tắc ấy là : Nhà cầm quyền đã do 

dân mà có thì được quyền hành phải tôn trọng nhân dân, những kẻ phản bội đồng loại, coi rẻ nhân dân thì dầu xây 

thành vạn lý, nắm giữ trăm vạn hùng binh cũng là thừa. Dân chúng là sức mạnh duy nhất đã từng đập tan biết bao 

nhiêu ngai vàng, nghiệp bá, sự thực đó, ai chối cãi được? Riêng về đại cuộc Việt Nam ngày nay, đất nước qua phân, 

đồng bào chia rẽ, nếu tổ tiên sống lại chẳng khỏi héo gan, đứt ruột. Của đã ít, người đã thưa, độc lập còn non nớt, vậy 

mà nếu Nam, Bắc coi nhau quá kẻ địch truyền kiếp thì rồi đây nòi giống Việt Nam liệu có thoát khỏi cái bi cảnh dịch 

chủ tái nô hay diệt chủng chăng? 

 [132 Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc vừa qua có thể coi bắt đầu bộc phát từ năm 1944. ]

Chúng tôi ngừng bút ở nơi đây, thành tâm thắp nén hương lòng cầu chúc cho các nhà làm chính trị sớm thành công 

trong sự nghiệp cứu nhà, cứu nước, xây dựng cho xứ sở một địa vị hùng cường ở Đông Nam Á và cũng xin nhấn mạnh 

rằng những ai xa rời quần chúng, phản bội quê hương, đi ngược dòng tiến hóa của nhân loại thì lịch sử sẽ là nơi ngàn 

năm bia miệng.  

502 Việt Sử Toàn Thư 

 SÁCH BÁO THAM KHẢO 

Việt Ngữ Bánh Xe Khứ Quốc, Phan Trần Chúc .

Dân Luật Khái Luận, Vũ Văn Mẫn .

Dụ Am Ngâm Tập, Phan Huy Ích .

Dụ Am Văn Tập, Phan Huy Ích .

Đại Nam Liệt Truyện Sơ Tập (quyển thứ 30 - 32), Quốc sử quán Nguyễn Triều .

Đại Nam Nhất Thống Trí, Nguyễn Tạo .

Đại Nam Thực Lục, Quốc sử quán Nguyễn Triều .

Đại Nam Sử Ký Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên .

Đông Án Trên Trường Chính Trị Quốc Tế, Lê Văn Sáu .

Hậu Các Anh Hoa, Ngô Thời Nhậm .

Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Ngô Thời Chí .

Hoàng Việt Luật Lệ, Quốc sử quán Nguyễn Triều .

Hồng Đức Thiện Chính Thư, Chính quyền Hậu Lê soạn .

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Quốc sử quán Nguyễn Triều .

Kinh Tế Thế Giới Đang Đi Đến Đâu?, Vũ Văn Mẫu .

La Sơn Phu Tử, Hoàng Xuân Hãn .

Lê Kỷ Dã Sử, Khuyết danh (sách chép tay của trường Bắc Cổ) Lịch Sử Xã hội Việt Nam, Hoàng Thúc Trâm .

Lược Khảo Về Binh Chế Việt Nam Qua Các Thời Đại, Nguyễn Tường Phượng .

Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Phan Huy Chú .

Nam Bộ Chiến Sử, Nguyễn Bảo Hóa .

Nam Sử Tập Biên, Nguyễn Văn Tố .

Nguyễn Trãi, Anh Hùng Dân Tộc, Trúc Khê .

Nhà Chính Trị Hồ Quý Ly, Chu Thiên .

Nho Giáo, Trần Trọng Kim .

Những Bài Học Lịch Sử I, II, III, Lê Văn Hòe.

 Phan Đình Phùng, Đào Trinh Nhất .

Quan Niệm Cổ Truyền Về Pháp Luật, Vũ Văn Mẫu .

Quốc Sử Đính Ngoa, Lê Văn Hòe .

Quốc Triều Hình Luật, Chính quyền Hậu Lê soạn .

Quốc Triều Sử Toát Yếu, Cao Xuân Dục .

Quốc Văn Đời Tây Sơn, Hoàng Thúc Trâm .

Sử Liệu Việt Nam, Huỳnh Khắc Dung .

83 Năm, Mấy Lần Việt Pháp Ký Hòa Ước?, Nguyễn Kỳ Nam .

Tang Thương Ngẫu Lục, Phạm Đình Hồ & Nguyễn An .

Thanh Triều Sử Lược, Khuyết danh (sách chép tay của trường Bắc Cổ) .

Thiên Nam Dư Hạp Tập, Chính quyền Hậu Lê .

Trần Hưng Đạo, Hoàng Thúc Trâm .

503 Việt Sử Toàn Thư 

Trần Thủ Độ, Trúc Khê .

Trung Hoa Sử Cương, Đào Duy Anh .

Trung Quốc Sử Lược, Phan Khoang .

Trung Quốc Duy Tân, Nguyễn Nam Thông .

Vấn Đề Nhân Quyền Trong Phạm Vi Pháp Luật, Vũ Văn Mẫu .

Văn Hóa Nguyệt San, Tạp chí của Bộ Giáo dục .

Việt Nam Khai Quốc Chí Truyện, Chính quyền Hậu Lê .

Việt Nam Giáo Sử, L.M. Phan Phát Hườn .

Việt Nam Lịch Sử Giáo Trình, Đào Duy Anh .

Việt Nam Máu Lửa, Nghiêm Kế Tố .

Việt Nam Phong Sử, Nguyễn Văn Mụi .

Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim .

Việt Nam Tây Thuộc Sử, Đào Trinh Nhất .

Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, Đào Duy Anh .

Việt Sử Đại Toàn, Mai Đăng Đệ .

Việt Sử Giai Thoại, Đào Trinh Nhất .

Xã Hội Việt Nam, Lương Đức Thiệp.

 Pháp Ngữ 

Abrégé De l'Histoire d'Annam, A. Sehreiner .

A La Barre De l'Indochine, J. Decoux .

Bulletin De l'Ecole Francaise d'Extrême Orient  Bulletin Des Amis Du Vieux Huế Bulletin Des Études Indochinoise 

(1904) Connaissance Du Việt Nam, P. Huard .

Contribution À l'Histoire De La Nation Vietnamienne, Jean Chesnaux .

Cours d'Histoire Annamite, Trương Vĩnh Ký .

Documents Historiques Relatifs À La Cochinchine Et Au Cambodge, A. d'Epinay .

Essai Sur Les Tonkinois, Dumoutier .

Études d'Histoire d'Annam, B.E.F.E.O .

Gia Long, M. Gaultier .

Histoire Ancienne Et Moderne De l'Annam, A. Launay .

Histoire De La Cochinchine-des Origines À 1883, P. Cultru .

Histoire De l'Expédition De La Cochinchine, Gabriel Auberet .

Histoire Des Relations De La Chine Avec Le Việt Nam (du XVI ème au XIX ème siècle), G. Deveria .

Histoire d'Une Paix Manquée, Jean Sainteny .

Histoire Généra E Des Voyages, A. Prévost .

Histoire Moderne Du Pays d'Annam, C. B. Maybon .

Histoire Militaire De l'indochine De 1664 À Nos Jours, P. Cultru .

Histoire Naturelle, Civille Et Politique Du Tonkin, A. Richard .

La Cochinchine Relegieuse, L. E. Louvet .

La Conquète De l'Indochine, A. Thomazi .

504 Việt Sử Toàn Thư 

La Geste Francaise En Indochine, George Taboulet .

L'Annam d'Autrefois - Essai Sur La Constitution de l'Annam Avant l'Intervention Francaise Le Clergé Indigène de 

l'Indochine - Les Mission Catholiques, L. Cadière .

L'Empire d'Annam, Gosselin .

L'Empire d'Annam Et Le Peuple Annamite, J. Silvestre .

L'Histoire Du Việt Nam, Phillippe Devillers .

Le Việt Nam, Lê Thành Khôi .

Le Việt Nam Et Sa Civilisation, Trần Văn Tùng .

l'Enseignement Dans l'Ancient Việt Nam, Huỳnh Khắc Dụng .

Les Chams d'Autrefois Et d'Aujourd'hui, J. Lenba .

Les Débuts Du Christianisme En Annam - Des Origines Au Commencement Du XVIème siècle, Bonifacy .

Les Origines Du Clergé Vietnamien, L. M. Nguyễn Hữu Trọng .

Mémorial De La Cochinchine Et Du Tonkin, Missionnaires De La Sté De Jésus .

Notes Et Spuvenirs Au Tonkin 1873-81-86, R. Bonnal .

Premières Études Sur Les Sources Annamites De l'Histoire d'Annam, M. M. Pelliot & Cadtère .

Revue Indochinoise 1921 Sociologie d'Une Guerre, Paul Mus .

Texte Et Commentaire Du Miroir Complet De l'Histoire Du Việt Nam, Durand (Khâm Dịch Việt Sử Thông Giám Cương 

Mục) .

Voyages Et Mission, A. de Rhodes  .

505 Việt Sử Toàn Thư 

Ý Kiến Của Văn Gia Trí Thức  Về Những Tác Phẩm Sử Học Của Phạm Văn Sơn  

"Tôi nhận thấy tác giả đã dày công sưu tầm để viết bộ sử này (V. S. T. B.) với một thể tài mới gọn ghẽ và dễ hiểu. Tôi 

tin rằng Việt Sử Tân Biên sẽ giúp ích nhiều cho các giáo sư và giới hiếu học."  Trần Hữu Thế, Bộ Trưởng Quốc Gia 

Giáo Dục   (Thư gửi tác giả đề ngày 6-11-58)

 "Bộ sách (V. S. T. B.) đã được tác giả biên soạn rất công phu, với một phương pháp khoa học và dựa trên một căn bản 

dân chủ hợp với quan niệm chung của các sử gia hiện đại trên thế giới. Sách lại được chú giải bằng nhiều tranh ảnh 

làm cho người đọc ham thích hơn. Việt Sử Tân Biên thực là một tài liệu quý giá cho những ai muốn nghiên cứu về sử 

nước nhà. " Bác sĩ Trần Sỹ Đôn, Giám đốc sở Tu Thư Bộ Quốc Gia Giáo Dục  (Thư gửi tác giả ngày 3-2-1959)

{ Bộ sử của anh lấy yếu tố "người dân" làm gốc, và như vậy, anh đã "dân chủ hóa" lịch sử, đúng với quan niệm mới 

mẻ và chính đáng của các sử gia hiện đại. Tôi có thể nói rằng, trên điểm này anh đã thành công một phần lớn và tôi 

cũng tin rằng bộ Việt Sử Tân Biên của anh sẽ đạt được mục đích mong muốn. Hơn nữa, tôi hy vọng rằng độc giả toàn 

quốc sẽ tìm ở đây niềm tin tưởng bất diệt nơi tiền đồ tổ quốc và các thế hệ ngày mai sẽ còn lưu dụng mãi mãi bộ "Việt 

Sử Tân Biên"}.  Thái văn Kiểm, Chủ nhiệm Văn Hóa Nguyệt San, Phó Giám Đốc Nha Văn Hóa  (Thư gửi cho tác giả đề 

ngày 5-11-1958) 

"Về sử học, ngoài cuốn Việt Sử Tân Biên, phần lớn các sách có tính cách giáo khoa, dễ thường chưa cuốn nào làm lu 

mờ được cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim . . . .  " Tạp chí Bách Khoa - Số 70  (sau cuộc triển lãm văn hóa 

toàn quốc tháng 12-1959) 

{Bộ "Việt Sử Tân Biên" của sử gia Phạm Văn Sơn đã đi đến thời Nam Bắc phân tranh (loạn Phong Kiến). Bộ "Việt Sử 

Tân Biên" được viết theo một quan niệm mới, khoa học và đầy đủ là một công trình có giá trị quốc tế. Tưởng cần nên 

nhắc là bộ "Việt Nam Tranh Đấu Sử" của họ Phạm, một bộ sách rất quý giá, đã được tái bản lần thứ năm . . . Thiếu tá 

Phạm Văn Sơn đã làm vẻ vang cho nền sử học: Việt Nam và quân đội với bộ "Việt Sử Tân Biên". } Chỉ Đạo - Xuân 

Canh Tý 

506 Việt Sử Toàn Thư 

{"Việt Sử Tân Biên" là một bộ sử được biên soạn công phu nhất từ trước tới nay. Việt Sử Tân Biên, dưới ngòi bút sắc 

sảo, với quan niệm biên thảo rất khoa học của sử gia Phạm Văn Sơn, sẽ giúp ích rất nhiều cho chúng ta trên đường sử 

học. } Ngôn Luận 1960 

{Tác giả đã dày công viết bộ Việt Sử đại toàn này. (V. S. T. B.) gồm 7 quyển, với một thể tài mới mẻ, gọn gàng và dễ 

hiểu. Hơn nữa, tác giả đã nhận chân nhiệm vụ một sử gia lấy yếu tố "người dân" làm gốc và đã "dân chủ hóa" lịch sử 

Việt Nam đúng với quan niệm chân chính của các sử gia hiện tại.}  Văn Hóa Nguyệt San - Số 37  Tháng 12-1958 

{Việt Sử Tân Biên được biên khảo công phu, tài liệu phong phú, quả là một cuốn sử rất có giá trị mà mọi người không 

nên thiếu khi nghiên cứu lịch sử.}  Minh Tân Nguyệt San - Số 56 - Tháng 3-1959 

{Cuốn Việt Sử Tân Biên, tập I và II, sau khi xuất bản đã được một số văn gia trí thức nhận xét và xác nhận cuốn sử này 

đã thành công một phần lớn trong vấn đề tìm cách dân chủ hóa lịch sử, đề cao vai trò tranh đấu của nhân dân trên mọi 

phương diện, đưa ra những tư tưởng cách mạng, cấp tiến.}  Tạp chí Thế Giới Tự Do  Tập VIII - Số 5 

{Quan niệm viết sử của ông Phạm Văn Sơn đã biết dùng lập luận của một người dân nhược tiểu giải quyết sự kiện lịch 

sử, phương pháp viết khoa học . . . Kỹ thuật viết sử của ông hấp dẫn khiến chúng tôi nhớ đến Michelet, Tư Mã Thiên . 

. . Chắc chắn những ai về sau muốn tìm sử liệu Việt Nam không thể bỏ qua Phạm Văn Sơn.}  Thế Phong  (Lược sử văn 

nghệ Việt Nam - Nhà văn hậu chiến) 

{Với Việt Sử Tân Biên quyển 3, ông Phạm Văn Sơn nghiên cứu riêng về loạn Phong Kiến Việt Nam. Đây là một nhận 

xét rất mới và cấp tiến trên phương diện sử học của nước nhà để định ra trách nhiệm của hai họ Trịnh-Nguyễn đã gây 

nên cuộc nội chiến luôn ba thế kỷ gần đây. Chúng tôi tán thành quan điểm này vì người dân không thể là những dụng 

cụ tranh đấu ngai vàng nghiệp bá của dòng họ phong kiến dầu ở bất cứ một quốc gia và một tình thế nào. } Nhật báo 

Tự Do ngày 3-2-1959   

507 Việt Sử Toàn Thư 

Phụ Lục 1 Bảng Đối Chiếu Các Triều Đại Việt Nam Với Năm Dương Lịch Và Các Triều Đại Trung Hoa 

Ghi chú: TCN: Trước Công Nguyên 

 I. Họ Hồng Bàng (2879 - 258 TCN) Quốc hiệu: Văn Lang Kinh đô: Phong Châu  

Triều đại Việt Nam 

Quốc hiệu 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

Kinh Dương Vương    Phục  Hi 

Lạc Long Quân   Thần Nông 

  2879 TCN Hoàng Đế Hạ,  Thương, Chu 

Vua Hùng Vương: 18 đời    

1. Hùng Dương (Lộc Tục) Văn Lang   

2. Hùng Hiến (Sùng Lãm)    

3. Hùng Lân    

4. Hùng Việp    

5. Hùng Hy    

6. Hùng Huy    

7. Hùng Chiêu    

8. Hùng Vỹ    

9. Hùng Định    

10. Hùng Hy    

11. Hùng Trinh    

12. Hùng Võ    

13. Hùng Việt    

508 Việt Sử Toàn Thư 

14. Hùng Anh    

15. Hùng Triều    

16. Hùng Tạo    

17. Hùng Nghi    

18. Hùng Duệ  258 TCN  

       II. Nhà Thục (257 TCN - 208 TCN) 

Quốc hiệu: Âu Lạc Kinh đô: Phong Khê (Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội)  

Triều đại Việt Nam 

Quốc hiệu 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

Thục Phán  257 TCN - 208 TCN Chu Noãn Vương 

An Dương Vương Âu Lạc  Tần Thủy Hoàng 

 III. Nhà Triệu (207 TCN - 111 TCN) 

Quốc hiệu: Nam Việt Kinh đô: Phiên Ngung (gần Quảng Châu, Trung Hoa)  

Triều đại Việt Nam 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Triệu Vũ Vương (Triệu Đà) 207 TCN - 136 TCN Tần Nhị Thế 

2. Triệu Văn Vương (Triệu Hồ) 136 TCN - 124 TCN Hán Võ Đế 

3. Triệu Minh Vương (Triệu Anh Tề) 124 TCN - 112 TCN Hán Võ Đế 

4. Triệu Ai Vương (Triệu Hưng) 112 TCN Hán Võ Đế 

5. Triệu Dương Vương    (Triệu Kiến Đức) 111 TCN Hán Võ Đế 

509 Việt Sử Toàn Thư 

  IV. Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất (207 TCN - 40) 

Triều đại Việt Nam 

Niên hiệu 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

Tây Hán đô hộ   111 TCN - 25 Hán Võ Đế 

Đông Hán đô hộ  25 - 40  Hán Quang Võ 

 V. Trưng Nữ Vương (40 - 43) Kinh đô: Mê Linh (Vĩnh Phú)  

Triều đại Việt Nam 

Quốc hiệu 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

Trưng Vương  (Trưng Trắc, Trưng Nhị)  40 - 43  Hán Quang Võ 

 VI. Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai (43 - 543) 

Triều đại Việt Nam 

Niên hiệu 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

Thời Đông Hán  43 Hán Quang Võ 

Thời Ngô  244 Tam Quốc 

Khởi nghĩa Bà Triệu  248 Tam Quốc 

Thời Ngô, Ngụy  264 Ngụy Nguyên Đế 

Thời Ngô, Tấn   265 - 279 Tấn Võ Đế 

Thời Tấn  280 - 420 Tấn Võ Đế 

Thời Lưu Tống  420 - 479 Tống Võ Đế 

Thời Tề   479 - 505 Tề Cao Đế 

Thời Lương  505 - 543 Lương Võ Đế 

510 Việt Sử Toàn Thư 

 VII. Nhà Tiền Lý và Nhà Triệu (544 - 602) 

Quốc hiệu: Vạn Xuân Kinh đô: Long Biên  

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu VN 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Lý Nam Đế (Lý Bôn) Thiên Đức 544 - 548 Lương Võ Đế 

2. Lý Đào Lang          Vương Thiên Bảo  549 - 555 Lương Võ Đế 

3. Triệu Việt Vương         (Triệu Quang Phục)  549 - 570 Lương Võ Đế 

4. Hậu Lý Nam Đế         (Lý Phật Tử)  571 - 602 Trần Tuyên Đế 

 VIII. Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba (603 - 939) 

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

Thời Tùy  603 - 617 Tùy Văn Đế 

Thời Đường  618 - 721 Đường Cao Tổ 

Mai Hắc Đế  (Mai Thúc Loan)  722 Đường Huyền Tông 

Thời Đường  723 - 790 Đường Huyền Tông 

Bố Cái Đại Vương  (Phùng Hưng  791 Đường Đức Tông 

Thời Đường  792 - 906 Đường Đức Tông 

Thời Hậu Lương  907 - 922 Đường Đức Tông      Lương Thái Tổ 

Thời Hậu Đường  923 - 936 Đường Trang Tông 

Thời Hậu Tấn  937 - 939 Tấn Cao Tổ 

511 Việt Sử Toàn Thư 

 IX. Thời kỳ xây nền tự chủ (905 - 938)  

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu VN 

Dương Lịch 

Triều đại Trung Hoa 

Khúc Thừa Dụ   905 - 907 Đường Ai Đế 

Khúc Hạo  907 - 917 Lương Thái Tổ 

Khúc Thừa Mỹ  917 - 923 Lương Mạt Đế - Nam Hán 

Dương Đình Nghệ  931 - 938 Đường Minh Tông 

 X. Nhà Ngô (939 - 965) Kinh đô: Cổ Loa  

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu VN 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Ngô Vương Ngô Quyền 939 - 944 Tấn Cao Tổ - Nam Hán 

2. Dương Bình Vương Tam Kha 945 - 950 Tấn Xuất Đế -       Nam Chiếu 

3. Ngô Nam Tấn Vương  Xương Văn 950 - 965 Hán Ẩn Đế 

4. Ngô Thiên Sách Vương Xương Ngập 951 - 959 Hậu Chu Thái Tổ 

Thập Nhị Sứ Quân  966 - 968 Tống Thái Tổ 

XI. Nhà Đinh (968 - 980) Quốc hiệu: Đại Cồ Việt Kinh đô: Hoa Lư (Gia Viễn, Ninh Bình)  

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Đinh Tiên Hoàng         (Đinh Bộ Lĩnh) Thái Bình 968 - 979 Tống Thái Tổ 

2. Đinh Phế Đế (Đinh Toàn) Thái Bình 980 Tống Thái Tông 

512 Việt Sử Toàn Thư 

XII. Nhà Tiền Lê (980 - 1009) Kinh đô: Hoa Lư (Gia Viễn, Ninh Bình) 

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Lê Đại Hành         (Lê Hoàn) Thiên Phúc 980 - 1005 Tống Thái Tông 

2. Lê Trung Tông         (Lê Long Việt)  1005 Tống Chân Tông 

3. Lê Ngọa Triều         (Lê Long Đĩnh) Ứng Thiên 1006 - 1009 Tống Chân Tông 

XIII. Nhà Lý (1010 - 1225) Quốc hiệu: Đại Cồ Việt, Đại Việt (1054) Kinh đô: Hoa Lư (Gia Viễn, Ninh Bình);    năm 1010 

dời đô về Thăng Long (Hà Nội) 

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu VN 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Lý Thái Tổ        (Lý Công Uẩn) Thuận Thiên 1010-1028 Tống Chân Tông 

2. Lý Thái Tông         (Lý Phật Mã) Thiên Thành 1028-1054 Tống Nhân Tông 

3. Lý Thánh Tông         (Lý Nhật Tôn) Long Thụy 1054-1072 Tống Nhân Tông 

4. Lý Nhân Tông         (Lý Càn Đức) Thái Ninh 1072-1128 Tống Thần Tông 

5. Lý Thần Tông         (Lý Dương Hoán Thiên Thuận 1128-1138 Tống Cao Tông 

6. Lý Anh Tông          (Lý Thiên Tộ) Thiệu Minh 1138-1175 Tống Cao Tông 

7. Lý Cao Tông          (Lý Long Cán) Trinh Phủ 1176-1210 Tống Hiếu Tông 

8. Lý Huệ Tông         (Lý Hạo Sảm) Kiến Gia 1211-1224 Tống Ninh Tông 

9. Lý Chiêu Hoàng         (Chiêu Thánh) ThiênChương 1224-1225 Tống Ninh Tông 

513 Việt Sử Toàn Thư 

XIV. Nhà Trần (1225 - 1400) Quốc hiệu: Đại Việt Kinh đô: Thăng Long (Hà Nội)  

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Trần Thái Tông          (Trần Cảnh) Kiến Trung 1225-1258 Tống Lý Tông 

2. Trần Thánh Tông          (Tr. Hoảng) Thiệu Long 1258-1278 Tống Lý Tông 

3. Trần Nhân Tông          (Trần Khâm) Thiệu Bảo 1279-1293 Tống Đế Bính 

4. Trần Anh Tông          (Trần Thuyên) Hưng Long 1293-1314 Nguyên Thế Tổ 

5. Trần Minh Tông          (Trần Mạnh) Đại Khánh 1314-1329 Nguyên NhânTông 

6. Trần Hiến Tông          (Trần Vượng) Khai Hựu 1329-1341 Nguyên MinhTông 

7. Trần Dụ Tông          (Trần Hạo) Thiệu Phong 1341-1369 Nguyên Thuận Đế 

Dương Nhật Lễ          (soán ngôi) Đại Định 1369-1370 Minh Thái Tổ 

8. Trần Nghệ Tông          (Trần Phủ) Thiệu Khánh 1370-1372 Minh Thái Tổ 

9. Trần Duệ Tông          (Trần Kính) Long Khánh 1373-1377 Minh Thái Tổ 

10. Trần Phế Đế          (Trần Hiện) Xương Phù 1377-1388 Minh Thái Tổ 

11. Trần Thuận Tông          (Trần Ngung) Quang Thái 1388-1398 Minh Thái Tổ 

12. Trần Thiếu Đế          (Trần Án) Kiến Tân 1398-1400 Minh Thái Tổ 

514 Việt Sử Toàn Thư 

 XV. Nhà Hồ (1400 - 1407) Quốc hiệu: Đại Ngu Kinh đô: Tây Đô (Thanh Hóa) 

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu VN 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Hồ Quý Ly  Thánh Nguyên 1400 - 1401 Minh Huệ Đế 

2. Hồ Hán Thương Thiệu Thánh 1401 - 1407 Minh Huệ Đế 

  XVI. Nhà Hậu Trần (1407 - 1414)  

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu VN 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Trần Giản Định          (Trần Ngỗi) Hưng Khánh 1407 - 1409 Minh Thành Tổ 

2. Trần Quý Khoáng Trùng Quang 1409 - 1414 Minh Thành Tổ 

 XVII. Thời kỳ kháng chiến chống nhà Minh đô hộ (1414 - 1427) 

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu VN 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

Thời Minh đô hộ  1414 - 1417 Minh Thành Tổ 

Bình Định Vương  (Lê Lợi khởi nghĩa)  1418 - 1427  

515 Việt Sử Toàn Thư 

XVIII. Triều Lê sơ (1428 - 1527) Quốc hiệu: Đại Việt Kinh đô: Đông Đô (Hà Nội) 

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu VN 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Lê Thái Tổ (Lê Lợi) Thuận Thiên 1428 - 1433 Minh Tuyên Tông 

2. Lê Thái Tông          (Lê Nguyên Long) Thiệu Bình 1433 - 1442 Minh Tuyên Tông 

3. Lê Nhân Tông          (Lê Bang Cơ) Thái Hòa 1442 - 1459 Minh Anh Tông 

Lê Nghi Dân (soán ngôi) Thiên Hưng 1459 Minh Anh Tông 

4. Lê Thánh Tông          (Lê Tư Thành) Hồng Đức 1460 - 1497 Minh Anh Tông 

5. Lê Hiến Tông (Lê Tăng) Cảnh Thống 1498 - 1504 Minh Hiếu Tông 

6. Lê Túc Tông (Lê Thuần) Thái Trinh 1504 Minh Hiếu Tông 

7. Lê Uy Mục (Lê Tuấn) Đoan Khánh 1505 - 1509 Minh Hiếu Tông 

8. Lê Tương Dực (Lê Oanh) Hồng Thuận 1509 - 1516 Minh Võ Tông 

9. Lê Chiêu Tông (Lê Ý) Quang Thiệu 1516 - 1522 Minh Võ Tông 

10. Lê Cung Hoàng          (Lê Xuân) Thống Nguyên 1522 - 1527 Minh Thế Tông 

516 Việt Sử Toàn Thư 

 XIX. Nhà Mạc (1527 - 1592) Kinh đô: Đông Đô (Hà Nội)  

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Mạc Thái Tổ         (Mạc Đăng Dung) Minh Đức 1527-1529 Minh Thế Tông 

2. Mạc Thái Tông         (Mạc ĐăngDoanh Đại Chính 1530-1540 Minh Thế Tông 

3. Mạc Hiến Tông         (Mạc Phúc Hải) Quảng Hòa 1541-1546 Minh Thế Tông 

4. Mạc Tuyên Tông          (Mạc Phúc Nguyên) Vĩnh Định 1546-1561 Minh Thế Tông 

5. Mạc Mậu Hợp Thuần Phúc 1562-1592 Minh Thần Tông 

6. Mạc Toàn Võ An 1592 Minh Thần Tông 

7. Mạc Kính Chỉ Bảo Định 1592-1593 Minh Thần Tông 

8. Mạc Kính Cung Kiền Thống 1593-1625 Minh Thần Tông 

9. Mạc Kính Khoan Long Thái 1623-1625 Minh Thần Tông 

10. Mạc Kính Vũ Thuận Đức 1638-1677  

517 Việt Sử Toàn Thư 

 XX. Nhà Hậu Lê (Lê trung hưng 1533 - 1788)  bị gián đoạn từ 1527 - 1532 do nhà Mạc soán ngôi 

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu VN 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Lê Trang Tông (Lê Duy Ninh) Nguyên Hòa 1533-1548 Minh Thế Tông 

2. Lê Trung Tông (Lê Huyên) Thuận Bình 1549-1556 Minh Thế Tông 

3. Lê Anh Tông (Lê Duy Bang) Thiên Hựu 1557-1573 Minh Thế Tông 

4. Lê Thế Tông (Lê Duy Đàm) Gia Thái 1573-1599 Minh Thần Tông 

5. Lê Kính Tông (Lê Duy Tân) Thuận Đức 1600-1619 Minh Thần Tông 

6. Lê Thần Tông (Lê Duy Kỳ) Vĩnh Tộ 1619-1643 Minh Thần Tông 

7. Lê Chân Tông (Lê Duy Hựu) Phúc Thái 1643-1649 Minh Tư Tông 

Lê Thần Tông (Lê Duy Kỳ lần 2) Khánh Đức 1649-1662 Thanh Thế Tổ 

8. Lê Huyền Tông (Lê Duy Vũ) Cảnh Trị 1663-1671 Thanh Thánh Tổ 

9. Lê Gia Tông (Lê Duy Hợi) Dương Đức 1672-1675 Thanh Thánh Tổ 

10. Lê Hy Tông (Lê Duy Hợp) Vĩnh Trị 1676-1705 Thanh Thánh Tổ 

11. Lê Dụ Tông (Lê Duy Đường) Vĩnh Thịnh 1705-1729 Thanh Thánh Tổ 

12. Lê Đế (Lê Duy Phường) Vĩnh Khánh 1729-1732 Thanh Thế Tông 

13. Lê Thuần Tông (DuyTường Long Đức 1732-1735 Thanh Thế Tông 

14. Lê Ý Tông (Lê Duy Thìn) Vĩnh Hựu 1735-1740 Thanh Thế Tông 

15. Lê Hiển Tông (Lê Duy Diêu) Cảnh Hưng 1740-1786 Thanh Cao Tông 

16. Lê Mẫn Đế (Lê Duy Kỳ) Chiêu Thống 1787-1788 Thanh Cao Tông 

XI. Nhà Tây Sơn (1778 - 1802) Kinh đô: Phú Xuân (Huế) 

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu VN 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Nguyễn Nhạc Thái Đức 1778 - 1793 Thanh Cao Tông 

2. Nguyễn Huệ  Quang Trung 1788 - 1792 Thanh Cao Tông 

3. Nguyễn Quang Toản Cảnh Thịnh 1793 - 1802 Thanh Nhân Tông 

518 Việt Sử Toàn Thư 

XXII. Nhà Nguyễn (1802 - 1945) Quốc hiệu: Việt Nam, Đại Nam (từ Minh Mạng) Kinh đô:  Huế  

Triều đại Việt Nam 

Niên Hiệu 

Dương Lịch 

Triều đại Tr. Hoa 

1. Nguyễn Thế Tổ      (Nguyễn Phúc Ánh) Gia Long 1802 - 1820 Thanh Nhân Tông 

2. Nguyễn Thánh Tổ      (Nguyễn Phúc Đảm) Minh Mạng 1820 - 1840 Thanh Nhân Tông 

3. Nguyễn Hiến Tổ      (Nguyễn Miên Tông) Thiệu Trị 1841 - 1847 Thanh Tuyên Tông 

4. Nguyễn Dục Tông      (Nguyễn Hồng Nhiệm) Tự Đức 1847 - 1883 Thanh Tuyên Tông 

5. Nguyễn Dục Đức      (Nguyễn Ưng Chân) Dục Đức 1883 (3 ngày) Thanh Đức Tông 

6. Nguyễn Hiệp Hòa      (Nguyễn Hồng Dật) Hiệp Hòa 1883 (6 tháng) Thanh Đức Tông 

7. Nguyễn Giản Tông      (Nguyễn Ưng Đăng) Kiến Phúc 1883 - 1884 Thanh Đức Tông 

8. Nguyễn Hàm Nghi      (Nguyễn Ưng Lịch) Hàm Nghi 1884 - 1885 Thanh Đức Tông 

9. Nguyễn Cảnh Tông      (Nguyễn Ưng Xụy) Đồng Khánh 1886 - 1888 Thanh Đức Tông 

10. Nguyễn Thành Thái       (Nguyễn Bửu Lân) Thành Thái 1889 - 1907 Thanh Đức Tông 

11. Nguyễn Duy Tân        (Nguyễn Vĩnh San) Duy Tân 1907 - 1916 Thanh Đức Tông 

12. Nguyễn Hoằng Tông        (Nguyễn Bửu Đảo) Khải Định 1916 - 1925 Trung Hoa Dân Quốc 

13. Nguyễn Bảo Đại        (Nguyễn Vĩnh Thụy) Bảo Đại 1926 - 1945 Trung Hoa  Dân Quốc 

519 Việt Sử Toàn Thư 

Phụ Lục 2 Thế Phả Họ Nguyễn 

Các Chúa Nguyễn 

Niên Hiệu 

Dương Lịch 

Vua Nhà Lê 

1. Triệu Tổ          Nguyễn Kim Chiêu Huân  Tĩnh Công 1533 - 1545 Lê Trang Tông 

2. Thái Tổ          Nguyễn Hoàng Chúa Tiên 1558 - 1612 Lê Anh Tông 

3. Hy Tông          Nguyễn Phúc Nguyên Chúa Sãi 1613 - 1634 Lê Kính Tông 

4. Thần Tông          Nguyễn Phúc Lan Chúa Thượng 1635 - 1648 Lê Thần Tông 

5. Thái Tông          Nguyễn Phúc Tần Chúa Hiền 1648 - 1687 Lê Chân Tông 

6. Anh Tông          Nguyễn Phúc Thái Chúa Nghĩa 1687 - 1691 Lê Hy Tông 

7. Hiển Tông          Nguyễn Phúc Chu Chúa Quốc 1691 - 1725 Lê Hy Tông 

8. Túc Tông          Nguyễn Phúc Thụ Ninh Vương 1725 - 1738 Lê Dụ Tông 

9. Thế Tông          Nguyễn Phúc Khoát Võ Vương 1738 - 1765 Lê Ý Tông 

10. Duệ Tông          Nguyễn Phúc Thuần Định Vương 1765 - 1777 Lê Hiển Tông 

520 Việt Sử Toàn Thư 

 Phụ Lục 3 

Thế Phả Họ Trịnh 

Các Chúa Trịnh 

Niên Hiệu 

Dương Lịch 

Vua Nhà Lê 

1. Thế Tổ        Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm 1545-1569 Lê Trang Tông 

2. Bình An Vương Trịnh Tùng 1570-1623 Lê Anh Tông 

3. Thanh Đô Vương Trịnh Tráng 1623-1657 Lê Thần Tông 

4. Tây Đô Vương Trịnh Tạc 1657-1682 Lê Thần Tông 

5. Định Vương Trịnh Căn 1682-1709 Lê Hy Tông 

6. An Đô Vương Trịnh Cương 1709-1729 Lê Dụ Tông 

7. Uy Nam Vương Trịnh Giang 1729-1740 Lê Duy Phường 

8. Minh Đô Vương Trịnh Doanh 1740-1767 Lê Ý Tông 

9. Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm 1767-1782 Lê Hiển Tông 

10. Điện Đô Vương Trịnh Cán  (2 tháng) Lê Hiển Tông 

11. Đoan Nam Vương Trịnh Khải 1782-1786 Lê Hiển Tông 

12. Án Đô Vương Trịnh Bồng 1787-1788 Lê Mẫn Đế 

(Hết)- [email protected]

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: