Trung Đại
TRUNG ĐẠI
(Thế kỉ X - XVIII)
Bộ máy nhà nước
Ngoại xâm
Văn hóa
Lê sơ
Đối ngoại
Kinh tế
NGOẠI XÂM
A. CÂU HỎI
I. Kháng chiến chống Tống thời Lý
* Câu 1: Thông qua những sự kiện lịch sử trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075-1077) hãy làm rõ: Vì sao Lý Thường Kiệt lại chủ động tiến công địch ngay trên đất Tống (Vì sao thực hiện chiến lược Tiên phát chế nhân)?
* Câu 2: Trình bày ngắn gọn cuộc kháng chiến chống Tống trên sông Như Nguyệt?
* Câu 3: Vì sao sau khi đánh bại quân Tống rồi, Lý Thường Kiệt lại cho quân sang bàn hòa để kết thúc chiến tranh?
* Câu 4: Nét độc đáo trong cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý.
* Câu 5: Tư tưởng chủ động của nhà Lý trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Tống (1075 - 1077) để bảo vệ nền độc lập dân tộc đã được thể hiện như thế nào?
II. Kháng chiến chống Mông – Nguyên thời Trần
* Câu 6: Anh chị hiểu thế nào là hào khí Đông A? Hào khí Đông A được biểu hiện như thế nào trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của quân và dân Đại Việt? Theo anh chị, tinh thần hào khí Đông A được kế thừa như thế nào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay?
* Câu 7: Nhà Trần đã làm gì để huy động sức mạnh toàn dân trong kháng chiến chống Mông – Nguyên TK XIII? Nhân dân đã hưởng ứng quyết tâm của nhà Trần như thế nào?
* Câu 8: Vì sao nhân dân ta thời kì này sẵn sáng đoàn kết với triều đình để bảo vệ độc lập dân tộc?
* Câu 9: Nguyên nhân thất bại của quân Mông – Nguyên.
* Câu 10: Nghệ thuật quân sự của ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên.
* Câu 11: Cách đánh giặc của nhà Trần trong cuộc kháng chiến lần thứ ba có gì giống và khác lần thứ hai? Bài học của ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên dưới thời Trần là gì?
III. Khởi nghĩa Lam Sơn
* Câu 12: Phân tích đặc điểm của khởi nghĩa Lam Sơn.
* Câu 13: Phân tích cuộc đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao để kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh của nghĩa quân Lam Sơn thế kỷ XV (1418 – 1427)?
* Câu 14: Trình bày nguyên nhân thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn. Từ đó nhận xét về sự nghiệp giải phóng đất nước của nghĩa quân Lam Sơn.
* Câu 15: Mục đích và tính chất (1418 – 1427) thể hiện qua bài “Phú núi Chí Linh” của Nguyễn Trãi: “ Đến như thần võ không giết, đức lớn hiếu sinh, nghĩ về kế lâu dài của nhà nước. Tha hàng mười vạn sĩ binh, sửa hòa hiếu cho hai nước, tắt muôn đời chiến tranh. Chỉ cần vẹn đất, cốt sao cho an ninh”.
IV. Phong trào Tây Sơn
* Câu 16: Hãy đánh giá vai trò của phong trào Tây Sơn đối với sự phát triển của dân tộc ta?
* Câu 17: Chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa của nghĩa quân Tây Sơn năm 1789 là một chiến công vĩ đại, hiển hách trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Em hãy nêu hiểu biết về thắng lợi này của quân dân ta? Thông qua diễn biến cuộc tiến công đại phá quân Thanh, hãy nêu bật sự sáng suốt, tài năng của bộ chỉ huy nghĩa quân Tây Sơn đứng dầu là vua Quang Trung?
V. Tổng hợp
* Câu 18: Nêu những đặc điểm cơ bản trong truyền thống đánh giặc cứu nước của dân tộc ta (X – XVII). Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng như thế nào trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1946 – 1954.
* Câu 19: Chứng minh “chiến tranh nhân dân” là yếu tố quan trọng đưa đến sự thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
* Câu 20: So sánh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm dưới thời Lí – Trần theo các tiêu chí: điều kiện lịch sử, phương thức tiến hành, cách kết thúc chiến tranh.
* Câu 21: Từ thực tiễn lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam trong suốt quá trình dựng và giữ nước. Hãy phân tích và làm rõ nhận định “chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc là nét nổi bật trong truyền thống yêu nước của Việt Nam?
* Câu 22: Có ý kiến cho rằng: “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong các thế kỷ X - XV đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các cuộc đấu tranh ở giai đoạn sau này”. Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
* Câu 23: Bằng các sự kiện lịch sử, em hãy chứng minh lòng yêu nước, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc của toàn dân, toàn quân ta qua các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược thời Lý -Trần từ thế kỉ XI – XIII.
B. TRẢ LỜI
I. Kháng chiến chống Tống thời Lí
1. Thông qua những sự kiện lịch sử trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075-1077) hãy làm rõ: Vì sao Lý Thường Kiệt lại chủ động tiến công địch ngay trên đất Tống (Vì sao Lý Thường Kiệt thực hiện tiên phát chế nhân)?
* Nguyên nhân
- Đại Việt đang đứng trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, để mở rộng và củng cố quyền lực của mình ở trong nước, nhà Tống đã âm mưu tiến hành xâm lược Đại Việt. Mặc dù năm 981 nhà Tống đã thất bại trong cuộc xâm lược Đại Cồ Việt nhưng vua Tống lần này vẫn quyết tâm xâm lược Đại Việt theo đề nghị của Tể tướng Vương An Thạch. Công cuộc xâm lược Đại Việt được tiến hành khẩn trương. Các viên quan Hoa Nam rèn vũ khí, tích trữ lương thảo. Khu vực Hoa Nam là vùng giáp với biên giới Đại Việt.
- Nguy cơ Đại Việt bị nhà Tống xâm lược ngày càng rõ, quân dân ta đã thấy được âm mưu xâm lược của nhà Tống và phải chủ động đối phó, phải ngăn chặn và làm chậm, suy yếu cuộc xâm lược của nhà Tống.. Đại Việt lúc này đang ở giai đoạn thịnh trị có khả năng chủ động đối phó, Lý Thường Kiệt đã đề ra chủ trương “ngồi yên đợi gặc không bằng đem quân ra đánh trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Đây chính là tư tưởng chủ động tiến công làm địch suy yếu, giành thế chủ động cho ta. Lý Thường Kiệt đã chủ động đánh địch ngay trên đất Tống với chiến lược “tiên phát chế nhân”, lực lượng quân chủ lực cùng các dân binh của dân tộc miền núi tiến lên phía Bắc vào 1075, quân dân Đại Việt đánh Châu Khâm, Châu Liêm, rồi tập trung vây thành Ung Châu đánh tan hoàn toàn âm mưu xâm lược của nhà Tống rồi rút về nước.
* Lý Thường Kiệt cho người sang bàn kết thúc chiến tranh:
– Quân dân Đại Việt đã đánh bại quân Tống giành thắng lợi quân sự, nhà Tống đại diện là 1 nước lớn, thất bại về quân sự trước Đại Việt là 1 nước nhỏ là một sự mất mặt, họ sẽ trả thù. Biết trước được điều này và để giữ độc lập lâu dài, tạo sự hòa hiếu 2 nước, tắt muôn đời ngọn lửa chiến tranh, giảm tổn thất hi sinh cho quân dân Đại Việt, lại bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc, Lý Thường Kiệt đã chủ động cho ngườ sang gặp tướng Tống bàn hòa để rút về nước trong danh dự.
- Đây chính là nghệ thuật kết thúc chiến tranh độc đáo của nhà Lý biết kết hợp vừa đánh vừa đàm, kết hợp biện pháo đấu tranh quân sự và ngoại giao, lấy đại cuộc làm chính, lùi một bước nhưng giành thắng lợi lớn hơn, độc lập lâu dài cho đất nước là trên hết, là mục tiêu cao nhất.
2. Trình bày ngắn gọn cuộc kháng chiến chống Tống trên sông Như Nguyệt? Vì sao sau khi đánh bại quân Tống rồi, Lý Thường Kiệt lại cho quân sang bàn hòa để kết thúc chiến tranh?
- Mặc dù toàn bộ lực lượng chuẩn bị xâm lược Đại Việt của nhà Tống đã bị tiêu diệt nhưng nhà Tống vẫn tiếp tục quyết tâm xâm lược nước ta. Vào tháng 1 – 1077, nhà Tống đã huy động khoảng 3 vạn quân tràn sang Đại Việt.
- Biết trước nhà Tống sẽ không từ bỏ nên nhà Lý sau khi thực hiện thành công cuộc hành quân Tiên phát chế nhân đã về nước chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống xâm lược. Lý Thường Kiệt đã cho xây dựng tuyến phòng thủ trên sông Như Nguyệt bởi vì đây là vị trí rất quan trọng, là chỗ gặp nhau của tuyến đường Bắc – Nam, và Lý Thường Kiệt cũng biết chắc quân Tống sẽ đi qua nơi này.
- Khi đạo quân Tống đến bờ Bắc sông Như Nguyệt, đóng quân để chờ đạo quân thủy để cùng qua sông, nhưng đạo quân thủy đã bị nhà Lý đánh tan tác ở của sông Bạch Đằng.
- Khi quân Tống rơi vào thế suy yếu, chán nản, ốm đau nhiều và ý chí xâm lược bị suy giảm thì đây chính là thời cơ để quân Đại Việt đánh bại quân Tống. Quách Quỳ đã 2 lần cho quân vượt sông nhưng đều bị đánh bại. Bài thơ Thần mà Lý Thường Kiệt cho quân Đại Việt đọc đã khẳng định ý chí độc lập và tự chủ của dân tộc, đồng thời khích lệ tinh thần chiến đầu của quân Đại Việt.
- Vào tháng 3 – 1077, Lý Thường Kiệt đã tổ chức trận đánh quyết định để tiêu diệt địch, giành thắng lợi hoàn toàn.
3. Vì sao sau khi đánh bại quân Tống rồi, Lý Thường Kiệt lại cho quân sang bàn hòa để kết thúc chiến tranh?
- Sau khi quân dân Đại Việt đã đánh bại quân Tống, giành thắng lợi về quân sự, biết trước Nhà Tống – đại diện cho một nước lớn, thất bại về quân sự trước Đại Việt là một sự “mất mặt” và họ sẽ trả thù. Do vậy mà để giữ gìn độc lập cho đất nước lâu dài, để tạo sự hòa hiếu giữa 2 nước, tách muôn đời chiến tranh, giảm tổn thất hi sinh cho quân dân Đại Việt, lại bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, độc lập tự chủ cho dân tộc, Lý Thường Kiệt đã chủ động cho người sang gặp tướng Tống để “bàn hòa”, để cho quân Tống rút về nước trong “danh dự”.
- Đây chính là nghệ thuật kết thúc chiến tranh độc đáo của quân dân nhà Lý, biết kết hợp vừa đánh vừa đàm, kết hợp biện pháp quân sự với biện pháp ngoại giao, lấy đại cuộc làm chính, lùi một bước nhưng giành thắng lợi lớn hơn, độc lập lâu dài cho đất nước là trên hết, và đây là mục tiêu cao nhất.
4. Nét độc đáo trong cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý.
Nét độc đáo trong việc chủ động kháng chiến, đẩy địch vào thế bị động, giành thế chủ động ngay từ đầu.
- Âm mưu của nhà Tồng:
+ Nhà Tống gặp những khó khăn trong nước (các cuộc khởi nghĩa nông dân, nội bộ xào xáo, các nước Liêu, Hạ quấy nhiễu,…). Vì thế, nhà Tống đã chọn cách tấn công Đại Việt nhằm tạo thêm thế và lực.
+ Tống câu kết, lôi kéo Champa ở phái Nam để tạo thế gọng kìm.
- Kế hoạch của nhà Lý, đặc biệt là Lý Thường Kiệt:
+ Tiên phát chế nhân: chủ động tấn công sang đất Tống, đánh vào Khảm Châu, Liêm Châu… và liên kết với các dân tộc thiểu số Bài học về sự đoàn kết dân tộc. Quân ra tấn công xuống phía Nam để phá vỡ âm mưu của nhà Tống trong việc câu kết với Champa.
+ Chủ động xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt và mở trận chiến quyết định:
Xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt nhằm ngăn chặn quân Tống vào Thăng Long (nhà Tống là thế lực ngoại xâm duy nhất bị chặn ở địa phương không vào được kinh thành của Đại Việt).
Chủ động phản công quân Tống trên phòng tuyến sông Như Nguyệt, kết hợp sử dụng tâm lí chiến với bào thơ thần “Nam quốc sơn hà”.
Đây được coi như một lời kêu gọi, lời hiệu triệu hiệu quả nhất để đoàn kết quân dân đánh giặc. Phản công và giành thắng lợi.
+ Nghệ thuật độc đáo trong kết thúc chiến tranh: đẩy địch vào thế tiến thoái lưỡng nan, đại bại rồi chủ động giảng hòa.
Tính nhân văn ngay cả với kẻ thù.
Thể hiện mong muốn hòa bình, quan hệ hòa hảo giữa hai nước trong quan hệ ngoại giao.
=> Để lại cho hậu thế nhiều bài học kinh nghiệm quý giá trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh.
5. Tư tưởng chủ động của nhà Lý trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Tống (1075 - 1077) để bảo vệ nền độc lập dân tộc đã được thể hiện như thế nào?
* Chủ động tấn công trước để phá tan sự chuẩn bị xâm lược của nhà Tống:
- Trước âm mưu của nhà Tống, Lý Thường Kiệt không bị động chờ giặc mà quyết định tấn công trước để đẩy giặc vào thế bị động với tư tưởng “tiên phát chế nhân”…
- Năm 1075, Lý Thường Kiệt đã chỉ huy 10 vạn quân vượt biên giới sang đất Tống tấn công Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Ung; đánh tan hoàn toàn sự chuẩn bị của nhà Tống, sau đó nhanh chóng rút về nước.
* Chủ động xây dựng phòng ngự, phòng tuyến chặn giặc:
- Sau khi về nước, Lý Thường Kiệt đã cho chuẩn bị sẵn thế trận đánh giặc mà quan trọng nhất là lập phòng tuyến sông Như Nguyệt…
* Chủ động tiến công:
- Năm 1077, Quách Quỳ đã chỉ huy 30 vạn quân xâm lược nước ta và vấp phải phòng tuyến kiên cố của nhà Lý.
- Lý Thường Kiệt đã chỉ huy quân dân chủ động kết hợp giữa những cuộc công kích nhỏ với những trận quyết chiến đẩy địch vào thế bị động.
* Chủ động kết thúc chiến tranh:
- Khi quân Tống ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, ý chí xâm lược bị đè bẹp thì Lý Thường Kiệt đã chủ động đề nghị giảng hòa để kết thúc chiến tranh.
II. Chống Mông - Nguyên thời Trần
6. Anh chị hiểu thế nào là hào khí Đông A? Hào khí Đông A được biểu hiện như thế nào trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của quân và dân Đại Việt? Theo anh chị, tinh thần hào khí Đông A được kế thừa như thế nào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay?
Dưới sự chỉ huy của nhà quân sự thiên tài Trần Hưng Đạo và các vua Trần cùng với lòng yêu nước của hàng loạt các tướng lĩnh tài năng, cả nước quân và dân quyết tâm chống giặc bảo vệ tổ quốc. Kinh thành Thăng Long ba lần vó ngựa Mông - Nguyên giày xéo nhưng với tinh thần “ Sát Thát”, quân dân Đại Việt đã đánh bại quân xâm lược. Trận chiến này còn thể hiện một tinh thần hào khí Đông A được lưu truyền đến ngàn đời sau.
Hào khí Đông A là hào khí nhà Trần, sở dĩ nói như vậy vì:
Thứ nhất, theo lối chiết tự, chữ Trần được ghép từ chữ Đông và chữ A nên được gọi là hào khí Đông A.
Thứ hai, theo nhiều nhà nghiên cứu và khách quan lịch sử, nhà Trần là triểu đại phong kiến đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có thể nhận được sự đồng tâm, sự đoàn kết, nhất trí từ vua đến triều thần, từ trên xuống dưới, từ quân đến dân, từ già đến trẻ, từ trai đến gái. Lần đầu tiên, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được phát huy một cách triệt để, tất cả người dân Đại Việt đều đồng lòng vì nghĩa lớn với tinh thần yêu nước bất khuất, quyết tâm chống giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc.
Như vậy, hào khí Đông A không chỉ là nét chữ theo lối chiết tự mà còn là tinh thần bất khuất, dũng cảm, quyết chiến quyết thắng của nhân dân ta, của quân – thần – dân thời nhà Trần. Đó là sức mạnh vô hình, là sợi chỉ xuyên suốt chiều dài của triều đại, của nước Việt thời nhà Trần.
Hào khí ấy được thể hiện ở tinh thần yêu nước, ý chí chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia. Vào thế kỷ XIII, quân Mông – Nguyên ba lần kéo quân sang xâm lược nước ta nhưng đều gặp phải thất bại. Với tinh thần đoàn kết toàn dân của nhà Trần và sự lãnh đạo của các tướng lĩnh, tất cả người dân Đại Việt đều đồng lòng đứng lên quyết tử để bảo vệ tổ quốc.
Tinh thần đoàn kết – hào khí Đông A của nhân dân ta được biểu hiện ở hội nghị Bình Than – Hội nghị của các vương hầu, quý tộc, các tướng lĩnh trong triều đình nhằm thắt chặt khối đoàn kết quyết tâm đánh giặc trong giới lãnh đạo đất nước, nhận ra vai trò của mình trong việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc vào năm 1282. Trên cơ sở này, năm 1285, Hội nghị Diên Hồng được triệu tập gồm các bậc bô lão đại diện cho toàn dân, tạo cơ sở vững chắc để xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Khi nhà vua hỏi nên đánh hay nên hòa, các bô lão đều hô “Đánh”, muôn người nhưng chung một ý nghĩ, chung một lòng yêu nước hướng về tổ quốc. Một tiếng hô này cũng là tấm lòng của mọi người dân đất nước Đại Việt.
Hay trong Hịch tướng sĩ - bài hịch ủng hộ tinh thần chiến đấu của quân sĩ, Trần Quốc Tuấn viết: “Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù……” đã thể hiện tinh thần yêu nước cùng với lòng căm thù quân giặc với những tội ác của chúng, ý chí quyết chiến quyết thắng của quân dân Đại Việt.
Trước khi mất, Hưng đạo Vương Trần Quốc Tuấn có để lại quốc sách giữ nước cho vua Trần Anh Tông, có viết rằng: “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa một, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt, nên khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, và đó là thượng sách giữ nước của ta.”
Vượt qua những khó khăn, thử thách, Bộ chỉ huy kháng chiến có lúc bị ghìm chặt, nhưng với tinh thần Sát thát và thực hiện “Kế thanh dã”, quân dân nhà Trần đã có những thắng lợi to lớn vang danh lịch sử như: Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Tây Kết và đỉnh cao là chiến thắng sông Bạch Đằng. Những thắng lợi này sẽ mãi đi vào lịch sử như một minh chứng của truyền thống yêu nước bất khuất, quật cường của dân tộc.
Tinh thần hào khí Đông A trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc của dân tộc ta không chỉ có ý nghĩa lịch sử to lớn mà còn rất quan trọng trên chặng đường lịch sử tiếp theo của dân tộc ngày nay. Vị thế của nước ta hiện nay đã có nhiều thay đổi, trong bối cảnh và thời kì mới với nhiều thách thức mới. Với vị trí chiến lược hết sức quan trọng của nước ta, chủ quyền biên giới và hải đảo vẫn luôn bị các thế lực bên ngoài đe dọa. Trung Quốc từ xua đến nay vẫn luôn có tham vọng bành trướng lãnh thổ, xâm chiếm biển Đông. Vì vậy, việc phát tinh thần hào khí Đông A của cha ông ta là hết sức cần thiết. Hơn bao giờ hết, dân tộc ta phải thực hiện và phát huy được khối đại đoàn kết dân tộc, trên dưới đồng lòng, phát huy tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thể hiện sức mạnh của dân tộc.
Dân tộc ta đang trong quá trình hội nhập quốc sâu rộng có nhiều thời cơ và thách thức đặt ra: các trào lưu văn hóa lớn trên thế giới ảnh hưởng tác động đến văn hóa truyền thống dân tộc, nhiều vấn đề mang tính toàn cầu gây bất lợi cho việc giữ gìn văn hóa truyền thống, bản sắc văn hóa, di sản. Sự phát triển khoa học – kĩ thuật cùng thời gian đã làm phai mờ đi những phong tục, tập quán lâu đời của dân tộc ta. Trong xu thế này, người Việt Nam cần đề cao lòng tự hào và tự tôn dân tộc, tinh thần quật cường của cha ông ta. Ta cần đảm bảo quy tắc: hòa nhập chứ không hòa tan, đảm bảo phát huy văn hóa truyền thống hội nhập với văn hóa quốc tế. Ngược lại, phải biết chọn lọc những thành tựu khoa học – kĩ thuật tiên tiến để học hỏi, tiếp thu một cách có chọn lọc, đồng thời giữ gìn được truyền thống văn hóa của dân tộc, phát huy tối đa tinh thần hào khí Đông A – niềm tự hào của dân tộc ta.
Xã hội ngày nay là một môi trường học tập có nhiều điều kiện thuận lợi. Vì vậy, chúng ta cần giáo dục, tuyên truyền giới trẻ học tập, bảo tồn và giữ gìn văn hóa truyền thống của cha ông để lại. Ngoài ra, cần thực hiện tốt công tác bảo vệ, bảo tồn những di sản, di tích lịch sử, văn hóa dân tộc. Với vai trò là một người học sinh, ta cần trau dồi văn hóa, tri thức để trở thành người công dân tốt với đất nước, góp phần xây dựng dân giàu – nước mạnh.
7. Nhà Trần đã làm gì để huy động sức mạnh toàn dân trong kháng chiến chống Mông – Nguyên TK XIII? Nhân dân đã hưởng ứng quyết tâm của nhà Trần như thế nào?
Trong thế kỷ XIII, Mông – Nguyên đã tung hoành khắp trên thế giới, chinh phục nhiều cường quốc nhưng lại phải cúi đầu trước quân dân nhà Trần. Mông – Nguyên đã ba lần đem quân xâm lược nước ta nhưng chưa một lần thành công. Sở dĩ Đại Việt – một nước không lớn, dân không đông nhưng đánh bại được một đế quốc hùng mạnh và bậc nhất thế giới nửa sau thế kỷ XIII là do nhà Trần đã huy động được sức mạnh của toàn dân tộc để huy động được sức mạnh của toàn dân để tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống giặc xâm lược.
Đoàn kết toàn dân, thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân là kêu gọi, tập hợp lực lượng nhân dân, tạo thế trận quy tụ sức mạnh to lớn của nhân dân để áp đảo kẻ thù về mọi mặt, dùng sức mạnh của nhân dân để đập tan ý chí xâm lược của kẻ thù.
Từ cổ chí kim, muốn chiến thắng kẻ thù thì cần phải đoàn kết được toàn dân. Vua tôi nhà Trần đã nhận thức được sức mạnh của nhân dân: Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân. Vì vậy nhà Trần đã “khoan thư sức dân” để làm kế “sâu gốc bền rễ.” Chính sách này đã tạo dựng, củng cố niềm tin của nhà Trần trong lòng mỗi người dân Đại Việt. Nhờ vậy mà đến khi tổ quốc bị xâm lăng, nhân dân đã hưởng ứng nhiệt tình sự lãnh đạo kháng chiến của nhà Trần, không chút do dự đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân.
Nhà Trần đã xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết từ trong triều đình, coi đó là hạt nhân của khối đoàn kết toàn dân. Trong đó, quý tộc, vương hầu nhà Trần đặt quyền lợi dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, gác lại nỗi bất hòa và sự mâu thuẫn trong nội bộ: Trần Quốc Tuấn đã chủ động hòa giải mâu thuẫn với Trần Quang Khải, từ đó củng cố khối đoàn kết trong giới lãnh đạo cuộc kháng chiến. Ngoài ra, để đoàn kết vua tôi, các quan lại và các tướng lĩnh, đồng thời củng cố quyết tâm đánh giặc trong triều đình, vua Trần đã tổ chức Hội nghị Bình Than vào năm 1282 – một Hội nghị cấp cao của triều đình thể hiện sự đoàn kết, quyết tâm của giới lãnh đạo sau đó được mở rộng ra toàn dân.
Nếu như Hội nghị Bình Than nhằm mở rộng khối đoàn kết toàn dân, xây dựng ý chí đánh giặc thì vào năm 1285, Hội nghị Diên Hồng được triệu tập gồm các bậc bô lão đại diện cho toàn dân, tạo cơ sở vững chắc để xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Khi nhà vua hỏi nên đánh hay nên hòa, các bô lão đều hô “Đánh”, muôn người nhưng chung một ý nghĩ, chung một lòng yêu nước hướng về tổ quốc. Hội nghị đã thể hiện sự đoàn kết nhất trí và quyết tâm cao của toàn dân trong cuộc kháng chiến.
Với một triều đình trên vua – tôi đồng lòng như thế, nhân dân cả nước cũng nhiệt liệt hưởng ứng cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên, quyết tâm giữ vững độc lập dân tộc.
Tất cả từ người dân đến các tướng lĩnh đều chung ý chí quyết tâm đánh giặc, điều đó thể hiện qua việc trên tay các tướng sĩ đều khắc chữ Sát Thát. Đồng thời, còn thể hiện qua câu nói của Trần Thủ Độ: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”, quyết tâm của Trần Quốc Tuấn: “Nếu bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu thần trước”, hay của Trần Bình Trọng: “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vua đất Bắc”. Tất cả đã gieo niềm tin cho vua, cho nhân dân, thúc đẩy nhân dân đoàn kết và quyết tâm chống giặc.
Nhân dân đã hưởng ứng và thực hiện “Kế thanh dã” của nhà Trần, điều này đã góp phần làm suy yếu thế của giặc, quân giặc đi tới đâu nếu không bị đánh thì cũng chỉ thấy cảnh vườn không nhà trống và không thể lấy chiến tranh nuôi chiến tranh được. “Kế thanh dã” đã thể hiện tính nhân dân rất sâu sắc của cuộc kháng chiến
Tính nhân dân trong được thể hiện trong các trận đánh: nhân dân đã phá cầu đường để ngăn bước tiến của quân giặc, để tách đạo kị binh của Trình Toàn Phi ra khỏi đạo quân thủy trong cuộc kháng chiến lần 3, lực lượng dân binh ở các địa phương có chiến sự đã phối hợp chiến đấu với quân đội triều đình, những người dân bình thường cũng góp sức cho cuộc kháng chiến bằng khả năng của mình. Ví như bà hàng nước đã chỉ cho Trần Quốc Tuấn biết quy luật lên xuống của con nước ở sông Bạch Đằng để ông bố trí trận địa mai phục và nhân dân đã phối hợp, giúp đỡ, góp sức cùng quân đội nhà Trần xây dựng trận địa mai phục trên sông Bạch Đằng.
Như vậy, với một tinh thần, ý chí quyết chiến quyết thắng cùng sự đoàn kết toàn dân, ta đã ba lần chiến thắng quân Mông – Nguyên xâm lược. Điều này cho thấy sức mạnh toàn dân đã làm nên tất cả, được Trần Quốc Tuấn tổng kết lại sau khi toàn quân thắng: “Bấy giờ, Toa đô Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây nhưng nhờ vua tôi đồng lòng, anh em hòa một, cả nước góp sức nên quân giặc phải bị bắt.” Sức mạnh toàn dân còn được xem là một bài học kinh nghiệm quý báu, trở thành truyền thống trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc.
8. Vì sao nhân dân ta thời kì này sẵn sáng đoàn kết với triều đình để bảo vệ độc lập dân tộc?
- Đấu tranh để bảo vệ quê hương, đất nước là truyền thống của dân tộc, không chịu khuất phục trước bất kì kẻ thù nào. Khi đất nước có ngoại xâm sẵn sàng gác mối thù giai cấp để bảo vệ độc lập dân tộc.
- Triều đại nhà Trần có những chính sách tiến bộ quan tâm đến phát triển kinh tế đất nước về mọi mặt… từ đó tạo niềm tin cho nhân dân quyết tâm bảo vệ độc lập để có được cuộc sống mới.
- Khi đất nước có ngoại xâm nhà Trần biết đoàn kết vua tôi, đoàn kết tướng sỹ… làm cơ sở để tập hợp, đoàn kết nhân dân cả nước.
9. Nguyên nhân thắng lợi của quân dân Đại Việt trong kháng chiến chống Mông – Nguyên (Sự thất bại của quân Mông – Nguyên)
- Quân Nguyên – Mông trong thế kỷ XIII đã chinh phục Trung Quốc, một số nước Đông Nam Á, Trung Á, nhưng cả 3 lần xâm lược Đại Việt đều bị quân dân nhà Trần đánh bại và phải rút về nước vào các năm 1258, 1285, 1288.
a) Sở dĩ 3 lần xâm lược Đại Việt, quân Nguyên - Mông đều thất bại là vì:
- Lòng yêu nước, quyết tâm giữ gìn độc lập dân tộc của quân dân hoàng tộc dưới thời Trần dưới sự lãnh đạo của vua tôi nhà Trần.
- Sự quyết tâm bảo vệ đất nước của các tầng lớp nhân dân, của hoàng tộc nhà Trần được phát huy cao độ. Khi nghĩ đến việc giặc đến xâm lược, Trần Quốc Toản bóp nát quả cam trên tay lúc nào không biết, Trần Hưng Đạo thể hiện ý chí của mình trong lời hịch “Ta thường tới bữa quên ăn….chỉ căm giận chưa lột da, ăn gan, uống máu quân thù, dẫu trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng yên lòng.”
- Sức mạnh đoàn kết toàn dân, tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân dân nhà Trần.
+ Sự đoàn kết trên dưới một lòng của vua tôi nhà Trần đã tạo nên sức mạnh của dân tộc. Điều ấy thể hiện qua Hội nghị Bình Than của vua tôi nhà Trần, Hội nghị Diên Hồng của các vị bô lão trong cả nước. Quý tộc, vương hầu nhà Trần chủ động giải quyết, gác lại mâu thuẫn trong nội bộ: mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dòng tộc, đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết. Đó là hạt nhân của khối đoàn kết dân tộc.
+ Tất cả từ người dân đến các tướng lĩnh đểu mang một quyết tâm quyết chiến quyết thắng, có tinh thần chiến đấu dũng cảm. Quyết tâm ấy thể hiện ở việc các binh sĩ và tướng lĩnh đều khắc lên tay chữ “Sát thát”. Trần Thủ Độ đưa ra quyết tâm để yên lòng nhà vua: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo.”. Gương chiến đấu dũng cảm của tướng trẻ Trần Quốc Toản với lá cờ “Phá cường địch, báo hoàng ân”, và thông điệp hành động của Trần Bình Trọng: “Ta thà làm quỷ đất nam còn hơn làm vua đất bắc”. Trần Quốc Tuấn cũng đưa ra quyết tâm chiến đấu đến cùng không đầu hàng giặc: “Nếu bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu thần trước”, lòng trung kiên của Yết Kiêu Dã Tượng.
- Do tài thao lược của bộ chỉ huy kháng chiến, đứng đầu là Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn và các tướng lĩnh như Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão,…Tất cả họ đã:
+ Xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân, dựa vào sức dân, cả nước đứng dậy, cầm vũ khí, gậy gộc chiến đấu.
+ Thực hiện chiến lược, chiến thuật linh hoạt, chủ động, sáng tạo và hiệu quả, tránh lúc kẻ thù mạnh, bỏ thành giữ thế, bảo toàn lực lượng. Ngoài ra còn thực hiện kế “Thanh dã”, buộc địch phải chuyển từ thế mạnh sang thế yếu, từ chủ động sang bị động. Vua tôi nhà Trần chỉ huy quân Đại Việt tiến công địch khắp nơi, có những trận đánh then chốt, quyết định cục diện chiến tranh như trận đánh trên sông Bạch Đằng 1288.
+ Vua tôi nhà Trần biết sử dụng, trọng dụng các tướng lĩnh tài năng: Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu,… tạo cho họ phát huy sức mạnh và tài thao lược của mình trong chiến đấu.
b) Liên hệ:
- Đoàn kết toàn dân, Đảng và nhà nước lãnh đạo đến các tầng lớp nhân dân, trên dưới một lòng, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.
- Có quyết tâm chiến đấu, quyết chiến quyết thắng, mưu lược dũng cảm, tài thao lược của chỉ huy, tướng lĩnh.
- Xây dựng thiết lập chiến tranh nhân dân, toàn dân tham gia đánh giặc.
- Linh hoạt, chủ động, sáng tạo.
- Phải biết sử dụng những người tài giỏi, có đức, giúp họ phát huy hết năng lực của mình
10. Nghệ thuật quân sự của ba lần kháng chiến chống quân Mông – Nguyên:
- Thứ nhất là biết kết hợp yếu tố thiên tạo và nhân tạo: Lợi dụng điều kiện tự nhiên thuận lợi để chuẩn bị chu đáo trận địa mai phục (địa thế tự nhiên hiểm yếu + sự lên xuống của thủy triều).
+ Chọn địa bàn quyết chiến là thượng lưu sông Bạch Đằng. Đoạn sông này dài khoảng 5 km, rộng trên dưới 1 km, đủ dài rộng để dồn trên 600 chiến thuyền địch lại để tiêu diệt.
+ Lợi dụng địa hình sông nước, núi rừng hai bên để bố trí trận địa mai phục lớn, phối hợp chặt chẽ quân thuỷ và quân bộ. Lợi dụng chế độ thuỷ triều , xây dựng trận địa cọc ở cửa sông, chặn đứng đoàn thuyền địch, phối hợp với trận địa mai phục.
- Thứ hai là nghệ thuật tạo thời cơ và chớp thời cơ, chủ động buộc địch đánh theo lối đánh của ta:
+ Chọn đối tượng quyết chiến trước hết và chủ yếu là đội quân thuỷ của địch.
Thuỷ chiến vốn là sở trường của quân dân Đại Việt, là chỗ yếu của quân Nguyên. Thuỷ binh địch đã nếm nhiều thất bại, tinh thần chiến đấu kém, không thiện chiến bằng bộ binh và kị binh. Trong đó một bộ phận bộ binh và kị binh đi theo không quen chiến đấu trên sông nước.
+ Bố trí quân mai phục đón đánh, buộc đội kị binh hộ tống phải quay trở lại để cô lập đạo quân thuỷ. Đánh địch ở Trúc Động, bịt kín đường sông Giá, buộc chúng đi theo sông Đá Bạc vào trận địa chúng ta bày sẵn. Thất bại của đạo quân thuỷ tác động mạnh đến đạo quân bộ làm tinh thần của chúng sụp đổ. Quân triều đình phối hợp với dân binh liên tục phục kích, tập kích, truy kích làm chúng bị thiệt hại nặng, rải xác trên đường rút chạy.
+ Đánh kiềm chế, đánh khiêu chiến lấy thuyền nhỏ dụ địch vào đúng trận địa mai phục để chúng lọt vào trận địa đúng thời điểm nước triều rút xuống mạnh, thuyền giặc vỡ…Quân ta ở hai bên bờ tấn công tiêu diệt địch….
Thứ ba là, nghệ thuật thủy chiến, biết kế thừa vận dụng nghệ thuật thủy chiến của Ngô Quyền 938 nhưng có sáng tạo: cọc bịt đầu sắt kết hợp hỏa công… vừa thuỷ chiến vừa hoả công, đánh địch cả trước mặt, sau lưng, hai bên…
11. Cách đánh giặc của nhà Trần trong cuộc kháng chiến lần thứ ba có gì giống và khác lần thứ hai? Bài học của ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên dưới thời Trần là gì?
* Cách đánh giặc của nhà Trần trong cuộc kháng chiến lần thứ ba có những điểm giống và khác lần thứ hai:
- Giống:
+ Tránh thế giặc mạnh lúc đầu, vừa chủ dộng chặn đánh giặc vừa rút lui để bảo toàn lực lượng, chờ phản công tiêu diệt giặc.
+ Thực hiện kế sách vườn không nhà trống.
- Khác:
+ Chủ động tiêu diệt đoàn thuyền lương của giặc để chúng không có lương thảo nuôi quân, dồn chúng vào thế bị động khó khăn.
+ Chủ động bố trí trận địa bãi cọc ở sông Bạch Đằng để tiêu diệt đoàn thuyền chiến của giặc và đánh sạch mưu đồ xâm lược của nhà Nguyên đối với nước ta.
* Bài học:
- Bài học về huy động sức mạnh toàn dân, thể hiện ở vấn đề đoàn kết toàn dân: mở Hội nghị Diên Hồng (1285), thực hiện kế sách vườn không nhà trống, tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc.
- Bài học về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh: lấy ít địch nhiều, lấy ít chống mạnh. Tránh quân địch khi chúng còn mạnh, chờ thời cơ phản công, khi địch yếu thì lập tức tiêu diệt chúng. Kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao…
III. Khởi nghĩa Lam Sơn
12. Phân tích đặc điểm của khởi nghĩa Lam Sơn.
- Cuộc khởi nghĩa nổ ra trong hoàn cảnh đất nước bị quân Minh xâm lược, đô hộ tàn bạo và các cuộc nổi dậy chống giặc Minh đều thất bại, khác với thời Lí Trần còn chính quyền.
- Cuộc khởi nghĩa kéo dài 10 năm trời, gian khổ. Nhiều lần bị giặc Minh bao vây nguy khốn, phải chuyển căn cứ từ Lam Sơn, Thanh Hóa vào tận Nghệ An để bảo toàn lực lượng, xây dựng lực lượng chờ thời cơ phản công.
- Quy tụ nhiều người tài giỏi, lôi kéo được các hào kiệt từ mọi miền đất nước như Lê Lai, Nguyễn Chích,… do Lê Lợi và Nguyễn Trãi tổ chức lãnh đạo. Quy mô cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ địa phương, phát triển lan rộng và phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trong cả nước (đánh vào phía Nam của Đại Việt, mở rộng quy mô ra phía Bắc).
- Cuộc khởi nghĩa có địa bản doanh, căn cứ địa, ban đầu từ một địa bàn sâu rộng ra phía bắc, nghĩa quân biết lợi dụng địa hình, đồi núi hiểm trở, nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân → tính nhân dân sâu sắc. Vì thế phát huy được lối đánh du kích, tiêu hao sinh lực địch.
- Cuộc khởi nghĩa đánh bại ý chí xâm lược của giặc Minh. Quân xâm lược đầu hàng, kết thúc cuộc khởi nghĩa rất độc đáo bằng nghị hòa trong thế thắng của nghĩa quân để cho quân Minh rút về nước.
+ Lần 1, khi nghĩa quân Lam Sơn đang giành thế thắng ở trận Tốt Động – Trúc Động, Vương Thông bại trận xin cầu hòa, Lê Lợi chấp nhận cầu hòa.
+ Lần 2, sau khi giành thắng lợi ở Chi Lăng – Xương Giang, nghĩa quân Lam Sơn đã đánh bại toàn bộ đạo quân của giặc, Vương Thông lại xin cầu hòa và Lê Lợi đã cho mở hội thề ở Đông Quan, chấp nhận giảng hòa, mặc dù nghĩa quân đã toàn thắng. Không những cho họ con đường sống, mà Lê Lợi còn cấp ngựa, xe, thuyền bè để họ về nước. Đó không chỉ thể hiện nét cao đẹp của sự hòa hiếu, của tấm lòng khoàn dung, độ lượng của người dân Đại Việt, mà còn vì mục đích lâu dài “tắt muôn đời chiến tranh”. Đây là tư tưởng của nghĩa quân do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo.
13. Phân tích cuộc đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao để kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh của nghĩa quân Lam Sơn thế kỷ XV (1418 – 1427)?
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427), dưới sự lãnh đạo tài tình của Bộ tham mưu chiến đấu mà đứng đầu là Lê Lợi và Nguyễn Trãi, quân dân ta đã kết hợp khéo léo và tài tình nghệ thuật đấu tranh giữa hai mặt trận là quân sự và ngoại giao, đưa đến kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Minh.
- Đấu tranh quân sự:
+ Trong giai đoạn 1418 – 1423, nghĩa quân còn yếu nên gặp nhiều khó khăn, ba lần phải rút lên núi Chí Linh; trong một lần quân Minh đánh lên núi Chí Linh, Lê Lai phải cải trang Lê Lợi “cứu chúa”; Nghĩa quân vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, vượt mọi gian khổ…
+ Từ năm 1424, nghĩa quân chuyển địa bàn hoạt động, dần trưởng thành, giải phóng Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa và tạo đà tiến quân ra Bắc (1424 – 1426); quân Minh thiệt hại nặng nề, rút vào các thành để cố thủ, xin viện binh;
+ Giành chiến thắng trong trận Tốt Đông – Chúc Động (10/1426):
Tháng 10/1426 Vương Thông đem 5 vạn viện binh kéo vào Đông Quan và mở cuộc phản công, đánh vào chủ lực ta ở Cao Bộ để giành thế chủ động.
Quân ta phục binh sẵn ở Tốt Động và Chúc Động, quân địch lọt vào trận địa bị dồn xuống cánh đồng lầy lội, ta tiêu diệt 5 vạn quân giặc , bắt sống 1 vạn tên, Vương Thông chạy về Đông Quan. Ta giành thế chủ động , bao vây Đông Quan, và giải phóng nhiều châu huyện; quân Minh bị động , một mặt xin giảng hòa, một mặt xin thêm viện binh.
+ Giành thắng lợi quân sự quyết định trong trận Chi Lăng – Xương Giang (10/1427), quân Minh rút quân về nước, cuộc kháng chiến thắng lợi hoàn toàn:
Tháng 10/1427, 15 vạn viện binh của nhà Minh do Liễu Thăng và Mộc Thạch chỉ huy tiến nước ta. Nghĩa quân Lam Sơn đã tổ chức “vây thành diệt viện”, tiêu diệt quân địch. Ngày 8/10/1427, ta phục kích quân Minh ở Chi Lăng, Liễu thăng tử trận.
- Đấu tranh ngoại giao:
+ Quân ta không chỉ chiến đấu và giành nhiều thắng lợi to lớn trên mặt trận quân sự, mà mặt trận ngoại giao cũng được kết hợp một cách linh hoạt, hiệu quả nhằm tạo sức mạnh tổng hợp tiến công và tiêu diệt quân Minh.
+ Mùa hè năm 1423, Lê Lợi đưa ra yêu cầu hòa hoãn, quân Minh chấp thuận; quân ta có thời gian củng cố lực lượng, tránh cuộc bao vây của địch, sau đó rút về Lam Sơn .
+ Cuối 1424, quân Minh tìm cách mua chuộc Lê Lợi nhưng thất bại nên chúng chuẩn bị tấn công Lam Sơn, cuộc khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn mới.
+ Nguyễn Trãi dưới sự ủy thác của Lê Lợi đã nhiều lần gửi thư cho các tướng lĩnh quân Minh (Trần Trí, Phương Chính, Vương Thông...), nhằm thuyết phục chúng rút quân về nước, giải quyết chiến tranh trong hòa bình… Những bức thư đó sau này được tập hợp lại trong tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” là tập hợp các văn kiện lịch sử – binh vận – ngoại giao, được đánh giá là tác phẩm có sức chiến đấu bằng mười vạn quân.
+ Đỉnh cao trong nghệ thuật đấu tranh kết hợp quân sự – ngoại giao trong kháng chiến chống Minh là nghĩa quân Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã mở Hội thề Đông Quan (10/12/1427). Theo đó, quân ta đã mở đường cho quân Minh (khi đó do Vương Thông chỉ huy) rút quân về nước trong danh dự. Cuộc kháng chiến thắng lợi hoàn toàn.
+ Như vậy, mặt trận ngoại giao đã kết hợp và hỗ trợ cho mặt trận quân sự; góp phần tiếp nối và tô thắm cho nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc, để lại nhiều bài học quý giá cho các giai đoạn sau.
14. Trình bày nguyên nhân thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn. Từ đó nhận xét về sự nghiệp giải phóng đất nước của nghĩa quân Lam Sơn.
* Nguyên nhân thắng lợi:
- Đây là cuộc chiến tranh yêu nước và chính nghĩa, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, cứu nhân dân ra khỏi cảnh lầm than nên đã tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, toàn dân ủng hộ.
- Tinh thần chiến đấu dũng cảm, khắc phục khó khăn, nhất là giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa.
- Biết tránh được mũi nhọn, thế mạnh ban đầu của giặc, từng bước xây dựng lực lượng. Khi lực lượng đủ mạnh thì tổ chức phản công giành thắng lợi quyết định.
- Lãnh đạo khởi nghĩa là những người tài giỏi có tài thao lược, mưu trí, có đường lối quân sự đung đắn, chiến thuật khởi nghĩa tài tình. Lê Lợi, Nguyễn Trãi là những người đứng đầu khởi nghĩa với tài cao, đức trọng, có uy tin, sức thu hút, tập hợp được quần chúng, lôi kéo được những tướng lĩnh tài gỏi. Nguyễn Trãi văn võ song toàn, tài năng lỗi lạc, toàn tâm, toàn ý cho cuộc khởi nghĩa, tham mưu tốt cho Lê Lợi với Bình Ngô Đại Cáo, ông đã thể hiện tư tưởng dựa vào dân, phát huy sức mạnh của dân coi là phương châm chính trị của cuộc khởi nghĩa.
* Nhận xét sự nghiệp giải phóng đất nước của nghãi quân Lam Sơn
- Cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo nhằm mục đích cao cả là giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của giặc Minh, cứu dân khỏi chế độ tàn bạo của giặc Minh.
- Khởi nghĩa Lam Sơn đã cho thấy người dân Đại Việt không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào, dù mạnh đến đâu từ phương Bắc đến, quyết không chịu làm nô lệ, không khuất phục.
- Cuộc khởi nghĩa đã nối tiếp truyền thống yêu nước của dân tộc, của cha ông đã từng đánh bại giặc phương bắc trong lịch sử.
15. Mục đích và tính chất (1418 – 1427) thể hiện qua bài “Phú núi Chí Linh” của Nguyễn Trãi: “ Đến như thần võ không giết, đức lớn hiếu sinh, nghĩ về kế lâu dài của nhà nước. Tha hàng mười vạn sĩ binh, sửa hòa hiếu cho hai nước, tắt muôn đời chiến tranh. Chỉ cần vẹn đất, cốt sao cho an ninh.”
- Nguyễn Trãi cùng Lê Lợi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày nằm gai nếm mật cho đến khi thắng lợi hoàn toàn. Cuộc khởi nghĩa kéo dài 10 năm trời, được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn 1 từ 1418 – 1425 là giai đoạn tập hợp và xây dựng lực lượng. Đây là giai đoạn cực khổ, nhiều lần bị quân giặc bao vậy, ba lần phải rút lên núi Chí Linh để bảo toàn lực lượng. Giai đoạn 2 (1425 – 1427) là giai đoạn tổng phản công để giành thắng lợi với những chiến thắng Tốt Động – Trúc Động, Chi Lăng – Xương Giang vang dội.
- Sau 10 năm chiến đấu anh dũng, nghĩ quân Lan Sơn đã đánh bai hoàn toàn quân xâm lược nhà Minh, đem lại hòa bình cho nhân dân Đại Việt. Sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Nguyễn Trãi đã viết bài “Phú núi Chí Linh” nêu rõ mục đích, tính chất của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
+ Mục đích: Giặc Minh xâm lược và thống trị dã man quân dân Đại Việt
“ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”
Trong hoàn cảnh ấy, nhân dân Đại Việt đứng lên khởi nghĩa để giải phóng đất nước, tự cứu mình. Do vậy, mục đích của khởi nghĩa là lật đổ ách thống trị dã man, tàn bạo của giặc Minh, khôi phục nền độc lập cho đất nước, giữ vững toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo cuộc sống hòa bình, an ninh cho nhân dân. Lời của Nguyễn Trãi trong bài phú đã nói rõ điều đó: “Tắt muốn đời chiến tranh, chỉ cần vẹn đất, cuốc sao an ninh.”. Mục đích này đã đáp ứng được nguyện vọng của người dân, của toàn dân tộc, không muốn có chiến tranh, giữ vững độc lập cho đất nước, quyết chiến đấu để giữ từng tấc đất mà tổ tiên để lại. Như vậy, mục đích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là lật đổ ách thống trị nhà Minh, khôi phục nền độc lập đất nước, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Đại Việt. Đây là mục đích cao nhất của cuộc khởi nghĩa.
+ Tính chất:
• Khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc khởi nghĩa chính nghĩa, là cuộc kháng chiến chống xâm lược, thoát khỏi ách đô hộ của nhà Minh. Cuộc khởi nghĩa ấy bùng nổ xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nguyện vọng độc lập được sống trong hòa bình, thoát khỏi ách đô hộ ngoại bang, giải phóng đất nước, giải phóng nhân dâ khỏi ách nô lệ.
• Cuộc khởi nghĩa thể hiện rõ tình hòa hiếu của người dân Đại Việt với Trung Quốc và lòng khoan dung đại lượng của ta. Tinh thần ấy được thể hiện ngay cả ở những người lãnh đạo khởi nghĩa: đó là 2 lần Lê Lợi chấp nhận nghị hòa với kẻ thù mặc dù đang ở trong thế thắng, kẻ thù đang ở thế thua. Lần 1 khi nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi to lớn ở trận Tốt Động – Trúc Động, Vương Thông xin cầu hòa rút quân, Lê Lợi chấp nhận. Lần 2, sau khi giành chiến thắng ở Chi Lăng – Xương Giang, nghĩa quân Lam Sơn đã đánh bại hoàn toàn đạo quân của Vương Thông, cũng như quan tiếp viện của Mộc Thạch, Liễu Thăng, Vương Thông lại xin cầu hòa và Lê Lợi đã mở Hội thề ở Đông Quan, chấp nhận cầu hòa mặc dù nghĩa quân toàn thắng. Không những cho họ con đường sống, Lê Lợi còn cấp ngựa, xe, thuyền, bè cho quân Minh về nước. Đó không chỉ thể hiện nét cao đẹp của sự hòa hiếu, của tấm lòng khoan dung, độ lượng của người dân Đại Việt mà còn vì mục đích lâu dài: tắt muôn đời chiến tranh. Nguyễn Trãi viết: “…”
• Cuộc khởi nghĩa cũng thể hiện tính nhân dân sâu sắc ở việc: nghĩa quân đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ, thường xuyên cung cấp lương thực, thực phẩm, vũ khí, nhân lực dẫn đến thắng lợi của cuộc kháng chiến, thể hiên truyền thống yêu nước, yêu chuộng hòa bình của người dân Đại Việt. Đó là nguồn gốc sức mạnh vô địch làm nên chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn.
IV. Phong trào Tây Sơn
16. Hãy đánh giá vai trò của phong trào Tây Sơn đối với sự phát triển của dân tộc ta?
* Phong trào Tây Sơn đặt cơ sở cho việc hoàn thành thống nhất đất nước.
- Đất nước ta từ đầu thế kỉ XVIII bị chia cắt về lãnh thổ và chính trị. Triều đình nhà Mạc suy thoái, một số cận thần nhà Lê nổi dậy chống nhà Mạc với khẩu hiệu “ phù Lê diệt Mạc” gây ra cuộc chiến tranh Nam-Bắc triều.
- Năm 1627, cuộc chiến tranh Trịnh- Nguyễn bùng nổ, kéo dài đến cuối 1672. Kết quả là 2 bên giảng hòa lấy sông Gianh ( Quảng Bình) làm giới tuyến chia đất nước làm 2: Đàng Trong và Đàng Ngoài với 2 chính quyền riêng biệt. Tình trạng chiến tranh và sự chia cắt đất nước kéo dài đã gây hậu quả nặng nề cho đất nước, đời sống của nhân dân ta vô cùng cực khổ. Phong trào nông dân vùng lên dữ dội kéo dài nhiều thập niên trong thế kỉ XVIII. Nguy cơ chia cắt đất nước thành hai quốc gia riêng biệt trở thành mối đe dọa lớn đối với cả dân tộc, nhất là khi chúa Nguyễn xưng vương, lập triều đình riêng.
- Năm 1771, phong trào Tây Sơn bùng nổ ở Bình Định, do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo chống lại chế độ hà khắc của quan lại địa phương. Được sự hưởng ứng của tầng lớp nhân dân, sau nhiều năm chiến đấu kiên cường, cuộc khởi nghĩa phát triển. Năm 1783, nghĩa quân Tây Sơn tiến lên đánh đổ chính quyền chúa Nguyễn, làm chủ phần đất từ Quảng Nam trở vào. Một nhiệm vụ mới được đặt ra: tiến quân ra Bắc đánh đổ chính quyền Lê-Trịnh và điều này cũng có nghĩa là phong trào Tây Sơn phải đảm nhận thêm sứ mệnh thống nhất lại đất nước. Trong những năm 1786-1788 phong trào Tây Sơn lần lượt đánh đổ tập đoàn phong kiến Trịnh-Lê và làm chủ toàn bộ đất nước, phá bỏ ranh giới sông Gianh, lũy Thầy.
- Như vậy, phong trào Tây Sơn đã đập tan 3 tập đoàn phong kiến cát cứ Lê Trịnh Nguyễn, chấm dứt tình trạng chiến tranh huynh đệ tương tàn, đặt cơ sở cho sự nghiệp thống nhất đất nước, mở rộng thị trường dân tộc, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất mới phát triển.
* Phong trào Tây Sơn đánh tan các thế lực ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền dân tộc.
- Kháng chiến chống Xiêm (1785):
+ Đầu những năm 80 của thế kỉ XVIII, Nguyễn Ánh đã cùng tàn quân trốn chạy sang Xiêm cầu cứu. Vua Xiêm sai 5 vạn quân tiến sang nước ta. Sau khi chiếm được gần một nửa đất Gia Định, chúng ra sức cướp phá, hoành hành và chuẩn bị tấn công quân Tây Sơn ở vùng đất còn lại.
+ Được sự ủng hộ của nhân dân, đầu năm 1785, Nguyễn Huệ đã tổ chức trận Rạch Gầm-Xoài Mút đánh tan tành quân xâm lược. Từ chiến thắng Rạch Gầm- Xoài Mút, quân Tây Sơn tiến công quét sạch 5 vạn quân Xiêm ra khỏi bờ cõi, đập tan tham vọng của vua Xiêm đối với phần lãnh thổ cực Nam của nước ta. Miền Nam trở lại bình yên.
- Khánh chiến chống Thanh (1789):
+ Sau khi bị quân Tây Sơn đánh bại, vua Lê Chiêu Thống cho người sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh.Nhận thấy đây là một thời cơ thuận lợi để xâm lược, vua Thanh sai tướng đem 29 vạn quân tiến sang nước ta.Lực lượng Tây Sơn đóng ở kinh thành Thăng Long tạm rút về mạn Ninh Bình và cấp báo cho Phú Xuân (Huế).Một nguy cơ mới đang đe dọa nền độc lập của dân tộc.
+ Được tin đó, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung, chỉ huy quân tiến ra Bắc. Đúng vào đêm 30 Tết Mậu Thân (15-1-1789), quân Tây Sơn đồng loạt tiến công địch.Sau 5 ngày chiến đấu ( từ ngày 30-12 đến ngày 5 tết Kỉ Dậu), quân ta giành thắng lợi vang dội ở Ngọc Hồi- Đống Đa, giải phóng Thăng Long,đánh tan 29 vạn quân Thanh.
- Với 2 lần chiến thắng chống quân xâm lược, phong trào Tây Sơn không chỉ bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, mà còn góp phần củng cố ý thức dân tộc trong mỗi con người Việt Nam.Chỉ trong một thời gian ngắn, mà 2 lần đại thắng quân xâm lược ở 2 hướng khác nhau, đó là một hiện tượng chưa từng có trong một phong trào nông dân nào và cũng chưa từng có trong lịch sử dân tộc.
* Vương triều Tây Sơn đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
- Sau khi kết thúc chiến tranh, Quang Trung thi hành hàng loạt chính sách cải cách tiến bộ vè chính trị,kinh tế, văn hóa, xã hội,.... đất nước dần dần ổn định và phát triển. Nhà nước Tây Sơn được đánh giá tương đối tiến bộ trong lịch sử. Khẳng định chủ quyền, vị thế của nước ta trong khu vực và trên toàn thế giới, đặc biệt là với các nước phong kiến phương Bắc.
- Tuy nhiên, sau khi Quang Trung qua đời ( 1792), triều Tây Sơn không còn chỗ dựa, đã mất dần vai trò tiến bộ và nhanh chóng bị thất bại trước cuộc tiến công của Nguyễn Ánh.
17. “Chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa của nghĩa quân Tây Sơn năm 1789 là một chiến công vĩ đại, hiển hách trong lịch sử dân tộc Việt Nam”. Trên cơ sở đó, em hãy nêu hiểu biết về thắng lợi này của quân dân ta? Thông qua diễn biến cuộc tiến công đại phá quân Thanh, hãy nêu bật sự sáng suốt, tài năng của bộ chỉ huy nghĩa quân Tây Sơn đứng dầu là vua Quang Trung?
a. Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa:
- Đêm 30 Tết Kỉ Dậu, từ Tam Điệp, Biện Sơn, quân Tây Sơn chia làm 5 đạo tiến ra Thăng Long. Toàn bộ quân địch ở đồn tiền tiêu bị diệt gọn
- Đêm mùng 3 Tết âm lịch, quân ta hạ đồn Hà Hồi (Thường Tín, Hà Tây). Sáng mùng 5 Tết, quân ta tiến đánh đồn Ngọc Hồi (Thanh Trì, Hà Nội). Đây là vị trí quan trọng nhất của địch ở phía Nam Thăng Long. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Quang Trung, với cách đánh đầy sáng tạo, đến trưa, cứ điểm phòng ngự kiên cố này hoàn toàn bị tan vỡ. Số quân địch sống sót rút chạy đến Đầm Mực, làng Quỳnh Đôi (Thanh Trì, Hà Nội) cũng bị phục binh của ta tiêu diệt sạch.
- Khi Quang Trung đại phá Ngọc Hồi, cánh quân của đô đốc Long đánh vào đồn Khương Thượng – Đống Đa (Hà Nội). Quân Tây Sơn với sự giúp đỡ của nhân dân địa phương đã đánh tan quân địch ở đây. Tướng Thanh là Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử.
- Trưa mùng 5 Tết Kỉ Dậu, vua Quang Trung dẫn đoàn quân chiến thắng tiến vào Thăng Long, giữa tiếng reo hò phấn khởi, Tôn Sĩ Nghị cùng số tàn quân Thanh sống sót hoảng loạn cực độ, dẫm đạp lên nhau tháo chạy về nước. Thế là trong 5 ngày đêm chiến đấu liên tục, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Quang Trung đã tiêu diệt và quét sạch 29 vạn quân Thanh xâm lược và bè lũ bán nước Lê Chiêu Thống
b. Sự sáng suốt, tài năng của Bộ chỉ huy nghĩa quân Tây Sơn đứng đầu là vua Quang Trung
- Nguyễn Huệ lên ngôi vua: nhận được tin cấp báo, quân Thanh kéo quân sang xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Quang Trung rồi tiến quân ra Bắc ngay. Đây là việc làm đúng thời điểm, hợp lòng dân. Việc lên ngôi vua của Nguyễn Huệ đã khẳng định với quân xâm lược: Sử tri Nam quốc anh hùng tri hữu chủ” làm tang uy tín và vai trò của vua Quang Trung trên cương vị chỉ huy tối cao đại phá quân Thanh
- Việc rút quân Tây Sơn khỏi Thăng Long, xây dựng phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn, trước thế mạnh ban đầu của giặc, theo kế hoạch của Ngô Thì Nhậm, ông đã chủ động rút lui về phía Nam, xây dựng phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn. Đây là một kế hoạch sáng suốt vừa để bảo toàn lực lượng vừa tạo cho quân địch sự chủ quan, kiêu ngạo, mất cảnh giác
- Trong cuộc tiến quân để tiêu diệt quân Thanh ở Thăng Long, vua Quang Trung đã kết hợp 3 yếu tố: thần tốc, bí mật, bất ngờ. Ông chọn thời điểm tiêu diệt quân Thanh ngay trong Tết Kỉ Dậu, thực hiện một cuộc hành quân từ Tam Điệp ra Thăng Long trong một thời gian rất ngắn và đảm bảo tuyệt đối bí mật cho đến giờ phút tiến công đại bản doanh của địch
- Khi tiến quân ra Thăng Long, 5 đạo quân của Tây Sơn cùng một lúc tập kích các đồn binh của giặc, phục binh chặn đường rút lui của giặc. Sự tiến công đồng loạt này đã làm cho giặc khiếp sợ và không thể ứng cứu lẫn nhau được.
V. Câu hỏi tổng hợp
18. Nêu những đặc điểm cơ bản trong truyền thống đánh giặc cứu nước của dân tộc ta (X – XVII). Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng như thế nào trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1946 – 1954.
Năm 938 với chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền chống quân xâm lược Nam Hán, dân tộc ta đã giành lại được độc lập, chấm dứt ách thống trị hơn 1000 năm của phong kiến phương Bắc. Trong suốt quá trình phát triển từ thế kỉ X đến thế kỷ XVIII, trải qua nhiều triều đại phong kiến độc lập, dân tộc ta luôn phải đương đầu chống lại sự xâm lược của các thế lực ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Trong quá trình đó, dân tộc ta đã hình thành truyền thống đánh giặc cứu nước với các đặc điểm tiêu biểu sau:
- Luôn phải tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc: Các cuộc kháng chiến của dân tộc ta thời kỳ này đều là chiến tranh yêu nước, bảo vệ độc lập dân tộc. Vì vậy luôn luôn huy động được sức mạnh toàn dân, tập hợp lôi kéo được tất cả các tầng lớp nhân dân tham gia.
+ Không có sự tham gia đánh giặc của toàn dân thì nhà Lý không thể đánh tan cuộc xâm lược của nhà Tống (1077).
+ Hình ảnh Hội nghị Diên Hồng, Bình Than đã trở thành biểu tượng của tinh thần đoàn kết dân tộc, mà nhờ nó nhà Trần đã làm nên chiến thắng vang dội, bảo vệ độc lập dân tộc trong cả ba lần chống Mông - Nguyên.
+ Riêng cuộc kháng chiến chống Minh của nhà Hồ đã thất bại do không xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân.
- Luôn luôn biết kết hợp giữa đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao: Nghĩa là luôn luôn tiến hành cuộc kháng chiến một cách toàn diện, đánh địch trên tất cả các mặt trận.
+ Khi Lý Thường Kiệt thực hiện kế hoạch “Tiên phát chế nhân” (1075), đưa quân sang đất Tống đánh Khâm Châu, Liêm Châu. Đồng thời lấy đấu tranh chính trị, ngoại giao để tuyên truyền cho nhân dân Tống biết được cuộc đấu tranh tự vệ của dân tộc ta là chỉ nhằm mục đích đè bẹp ý chí xâm lược của quân Tống. Sau chiến thắng trên sông Như Nguyệt, nhà Lý đã mở cuộc hòa đàm tạo điều kiện cho Tống tháo chạy về nước trong danh dự, đánh bại ý chí xâm lược của quân Tống. Đặc biệt trong khởi nghĩa Lam Sơn, sau chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang, Lê Lợi và Nguyễn Trãi mở Hội thề ở Đông Quan (1428), lấy đấu tranh ngoại giao để đánh bại ý chí xâm lược của quân Minh.
- Luôn luôn vận dụng và phát huy một cách sáng tạo nghệ thuật quân sự của cha ông ta: Nói một cách khác, cuộc chiến sau vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự của những cuộc kháng chiến trước.
+ Trận Bạch Đằng không chỉ một lần mà ba lần ở ba cuộc kháng chiến khác nhau: Bạch Đằng của Ngô Quyền (938), Lê Hoàn (984), Trần Hưng Đạo (1288).
+ Hình ảnh cuộc hòa đàm của nhà Lý đã được tái hiện qua Hội thề Đông Quan trong kháng chiến chống Minh ở thế kỷ XV. Đó chính là nghệ thuật vận dụng một cách sáng tạo cách đánh giặc của tổ tiên trong điều kiện kháng chiến mới
- Luôn luôn chiến đấu với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, không sợ bất kỳ một kẻ thù xâm lược nào: Các cuộc kháng chiến của dân tộc đều phải chiến đấu với các thế lực ngoại xâm hùng mạnh.
+ Thế kỷ XIII, quân Mông Nguyên đã từng phinh phạt khắp nơi trên thế giới từ Á sang Âu nhưng đã phải khuất phục trước Đại Việt. Ngay khi quân Mông Nguyên tràn vào nước ta, Trần Thủ Độ đã khẳng khái: “Đầu thần chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo”,... Cả một đội quân viết trên tay hai chữ “Sát Thát” tiến ra trận giết giặc. Hội nghị Diên Hồng vang lên một tiếng “Đánh!” đã phản ánh ý chí quyết tử cho tổ quốc quyết sinh của dân tộc ta.
- Luôn luôn biết chịu đựng gian khổ, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập của dân tộc:
+ Trong kháng chiến chống Mông - Nguyên, nhân dân đã sẵn sàng chịu khổ, rời bỏ nhà cửa phối hợp với triều định thực hiện kế “Thanh dã”. Nghĩa quân Lam Sơn “Mười năm nếm mật nằm gai”, chiến đấu trong hoàn cảnh thiếu thốn khó khăn nhưng chưa một lần nản chí. Tất cả những sự hy sinh đó đã làm nên những chiến công lẫy lừng, rạng danh sử Việt.
Truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông ta nói trên được Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngay từ đầu đã đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Luôn gắn liền hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc. Vận dụng linh hoạt, phối hợp nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao để đưa đến thắng lợi cuối cùng cho cách mạng.
19. Chứng minh “chiến tranh nhân dân” là yếu tố quan trọng đưa đến sự thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta được viết nên bởi chính xương, máu và nước mắt của biết bao con người trong thời đại trước, để lại nhiều bài học quý giá. Trong đó, “chiến tranh nhân dân” là yếu tố quan trọng đưa đến sự thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
“Chiến tranh nhân dân” là nghệ thuật quân sự được hình thành từ công cuộc dựng nước và giữ nước của dân ta. Đó là chính sách đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để tiến hành kháng chiến lâu dài. Để thực hiện “chiến tranh nhân dân” cần kêu gọi, tập hợp được lực lượng nhân dân, tạo thế trận quy tụ sức mạnh to lớn của nhân dân để áp đảo kẻ thù về mọi mặt, dùng sức mạnh của nhân dân để đập tan ý chí xâm lược của đối phương.
Ngay từ thời dựng nước, dân ta đã nhiều lần phải đối phó với âm mưu xâm lược của các triều đại phong kiến phương Bắc. Nhân dân Việt Nam đã quen cùng nhau đứng dậy đánh giặc. Thực hiện “chiến tranh nhân dân”, quy tụ tất cả người dân yêu nước không phân biệt già hay trẻ, gái hay trai, tầng lớp, tôn giáo,…Các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa từ X-XVIII chống Nam Hán, Tống, Minh, Thanh,… là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Từ đó, dân quen việc giữ nước là giữ nhà, 1000 năm Bắc thuộc cho dân ta thấm thía câu nói “nước mất nhà tan”. Do đó, chống giặc là việc của toàn dân.
Chúng ta phải tiến hành “chiến tranh nhân dân” vì ta luôn phải đối đầu với kẻ thù hùng mạnh hòn mình nhiều lần: hơn 10 vạn quân Tống (1075), 5 vạn quân Xiêm, 28 vạn quân Thanh,.. Quân địch không chỉ đông về số lượng mà còn được trang bị vũ khí đầy đủ, được lãnh đạo bởi các tướng giỏi. Như đó, vó ngựa Mông – Nguyên đã tung hoành khắp Á – Âu nhưng phải 3 lần chùn bước trước quân dân Đại Việt.
Yếu tố “chiến tranh nhân dân” thể hiện rõ khi tình quân thắm thiết được xây dựng, tinh thần đoàn kết lên cao. Thời bình, như nhà Trần đã thực hiện chính sách “khoan thư sức dân”, quan tâm đến đời sống người dân. Nhờ vậy mà đến khi tổ quốc bị xâm lăng, nhân dân đã hưởng ứng nhiệt tình sự lãnh đạo kháng chiến của nhà Trần. Khắp nơi thi hành kế Thanh dã đã khiến cho quân thù chùn tay, lo lắng, hoang mang, khiếp sợ.
“Chiến tranh nhân dân” nghĩa là phải vừa chiến đấu vừa sản xuất. Những chính sách “ngụ binh ư nông” để xây dựng quân đội của nhà nước phong kiến thể hiện rõ điều này. Thời bình thì chăm lo sản xuất, đến thời chiến, để phục vụ cho kháng chiến lâu dài, nhân dân ta đã vừa cầm gươm giết giặc, vừa cầm cuốc chiến đấu. Trong bức thư gửi Vương Thông, Nguyễn Trãi đã nói rõ yếu này “dân tôi vừa cày ruộng vừa đánh giặc”, chính cho kẻ thù thấy việc bại vong của kẻ thù là tất yếu.
“Chiến tranh nhân dân” trong khởi nghĩa Lam Sơn được phát huy lên thành cả nước chống giặc. Đó là hình ảnh bà hàng nước dốc hết tiền để mua dầu giết giặc; cô ả đào làng Đào Đặng mưu trí ném giặc xuống sông,…. Có cả những chiến sĩ, người dân vô danh dốc toàn bộ sức lực cho cuộc kháng chiến để rồi không hề đòi hỏi thưởng công. Khi đất nước sạch bóng quân thù, họ lại tình nguyện trở về quê hương, cày cấy sinh sống mà không cần hưởng vinh hoa phú quý.
Đó, thực hiện chiến tranh nhân dân là nghệ thuật quân sự đúng đắn, sáng suốt của ông cha ta qua bao thế hệ. Sức mạnh của nhân dân đập tan dã tâm cướp nước ta của các triều đại phong kiến phương Bắc, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn bằng những trận quyết chiến chiến lược. Bài học về đoàn kết toàn dân, thực hiện chiến tranh nhân dân trở thành truyền thống quý báu trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc.
Những bài học, truyền thống quý báu trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc của dân tộc ta không chỉ có ý nghĩa lich sử to lớn mà còn rất quan trọng trên chặng đường lịch sử tiếp theo của dân tộc ngày nay. Vị thế của nước ta hiện nay đã có nhiều thay đổi, trong bối cảnh và thời kì mới với nhiều thách thức mới. Với vị trí chiến lược hết sức quan trọng của nước ta, chủ quyền biên giới và hải đảo vẫn luôn bị các thế lực bên ngoài đe dọa. Trung Quốc từ xua đến nay vẫn luôn có tham vọng bành trướng lãnh thổ, xâm chiếm biển Đông. Vì vậy, việc vận dụng và phát huy những bài học kinh nghiệm của cha ông ta là hết sức cần thiết. Hơn bao giờ hết, dân tộc ta phải thực hiện và phát huy được khối đại đoàn kết dân tộc, trên dưới đồng lòng, phát huy tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thể hiện sức mạnh của dân tộc. Dưới thời đại hiện đại hóa, nước ta còn phải tiến hành xây dựng thế và lực không chỉ về mặt quân sự mà còn cả về kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, giáo dục.
20. So sánh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm dưới thời Lí – Trần theo các tiêu chí: điều kiện lịch sử, phương thức tiến hành, cách kết thúc chiến tranh.
* Giống nhau:
- Những cuộc kháng chiến và khởi nghĩa đều đấu tranh nhằm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc.
- Đều chống lại những kẻ thù hung hãn của phong kiến phương Bắc, có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần.
- Các cuộc khởi nghĩa và kháng chiến đều huy động sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, phát huy thế trận chiến tranh nhân dân.
- Xuất phát từ truyền thống đấu tranh “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”, các cuộc khởi nghĩa và kháng chiến đều đi từ yếu đến mạnh để tiến lên đánh bại hoàn toàn kẻ thù xâm lược với những nét độc đáo về nghệ thuật quân sự.
- Đều kết thúc bằng những trận quyết chiến chiến lược, đè bẹp hoàn toàn mưu đồ xâm lược của kẻ thù.
- Đều để lại những bài học kinh nghiệm quí báu trong công cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc ở giai đoạn sau, làm phong phú thêm nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.
* Khác nhau:
Nội dung Kháng chiến thời Lí – Trần Khởi nghĩa Lam Sơn
Điều kiện lịch sử - Thời Lí – Trần: tổ chức kháng chiến trong điều kiện thuận lợi: có chính quyền độc lập, có điều kiện, có danh nghĩa để huy động lực lượng, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân. Các cuộc kháng chiến diễn ra một cách chủ động ngay từ đầu. - Khởi nghĩa Lam Sơn: diễn ra trong hoàn cảnh khó khăn, nhất là giai đoạn đầu: chính quyền, nền độc lập tự chủ không còn, đất nước bị quân Minh đô hộ, không có danh nghĩa chính thức để tập hợp lực lượng trong nhân dân, phải hoạt động bí mật...Cuộc khởi nghĩa lúc đầu bị động, đến giai đoạn sau mới giành được quyền chủ động.
Phương thức tiến hành - Thời Lí: tính chủ động của nhà Lí trong quá trình kháng chiến: chủ động giải quyết mâu thuẫn nội bộ; chủ động tấn công sang đất Tống (tiên phát chế nhân); chủ động rút lui, xây dựng phòng tuyến Như Nguyệt đánh giặc...
- Thời Trần: chủ động tập hợp lực lượng, đoàn kết toàn dân, bàn kế đánh giặc: tổ chức 2 hội nghị Bình Than và Diên Hồng; truyền lời Hịch khích lệ tướng sĩ; sử dụng nghệ thuật: “thanh dã” – “vườn không nhà trống” rút lui khi thế giặc mạnh; kết hợp chặt chẽ quân đội nhà vua và dân binh tổ chức phản công, bao vây, cô lập và tiêu diệt giặc...khi thời cơ đến với các chiến thắng tiêu biểu: Đông Bộ Đầu, Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng....
- Xây dựng căn cứ Lam Sơn, phát triển từ một cuộc khởi nghĩa ở địa phương trở thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
- Nguyễn Trãi đặt vấn đề “đánh vào lòng người” xuất phát từ tư tưởng “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn”.
- Nghĩa quân xây dựng và phát triển lực lượng từ không đến có, từ yếu đến mạnh, từ thế bị động tiến tới giành thế chủ động hoàn toàn, sử dụng các chiến thuật “tâm công”, mai phục, diệt viện... với các chiến thắng tiêu biểu: Tốt Động – Chúc Động, Chi Lăng – Xương Giang...
Cách kết thúc chiến tranh - Thời Lí: Trong thế thắng, chủ động kết thúc chiến tranh bằng biện pháp mềm dẻo, thương lượng, đề nghị giảng hòa – xây dựng quan hệ hòa hiếu.
- Thời Trần: dùng sức mạnh quân sự, thắng lợi trên chiến trường để đè bẹp hoàn toàn âm mưu xâm lược của kẻ thù. - Chủ động giảng hòa, mở hội thề Đông Quan để đàm phán, kết thúc chiến tranh.
- Thể hiện tinh thần nhân nghĩa, nhân đạo; thiết lập và giữ vững quan hệ hòa hiếu sau chiến tranh.
21. Từ thực tiễn lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam trong suốt quá trình dựng và giữ nước. Hãy phân tích và làm rõ nhận định “ chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc là nét nổi bật trong truyền thống yêu nước của Việt Nam”?
Chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc là nét nổi bật trong truyền thống yêu nước của Việt Nam. Sở dĩ có thể nói như vậy là vì:
- Xuất phát từ vị trí địa chiến lược của Việt Nam. Việt Nam nằm ở vị trí chiến lược quan trọng của Đông Nam Á, vị trí ngã tư đường của thế giới, từ Bắc vào Nam, Đông sang Tây và ngược lại cả trên đường bộ, thủy, hàng không. Do vị trí như vậy nên ngay từ buổi đầu dựng nước cho đến nay, Việt Nam luôn bị kẻ ngoại bang nhòm ngó và xâm lược. Là đối tượng xâm lược từ thế lực bên ngoài. Nhà Hán, Ngô, Lương, Đường, Nam Hán, Tống, Nguyên- Mông, Minh, Thanh rồi thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và ngày nay là chủ quyền biển đảo biên giới đang bị đe dọa bởi Trung Quốc. Để giữ vững bờ cõi, biển đảo, nền độc lập dân tộc thì việc chống ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trở thành vấn đề thường trực của các thế hệ con người Việt Nam là vấn đề tất yếu và lâu dài.
- Xuất phát từ truyền thống yêu nước của dân tộc, truyền thống yêu nước Việt Nam hàng ngàn năm xây dựng và bảo vệ đất nước được tôi luyện và phát huy trong mọi hoàn cảnh độc lập dân tộc,toàn vẹn lãnh thổ là nhiệ vụ được mọi ng dân thuộc mọi tầng lớp đặt lên trên hết. Truyền thống yêu nước của người dân Việt Nam đã được chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định :“ Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.”
- Xuất phát từ đặc trưng củ lịch sử dân tộc Việt Nam luôn coi trọng việc dựng nước đi đôi với giữ nước, các thế hệ dân tộc Việt Nam luôn phải đối phó với các thế lực ngoại bang đến từ phía Bắc-Đông-Tây. Muốn xây dựng thì phải bảo vệ độc lập dân tộc, đập tan mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù. Không thể xây dựng đất nước khi bị xâm lược. Ngày nay, dựng nước đi đôi với giữ nước được Đảng và nhà nước ta khái quát thành 2 nhiệm vụ chiến lược: Độc lập dân tộc đi liền với xây dựng xã hội chủ nghĩa.
22. Có ý kiến cho rằng: “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong các thế kỷ X - XV đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các cuộc đấu tranh ở giai đoạn sau này”. Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
“Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong các thế kỷ X - XV đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các cuộc đấu tranh ở giai đoạn sau này” là một nhận định chính xác, phản ánh đúng thực tiễn lịch sử đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Sở dĩ như vậy là vì những bài học kinh nghiệm ấy luôn được hậu thế vận dụng và phát huy sáng tạo trong bối cảnh thực tiễn.
* Bài học về về đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn.
- Ngay từ những buổi đầu kháng chiến, ông cha ta đã luôn phải tiến hành một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.
- Một quy luật đã được kiểm nghiệm trong chiến tranh là: một cuộc chiến nào dưới bất kỳ hình thức nào đi chăng nữa, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định. Với thế trận chiến tranh nhân dân, một sức mạnh to lớn đã được kết thành, từng bước đánh bại mọi kẻ thù hung bạo. Thời Lý, Lý Thường Kiệt đã huy động các dân tộc thiểu số tham gia chiến thuật tiên phát chế nhân. Thời Trần “vua tôi đồng lòng, cả nước góp sức” nên giặc phải thua. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn “tướng sĩ một lòng phụ tử” trải qua 10 năm chiến đấu gian khổ cuối cùng cũng đi đến thắng lợi trọn vẹn.
- Xét về tương quan lực lượng ta phải đánh giặc trên mọi mặt trận, phải có sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao và phải đánh trên cả lĩnh vực tư tưởng thơ ca. Trong lúc chiến đấu, Nam Quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ… vang lên hoàn thiện cho bản hùng ca bi tráng của dân tộc, đã khích lệ tinh thần chiến đấu của quân ta và làm nản chí quân địch. Với tầm nhìn xa trộng rộng của Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Lê Lợi trong việc chủ động kết thúc chiến tranh bằng biện pháp chính trị: chủ động hòa trên thế thắng, mở Hội thề Đông Quan… đã làm cho chiến thắng của ta càng thêm trọn vẹn, làm kẻ thù phải thua tâm phục khẩu phục.
* Bài học về nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, đấu tranh anh dũng bất khuất.
- Với tinh thần đoàn kết dân tộc cùng lòng nồng nàn yêu nước, luôn hiện diện trong từng con người Việt ở bất kỳ hoàn cảnh nào. Nên khi đất nước lâm nguy họ sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc với ý chí không gì lay chuyển được “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.
- Thái sư Trần Thủ Độ đã từng nói: “Đầu thần chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo”. Trần Quốc Tuấn cũng đã khẳng khái: “Nếu bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu thần trước”. Toàn dân và quân nhà Trần cũng đồng lòng hô to “Đánh!”
* Bài học về vận dụng và phát huy một cách sáng tạo nghệ thuật quân sự của cha ông.
- Trong chiến đấu, không chỉ cần có lòng dũng cảm mà cần phải có chiến lược, chiến thuật đúng đắn, phù hợp với thực tiễn lịch sử.
- “Tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt đã làm cho quân Tống suy yếu, làm suy sụp tinh thần và sự chuẩn bị của kẻ thù. Với kế “Thanh dã” biết tránh chỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu của địch, rút lui bảo toàn lực lượng đã tạo thời cơ cho quân dân nhà Trần tiến lên quét sạch địch. Hay sự kết hợp linh hoạt giữa địa hình địa lợi, với chiến thuật chiến tranh mai phục, du kích đã từng bước đưa khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi.
* Bài học về tinh thần chịu đựng gian khổ, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc.
- Trong kháng chiến chống Mông - Nguyên, nhân dân đã sẵn sàng chịu khổ, rời bỏ nhà cửa phối hợp với triều định thực hiện kế “Thanh dã”. Nghĩa quân Lam Sơn “Mười năm nếm mật nằm gai”, chiến đấu trong hoàn cảnh thiếu thốn khó khăn nhưng chưa một lần nản chí. Tất cả những sự hy sinh đó đã làm nên những chiến công lẫy lừng, rạng danh sử Việt.
- Những bài học kinh nghiệm quý giá ấy đã được hậu thế tiếp tục kế thừa trong các cuộc đấu tranh giữ nước về sau như: Cuộc kháng chiến chống Xiêm (1785), chống Thanh (1789),... và được Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo trong 30 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ (1945 - 1975) với sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình đấu tranh của nhân dân ta là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh.
Trong bối cảnh hiện nay, đất nước tuy hòa bình nhưng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vẫn tiếp tục kế thừa và phát huy những bài học kinh nghiệm của cha ông trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Luôn ra sức đổi mới toàn diện đất nước, tạo được một sức mạnh tổng lực cho quốc gia trên nhiều phương diện. Luôn ra sức xây dựng một khối đại đoàn kết toàn dân, gây dựng một nền an ninh quốc phòng toàn dân, sẵn sàng chiến đấu khi tổ quốc lâm nguy.
23. Bằng các sự kiện lịch sử, em hãy chứng minh lòng yêu nước, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc của toàn dân, toàn quân ta qua các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược thời Lý -Trần từ thế kỉ XI – XIII.
Lòng yêu nước, quyết tâm bảọ vệ Tổ quốc của toàn dân, toàn quân ta qua các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược thời Lý – Trần từ thế kỉ XI – XIII, được thể hiện qua những sự kiện lịch sử:
Gần 100 năm yên bình trôi qua, Đại Việt thời Lý đang vươn lên trong xây dựng đất nước. Cùng lúc đó, nhà Tông suy yếu lại gặp nhiều khó khăn ở trong nước cũng như ở vùng biên giới phía Bắc. Theo đề nghị của Tổ tướng Vương An Thạch, vua Tông hạ lệnh chuẩn bị gáp rút cuộc xâm lược Đại Việt với mục tiêu: “Nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiềng nể”.
Được tin đó, vua Lý mời các đại thần vào cung hội bàn. Thái úy Lý Thường Kiệt đã chủ trương: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân đánh trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Được sự tán đồng của mọi người và sự ủng hộ của quân sĩ, Thái úy Lý Thường Kiệt – người chỉ đạo cuộc kháng chiến, đã thực hiện chiến lược “Tiên phát chế nhân”, kết hợp với lực lượng dân binh của các dân tộc miền núi, đem quân đánh lên phía Bắc. Năm 1075, quân ta đánh sang châu Khâm, châu Liêm (Quảng Đông, Quảng Tây – Trung Quốc), rồi tập trung bao vây thành Ưng Châu (Nam Ninh – Quảng Tây), đánh tan hoàn toàn lực lượng chuẩn bị xâm lược của nhà Tông và rút về. Năm 1077, 30 vạn quân Tông tràn sang nước ta. Bằng trận chiến trên bờ Bắc sống Như Nguyệt (sống cầu – Bắc Ninh), quân ta do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, đã đánh tan quân xâm lược. Bài thơ Nam quốc Sơn hà mãi mãi vang vọng núi sông.
Thế kỉ XIII, trên bước đường ổn định và phát triển đất nước dưới thời Trần, nhân dân Đại Việt lại phải đương đầu với một cuộc thử lửa lớn lao kéo dài suốt 30 năm. Với tư tưởng bởnh trướng, làm chủ toàn bộ phương Nam, quân Mông - Nguyên đã ba lần đánh xuống nước ta (vào các năm 1258, 1285 và 1288). Dưới sự chỉ huy của vị thống soái, nhà quân sự thiên tài Trần Hưng Đạo và các vua Trần yêu nước cùng hàng loạt tướng lĩnh tài năng, “cả nước đứng dậy” cầm vũ khí, gậy gộc chiến đâu dũng cảm, quyết bảo vệ Tổ quôc thân yêu.
Cùng với hai hội nghị lịch sử – Bình Than và Diên Hồng, vang lên lời hịch của Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo: “Ta thường đến bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt; nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội có, nghìn thây ta bọc trong da ngựa cũng nguyện xin làm” (Theo Thơ văn Lý – Trần). Bài hịch đã thổi bùng lên ngọn lửa tiêu diệt quân thù, nung nấu tâm can tướng sĩ, tát cả quân sĩ đều một lòng quyết tâm đánh giặc, đã tự thích vào cánh tay hai chữ “sát Thát”.
Kinh thành Thăng Long ba lần bị móng ngựa Mông – Nguyên giày xéo, bộ tông chỉ huy kháng chiến có lần bị kẹp giữa hai “gọng kìm” của giặc, nhưng với tinh thần “sát Thát”, thực hiện kế “thanh dã”, chủ động đối phó với mọi âm mưu của giặc, quân dân Đại Việt đã đánh bại quân xâm lược, bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. Chiến thắng Bạch Đằng vang dội mãi mãi đi vào lịch sử như một biểu tượng của truyền thống yêu nước, bất khuát, quật cường của dân tộc.
VĂN HÓA
A. CÂU HỎI
I. Khái quát
* Câu 1: Cơ sở hình thành, thành tựu tiêu biểu và đặc điểm của nền văn minh Đại Việt (biểu hiện trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa) thời Lí – Trần – Lê sơ?
* Câu 2: Chứng minh rằng: Văn hóa Đại Việt thời Lí – Trần – Hồ phong phú, đa dạng và thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
* Câu 3: Trình bày quá trình xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X- XV? Nhận xét chung về văn hóa Đại Việt? Tại sao lại có sự phát triển đó?
II. Tư tưởng, tôn giáo
* Câu 4: Sự phát triển thăng trầm của Phật Giáo trong nước ta từ TK XI đến TK XV. Vì sao Phật giáo phát triển mạnh dưới thời Lý - Trần?
* Câu 5: Vai trò của Phật giáo ở nước ta từ thế kỉ X - thế kỉ XIV. Nhận xét về đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ta thời kì này.
* Câu 6: Sự phát triển của giáo dục Đại Việt trong TK X – XV. Theo em nước ta thời đó, giáo dục có mặt tích cực và hạn chế gì?
* Câu 7: Vị trí của Nho giáo ở quốc gia Đại Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII có sự chuyển biến như thế nào? Nêu nguyên nhân dẫn đến sự chuyển biến đó.
* Câu 8: Trình bày những nét cơ bản về sự thăng trầm của tư tưởng và tôn giáo ở Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII.
III. Giáo dục
* Câu 9: Sự phát triển của giáo dục Đại Việt từ thế kỉ X-XV?
* Câu 10: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mới mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp” là câu nói của ai? Từ câu nói này, liên hệ đến nền giáo dục hiện nay.
* Câu 11: Hiểu thế nào về câu nói của Thân Nhân Trung: “….”. Lấy các sự kiện trong giáo dục trong các thời kì Lí, Trần, Lê sơ để làm rõ sự phát triển giáo dục thời kì này. Đánh giá mặt tích cực và hạn chế.
B. TRẢ LỜI
I. Khái quát
* Câu 1: Cơ sở hình thành, thành tựu tiêu biểu và đặc điểm của nền văn minh Đại Việt (biểu hiện trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa) thời Lí – Trần – Lê sơ?
* Cơ sở hình thành:
- Chiến thắng Bạch Đằng (938) của Ngô Quyền đã mở ra thời đại độc lập tự chủ trong lịch sử dân tộc: thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến độc lập. Độc lập và tự do là tiền đề để dựng nước.
- Nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc có cội nguồn vững chắc, được lưu truyền gìn giữ trong nhân dân, sau 1000 năm Bắc thuộc không những không bị mất đi, không bị đồng hóa mà còn phát triển mạnh mẽ trong điều kiện mới.
- Nền văn minh Đại Việt nảy sinh và phát triển gắn liền với các triều đại phong kiến tiến bộ, đặc biệt là Lí – Trần – Lê, gắn với tinh thần lao động cần cù, sáng tạo của nhân dân Đại Việt. Không có sự sáng tạo của nhân dân, không thể có những thành tựu của nền văn minh Đại Việt.
- Văn minh Đại Việt ra đời và phát triển trong bối cảnh chịu ảnh hưởng và tiếp thu có chọn lọc các nền văn minh tiên tiến trên thế giới và trong khu vực lúc bấy giờ. Văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, Chăm pa… có những tác động và ảnh hưởng lớn đến văn minh Đại Việt.
* Thành tựu tiêu biểu:
- Về kinh tế: Xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, biểu hiện qua những thành tựu của nền văn minh lúa nước: sự tiến bộ trong công cụ lao động, trình độ sản xuất, sức kéo trâu bò, xây dựng đê điều, năng suất nông nghiệp…
- Về chính trị: Xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước trung ương tập quyền, hoàn thiện về mặt luật pháp qua các bộ luật: Hình thư (Lí), Hình Luật (Trần), luật Hồng Đức (Lê sơ)…đều phản ánh văn minh Đại Việt.
- Về văn hóa – giáo dục, khoa học – kĩ thuật: qua các triều đại cũng đạt những thành tựu tiêu biểu: phát triển Phật giáo, Nho giáo, hoàn thiện giáo dục, thi cử tuyển chọn nhân tài cho đất nước, xây dựng kinh thành Thăng Long rộng lớn, chế tạo được súng thần cơ, thuyền chiến có lầu…
* Đặc điểm, vị trí của nền văn minh Đại Việt
- Mang tính dân tộc sâu sắc: Văn minh Đại Việt là sự tiếp nối của nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc, có cội nguồn, có sức sống, mang tính nhân văn sâu sắc.
- Phát triển toàn diện, phản ánh tất cả các mặt đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
- Phát triển rực rỡ, đạt đến đỉnh cao trong khu vực thời bấy giờ, có sức sống mãnh liệt, có bản lĩnh mà nhiều cuộc chiến tranh vẫn không tàn phá được.
- Nếu như văn minh Văn Lang – Âu Lạc có vị trí phác họa và định hình bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc thì văn minh Đại Việt lại có vị trí kiện toàn, phát triển bản sắc ấy, góp phần tạo nên tâm hồn và tính cách Việt.
* Ý nghĩa của các thành tựu:
- Khẳng định sự phát triển của một quốc gia có nền văn hiến lâu đời, không bị yếu tố ngoại lai đồng hóa mà còn tiếp nhận có chọn lọc những ảnh hưởng từ văn hóa các nước.
- Thành tựu văn minh Đại Việt toàn diện trên tất cả các mặt. Vì thế, là cơ sở bền vững cho những thành tựu văn hóa ở giai đoạn lịch sử sau này.
* Suy nghĩ của em trước một nền văn minh rực rỡ như vậy:
- Lòng tự hào và Ý thức trách nhiệm….
- Những biện pháp góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc….
+ Hiện nay, nước ta đang trong thời kì hội nhập quốc tế. Trong xu thế thời đại ấy, nhiều cơ hội và thách thức đặt ra: sự xâm nhập của trào lưu văn hóa lớn trên thế giới dễ dàng ảnh hưởng và tác động đến văn hóa dân tộc, nhiều vấn đề mang tính toàn cầu ảnh hưởng đến việc gìn giữ bản sắc dân tộc: môi trường, dịch bệnh, sự phát triển của khoa học – kĩ thuật…
+ Văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập phải đảm bảo nguyên tắc không hòa tan đời sống vật chất và tinh thần với trào lưu của thế giới. Phải tận dụng những thành tựu khoa học - kĩ thuật để biết tiếp thu một cách chọn lọc, sáng tạo trên cơ sở gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.
* Câu 2: Chứng minh rằng: Văn hóa Đại Việt thời Lí – Trần – Hồ phong phú, đa dạng và thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
Các triều đại Lí – Trần – Hồ là thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Các triều đại này đã củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước, phát triển một nền kinh tế vững chắc, đồng thời cũng xây dựng một nền văn hóa phong phú, đa dạng, thể hiện tính dân tộc sâu sắc. Nền văn hóa phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc ấy được thể hiện qua các nội dung sau:
!! Văn hóa Đại Việt thời Lí – Trần – Hồ phong phú, đa dạng:
* Tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng:
- Từ thời Bắc thuộc, hệ tư tưởng phong kiến Nho giáo và các tôn giáo lớn như Phật giáo, Đạo giáo đã được truyền vào nước ta và có vị trí khác nhau trong xã hội.
- Thời kì phong kiến độc lập, hệ tư tưởng phong kiến Nho giáo được giai cấp thống trị tiếp nhận và từng bước nâng cao.
- Phật giáo cũng được truyền bá sâu rộng trong nhân dân và được giai cấp thống trị tôn sùng.
- Từ thời Đinh - Tiền Lê, đến thời Lý và sang thời Trần nhiều vua đã tìm đến Phật giáo.
- Thời Trần, Phật giáo trở thành hệ tư tưởng thống trị của Nhà nước phong kiến. Vua Trần Nhân Tông khi lên làm Thái Thượng hoàng đã xuất gia đầu Phật và lập ra dòng Thiền Trúc Lâm Đại Việt. Chùa chiền mọc lên nhiều nơi.
- Đạo giáo cũng được truyền bá trong nhân dân.
- Các tín ngưỡng cổ truyền như thờ cúng tổ tiên và những anh hùng có công với nước với làng... vẫn được duy trì và phát triển trong nhân dân.
* Giáo dục:
- Do nhu cầu xây dựng nhà nước và nâng cao dân trí đã thúc đẩy các nhà nước đương thời quan tâm đến giáo dục.
- Năm 1070, nhà Lý cho dựng Văn Miếu ở kinh đô Thăng Long. Năm 1075, nhà Lý tổ chức khoa thi đầu tiên. Năm 1076, lập Quốc Tử Giám
- Dưới thời Trần, các khoa thi được tổ chức đều đặn và quy củ hơn. Năm 1247, nhà Trần đặt lệ lấy "Tam khôi", mở rộng Quốc Tử Giám…. Nhờ vậy, nhiều trí thức tài giỏi của đất nước được đào tạo. Vị trí của Nho giáo ngày càng được nâng cao.
* Văn học:
- Văn học chữ Hán phát triển, xuất hiện nhiều bài hịch, bài phú nổi tiếng như: Nam Quốc sơn hà (Lí Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ ( Trần Hưng Đạo), Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu), các tập thơ của Trần Nhân Tông, Phạm Sư Mạnh…
- Ở các thế kỉ XI - XII, chữ Nôm ra đời trên cơ sở chữ Hán. Văn học chữ Nôm ra đời với nội dung: ca ngợi lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, ca ngợi vẻ đẹp của quê hương đăt nước… đánh dấu sự trưởng thành của văn hóa dân tộc.
* Nghệ thuật:
- Nhiều công trình kiến trúc Phật giáo được xây dựng: chùa Một Cột, tháp Báo Thiên, Kinh đô Thăng Long thời Lý, Trần và thành nhà Hồ ở Thanh Hoá với các cung điện, tháp chuông, đền đài, chùa, tháp được xây dựng. Ngoài ra các chùa, tháp được xây dựng ở các địa phương đã đánh dấu bước phát triển mới của nghệ thuật kiến trúc.
+ Cùng với nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc tinh tế, độc đáo với các loại hình khác nhau thể hiện những nét đặc sắc của văn hoá Đại Việt: chân bệ cột hình hoa sen, hành lang rồng, các bức phù điêu khắc hình rồng cuộn trong lá đề, tượng các vũ nữ vừa múa, vừa đánh đàn...
+ Nghệ thuật sân khấu như : tuồng, chèo, múa rối nước, đấu vật, đua thuyền...ra đời sớm và ngày càng phát triển. Các lễ hội dân gian... thể hiện bước phát triển mới.
* Khoa học - kĩ thuật:
- Nhiều tác phẩm sử học, y học, quân sự được biên soạn như: Đại Việt sử kí ( Lê Văn Hưu), Binh thư yếu lược ( Trần Hưng Đạo), Vạn Kiếp tông bí truyền thư...
- Kĩ thuật đúc súng, đóng chiến thuyền có bước tiến lớn....
- Văn hoá Đại Việt thời Lý, Trần, Hồ thường được gọi là văn hoá Thăng Long đã đạt đến trình độ phát triển cao và toàn diện.
!! Văn hóa Đại Việt thời Lí – Trần – Hồ thể hiện tính dân tộc sâu sắc:
- Tư tưởng, tôn giáo: tiếp nhận Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo từ bên ngoài, nhân dân Đại Việt hòa lẫn với tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng truyền thống của mình để tạo nên lối sống và cách ứng xử riêng...
- Văn học phát triển với hàng loạt các tác phẩm thơ ca, phú, hịch,... mang đậm tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, niềm tự hào...
- Sáng tạo ra chữ Nôm – chữ viết riêng của dân tộc để ghi chép, sáng tác...thể hiện tinh thần dân tộc sâu sắc.
- Hình thành nghệ thuật dân tộc trên mọi lĩnh vực: kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật sân khấu (múa rối nước, chèo...) ....thể hiện nét tinh tế, độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc.
* Câu 3: Trình bày quá trình xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X- XV? Nhận xét chung về văn hóa Đại Việt? Tại sao lại có sự phát triển đó?
Văn hoá Đại Việt từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XV phát triển với nhiều thành tựu rực rỡ, phong phú, đa dạng và thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
*Tư tưởng, tôn giáo:
Nho giáo dần dần trở thành hệ tư tưởng chính của giai cấp thống trị. Đặt thành những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ Vua - tôi, cha - con, chồng – vợ và là tư tưởng chi phối nội dung giáo dục thi cử. Mặc dù vậy, từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV, trong nhân dân ảnh hưởng của Nho giáo còn ít. Thế kỉ XV Nho giáo trở thành độc tôn.
Phật giáo trong các thế kỉ X - XIV, đặc biệt thời Lý - Trần, Phật giáo lại giữ vị trí quan trọng và rất phổ biến. Các nhà sư được tôn trọng, tham gia bàn việc nước như: Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh, Đỗ Thuận,... Từ vua đến quan và dân đều sùng đạo Phật, góp tiền xây dựng chùa, đúc chuông, tô tượng. Chùa mọc khắp nơi, sư sãi đông (chùa Một Cột, Tháp Báo Thiên, chùa Dâu,... vừa là nơi thờ cúng vừa là trung tâm văn hoá).
Đạo giáo truyền bá trong nhân dân, hoà lẫn với tín ngưỡng dân gian. Một số đạo quán được xây dựng.
Các tín ngưỡng: thờ cúng tổ tiên, những người có công với làng nước, các thần của tự nhiên,... ngày càng phổ biến.
* Giáo dục, văn học, nghệ thuật, khoa học - kĩ thuật
- Giáo dục:
+ Vai trò nâng cao dân trí và đào tạo nhân tài nhằm xây dựng nhà nước vững chắc.
+ Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, giáo dục Đại Việt từng bước được hoàn thiện và phát triển, trở thành nguồn đào tạo quan lại chủ yếu.
• Năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu.
• Năm 1075, khoa thi quốc gia đầu tiên được tổ chức ở kinh thành.
• Thời Trần, giáo dục, thi cử được quy định chặt chẽ và tổ chức đều đặn hơn.
• Mở rộng Quốc tử giám cho con em quý tộc, quan lại đến học.
• Năm 1247, nhà Trần đặt lệ “Tam Khôi”, quy định rõ nội dung học tập.
• Năm 1396, các kì thi được hoàn chỉnh.
Giáo dục phát triển tạo nên nhiều trí thức tài giỏi cho đất nước như Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh,...
Như vậy, thế kỉ XI - XV, giáo dục trở thành nguồn đào tạo quan lại, người tài, trí thức cho đất nước.
- Văn học:
+ Văn học chữ Hán phát triển: Công cuộc xây dựng đất nước và các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trở thành chủ đề chính của các bài thơ, phú và hịch như Hịch tướng sĩ, Bạch Đằng giang phú, Bình Ngô Đại cáo,... Hàng loạt tập thơ chữ Hán ra đời thể hiện lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Văn học dân tộc càng phát triển.
+ Truyện kí: Việt Điện U Linh tập, Lĩnh Nam chính quái.
+ Thế kỉ XI - XII, Chữ Nôm ra đời, thể hiện tinh thần dân tộc, lòng yêu nước tự hào dân tộc đánh dấu sự phát triển của văn học dân tộc. Xuất hiện một số nhà thơ Nôm.
+ Đặc điểm của văn học:
• Thể hiện tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, tự hào dân tộc.
• Ca ngợi những chiến công oai hùng, cảnh đẹp của quê hương đất nước.
• Đánh dấu sự hình thành của văn học dân tộc.
- Nghệ thuật
+ Nghệ thuật kiến trúc phát triển chủ yếu ở giai đoạn Lý - Trần - Hồ theo hướng Phật giáo phát triển, các chùa, tháp được xâỵ dựng như chùa Một Cột, chùa Dâu, chùa Phật Tích, tháp Báo Thiên, tháp Phổ Minh.
• Kiến trúc Nho giáo: xây dựng cung điện, thành quách, kinh đô Thăng Long được xây dựng từ thời Lý. Thành nhà Hồ được xây dựng ở cuối thế kỉ XIV là những công trình nghệ thuật tiêu biểu và đặc sắc của Việt Nam.
• Kiến trúc Chăm: Phía Nam nhiều công trình đền tháp Chăm được xây dựng mang phong cách nghệ thuật độc đáo.
+ Nghệ thuật điêu khắc: Những công trình trạm khắc ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo có những nét đặc sắc như : rồng mình trơn cuộn trong lá đề, bệ chân cột hình hoa sen nở...
+ Nghệ thuật sân khấu như tuồng, chèo ra đời và ngày càng phát triển. Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật đặc sắc, phát triển từ thời Lý.
+ Âm nhạc phát triển với các nhạc cụ như trống cơm, sáo, tiêu, đàn cầm, đàn tranh.
+ Ca múa trong các ngày lễ hội dân gian khá phổ biến, các cuộc thi đấu vật, bơi thuyền.
- Khoa học - kĩ thuật
+ Từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XV, nhiều công trình khoa học ra đời, như:
• Sử học: Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu (thời Trần), Đại Việt sử lược, Trùng Hưng thực lục, Việt Nam thế chí.
• Chính trị: Hoàng triều đại điển
• Về quân sự có Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
+ Kĩ thuật: Hồ Nguyên Trừng đã cho chế tạo súng thần cơ và thuyền chiến có lầu. Kinh đô Thăng Long được xây dựng.
* Nhận xét chung về văn hóa Đại Việt:
- Văn hóa Đại Việt thế kỉ X-XV đã đạt được trình độ phát triển cao, toàn diện trên tất cả các mặt: Tôn giáo, tín ngưỡng, giáo dục, văn học, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật.
- Văn hóa Đại Việt thế kỉ X-XV phát triển phong phú, đa dạng đạt nhiều thành tựu rực rỡ, đặc sắc.
- Chịu ảnh hưởng của yếu tố bên ngoài song vẫn mang đậm tính dân tộc và dân gian.
- Khẳng định tinh thần độc lập, tự chủ, làm nền cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc.
* Nguyên nhân của sự phát triển:
- Sự phát triển về các mặt kinh tế, chính trị… của các triều đại Lý, Trần, Lê sơ tạo tiền đề cho các mặt giáo dục, văn học, nghệ thuật phát triển.
- Các triều đại phong kiến đều có những chính sách tạo điều kiện cho các hoạt động này phát triển.
- Sự sáng tạo của nhân dân ta trong sản xuất, trong đấu tranh nhằm gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc.
- Mở ra thời kì hòa bình lâu dài, tránh tổn thất, giữ hòa hiếu.
II. Tư tưởng, tôn giáo
* Câu 4: Sự phát triển thăng trầm của Phật Giáo trong nước ta từ TK XI đến TK XV. Vì sao Phật giáo phát triển mạnh dưới thời Lý - Trần?
- Phật Giáo vốn được truyền bá sớm và khá sâu rộng, ngày càng thấm sâu hơn vào cuộc sống tinh thần của nhân dân. Tư tưởng Phật Giáo vốn phù hợp với truyền thống, với đời sống của người dân Việt cho nên sớm được tiếp thu và phát triển ở Đại Việt.
- Vào thời Lý, Trần, Phật Giáo được giai cấp thống trị tôn sùng và trở thành quốc giáo. Một số vị vua đã tìm đến Phật Giáo, tôn sùng Phật Giáo giống như vị vua khai sinh ra nhà Lý cũng xuất thân từ một nhà sư, còn vua Trần Nhân Tông thì cho rằng: Đại giáo của Đức Phật là phương tiện để mở lòng mê muội, là con đường soi rõ lẽ thường sinh, trách nhiệm nặng nề của tiên thánh là đặt mực thước cho tương lai, quân phép cho hậu thế. Vua Trần Nhân Tông khi lên làm Thái Thượng Hoàng đã xuất gia đầu Phật, lập ra dòng Thiền Trúc Lâm Đại Việt. Hay là vua Lý Thái Tổ khi lên ngôi đã cấp độ điệp cho hàng ngàn kinh sư lên làm tăng, vua quan góp tiền xây dựng chùa chiền, đúc chuông và viết giáo lí nhà Phật. Vào thời Lý, Trần chùa chiền được xây dựng khắp nơi, hễ nơi nào có nhà ở là ắt có chùa chiền, dân chúng quá nửa là sư.
- Đến thời Lê Sơ, Nho Giáo trở thành độc tôn trong xã hội và giáo dục Nho học thịnh hành, tư tưởng Nho Giáo trở thành công cụ để duy trì và bảo vệ trật tự xã hội phong kiến bởi lẽ Nho Giáo và tư tưởng của nó phù hợp với sự phát triển chế độ phong kiến.
- Đến thời Lê Sơ, nhà nước lại ban hành nhiều điều lệ hạn chế sự phát triển của Phật Giáo, nhà nước hạn chế xây dựng chùa chiền, lúc này Phật Giáo không còn được sự tôn sùng của giai cấp thống trị như thời Lý – Trần mà trở thành tôn giáo của nhân dân. Nhà nước phong kiến thiết lập tôn ti trật tự xã hội của mình theo tư tưởng Nho Giáo và Nho Giáo trở thành công cụ của giai cấp thống trị.
* Vì sao…
- Phật giáo được truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc, có nội dung phù hợp với phong tục tập quán và tấm lí người Việt nên được nhân dân ta tiếp thu và phát triển.
- Chế độpk còn đang trong giai đoạn đầu, Nho giáo chưa có điều kiện trở thành tư tưởng thống trị xã hội, vì vậy Phật giáo có điều kiện phát triển.
- Trên con đường phong kiến, giai cấp thống trị đã tiếp nhận Nho giáo và xem nó là hệ tư tưởng chính của mình. Tuy nhiên, để vượt khỏi sự ràng buộc của các ảnh hưởng từ phương Bắc, Phật giáo đã được đề cao, được giai cấp thống trị và nhân dân tôn trọng.
* Câu 5: Vai trò của Phật giáo ở nước ta từ thế kỉ X - thế kỉ XIV. Nhận xét về đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ta thời kì này.
* Vai trò của Phật giáo:
- Về chính trị - xã hội:
+ Thời Đinh - Tiền Lê: Tổ chức nhà nuớc có 3 ban: ban văn, ban vo va ban tăng. Ban tăng gồm các nhà sự như: Sùng Phạm, Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh có học thức uyên thâm, uy tín, được tham gia công việc triều chính. Như những cố vấn, nhà ngoại giao đắc lực của nhà vua, đặc biệt trong các dịp đón tiếp sứ nhà Tống.
+ Thời Lý -Trần: Phật giáo trở thành quốc giáo. Hầu hết các vua Lý và nhiều vua Trần đều sùng Phật, sai dựng chùa chiền, tô tượng đúc chuông, dịch kinh Phật, soạn sách Phật. Nhiều vị sư tăng có uy tín và địa vị chính trị như: Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Pháp Loa…
+ Phật giáo ảnh hưởng đến đường lối cai trị của nhà nước (chính sách thân dân, khoan dung). Vua Trần Nhân Tông khi lên làm Thái Thượng Hoàng đã xuất gia đầu Phật, lập ra dòng Thiền Trúc Lâm Đại Việt. Hay là vua Lý Thái Tổ khi lên ngôi đã cấp độ điệp cho hàng ngàn kinh sư lên làm tăng, vua quan góp tiền xây dựng chùa chiền, đúc chuông và viết giáo lí nhà Phật.
- Về văn hóa: các tăng sư thường được mời vào Hoàng thành để giảng kinh Phật. Trước khi nền giáo dục Nho học bắt đầu, nhà chùa thường là trường học và các nhà sư là thầy dạy học. Nhiều tác phẩm văn học mang tinh thần Phật giáo.
- Về tinh thần: giáo lí Phật giáo phù hợp với truyền thống, đạo đức và tính cách con người Việt Nam như: đoàn kết, yêu thương, đặc biệt là tính từ bi hỉ xả. Vì vậy, Phật giáo trở thành yếu tố tinh thần không thể thiếu trong đời sống nhân dân ta lúc bấy giờ.
* Nhận xét về đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ta thời kì này:
- Từ thế ki X đất nước ta được độc lập, tự chủ có điều kiện xãy dựng phát triển đất nước, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cũng nâng cao.
- Cùng với sự phát triển Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, phong tục, tập quán, tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Việt được khôi phục và phát triển.
- Văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm bắt đầu phát triển để lại nhiều phẩm nổi tiếng, với nội dung thắm đượm tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
- Nền giáo dục Đại Việt buớc đầu đào tạo ra nhân tài phục vụ cho cuộc xây dụng và bảo vệ Tổ quốc.
- Nhiều loại hình nghệ thuật, văn hóa dân gian như: tuồng, chèo, múa rối nước và nhiều trò chơi dân gian: đấu vật, nhảy đây, đua thuyền, chọi sà được thực hiện trong các lễ hội.
- Nhiều nghệ nhân sáng tạo ra nhiều nhạc cụ và lời nhạc để tấu hảt dân gian như: trống, sảo, tiêu, đàn cầm, đàn nguyệt,…
- Có nhiều bộ sử khái quát được tiến trình lịch sử dân tộc, nhiều công trình khoa học quân sự đúc kết được nhiều bài học kinh nghiệm quý về nghệ thuật đánh giặc độc đáo, sáug tạo,…
Nhìn chung đời sống văn hóa, tinh thần ngày càng phát triên phong da dạng và mang đậm bân sắc dân tộc và tỉnh nhân dân.
* Câu 6: Sự phát triển của giáo dục Đại Việt trong TK X – XV. Theo em nước ta thời đó, giáo dục có mặt tích cực và hạn chế gì?
* Sự phát triển.
- Do nhu cầu xây dựng đất nước và nâng cao dân trí đã thúc đẩy nhà nước đương thời quan tâm đến giáo dục:
- Thế kỉ XX:
+ Vào năm 1070, Lý Thánh Tông đã cho lập Văn Miếu ở kinh đô Thăng Long.
+ Vào năm 1075, tổ chức thi Nho học đầu tiên – thi Minh Kinh Bác Học hay Nho Học Tam Tường. Chữ Hán trở thành chữ viết chính thức lúc bấy giờ.
+ Vào năm 1076, cho lập Quốc Tử Giám.
- Từ TK XI – XV, giáo dục Đại Việt từng bước được hoàn thiện và phát triển:
+ Vào thời Trần, các kì thi được tổ chức đều đặn hơn, nội dung giáo dục được quy định chặt chẽ và mở rộng cho con em quý tộc và quan lại đến học. Vào năm 1396, các kì thi được hoàn chỉnh hơn.
+ Ở các TK XI – XII, chữ Nôm ra đời trên cơ sở học tập chữ Hán. Xuất hiện một số nhà thơ Nôm ở thời Trần, thời Hồ.
+ Ở thời Lê Sơ, quy chế thi cử được ban hành rõ ràng hơn, giáo dục Nho học thịnh đạt, trường Quốc Tử Giám tiếp tục được mở rộng, các khoa thi được tổ chức đều đặn hơn: cứ 3 năm một lần thi Hội ở kinh đô để chọn nhân tài và tất cả mọi người dân có học, có lí lịch rõ ràng đều được dự thi. Vào năm 1484, nhà Lê Sơ quyết định dựng bia và ghi tên tiến sĩ, những người đỗ tiến sĩ được khắc tên vào bia đá ở Văn Miếu và được vinh quy bái tổ. Thời Lê Sơ, số người đi học tăng gấp nhiều lần so với thời Lý – Trần, do quan niệm hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì nước mới mạnh rồi lên cao cho nên giáo dục phát triển thịnh đạt nhất vào thời Hồng Đức, cách lấy đỗ đạt rộng rãi hơn, cách chọn người công bằng hơn, đời sau không theo kịp.
* Tích cực:
- Sự phát triển giáo dục đã góp phần đào tạo được nhiều trí thức tài giỏi cho đất nước, góp phần quan trọng trong việc xây dựng đất nước như Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh,... .
- Cách chọn người đỗ công bằng, nghiêm túc, kẻ sĩ tài giỏi được đem ra sử dụng mà không bị bỏ rơi, trong nước không sót nhân tài, triều đình không dùng nhầm người.
* Hạn chế.
- Chưa phát triển được mạng lưới giáo dục rộng khắp để nhân dân theo học, con em nhân dân chủ yếu học ở đình, chùa, hay học tư, trường công lúc đầu để cho con cháu dòng dõi nhà vua theo học, sau mở rộng đến con em của các quan, quý tộc nhưng người dân bình thường thì không.
- Nội dung học nặng về kiến thức kinh sử “tầm chương trích cú”, chưa chú trọng đến các môn khoa học và kiến thức thực tiễn.
* Câu 7: Vị trí của Nho giáo ở quốc gia Đại Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII có sự chuyển biến như thế nào? Nêu nguyên nhân dẫn đến sự chuyển biến đó.
- Sự chuyển biến vị trí của Nho giáo: Từng bước suy thoái, mất dần vị trí độc tôn, nhưng vẫn còn giữ được địa vị thống trị trong xã hội.
- Nguyên nhân: Nho giáo là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp phong kiến thống trị nhưng chính giai cấp thống trị lúc đó đã thoái hóa. Chế độ phong kiến đi vào con đường suy vong.- Mặc dù giáo dục Nho học vẫn được duy trì nhưng nội dung Nho học sơ lược, số người đi thi và - Do tác động của kinh tế hàng hoá, quan hệ tiền tệ đã làm hao mòn tôn ti trật tự theo tư tưởng Nho giáo.đỗ đạt không nhiều.
* Câu 8: Trình bày những nét cơ bản về sự thăng trầm của tư tưởng và tôn giáo ở Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII
- Nho giáo:
+ Các chính quyền Mạc, Lê – Trịnh và các chúa Nguyễn vẫn lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng của thiết chế chính trị xã hội, ra sức củng cố địa vị của Nho giáo nhằm bảo vệ quyền thống trị của vương triều. Nho giáo nhìn chung vẫn còn giữ được địa vị thống trị trong xã + Tuy nhiên, do sự suy thoái của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa, sự tranh chấp giữa các phe phái phong kiến dẫn đến những cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến đã làm cho ý thức hệ Nho giáo ngày càng suy đồi, tôn ti, trật tự xã hội không còn như ở thế kỉ XV hội nhất là trong giáo dục và khoa cử.
- Phật giáo:
+ Được phục hồi và phát triển. Nhiều chùa chiền được khôi phục hoặc được xây dựng ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài; các vua chúa, quan lại rất sùng kính Phật, đua nhau theo Phật, nhiều người tự nguyện đóng góp tiền, ruộng đất cho nhà chùa để xây dựng, trùng tu chùa … Số người theo đạo Phật ngày càng đông. Tuy có sự phục hưng, nhưng Phật giáo không còn thịnh đạt như thời Lý – Trần. + Nguyên nhân sự phục hưng Phật giáo: trong những thế kỉ này, nhà nước phong kiến không còn hạn chế Phật giáo phát triển như thời Lê sơ thế kỉ XV. Bên cạnh đó, trong những thế kỉ này, Nho giáo suy đồi, không còn hấp dẫn, không còn ảnh hưởng mạnh đến ý thức, tư tưởng của nhiều người, trong khi đó nhiều người tìm thấy ở Phật giáo những nội dung tư tưởng phù hợp với mình hơn.
- Thiên Chúa giáo:
+ Từ năm 1533, một giáo sĩ đạo Thiên Chúa vào truyền đạo ở khu vực duyên hải tỉnh Nam Định, nhưng phải đến thế kỉ XVII, việc truyền bá đạo Thiên Chúa mới được đẩy mạnh. Lúc đầu, Đạo Thiên Chúa đươc chúa Nguyễn và chúa Trịnh ủng hộ, nhưng dần dần chúa Nguyễn và chúa Trịnh thực hiện chính sách cấm đạo
+ Mặc dù bị nhà nước cấm đoán nhưng các giáo sĩ vẫn lén lúc hoạt động truyền đạo, số người theo đạo Thiên Chúa ngày càng nhiều hơn, số giáo dân ở Đàng Trong và Đàng Ngoài vẫn tăng lên. Từ nửa cuối thế kỉ XVII, ở Đàng Ngoài đã có 35.000 giáo dân, 75 nhà thờ.
III. Giáo dục
* Câu 9: Sự phát triển của giáo dục Đại Việt từ thế kỉ X-XV?
- Do nhu cầu xây dựng đất nước và nâng cao dân trí thúc đẩy nhà nước quan tâm đến giáo dục:
+ Vào 1070, Nhà Lý đã cho lập Văn Miếu ở Kinh đô Thăng Long. Năm 1075 tổ chức thi Nho học đầu tiên, chữ Hán trở thành chữ viết chính thứclúc bấy giờ. 1076 cho thành lập Quốc Tử Giám.
+ Thế kỉ XI - XV, giáo dục Đại Việt từng bước được hoàn thiện và phát triển, nó thể hiện:
Vào thời Trần, các khoa thi được tổ chức đều đặn hơn, một kì thi sẽ lấy Tam khôi, nội dung học tập được qui định chặt chẽ và mở rộng cho con em quý tộc và quan lại đến học. Năm 1396, các kì thi được hoàn chỉnh.
Ở các thế kỉ XI - XII, chữ Nôm ra đời trên cơ sở học tập chữ Hán. Xuất hiện một số nhà thơ Nôm thời Trần, Hồ.
Đến thời Lê sơ thì qui chế thi được ban hành đều đặn hơn. Giáo dục ngày càng thành công, thịnh đạt. Trường Quốc Tử giám được tiếp tục mở rộng cho con em đến học, các khoa thi được tổ cức đều đặn 3 năm 1 lần và tất cả người dân có học, có lí lịch rõ ràng đều được dự thi. Năm 1484, quyết định dựng bia đá ở Văn Miếu và được vinh qui bái tổ. Thời Lê Sơ, số người đi học gấp nhiều lần so với thời Lý Trần do quan niệm “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì nước mới mạnh rồi lên cao” cho nên giáo dục phát triển thịnh đạt nhất vào thời Hồng Đức. Cách lấy đỗ đạt rộng rãi và công bằng hơn, đời sau không theo kịp
* Câu 10: Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mới mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp” là câu nói của ai? Từ câu nói này, liên hệ đến nền giáo dục hiện nay.
- Tác giả câu nói này là tiến sĩ Thân Nhân Trung – thời Lê (1484). Ông làm quan đến chức Lại bộ thượng thư và được vua Lê Thánh Tông vời vào dậy cho các hoàng tử trong triều đình.
- Ý kiến của Thân Nhân Trung vẫn còn nguyên giá trị, trong hoàn cảnh nào thì nhân tài cũng cần được trân trọng. Trong bối cảnh xây dựng đất nước hiện nay, trong thời đại cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra đòi hỏi các quốc gia, trong đó có Việt Nam phải coi trọng giáo dục. Giáo dục và kiến thức là chìa khóa để đi vào khoa học – kĩ thuật, là phương tiện đưa đất nước bắt kịp với xu thế của thế giới. Giáo dục phải được xem là quốc sách hàng đầu, là công cuộc đầu tư cho con người. Con người được giáo dục, đào tạo bài bản đầy đủ sẽ là nguồn nhân lực không thể thiếu trong cuộc cách mạng 4.0 hiện nay. Người lao động có đủ kĩ năng đổi mới, có trình độ cao sẽ là nguồn tài nguyên không thể thiếu trong công cuộc đòi mới.
- Ngày nay, Đảng, nhà nước ta đã có nhiều chính sách trong dụng người tài để học có cơ hội phát triển bản thân, cống hiến sức lực của minh cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. những sinh viên xuất sắc, những cán bộ có năng lực đều được chính phủ trợ cấp chi phí học tập ở nước ngoại, để sau này trở về phục vụ cho đất nước. Bên cạnh đó, những cải cách giáo dục luôn được đưa ra để phù hợp với từng thời kì của đất nước. Các trường học được xây dựng tạo điều kiện cho trẻ em các vùng miền có cơ hội học tập, các chính sách giảm học phí cho các em có hoàn cảnh khó khăn, những quỹ học bổng giành cho con em có thành tích cao trong học tập cũng được duy trì.
- “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” và thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần phát huy hết sức lực của minh để học tập, rèn luyện thể chất cũng như tinh thần…
* Câu 11: Hiểu thế nào về câu nói của Thân Nhân Trung: “….”. Lấy các sự kiện trong giáo dục trong các thời kì Lí, Trần, Lê sơ để làm rõ sự phát triển giáo dục thời kì này. Đánh giá mặt tích cực và hạn chế.
*Giải thích:
- Hiền tài là những người học rộng tài cao, thông minh, sáng suốt. Đối với mỗi quốc gia, có thể coi đó là hạt nhân, là khí chất ban đầu làm nên sự sống và sự phát triển của quốc gia.
- Người hiền tài có quan hệ lớn đến sự suy thịnh của mỗi quốc gia. Ở Trung Hoa trước đây, vào thời xuân thu – chiến quốc, thời Tam quốc, các nước mạnh yếu khác nhau đều nhờ vào việc trọng dụng người tài. Ở Việt Nam cả trước đây và bây giời cũng vậy. Thời nào người hiền tài được trọng dụng, triều đại nào, chế độ nào được người hiền tài giúp sức thì phát triển ngày căng mạnh. Ngược lại, nếu đất nước thiếu đi bặc hiền tài thì tất sẽ suy vong.
- Người hiền tài quan trọng với đất nước như vậy, thế nên nước ta trong các triều đại phong kiến đã từng hết sức quý chuộng hiền tài, làm mọi việc để khuyến khích phát triển nhân tài như đề cao danh tiếng của họ, cho chức tước, cấp bậc, ban yến tiệc, cao hơn là khắc bia tiến sĩ để lưu danh sử sách. Những việc làm đó của nhà nước là những minh chứng hừng hồn khẳn định vai trò của người hiền tài đối với mỗi quốc gia.
+ Vào 1070, Nhà Lý đã cho lập Văn Miếu ở Kinh đô Thăng Long. Năm 1075 tổ chức thi Nho học đầu tiên, chữ Hán trở thành chữ viết chính thứclúc bấy giờ. 1076 cho thành lập Quốc Tử Giám.
+ Thế kỉ XI - XV, giáo dục Đại Việt từng bước được hoàn thiện và phát triển, nó thể hiện:
Vào thời Trần, các khoa thi được tổ chức đều đặn hơn, một kì thi sẽ lấy Tam khôi, nội dung học tập được qui định chặt chẽ và mở rộng cho con em quý tộc và quan lại đến học. Năm 1396, các kì thi được hoàn chỉnh.
Ở các thế kỉ XI - XII, chữ Nôm ra đời trên cơ sở học tập chữ Hán. Xuất hiện một số nhà thơ Nôm thời Trần, Hồ.
Đến thời Lê sơ thì qui chế thi được ban hành đều đặn hơn. Giáo dục ngày càng thành công, thịnh đạt. Trường Quốc Tử giám được tiếp tục mở rộng cho con em đến học, các khoa thi được tổ cức đều đặn 3 năm 1 lần và tất cả người dân có học, có lí lịch rõ ràng đều được dự thi. Năm 1484, quyết định dựng bia đá ở Văn Miếu và được vinh qui bái tổ. Thời Lê Sơ, số người đi học gấp nhiều lần so với thời Lý Trần do quan niệm “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì nước mới mạnh rồi lên cao” cho nên giáo dục phát triển thịnh đạt nhất vào thời Hồng Đức. Cách lấy đỗ đạt rộng rãi và công bằng hơn, đời sau không theo kịp.
- Thân Nhân Trung viết: “Hiền tài…”. Hiệu quả của câu nói của ông không chỉ dừng lại trong xã hội thời Lê mà còn có giá trị đến tận bây giờ.
*Đánh giá
- Tích cực:
+ Việc nhà nước chú trọng vào giáo dục góp phần nâng cao dân trí trong nhân dân, giúp nhân dân cải thiện đời sống, có thêm hiểu biết về văn hóa, đời sống...
+ Sự phát triển giáo dục trong thời Lí, Trần, Lê sơ đã góp phần đạo tạo được nhiều trí thức tài giỏi cho đất nước, góp phần quan trọng trong việc xây dựng đất nước như Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi…
+ Cách chọn người rất công bằng, nghiêm túc. Kẻ sĩ bấy giờ tài được đem ra sử dụng mà không bị bỏ rơi, trong nước không sót nhân tài, triều đình không dùng nhầm người kém.
- Hạn chế:
+ Chưa phát triển mạng lưới giáo dục rộng khắp để cho mọi tầng lớp nhân dân đến học. Họ học ở các đình, chùa, trường công lúc đầu chỉ có con cháu dòng dõi nhà vua theo học, sau mới mở rộng đến con em quan lại, người bình dân chưa được vào đó theo học.
+ Nội dung học nặng về kiến thức kinh sử theo lối tầm chương chít cũ, chưa chú trọng đến môn khoa học – kĩ thuật, những kiến thức thực tiễn để phục vụ sản xuất.
LÊ SƠ
I. CÂU HỎI
* Câu 1: Em hãy trình bày nguyên nhân và khái quát nội dung cải cách của vua Lê Thánh Tông cuối thế kỉ XV? Đánh giá tác động của nó đối với quốc gia Đại Việt? Theo em, để có một cuộc cải cách thành công, ta cần những yếu tố gì?
* Câu 2: Anh(chị) hãy làm sáng tỏ nhận định: “Thời Lê sơ (1427 – 1527) là thời kì phát triển thịnh vượng của xã hội phong kiến Việt Nam”.
* Câu 3: Trên cơ sở trình bày khái quát nội dung và tác động của cuộc cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông, anh(chị) hãy rút ra bài học kinh nghiệm quý báu để phục vụ sự nghiệp cải cách hành chính hiện nay.
II. TRẢ LỜI
* Câu 1: Em hãy trình bày nguyên nhân và khái quát nội dung cải cách của vua Lê Thánh Tông cuối thế kỉ XV? Đánh giá tác động của nó đối với quốc gia Đại Việt? Theo em, để có một cuộc cải cách thành công, ta cần những yếu tố gì?
* Nguyên nhân:
- Sự khủng hoảng thiết chế chính trị diễn ra từ cuối thời nhà Trần với yêu cầu thay thế thiết chế chính trị phong kiến quí tộc Phật Giáo bằng thiết chế chính trị pk quan liêu Khổng Giáo - điều mà Hồ Quý Ly muốn làm nhưng không làm được. Đây là nguyên nhân sâu xa Lê Thánh Tông tiến hành cuộc cải cách.
- Cuộc khủng hoảng cung đình; Lê Nghi Dân đã giết vua Lê Nhân Tông và Hoàng Thái Hậu để cướp ngôi. Cùng với đó là sự thiếu hiệu lực của bộ máy hành chính. Tuy sau đó vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông có công khắc phục yếu kém bộ máy nhà nước nhưng chưa hiệu quả.
- Các vua Lê đã tiến hành phân cấp hành chính 3 đạo rồi 5 đạo nhưng cấp trung gian lại quá nhiều và hỗn độn ( phủ, huyện, lộ, trấn, xã) đất phong cho các công thần quá nhiều.
- Chế độ nô tì cần xóa bỏ để giải quyết sức lao động.
- Lớp quí tộc công thần sau kháng chiến chống quân Minh bị phân hóa. Số tích cực như Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trần Nguyên thì bị sát hại hoặ cô lập. Lê Sát, Lê Ngân lấn át cả quyền vua, quyền lực nhà nước bị phân tán, cơ chế pk tập quyền bị lung lay. Chính sự yếu kém của BM hành chính này buộc Lê Thánh Tông phải tiến hành cải cách.
* Nội dung:
- Vào những năm 60 của thế kỉ XIV, khi đất nước đã ổn định, vua Lê Thánh Tông tiến hành cải cách toàn diện trên các lĩnh vực:
- Về chính trị:
+ Trung ương:
Hoàn thiện bộ máy nhà nước Trung ương tập quyền, đề cao vai trò của vua chuyên chế (trung tâm của cải cách).
Vua bãi bỏ chức tể tướng, bãi bỏ chức Đại Hành Khiển,… Đặt ra các chức quan mới như Thái ,Thiếu (Thái sư, Thái Úy, Thái Phó, Thát Bảo) và đưa ra các chức Đại học sĩ để giúp vua. Bãi bỏ các cơ quan nội mật viện, chính sự viện, thành lập 6 bộ trực tiếp cai quản mọi việc và chịu trách nhiệm trước vua. Ngự sử đài có quyền cao hơn trước. Các cơ quan hành chính này đều đặt dưới quyền lực và sự quyết đoán cuối cùng của nhà vua.
+ Ở địa phương, nhà nước bỏ đi các đạo, lộ cũ chia cả nước thành 13 đạo thừa tuyên, đổi lộ thành phủ, đổi chấn thành châu, xã vẫn là đơn vị cơ sở.
+ Để củng cố bộ máy nhà nước trên, củng cố quyền lực của vua, Lê Thánh Tông sử dụng hệ thống công cụ hỗ trợ mang tính chi phối về mặt tư tưởng: Quyết định Quốc Giáo là Nho giáo, chi phối mọi vấn đề của đất nước; tư tưởng trung quân ái quốc, 3 mối quan hệ giường cột đã góp phần củng cố tôn ti trật tự tư tưởng xã hội phong kiến.
+ Tuyển chọn quan lại chủ yếu thông qua giáo dục để chọn những nhân tài có đức.
- Luật pháp: tổ chức biên soạn luật Hồng Đức với hơn 700 điều, về cơ bản, bộ luật Hồng Đức củng cố, bảo vệ chế độ pk, nhà vua và giai cấp thống trị. Tuy nhiên, bộ luật này cũng có những điều khoản bảo vệ sản xuất, bảo vệ đời sống của nhân dân, là bộ luật có tinh thần dân tộc, tiến bộ.
- Về quân đội: Đặt 5 phủ quân sự (Bắc, Nam, Trung, Tây, Đông) quân phủ, tiếp tục kế thừa và phát huy chính sách “ngụ binh ư nông”, đặc biệt chú trọng rèn luyện tinh thần chiến đầu của binh sĩ, thành lập các binh chủng, chuyên môn hóa, bảo vệ đất nước,....
- Về kinh tế:
+ Nông nghiệp: Nhà nước ban hàng chính sách quân điền, lộc điền, quy định việc chia ruộng đất ở các làng, xã, khuyến khích khai hoang, thành lập 43 sở đồn điền. Bộ phận ruộng đất tư hữu tăng lên nhanh chóng. Hệ thống đê sông được sửa đập, kênh mương được nạo vét,..
+ Thủ công nghiệp và thương nghiệp: Lê Thánh Tông khuyến khích phát triển các làng nghề thủ công. Nhà nước ban hành lệnh lập chợ, khuyến khích trao đổi sản phẩm. Nhiều làng thủ công mới hình thành. Kinh thành Thăng Long có 36 phố phường là một minh chứng cho nền thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển.
- Về xã hội:
+ Thời Lê Sơ, Nho giáo giữ địa vị độc tôn, tiếp tục phát huy tư tưởng tín ngưỡng, truyền thống.
+ Giáo dục: cải cách giáo dục, Thân Nhân Trung soạn “ chiếu khuyến học”. Ban qui chế thi cử mới, chặt chẽ, đều đặn 3 năm tổ chức 1 kì thi Hội 1 lần, tuyển chọn tiến sĩ, bổ sung vào BM quan lại của nhà nước. Đối tượng tham gia là toàn bộ con em dân thường cũng như quý tộc quan lại, nếu như có trình độ và lí lịch rõ ràng. Lệ “ vinh qui bái tổ”, khắc bia tiến sĩ để tôn vinh những người có trình độ, đỗ đạt cao → tạo động lực cho thế hệ trẻ noi theo.
+ Văn học Hán, Nôm cũng được phát triển mạnh. Hàng loạt tập thơ văn ra đời nhưu: Bình Ngô Đại Cáo, Ức Trai Thi tập,.. và một số bộ sử được biên soạn như Đại Việt sử kí toàn thư, Lam Sơn thực lục... Hội thơ Tao Đàn do Lê Thánh Tông sáng lập ra và là thành viên với những tác phẩm là kết quả cho 1 nền văn học.
+ Khoa học: Lê Thánh Tông chú trọng trong việc biên soạn có tác phẩm có giá trị, điển hỉnh là bộ “Đại Việt sử kí toàn thư” của Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê, “Hồng Đức biểu đồ”, “Đại Thành toán pháp”.
+ Đối ngoại: tinh thần chính trong chính sách đối ngoại là kiên quyết bảo vệ độc lập dt. Vì thế, đối với phong kiến phương Bắc tiếp tục thực hiện chính sách hòa hiếu, cống nạp nhưng luôn đứng trên tư thế của một quốc gia đl, tự chủ, mỗi bên làm chủ một phương. Đối với phương Nam, tiếp tục quan hệ thân thiện nhưng đứng trên tư thế của một nước lớn hơn.
* Tác động:
- Cuộc cải cách đã đưa chế độ phong kiến Việt Nam, đưa thời kì Lê Sơ, cuối thế kỉ XV phát triển đến đỉnh cao, đó là thời kì hoàng kim của chế độ phong kiến. Sự phát triển này đc thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: bộ máy nhà nước hoàn thiện từ trung ương đến địa phương, quyền lực của vua là quyền lực tối cao, kinh tế ổn định phát triển, đời sống nhân dân ấm no, không mất mùa, đói kém => không có cuộc đấu tranh của nông dân chống triều đình, đất nước được bảo vệ trọn vẹn, không bị xâm lược bởi các quốc gia láng giềng.
- Chính cuộc cải cách này đã đưa vị thế Đại Việt nâng lên trong hoàn cảnh đương thời: quan hệ đl với phương Bắc; Đại Việt là một quốc gia mạnh nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ.
* Muốn cải cách thành công thì:
- Phải có sự đồng thuận từ trên xuống dưới, từ trung ương đến địa phương, người lãnh đạo phải có quyết tâm thu phục người dân, được nhân dân ủng hộ, phát huy được sức mạnh toàn dân.
- Nội dung phải phù hợp với đất nước, phải đánh giá đúng sự thật đất nước, phải nhìn thẳng sự thật và cải cách toàn diện phải đáp ứng yêu cầu của đất nước đang đặt ra, đem lại quyền lợi tự do dân chủ, đời sống nhân dân được đảm bảo.
- Phải trong điều kiện đất nước độc lập, ổn định chính trị và mọi mặt.
- Mọi vấn đề trong nước đều tạo tiềm lực cho đối ngoại và ngược lại những yếu tố bên ngoài tạo nên môi trường thuận lợi cho điều kiện trong nước. Xây dựng và phát triển đất nước phải gắn liền với bảo vệ tổ quốc, đất nước mạnh, có thực lực sẽ tạo điều kiện cho nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Tổ quốc có độc lập, không bị xâm lược thì mới thúc đẩy cho kinh tế và các lĩnh vực khác phát triển.
* Câu 2: Anh(chị) hãy làm sáng tỏ nhận định: “Thời Lê sơ (1427 – 1527) là thời kì phát triển thịnh vượng của xã hội phong kiến Việt Nam”. Nhận xét về cải cách hành chính thời vua Lê Thánh Tông
Đây là một nhận định đúng đắn. Nước Việt Nam ta đã trải qua hơn 1000 năm phong kiến với những triều đại khác nhau như Ngô, Đinh, Tiền Lê… Trong đó, triều đại phát triển rực rỡ nhất là nhà Lê sơ thời Hậu Lê. Đây được xem là thời kì đỉnh cao của hong kiến Việt Nam.
Sau khi đánh thắng quân Minh, giành lại độc lập, năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, sáng lập ra nhà Hậu Lê, đặt tên nước là Đại Việt. Trong những năm đầu, các vua Lê ra sức xây dựng bộ máy nhà nước theo mô hình thời Trần, Hồ nhưng hoàn thiện, kiện toàn hơn. Giúp việc cho vua có Tể tướng và một số đại thần. Cả nước chia thành 5 đạo thừa tuyên, dưới là phủ, huyện, châu, xã. Vào những năm 60 của thế kỉ XV, khi đất nước đã ổn định, vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) đã thực hiện một cuộc cải cách hành chính để củng cố chế độ chuyên chế của nhà vua.
Vua bãi bỏ chức tể tướng, cấm các quan lập quân đội riêng nhằm tránh tạo phản. Thay vào đó, mọi quyền hành đều tập trung vào tay vua, vua nắm quyền chỉ huy quân đội, luật pháp… Vua Lê Thánh Tông thành lập 6 Bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công), đứng đầu mỗi Bộ có các Thượng thư phụ trách. Ngự sử đài có quyền hành hơn trước.
Cả nước được thành 13 đạo, trong mỗi đạo có 3 ti chuyên trách về vấn đề quân sự, dân sự, kiện tụng; dưới đạo là các phủ, huyện, châu, xã. Đây là cuộc cải cách lớn, toàn diện từ trung ương đến địa phương. Cuộc cải cách này củng cố quyền lực của nhà vua. Cuộc cải cách mang đậm tính quân chủ chuyên chế. Vì vậy, bộ máy nhà nước thời Lê sơ, đặc biệt là thời vua Lê Thánh Tông, đã đạt tới đỉnh cao.
Quân đội dưới thời Lê sơ được tổ chức quy củ, chặt chẽ, theo chế độ “ngụ binh ư nông” nghĩa là khi đất nước hòa bình sẽ đến các địa phương lao động sản xuất, giúp đỡ nhân dân, khi đất nước gặp hoạn nạn lại tập chung để đánh giặc. Vào thời Lê sơ, quan lại được tuyển chọn qua các khoa thi. Nhờ đó, giáo dục thời Lê sơ rất phát triển, trở thành nguồn đào tạo quan lại.
Vua Lê Thánh Tông đã ban hành bộ luật mang tên “Quốc triều hình luật” (Luật Hồng Đức) với hơn 700 điều đề cập đến mọi vấn đề trong cuộc sống , mang đậm chất bản sắc dân tộc. Luật Hồng Đức bảo vệ quyền hành của giai cấp thống trị, an ninh đất nước và một số quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Bên cạnh đó, vua Lê cũng chú trọng công tác đối nội, tạo khối đại đoàn kết dân tộc; phong tướng cho các thủ lĩnh, những người có công với đất nước, đặc biệt là những người có công trong chiến đấu quân Minh xâm lược. Chính sách đối ngoại cũng được chú trọng, tạo được sự đoàn kết, hòa khí với các nước. Quan hệ Việt - Trung cũng như với các nước láng giềng được duy trì êm đẹp.
Vào thời Lê sơ, kinh tế nông nghiệp được chú trọng và có những bước phát triển mới. Vua ban hành chính sách quân hiền, quy định việc phân chia ruộng đất, thành lập 43 sở đồn điền. Nhờ đó, ruộng đất tư hữu xuất hiện ngày một nhiều. Thủ công nghiệp và thương nghiệp dần được phục hồi và phát triển. Các xưởng thủ công xuất hiện ngày càng nhiều. vua cho thành lập các phiên chợ để trao đổi hàng hóa. Tuy nhiên, thời lê sơ hạn chế việc buôn bán, trao đổi hàng hóa với nước ngoài.
Vào thời Lê sơ, Nho giáo được độc tôn, Phật giáo và Đạo giáo trở thành công giáo của nhân dân. Do ảnh hưởng của Nho giáo, nên dòng Nho học phát triển. Các khoa thi được tổ chức để tuyển chọn nhân tài, dựng lại Quốc Tử Giám. Nhà nước tổ chức các khoa thi đều đặn, cứ 3 năm có một kì thi Hội ở kinh đô để chọn nhân tài. Tất cả mọi người dân có học, có lí lịch rõ ràng đều được đi thi. Những người đỗ đạt, xuất thân từ các thành phần khác nhau, dần trở thành tầng lớp thống trị, được ban cấp nhiều ruộng đất.
Văn học chứ Hán và chữ Nôm phát triển trong thời kì này, tiêu biểu có Bình Ngô Đại Cáo, Ức trai thi tập của Nguyễn Trãi. Nhiều công trình khoa học ra đời như Sử học với Bộ Đại Việt sử kí toàn thư…; Toán học có Đại hành toán pháp của Lương Thế Vinh.
Với cuộc cải cách hành chính, sự quan tâm của nhà vua, thời Lê sơ đã đạt tới đỉnh cao của phong kiến Việt Nam.
* Nhận xét về cải cách hành chính thời vua Lê Thánh Tông:
- Đây là một cuộc cải cách hành chính lớn ở thế kỉ XV. Cuộc cải cách tạo ra bộ máy quản lí hành chính từ trung ương đến địa phương. Tổ chức bộ máy nhà nước ngày càng chặt chẽ, hiệu quả hơn, tạo điều kiện ổn định về chính trị và phát triển kinh tế.
- Cuộc cải cách tạo ra sự thống nhất trong bộ máy quản lí của nhà nước quân chủ mới, là sự hoàn chỉnh bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền
* Câu 3: Trên cơ sở trình bày khái quát nội dung và tác động của cuộc cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông, anh(chị) hãy rút ra bài học kinh nghiệm quý báu để phục vụ sự nghiệp cải cách hành chính hiện nay.
Vào những năm 60 của thế kỉ XV, khi đất nước đã ổn định, vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) đã thực hiện một cuộc cải cách hành chính để củng cố chế độ chuyên chế của nhà vua. Vua bãi bỏ chức tể tướng, cấm các quan lập quân đội riêng nhằm tránh tạo phản. Thay vào đó, mọi quyền hành đều tập trung vào tay vua, vua nắm quyền chỉ huy quân đội, luật pháp… Vua Lê Thánh Tông thành lập 6 Bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công), đứng đầu mỗi Bộ có các Thượng thư phụ trách. Ngự sử đài có quyền hành hơn trước. cả nước được thành 13 đạo, trong mỗi đạo có 3 ti chuyên trách về vấn đề quân sự, dân sự, kiện tụng; dưới đạo là các phủ, huyện, châu, xã. Đây là cuộc cải cách lớn, toàn diện từ trung ương đến địa phương. Cuộc cải cách này củng cố quyền lực của nhà vua. Cuộc cải cách mang đậm tính quân chủ chuyên chế. Vì vậy, bộ máy nhà nước thời Lê sơ, đặc biệt là thời vua Lê Thánh Tông, đã đạt tới đỉnh cao.
Cuộc cải cách đã mang lại sự hưng thịnh cho đất nước, tình hình chính trị - xã hội ổn định, kinh tế đất nước phát triển, dân trí được nâng cao, năng lực quốc phòng được tăng cường, chế độ quân chủ trung ương tập quyền được củng cố, bộ máy hành chính nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn trước. Nhà nước được tổ chức thành một hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương. Trong bộ máy ấy vai trò của nhà nước trung ương rất lớn, có sức chi phối mạnh mẽ tới bộ máy chính quyền ở các địa phương.
Cuộc cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông ở thế kỉ XV đã để lại nhiều bài học quý báu cho công cuộc cải cách hành chính hiện nay.
Tinh giảm bộ máy nhà nước, tạo sự liên kết từ trung ương đến địa phương. Giữa các cấp bậc, chức vụ cần có sự phân định rạch ròi nhưng vẫn cần giám sát lẫn nhau để công việc điều hành đất nước được hiệu quả.
Coi trọng nhân tài: cần tuyển chọn những người tài giỏi, thông minh, sáng taojm đồng thời có những phẩm chất tốt, biết lo cho đất nước, nhân dân, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng đầu.
Cần có sự minh bạch trong công tác chỉ đạo và điều hành đất nước. Kiên quyết đấu tranh phòng chống tham nhũng.Vua Lê Thánh Tông đã từng nói với các quan đại thần trong triều rằng: “Làm quan mà tham nhũng thì dân ai oán, đem khí dữ trái khí hoà, mối tệ này phải kiên quyết loại bỏ”.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật, đề cao pháp luật. Dưới triều vua Lê Thánh Tông có Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng, là những chỉ dẫn giúp đất nước đi đúng hướng, xã hội được an bình.
ĐỐI NGOẠI
Trình bày khái quát chính sách đối nội, đối ngoại dưới các triều đại Lí – Trần – Lê sơ. Đảng ta đã kế thừa và phát huy những chính sách này trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay như thế nào?
Các triều đại Lí – Trần – Hồ là thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Các triều đại này đã củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước, phát triển một nền kinh tế vững chắc, đồng thời cũng xây dựng một nền văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Chính tình hình đất nước ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi để các nhà nước Lí – Trần – Lê thực hiện những chính sách đối nội và đối ngoại sau:
Chính sách đối nội:
- Thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc nhằm xây dựng nhà nước quân chủ vững mạnh.
- Luôn coi trọng vấn đề an ninh của đất nước.
- Thực hiện chính sách "nhu viễn" đối với các vùng dân tộc ít người: gả công chúa cho các tù trưởng dân tộc, ban chức tước mời về kinh....(thời Lí)
- Quan tâm, chăm lo đến đời sống nhân dân: đắp đê chống lụt, quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, bảo vệ sức kéo trâu bò...
Chính sách đối ngoại:
* Đối với triều đại phong kiến phương Bắc:
- Phong kiến phương Bắc ( Trung Quốc) là một quốc gia rộng lớn, đông dân, có bề dày lịch sử văn hóa lâu đời, là một quốc gia mạnh ở khu vực. Dù triều đại có khác nhau nhưng phong kiến phương Bắc luôn đồng nhất trong chính sách đối ngoại: đó là tham vọng bành trướng, mở rộng lãnh thổ. Việt Nam với vị trí thuận lợi và tài nguyên phong phú luôn là đối tượng bị Trung Quốc dòm ngó.
- Chính sách của các triều đại: luôn duy trì mối quan hệ hòa hiếu, hòa hảo với phương Bắc: nghiêm chỉnh thực hiện lệ sắc phong, triều cống; nhưng phải đặt trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ độc lập chủ quyền của nhau, không có nghĩa là nhu nhược, thần phục một cách mù quáng.
+ Khi đất nước bị đe dọa, xâm lược thì quân dân Đại Việt đoàn kết một lòng kiên quyết chống ngoại xâm, không đầu hàng, không khuất phục ( kháng chiến thời Lí – Trần, khởi nghĩa Lam Sơn) là minh chứng cho lòng quyết tâm này.
+ Khi kết thúc chiến tranh, các triều đại luôn thể hiện thiện chí hòa bình, tinh thần nhân văn. Sau chiến tranh, mối quan hệ hòa hiếu lại được thiết lập.
* Đối với các nước láng giềng phía Tây và Nam:
Ta thực hiện chính sách hòa bình, thân thiện, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau vì cùng thân phận là những nước nhỏ, tương đồng về điều kiện lịch sử. Mặc dù, đôi lúc có chiến tranh, đụng độ, căng thẳng nhưng chỉ mang tính cục bộ, nhỏ yếu.
Vận dụng, liên hệ....
Đất nước có nhiều thay đổi, bối cảnh khu vực và quốc tế cũng thay đổi so với thời Lí, Trần, Lê. Thế giới hiện nay bị chi phối bởi các quan hệ song phương, đa phương, các tổ chức...Hòa bình, hữu nghị hợp tác là xu thế của thế giới nhưng vẫn còn một số vấn đề như chủ nghĩa khủng bố...Thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế cũng khác trước. Vì vậy, ta chủ trương:
- Thực hiện phương châm: Việt Nam muốn và sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác, hữu nghị trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Luôn tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ, điều kiện thuận lợi của quốc tế nhằm xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình, bằng đàm phán nhưng sẵn sàng chiến đấu khi bị xâm lược để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc.
- Đấu tranh với Trung Quốc: Ta chủ trương ”vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, hợp tác về kinh tế, văn hóa nhưng kiên quyết đấu tranh giữ vững biên giới, chủ quyền biển đảo khi bị đe dọa.
- Đối với các nước láng giềng: ta chủ trương thiết lập quan hệ láng giềng hữu nghị, đường biên giới hòa bình, hỗ trợ nhau trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
- Để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế thì quan trọng nhất Việt Nam phải xây dựng đất nước vững mạnh, có thực lực. Đó là phải: củng cố và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc; phát triển kinh tế; xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc; hội nhập quốc tế chứ không bị hòa tan; củng cố an ninh – quốc phòng, thường xuyên hiện đại hóa quân đội để sẵn sàng đối phó với chiến tranh (nếu xảy ra). Trên thực tế, nước ta luôn bị đe dọa bởi các thế lực thù địch từ diễn biến hòa bình, xâm phạm chủ quyền biển đảo. Vì vậy, Việt Nam phải luôn cảnh giác, dựng nước đi đôi với giữ nước, kiên quyết đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
KINH TẾ
1. Nêu những chuyển biến lớn của dân tộc ta từ XVI – cuối TK XVIII trên các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục.
Lịch sử dân tộc ta từ TK XVI – XVIII đã chứng kiến nhiều biến đổi to lớn mang đầy tính nghịch lí với nhiều thành tựu song cũng không ít những hạn chế và khủng hoảng.
* Về chính trị.
- Nhà Lê Sơ đã không còn đủ năng lực để điều hành đất nước. Năm 1527, Mạc Đăng Dung đã phế truất vua Lê lập ra nhà Mạc. Mặc dù đã thi hành nhiều chính sách tích cực về chính trị nhưng nhà Mạc vẫn không giải quyết được những khủng hoảng về chính trị thời kì này.
- Lợi dụng điều này, các thế lực phong kiến tranh chấp nhau, trong đó các cựu thần của nhà Lê Sơ tiêu biểu là dòng nhà Trịnh ủng hộ vua Lê không phục tùng triều Mạc nên đã gây ra cuộc chiến tranh mà lịch sử gọi là chiến tranh Nam – Bắc triều: Nam triều là Lê – Trịnh và Bắc triều là nhà Mạc.
- Cuộc chiến tranh kéo dài hơn 50 năm nửa sau TK XVI mà kết cục là nhà Mạc bại trận, buộc phải tràn lên các vùng miền núi phía Bắc như Cao Bằng. Mặc dù vậy nhưng cuộc đấu tranh Nam – Bắc triều vẫn chưa chấm dứt, đồng thời lại nảy sinh thêm những mâu thuẫn trong các tập đoàn phong kiến.
- Nguyễn Hoàng lo sợ sẽ bị nhà Trịnh thanh trừ nên xin vào vùng Thuận Hóa để trấn thủ, âm mưu tách ra khỏi sự cai trị của nhà Trịn. Từ đó xuất hiện mâu thuẫn của 2 tập đoàn phong kiến lớn: nhà Nguyễn ở Đàng Trong và nhà Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài, đưa đến cuộc chiến tranh lớn của 2 tập đoàn phong kiến. Cuộc chiến này kéo dài liên miên, chia cắt đất nước ta, lấy sông gianh làm giới tuyến.
- Như vậy về mặt chính trị nước ta giai đoạn này lâm vào tình trạng khủng hoảng, chiến tranh liên miên. Nhưng sự chia cắt trong 25 năm đó chỉ là sự chia cắt về mặt lãnh thổ, còn về mặt nhà nước thì vẫn là quốc gia thống nhất, độc lập. Hơn nữa, đất nước còn có những chuyển biến tích cực về mặt bờ cõi với công lao mở mang lãnh thổ của nhà Nguyễn. Đặc biệt là tổ chức các hải đội khai thác biển đảo, làm chủ hai quần đảo lớn là Trường Sa và Hoàng Sa, đưa hai quần đảo này trở ành một phần lãnh thổ của nước ta.
* Về kinh tế:
- Ở Đàng Trong, nền kinh tế nông nghiệp có điều kiện phát triển do các chính sách tiến bộ của chúa Nguyễn như khai hoang, lập ấp, quan tâm đến sản xuất nông nghiệp. Đến đầu TK XVIII, các tỉnh Nam Bộ đã trở thành vựa lúa của Đông Nam Á.
- Tuy nhiên, ở Đàng Ngoài, nhà nước lại đình đốn, sa sút, khủng hoảng do vua Lê – chúa Trịnh không quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, thủy lợi trì trệ, mất mùa liên miên. Chính điều này đã dẫn tới những cuộc khởi nghĩa của nhân dân.
- Trong khi những màu sắc khác nhau ở hai miền thì thủ công nghiệp và thương nghiệp có điều kiện phát triển trong cả nước. Đây là thời kì mà nhiều ngành nghề thủ công nghiệp phát triển nhanh chóng. Thương nghiệp cũng có điều kiện phát triển, xuất hiện nhiều trung tâm buôn bán lớn: Ở Đàng Trong có Hội An, Gia Định; Ở Đàng ngoài có Kinh Kì, Phố Hiến. Các cảng biển đã xuất hiện, có sự giao lưu, buôn bán giữa thương nhân nước ta với nước ngoài ở cả Châu Âu và Châu Á.
* Về văn hóa – giáo dục.
- Đây là thời kì văn hóa – giáo dục nước ta có những bước phát triển mang tính đột phá.
- Về mặt tư tưởng: Bên cạnh Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, đã xuất hiện thêm Thiên Chúa giáo. Các tôn giáo nay song song tồn tại và sống hòa thuận trong đời sống tư tưởng của nhân dân.
- Về văn học – nghệ thuật, khoa học – kĩ thuật cũng có những thành tựu mới. Chữ Nôm xuất hiện và được sử dụng rộng rãi không chỉ trong các tác phẩm văn học và còn trong đời sống nhân dân. Cũng trong thời kì này, chữ Latinh, chữ Việt Nam hiện tại cũng xuất hiện và bắt đầu phổ biến. Do ưu thế về mặt khoa học và cách sử dụng, nhiều tác phẩm văn học chữ Nôm ra đời và đã trở thành những tác phẩm kinh điển của dân tộc ta.
2. Chứng minh kinh tế hàng hóa nước Đại Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII phát triển và mở rộng hơn thời kỳ trước. Vì sao trong thời kỳ này nền kinh tế hàng hóa nước ta lại có sự phát triển như vậy?
* Kinh tế hàng hóa nước Đại Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII phát triển và mở rộng hơn thời kỳ trước biểu hiện như sau:
- Trên lĩnh vực thủ công nghiệp: Bộ phận thủ công nghiệp chuyên nghiệp ở thành thị và nông thôn ngày càng phát triển và có xu hướng trở thành bộ phận sản xuất chính. Những làng thủ công chuyên nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều... Đặc biệt nghề khai mỏ không chỉ phát triển nhanh mà còn xuất hiện hiện tượng thuê mướn nhân công trong sản xuất. Nghề trồng mía, làm đường phát triển mạnh với kỹ thuật đạt trình độ cao, số lượng xuất khẩu ngày càng lớn.
- Trên lĩnh vực nội thương: Hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các địa phương được mở rộng hơn trước. Các làng xã lớn đều có chợ. Nhiều làng, hầu hết dân làng đều tham gia buôn bán. Nhiều vùng liên kết với nhau thành chu kỳ chợ, đảm bảo quanh năm đều có họp chợ. Hình thành các luồng buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các vùng miền... Mối quan hệ buôn bán giữa hai Đàng được duy trì và mở rộng...
- Trên lĩnh vực ngoại thương: Quan hệ buôn bán với các nước phương Đông không những được duy trì mà có xu hướng phát triển hơn trước. Nhiều kiều dân Trung Quốc và Nhật Bản định cư lâu dài ở nước ta để buôn bán.... Việc buôn bán với thương phương Tây như Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Hà Lan cũng hình thành và ngày càng phát triển, nhiều thương điếm được xây dựng...
- Sự hưng khởi của các đô thị: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, các đô thị xuất hiện ngày càng nhiều ở cả hai đàng, tiêu biểu như: Thăng Long, Phố Hiến, Hội An, Thanh Hà, Gia Định... Các đô thị là trung tâm trao đổi, buôn bán, hội tụ nhiều thuyền buôn, thương điếm của các nước phương Đông và phương Tây...
* Trong thời kỳ này nền kinh tế hàng hóa nước ta lại có sự phát triển như vậy là bởi vì:
- Do lãnh thổ đất nước được mở rộng, nhất là mở rộng về phía Nam, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước, trong đó có kinh tế hàng hóa.
- Sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển nên đã tạo ra được nhiều sản phẩm, trong đó có nhiều sản phẩm có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu trao, đổi mua bán trên thị trường.
- Trong thời kỳ này, luồng “thương mai Biển Đông” phát triển mạnh mẽ, trong khi đó, nước ta có nhiều cảng biển... thúc đẩy thương nhân các nước phương Đông và phương T- Chính quyền phong kiến ở cả hai Đàng đều có những chủ trương, biện pháp khuyến khích sự phát triển kinh tế hàng hóa như mở chợ, mở cửa đất nước, tạo điều kiện cho hoạt động trao đổi, mua bán...ây đến nước ta trao đổi, buôn bán...
3. Hãy xác định những yếu tố tác động đến sự phát triển kinh tế hàng hóa ở quốc gia Đại Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII.
- Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất và giao thương, lãnh thổ không ngừng mở rộng về phía Nam với đất đai màu mỡ, giao thông đường sông, biển, nhiều cảng sông, biển...
- Nhu cầu tiêu dùng trong sinh hoạt hàng ngày của quần chúng bình dân, trong đời sống xa xỉ của tầng lớp thị dân giàu có và đẳng cấp vua quan đã kích thích những ngành nghề thủ công phát - Do chính sách tích cực của chính quyền nhà nước phong kiến ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài: chính sách phát triển nông nghiệp, khuyến khích thủ công nghiệp, mở cửa giao lưu buôn bán…triển cả về số lượng và chất lượng.
- Sự phát triển sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm: Trong nông nghiệp hình thành những vùng sản xuất phục vụ thị trường, kĩ thuật sản xuất thủ công nghiệp được cải tiến, số lượng thương nhân giàu có tăng lên...,
- Sự giao lưu buôn bán trên thế giới gia tăng: thương nhân châu Âu mở rộng buôn bán với phương Đông, thương nhân các nước Đông Á cũng hoạt động rầm rộ, hình thành sự giao lưu buôn bán giữa các nước với Đại Việt.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro