Bất Hạ
Tần thì minh nguyệt hán thì quan
Vạn lí trường chinh nhân vị hoàn
Đãn sử long thành phi tướng tại
Bất giáo hồ mã độ âm san…
Ngày Bất Hạ đặt chân tới nơi đó, đất trời đã ngả một màu đào. Không biết hoa nở tại trời hay hoa nở tại người nữa. Có lẽ trong mắt Bất Hạ, tất cả những ngày sau đó đều chỉ là vạn dặm đào hoa.
Những cánh hoa mỏng manh như lụa xoay tròn, rơi xuống, đậu vào vai áo hắn, nhuộm trường bào thành một sắc đỏ rực. Hắn từ tốn đi trên con đường trắng toát một màu tang tóc, ngẩng đầu nhìn cửa cung tráng lệ huy hoàng, rồi bình thản bước vào. Giữa sắc trắng tê tái của cờ phướn và tiếng bọn cung tì thảm thiết khóc than, hắn như một tia sét từ trên trời giáng xuống, từng bước đi rất vững vàng nhưng lại nặng nề hơn tất thảy những bi thảm xung quanh.
Sương mù trắng toát, hoa văn vàng rực thêu trên áo bào ánh lên màu kim loại, như phượng hoàng giương cánh muốn bay cao.
Trong linh đường bày giữa đại điện ngập tràn bầu không khí u buồn. Bất Hạ ngẩng lên nhìn trần điện khảm ngọc ngà, bỗng thấy lòng mình trống hoác. Thuở sinh thời không biết quý thương, đến khi hồn về chín suối lại bày tang lễ long trọng, có ích gì đâu.
Nghe tiếng quát:
“Ngươi là ai?”
Hắn tới bên quan tài gỗ lim tơ vàng, đẩy bật nắp ra, thấy người nằm trong đó mắt nhắm nghiền như đang ngủ. Máu đen ở cổ và ngực hẳn đã được lau sạch, khâu lại, trên gương mặt vừa có vẻ nhăn nhó vì đau đớn, vừa có vẻ giải thoát khi rời chốn hồng trần. Cảnh chia tay thoáng qua nhức óc, hắn nghiến chặt răng, đập vỡ áo quan, ôm người kia vào lòng.
Tóc Văn Thanh xoã tung, không còn vẻ đen dài mượt mà khi mới gặp, mà đã bị chiến tranh giày vò cho khô cứng. Thi thể lạnh ngắt áp vào người hắn, hắn lại chỉ thấy ấm áp tronh lòng.
“Cấm quân đâu? Bắt lại! Tang lễ đông cung há có thể cho người ngoài quấy rối?” Ngài ngự đột ngột đứng dậy, gầm lên. Đáp lại cơn giận của vị vua già chỉ là thinh không im phăng phắc. Sau lưng Bất Hạ là ba quân theo Giản Văn Thanh từ sa trường về đây, chỉ trừ mấy toán người ở lại giữ gìn quan tái, làm thành một hàng người chắn lại hoàng thượng và văn võ bá quan. Đế vương kiệt sức tựa vào ngai vàng, nhìn thấy cảnh này càng thêm phẫn nộ, chỉ thẳng vào Bất Hạ:
“Giết kẻ này đi!”
Bất Hạ nghe thấy tiếng chân rầm rập, hẳn cấm quân đã áp sát linh đường. Hắn ngẩng lên thoáng trông vòng người lớp lớp, mũi gươm mũi giáo giương lên ánh xanh sắc lạnh, xem chừng muốn ra khỏi đây hẳn cũng khó khăn. Một tay vẫn ôm Văn Thanh, một tay hắn rút cây côn mang theo bên người, vung lên đánh mạnh vào tường. Dưới lực đánh của côn, tường vàng điện ngọc rung lên, bốn cột chống và xà ngang bằng gỗ lim dường như cũng chấn động. Những đường nứt rộng ra trong nháy mắt, một mảng tường lớn sụp xuống, ngăn cách vua tôi trên thềm cao với hắn, với Văn Thanh.
“Cẩu tăng hỗn xược, sao có thể để chuyện này xảy ra? Là ai cho hắn vào?”
Bất Hạ không màng lời đối đáp của họ. Hắn siết người thương vào lòng, khoác cho chàng một mảnh lụa dài đỏ thắm. Những sợi tơ tằm xâu châu ngọc được tết lại bằng nút đồng tâm, treo lên khăn hỷ, ngoài viền là vô số hoạ tiết chỉ vàng chỉ bạc ngụ ý song túc song phi.
Hắn loáng thoáng bắt được đôi lời một vị quan đáp:
“Thánh thượng bớt giận! Thái tử còn trẻ, quanh năm chinh chiến sa trường, không có phi tần tuẫn táng, nên thần mới gọi hắn vào đây…”
Ngài ngự hình như còn định nói thêm, nhưng Bất Hạ đứng hiên ngang giữa điện, không thèm để tâm đến bá quan mà ngước lên nhìn thẳng vào hoàng đế:
“Ngài không muốn cho Văn Thanh đi? Hay, hay lắm. Không thả đi nhưng lại để con trai tự sinh tự diệt trên sa trường từ khi chưa nhược quán? Không thả đi nhưng lần gây chiến nào cũng để Văn Thanh đích thân ra trận, đến nỗi Văn Thanh phải đeo mặt nạ vì sợ bị bắt làm con tin sẽ gây tổn hại đến ngài? Vinh quang giang sơn gấm vóc nặng nề như thế, bần tăng sợ là một người gánh không nổi.”
Hoàng đế ngừng một lát, chừng như đang tìm lời để nói, lại chừng như tự biện minh với chính mình:
“Đông cung là đế vương tương lai, ngự giá thân chinh là việc nên làm. Chỉ tiếc Văn Thanh bất tài vô phước, nên mới đi sớm mà thôi…”
Bất Hạ cười lạnh.
“Với ngài, y chỉ là một trong số những người thừa kế. Mất y, hậu cung của ngài,” Hắn đưa mắt liếc qua những đứa con trai đứng sau hoàng đế. “Xem ra cũng chẳng thiếu thái tử. Quả nhiên là những quân cờ mặc sức cho ngài dùng. Mỹ nhân tự cổ như danh tướng, chẳng hứa nhân gian được bạc đầu, ra đi sớm vốn chẳng phải bất hạnh, bị giam cầm trong lầu son gác tía như một quân cờ mới đáng tiếc thay. Văn Thanh sống trong cung, chết sa trường, tất thảy đều là một lòng vì nước. Còn mỗi thân xác y, bần tăng phải mang về. Đó là di nguyện của y.”
Trời đầu xuân trở rét, chính điện rộng lớn u tịch, đôi ba tia nắng yếu ớt len qua những song cửa hào hoa. Ánh dương tuy nhạt nhoà nhưng sáng rõ, chiếu lên người Bất Hạ, lên thanh niên trong lòng hắn.
Cấm quân lùi lại. Trong số những người này không ít con em quý tộc hay binh lính từng quen biết với cố Đông cung Thái tử, đều cảm phục trước tấm lòng y. Họ đứng cùng toán quân ngàn dặm từ biên ải về, giáp sắt của cấm vệ lẫn với màu áo trắng tang tóc của Thái tử binh, làm thành một đoàn người trắng. Họ lần lần cúi xuống theo từng bước Bất Hạ đi, gươm giáo sáng loà, ánh bạc chói mắt.
Không biết ai là người đầu tiên hô lên:
“Thần cung chúc Minh Nguyệt tướng quân ra đi bình an!”
“Cung chúc Minh Nguyệt tướng quân ra đi bình an!”
“Cung chúc Minh Nguyệt tướng quân ra đi bình an!”
“Cung chúc Minh Nguyệt tướng quân ra đi bình an!”
…
Họ không gọi Giản Văn Thanh là hoàng thái tử, bởi bình sinh người kia căm ghét nhất là danh xưng này.
.
Đoàn quân rầm rập tiễn Bất Hạ và Văn Thanh đi. Tân lang khoác hỉ phục ngồi trên bạch mã, áo đỏ ngựa trắng, tân nương được người ta dìu vào kiệu hoa trắng toát, trên tóc lại choàng khăn đỏ. Người phu kiệu mặc áo trắng thắt đai lưng bạc, cờ quạt phướn thêu trắng phơ, sáo kèn tất thảy đều làm bằng kim loại trắng. Đỏ cũng thắm màu, trắng cũng chói loá, một đám tang đám cưới như vậy trong vẻ tang thương lại thấm đẫm mừng vui.
Cổng Chu Tước rộng mở, nhìn đoàn người chầm chậm rời khỏi kinh thành. Trên tường đá, những dây hoa lăng tiêu leo đầy, thích ý. Đêm hôm qua sương lạnh giá, đôi bông đẫm nước rung rinh, một vài cánh hoa bị gió vùi dập rơi lả tả trên mặt đường, cuối cùng bị người qua lại dẫm nát.
Đó là kinh đô, là nơi Văn Thanh sinh ra và lớn lên, cũng là nguồn cơn của mọi bi kịch.
Bất Hạ ngoái đầu nhìn lại, thay người yêu tạm biệt cố hương.
Từ nay về sau, rời chốn phồn hoa, trời cao chim không mỏi, cái chết lại trở thành con đường duy nhất đến với tự do.
Họ đi trên quan đạo, suốt một buổi trưa mà không hề ngưng. Phu kiệu xôn xao với nhau đầy khó hiểu, song pháo hỉ vẫn cứ nổ, trống nhạc vẫn vang lừng, tân lang vẫn cứ thúc ngựa ung dung, không hề có chút gì lo lắng.
Hôm nay trời không nắng, sương giá vừa đủ, làm tầm nhìn con người hơi mờ mịt. Có lẽ do đường đến chỗ gập ghềnh, có lẽ do đi nhiều chân mỏi, đến một đoạn khó đi, hai phu kiệu dẫn đầu bỗng vấp ngã, tân nương rơi ra ngoài.
Bất Hạ ghìm cương, con ngựa hí dài một tiếng. Hắn nhảy xuống ngựa, vội tới bên cạnh Văn Thanh, ôm y lên. Lạ thay, dẫu rơi ra khỏi kiệu hoa, khăn hỉ thêu vàng trên đầu Văn Thanh không hề rơi xuống, cũng không mảy may dính bùn đất của quan đạo.
“Tới đây là được rồi.” Bất Hạ ngoảnh lại nhìn thủ lĩnh đoàn quân, bình tĩnh nói. “Mọi người trở về đi thôi, kẻo muộn.”
Chính Văn Thanh đã chọn nơi này làm nơi nghỉ giấc ngàn thu. Vị thủ lĩnh chắp tay hành lễ với Bất Hạ và Văn Thanh theo lễ nhà binh, sau đó đoàn quân rầm rộ quay về, chỉ để lại Bất Hạ và Văn Thanh ở đó.
Bất Hạ tất nhiên là biết nơi này. Lúc hai người quen nhau đến độ tạm gọi là thân thiết, hắn và Văn Thanh đã từng đến đây thưởng hoa, uống trà, đàm luận. Hắn ôm y, lần theo trí nhớ đi vào con đường mòn nhỏ, chưa tới thời gian một chén trà đã thấy mảnh vườn trải đầy sắc hồng, sắc đỏ, tươi thắm như mùa xuân. Lần trước tới nơi này, hoa hồng hoa đỏ cũng nở đầy sân. Hắn nhìn trời rồi lại nhìn người trong lòng, từ tốn đưa tay vén khăn hỉ, đặt nó ra sau.
Nét mặt Giản Văn Thanh lúc rời cấm cung, hình như dịu dàng, vui vẻ hơn một chút.
Tất cả những lạnh lùng ấm áp, cao quý tầm thường, tất cả những trận chiến đẫm máu tươi và những lời kinh đầy sát khí, cuối cùng trở thành con dao đục khoét trái tim hắn. Ngực hắn căng lên đau xót, tay nắm chặt tay Văn Thanh, lệ cũng không thể rơi ra khỏi hốc mắt. Hắn ngây ra nhìn y, đoạn từ từ gục xuống, hai vai run lên, khóc không thành lời.
Trong vườn đào có một căn nhà nhỏ, nội thất cũ kỹ. Hắn đặt người kia xuống đất, cũng quỳ theo, nâng tóc người kia lên, cắt lấy một lọn. Những sợi tóc dài đen tuyền được hắn buộc lại bằng một dây đồng tâm đỏ thắm, cẩn thận bỏ vào chiếc hộp gỗ lim, luôn mang theo bên người.
Một ngày đầu xuân, Hạ Phục Châu an táng Giản Văn Thanh dưới những gốc đào vạn tuổi.
Khi một tâm phúc của Văn Thanh đến, gã thấy hắn đang ngồi trơ như tượng trước một mảnh đá hoa cương trắng. Mảnh đá được điêu khắc đẹp đẽ tỉ mỉ, xung quanh viền là hoa văn rồng phượng tang du rất tinh xảo, nhưng ở giữa lại để trống hoàn toàn. Một tấm vô tự bia.
Bia không khắc chữ, bởi vì không ai có thể đánh giá Giản Văn Thanh. Cuộc đời trong sạch của người kia cũng không đáng để bị thế nhân khoác lên những ngôn từ hoa mỹ phù phiếm.
Những bước chân của người cận thần hình như đánh thức Bất Hạ. Hắn đứng dậy, ngơ ngác một hồi như vừa tỉnh mộng, rồi bước nhanh đến bên cạnh cây đào đẹp nhất, chiết lấy một cành con.
Lúc hắn cắm cành đào xuống đất bên cạnh nấm mồ mới xây, cận thần thấy lòng gã chua xót.
Bất Hạ giao vườn đào lại cho gã, dặn gã chăm nom cẩn thận rồi mới rời đi. Ngày nào cũng túc trực bên Giản Văn Thanh, hẳn hắn sẽ phát điên mất.
.
Gậy trúc giày rơm say chếnh choáng
Nào ngán!
Áo tơi mưa khói mặc bình sinh.
.
Mỗi năm, người tâm phúc chỉ thấy Bất Hạ về lại một lần. Có lúc là mùa xuân, Bất Hạ âm thầm tưới tắm cho cành đào nhỏ, sờ vào những vết chạm trên mộ, vẻ mặt mông lung. Có lúc là mùa đông, hắn quỳ trước bia mộ, mặc cho tuyết phủ trắng cả một thân áo đỏ. Hình như từ lúc Văn Thanh chết, hắn không màng gì hạ thu đông nữa; trong mắt hắn, bốn mùa cũng chỉ một mùa hoa.
Có một lần hắn về, tóc đã dài ra, một đầu bạc trắng. Hắn cắt mấy lọn, cẩn thận tết vào mấy lọn tóc đen tuyền của Thái tử ngày xưa. Thoáng nhìn lại, hoá ra đã lâu như thế.
Đã, rất nhiều năm qua.
Chỉ có nỗi đau hai bờ sinh tử là không bao giờ dứt.
Bất Hạ lại quỳ trước mộ, lẳng lặng ngắm nghía tấm đá hoa cương. Bia đá được lau chùi cẩn thận, xem ra kẻ tuỳ tùng kia vẫn một lòng trung thành. Hắn chạm vào mộ mà như chạm vào má người yêu, thì thào:
“Bây giờ, chúng ta có thể kết tóc xe duyên được rồi. Bao giờ báo được thù, ta sẽ đoàn tụ cùng em.”
Một hồi phong vân, rốt cuộc vẫn chỉ là quá khứ. Quế trên trời, trăng dưới nước, ngoái đầu nhìn lại, bỗng hóa ra cơn mộng mị của mùa xuân năm nào.
Mấy hôm sau hắn lại trở về bên mộ, nhưng đã trút bỏ áo đỏ, khoác lên trường bào trắng toát như áo tang. Người như hắn mặc áo trắng ắt cũng phải tiên khí phiêu hốt, chỉ là trên áo thấm đẫm máu tươi, đỏ rực như hoa đào vào mùa thắm nhất. Cây đào trồng trước mộ chỉ lớn bằng một ngọn sào, không đủ chở che người ngủ yên bên dưới. Hắn dùng côn đào đất, đào suốt một đêm một ngày, người cận thần muốn phụ giúp cũng đành lực bất tòng tâm.
Máu ứa ra từ những kẽ ngón tay, hắn tiếp tục đào xuống, chẳng màng bùn đất dính lên người.
Sáng hôm sau, người cận thần trông mộ thấy hắn đã nằm xuống, tự lấp huyệt lại.
Hoa đào nở rộ, từng cánh mong manh, đậu lên má Bất Hạ như một nụ hôn ngày cũ.
Ngày ấy, Văn Thanh còn trẻ, hắn cũng chưa già.
Lòng người chứa cả thế gian, thế gian nào có ai để mắt tới người?
Người vì lê dân bách tính mà xông pha trận mạc, ta nguyện vì người bày việc kiếm cung. Dây cung còn căng, lam nhan đã khuất. Cảnh còn người mất, hận của người đã rửa, ta luyến tiếc làm chi chốn bụi hồng.
Phục Châu nguyện nằm bên người, không cần xưng tên tuổi. Nếu công đức không đủ để Như Lai độ người thoát hồng trần, vậy để ta làm thay.
.
Cận thần khóc thương cho họ, khắc lại bia, đề rằng: “Minh Nguyệt tướng quân đồng thê tử chi mộ”. Về sau sống ở đấy, canh gác đến khi qua đời, người ta trông vào đều cảm thán là kẻ tận tâm.
Thời gian trôi đi.
Sau này, vườn đào ấy dần ít người chăm sóc, đào cũng chết đi lần lần. Chỉ còn lại một cây đào lớn phủ bóng rộng khắp, bên dưới là một nấm mồ đá hoa cương.
Trên cao, trời xanh, lồng lộng như năm tháng.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro