Viec lang
DAO CẦU THUYỀN TÁN (TRÍCH)
TÔI CÒN SỐNG VÌ KHÔNG UỐNG THUỐC ...
Hôm sau bệnh tôi đã khỏi, mới đến thăm bạn thì anh Xuân
vẫn cứ bồ hôi ướt đầm, chân tay vật vã không lúc nào yên. ông bà
hơi sợ, lại cho mời ông lang đến. Theo lệ, cụ lang ra bộ trầm tĩnh
nắm vào cổ tay bệnh nhân, rồi bảo nhà chủ:
- Mạch cậu ta đã bớt nhiều lắm rồi đấy, còn cái bồ hôi thì
không ngại gì, tôi cho uống một thang "Ngọc bình phong" là khỏi.
Ngài lại ngoảnh vào mặt tôi và tiếp:
- Chắc là thầy cũng không biết thuốc "Ngọc bình phong" là
thuốc cầm bồ hôi rất diệu. Nó chỉ có ba vị hoàng kỳ, phòng phong,
cam thảo mà thôi, nhưng hay lắm, hay vì hoàng kỳ dùng với
phòng phong:
Thánh nhân dạy rằng:
"Hoàng kỳ úy phòng phong, đắc phòng phong kỳ lực dũ đại"
nghĩa là hoàng kỳ thì sợ phòng phong, mà được phòng phong thì
sức nó càng lớn. Thầy tính tôi có nhớ sách không? Nếu làm thuốc
mà không nhớ sách thì giết người ta đấy".Rồi cụ lang mới sai lấy
giấy kê đơn. Bấy giờ tôi cũng phục sách, tin rằng anh Xuân uống
thang thuốc ấy sẽ khỏi. Chẳng ngờ anh ta rủi quá, không chịu
theo sách mà ốm thành ra thuốc tuy cắt vào sách mà bệnh vẫn
không chuyển, bồ hôi vẫn ra, nước vẫn khát, lưỡi sắp đổi ra màu
đen và khô như ngói. Cái lo của cha mẹ cũng theo cái bệnh của con
mà tăng lên, ông bà bàn nhau đổi tay, sai người mời thầy lang
khác.
Thăm bệnh, thăm mạch xong rồi cụ lang này phải giữ đúng
"luật" thầy lang, mắng luôn cụ lang trước không biết làm thuốc,
bệnh là bệnh âm hư mà dám dùng những tứ tô, phòng phong, láo
quá. Rồi cụ kê cho một cái đơn cụ gọi là bài lục vị, cụ dặn ba thang
thì khỏi. Người nhà theo đúng lời cụ. Uống hết thang thứ nhất,
chẳng biết thuốc trúng bệnh hay anh Xuân đã hết bồ hôi mà
không thấy bồ hôi nữa, nước cũng đỡ khát nhưng lưỡi lại đen
thêm, và cả ngày nằm lá bì không cựa. Đến thang thứ hai thì các
chứng cũ vẫn nguyên, lại phát thêm chứng đầy, nhưng người nhà
vẫn tưởng là bớt. Uống thang thứ ba thì bụng phát trướng, trước
còn bí tiểu tiện, sau rồi bí cả đại tiện. Bấy giờ ông bà đã rối như
canh hẹ, mới thải cụ lang ấy, đồng thời rước hai cụ lang khác. Cái
lệ cụ lang đến sau vẫn phải công kích cụ lang chữa trước là cố
nhiên rồi. Hai cụ này cũng không đồng ý kiến với nhau. Cụ thứ
nhất bảo bệnh nhân mạch trầm vi, đó là hỏa suy, dương hư, theo
như sách Phùng thị đã dạy, phải dùng Bát vị xung sâm, mà phải
có quế thật tốt mới được.
Cụ thứ hai nói cả hai tay mạch đều khẩn thực, nó là nhiệt tà
uất kết, phải hạ mới khỏi. ấy mưới rầy, cùng một cái phập phồng ở
mạch máu, mà một cụ gọi là trầm vi một cụ gọi là khẩn thực,
chính cái tay của người có bệnh lại không biết cãi, thì biết nghe ai
bây giờ. Thế nhưng hai cụ vẫn cứ cãi nhau, cụ thứ hai bảo uống
sâm quế thì chết, cụ thứ nhất bảo hạ thì không gỡ được. Rút cục,
cụ thứ nhất thắng, vì đã nói đến sách Phùng thị, thứ sách mà nhà
chủ nói là môn vương đạo. Vả lại, thuốc có sâm quế, nhiều vị
trọng, khiến cho người nhà dễ tin. Uống một thang, chỉ thấy hai
mắt đỏ ngầu, còn các chứng vẫn đâu đóng đấy. Uống một thang
nữa, đại tiện vẫn bí như trước, lại thêm được chứng nói mê nói
sảng, hơi thở cực to và mau. ông bà lúc này mới tin lời cụ lang thứ
hai hôm nọ nói phải, lật đật sai người đi rước cụ đến. Đắc thế, cụ
mắng chủ nhà, cụ mắng các bạn đồng nghiệp, tưởng như khí tức
sắp bốc lên tận mây xanh. Nhà chủ nằn nì mãi, cụ mới hơi dịu nét
mặt và rung đùi nói mát:
- Tôi kệ bài tiểu thừa khí mà dùng năm đồng phác tiêu, ba
đồng đại hoàng, ông bà có bằng lòng không?
Nhà chủ lúc ấy chỉ một mực nâng cụ lên bậc cứu dân độ thế
mà xin cụ cứu cho con mình, chứ còn dám nói gì nữa. Thuốc sắc
rồi, anh Xuân không còn đủ sức mà húp, người ta phải lấy thìa mà
đổ vào miệng cho anh. Hay lắm!
Thuốc đi khỏi họng độ ba tiếng đồng hồ, bụng anh Xuân thấy
réo ầm ầm, rồi thì đại tiện cứ ra, trướng bớt, thở bớt.
Nhưng từ đó thì anh hóa ra người trống tràng, đại tiện cứ tự
do mà chảy ra nhiều. Cụ lang xoay xỏa hết ba thang thuốc, mà cái
quái vật ấy không nể mặt cụ, nó cứ luôn luôn tìm đường đi ra. Anh
Xuân thì da thịt đã tiêu tan đi hết, trong bụng lại thấy đau. Ông
bà hồn vía chẳng còn, không biết lấy thuốc đâu cho con. Nhân có
người bạn đọc cái quảng cáo của dược phòng nọ, thấy nói ông chủ
dược phòng giỏi lắm, chứng gì cũng chữa được hết, ông bà tức tốc
cho mời đến ngay. Nắn cổ tay, sờ bụng, thấy nói đau bụng, ông chủ
dược phòng bảo luôn là đau dạ dày phòng tích, không cần phải
uống thuốc chén, chỉ dùng vài chục ve thuốc chữa dạ dày của mình
là khỏi. ông bà nóng ruột, thấy nói sao thì vơ lấy vậy, sai ngay tôi
đến dược phòng ấy mua 20 ve một lúc.
Tôi ngờ quá, trước khi cho anh Xuân uống, tôi hãy nếm thử,
thấy nó mằn mặn như vị thuốc muối bicarbonate de soude, chua
chua như vị sơn trà, thơm thơm như vị mạch nha, ngòn ngọt như
vị cam thảo, thả vào nước thì nó vàng lòe như sắc hoàng liên. Anh
uống hết ba ve, bệnh tình vẫn không giảm chút nào, nghĩa là đại
tiện mãi không cầm được, mà người thì cực kỳ suy nhược. Lại vì
một cái quảng cáo khác, ông bà cho mời một ông chủ y quán khác
cứu cho con mình. ông này cả quyết là không việc gì, chỉ uống một
liều thuốc viên là khỏi, nhưng thuốc đắt lắm, một đồng hai viên,
một liều năm viên. Con như thế ai còn tiếc tiền, một đồng một viên
chứ 10 đồng một viên, ông bà cũng lấy. Lấy thuốc về, tôi lại nhấm
thử, thì toàn là xái thuốc phiện, anh Xuân uống hết năm viên thì
đại tiện cầm hẳn, nhưng bụng lại trướng lên bằng cái trống. Thế
rồi sau một ngày nữa bạn tôi tắt nghỉ. Thương hại thay! Tôi với
bạn cùng chung một bệnh, kẻ không uống thuốc thì khỏi, một kẻ
từng trải năm sáu ông lang, tống vào bụng bao nhiêu thứ thuốc thì
phải bỏ cha bỏ mẹ mà đi...
Ai giết anh Xuân? Hẳn là những ông "cứu thế độ dân" ấy.
Cái chết của anh Xuân đã định cho tôi một câu kết luận về bọn
"dao cầu thuyền tán" hiện thời. Tôi kết luận rằng: vô số ông chủ
của vô số "dao cầu thuyền tán" kia, họ chỉ cần có người ốm để bán
thuốc, chứ họ không cần chữa bệnh, trái lại họ lại có tài làm cho
bệnh lớn ra. Ai uống thuốc của họ mà khỏi, chỉ là sự ngẫu nhiên.
Thế nhưng làm sao họ vẫn sống, sống một cách phát đạt? Trong
lúc kinh tế khủng hoảng này, buôn bán nghề gì cũng bị thua lỗ,
duá có những kẻ mở hàng thuốc thì đều "tấy" cả, "tấy" một cách
không ai ngờ. Một kẻ kiết xác đóng vai ông lang trong vài năm, đã
thấy họ có tiền mua nhà, mua đất, tậu ô tô, dấn vốn có hàng nghìn
hàng vạn. Thì ra họ dùng toàn ngón "bịp", bịp bằng quảng cáo nói
một cách vô liêm sỉ, bịp bằng cửa hàng đồ sộ, bịp bằng lọ thuốc,
hộp thuốc chế theo kiểu Tây, bịp bằng lời nói khôn khéo quáến rũ
người bệnh. Mỗi lần họ bịp, ấy là mỗi mạng người chết. Chung
quanh lưỡi dao cầu, bánh xe thuyền tán của họ, "đống xương vô tội
đã cao bằng đầu..."
CHỮA KHOÁN HẾT CÁC BÊNH
Trên tòa nhà hai tầng sừng sững đứng trước đám cây xanh
mát, một lá cờ vải lớn bằng cánh buồm thuyền thoi phất phơ phô
cái dấu hiệu đặc biệt với khách qua đường. Rồi, một tấm biển đứng
hình chữ "nhật" chắn ngang trên mái ngói, rồi một tấm biển gập
hình chữ "nhân" úp đứng trên mái hiên, rồi một bức màn trắng
kín những chữ căng ngang trước cửa như một bức nghi môn. Trước
cửa, hai cái tủ kính bày những hình ảnh kỳ dị, khiến cho ai đã qua
đó, đều phải dừng lại mà nhìn. Phía trong, trên cái giá sơn son,
một bộ lộ bộ ngăn cách đường ra lối vào, sắc đồng sáng choang của
những thứ gươm, chùy, mâu, kích như muốn khoe vẻ quý phái của
chủ nhà.
Chạy theo bức tường dài, hai lớp tủ đứng bóng lộn mùi
quang dầu. ạ thuốc, hộp thuốc, lọ thuốc, chai thuốc, mỗi thứ có
hàng mấy trăm cái. Bấy nhiêu sự góp lại thành một hiệu thuốc,
xin tạm gọi là "Hiệu thuốc ông Trăng", một cửa hàng thuốc đã tốn
công làm quảng cáo nhất ở Hà thành. Ngoài những việc quảng cáo
trên báo, trong sách, hàng ngày lại có một người ôm đống quảng
cáo bằng cái bồ, chăm chỉ rút từng tờ mà ấn vào tay, hoặc quẳng
vào xe những người qua lại. ông chủ hiệu ấy, đố ai đoán được là
hạng người gì. Quần Tây, đôi kính trắng gọng vàng quanh năm
làm diềm cho bộ mặt gồ ghề và cái nước da đen xạm. Trên bàn
giấy, luôn luôn thấy cái điếu ống vắt vẻo cây tre rễ trúc chừng hai
thước tây. Khi đi, khi đứng, khi ngồi, nếu là tiết mùa hè, không
khi nào không có hai đứa đầy tớ vác đôi quạt lông chạy theo mà
phẩy phẩy cho ông chủ nhà của họ thành ra một người quý phái.
Trông những sự trang hoàng trong cửa hàng và ngắm cái cách cư
xử của chủ hiệu, người ta có thể đồ chừng sự ăn tiêu của nhà ấy
mỗi tháng không dưới ba trăm đồng. ấy là chưa kể cái vốn để chế
hoặc mua thuốc. Ba trăm đồng một tháng, sự ăn tiêu ấy phải là
một nhà cự phú mới có thể đương nổi. Mà cự phú thật, hắn mới cự
phú trong vài năm nay. Những người đã hơi biết hắn, đều phải
ngạc nhiên cho sự phát đạt lạ lùng của hắn. Phải. Trước đây
khoảng 10 năm, chủ nhân hiệu thuốc "ông Trăng" còn là một kẻ
lang thang và dốt nát. Ngoài chữ quốc ngữ là thứ chữ mà trẻ con
cũng đều đọc được, vị chủ nhân hiệu ấy không biết thứ chữ gì
khác. Một người tư cách như vậy, ai ngờ có ngày trở nên một thầy
thuốc, xin tạm gọi là thầy thuốc, chủ trương một cửa hàng thuốc
rất to. Thoạt kỳ thủy, hắn chỉ là kẻ buôn thuốc, không phải là
buôn thuốc cái như những người gánh bồ, nghĩa là hắn mua vài
thứ thuốc ghẻ, thuốc lở ở nhà quê, đem ra Hà Nội gửi bán tại các
cửa hàng sách. Gặp dịp may mắn, cuộc thương mại ấy đã làm cho
hắn đủ tiền thuê chỗ kê cái ghế vải mà nằm ở đất phồn hoa.
Tình cờ tại một phố kia, có viên quan lớn vì đi làm quan,
muốn tìm một người cẩn thận, cho ở nhà trong để trông nom và
lau quét dùm những căn nhà ngoài. Nhờ được người quen giới
thiệu, ông chủ cái ghế vải đã thành người coi nhà cho ông quan to.
Lợi dụng cơ hội, hắn mới đăng luôn lên báo mấy dòng, rao rằng:
"Cần người đại lý bán thuốc, ai muốn điều đình xin đến nhà
ấy nhà nọ mà hỏi".
Bấy giờ thiên hạ hãy còn nhiều người khờ hớ hơn bây giờ,
cho nên quảng cáo đăng được vài ngày thì đã có người ở tỉnh khác
đến xin làm đại lý. Chủ nhân tiếp khách ở nhà ngoài của viên
quan kia, và đòi án quỹ một số là hai trăm đồng. Trông thấy ghế,
sập, lư, đỉnh và các đồ bài trí trong nhà, khách tin chủ là người
phú quý. Với cái cửa nhà lộng lẫy, số tiền 200 đồng, nếu đem án
quỹ, chưa thấm vào đâu, chắc không bao giờ sứt mẻ một đồng nào
được. Nghĩ vậy, khách nhận lời chủ, cách vài ngày thì đệ số bạc
kia đến. Trong lưng đã sẵn đồng tiền, một mặt hắn đi mua thuốc ở
hiệu khách mà thay chai, thay hộp, dán lá nhãn của mình vào, rồi
gửi đi cho đại lý, một mặt thuê nhà, đóng tủ mở một cửa hàng
thuốc con con lấy thương tiêu là hiệu "ông Trăng". Thế là ông
"lang thang" đã nhảy lên địa vị ông "lang băm". Ngôi tuy đổi mà tư
cách vẫn còn nguyên như cũ, ông chủ hiệu thuốc ấy vẫn không biết
mặt biết tên một vị thuốc nào. Nghề làm thuốc của hắn chỉ cốt ở
sự thay hình đổi dạng. Nghĩa là mua thuốc của các hiệu khách
đem về, thuốc viên thì tán thành bột, thuốc bột thì nặn thành
viên, hoặc là viên lớn xẻ thành viên nhỏ, viên nhỏ hợp làm viên
lớn, rồi nhồi vào hộp vào chai mà bán. Đồng thời việc quảng cáo
trên báo, hắn vẫn hết sức tiến hành, vừa nói khoác bạt mạng cho
các thuốc ở cửa hàng mình, vừa quáến rũ lấy đại lý bán thuốc ở
các tỉnh nhỏ. Nhờ về sự quảng cáo "không biết thẹn" đó mà thuốc,
tuy không chữa khỏi bệnh vẫn bán được, người các tỉnh xin làm
đại lý vẫn mỗi ngày một thêm.
Cái cửa hàng con con vụt trở thành một cửa hiệu nguy nga,
rực rỡ. "Mỗi người phải lừa một lần là tôi giàu rồi". ấy là lời cố
cùng mà cũng là câu xưng tội của chủ nhân nhà thuốc "ông Trăng"
đã đáp lại câu hỏi hiểm hóc của mấy người quen biết. Có thế thực,
một người đến mua thuốc là có một món tiền lời, một người xin
làm đại lý là có một số tiền ký quỹ, 25 triệu con rồng cháu tiên
chưa phải ai cũng khôn ngoan, người mua thuốc, người làm đại lý
chưa bao giờ hết. Lừa bằng cách ấy chưa đủ, ông chủ hiệu ấy lại
phải nghĩ thêm cách khác. Trong lúc xã hội "thầy lang" hãy còn
lộn xộn, những người có bệnh phần nhiều không biết lấy thuốc của
ông thầy nào, người ta sợ rằng "tật mang mà tiền vẫn mất". Đoán
thấy chỗ yếu của số đông người, chủ hiệu "ông Trăng" mới lập cái
kế "chữa khoán". Phong, lao, cổ, lại, bốn chứng đó, các sách Tàu
đều cho là bệnh bất trị, cho đến các nhà y học âu tây cũng chưa
tìm được cách chữa chắc chắn. Vậy mà chủ hiệu "ông Trăng" dám
nhận chữa khoán hết thảy. "Chữa khoán bệnh lao" "Chữa khoán
bệnh hủi"... bức màn trắng treo trên cửa hiệu, luôn luôn nêu mấy
dòng thật lớn như thế, và nói rõ rằng "nếu không khỏi không lấy
tiền", bệnh nào cũng vậy. Tưởng là thực, kẻ có bệnh theo nhau mà
đến, nhiều nhất là người mắc bệnh lao. Lúc này tư cách chủ hiệu
đã tiến hơn trước, nghĩa là hắn đã đọc qua vài cuốn sách thuốc
quốc ngữ, nhớ được ít tên thuốc và tên mạch để làm sáo mà tiếp
con bệnh. Cũng hỏi chứng, cũng xem mạch, cũng giở sách thuốc
nói quàng nói xiên, rồi tùy từng mặt mà nặn tiền, có thể nặn được
đến đâu thì hắn nặn đến đấy. Nhưng vô luận bệnh gì, hắn đều bắt
đặt một nửa tiền, tính theo cái giá đã khoán. Ngó những lộ bộ,
quạt lông, điếu ống xe dài thườn thượt, kẻ có bệnh cố nhiên không
ai dám trả rẻ tiền. Nhưng trong khi đặt một nửa tiền, người ta
cũng đành bắt ông chủ viết cho cái giấy. Bạn đọc thử nghĩ giấy ấy
viết ra sao? "Một bên là ông X chủ hiệu "ông Trăng", một bên là
ông Y, người có bệnh lao ở Phố P đã bằng lòng với nhau những
điều sau này:
"Ông Y xin thuê khoán cho ông X chữa bệnh lao của mình, và
thuận trả ông X một số là 100 đồng. Nay đã đặt trước 50 đồng, khi
nào khỏi bệnh sẽ trả nốt 50 đồng nữa. ông X nhận của ông Y 50
đồng, phải chữa cho ông Y thật khỏi. Nếu không khỏi thì ông X
phải trả lại cho ông Y số tiền đặt trước ấy. Nếu ông Y nửa chừng
bỏ dở thì số tiền đặt trước ấy, ông X không phải trả lại". Giấy là
vậy, còn thuốc thế nào? Thiên môn, mạch môn, khoản đông, tử
uyển, một mớ vị thuốc nhuận phế đó, hắn luyện thành viên, hắn
nấu thành cao, đưa mãi cho người ta uống. Thuốc như vậy, đời nào
mà chữa cho được bệnh lao! Bệnh không khỏi, kẻ ốm đem giấy đến
hiệu, đòi lại số tiền đã đặt. Chủ hiệu chỉ phải đáp lại một câu:
- Trong giấy đã nói "nếu uống thuốc nửa chừng bỏ dở" thì "tôi
không phải trả lại số tiền đặt ấy" kia mà. Bây giờ tôi còn đương
chữa mà ông đã thôi, ấy là ông bỏ dở, không thể đòi tiền tôi được.
Thì ra trong giấy không nói cái "hạn chữa khỏi" là bao nhiêu
ngày, giả như theo thuốc đến mấy chục năm, khi thôi, cũng vẫn là
người bỏ dở. Ấy đó, hắn gạt người ta cốt ở chỗ đó! Song điều đó chỉ
gạt được người nhà quê, chớ Hà Nội thì ít kẻ mắc. Nhưng các thầy
"lang băm" đều là thánh sư nghề lừa gạt, họ đã có nhiều cách khác
để gạt người Hà Nội.
THẦY LANG THỎ ĐỰC
Phải, người ấy gọi là "Thỏ Đực" thì đúng. Trông cái hình
dáng, có thể bảo hắn là một anh kép già ở xóm cô đầu, nếu hắn
không đi giày ban. Nhưng ngắm đến bộ miệng thì lại có thể tưởng
hắn là một con thỏ, vì cái miệng ấy nó chum chúm như mõm con
thỏ, mà tự môi trên đến môi dưới, rồi thì ngoài mép quanh cằm,
đâu cũng nhẵn thín, không bén một sợi râu nào. Trước đây,
khoảng ba chục năm, hắn chỉ là một chàng học trò dở ở vùng xuôi,
chữ Hán cũng biết ít nhiều, chữ Pháp không thuộc một tiếng.
Làng nhà hắn cũng như làng Xạ La ở Hà Đông, vô luận người nào,
biết chữ hay không biết chữ, đều thuộc võ vẽ một ít bài thuốc, nhớ
lõm bõm vài câu sách thuốc. Xách dao cầu đi phương khác, họ đều
có thể bịp người mà kiếm ăn. Nhờ về phong thổ đó, hắn đủ tư cách
như mọi trai làng, nhân khi túng đường sinh nhai mới sắm dao
cầu tủ thuốc, kéo lên ngã tư nọ ở ngoài Hà thành, mở cửa hàng
thuốc, vì không thể gọi là cửa hàng gì. Kỳ thực, trong hàng của
hắn chỉ có mấy thứ thuốc bột chữa sâu răng, thuốc cao chữa mụn
nhọt và vài chục vị vừa thuốc Bắc vừa thuốc Nam, đựng trong một
cái tủ mốc. Gọi là hàng thuốc, cũng xấu hổ cho hai tiếng ấy. Lúc
ấy, vùng đó, răng đã ít người đau, nhọt lại ít kẻ bị, thuốc ế, mạng
nhện bắt đầu quấn vào dao cầu, những người gần quanh thấy cái
cảnh đói khát của hắn, đã phải động lòng thương hại. Tình cờ gần
đó có vị đại thần lên cái hậu bối, dùng đã nhiều thứ thuốc lắm mà
vẫn không khỏi. Một hôm, người nhà bàn nhau:
- Hay thử gọi lang "Thỏ Đực" vào đây xem hắn có chữa được
không? Nghe nói nhà hắn có bán thuốc cao, hoặc giả nó là môn
thuốc gia truyền thì chắc có hiệu.
Bàn vậy mà thôi, thực ra người ta cũng không thèm gọi. Bởi
vì đối với nhà vị đại thần đó, anh lang "Thỏ Đực" chỉ là mảnh
chĩnh vứt ngoài bờ tre chứ có giá gì. Chẳng ngờ lời bàn ấy bị một
viên tri huyện là cháu vị đại thần kia nghe tiếng và tin là thực.
Rồi từ ngày mai trở đi, gặp ai hỏi thăm bệnh tình của viên đại
thần, viên tri huyện đều nói rằng ngài dùng thuốc của thầy lang
"Thỏ Đực". Danh giá của con "Thỏ Đực" đã tăng lên nhiều. May
sao cách vài chục ngày, vị đại thần ấy khỏi bệnh. Khỏi là nhờ
thuốc của người khác, chứ người ta không dính tý thuốc nào của
"Thỏ Đực lương y". Thế nhưng "Thỏ Đực" là kẻ gian ngoan, đi đâu
cũng phô rằng mình đã chữa được vị đại thần ấy. Cũng vì có mấy
câu nói của viên tri huyện, thành ra trong đám phủ huyện, nhiều
người tin rằng vị đại thần kia quả có dùng thuốc của thầy lang
này.
Thế là mọi người đua theo, trong nhà động có người nào mọc
mụn, phải gai, họ liền cho lấy thuốc của hắn. Phúc làm sao, hắn
chữa luôn được vài bệnh, tiếng tăm đồn đi, khách lấy thuốc càng
ngày càng đông, do đó đã có dấn vốn kha khá. Bấy giờ hắn mới
sắm sửa đồ đạc, dọn luôn lên đất Hà thành. Từ đó, hắn mới giở
ngón bịp ra. Khác với các chủ dược phòng, y quán, hắn chỉ quảng
cáo bằng miệng, không hề quảng cáo bằng giấy hay báo. Ngồi với
một người hơi biết chữ Hán, thì hắn giở luôn thi phú câu đối ra
đọc, toàn là thơ cũ, phú cũ, câu đối cũ của các đại gia mà hắn đã
học thuộc lòng, nhưng hắn vẫn nói là của mình làm ra. Ngồi với
một người có bệnh hoặc nhà có người bị bệnh thì hắn đọc luôn sách thuốc hàng tràng. Cũng là những đoạn hắn học thuộc lòng, nó
không dính dáng gì đến cái bệnh mà hắn sắp chữa hay đương
chữa. Thơ phú cho đến sách thuốc của hắn nhớ được, quanh quẩn
độ hơn 10 bài chứ không nhiều gì, nếu ai chú ý mà nghe, sẽ thấy
lần nào hắn cũng chỉ đọc có mấy bài ấy. Thế nhưng, những người
không biết thì ai cũng tưởng là hắn thông lắm. Đến việc chữa
bệnh, hắn lòe thiên hạ lại càng bợm hơn. "Hôm qua tôi đi thăm
bệnh cho quan Thượng tỉnh nọ, hôm kia đi kê đơn cho quan Tuần
kia, ngày nay có bà án hay bà Phủ nọ đón đến thăm mạch mà
chưa đi được". Mở đầu câu chuyện nói với con bệnh đại để hắn vẫn
dùng cái sáo ấy. Có khi hắn còn can đảm mà nói tràn rằng:
"Chính vua nước Lào có bệnh, đốc tờ nói chữa không khỏi,
cũng phải vời mình sang chữa". Rồi thì người Tây, người Tàu,
người ấn Độ, các thứ người ở Đông Dương đều bị hắn vơ làm người
đã uống thuốc của hắn, người nào bệnh cũng nặng và cũng khỏi
cả. Kỳ thực Tây, Tàu, ấn Độ, có ai dùng thuốc của hắn bao giờ.
Đáng tức cười nữa, là mỗi khi cất miệng tiếp khách, ấy là hắn công
kích thuốc Tây. Hắn khoe những bệnh đốc tờ bỏ, không chữa được,
hắn chữa chỉ hai thang thuốc là khỏi, hắn nói chánh phủ đã biết
cái tài làm thuốc của hắn, đã cấp cho hắn cái bằng đốc tờ về nghề
thuốc Tàu. Bởi thế, hắn mới muốn được người ta gọi quan Đốc, ai
không gọi thế thì hắn thịu cái mặt ra. Với những ngón bịp như
vậy, kẻ nông nổi ai mà không mắc? Huống chi cái lối làm thuốc
của hắn lại cũng là một lối bịp.
Nói cho phải, hắn cũng có đọc vài đoạn sách thuốc, chứ
không đến nỗi dốt đặc. Nhưng hắn đọc để thuộc lòng, đọc để lấy
khách, không phải đọc để mà hiểu. Những vị thuốc mà hắn hay
dùng ấy là sâm, hoài, linh, biển và bài lục vị. Trong tập đơn thuốc
của hắn đã kê, không thấy cái nào không có bốn vị thuốc đó, hoặc
dùng xen với bài lục vị hoặc dùng lẫn với các vị khác. Sâm, hoài,
linh, biển hay thuốc lục vị, hắn tưởng cũng như cơm tẻ, uống vào
trúng bệnh thì khỏi, không trúng cũng không đến nỗi chết ai, vì
vậy bệnh gì hắn cũng dùng đến. Quả có thế thực, những vị thuốc
ấy, dù là trái bệnh, cũng không phát lên kịch liệt. Bởi vậy người ta
mới phục hắn làm thuốc theo lối vương đạo. Họ không hiểu rằng:
đã gọi là thuốc, có thể khỏi bệnh thì có thể giết người. Chỉ vì sâm,
hoài, linh, biển, nó giết người ta một cách từ từ, cho nên người ta
không biết. Bao nhiêu người theo hắn hàng trăm thang thuốc, chết
vẫn hoàn chết, cái họa "sâm, hoài, linh, biển" là vậy. Chết cũng
mặc, khoét được tiền, hắn cứ việc khoét. Đúng như lời bà phán
Phước đã nói, ai đã uống thuốc, hắn cũng phán cho mua những vị
trọng, và bắt phải mua của mình. Thậm chí hắn còn mua sâm giả
của bọn Cao Lá bán rao, rồi đưa cho vợ bán lại cho những người
quen thuộc chồng, cái đó mới tinh quái chứ!
Tóm lại, ngón bịp của thầy lang "Thỏ Đực" còn giỏi hơn ngón
bịp của thầy lang khác nhiều lắm. Bịp bằng hoành phi câu đối chói
lọi trong nhà, bịp bằng lời nói mềm mỏng ngọt ngào như mẹ dầu
dỗ khách, bịp bằng cách khoe quan nọ quan kia uống thuốc của
mình, bịp bằng lối dùng thuốc không thưởng, không phạt, bịp
bằng phép bán những vị trọng cho con bệnh hoặc bắt con bệnh
uống những tễ thuốc ba bốn chục đồng. Trong đất văn vật nghìn
năm biết bao kẻ bị hắn bịp cho đến chết mà vẫn không tỉnh ngộ.
LÀM NO HAY CÁI ĂN
TRONG NHỮNG NGÀY NƯỚC NGẬP
Qua những rặng tre bị ngâm đã lâu, cành lá úa rực, xiêu đổ,
chiếc thuyền nan của chúng tôi phải len lỏi, chỗ thì phải cúi đầu
để chui qua những cây sắn đổ, chỗ thì phải đè một cành cây cổ thụ
xuống nước, chỗ thì phải gạt những trà rào trôi nhấp nhô trên mặt
nước đỏ ngầu và phải đẩy cong con sào mới vượt được cụm bèo tây
ứ lại. Chiếc thuyền mỗi chốc chòng chành làm cho tôi lảo đảo,
nhưng cái ý muốn mục kích cảnh điêu linh cùng khổ của dân lụt
đã làm cho tôi quên cả nhọc nhằn. Một vùng nước mông mênh bát
ngát, bao nhiêu những nhà tranh vách đất chỉ còn trông thấy
những mái úp sập sè hình như những quần đảo ẩn hiện chập
chùng theo làn nước bạc mà rập rờn như phao. Những thuyền nan,
những mảng chuối nhấp nhô chen chúc tựa lá tre dưới những rặng
cây lả lướt. Đàng xa kia, trên những gò, đống mấp mô thấy lố nhố
những sừng trâu cong vắt; con đứng, con nằm, thỉnh thoảng lại
nghe tiếng rống lên như báo cho chủ biết nỗi thèm rơm đói cỏ của
nó Người ta bảo trận vỡ đê Đồn Vàng nước to hơn năm Quý Tị.
Thằng bé chở thuyền cho tôi ngoảnh lên hỏi:
- Cậu định đi đâu?
Tôi thẫn thờ đáp:
- Đi đâu cũng được!
Thuyền qua một rặng trúc, nhìn vào bên trong thấy có ba
gian nhà tranh xiêu lật lại đằng sau. Trước nhà, biệt ra một khu
vuông vắn như một cái ao, tôi đoán chừng đó là cái sân. Trước sân
đóng bốn cái cọc tre, trên bắc cái chõng, chiếc rổ đeo lủng lẳng một
bên, chiếc sào vó ghệch lên thành chõng. Phía dưới là một cái
mảng ghép bằng bốn cây chuối. Từ cái chõng đi vào trong nhà, có
một cái cầu tre vắt ngang. Một người đàn ông, vóc rạc hom hem,
đầu trọc tếu, ngồi thu hình trong chiếc áo bành tô rách mướp, nét
mặt đăm đăm nhìn xuống tăm nước đục lờ. Tôi hỏi:
- Nhà ai đây?
- Đây là nhà bác ba Tụy.
- Rẽ vào chơi đã.
Thằng bé khom lưng lái mũi thuyền vào trước sân, len qua
những cụm bèo tây đóng chuồng trong những chiếc vành nong kìm
bằng chiếc nạnh tre có những bè muống, bè ngổ, bè dừa quấn quýt
xung quanh. Bác Tụy trông thấy tôi, vồn vã hỏi:
- Kìa ông Ký đã về chơi đây ư? Các ông ở tỉnh về được dịp bơi
thuyền chở mảng thế này thì thích lắm nhỉ. Mời ông lên đây, cái
chõng này còn chắc chắn, ông ngồi chơi xem tôi kéo vó cho vui.
Tôi ghé thuyền sát cái mảng chuối, rồi bước lên. Bác khúm
núm với cái điếu cày treo trên cọc, mời tôi hút thuốc, tôi không
biết hút. Bác bèn lấy thuốc giắt trên kẽ tai, đặt vào nõ điếu, thổi
cái mồi rơm, rụi than vào điếu, rúc một hơi thật dài, cái điếu rít
lên như tiếng chim sẻ, một làn khói xanh từ miệng bác đưa lên
khét lẹt, những cái xương sườn theo nhịp thở mà vươn lên rụt
xuống trước cái bộ ngực gầy nhom. Mấy đứa trẻ lau nhau, nghe
tiếng người lạ chen chúc nhau thò cổ ra trước mái tranh mà nhìn.
Những cái bộ mặt gầy còm hốc hác ấy như thiếp một màu vàng lợt,
làm nổi những cặp mắt trõm lờ đờ, đần độn. Tôi đưa đà hỏi:
- Thế nào, bác kéo cá có được khá không, cho tôi mua một
bữa nào, có con nào to không? Ngồi kéo vó giữa sân cũng thú nhỉ.
Câu nói của tôi như nhắc bác chưa cất vó. Bác nhoẻn mép
nhìn tôi, rồi vui vẻ pha trò, gạn bán mẻ vó bác sắp cất. Nói rồi
khom lưng, bãi càng, kẹp đầu sào xuống dưới háng, hai tay giương
thang, cất vó lên, giọt nước theo bốn gọng thánh thót chạy xuống,
dưới lòng vó thấy hơi động, dần dần lên khỏi mặt nước, mấy cặp
mắt nhìn cả vào, thấy mẻ vó được hai con cua kềnh và bốn con giếc
con. Bác vơ vó vào để bắt, ngoảnh lại hỏi tôi:
- Ông trả cháu bao nhiêu?
- Độ một hào chứ mấy!
Bác cười khanh khách và nói:
- Nếu thế thì nhà cháu phong lưu chán!
Bác nói rồi ngoái tay với cái giỏ bỏ vào. Tôi điểm một câu
chúc của phường hội tát:
"Sí sốc một chốc đầy giỏ" rồi nhổm lên nhìn vào trong giỏ thì
mới có độ một vốc tay tép mại, hai con ốc nhồi và một mẻ vó bác
mới bỏ vào sau. Bác khôi hài:
- Thế là nhà cháu đã được một niêu hai tay bưng rồi đấy ông
ạ!
Thoảng tiếng trẻ con trong mái tranh đưa ra:
- Bố ơi, bố làm bánh đa cho con ăn.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Bác lại có cả nghề làm bánh đa nữa ư?
Bác ngặt nghẽo cười:
- Vâng, bánh đa nhà cháu là thứ bánh đa mới chế, chưa ai
biết làm cơ. Ông ngồi đây, cháu làm cho ông xem.
Bác nói rồi chui vào trong nhà, một lát đem ra một nắm đất
sét trắng, một cái mê rổ, một cái khăn vuông. Bác dúng cả khăn
lẫn đất xuống nước cho ướt, rồi đặt lên chõng, căng thẳng chiếc
khăn vuông, phiết một lần đất lên thật mỏng, đoạn đặt vào mê rổ,
lại chui vào nhà, thổi lửa nướng. Chỉ trong chớp mắt, bác đã bưng
ra, trông trong mê rổ thấy một lượt đất khô cong, lũ con bác kéo
nhau ra xúm xít chung quanh rổ. Bác mời tôi thử nếm bánh đa bác
mới chế, tôi ngẩn người chưa hiểu bác nói thật hay bỡn, thì bác
tách ra một miếng bỏ vào miệng, nhai giòn khau kháu, lũ con bác
cũng xô nhau bẻ lấy mà ăn một cách ngon lành. Bác bảo:
- Đấy là thứ quà vặt của các cháu, nếu ông biết thứ ăn thay
cơm của nhà cháu thì cháu xin đưa ra để ông xem.
Bác nói rồi chui vào lấy ra một cái nồi đất to chìa cho tôi
xem, và đố tôi biết là cái gì. Tôi thấy bác gạt một lần tép vụn ở
trên, dưới lộ ra một lớp đen đen, xếp từng miếng mỏng như miếng
bánh dầy. Nhìn gần lại, thì thoáng ngửi một mùi nằng nặng, khăn
khẳn, như mùi thối tai. Tôi nín thở, lắc đầu xin chịu để bác giảng
cho tôi nghe thức ăn quái gở ấy. Bác đắc chí cười rũ ra bảo tôi:
- Cũng đất đấy! Người ta bảo chết thì ăn đất, nhưng chính
nhà cháu sống về đất đấy ông ạ! Món này là một thứ cơm nắm của
nhà cháu, làm công trình hơn một tí. Mới đầu là lấy đất sét trắng
về, vật đi vật lại như ta nặn đầu rau, rồi thái từng miếng mỏng
như ta thái bánh dầy, đặt vào mủng, mẹt đem phơi khô. Khi dùng
nó thì phải có nõn sắn lót thật dầy xuống đáy nồi, rồi mỗi lượt đất
lại một lượt cá tép, rồi cho vài duộc tương. Bắc lên đun thì tra
thêm tí nước cho khỏi khê, cứ nhỏ lửa đun mãi cho tương cạn cá
chín, những cái béo của tương của cá ngấm vào đất sét đỏ như
miếng hồng tầu thế là được. Tôi hỏi:
- Ăn như thế mùi mẽ ra làm sao?
Bác bảo:
- Nó quanh quánh như ta nhai miếng bánh dày, lại đậm vì có
tương có cá đưa đi, không phải ăn đồ ngoài.
- Thế ăn vào có thấy gì không?
- Việc quái gì! Nó chỉ phải cái nặng bụng hơn các thứ rau cỏ
khác. Lần đầu cháu ăn rặt đất thì thấy tanh tanh và chán lắm, ăn
vào rồi hôm sau thấy mền mệt, chắc là không có béo bổ gì, cho nên
cháu nghĩ ra cách om với cá thì ăn ra chiều dễ chịu hơn. Tôi hỏi:
- Ai bảo bác rằng đất sét ăn được?
Bác nói:
- Nào có ai bảo đâu, cũng là một cách ăn liều của cháu. Hôm
nước vào đã già nửa tháng, trong nhà hết ăn, mẹ cháu phải ra tỉnh
kiếm việc làm. Bữa sáng hôm ấy chỉ có mấy củ khoai lang đủ cho
cháu ăn thôi, cháu đành nhịn đói, để anh em nó trông nhau ở nhà,
một mình chở mảng ra cái ao trước cửa đình để lặn xuống đánh củ
súng. Lặn ngụp mãi chưa dò thấy cụm củ súng nào cả, mà lòng
không dạ đói, lặn mãi mệt quá. Cháu cố lặn một hơi thật dài, mò
mãi chẳng thấy gì, bèn xắn vội nắm đất sét ngoi lên. Thấy chất đất
vừa dẻo, vừa trắng, ngửi thấy tanh tanh, nhân lúc đói ngoạm chơi
một miếng, nhai rồi nuốt đi, không thấy gì, ăn hết nắm đất, thấy
đỡ cồn cào. Cháu liền bỏ cả củ súng, hãy xắn mấy cục đất đem về
đã. Đương lềnh bềnh trên mảng chuối trở về, bỗng thấy mập mờ
cái vó trôi, cháu mừng quá đuổi theo vớt được cả vó lẫn gọng là cái
vó này đây. Cả nhà cháu mới ăn đất được dăm hôm nay, các cháu
cũng chịu khó ăn cả, nhưng mới đầu chưa biết cách chế biến, ăn
chóng chán lắm, cách om đất với cá này nhờ có cái vó nên cháu
mới nghĩ ra. Tuy vậy, cũng cần phải đổi bữa luôn.
- Đổi bữa bằng gì?
Bác chỉ tay ra mấy đám trước sân:
- Kìa ngổ dừa, bèo tây, còn cụm rau muống là của quí nhất,
hiếm nhất, cháu còn đương gây chưa dám ăn đến, vì chưa biết bao
giờ nước ra khỏi làng. Trong những thứ rau ấy thì ngổ với dừa dễ
ăn hơn, nhưng sợ ăn mãi nó cụt đi, cháu phải ăn độn thêm bèo tây.
- Bác làm thế nào mà ăn?
- Muối dưa cụm sen kia, vặt lá vặt rễ, chỉ để cái vú, phơi hơi
tái đi rồi muối như ta muối dưa cải, lấy vỉ nén cho chặt. Giá không
có muối mặn thì ăn nó chẳng khác gì nhai cái ngọn mía nhạt, mà
lại lăn tăn ngứa! Thứ ấy là thứ đồ ăn, ăn kèm với cháo cám thì
ngon tuyệt! Đã nửa tháng nay, cả nhà cháu không biết một hột
cơm, hột gạo là gì cả, mà cám cũng ít có, vì chỉ hôm nào kéo cá
được một vài con to, bán được dăm ba xu thì mới dám mua cám ăn,
cám là thứ quý nhất, chỉ ăn cho có hơi gạo đó mà thôi, chứ ăn nó
thì lấy đâu. Một hôm, cháu nghĩ buồn cười quá ông ạ. Đong được
cám về, thằng bé lớn nhà cháu lấy nồi đổ nước lên đun, lóng cóng
thế nào nồi vỡ, không đun được nữa. Cháu bèn vớt cám ra, nắm lại
một nắm, ngoài trát một lần đất sét bỏ vào bếp nung. Thế mà ăn
ngon hơn bánh khảo phục linh đấy ông ạ. Giá được rặt cám mà ăn
thì còn nói gì nữa, khốn nỗi họ lại pha mùn cưa vào cho được nhiều
lãi, thì ăn chẳng còn lý thú gì cả, chỉ thấy ráp sì thôi.
Tôi chợt trông thấy cây cau, cây nào cũng cụt cả, vội hỏi:
- Sao cau cụt cả thế kia?
Bác nói:
- Nó cũng đã chui vào mồm cả rồi đấy.
- Cau mà cũng ăn được ư?
- Ông tính cái gì vào lửa mà chẳng ăn được. Ôi chà, nghĩ cái
nguồn cơn ăn cổ cau mà sợ. Lần đầu, cháu chặt một cái, bóc hết bẹ
xanh rồi thái như thái măng phơi, cứ thế luộc rồi đem ra ăn: ăn
rồi, bố con rạo rực nằm mất một ngày, chân tay cứ rời rã ra, bọt
mép phèo ra, bụng vẫn tỉnh mà không sao cựa được, sau hỏi ra
mới biết phải luộc bỏ nước đi, ngâm hết nửa ngày nữa mới ăn
được. Ăn hết cau rồi, thấy làng nước họ đua nhau đi tìm củ chuối
để ăn, cháu cũng vớ được vài cái đem về bung. Ăn nó có phần mát
ruột mà chắc dạ hơn ăn bèo tây, rau ngổ, hơn cả ăn đất sét, đất sét
phải cái nặng, làm rỗng cả ruột ra, về sau ăn cái gì cũng mãi mới
no!
Nhưng củ chuối đâu mà ăn được hàng tháng trên mặt nước,
chỉ được ít lâu là nó thối nhũn ra thì còn ăn gì được nữa. Cháu cứ
ăn liều mà nhiều cái cả làng phải bắt chước cháu. Cháu còn nhớ
một năm trời không làm lụt, nhưng phải năm đói kém quá, làng
nước nhao cả lên. Mẹ cháu năm ấy lại vừa ở cữ, thành ra lúng
túng với nhau, chẳng đi làm đâu được, ở làng chẳng ai mướn làm
gì cả, cháu chỉ nghĩ cách ăn trừ bữa cái ni lại ăn trừ bữa cái kia.
Lần đầu cháu đi qua nền Văn chỉ thấy một đám cải rừng, xanh tốt
lắm, cháu nhấm thấy thơm thơm, liền hái một chét đem về ăn thử,
thế mà luộc chấm tương ăn thú lạ; nhà cháu ăn ba bốn ngày làng
nước mới biết thì chẳng còn gì cả. Cháu lại xoay ra tìm cách khác
xem ra lợn ăn được cái gì thì người ăn được cái ấy. Một lần cháu
ăn liều mà ngon. Đương mùa nhãn, cháu thấy ở chợ người ta vứt
rất nhiều hột, cháu mới quét lấy được trên lưng thúng đem về. Lấy
dao gọt hết vỏ đen đi, đổ vào ngâm một đêm cho hết chát, rồi tra
vào nồi, bung như ta bung ngô, thế mà đem ra ăn cứ bùi nghìn
nghịt như hạt sen, đã ngon lại chắc dạ; thế là cháu cứ tìm đi các
chợ, để nhặt hết hạt nhãn đem về tích lại một gánh, vợ chồng ăn
uống no nê mà chẳng ai biết cách ăn của cháu thế nào. Rồi sau họ
biết, họ đặt vè để chế cháu, cho nên làng ta bây giờ đã có câu Nói
dối thằng Trà, ăn ma thằng Tụy. ông tính thế có tức không, mình
có ăn cắp ăn trộm của ai đâu, không có, ăn xằng ăn bậy cho qua
ngày đoạn tháng, họ cũng chế, họ bảo là ăn ma ăn mãnh. Cháu
thấy họ chế; tức mình giấu biệt những cách ăn độn ăn lót của nhà
cháu cho bõ ghét. Cháu còn nhiều cách ăn giản tiện mà ngon,
cháu chế biến cũng khéo, cho nên họ lo đói, cháu chẳng biết đói là
cái gì, chỉ có ngon hay không mà thôi, làm thế nào cháu cũng có
cái ăn, không chịu đói bao giờ. ông tính con sâu con bọ, con giun
con dế nó còn chẳng lo đói huống nữa là mình, phải thế không
ông?
- Phải, sống qua trong nạn đói mà vẫn giữ được lòng ngay
thẳng, thật thà thì còn gì quý hóa bằng. Giá bác tài nấu nướng thế
mà ra Hà Nội mở hiệu thì...
Bác phá lên cười, rồi tiếp câu nói của tôi:
- Thì... cho chó nó ăn!... ông nhỉ?
Ánh nắng chiếu xiên qua nan chõng, chiếu xuống làn nước đỏ
ngầu, gặp trận gió rung rinh trên mặt nước thành những đàn rắn
ngoằn ngoèo. Một tảng vỏ mít lềnh bềnh trôi vào gọng vó, bác Tụy
chỉ tay mà bảo:
- Kìa, tảng vỏ mít kia đã cứu sống vợ chồng con cái nhà cháu
ba ngày đấy ông ạ!
Nói đoạn, lấy sào kều ngửi, lắc đầu:
- Hỏng, thối cả.
Vứt tõm xuống nước rồi kể tiếp:
- Thằng bé lớn nhà cháu năm nay lên tám. Ấy chính năm đẻ
nó thì gặp trận đói to, vì hai năm mất mùa liền, nhân dân lại xao
xuyến về dịch lệ. Nhà cháu quanh năm ăn độn, ăn lót, ăn thường,
nhưng bu cháu mới đẻ, nếu cho ăn xằng xịt vào thì sợ ốm đau khổ
cả mẹ lẫn con, cho nên dù sao cháu cũng cố kiếm cho mẹ cháu mỗi
bữa một niêu cơm riêng để lấy sữa cho con bú, còn cháu thì ăn thế
nào cũng được. Gặp nạn đói mới biết cái khổ của hạng sức dài vai
rộng như chúng cháu, đi xin không ai cho, làm mướn không ai
thuê, thế mà lại lâm vào cảnh vợ mọn con thơ thì lại càng khổ nữa!
Hôm ấy trong nhà chỉ còn đủ gạo để thổi bữa sáng cho mẹ cháu,
còn cháu thì có hai bát ngô bung. Ăn xong, cháu vác thuổng, bủa
sang chợ, đón công xem ai mượn đánh gốc bổ củi thì cháu làm.
Ngồi từ sáng tới non trưa, chẳng ai hỏi tới, chợ thì vãn, bụng
thì đói, mà chắc mẹ con nhà cháu cũng đang mong chờ bữa. Cái
nông nỗi mong chờ vơ vẩn làm cho cháu nóng ruột bội phần. Tần
ngần ngồi bên đống vỏ mít, ruồi nhặng bậu đen ngòm, cháu nghĩ
cách ăn tranh chúng nó, bèn ngả nón bốc đem về, đổ vào rổ sề đem
ra ao rửa sạch, gọt hết gai đi, rồi thái cả sơ lẫn cùi, cho vào nồi
đun thật dừ. Tra mắm muối cho vừa vặn. Còn mấy chục bát hột
tìm trong đống vỏ vẫn định luộc riêng, rồi nấu cháo cho bu cháu
ăn, nhưng nó thấy cháu nhường nhịn chẳng đành lòng, nên cùng
ăn cả. Cháu bèn giã cả hột cho vào thành một thứ canh vừa bùi
vừa ngọt, ăn thú quá! Một điều sung sướng nữa là ăn vào, sáng
hôm sau hai bầu sữa của bu cháu thẳng căng, thằng cháu bú no
nê, không cằn nhằn như mấy bữa trước. Thế là mấy hôm sau cháu
cứ việc đi chợ khuân vỏ mít về làm bữa, ăn rồi lại kỳ cạch thái
phơi bỏ lọ, thứ thì lựa rặt cùi để kho ăn với cơm. Nhưng mà mít nó
là giống có mùa, không thể trông vào đấy mà ăn mãi được. Cháu
nghĩ ngay ra cách ăn bã đậu.
- Bã đậu chắc ăn chóng chán lắm thì phải, vì tôi ngửi mùi nó
ngang ngang khó chịu lắm, nhất là khi nó đã ôi.
- Làm cho không có mùi ngang ngang, mà không bao giờ ôi
được mới tài chứ! Cháu tìm ra cách ăn được, nhất định bí truyền,
thành ra các tướng cũng bắt chước cháu ăn, rồi bỏ cả đấy ông ạ!
- Làm cách nào mà ăn?
- Khó gì đâu! Chỉ có mẹo một tý thì bã đậu đã thành một thứ
xôi vò thượng hảo hạng! Mới đầu hãy tãi ra cái nia, phơi trong
râm, nhưng đừng để cho ruồi nhặng đậu vào, thỉnh thoảng lấy đũa
cả đánh đi đánh lại cho rời ra rồi cho vào chõ đồ, rắc thìa muối cho
đậm, hơi bốc lên là bạt hết mùi chua, mùi ngái mà ông bảo là
ngang ngang, muốn kỹ đem đồ hai lượt thì tốt lắm. Ăn bã đậu béo
người, tuy mất tiền mua nhưng cũng rẻ, cứ bốn bố con nhà cháu,
một ngày chỉ hai xu bã đậu là no phính!
- Mỗi năm bác phải ăn độn lót thế độ mấy tháng?
- Quanh năm ấy ông ạ! Có chăng chỉ những ngày giỗ tết thì
dù túng kiết thế nào cũng cố dành dụm kiếm lưng cơm quả trứng,
thoi vàng nén hương cho tinh sạch. Những ngày ấy mới là ngày ăn
uống sang trọng của nhà cháu, tưởng ăn một bữa hết hai hào chỉ,
giá cứ quanh năm ăn thế thì núi cũng phải lở, ông nhỉ?
- Nhưng ăn rồi lại kiếm ra thì sợ gì ?
- Kiếm như chúng cháu nghĩ mà buồn! Chỉ mong một ngày
được ba xu với hai bữa cơm no cũng còn khó thay, ấy bu cháu ra
tỉnh chuyến này nếu ở được mỗi tháng một đồng kia đấy, nhưng
mà...
Thoáng một vẻ buồn hiện trên nét mặt bác, tôi mỉm cười nói
giỡn:
- Thôi lại nhớ mẹ đĩ rồi!
Bác cũng gượng cười nói chữa:
- Không, giá cháu nhớ thì cháu đã chẳng bảo đi, nhưng cháu
chỉ lo nước Hà Nội chóng ngay xương lắm! Đi làm đỡ nạn mấy
tháng khi về lại quen đi, không gồng gánh nặng nhẹ được thì khổ,
ấy cũng nhiều người thế đấy, rồi sau vợ chồng sinh chán nhau
hoặc bỏ chồng theo những anh bồi bếp để ăn trắng mặc trơn, nhiều
anh mất vợ vì thế đấy.
- Có "tâm" là lòng, "ý" là lòng chứ, ai cũng thế thì còn ai dám
đi làm lụng gì nữa. Vả lại bác gái nhà bác bồ chề xốc xếch thế thì
việc gì!...
Bác nghe câu khuyên giải của tôi, nét mặt lại bình tĩnh như
thường. Tôi bỗng nhắc bác:
- Kìa từ nãy tới giờ, mải nói chuyện mà quên cả cất vó? Dễ vợ
chồng con sộp nó đem nhau vào ở cữ trong vó của bác rồi cũng nên!
Bác khanh khách cười, tay nâng sào vó, khom lưng rút
khung gọng vó, nước sóng sánh chuyển động chiếc bèo tây đang
đủng đỉnh trôi xuôi. Mẻ vó suông! Bác khoan khoan cho vó xuống,
tôi thẫn thờ nhìn ánh nước rập rờn trên bức vách.
VIÊC LÀNG
LỚP NGƯỜI BỊ BỎ SÓT
Hôm ấy, một hôm về cuối mùa đông, cách đây độ hơn mười
năm, trời xế chiều, tôi mới đến nhà cụ Thượng Lão Việt. Cái nhà
mới lạ làm sao! Nó là một túp lều tranh lụp xụp, đầy cảnh thê
thảm, nhưng lại có vẻ vui vẻ. ở gian bên này khách khứa tấp nập.
Người ta cười cười nói nói sốt sắng đợi hơi thở cuối cùng của ông
cụ già. Cụ Thượng nằm to vo trên chiếc giường tre trong gian bên
kia. Mặt cụ ngoảnh vào bức vách. Lưng cụ uốn gù con tôm. Bức
chăn dạ đỏ phủ trên mình đã hóa màu gạch non vừa vặn đậy kín
từ vai đến gối. Cái đầu trắng xóa và đôi bít tất thủng gót đeo ở cổ
chân đều bị để lộ ra ngoài. Cánh dại che ở trước cửa chỉ còn lơ thơ
vài nan. Gió Bắc tự do đưa mãi hơi lạnh từ ngoài sân vào vách.
Mấy cục củ tre nhóm trên đống trấu cạnh giường đã hết ngọn lửa,
khói đang nghi ngút tỏa khắp nhà. Cụ Thượng từ từ mở hai bàn
tay gầy guộc khoác nhau ở đằng sau gáy, nặng nhọc trở mình ra
ngoài, chào tôi bằng hai con mắt cảm động khi tôi rón rén ghé vào
giường cụ, và sẽ lên tiếng hỏi cụ.
Biết bao nhiêu sự hối hận rung động lòng tôi! Nó trách tôi
đến thăm cụ muộn quá. Với cụ, tôi không phải là kẻ họ hàng thân
thích, hay người cùng tỉnh cùng huyện. Sở dĩ biết nhau chỉ vì một
chuyến tàu thủy chạy từ Hà Nội xuống Nam Định, chuyến tàu chở
dân lều chõng lần cuối cùng. Bấy giờ tàu cạn ở trên cửa Luộc, phải
dừng lại đó suốt hai ngày một đêm để chờ con nước. Trong lúc suốt
ngày đêm lênh đênh ngồi trên mặt nước để nghe những tiếng "dì
xế dì" và "xám xế xám" của bọn mạch nô đo nước, người ta dễ thân
với nhau, nếu đã cùng nhau ăn cùng mâm và nằm cùng chiếu.
Nhờ vậy tôi mới trở nên người bạn của cụ, dù tôi kém cụ hơn ba
chục tuổi và không phải cùng làm một nghề với cụ. Cụ yêu tôi về
tính hoạt động. Còn tôi thì tôi trọng cụ ở chỗ từng trải, chất phác,
có can đảm, không câu nệ, luôn luôn nhìn đời bằng con mắt lạc
quan, nhất là những lúc rung đùi mà cất chén rượu, cụ đã tỏ ra
người có chí khí. Bấy giờ, cụ đương buôn than, thường lên Hà Nội
mua hàng tải về Nam Định. Nhưng cụ cũng có biết chữ, chữ quốc
ngữ đủ để đọc báo, chữ Hán thì có thể hiểu những cuốn Tam quốc
chí hay là Chinh đông chinh tây. Sau mấy ngày tình cờ hội ngộ,
chúng tôi biệt nhau khi tàu cập bến Nam Định. Từ đó, tuy không
gặp nhau, nhưng mà hai bên vẫn có thư từ đi lại. Mỗi lần cụ đổi
nghề này làm nghề khác, đều có viết giấy cho tôi. ân hận hơn hết
là cái giấy mời tôi đến làng Lão Việt dự tiệc bảy mươi, cái tiệc
người ta ăn vạ cụ về tội dám sống đến bảy chục tuổi để là "cụ
thượng" làng ấy.
Lúc ấy, tôi đã định đi, rồi lại ngần ngại không đi. Thế rồi, ba
năm sau, một bữa tôi nhận được một bức thư của cụ và tôi giật
mình đánh thót, khi coi đến mấy dòng này:
"Tôi nay sắp sửa từ giã cái làng Lão Việt, từ giã hết thảy
những yêu ghét trong khoảng bảy mươi năm trời. Gan ruột tôi
đang bồn chồn không muốn ở lại một ngày nào nữa. Sở dĩ chưa
nhắm mắt được là vì còn mớ tâm sự muốn ngỏ với ông. Nếu lần
này mà không được gặp ông, thì cái tâm sự ấy, tôi đành đem
xuống suối vàng để nói với lũ quỉ sứ..." Chao ôi! Một chữ bao nhiêu
đau đớn! Có lẽ cụ đã viết bằng nước mắt. Còn một lẽ nào để tôi
chậm sự lên đường trong vài giờ? Nhưng tôi hết sức ngạc nhiên
khi thoạt bước đến trước cổng nhà cụ. Trong khu vườn xoan kề bên
cổng, người ta đã buộc một con trâu kềnh. Theo cái giá rẻ hồi ấy,
nó cũng đáng đến bốn chục bạc. Cạnh đó, một bó nứa khô, mấy
chiếc đòn tre, lổng chổng dựa vào gốc xoan và mấy bó rơm tanh
bành quẳng ở giữa vườn. Thoáng coi những vật liệu ấy, đủ thấy
một cuộc vật trâu đang được dự bị tại đó.
Ngó vào trong cổng, một tòa rạp lớn nghênh ngang dựng ở
ngoài sân, mái cót còn chưa lợp kín. Dưới rạp giường, phản, bàn
ghế đã kê sẵn sàng. Nong bát, nong đĩa, chum đựng nước, cối giã
giò, rồi nồi ba mươi... không biết mỗi thứ là bao nhiêu cái, la liệt
bày khắp ngoài rạp. "Tội nghiệp! Cụ Thượng đã chết mất rồi! Con
cháu đã đương sắp đồ làm ma đây rồi! Mình không được nói với cụ
một câu nào, sao mà phụ phàng cụ thế?..." Với sự bùi ngùi ấy, tôi
bỡ ngỡ bước vào trong sân. Mấy chục con mắt đổ dồn vào tôi.
Không ai biết tôi là người nào hết. Bởi vì tôi đến nhà cụ, lần này là
lần đầu. Sau khi tôi tự giới thiệu, một người đàn ông, độ bốn mươi
tuổi, tươi cười bảo tôi:
- Rước ông vào chơi trong nhà! Ba bốn hôm nay hôm nào
thầy tôi cũng nhắc đến ông.
Thì ra người đó chính là con trai cụ Thượng. Lúc đó tôi mới
biết cụ Thượng còn sống.
Đưa tôi vào đến cạnh giường cụ Thượng, người ấy chỉ kịp rót
cho một chén trà nguội, rồi ông ta sấp ngửa chạy đi, coi bộ đương
bận rộn lắm. Cụ Thượng tuy đương ốm nặng, nhưng nó chỉ là bệnh
già, cũng như cái cây hết nhựa, chứ không có chứng gì khác. Vì
vậy tinh thần vẫn còn tỉnh táo. Tuy đã xa nhau đến gần mười
năm, mà khi thoạt nghe tiếng tôi, cụ liền nhận ngay ra tôi và cố
quay mặt ra chỗ tôi ngồi! Cái mặt mới đáng sợ chứ! Nó sạm như
ngả bùn, đôi mắt trũng hoáy, đôi má hóp lại, hai cái gò má dô lên,
người ta có thể ngờ là một chiếc đầu lâu, nếu không có đôi con
ngươi lóng lánh. "Sao mình không đi thăm cụ tự mấy tháng trước
để đáp tấm lòng ân cần của cụ trong mấy năm xa nhau? Bây giờ
đã đến thế này, cụ còn sức đâu mà kể với mình những điều cụ định
kể? Thật là mình đã phạm một tội lớn! Chính mình đã làm cho cụ
thấy áy náy trước khi từ giã cõi đời!... Tôi đang phàn nàn với tôi
như vậy thì cái bàn tay cẳng gà của cụ chờ choạng nắm lấy tay tôi.
Rồi cụ cất giọng rên rên như sắp đứt hơi:
- Đáng lẽ tôi sẽ im lặng mà chết, không thể nói thêm câu
nào, dù tôi vẫn muốn nói. Bởi vì luôn hai bữa nay người tôi đã hết
khí lực, không đủ sức để đưa câu nói ở trong miệng ra. Không hiểu
vì sao mới nghe tiếng ông, tự nhiên tôi thấy trong mình hơi mạnh
hơn trước. Có lẽ bây giờ tôi đã có thể nói nhiều với ông. Ngừng lại
giây lát, cụ tiếp:
- Tôi sẽ là người chết oan! Ông nên nhớ cho như thế!
Nghe đến câu ấy, tôi phải hết sức sửng sốt, nhưng vẫn cố giữ
vẻ bình tĩnh. Cụ vẫn ngập ngừng cất từng tiếng một:
- Đời tôi thế nào, ông đã biết rõ. Nhiều lúc tôi vẫn tự phụ: tuy
không thông minh, nhưng không đến nỗi ngu đần. Nhất là tôi
không lười biếng...
Xen vào đó, một tiếng thở dài, rồi cụ lại nói đều đều:
- Thật vậy, từ thuở mười bảy tuổi đầu đến giờ, tôi không chơi
không ngày nào, trừ ra những ngày đau ốm. Thôi thì cày sâu cuốc
bẫm, buôn ngược bán xuôi, không quản ngại một việc gì cả. Có lúc
đã lên mỏ Hích lăn lộn với đám phu mỏ... Những việc tôi làm, bất
kỳ việc nào, tuy không phát đạt, nhưng không thất bại bao giờ,
chẳng lãi nhiều thì lãi ít. Vậy mà suốt đời nghèo xác, nghèo xơ, ăn
không đủ, mặc không đủ, cả nhà có một thằng con đành để nó dốt
nát. Ông bảo là vì cớ gì!
Tiếng cười nói ở gian bên kia làm cụ im đi một lúc như để
chờ câu trả lời của tôi. Lâu lâu cụ mới cắt nghĩa:
- Ấy là bởi gánh việc làng. Cái làng Lão Việt nhà tôi có thể
đại diện cho cả hương thôn già cỗi của nước Việt Nam. Vì nó là chỗ
để chứa hủ tục. Bất kỳ hủ tục nào, làng tôi đều có đủ cả. Vì thế mà
tôi suốt đời còm cọm, chỉ để đóng góp là vừa. Bây giờ tôi sắp nằm
xuống, lại sắp để lại cho thằng con tôi một cái gánh nặng. Những
sự linh đình ông thấy ở ngoài sân kia, sẽ là món nợ mà một đời nó
chưa chắc trả hết... Đuôi con mắt cụ bỗng có một giọt nước rỏ
xuống dưới chiếu, cụ cố nói cho ra giọng cứng:
- Hủ tục không phải là thứ thiên kinh, địa nghĩa, nó vẫn có
thể thay đổi, nếu phái trí thức để ý đến sự khai hóa cho dân quê.
"Nhưng vì chúng tôi là một lớp người bị bỏ sót trong lđá tre xanh,
con mắt của phái trí thức ít khi ngó tới. Bởi vậy, những cái tục lệ
quái gở, mọi rợ mới được tự do kế tiếp nhau, chồng chất lên vai
chúng tôi. "Nhiều lúc tôi muốn hắt cái gánh nặng ấy đi, nhưng sức
một mình không thể làm nổi, đành phải è cổ mà chịu.
"Một người chăm chỉ, cần kiệm, lao lực như tôi, chỉ vì một
gánh tệ tục đè ép, đến nỗi suốt đời không ngóc đầu lên được, bây
giờ sắp chết, gánh tục lệ ấy vẫn còn đè ép chưa tha, ông bảo có oan
uổng không? Vậy mà nó vẫn được coi như vị thần thiêng, không ai
đả động đến nó. Lạ thay! Tôi ước ao rằng: sau khi tôi đã nhắm
mắt, ông sẽ đem những tội ác của nó mà phơi ra bóng mặt trời"...
Lúc này tiếng nói của cụ đã thấy nhỏ dần. Vì sợ cụ mệt, tôi
tạm cáo từ để ra chỗ khác. Gần tối, tôi lại tới đó. Cụ vẫn ngoảnh
mặt trở ra như có ý đợi tôi. Khi thấy tôi đến, cụ cố gắng sức đưa ra
những tiếng thì thào và rời rạc:
- Một nước giống như một cái xe bò, lớp trí thức là người làm
bò, lớp dân quê là người đẩy xe. Nếu kẻ đẩy còn bị những dây lệ
buộc chặt hai chân, thì kẻ làm bò tài giỏi bậc nào cũng không thể
kéo được cái xe bò lên dốc... Vì vậy... tôi chỉ mong mỏi các ông đưa
mắt đến chỗ bẩn thỉu, tối tăm... trong đá tre xanh".
Hết câu đó, cụ bỗng trợn ngược hai mắt, đờm ở trong cổ kéo
lên khè khè. Cả nhà nhớn nhác xúm lại. Cụ đã tắt thở. Cái lúc
trong nhà im lặng bỏ tiền và gạo vào miệng người chết, thì ở ngoài
vườn người ta cũng hò reo để vật con trâu. Từ lúc đưa đám tang cụ
Thượng, lời cụ vẫn văng vẳng bên tai tôi. Sau mười năm lang
thang nay đây mai đó, tới đâu tôi cũng thấy chứng cớ về sự từng
trải và nỗi đau đớn của cụ. Cụ quả là người chết oan. Cho được an
ủi vong hồn của cụ, tôi phải minh oan cho cụ và cho những người
như cụ bằng thiên phóng sự này.
MỘT ĐÁM VÀO NGÔI
Nhà bác Cả Mão mọi ngày thường im phăng phắc, hôm nay
bỗng nhiên linh đình như đám giỗ nhỏ. Dưới cầu ao, hai người đàn
ông lực lưỡng đang châu đầu trên chiếc rổ thưa, tỉ mỉ nhổ từng sợi
lông tơ cho một con gà trong rổ. Trên bờ ao, một con chó xồm bị
trói bốn chân, nhe răng nằm trên vũng máu lênh láng. Cạnh nó,
một nồi nước sôi khói bốc nghi ngút và bốn năm người, cũng hạng
đàn ông lực lưỡng, kẻ cầm gáo múc nước, người cầm dao sắp sửa
cạo lông. Từ cổng đến thềm, tấp nập những người đi lại. Tôi mới
nhô vào đến sân, bác Cả lật đật chạy ra đón lên nhà trên với một
bộ điệu vui vẻ. Ở gian bên kia, độ bảy tám ông ngổn ngang nằm
vây một chiếc khay đèn thuốc phiện. Với những cặp môi thâm xịt
và dài vều, và những chiếc quần cháo lòng, áo ba-đờ-xuá rách lòi
khố tải, các ông ấy như muốn bảo cho tôi biết đây toàn là hạng kỳ
dịch kiêm tín đồ của đức chúa Phù dung. Dãy phản bên này, hai
bàn tổ tôm kế nhau. Bàn trong vang những tiếng ăn, tiếng phỗng,
bàn ngoài đương ỏm tỏi cãi nhau về sự đánh thấp đánh cao. Chủ
nhân lễ phép mời tôi vào ngồi trong chiếc tràng kỷ kê ở gian giữa,
đối mặt với tòa bàn thờ hương khói vắng tanh. Mấy ông trong bàn
tổ tôm thi nhau nhìn tôi bằng nửa con mắt trông nghiêng, giữa khi
vài ông ở bàn thuốc phiện lần lượt ngóc cổ như đàn rắn lửa. Rồi thì
ai nấy lại cùng theo đuổi công việc của họ, người hút cứ hút, người
đánh bài cứ đánh bài.
- Ông có lòng đến đây mừng cho nhà cháu, thật là quý hóa!
Xin mời ông xơi tạm chén nước.
Bác Cả Mão đương một tay gãi tai, một tay bưng chén chè nụ
đặt trước mặt tôi, bên bàn tổ tôm bỗng có tiếng gọi:
- Anh Cả đâu! Cho mượn hai đồng đánh thêm hội nữa. Đen
quá, cả hội chẳng ù ván nào!
Bằng một tiếng vâng đầy giọng thành tâm, bác Cả Mão
nhanh nhẩu chạy xuống nhà dưới, để tôi ngồi đó với bác Hai Thìn,
một người em ruột bác ấy. Thơ thẩn chưa biết nên nói chuyện gì,
tôi có dịp nghĩ đến cái câu của bác Cả Mão mới nói. Với bác, tôi chỉ
là người trọ học ở nhà láng giềng. Vì năng gặp bác, thành ra quen
biết. Hôm nay là ngày "vào ngôi" cho thằng con bác mới đẻ được ba
tháng nay, bác vẫn mến tôi nên cố mời tôi sang chơi. Ở làng khác,
vào ngôi chỉ là một lệ rất thường, người ta phí tổn độ vài ba chục,
hay vài ba trăm quả cau là xong. Sao trong đám này lại có cỗ bàn
linh đình, và sao ở trước mặt khách, ông chủ lại nói đến câu
"mừng cho nhà cháu"? Hay là riêng với làng này, vào ngôi là một
việc hỷ? Nếu vậy, có lẽ mình phải mất một món tiền mừng. óc tôi
còn đương vẩn vơ, bác Cả Mão đã ở nhà dưới chạy lên. Cung kính
trao hai đồng bạc cho một ông trong bàn tổ tôm, bác ấy tung tăng
ra sân, khiến tôi không kịp nói chuyện. Dưới bếp, có tiếng dao thớt
ký cốc, mùi xôi ngào ngạt đưa lên nhà trên. Một ông trong đám
thuốc phiện dõng dạc cất cái giọng khàn khàn:
- Anh Cả đâu! Lên đây tôi bảo!
Một tiếng dạ lớn, bác Cả Mão từ sân vào thềm, rồi khoanh
tay đứng tựa vào cột:
- Bẩm cụ dạy gì con ạ?
- Trưa lắm rồi đấy! Liệu mà giục bảo chúng nó sắp đồ lễ mau
lên! Rồi anh phải thân hành đến mời cụ Điền lại chơi, kẻo cụ lại
ăn cơm nhà.
Lại một tiếng dạ rất lễ phép, bác Cả rón rén lui ra. Tiện dịp,
tôi bảo bác ngồi xuống chỗ tôi ngồi và móc ví lấy một đồng bạc
mừng bác. Nhưng bác khăng khăng từ chối, nói rằng việc này
không có lệ mừng. Ngoài thềm có tiếng lẻng kẻng. Một người xách
chiếc mâm đồng sáng choang đặt lên cái bàn ở trước mặt tôi. Rồi
một người khác để luôn thúng xôi vào đó. Bác Cả Mão núc hai bàn
tay như thầy phù thủy bắt quyết và nói với tôi:
- Bên này chật quá, mời ông sang nhà chú cháu. Ông nhạc
tôi cũng ở bên ấy. May quá, tôi đang muốn tránh cái bầu không
khí khó chịu. Nghe lời chủ nhân, tôi liền theo bác Hai Thìn đi
luôn. Nhà này cũng thấy lố nhố những người, nhưng toàn là người
tôi quen. Qua một tuần trà, bác Hai Thìn nhìn tôi và nói bằng
giọng sung sướng:
- Anh tôi lo công việc này cho cháu tất cả cũng hết đến trăm
rưỡi bạc. Ấy là chúng tôi khôn khéo, xoay xở thì việc mới xong,
người khác ở vào địa vị chúng tôi, dù có mấy trăm, vị tất đã lo nổi!
Câu nói của bác khiến tôi hết sức ngạc nhiên:
- Sao nhà các ông hoang quá như vậy? Tôi thấy người ta "vào
ngôi" cho con chỉ tốn độ vài đồng bạc là cùng!
Bác Hai xua tay và nói bằng giọng thì thầm:
- Nào có phải hoang! Ông tính ở đời ai muốn mất tiền! Đó là
sự bất đắc dĩ. Nói giấu gì ông, nhà tôi không phải gốc gác ở làng
này. Ông thân chúng tôi ở vùng Nam lên đây sinh cơ lập nghiệp,
rồi mới đẻ ra anh tôi và tôi. Thế là tới ở làng này, nhà tôi mới ở có
hai đời. Theo lệ nhà quê, những người ngụ cư ba đời mới được
"thành tổ". Nghĩa là được ngang hàng với mọi người khác. "Làng
này lại ngặt hơn nữa, từ xưa đến giờ họ không cho một người
ngoài nào nhập bạ. Vì thế, anh tôi và tôi cũng như ông thân chúng
tôi, đều không có ngôi ở đình. "Chắc ông cũng biết ở làng mà
không có ngôi, thật là một sự nhục nhã. Những lúc tứ quý kỳ phúc,
người ta thì phần ăn, phần gói, mình thì chẳng có miếng gì.
Những lúc hội hè, đình đám, người ta rước cờ, rước quạt, mình chỉ
đóng vai khiêng chiêng. Như thế cũng đã khổ rồi. Hơn nữa, lỡ có
cha già mẹ héo, làng giáp có chôn cho đâu! Chính lúc ông thân bà
thân chúng tôi qua đời, anh em tôi đều phải nhờ cậy hàng xóm
khiêng giúp. Rồi khi xong việc, chúng tôi muốn theo mọi người nộp
lệ cho làng con trâu, họ cũng không thèm nhận cho. Cái đó mới cực
cho chứ!
- Người ta không nhận thì càng khỏi mất. Việc gì mà cực!
Tôi mỉm cười và đáp một câu khôi hài như vậy. Bác Hai vẫn
nói một cách thật thà:
- Thế được còn nói gì nữa! Anh em chúng tôi, trời cho trong
nhà cũng đủ bát ăn, mỗi người cũng có được con trâu cày và dăm
mẫu ruộng. Thế mà không thể nộp được lệ làng cho cha và mẹ, tức
là tiếng xấu để đời... Mỗi khi nghĩ lại những nông nỗi ấy, anh tôi
và tôi tức chết người đi được. Trước đây, chúng tôi đã cố luồn lọt
mấy ông đàn anh, để xin nhập bạ, nhưng mà bấy giờ hãy còn cụ
Bá, cụ ấy nghiệt lắm, nhất định bảo nhà tôi đến ở làng này chưa
được ba đời, không thể nhận lời. Chúng tôi đành phải cắn răng mà
chịu. Bởi vậy lần này anh tôi sinh được mụn cháu, lại may gặp lúc
cụ Bá đã mất, chúng tôi phải cố vào ngôi cho nó.
- Nhưng mà các ông tiêu những món gì mà hết đến hơn trăm
bạc?
Bác Hai càng hạ giọng xuống, sau khi liếc mắt ngó qua
những người chung quanh:
- Ông bảo những công việc ấy, nói bằng miệng không được ư?
Phải mất tiền cả đấy! Cụ chưởng lễ ba chục, ông chánh hội hai
chục, cụ lý trưởng mười lăm đồng, ông phó lý và ông phó hội mỗi
người mười hai đồng, thư ký, trưởng bạ, mỗi người mười đồng,
hương trưởng, lý cựu, tộc biểu, trương tuần mỗi người năm đồng.
Những số tiền ấy hết ngoài trăm đồng rồi. Lại còn ăn uống từ
chiều hôm qua đến giờ...
- Nếu đã mất tiền cho họ thì thôi cái bữa ăn uống có được
không? Bày vẽ làm gì cho tốn?
Bác Hai lắc đầu:
- Không được ông ạ! Ở chốn thôn quê, ăn uống là sự đầu tiên.
Muốn gì thì gì, hễ không có ăn thì việc không thành. Lúc trước,
anh tôi cũng nghĩ như ông, đã định chước sự ăn uống vì đã rắc tiền
khắp mặt chức dịch. Nhưng ông chánh hội không nghe. Ông ấy nói
rằng thế nào cũng phải đấm miệng cho các bô lão, và bọn trai đinh
bò bướu một bữa. Nếu không họ sẽ phá ngang, tất nhiên sẽ có cản
trở.
Trước mặt có người đi qua, bác Hai ngừng lại một lát chờ cho
người ấy đi khỏi, rồi tiếp:
- Một bữa ăn này, ít ra anh tôi cũng phải tiêu đến năm, sáu
chục đồng. Vì kiêng tiếng làm thịt lợn, sợ rằng làng nước cho là
hứng mỡ, nên mới đi chợ mua thịt. Sự thực, mua thịt lại quá giết
lợn. Sáng ngày đi lấy vừa lòng lợn vừa thịt lợn tất cả mười một
đồng bạc, đáng lẽ cũng đủ chàn chát, nhưng cụ chưởng lễ thích ăn
thịt cầy, nên ông lý trưởng bắt phải giết thêm con cầy. Chẳng nhẽ
mời dân mời làng ăn uống trong nhà, ngoài đình lại không có gì.
Bởi thế chúng tôi phải sửa cỗ xôi, con gà để ra lễ thờ. Bấy nhiêu
món hết ngót hai chục rồi. Còn tiền rượu, tiền thuốc phiện, còn
tiền cung đốn họ đánh tổ tôm. Ông đã biết rõ, mọi khi làng tôi có
ai dám đánh "góp một"? Lớn lắm chỉ "góp năm hào". Hôm nay vì
tiền nhà chủ bỏ ra, được thì ăn, thua không phải trả, nên họ hò
nhau đánh góp hai đồng. Rồi đấy ông xem, đến lúc đứng dậy, ai
cũng thu hết, anh tôi đưa ra bao nhiêu mất hút bấy nhiêu, chẳng
lấy lại được đồng nào hết... Lúc nãy tôi nói trăm rưỡi, còn là hà
tiện, xong việc có lẽ hết hơn, chứ bấy nhiêu tiền không thể nào đủ.
Bác Hai còn muốn nói nữa. Bên nhà bác Cả chợt nghe có
tiếng ầm ầm, bác ấy lật đật xin lỗi đứng dậy:
- Mời ông ngồi chơi với các cụ tôi. Tôi phải chạy sang bên kia.
Làng đã vào rồi!
Tiếng ầm ầm bên nhà bác Cả mỗi lúc một to, trước còn cười
nói, sau đến quát tháo, cuối cùng thì đến những tiếng mách tục
mách qué. Lâu lâu cuộc xô xát lại dữ dội thêm, bác Hai Thìn hốt
hoảng chạy về, vừa thở vừa nói:
- Khổ quá, mấy ông bô lão lại còn bẻ vành bẻ vẻ, nhất định
nói rằng: hương ước không có chỗ nào nói cho người ngoài vào
ngôi. Cụ Điền hết sức giàn xếp không được. Ông chánh hội và ông
lý trưởng bảo anh tôi phải chồng hai chục đồng bạc -tiền ngay cốc
cộc - để cúng vào nóc các lão, thì việc mới yên. Thôi thế cũng còn là
may.
Cuộc ăn uống kéo dài mãi đến gần tối, nhưng không xảy ra
sự gì nữa. Cách ba bữa sau, bác Cả Mão sang nhà tôi trọ, dạm bán
cho ông chủ nhà một mẫu hai ruộng, lấy trăm đồng bạc để trang
công nợ. Vui vẻ bác khoe với tôi:
- Tất cả, tôi lo hết gần hai trăm. Của nhà có non một trăm,
còn thì đều phải đi vay. Nhưng tôi cũng lấy làm hả. Từ nay trở đi,
cháu đã có ngôi đình, chúng tôi sẽ được ăn miếng thịt phần việc
làng của nó!...
CÁI ÁN ÔNG CỤ
Bấy giờ đã quá trưa. Ánh nắng của mặt trời tháng năm thiêu
đốt càng dữ. Trên đường thỉnh thoảng lại thấy khét như lửa cháy.
Bước rảo chừng hơn một tiếng đồng hồ, tôi cố phấn đấu với thần
Hạn bạt và đi cho chóng đến cổng làng K.Q. để được nhờ sức che
chở dưới bóng mát của một cây đa cổ thụ. Trong làng văng vẳng có
tiếng ồn ào. Rồi một lũ tuần phu nghênh ngang đi ra đầu làng với
một đoàn tay thước mã tấu, chiêng trống, cờ quạt, coi bộ như sắp
có cuộc nghênh tiếp ông quan nào đó. Đôi mắt quáng nắng đã tỉnh,
tôi đủng đỉnh đi vào giữa làng để tìm đến nhà người bạn. Tiếng ồn
ào mỗi lúc mỗi rõ thêm. Và nó biến ra những câu gào khóc, thét
lác, khi tôi thoạt tới đầu đình. Người làng làm gì mà đông như
vậy? Họ đứng rải rác khắp trong giải vũ, ngoài tường bao lan, và
họ lố nhố ở trước sân đình. Dưới giọt tiền tế, chiếc chiếu cạp đỏ
cuộn thành một đống xù xù, như có người nằm ở trong. Cạnh đó,
mấy vũng máu tím lênh láng đọng trên mặt gạch, ruồi nhặng bay
đến dình dình, mùi tanh nồng nực pha trong hơi nắng. Trên sân
tiền tế một người đàn ông lực lưỡng chễm chện ngồi với một con
dao nhọn. Tuy hai khuỷu tay bị sợi thiếu cày ghì vào cây cột sau
lưng, nhưng coi nét mặt vẫn thấy nhơn nhơn đắc ý.
- Ới anh ơi! Tôi đã can anh không nên gây thù gây oán, anh
chẳng nghe tôi! Bây giờ anh chết bỏ mẹ con tôi bơ vơ, tôi biết
nương tựa vào đâu! Ới anh ơi! Ới anh Quản ơi!
Một người đàn bà với bộ đầu tóc rũ rợi, gục vào trên chiếc
chiếu cạp, vừa đập tay lên mặt đống chiếu vừa khóc bằng giọng
thảm thiết. Dứt mấy tiếng tí tỉ, rên rẫm, người ấy bỗng đứng phắt
dậy.
Và như con choi choi, chị ta nhẩy xổ đến trước tiền tế, hai
tay đen đét đánh song thẳng vào mặt người bị trói, réo mãi tam
tộc, ngũ phục nhà hắn, nguyền rủa một cách rất độc. Người kia
cũng nham nhảm chửi lại:
- Ông chết thì thôi! Nếu ông còn sống thì ông sẽ giết cả nhà
nhà mày; cái mạng của thằng chồng mày, ông coi như mạng chó
vậy.
Chồm chồm như con trâu lồng, người đàn bà ấy nhảy vọt lên
sân tiền tế, vớ luôn lấy con dao nhọn, chực đâm vào người đàn ông.
Mấy người chung quanh xúm lại kéo chị ta ra và khuyên:
- Bà Quản không nên nóng quá. Việc đã có quan. Sát nhân
giả tử! Bà không ngại! Lát nữa quan về, quan sẽ phân xử!
Hẳn là một vụ án mạng.
Tôi đoán như vậy và cố nén cơn lợm lòng bởi mùi hôi tanh
của vũng máu tươi phơi nắng gây ra, để đi vào coi cái chết của kẻ
bất đắc kỳ tử. Người này vào khoảng dưới bốn chục tuổi. Tuy bị
chiếc chiếu phủ kín từ cổ đến gối, nhưng đầu và chân còn hở ra
ngoài. Hình như hắn chết đã lâu. Một chân co ở trong chiếu, đầu
gối dựng lên, làm cho chiếc chiếu thành ra cái hình khum khum.
Chân nữa bê bết một lượt màu tím, vẫn duỗi thẳng dẵng trên
gạch. Cái mặt anh ta mới đáng sợ chứ! Nó bị bốn năm vết chém
rất sâu. Một vết ở má bên trái, rạch hằn gò má thành miếng thịt
sắp rơi. Một vết ở mắt bên phải, ngăn đôi con mắt, giống như cái
hình chữ thập. Trời nắng, da thịt bị nướng trong bầu không khí
nóng nực, nó phải co lại, những vết thương đều rộng hoác ra,
chẳng khác những vết nứt nẻ trên mình một con bò thui. Tôi
đương rùng mình kinh sợ, đằng sau chợt thấy có người vỗ vai,
khiến tôi giật mình quay lại. Đó là bạn tôi, người ở làng ấy. Không
kịp chào tôi, anh ta hỏi một cách ngạc nhiên:
- Anh cũng đến xem cái án "ông cụ" đấy à?
- Không! Tôi đến thăm anh! Tình cờ thấy có sự lạ, nên còn
đứng lại...
Anh ấy liền kéo tôi về nhà. Rồi vừa đi, anh ta vừa kể cho tôi
nghe đầu đuôi vụ án mạng ấy. Thì ra cái người bị trói trên đình
tên là Hai Thu, em ruột lý Xuân, chính là hung thủ vụ đó. Còn
người bị giết thì là quản Thi, con trai ông Thư, một ông bô lão làng
ấy. Sở dĩ xảy ra án mạng, chỉ vì một quân "ông cụ". Cha con ông
Thư, trước kia chỉ là những người ngụ cư ở làng K.Q., theo tục lệ
nhà quê, hạng dân ngụ cư, bao giờ cũng bị khinh rẻ. Ông ấy mấy
lần muốn xin vào ngôi cho con, nhưng mà không được. Bởi vì nhà
ấy đến ở làng này chưa được ba đời, cho nên người ta không nhận.
Thình lình gặp có khóa lính, quan bắt rất gấp, trong làng không ai
chịu đi. Lý trưởng phải gọi cả Thi. Thừa cơ, anh Thi yêu cầu cả
làng ký kết cho mình nhập tịch và được hưởng đủ quyền lợi như
mọi người khác, mới chịu ứng mộ. Bí quá, dân làng đành phải
bằng lòng. Trời kia đất nọ, anh ta ra lính vài tháng thì được đóng
bếp. Rồi thì chẳng bao lâu bác bếp Thi đã thành ra ông đội Thi.
Đến lúc hưu trí, ông đội ấy nghiễm nhiên về làng với chức phó
quản để ngồi vào ngôi tiên chỉ. Bỗng không bị một người ngoài đè
đầu cưỡi cổ, cả làng ai cũng cay lắm, nhưng việc đã lỡ, còn biết nói
sao.
Một hôm ở bàn tổ tôm trong một đám khao lão, có lý Xuân và
ông cụ Thư cùng dự. Trong cỗ tổ tôm, có quân "bạch vạn" bôi đỏ,
người ta thường gọi là quân "ông cụ". Khi nào bài ù, hết thảy là
quân để trắng, chỉ có một quân "ông cụ" bôi đỏ, ấy là ván bài "kính
cụ", được ăn tiền bằng ba những ván ù suông. Lúc ấy, một người
trong cuộc, bốc "nọc" gặp phải một quân "ông cụ", hắn đùa và hỏi:
- "Ông cụ" của làng cũng được kính chứ?
Lý Xuân buột miệng trả lời:
- Chỉ kính "ông cụ" của nhà, ai kính "ông cụ" ngụ cư.
Ông Thư nghe câu đó lấy làm căm tức, về nhà thuật lại với
con; từ đó quản Thi đem lòng thù oán lý Xuân, và luôn luôn bới
bèo ra bọ, để kiện lý Xuân. Nhờ có thần thế lại có nhiều tiền, quản
Thi đã thành một vị thần thông, có phép đổi đen ra trắng. Kết cục,
lý Xuân hết cả cơ nghiệp, bị cách lý trưởng, lại bị phạt tù sáu
tháng. Hai Thu là đứa ngỗ nghịch, trước sự oan ức của người ruột
thịt, cố nhiên hắn không chịu nhịn. Sáng nay nhân có việc làng,
hắn bèn sinh sự cãi nhau với quản Thi, rồi sẵn con dao chọc tiết
lợn, hắn đâm và chém quản Thi đến hai chục nhát. Một nhát
trúng phổi, quản Thi chết không kịp ngáp. Kể hết câu chuyện bạn
tôi nói thêm:
- Ngay lúc xảy ra án mạng, lý dịch làng tôi đã phải phái
người lên phủ trình quan. Tử thi còn phải để đó, đợi quan về
khám.
Rồi thì anh ta kết luận:
- Vụ này có lẽ hai Thu sẽ bị ghép vào án tử hình. Vậy là một
quân "ông cụ" giết chết hai mạng.
NGHÊ THUẬT BĂM THỊT GÀ
Từ khi thôi học, tính ra đã gần mười năm, bây giờ tôi mới lại
gặp Lăng Vân. Những chuyện tích lại trong một thời gian khá dài,
lúc ấy được dịp xuất hiện nó đã làm cho chúng tôi đều phải quên
ngủ, tuy đêm đã khuya. Ngoài sân trời tối như mực và mưa sùi
sụt, nước mưa rả rích giội xuống đầu thềm, như thêm vẻ chứa
chan cho mối tình cửu biệt. Gà bắt đầu gáy. Dưới bếp bỗng có
tiếng người khậm khoặc. Rồi thấy bóng đèn lập lòe. Một lát sau,
nghe có tiếng gà đập cánh phành phạch và kêu quang quác. Tôi
ngạc nhiên hỏi:
- Người nhà đã sắp làm cơm đấy sao?
Lăng Vân lắc đầu:
- Không! Sáng mai nhà tôi phải chứa hàng xóm.
Chứa xóm cố nhiên không phải là một đầu đề để nói chuyện.
Chúng tôi lảng ra chuyện khác. Đồng hồ điểm hai tiếng mới cùng
trùm chăn nằm ngủ. Giấc ngủ của tôi đương ngon, thình lình bị
tan bởi mấy tiếng lộc cộc của guốc, và gậy nện xuống thềm gạch.
Tôi bừng mắt ra, trời đã sáng rõ, trong nhà lố nhố mấy ông cụ già
khăn áo tề chỉnh, Lăng Vân đang xoăn xoe chào mời các cụ một
cách cung kính. Giữ lễ xã giao với người lạ, tôi vội tung chăn ngồi
dậy và đương lúng túng chưa biết nên ở đó hay lánh đi đâu, Lăng
Vân đã bưng đến chỗ tôi ngồi một bộ bàn chè, một siêu nước sôi,
bảo tôi cứ việc pha nước và uống tự nhiên. Người đến mỗi lúc một
đông. Già có, trẻ có, đứng bóng có. Toàn là đàn ông tất cả. Trong
nhà giường phản chật hết, người nhà phải quét cái thềm mưa ướt
rờm rợp, rồi trải chiếu lên, để làm chỗ ngồi cho mấy ông tí nhau.
Hàng xóm vẫn lục tục kéo đến với những bàn chân đất lấm bê bết.
Ai cũng như nấy, sau khi đã đến bể nước giội qua, người ta đi
nhón lên thềm, chùi chân vào cái chổi rơm làm phép, rồi bước xàm
xạp lên chiếu.
- Sao không lấy gì mà che, lại đi đội trời thế kia! Nước mưa
ướt cả đồ lễ!
Tiếng thét dõng dạc của một ông già ở phản bên kia vừa dứt,
thì ở dưới sân, một người vừa lù lù bưng mâm xôi gà lên thềm và
đặt vào chiếc phản giữa. Rồi một người khác để luôn lên đó hai
chai rượu lớn. Con gà cũng không nhỏ lắm, ước chừng một người
ăn cố mới hết. Cỗ xôi vừa kín cái lòng mâm đồng, nó phải độ bốn
đấu gạo! Còn hai chai rượu thì đầy ăm ắp, hạng chai ba phần tư
lít. Mọi người ngồi yên, một ông đàn anh ra lệnh:
- Hàng xóm đã đến đông đủ! Thằng Mới đem làm cỗ đi!
Thì ra cái người đội mâm xôi gà lúc nãy chính là mõ làng.
Hắn dạ một tiếng thật dài rồi khép nép đứng tựa bên cột:
- Thưa các cụ làm bao nhiêu cỗ?
Ông đàn anh ấy lại lên giọng:
- Mày trông xem có bao nhiêu người kiến tại.
Thằng Mới liếc mắt một lượt từ trong nhà ra đến ngoài thềm,
rồi thưa:
- Bẩm ba mươi người tất cả.
Ở đầu dãy phản tay phải, thấy có tiếng hỏi:
- Hàng xóm ta mười mấy suất, cụ còn nhớ không?
Rồi có tiếng đáp:
- Năm ngoái bảy mươi tám suất, năm nay mới thêm năm
suất thế là tám mươi ba suất cả thảy.
Ông đàn anh vừa rồi nhìn vào thằng Mới:
- Vậy thì phải làm hai mươi ba cỗ, tám cỗ kiến tại, một cỗ
chứa, một cỗ cho mày, còn mười ba cỗ làm phần.
Câu nói của ông ấy khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Một con gà
và bấy nhiêu xôi mà làm đến mấy chục cỗ, thì làm ra sao? Chắc là
còn có món gì khác nữa.
Tôi nghĩ như thế. Nhưng mà không. Chẳng có chi hết. Người
nhà chỉ bưng lên thềm hai thúng bát đĩa, một con dao, một cái
thớt, một liễn nước mắm và hai chồng mâm. Thằng Mới lễ bễ bưng
mâm xôi gà ra thềm. Hắn nhấc con gà sang chiếc mâm khác, rồi
chữa cỗ xôi hình tròn ra hình vuông. Ô lạ! Con gà làm được hơn
hai chục cỗ, thật là một kỳ công! Tôi phải giả vờ đứng dậy ra sân
để đến tận nơi mà coi cho rõ. Thằng Mới đặt thử con dao lên mặt
cỗ xôi, hắn tính lẩm bẩm giây lát, rồi xắn một chiều làm sáu, một
chiều làm bốn. Sau khi lấy một miếng xôi véo ra từng tí để phụ
vào các miếng kia, hắn nhấc mâm xôi sang một bên cạnh và kéo
cái thớt vào chỗ trước mặt. Cái thớt khí trũng, hắn gọi thằng nhỏ
đổi cho cái khác và hắn lẩm bẩm một mình:
- Băm thịt gà cần phải dao sắc, thớt phẳng. Nếu mà dao cùn
thớt trũng thì thịt sẽ bong hết da!
Vừa nói, hắn vừa với sang thúng đĩa lấy đủ chục chiếc, bầy la
liệt trên mặt thềm. Thằng nhỏ đã xách lên đó chiếc thớt mới
nguyên, sắc gỗ nghiến còn đỏ đòng đọc. Nhanh nhảu, hắn sờ ngón
tay vào lưỡi con dao, xem có bén không. Và hắn lật cái trôn bát liếc
luôn ba lượt thật mạnh. Bấy giờ mới giở đến bộ lòng gà. Mề, gan,
tim, phổi, các thứ đều được thái riêng và được bày riêng vào một
góc đĩa. Tuy nó mới chỉ một dúm cỏn con, nhưng trong mười đĩa
không đĩa nào thiếu một thứ nào. Rồi hắn nhấc cả con gà ra thớt.
Bắt đầu chặt lấy cái sỏ, sau mới chặt đến miếng phao câu. Thình
lình thấy hắn đứng lên ngoảnh mặt vào phía mấy ông đàn anh:
- Thưa trình các cụ, hôm nay sỏ gà pha mấy? Phao gà pha
mấy?
Một ông trong bọn nhìn qua vào đám nhiều tuổi, hình như để
đếm đầu người, rồi đáp:
- Ở đây chỉ có năm cụ và bốn ông đàn anh. Vậy thì sỏ gà pha
năm, phao gà pha bốn.
Hắn lại ngồi xuống chỗ cũ. Trước hết ghè dao vào giữa hai
miếng mỏ gà để cắt cái sỏ ra làm hai mảnh.
Rồi hắn úp cả đôi mảnh xuống thớt, chặt mảnh mỏ dưới làm
đôi và mảnh mỏ trên làm ba. Tôi không biết những miếng thịt gà
này có đều nhau không, chỉ thấy tất cả năm miếng, miếng nào
cũng có dính một tí mỏ. Tiếp đến cuộc pha phao câu. Công việc tuy
không lấy gì làm khó, nhưng hắn làm cũng vẫn có vẻ khác người.
Bốn miếng phao gà, miếng nào cũng có đầu bàu, đầu nhọn, chẳng
khác nào một cái chũm cau chẻ tư. Sỏ gà bày vào một đĩa, phao gà
bày vào một đĩa. Hắn lại cắt lấy hai chiếc cánh gà, chặt luôn làm
hơn mười miếng và bày với đôi chân gà làm thêm một đĩa nữa.
Bây giờ thì đến mình gà. Hắn lách lưỡi dao vào sườn con gà, cắt
riêng hai cái tỏi gà bỏ góc mâm. Rồi lật ngửa con gà lên thớt, hắn
ướm dao vào giữa xương sống và giơ dao chém luôn hai nhát theo
chiều dài cái xương ấy. Con gà bị tách ra làm hai mảnh. Mỗi mảnh
đều có một nửa xương sống. Một tay giữ thỏi thịt gà, một tay cầm
con dao phay, hắn băm lia lịa như không chú ý gì hết. Nhưng mà
hình như tay hắn đã có cỡ sẵn, cho nên con dao của hắn giơ lên,
không nhát nào cao, không nhát nào thấp. Mười nhát như một, có
khi chỉ lên khỏi mặt thớt độ khoảng một gang, và cách cái ngón
tay hắn độ vài ba phân. Tiếng dao công cốc đụng vào mặt thớt,
nhịp nhàng như tiếng mõ của phường chèo, không lúc nào mau,
cũng không có lúc nào thưa. Mỗi tiếng cốc là một miếng thịt gà
băng ra. Miếng nào cũng như miếng ấy, đứt suốt từ xương đến da,
không còn dính nhau mảy may. Trông những miếng thịt gà của
hắn bốc ra góc mâm, mới đẹp làm sao! Không giập, không nát,
không bong da, nó giống như tập cánh con bươm bướm. Nếu để
trước môi mà thổi, có thể bay được mười thước. Băm xong con gà,
hắn móc túi lấy một nắm tăm. Mỗi miếng thịt gà, hắn xâu cho một
cái tăm vào giữa. Rồi hắn cắm vào mâm xôi. Cứ mỗi tảng xôi là
bốn xâu thịt. Thịt vừa hết, xôi cũng vừa kháp. Té ra cái mình con
gà, hắn đã băm được 92 miếng. Lăng Vân cười và hỏi tôi:
- Anh đã chịu nghề băm thịt gà của ông Mới làng tôi chưa?
Nhà hắn ba đời làm cái nghề ấy, thì mới thạo được như thế. Người
khác dễ ai làm nổi!
Tôi chịu lắm. Và tôi muốn dâng cho ông Mới ấy cái chức nghệ
sĩ.
ĐÔI GIÀY MẤT DẠY
Tôi phải hết sức ngạc nhiên khi bắt đầu thấy anh Hai
Thuyết. Người đâu mà lạ làm vậy! Cổ tay lớn bằng bắp chuối,
ngón tay như hai chiếc dùi đục; những lúc anh vấn vành khố một -
nhai, bao nhiêu bắp thịt chần chẫn trong lớp da đồng tụ đều lộ ra
hết, thì trông chẳng khác gì cái tượng lực sĩ ở Đền Đô. Tuy rằng
lúc đó ảnh đã gần năm chục tuổi, nhưng còn gánh nổi hàng tạ và
vẫn đủ sức để cất cái búa bổ củi một cách nhẹ nhàng. Ông chủ nhà
tôi rất mến ảnh, quanh năm, suốt tháng, không dám rời ảnh mấy
khi, sợ rằng người khác mướn mất.
Vì thế, từ ngày đến trọ ở làng Đ.S tôi không ngày nào mà
không gặp ảnh. Giọng nói ngây ngô, mộc mạc của ảnh vẫn là
những thuốc giải muộn cho tôi trong lúc vô liêu. Vậy mà sáu, bảy
hôm nay, chẳng thấy bóng ảnh đâu hết. Một người như ảnh cố
nhiên không ai dám đoán là có tật bệnh.
Lúc đầu tôi tưởng rằng ảnh đi vắng. Nhưng mấy bữa sau
thỉnh thoảng lại thấy tiếng ảnh ở nhà, tôi ngờ rằng ảnh có chuyện
xích mích với ông chủ nhà tôi, nên không sang nữa.
- Không! Nó còn khổ về hai chiếc giày! Từ hôm rước được đôi
giày về nhà đến giờ, nó phải bỏ cả làm ăn, không lúc nào đi ra khỏi
cổng. Nếu còn giữ hai chiếc giày ấy không khéo có ngày vợ con nó
sẽ chết đói.
Câu nói của ông chủ nhà khiến tôi càng lấy làm lạ, không
sao hiểu nổi. Tôi phải phiền ông giảng lại một lượt. Thì ra năm
nay làng ấy vào đám dẫy chà, ảnh được cắt làm thủ hiệu trống.
Tuy chỉ là người cầm dùi đánh trống, nhưng ở đình đám, chức thủ
hiệu vẫn sang hơn chức cầm cờ, cầm quạt, bất kỳ là thủ hiệu gì.
Những ngày rước thần, thủ hiệu vẫn được đóng đai, đi ủng, đội mũ
võ và mặc áo thụng, có người che lọng, có người cắp tráp đi hầu;
nếu là mùa bức, họ còn thuê mướn đầy tớ vác chiếc quạt lông,
thỉnh thoảng phẩy cho một cái là khác. Trong một chà đám, thủ
hiệu được có sở riêng tại đình, góp tiền góp gạo, ăn uống ở đó, khi
nào đoạn đám mới về. Sở của thủ hiệu, bao giờ cũng oai, có cờ, có
trống, có tay thước, mã tấu... trang hoàng như dinh quận của ông
đại tướng. Cho được xứng đáng với bấy nhiêu sự sang trọng, ngoài
những quần lành, áo mới, các vị thủ hiệu lúc nào cũng phải xỏ
chân vào giày, không được phép đi dép, đi guốc, nhất là không
được đi đất. Thủ hiệu đi đất, ấy là để cho hàng tổng, hàng xứ chê
cười làng mình, người ta vẫn tin như thế. Bởi thế, từ khi có tin
được bổ thủ hiệu, anh Thuyết lập tức cậy người đi ra Hà Nội mua
cho đôi giày da lộn, để góp với bạn đồng sự. Cái người ảnh cậy
cũng đã sáng ý, thấy đôi bàn chân của ảnh đều là "xuất chúng" nó
phàn phạt như chiếc bàn cuốc và lớn bằng rưỡi bàn chân người
thường, hắn phải tìm khắp các cửa hàng giày, để chọn cho ảnh thứ
giày "quá đại".
Vậy mà chân ảnh xâu vào, vẫn còn thừa một ngón út và nửa
cái gót. Đời ảnh sắm giày lần này là hai. Cả hai lần đều bất như ý.
Lần trước, khi sắp cưới vợ, ảnh đã có mua một đôi. Vì đi không lọt,
ảnh phải gác lên gác bếp, đến khi dây đàn ải đứt thì đem vứt đi.
Lần này lại đi không vừa, ảnh phải bán lại cho một người làng rồi
tự đem hai bàn chân lên tỉnh để thửa lấy một đôi khác. Bằng cái
giá tiền gấp ba giày thường, người thợ giày mới chịu đo hai chân
ảnh, để hắn đệm cốt, lựa da, đóng cho ảnh đôi giày hợp thức.
Chuyến này thì ảnh xâu lọt cả năm ngón chân, có điều nó cũng khí
chật. Ông chủ nhà tôi kể đến chỗ đó, rồi thêm:
- Không hiểu chân nó ra sao mà khi lồng vào chiếc giày, coi
bộ cực kỳ ngượng nghịu, chẳng khác đứa trẻ tập đi. Bởi vậy, nó
phải nghỉ việc để học đi giày, ông sang mà xem, buồn cười hết sức.
Té ra thế gian lại có hạng người gần năm chục tuổi mới học
xỏ chân vào giày, có lẽ cũng là một sự kỳ dị. Nhân lúc vô sự, tôi
liền đi đến nhà ảnh để coi. Hình như ảnh sợ có người vào xem, nên
đã đóng cổng kín mít. Tôi gọi hồi lâu, mới thấy ảnh ra mở cổng với
cái bộ mặt bẽn lẽn. Bước vào trong nhà, chẳng thấy đôi giày đâu
cả, hẳn là ảnh vì xấu hổ, nên đã cất vào buồng trong. Tôi đoán như
vậy, rồi thử hỏi ướm:
- Nghe nói bác tập đi giày, nên tôi sang xem. Có việc gì mà
phải giấu giếm. Chúng tôi lúc mới đi giày cũng phải học đến hàng
tháng ấy chứ! Bác tưởng tự nhiên mà biết đi chăng? Cứ đem ra mà
tập đi, hễ sai chỗ nào tôi sẽ bảo giúp.
Ảnh nhìn tôi bằng một bộ mặt ngơ ngác, đầy vẻ sung sướng:
- Thì ra các ông cũng phải tập ư? Tôi ngỡ là có mình tôi.
Rồi ảnh đẩy cánh cửa buồng lấy đôi giày ra. Thảm hại! Đôi
giày chẳng khác gì lũ tướng cướp bị bắt, mỗi chiếc có một sợi chuỗi
buộc ở phía gót, đầu chuỗi còn dài lê thê. Thoáng trông tôi đã biết
ngay những cái chuỗi ấy dùng để làm gì, liền cười và nói:
- Bác cũng tinh đấy, có chằng gót giày vào chân mình thì khi
nhắc giày, nó mới khỏi rơi. Nào thử đi đi tôi xem.
Ra bộ đắc ý, ảnh bèn xâu chân vào giày và mỗi bên chân ảnh
lại chằng đi, chằng lại hai ba vòng dây, giống như người ta trói con
lợn vậy. Rồi ảnh đứng dậy, dõng dạc chống tay vào sườn, bắt đầu
cất bàn chân đi. Nhìn ảnh, tôi thấy giống hệt những bà nạ dòng
tiếc cái xuân xanh sắp hết, cố học đi giày cao gót để thi với bọn tân
thời. Bởi vì, đôi giày của ảnh tuy đã chằng trói kiên cố, nhưng bộ
giò ảnh vẫn phải rón rén rụt rè, không dám bước mạnh. Diễn
quanh lòng nhà độ vài chục lần, ảnh thấy nó đã hơi quen, liền
khoe:
- Thế nào, ông coi tôi đi đã được hay chưa?
Tôi cố nín cười và đáp:
- Được rồi đấy! Bây giờ bác thử cởi dây mà đi xem sao!
Vẫn cái nét mặt hớn hở, ảnh lại ngồi xuống, tháo hết những
nút chằng buộc của giày vào chân. Rồi ảnh thử đi giày không.
Quái lạ làm sao! Chân ảnh xỏ vào chiếc giày, vừa mới giơ lên, thì
nó đã bắn đi xa độ hai ba thước, y như người ta đá giày đi vậy.
Mấy lần ảnh nhặt giày lại, cầm tay xâu vào bàn chân và ảnh mắm
môi, nghiến răng, cố quịp cả năm ngón chân để giữ nó lại, nhưng
cái đôi giày mất dạy như có thù với bàn chân ảnh, mỗi khi ảnh
nhấc chân lên, nó lại bắn đi đánh phót một cái. Buồn rầu, ảnh nói
bằng giọng năn nỉ:
- Ông hãy làm ơn mỗi ngày sang đây dạy tôi một lúc. Nếu
mười ngày nữa mà tôi không đi được giày thì lúc vào đám, tôi
đành cáo ốm nằm nhà. Ông thủ hiệu không biết đi giày, thật là
nhục cho cả làng.
GÓC CHIẾU GIỮA ĐÌNH
Trời đã quá trưa. Tôi vừa về đến nhà trọ, đã thấy người nhà
ông Lđá sang mời. Lần này là ba. Sáng ngày đã hai lần rồi. Trước
sự ân cần như vậy, ai mà có thể từ chối. Bởi tại hôm nay nhằm kỳ
bình văn, tôi phải có mặt ở trường, nên còn xin khất đến chiều. Kể
ra tôi với ổng không phải có thân tình gì. Vì tôi trọ học ở gần nhà
ổng thành ra quen ổng. Người ta bảo với tôi rằng: Ổng rất thật thà
chăm chỉ. Trước đó chừng mười lăm năm, ổng còn làm nghề cày
thuê, vợ ổng thì chuyên đi ở vú sữa. Cái chính sách tiết kiệm,
trong một thời kỳ khá dài, đã đưa nhà ổng lên đến bậc có máu
mặt, lưng vốn ở nhà đã có gần mẫu ruộng và nửa con trâu. Trong
mấy năm nay, vợ ổng đã không còn sữa, ổng cũng không được
khỏe mạnh như xưa, cho nên cả hai đều tự hưu trí để cùng trông
nom nhà cửa ruộng nương. Nhờ trời hồi ấy luôn luôn được mùa,
vận ổng lại càng tấn tới, trong chuồng lúc nào cũng có lợn lớn, thóc
lúa đủ ăn từ vụ nọ đến vụ kia. Trong cái hạnh phúc của loài người,
ổng không mong gì hơn thế, nếu như làng ổng không có cái đình.
Khổ vì cái làng Đ.Tr. nhà ổng tuy không phải làng văn vật, nhưng
mà rất có trật tự. Bao giờ cũng vậy, ngồi chỗ trong đình làng ấy
cũng như ngồi chỗ ở các rạp hát, vẫn chia ra rất nhiều lô: trên
nhất là chiếu phẩm hàm, rồi đến các chiếu chức dịch, trai đinh
phải ngồi vào lớp cuối cùng. Ông tuy ngoài năm chục tuổi, nhưng
vẫn là hạng bạch đinh, mỗi khi ra đình, chỉ được ngồi với bọn bố
cu, bố đĩ. Điều đó, ổng rất lấy làm bất mãn. Nhiều lần làng khuyết
lý trưởng, phó lý, ổng đã dốc lòng định mưu lấy chút danh phận.
Chỉ vì ổng không biết một thứ chữ nào, cho nên không được như
nguyện. Năm nay, mái đình làng ấy có mấy chỗ dột. Dân làng
cũng mong chữa lại, nhưng mà tiền công của làng chỉ vừa đủ để
các hào lý đi việc quan, không còn thừa mà mua ngói. Các ông kỳ
dịch liền gọi ổng ra giữa đình, để bán cho ổng cái chức "lý cựu" lấy
một trăm bạc chi tiêu vào công việc tu bổ.
Lúc đầu ổng cũng phân vân, vì sợ cái của "không tân mà
cựu" sẽ không được ai quý trọng. Mấy ông kỳ dịch nói rất bùi tai,
họ bảo người ta bỏ hàng năm, bảy trăm, một nghìn để làm ông lý,
ông phó. Đằng này, ông chỉ tốn một trăm bạc, không vất vả gì, mà
rồi cũng được ngồi ngang với họ, ăn biếu ăn xén như họ. Ấy là một
dịp hiếm có, không nên bỏ qua. Nghe vậy, ổng cũng cho là rất có lý
và đã bàn kỹ với vợ. Vợ ổng cũng muốn được làm bà Cựu, nên
cũng khuyên ổng cố lo. Từ nửa tháng trước, ổng đã bán trâu, bán
ruộng, được hơn trăm bạc, để nộp cho làng. Thế là công việc mười
phần đã xong chín phần, chỉ còn khao làng một bữa, thì sẽ thành
danh ông Cựu. Đáng lẽ bữa khao ấy ổng định hoãn đến tháng
mười, đợi cho lúa gạo của nhà, đỡ phải vay mượn mất lãi. Nhưng
mấy ông hương lý không nghe. Họ nói để lâu không tiện, dân làng
đã vậy, còn quỷ thần. ừ thì cái áo còn lo được, huống chi cái giải!
Trước một lần, sau cũng một lần, lo lúc nào thì xong lúc ấy. Ông
nghĩ vậy, nên mới cố mua bát họ hơn sáu chục đồng để lo cho yên.
Cứ ý bà Cựu, thì cuộc khao này chỉ cốt cho đủ lệ làng, không mời
khách khứa nào cả. Ông Cựu không chịu. Bây giờ ổng đã làm bậc
lý cựu trong làng, không thể xử cách nhom nhem được. Bởi vậy,
ổng định làm thật linh đình. Nhà chật. Trừ khu bếp đun, toàn thể
dinh cư chỉ có bốn gian một chái nhà tranh. Ngày thường, với gia
đình ổng như thế cũng là rộng. Lúc nào có việc, nó không đủ chỗ
để chứa làng xóm họ mạc. Từ chiều hôm qua, ông đã sai mổ con
lợn, để nhờ bà con dựng hộ gian rạp. Bấy giờ đã nửa tháng tám,
công việc ngoài đồng xong rồi, cả làng ai cũng rỗi rãi. Tôi tuy chưa
sang nhà ông, cũng nghe nói số người giúp đáp đông lắm. Mẹ nào
con ấy, chị nào em ấy, người ta kéo vào từng lũ. Cái anh người nhà
sang mời khoe rằng:
- Bữa chiều hôm qua, tất cả năm chục mâm cỗ. Con lợn bảy
yến, chỉ ăn một lượt là hết. Sáng nay ông Cựu lại cho giết ba con
nữa, hai con để họ hàng ăn cơm, một con để đem lễ thờ, rồi biếu
dân làng.
Và hắn nói thêm:
- Nhưng cũng chưa đủ. Chiều nay còn mời các lão và tư văn,
thế nào cũng phải vài ba con nữa. Rồi hắn giục tôi:
- Rước ông sang ngay đi cho kẻo ông Cựu tôi lại bắt người
khác sang mời. Ở bên ấy, các ông hàng tổng đương đợi ông đấy.
Anh ta nói đúng. Tôi còn lúi húi rửa mặt, đã nghe có tiếng
lợn kêu eng éc tự phía ngõ ngoài đi vào. Và một lát sau lại có
người nữa sang giục. Thay xong quần áo, tôi theo hai anh người
nhà cùng đi. Từ cổng trở vào, bát đĩa mâm nồi la liệt bày khắp mặt
đất. Trong rạp đông nghịt những người. Đám này không khác gì
các đám khác, ngoài một số người tay dao tay thớt, lại có các ông
chỉ chuyên thuốc phiện và tổ tôm. Tôi ngó hai dãy phản rạp thấy
có ba bàn tổ tôm và bốn bàn thuốc phiện. Thì ra cái bữa thết làng
tuy đã xong từ sáng ngày, nhưng mà các ông kỳ dịch vì có cảm
tình với ông "Cựu mới" cho nên còn lưu lại đó tất cả. Thoáng thấy
bóng tôi, ông Cựu chào hỏi một cách lơi lả và mời tôi vào trong nhà
ngồi với mấy người làng bên. Rồi ông trách tôi đã tệ với ông, vì từ
hôm qua đến giờ mới sang. Theo lệ tôi mở ví lấy một đồng bạc ra
mừng. Ông Cựu ra ý không thích và nói:
- Ông cho nhà cháu mấy chữ chả quý hơn ư? Tiền tuy cũng
quý, nhưng nhà cháu còn có thể kiếm ra được. Hay là để cháu mua
một đôi liễn, rồi ông viết chữ vào cho.
Tôi còn chưa kịp trả lời, thì thấy một người tất tả chạy vào
báo với ông Cựu:
- Tư văn đã vào! Ông Cựu lật đật chạy ra ngoài rạp.
Thằng Mới vừa bưng vào đó một mâm cau và một bánh pháo.
Theo nó, một bọn lố nhố độ hai chục người tiến vào trong rạp.
Sau khi đã nói vài câu chiếu lệ, ông Cựu mời họ sang ngồi nhờ ở
nhà láng giềng, rồi ông giục người bưng cỗ sang đó. Một ông ở bàn
thuốc phiện vào chỗ tôi ngồi, nói chuyện tiếp tôi:
- Ông nó lo một việc này, có lẽ cũng tốn đến hai trăm bạc.
Song cũng còn may! Ông tính không làm việc ngày nào, tự nhiên
thành người kỳ cựu, chễm chện ngồi chiếu cạp điều giữa đình, há
chẳng sướng sao? Vì có chúng tôi giúp cho thì việc mới xong, người
khác đâu được như thế.
Uống rượu xong, tôi từ biệt ra về. Tới cổng lại thấy một lũ
kéo vào. Đó là các lão trong làng vào mừng ông Cựu. Cuộc linh
đình còn mãi đến sáng hôm sau. Năm hôm sau nữa, tôi gặp bà
Cựu cắp nón đi ra cổng làng, với một dáng điệu không vui:
- Chào ông ở nhà, cháu đi làm đây.
Và không đợi tôi hỏi, bà ấy vội vàng cắt nghĩa:
- Cháu sang Hà Nội làm vú già ông ạ. Có gần mẫu ruộng và
nửa con trâu đã bán hết cả, lại còn nợ thêm hơn bảy chục đồng,
nếu không đi làm thì lấy gì mà đóng họ?
NÉN HƯƠNG SAU KHI CHẾT
Từ hôm làng bàn chữa lại tam quan đến nay, hôm nào ông
chủ nhà tôi cũng bận tiếp khách, bỏ cả công việc. Thằng ở đã phải
càu nhàu, bà chủ đã phải lườm nguýt, mấy con chó dé nhăng nhắc
sủa không dứt tiếng. Hôm nay cũng vậy, những ông kỳ dịch hương
hội vừa ra, bà lão răng móm đầu bạc đã vào. Người ta nói chuyện
với nhau ở trên nhà thờ. Hình như câu chuyện cũng không cần bí
mật. Biết là việc riêng của họ, tôi không có ý nghe ngóng làm gì,
nhưng cái lỗ tai vô tình thỉnh thoảng lại bị lọt vào những câu như
vầy:
- Sức tôi chỉ lo được thế, trăm sự nhờ ông giúp tôi.
- Tôi vẫn hết sức giúp cụ, nhưng ông Điển lễ nhất định
không nghe, không lẽ tôi làm phù thủy lại hù gà nhà!
Tan một hồi tiếng to, tiếng nhỏ, bà lão lững thững chống gậy
trở ra, ông chủ nhà tung tăng đi xuống nhà học với một nụ cười
đắc chí:
- Ở nhà quê, giàu mà lép vế nghĩ cũng khổ thật ông ạ! Tôi
chưa nói sao, ông ta liền hỏi:
- Chắc ông không biết bà lão mới rồi là ai? Và ông ấy lại
giảng:
- Đó là bà Tư Tỵ, thím thằng cả Thân ở xóm dưới. Bà ta góa
chồng từ thuở ngoài hai mươi tuổi. Lúc chồng chết đi, trong nhà
không có hột gì. Chỉ nhờ có chiếc đòn gánh với hai bàn tay, thế mà
trong mấy chục năm, bà ấy tậu được hơn bốn mẫu ruộng, làm được
năm gian nhà ngói, còn tiền cho vay không kể. Làng tôi ai cũng
phải phục bà ta có tài làm giàu. Vừa nói, ông ấy vừa ghé vào chỗ
tôi ngồi và tiếp:
- Nhưng mà họ giàu là phải. Ông tính quanh năm khách
khứa không có, sưu thuế không mất, làm gì mà chẳng giàu? Nếu
mình mà được như họ, có lẽ còn giàu bằng hai. Tuy vậy giàu như
bà này, cũng chỉ là cái thân tội...
Ngừng lại để vê một mồi thuốc lào, rồi như sợ tôi cướp lời,
ông ta kể luôn một mạch:
- Bà ấy không có con trai. Lúc trước chỉ được một đứa con
gái, nhưng sau nó lại chết mất. Vậy mà bà ta hà tiện rõ "vắt cổ
chày ra nước". Suốt đời cơm ăn với muối, bữa nào hoang lắm mới
dám mua một mớ rau. Tháng năm tháng mười cũng như tháng ba
tháng tám, nếu không độn khoai, thì độn ngô, chẳng bao giờ nấu
cơm toàn gạo. Những năm gạo đắt, thường chỉ ăn khoai ăn ngô trừ
cơm. Thế nhưng nhiều lúc vẫn phải đổ đi hàng trăm, hàng chục.
"Là vì ông lý ông phó làng tôi, đều tay ghê gớm. Thấy bà ta có, nay
người này hỏi vay vài chục, mai người kia hỏi vay vài chục. Cho họ
vay, ấy là mất hút, chớ có bao giờ họ trả. Nhưng nếu không cho họ
vay, họ sẽ bới bèo ra bọ, khó mà yên lành với họ.
"Bà ta cũng đã chịu khó luồn lọt. Nội các đàn anh trong làng,
nhà nào có giỗ có chạp, hay có cưới xin khao khoán, dù không mời,
bà ta cũng đến, với một món đồ lễ: đám nhỏ vài chai rượu, đám lớn
thì vài đồng bạc. Những lúc làng có công việc, ví như chữa đình,
chữa chùa chẳng hạn, bà ta đều có xuất tiền công đức, không tuần
chay nào không mất nước mắt. Vậy mà các ông hào lý vẫn không
tha cho, hễ gặp dịp bóp được là họ cứ bóp.
Tôi hơi ngạc nhiên và hỏi:
- Bà ấy không có họ hàng nào ư? Cớ sao người ta chịu để
người ngoài ăn hiếp mãi người trong họ như vậy?
- Họ hàng xa cả, chỉ có cả Thân là gần, chính nó được ăn
thừa tự bà ấy. Nhưng mà thằng ấy tệ lắm, nó cũng đục khoét bà ta
như mọt. Năm trước thua bạc, nó đã bán của bà ấy mất hơn mẫu
ruộng, bà ta cũng phải cắn răng mà chịu. Nhiều lúc nó còn thông
với các ông hào lý kiếm cớ mà xoay bà ta. Cái việc bây giờ cũng là
ở nó mà ra, chứ ai!
Nói đến đây, như đã dứt mạch, ông ấy thông điếu đặt thuốc,
hút một hơi dài. Rồi lại tiếp tục:
- Hiện nay bà ấy đương xin đặt hậu ở làng. Việc này, kỳ thủy
không phải tự ý bà ta. Vì thằng cả Thân, thấy thím còn vài mẫu
ruộng và mấy gian nhà, nó muốn bán nốt, nhưng trong làng chẳng
có ai mua, hắn mới bàn với ông Điển xui cho bà ta đặt hậu, nếu
việc xong, ông Điển phải chia cho nó một nửa số tiền. Ông kia
bằng lòng. Nó liền về nhà tán với bà cụ thế này: đáng lẽ, sau khi
bà ấy trăm tuổi, bao nhiêu gia tài sẽ về nó cả. Nhưng nó có tính
chơi bời, sợ rằng không thể giữ được. Muốn cho chắc chắn, bây giờ
đem một phần ruộng mà giao cho làng, sau này làng sẽ cúng giỗ
cúng tết bà ấy mãi mãi. Bà ta nghe cũng bùi tai, liền bảo nó đi nói
với các ông kỳ dịch xin nộp một mẫu ruộng để làm ruộng hậu, một
trăm bạc để làng sung công, và sửa con lợn cỗ xôi, trước lễ thánh,
sau kính làng. Một đám đặt hậu như thế, ở làng tôi kể cũng là
hậu. Các ông hào lý nhận lời. Chờ đơn "ký hậu" làm xong, bà ta đã
mắc vào tròng, bấy giờ họ mới giở ngón: ông Điển đòi năm chục,
chánh hội, lý trưởng mỗi người đòi ba chục. Có được thế họ mới ký
tên vào đơn, thì việc mới xong. Thấy thế bà ta chết ngã cổ ra, đã
toan xin thôi. Nhưng họ lại dọa: nếu mà bà ấy bỏ dở việc này, ấy là
bà đã đánh lừa làng, họ sẽ đệ đơn trình quan và sau khi bà ấy chết
đi, làng không khiêng nữa. Bà ấy hoảng quá, không dám nói đến
chuyện lôi thôi đặt hậu, chỉ xin rút bớt số tiền "nhuận bút" của các
vị hào lý mà thôi. Mấy bữa nay bà ta luôn luôn đến đây là cốt nhờ
tôi nói đỡ với họ. Tôi đã khuyên họ nên nghĩ phúc đức về sau,
không nên bóp nặn người ta thái quá. Chánh hội, lý trưởng và các
tộc biểu bằng lòng mỗi người bớt cho mười đồng, nhưng ông Điển
lễ nhất định đòi đủ năm chục. Công việc nhà quê có rắc rối không?
Ngoài cổng lại thấy có tiếng chó sủa, ông Điển lễ với tấm áo the
quấn cổ, lộc cộc chống chiếc gậy song đi vào. Xăm xăm đến cửa nhà
khách, ông ta nhìn ông chủ nhà tôi và hỏi một cách tự nhiên:
- Thế nào! Lúc nãy con mẹ Tư Tỵ nó nói với ông ra sao?
Ông chủ nhà tôi liền mời ông ta ngồi vào ghế và đáp:
- Nó vẫn chối khan chối vã là không có tiền.
- Ông cho gọi nó đến đây! Tôi sẽ liệu xoay cách khác.
Vâng lệnh ông chủ, thằng nhỏ lật đật vác gậy ra đi. Một lúc
sau, bà lão Tư Tỵ đã đến với một dáng bộ khúm núm. Sau khi
chào ông Điển lễ, bà ấy ngồi phệt xuống mặt thềm gạch. Ông Điển
lên giọng hách dịch:
- Tôi đòi năm chục đồng bạc, bà tưởng là đắt hay sao? Nếu
đắt thì thôi, tôi không cần. Một người như bà, sau khi nhắm mắt,
kiếm được kẻ thắp cho nén hương cũng khó lắm thay, huống chi
muốn được cả làng cúng lễ. Cũng vì làng chữa tam quan, cần đến
tiền tiêu, cho nên chúng tôi phải cố thu xếp cho bà. Nếu như lúc
khác, bà có hàng nghìn cũng không lo nổi. Bà thử nghĩ kỹ mà xem.
Bà lão nói giọng phều phào của người móm:
- Thưa cụ, tôi không dám tiếc các cụ, chỉ vì trong nhà chưa
sẵn, ruộng bán không có ai mua, đi vay không được...
Ông Điển không để cho bà ấy nói hết lời:
- Nếu vậy thì bà gạt ruộng cho tôi cũng được. Không phải
văn tự văn khế gì hết, hễ bà bằng lòng thì tôi cứ bảo chưởng bạ
dịch số, rồi bà điểm chỉ vào sổ, thế là xong.
Hình như bà lão biết mình chẳng sống ở đời bao lâu nữa,
không tiếc cái của mồ hôi nước mắt làm gì, nên phải miễn cưỡng
vâng lời. Cả bọn cùng giải tán. Hôm sau, ông chủ nhà tôi vừa cười
vừa nói với tôi:
- Bà Tư Tỵ đã phải sang sổ cho ông Điển lễ hơn năm sào
ruộng rồi đấy. Ông ấy đã ký đơn rồi, chừng vài ngày nữa bà ta sẽ
phải chồng tiền hậu và giao ruộng hậu cho làng.
HẠT GẠO XÔI MỚI
Hôm nay vừa đầy tám ngày, ngày nào trong nhà ông Quyết
cũng thấy họ mạc kéo đến tấp nập. Có gì đâu? ông ta phải sửa xôi
mới. Với làng Th. của ông Quyết cũng như với nhiều làng khác, xôi
mới vẫn là một lễ long trọng. Hễ làng chưa làm lễ ấy, các nhà
không ai được ăn, hoặc cúng, hay bán thứ gì bằng nếp. Người nào
phạm vào điều đó sẽ bị bắt vạ tức thì. Là vì theo tục thôn quê,
nghề gì cũng có tiên sư, tiên sư của nghề làm ruộng là ông Thần
nông. Muốn đền cái ơn dạy dân cấy gặt và muốn cầu cho suốt năm
mưa thuận, gió hòa, hàng năm, đến mùa lúa chín, người ta phải tế
ông ấy bằng ba mâm xôi bằng gạo nếp mới, ý nghĩa của lễ xôi mới
là vậy. Cho được tỏ lòng thành kính đối với quỷ thần, làng lại bắt
buộc gạo ấy phải do người làng làm ra, không được mua sẵn ở chợ,
sợ rằng gạo chợ không được tinh khiết. Bởi vậy, làng đã để riêng
một mẫu ruộng tốt, mỗi năm, chiếu theo ngôi thứ giao cho bốn
người cầy cấy. Rồi khi gặt lúa, mỗi người phải thổi cho làng một
nồi gạo xôi. Ruộng ấy, năm nay đến lượt ông Quyết được cấy một
phần. Việc thờ không phải chuyện chơi.
Trước kia, mỗi lần cày ruộng, gieo mạ, cấy lúa, làm cỏ, lần
nào ông cũng phải sửa cỗ xôi con gà ra đình lễ thánh để trình công
việc của mình, và lần nào ông cũng được có anh em họ hàng giúp
hết mọi việc, không phải thuê mướn một buổi nào hết. Cố nhiên,
được người làm giúp, nhà chủ vẫn phải tốn hơn thuê người làm
mướn, vì phải cung đốn bà con một bữa cơm rượu xứng đáng với
hảo tâm của họ. Nhưng ở nhà quê, nếu không được thế, sẽ bị người
ta chê cười, cho nên dù có phí tổn ông cũng chẳng quản. Bây giờ
việc thờ đã sắp đến ngày hoàn thành, số người làm giúp lại đông
gấp mấy, thời kỳ làm giúp cũng dài gấp mấy khi trước. Bắt đầu từ
hôm lúa chín, bên nội, bên ngoại đã có hơn hai chục người gồng
quang xách liềm ra ruộng, cắt lúa cho ông. Ấy là chưa kể những
người ở nhà làm đồ uống rượu. Nhà ông có bao nhiêu ruộng cấy
nếp, người ta chỉ gặt một buổi là xong. Hôm sau, họ mạc lại đến
đông đủ. Lúa cắt hết rồi, còn có việc gì để người ta làm? May quá,
trong giống lúa nếp, bao giờ cũng có nhiều cây lúa nghển. Nghển
là một thứ dở nếp dở tẻ, bởi khi hoa cái lúa nếp phơi màu, phấn
của hoa đực lúa tẻ ở các ruộng khác bay vào, rồi nó chung đực cho
hạt lúa nếp pha lẫn tính chất lúa tẻ. Đến khi gieo mạ, những hạt
lúa ấy mọc lên, thành cây lúa nghển. Lúa nghển thổi cơm thì nát,
thổi xôi không chín, là một thứ lúa vô dụng. Vì vậy, người ta cứ
phải nhặt bỏ nó đi. Cây nghển bao giờ cũng dài hơn cây lúa nếp,
nhặt nó cũng không khó lắm. Ở mọi nhà, họ cứ để nguyên đống
lúa, sai lũ trẻ con rút đi một lượt là hết. Đằng này ông Quyết thừa
người, việc ấy đã hóa ra việc quan trọng. Trước khi đập lúa, họ
mạc mỗi người lấy vài lượm lúa đem ra ngồi khắp trong sân, vừa
bới những dé lúa nghển, vừa kể chuyện cổ tích cho vui đình đám.
Rồi khi nhặt hết lúa nghển, người ta chỉ cắt vài người kê cối mà
đập, còn các người khác thì cùng lấy đũa kẹp vào dé lúa mà tuốt
cho lúa rụng ra, không cần đập gì cả. Bởi vì, nếu ai cũng đập, việc
sẽ chóng xong, họ mạc còn giúp vào đâu? Tuy vậy, bấy nhiêu công
việc, cũng chỉ làm trong một ngày là xong. Qua bữa thứ ba, người
ta lại cùng nhau kéo đến để giúp ông về việc phơi lúa. Lúc này, ai
nấy đều muốn tỏ mình là kẻ đắc lực. Lúa đổ ra nong, người ta
tranh nhau trang cào. Hạt thóc ít khi được nằm yên độ vài chục
phút. Mọi nhà phơi lúa còn bị gà chim quấy nhiễu, nhà ông nhờ có
họ mạc trông nom một cách tận tâm, chẳng những gà vịt không
thể bạ men, mà đến con ruồi con nhặng cũng khó lai vãng trên sân
lúa. Lúa phơi hai ngày thì già. Sang bữa thứ năm, bà con lại chiếu
lệ kéo đến xay, giã. Bây giờ công việc đã có trật tự, người ta cắt
những chàng trai khỏe mạnh đội gạo đi giã, còn các ông già, bà già
thì phải ở nhà trông coi, hoặc là bổ cau, têm trầu, xào nấu các món
ăn uống. Luôn hai ngày nay, các cối giã gạo trong xóm đều phải
nhường chỗ cho hạt gạo thờ. Mấy nhà gần đó luôn luôn có tiếng xì
xọp. Cái chỗ tôi trọ chỉ cách nhà ông một bức rào thưa. Quang
cảnh linh đình của nhà ông vẫn tự do hiện vào mắt tôi. Liền trong
tám ngày, tôi thấy ngày nào vợ ông cũng phải hai lần gồng thúng
đi chợ để mua đồ ăn. Mỗi bữa thường thường có bảy tám mâm
uống rượu. Trong nhà không đủ chỗ ngồi, người ta phải ngồi la liệt
ngoài sân. Những lúc họ mạc say sưa, tiếng cười tiếng nói vang
như cái chợ.
- Việc này bác cháu cũng phải tốn đến dăm chục. Mấy anh
sang giã gạo nhờ ở nhà tôi trọ nói với tôi như thế khi họ nghỉ việc
lên chỗ tôi ở để hút thuốc lào.
Ngạc nhiên tôi hỏi:
- Nghe nói lệ làng chỉ có một nồi gạo xôi thôi mà! Ông ấy tiêu
gì mà hết đến bấy nhiêu tiền?
Họ đáp:
- Vâng! Theo lệ làng cháu, mỗi người cấy ruộng xôi mới chỉ
phải nộp làng một nồi xôi. Nhưng mà việc gì cũng vậy, một "tang"
mười "ngoại" là thường, có khi còn hơn thế nữa. Để cháu xin nói
cho ông nghe: "Phần ruộng của làng chia cho bác cháu năm nay,
tất cả là hai sào rưỡi. Nếu như gặp năm được mùa, số ruộng ấy
cũng được mười lăm nồi thóc, thừa đủ để thổi xôi làng. Nhưng lỡ
phải năm mất mùa, nó chỉ được một hai nồi thì làm thế nào? Vì
thế, bác cháu đã phải thuê thêm hơn hai sào nữa, dự phòng chỗ
hao hụt đó. Rủi cho bác cháu, năm nay tiếng rằng được mùa,
nhưng mà các ruộng lúa nếp, ruộng nào cũng bị chuột ăn. Từ khi
lúa mới có đòng, bác cháu đã phải đốc xuất người nhà ra ruộng
đuổi chuột. Có khi bố con cắt canh mà thức suốt đêm ở các bờ
ruộng. Vậy mà nó vẫn ăn hủy ăn hoài, mười phần mất đến chín
phần, hơn bốn sào gặt về phơi giã, quạt sạch, chỉ được mười ba nồi
thóc, ông tính thế có hại không! Nếu là xôi thường, một nồi gạo chỉ
xay độ một nồi thóc là đủ. Nhưng là xôi thờ, bác cháu phải cho xay
tám nồi thóc tất cả. Bởi vì, xay rồi còn giã, giã rồi còn phải lựa
những hạt đớn, hạt gãy bỏ đi. Tám nồi thóc lấy một nồi gạo, cũng
không còn thừa mấy nỗi. Vả lại, từ hạt thóc làm ra hạt gạo, có
phải dễ đâu? Luôn tám hôm nay, hôm nào họ mạc giúp đáp cũng
phải chè chén. Chúng cháu tính ra mỗi ngày hà tiện cũng hết độ
bốn đồng. Thế mà gạo đã được đâu? Còn phải giã thêm hai, ba
ngày nữa. Giã đến khi nào hạt gạo bóng nhoáng, cám ở trong gạo
trắng như vôi mới thôi!
Tôi lấy làm lạ, lại hỏi nữa:
- Lệ làng bắt phải như thế hay sao?
Họ lắc đầu nói tiếp:
- Không! Chẳng có lệ ngạch nào bắt. Chỉ vì một lớp bốn người
cùng phải thổi xôi, người nào cũng sợ xôi của mình thua kém xôi
của người ta, thì sẽ mang tiếng với làng, cho nên ai cũng phải cố.
Trước kia làng cháu đã có lắm người chỉ sửa một "vấn" xôi mới mà
mất cơ nghiệp ông ạ.
Rồi họ kết luận:
- Bác cháu lo xong việc này cũng không còn gì. Hôm qua đã
phải bán một cái chum đựng nước lấy tiền mua rượu. Thì ra hạt
gạo xôi mới có khi là cả gia tài của người ta.
MUA CỖ
- Đấy! Bác vào nói với nhà tôi! Ông ấy có giúp được bác thì
giúp. Chứ tôi bây giờ chẳng có đồng nào. Bác nói mãi cũng đến thế
thôi!
Tôi đương nói chuyện với ông chủ nhà trong buồng học,
những tiếng the thé bỗng tự đầu thềm đưa vào, khiến tôi và ông
chủ nhà đều phải trông ra phía sân. Bà chủ nhà đương cầm cái
gậy đuổi chó để dẫn một người đàn ông lạ mặt đến sân nhà học, rồi
lại trở xuống nhà dưới. Với cái nón cụp gãy cạp cầm tay, người ấy
khúm núm bước lên thềm và rụt rè đi vào trong nhà. Sau khi đã
nâng vạt áo nâu cũ lau qua những giọt mồ hôi đọng lại trên trán,
hắn đặt cái nón xuống bậc cửa và nhìn thẳng vào ông chủ nhà:
- Lạy cụ ạ! Con sang từ nãy... Nhưng tưởng là cụ có khách,
nên không dám lên.
Như sợ tôi lầm người ấy là một người bạn hay một người có
họ thì có hại đến danh giá của mình, ông chủ nhà vội vàng giới
thiệu bằng một cách trống suông:
- Bố thằng bé ở. Tưởng là ông khách quý nào!
Rồi bằng một giọng xách mé của kẻ cả, ông ấy ngước mắt
nhìn người kia.
- Anh sang hỏi gì? Vay tiền chứ!
Người ấy vẫn quanh co ở ngoài bậc cửa, vì chưa được lệnh
ông chủ bảo nên chưa dám ngồi. Khi thấy ông này gạn hỏi, anh ta
liền tựa vào cột và nói giọng van lơn:
- Vâng! Cháu muốn kêu cụ giúp cháu ít đồng. Vì mấy hôm
nữa, cháu phải "mua cỗ" cho em thằng Tý.
Thằng Tý là một thằng nhỏ mới đến ở nhà ấy được vài tháng
nay, năm nay nó mới mười bốn tuổi. Theo sự tưởng tượng của tôi
lúc ấy, thì chính nó cũng chưa từng dùng gì đến cỗ, huống chi em
nó chắc còn bé nhỏ hơn nó... Thế thì người ta mua cỗ cho nó làm gì.
Tôi đương phân vân suy xét, ông chủ nhà lại ngó người kia và chối
bai bải:
- Thấy nhà tôi nói, tiền công năm nay của thằng Tý, anh đã
lấy trước rồi kia mà. Bây giờ còn tiền nào nữa mà giúp?
Người ấy vẫn cố nằn nì:
- Phải, tiền công năm nay của nó, cháu đã mượn trước của cụ
bà rồi. Nhưng vì làng cháu mới gọi "bán cỗ" cho thằng bé con, cháu
đi vay mãi không được, cho nên lại phải sang kêu với cụ... Xin cụ
nhón tay làm phúc, cho cháu lo đủ lệ làng. Nếu cụ không cứu giúp
cho, có lẽ vợ chồng cháu sẽ phải bỏ làng mà đi.
Câu nói khẩn thiết của anh ta làm tôi phải cảm động. Nhân
lúc ông chủ đi ra, tôi mời anh ấy vào ngồi trong phản bên cạnh và
hỏi:
- Bác ở làng nào?
Anh ta đáp rất lễ phép:
- Thưa ông cháu ở C.L.
À, C.L cái làng rất cổ trong tỉnh P.A tôi đã có dịp đi tới.
Thoáng nghe tên nó, như nhắc cho tôi nhớ lại mấy người quen.
Sau khi hỏi thăm qua loa về cận trạng của họ, tôi bắt sang chuyện
người em thằng Tý:
- Thằng cháu thứ hai nhà bác năm nay mấy tuổi?
Anh ta nhanh nhẩu trả lời:
- Thưa ông, nó mới năm tuổi.
- Năm tuổi mà đã mua cỗ của làng?
- Vâng ạ! Theo lệ làng cháu con trai đẻ trong một tháng thì
phải vào ngôi. Hễ ai có ngôi rồi thì làng cứ việc theo sổ mà bán cỗ
cho! Có đứa mới có hai tháng đã phải mua cỗ rồi, nữa là năm tuổi!
Tôi càng không hiểu anh ta nói thế nghĩa là thế nào. Cái tính
hiếu kỳ bắt buộc tôi cố hỏi cho hiểu:
- Đứa trẻ hai tháng hẳn chưa thể ăn được cỗ. Sao làng lại bắt
chúng nó phải mua?
Anh ta bật cười, như muốn chế tôi là kẻ ngu ngốc. Rồi hắn
cắt nghĩa:
- Thưa ông, gọi là mua cỗ chẳng qua nói theo tiếng của các cụ
ngày xưa. Kỳ thực nào có cỗ bàn gì đâu! Số là hàng năm cứ đến
thượng tuần tháng giêng làng cháu vào đám, trai đinh phải cắt
lượt nhau làm cỗ bưng ra đình, để từ bàn trùm trở lên uống rượu
nghe hát. Lệ của các cụ đặt ra thế. Nhưng đã lâu nay, làng không
có nhiều của công, cho nên, mỗi khi làng cần đến tiền lại bắt
những người sắp đến lượt phải làm cỗ, chồng tiền cho làng, chứ
làng không lấy cỗ nữa. Vì vậy kêu là bán cỗ.
Bây giờ tôi đã hiểu bán cỗ tức là nộp tiền cho làng. Nhưng
còn muốn biết rõ hơn, nên lại hỏi thêm:
- Mỗi năm làng bác dùng hết độ bao nhiêu cỗ?
Anh ta ra bộ đắc ý:
- Ôi chà! Làng cháu to lắm, tất cả đến ba nghìn suất đinh.
Riêng từ bàn trùm trở lên cũng có hơn bốn trăm người. Tục làng
sáu người một cỗ, cứ thế mà tính hết bao nhiêu thì gọi cho đủ bấy
nhiêu. Mỗi năm chừng phải bảy mươi cỗ trở ra.
Con số to khiến tôi hết sức kinh ngạc:
- Một người phải làm bấy nhiêu mâm cỗ hay bao nhiêu
người?
Anh ta lắc đầu lia lịa:
- Nếu một người làm cả bấy nhiêu mâm cỗ thì có bán cả đình
làng cũng không đủ. Mỗi người phải làm có năm mâm thôi, nhiều
cỗ nhiều người, ít cỗ ít người!
- Nếu mua cỗ thì mỗi người phải chồng cho làng bao nhiêu?
- Cái đó không nhất định. Càng nhiều tuổi càng nhiều tiền.
Càng ít tuổi càng ít tiền. Bởi vì nhiều tuổi là người sắp phải làm
cỗ, mà kẻ ít tuổi thì lượt "làm cỗ" còn lâu mới đến mà lại!
- Những năm bán cỗ, làng sẽ thôi uống rượu chứ?
- Sao lại thôi! Bán lớp người trên thì làng gọi lớp người dưới
làm cỗ; bán lớp người dưới thì gọi lớp người dưới nữa. Hễ có vào
đám thì làng cứ việc đánh chén như thường.
- Nếu bán hết lượt thì làm thế nào?
- Hết lượt thì lại vắt lại, chẳng bao giờ làng chịu hết người
làm cỗ. Đáng lẽ mỗi người một đời chỉ phải gánh cỗ một lượt,
nhưng vì có lệ "bán cỗ" thành ra có người phải mua đến bốn, năm
lần. Như cháu, năm nay mới bốn mươi mốt tuổi đã phải mua đến
bốn lượt rồi, có lẽ còn phải mua một lượt nữa.
- Những lúc thế nào thì làng có quyền bán cỗ?
- Chẳng có lệ ngạch nào cả. Các ông kỳ dịch muốn bán lúc
nào thì bán. Đại khái thiếu tiền việc quan, hay là chữa chùa, chữa
đình chẳng hạn, thì làng gọi người mua cỗ. Nhưng cũng có khi
không có việc gì, các ông kỳ dịch bảo nhau thuê thợ đảo lại ngói
đình, hoặc là phá đoạn tường này xây đoạn tường khác để lấy cớ
mà bán cỗ. Bởi vì số tiền của người mua cỗ đem nộp, các ông ấy lại
tiêu với nhau, trai đinh biết đấy là đâu? Nhiều người đã định
bướng không chịu mua, nhưng không mua thì họ bắt phải làm cỗ,
cũng chết, thì thà mua cho rảnh.
- Thế sao trai làng không kiện?
- Năm xưa cũng đã có người kiện rồi. Nhưng không đổ. Vì
bọn kỳ dịch có tiền. Mà nào họ có mất gì của nhà họ đâu? Tiêu hết
bao nhiêu họ cứ đi vay, xong việc, họ lại bán cỗ mà trả. Chẳng
những họ không lỗ vốn, có khi còn được lãi nữa. Bởi vậy, họ đã bán
cỗ cho ai, người ấy nhất định phải mua. Không mua họ bảo là
người thiếu đóng, thiếu góp với làng rồi họ sổ ngôi. Nghe đến câu
đó, tôi rất phục cái thủ đoạn của mấy ông kỳ dịch làng ấy. Có lẽ họ
không thua gì những nhà chính trị đại gia.
Tôi còn đương muốn hỏi gì thêm thì ông chủ nhà vừa ở ngoài
sân đi vào. Người cha thằng Tý bỏ tôi, để quay ra van lạy ông ấy
lấy tiền mua cỗ cho thằng con út.
CON GÀ THỜ
Ở làng V.Đ. Ông chủ nhà trọ của tôi đáng lẽ cũng là bậc
sướng. Dẫu không là tay cự phú, trong nhà cũng có gần sáu mẫu
ruộng, một con trâu cái, một con lợn nái, thóc lúa đủ ăn từ vụ nọ
đến vụ kia, tiền bạc tiêu đâu sẵn đó, nếu chỉ bảy tám chục đồng
trở lại, dù là việc bất thình lình, cũng không phải vay của ai. Gia
đình lại rất đề huề. Trên thì bà mẹ gần tám mươi tuổi, vẫn còn
sáng suốt, tỉnh táo, không lòa không điếc, cũng không lẫn lộn, dưới
thì đàn con sáu đứa, trai có, gái có, đứa nào cũng ngoan ngoãn dễ
bảo. Cái cô con gái đầu lòng mới mười lăm tuổi mà đã bốn năm
ông tổng, ông bá muốn hỏi cho con. Bà vợ ông ấy chưa nhận lời ai,
sợ rằng gả chồng cho cô này, công việc đồng áng sẽ không đủ người
coi sóc. Tuy cũng là nhà làm ruộng, nhưng mà quanh năm chí tối,
ông ấy không hề phải đặt cái cày lên vai. Cho đến những lúc sớm
cạn, mạ úa, người ta đánh nhau vỡ đầu vì tranh nhau cái bầu tát
nước, ông ấy cũng chỉ đủng đỉnh ra đồng với cái cuốc bổ xem chỗ
nào còn nước, chỗ nào hết nước, đâu nên cấy trước, đâu nên cấy
sau, và anh thợ cày có chịu làm việc, hay chỉ ngồi hàng ngồi quán.
Ấy đó, công việc ông ấy đại khái có vậy. Ở thôn quê, như vậy cũng
là tiên cách. Quan bất phiền, dân bất nhiễu, suốt năm lúc nào
cũng ung dung. Nhưng mấy tháng gần đây, ông ấy lại rất vất vả.
Chỉ vì có hai con gà. Năm đó ông ta chẳng đã năm mươi nhăm tuổi
à? Theo tục làng đó, đàn ông năm mươi sáu tuổi mới lên lão làng.
Nhưng từ ba mươi tháng một cái năm năm mươi nhăm tuổi, đã
phải sửa một cỗ xôi và một con gà để đem ra đình lễ thần, rồi biếu
dân. Cỗ xôi không quan hệ lắm, miễn được gạo trắng và dẻo, đóng
vào đầy một chiếc quả "phù trang" của làng. Duá có con gà thì hơi
cầu kỳ một chút. Nó phải là thứ gà sống mã đỏ, chân vàng, vặt
lông và luộc chín rồi, còn đủ bốn cân. Lệ làng định rõ như thế. Thế
nhưng ít ai chịu giữ đúng lệ. Người ta đua nhau tự tăng số cân ấy
lên, ít nhất cũng là năm cân, nhiều thì có khi sáu cân, bảy cân, hễ
gà càng lớn bao nhiêu, ông chủ càng được dân làng kính trọng bấy
nhiêu. Nghe nói từ đời Thiệu Trị, Tự Đức chi đó, có ông lão nuôi
được con gà nặng bảy cân rưỡi, đến nay cả làng vẫn còn ca tụng.
Họ bảo ông đó hết lòng thành kính đối với quỷ thần, nhờ có quỷ
thần phù hộ, cho nên gà của ông ta mới lớn như vậy. Dù chẳng
dám mong nối gót được ông cụ ấy, nhưng ông chủ nhà trọ của tôi
cũng vẫn quả quyết không chịu thua ai trong hồi gần đây. Hồi cuối
năm kia, nghe nói ở dưới làng Hồ có giống gà tốt, ông ấy muốn
mua, đã phải thân hành đến nơi để được tự mình kén chọn. Sau
mười mấy ngày lăn lóc ở vùng Hồ, ông ấy vui mừng trở về với hai
con gà con nhốt trong một chiếc lồng khiếu. Đôi gà mới lạ làm sao!
Nó lớn bằng con chim câu và trọc lông lốc như đầu ông sư. Từ cổ
đến đuôi toàn là thứ thịt đỏ hỏn, lơ thơ điểm ít sợi lông tơ. Mỗi con
ở hai vút cánh, đều có hai cái lông cánh lớn bằng vảy ốc và cong
vểnh lên như miếng cau khô để ngửa. Ông ấy bảo với tôi rằng:
- Những nhà hà tiện thường chỉ nuôi có một con. Bởi vì lệ
làng chỉ có một con. Nhưng mà con gà độ bốn, năm cân, tất nhiên
phải nuôi trong khoảng hai năm trở ra. Giả sử nuôi đến nửa
chừng, chẳng may nó chết, thì không thể nào mua đâu được nữa.
Bởi vậy, tôi phải mua phòng hai con. Nhờ giời nếu nó còn cả, thì
một con lễ đình, còn một con nữa tôi đem lễ chùa, chứ không dám
bán mà cũng không dám ăn. Vì rằng mình đã thành tâm nuôi về
việc thờ, nếu đem bán hay để ăn ấy là đắc tội với quỷ thần.
Tiếp đó ông ấy lại khoe:
- Đôi gà này nếu đem bán chợ, chẳng qua độ bốn năm hào
một con. Họ thấy mình chuốc, nên họ bóp mắt, bóp mũi. Tôi phải
trả một đồng một con, họ mới chịu bán. Tuy vậy, kể cũng không
đắt. Giống gà này quý lắm. Nó mới bỏ mẹ mà đã lớn bằng bấy
nhiêu. Nếu khéo nuôi, sau này có thể lớn bằng con ngỗng.
Luôn bữa đó, ông ta sửa lễ ra đình để trình với "đức thượng
đẳng" là mình đã mua được gà, rồi đem cả đôi quí vật thả vào nếp
chuồng ở đầu nhà trên. Chuồng ấy, ông làm riêng để nhốt gà thờ,
cũng mới hoàn thành độ một tháng trước. Cửa chuồng ngoảnh về
phía nam. Gậm chuồng xây gạch làm bức tường con, để giữ rắn,
chuột. Quanh chuồng lại có bốn bức rào bằng phên nứa, ngăn hẳn
khu đất đầu nhà thành cái vườn vuông, để làm chỗ cho gà ăn...
chơi. Ròng rã gần hai năm nay, những việc lấy nước cho gà uống,
tung thóc cho gà ăn và sớm mai mở cửa cho gà ra vườn, chiều tối
bắc cầu cho gà lên chuồng, đều do tự tay ông ấy làm lấy, không
dám giao cho người nào, vì sợ người khác làm không cẩn thận. Trừ
ra cái việc hai ngày một lần múc nước, quét rửa chuồng gà thì anh
thợ cày được thay. Hồi cuối năm ngoái, một trận gió bắc nổi lên
giữa khi ấm áp, đã gây cho làng V.Đ. cái nạn gà toi. Ông ấy lập tức
sai vợ sửa cái sỏ lợn và một mâm xôi làm lễ ra đình, để cúng các
đấng "bộ hạ", khấn ngài phù hộ cho gà của mình. Sau đó, bao
nhiêu gà của làng ấy chết hết. Riêng đôi gà này vẫn được mạnh
khỏe như thường. Ông ấy cho là các đấng "bộ hạ" thiêng lắm.
Đúng như ông ấy ước mong. Đôi gà mỗi ngày mỗi thấy chóng lớn
như thổi. Trong hơn một năm nó đã xù xù như hai con công. Lông
đẹp, cánh đẹp; ống chân bóng nhoáng như ngà, tiếng gáy ò ò như
tiếng còi tàu thủy. Nhưng cả hai con đều gầy như hạc. Ông ấy cắt
nghĩa như vầy:
- Cái phép nuôi gà cũng như nuôi lợn, lúc nó còn non, phải
hãm cho nó đừng béo, thì nó mới lớn. Nếu khi nó còn đang lớn mà
đã béo rồi, ấy là nó sẽ không lớn được nữa.
Thế rồi bắt đầu từ cuối tháng tám, cái tháng cách ngày "lễ
thờ" độ một trăm ngày, công việc nuôi gà của ông ta bỗng thấy
thay đổi khác hẳn.
Khu vườn của gà không dùng đến nữa. Sớm ra, ông ấy bắt gà
ở chuồng xuống lồng, tối đến ông ấy bắt gà ở lồng lên chuồng.
Trong tháng đầu, đồ ăn của gà đã xen thêm ngô, mỗi ngày bốn
bữa, hai bữa ngô và hai bữa thóc. Từ tháng hai trở đi, hai món ấy
đều bị bãi cả, ông ta cho gà ăn cám. Lúc đầu còn là cám nấu với
gạo đổ vào chậu sành để gà tự mổ. Hình như nó cũng thấy ngấy
không ăn được nhiều, nên sau lại phải dùng theo phương pháp bào
chế. Ông ta luyện cám như luyện thuốc tễ và đem viên lại mỗi viên
lớn độ bằng đầu ngón tay. Đến bữa ông ấy ngậm nước trong
miệng, rồi ôm con gà vào lòng, một tay vành hai mỏ gà, một tay ấn
viên cám vào. Sau khi đã mớm cho nó hớp nước, ông ta sè sẽ lấy
tay vuốt vào cổ nó, để cho viên cám từ từ trôi xuống dưới diều, mới
lại bón tiếp viên khác. Mỗi con gà, mỗi bữa độ vài chục viên, mỗi
ngày độ chín mười bữa, đều do ông ta tự làm, chứ không khiến ai.
Thành ra suốt ngày, ông ấy chỉ quanh vào hai con gà mà không
lúc nào được nghỉ. Giữa lúc công việc túi bụi, bà mẹ ông ta lại bị
ốm nặng, cả ngày chỉ nằm trên giường và rên hừ hừ. Tuy vậy,
những việc cơm cháo thuốc men cho bà cụ, ông ta giao mặc vợ con,
vì mình không có thì giờ trông đến. Bà cụ hình như cũng biết thân
mình không quan hệ bằng hai con gà, cho nên, mỗi khi thấy cháu
gọi con lên buồng xem bà làm sao, bà ấy lại gạt ngay đi.
- Việc thờ không thể nói chơi. Cứ để thầy mày trông nom cho
gà. Gọi lên làm gì!
Hôm ấy nhân bữa 25 tháng một. Theo lệ mọi ngày, ông chủ
nhà trọ của tôi vừa ở trên giường xuống đất, mắt nhắm mắt mở,
chạy luôn ngay ra trước chuồng gà để rước gà ra. Quái lạ! Làm sao
hôm nay một trong đôi gà có vẻ khác thường! Thả vào trong lồng,
nó cứ rụt cổ mà đứng lù lù. Nhắc cái lồng ra, nó cũng không buồn
cựa quậy. Hoảng quá! Ông ấy vội bắt nó lên, để xem là chứng bệnh
gì. Chung quanh thân thể không thấy vết tích gì hết. Riêng có cái
diều cứng rắn và lớn chần chần như một quả bưởi. Vừa ôm con gà,
ông ấy vừa gọi mọi người nhà bưng rổ cám ra để mình bón thử cho
nó mấy viên. Nhưng mà nó không chịu nuốt, viên cám ấn vào
trong mỏ, nó lại lắc đầu lắc cổ cho bật ra. Với vẻ mặt không còn
sắc máu, ông ấy hầm hầm chạy xuống nhà khách sau khi thả con
gà ấy vào lồng của nó. Rồi cơn thịnh nộ theo sự lo sợ nổi lên, ông ta
bỏ cả cơm nước, gắt vợ, gắt con luôn miệng. Bởi vì, theo ý ông ấy,
con gà bị bệnh là do vợ con ông ta đều không thành kính mà ra.
- Đã bảo không được gọi "người" là "gà", cả nhà không đứa
nào nghe! Bây giờ còn năm hôm nữa thì được sửa lễ, nếu như
"người" có làm sao, chúng bay còn khổ với ông! Ông thì tống cổ mẹ
con nhà mày!
Cứ một câu ấy, ông ta nhắc đi nhắc lại đến mấy chục lượt.
Các con đều phải nem nép không dám ho he. Hình như chúng
cũng tự biết gọi gà là "gà" chính là một cái tội lớn. Cho được chuộc
lại cái lỗi ngạo mạn với gà, một lần nữa bà vợ ông ta lại phải đi
chợ mua đồ cúng các bộ hạ của "đức thượng đẳng". Trước khi đi, bà
ấy dặn anh thợ cày ở nhà giã gừng hòa với rượu tẩy uế chuồng gà
cho kỹ. Vì sợ chuồng không trai khiết, cho nên sinh ra thế chăng.
Tin tức truyền đi mới chóng làm sao! Bà này mới ra khỏi nhà độ
mười lăm phút, họ hàng làng nước kéo đến hỏi thăm rất đông.
Người nào, người ấy nét mặt ngơ ngác, giống như đứng trước một
tai nạn lớn của người ruột thịt. Giữa khi ấy, bà mẹ ông chủ nhà tôi
ở nhà trên lại nổi cơn bệnh. Ngồi ở nhà dưới cũng nghe tiếng rên
và tiếng "ối chao". Nhưng không ai nhắc đến bà cụ. Người ta chỉ
hỏi chứng bệnh con gà. Có người bày cho ông ấy nên dùng tỏi tươi
giã nhỏ mà bón cho nó. Ông ta nhất định không nghe, cho rằng tỏi
tươi là vật uế tạp, nếu cho gà ăn, nó sẽ uế tạp lây đến gà. Vả
chăng, bà vợ ông ấy đã đi mua đồ cúng rồi, nếu lại chữa thuốc cho
gà, thì ra mình không tin ở quỷ thần nữa ư! Phải cứ thành tâm tin
ở quỷ thần, hễ ngài vuốt ve đi cho thì nó khắc khỏi. Ông ta đáp lại
họ mạc làng nước như vậy. Nhưng mà ông ta đã bị thất vọng. Bữa
trưa hôm ấy, sau khi bà vợ ở chợ về nhà, đồ lễ đã được sửa soạn
một cách hỏa tốc, ông ta liền tự tay ra đình lễ bái và cầu khẩn
thiết tha, vậy mà bệnh tình của gà chẳng những không chút
thuyên giảm, lại còn trầm trọng hơn nữa. Sáng ngày nó còn chịu
đựng và chịu mở mắt, bây giờ thì chỉ nằm phục dưới đất, hai mắt
nhắm nghiền, nước mũi chảy ra rành rạch.
Cả nhà đều luống cuống chỉ lo còn con gà nữa lại mắc bệnh
nốt. Cực chẳng đã, ông ấy phải dùng bài thuốc của người ta mách
lúc nãy. Thì ra con gà đã mắc phải bệnh thương thực. Bởi tại hôm
trước ông ta nhồi cám cho nó quá nhiều, tiêu hóa không kịp, diều
nó trương lên. Từ lúc được ít tỏi tươi vào miệng, giúp sức cho sự
tiêu hóa, hình như trong mình nó đã thấy dễ chịu, cho nên thỉnh
thoảng nó đã đứng dậy, đôi mắt có lúc mở to. Đến chiều hôm ấy,
nó đã nhỏ nhẻ mổ vài hột gạo. Và sáng hôm sau thì nó ăn uống
như thường. Trong nhà lúc ấy vui vẻ như tết. Ông ấy lại sửa lễ ra
đình để tạ các vị bộ hạ của "đức thượng đẳng". Thấm thoát đến
ngày 29 tháng một. Sáng sớm hôm ấy, sau khi ra chuồng thăm gà,
ông ta liền sai người nhà quét dọn suốt cả nhà trên nhà dưới, rồi
đi gánh nước đổ thêm vào bể. Gần trưa, họ mạc làng xóm kéo đến
tấp nập. Người ta chia nhau mỗi người đi làm mỗi việc. Bà này rửa
bát, bà kia rửa nồi, ông này kê bàn, ông kia kê phản, năm bảy ông
khác vào chuồng bắt lợn làm thịt. Chừng đến quá trưa, con lợn bị
giết đã thành ra mấy chục mâm dấm ghém, la liệt bày khắp cả
mấy tòa nhà. Họ hàng ăn xong bữa ấy, mặt trời đã xế về tây. Bấy
giờ người ta bắt đầu lo đến việc thờ. Những người làm giúp lúc này
chia làm hai đội. Một đội sắp sửa quang gánh gánh mấy thúng gạo
ra giếng để vo, vì sợ vo bằng nước bể hột gạo xám đi, sau này xôi
sẽ không trắng. Còn một đội nữa thì đi đun nước để làm lông gà.
Gần tối, đôi gà đã vặt lông xong. Con nào con ấy màu da trắng
nõn. Cả họ đều khen là béo là lớn. Sau khi mấy anh con trai dùng
díp nhổ râu nhổ hết những sợi lông tơ ở đầu ở cổ, ở quanh hai mỏ
đôi gà, ông chủ nhà tôi quyết định để con bị ốm hôm nọ lễ chùa,
còn con không ốm thì đem lễ đình, và tươi cười nói với mấy ông
nhiều tuổi trong họ:
- Công việc nuôi gà của tôi thế là xong rồi. Bây giờ còn việc
luộc gà xin mặc các cụ. Nếu luộc được khéo, cả họ nhà ta sẽ được
tiếng khen. ạ hay! Luộc gà chẳng qua đến bỏ vào nước mà đun là
cùng, cớ sao ông này lại nói vậy? Hay là trong cái việc ấy ở đây còn
có bí quyết gì chăng? Tôi đương tự hỏi như vậy thì một ông già
trong đám dõng dạc đáp ông chủ tôi:
- Cái đó, cụ cứ yên tâm, chúng ta sẽ bắt anh em làm cho thật
khéo.
Rồi thì ông đó ngoảnh lại gọi bọn ít tuổi:
- Ai biết chằng gà thì đem gà ra chằng đi. Sau một tiếng dạ
rất gọn, mấy anh con trai linh lợi bưng hai con gà đặt vào hai
chiếc mâm đồng và để lên một cái bàn kê ở gian giữa. Rồi một
người khác đem đến cho họ một bó thanh tre và một cuộn dây gai.
Dùng tre làm cốt và dây cuốn ngoài, họ buộc cho hai con gà ngỏng
cổ, giương cánh, đứng trên mặt mâm. Rồi họ lấy những ruột non,
ruột già và bộ dạ dày của nó chằng từ đầu mỏ quặt sang hai cánh
làm cho con gà thành ra cái hình con phượng ngậm bức cuốn thư.
Cả đám xúm lại ngắm nghía, ai nấy đều cho là được. Bấy giờ họ
mới giục nhau đun nước luộc gà.
Mỗi con gà đó, từ cổ đến chân có thể cao đến gần hai thước,
hai cánh của nó cũng phải đến hơn một thước, tôi không hiểu rằng
luộc vào nồi nào cho vừa, nhưng vẫn yên lặng để xem họ làm ra
sao. Luôn trong một lúc thấy họ bắc bếp đến sáu chiếc nồi ba
mươi, nồi nào nước cũng gần đến miệng. Nửa đêm, cả sáu nồi nước
đều sủi. Người ta liền bưng cả hai mâm gà xuống đó. Dưới hai
ngọn đèn hai dây sáng như ban ngày, năm sáu cái gáo chĩa vào các
nồi múc nước giội từ đầu gà trở xuống. Và cứ giội luôn như thế
không lúc nào ngơi, hết nồi nước ấy, họ lại nấu nồi nước khác,
trong bếp không lúc nào không sẵn nước sôi. Giội đến gần sáng thì
gà vừa chín. Té ra cái kiểu luộc gà của họ là vậy. Chờ cho đôi gà
đều nguội, họ cởi hết các dây chằng, đặt vào trong giữa mâm xôi
rồi đem ra đình và đưa lên chùa. Lễ xong, con gà của ông chủ nhà
tôi cân được 7 cân. Ông ấy sung sướng bảo tôi:
- Đời như thế là mãn nguyện!
CỖ OẢN TUẦN SÓC
Hơn một năm nay, cả làng M.H. ai cũng ái ngại cho ông Linh
Phúc. Nào phải là người ăn hoang làm biếng cho cam, ông ấy rất
tằn tiện và chịu khó làm việc, cả đời không dám tiêu hoang một
xu, cả năm không hề chơi không nửa ngày. Trước kia còn vợ, vợ
làm, chồng làm, tuy không thừa thãi, nhưng không đến nỗi phải đi
vay. Từ đầu năm ngoái, bà Phúc "về với tổ tiên" sau nửa năm nằm
liệt với bệnh hậu sản, mấy sào tư điền bán hết, vẫn chưa trang
xong số tiền thuốc và tiền ma chay, ông ấy mới mang công mắc nợ.
Kể ra số nợ của ông ấy vay cũng không lấy gì làm to. Nhưng ở
thôn quê, cái giống nợ lãi nó đẻ dữ lắm; một năm, một đồng thành
hai, còn là hạng thường, hơn nữa, có khi một đồng thành gần ba
đồng. Chỉ nuôi báo cô vài chục bạc nợ, hai bàn tay trắng của ông ta
cũng đủ nhược rồi, huống chi dưới nách lại vướng năm đứa con
mọn, đứa bé còn bú, đứa nhớn mới mười bốn tuổi. Cái thân gà
sống mổ xổi, phỏng kiếm làm sao cho chúng đủ no. Sau khi bà vợ
mồ yên mả đẹp, ông ấy đã phải dứt tình cậy người nuôi giúp đứa
nhỏ và cho đứa lớn đi ở không công. Trong nhà chỉ để lại ba đứa
nhỡ. Bây giờ trong cái gia đình một bố ba con, hoàn toàn trông vào
một chiếc đòn gánh. Quê quán ông ta chẳng gần với chợ Xa à?
Hàng ngày, trời nóng cũng như trời lạnh, trời nắng cũng như trời
mưa, sáng ra, sau khi thổi nấu cho các con ăn, ông ấy liền vác luôn
chiếc đòn gánh xuống làng T.B. gánh thuê cho mụ hàng cháo một
gánh "cháo đúc" lên thẳng chợ Xa, chiều đến, lại từ chợ Xa đài về
bến đò Đ.C. cho bọn B.Đ. một gánh lá trầu hoặc các hàng vặt.
Đường đi cũng không xa xôi cho lắm, chuyến đi chừng năm cây số,
chuyến về độ sáu cây số. Mỗi ngày chỉ chạy mười một cây số, kể
còn nhàn hạ gấp trăm phu xe. Vả lại, gánh hàng của mụ hàng
cháo chỉ có nồi cháo và thúng bánh đúc, trọng lượng độ vài chục
cân, với sức ông ấy, cái sức quen theo chân trâu của người lực
điền, kể cũng chẳng thấm vào đâu. Độc địa là gánh hàng cho bọn
B.Đ. Hình như với ông Phúc, mấy mụ B.Đ. vẫn có mối thù tiền
kiếp, cho nên, hễ đã thuê đến ông ta gánh đưa, họ liền rủ nhau
dồn hai ba gánh làm một. Cái thúng của họ xếp trong quang, ít khi
để cho chiếc quang có chỗ bỏ trống.
Ai bảo xương cứng, tôi xin nhất định cãi là xương dẻo. Bởi vì
mắt tôi đã thấy cái lúc ông Phúc xoay trần trùng trục để cho bên
vai đỡ chiếc đòn gánh đeo những thúng hàng của bọn B.Đ. thì cái
xương vai cong lõm hẳn xuống, chẳng khác một chiếc vòng cung để
ngửa. Kĩu kịt trên vai ông ấy, cái đòn gánh luôn luôn co lên, ẻo
xuống như con cá mè giẫy cạn. Mỗi khi đầu đòn gánh lướt xuống,
ấy là mỗi lần cái vai ông ấy lệch đi, cái cổ ông ấy rụt lại, cái mồm
ông ấy nhành ra, cái sườn ông ấy nghiêng sang một bên. Vậy mà
đôi chân ông ấy vẫn cứ nhon nhón bước rảo để đưa cái đầu cung
cúc cúi xuống đằng trước, y như con cuốc lủi trong ruộng lúa.
Người ta bảo như vậy không phải là khỏe. Chỉ vì gánh nặng nên
phải đi thật nhanh, nếu đi chậm, có khi sẽ bị ngã gục xuống đất.
Xưa kia nghe người nhà quê mỉa nhau "vai u thịt bắp", tôi vẫn
không hiểu là gì. Bây giờ được thấy chân tướng cái vai ông Phúc,
tôi mới biết nó là một tiếng tả thực. Trời ơi, đôi vai mới lạ làm sao!
Nó giống hệt lưng con lạc đà, mỗi bên có một cái bướu lớn chừng
bằng quả soài tượng. Cố nhiên hai cái bướu ấy cũng đều bằng thịt.
Nhưng nó là thứ thịt cứng rắn, ấn không thấy lõm, bấm không
thấy đau, màu da xù xì và mốc thếch như da trăn gió. Ông Phúc
gọi nó là thịt thành chai và kể với tôi:
- Hồi tôi còn đi cày ruộng, hai vai cũng vẫn nhẵn nhụi như
vai các ông. Từ khi bắt đầu xoay sang cái nghề gánh mướn, vì
chiếc đòn gánh đè xuống nặng quá, thớ thịt đầu phải giập nát vì
sưng u lên, lúc ấy đặt chiếc đòn gánh lên vai, người tôi thấy buốt
từ đầu đến gót, tưởng như chết điếng đi được. Vậy mà tôi cứ phải
gánh -nếu không gánh thì lấy gì nuôi các cháu -gánh đi độ vài thôi
đường rồi nó ê đi, không thấy đau nữa. Tôi tưởng thế nào nó cũng
nung mủ.
Nhưng mà không, nó cứ việc sưng, tôi cứ việc gánh, trong vài
bốn ngày, chỗ sưng đét đi và lớp da ngoài dần dần dày lên, thành
ra hai cái bướu đó. Bây giờ hai cái bướu ấy rất có ích lợi cho tôi. Là
vì nhờ nó ngăn đệm ở giữa, chiếc đòn gánh không thể tì sát đến
xương, nên dù gánh nặng đến đâu cũng vậy, chỉ mỏi ống chân và
mỏi xương sống, chứ không bao giờ đau vai. Tôi hỏi đi gánh như
thế mỗi ngày ước chừng được bao nhiêu tiền. Ông ta lắc đầu và
đáp:
- Nào có được là mấy nỗi! Gánh cháo chỉ ba bốn xu, còn gánh
lá trầu, ngày nắng bỏng đất họ mới trả cho hào hai, hôm nào mát
trời chỉ được độ tám chín xu.
Thế là mỗi ngày ông ấy kiếm được chừng mười lăm xu.
Bấy giờ vật giá còn hạ, với số tiền ấy, ông ta cũng đủ mua
ngô, mua khoai để nuôi năm cái dạ dày, tuy mỗi ngày vẫn phải bớt
ra mấy xu để góp lại mà trả lãi tháng cho người chủ nợ. Giả như
ông ta còn là hạng trai trong làng thì thôi, như thế cũng đủ để
sống mà chờ đàn con khôn lớn. Chết vì đầu năm đến giờ, ông ta lại
mới lên ngôi "ông trùm". Với thôn quê, ông trùm là hạng đàn anh
chiếu theo ngôi thứ mà thăng, không phải chạy chọt gì cả. Số
ngạch ông trùm không có nhất định, nhiều ít tùy theo tục làng.
Thuở xưa, ông trùm tức là những người hợp với lý trưởng chủ
trương tất cả việc làm. Từ ngày thôn quê có cuộc cải lương, quyền
của ông trùm chỉ còn trong việc lễ bái, nhưng cũng vẫn tiếng là
hạng đàn anh. Ở làng M.H. tất cả có hai mươi bốn ông trùm. Lên
trùm tuy không phải khao dân làng, nhưng hàng năm cả hai mươi
bốn ông ấy phải chia lượt nhau mà sửa oản chuối cúng thần trong
hai ngày rằm và mùng một của mỗi tháng, người ta gọi chung là lễ
"sóc vọng". Vừa "vọng", vừa "sóc" mỗi năm có hai mươi bốn kỷ,
đáng lẽ mỗi người chỉ gánh một lần là đủ. Nhưng mà theo lệ làng
này, số oản mỗi kỳ cúng rồi, phải chia khắp từ già lão xuống đến
bàn nhất và các chức dịch, mỗi người một chiếc. Nghĩa là phải hơn
trăm chiếc mới đủ. Như vậy, mỗi người sửa riêng một kỳ, e rằng
nặng quá, người ta mới định mỗi kỳ hai người. Bởi vậy mỗi người
một năm mới phải gánh lễ vọng hai lần. Ông Phúc là rốt "bàn
trùm", lượt oản thứ nhất ông ấy phải sửa vào ngày mồng một
tháng sáu. Tôi tuy không phải là người làng M.H. nhưng đến trọ
học ở làng ấy và nhà trọ tôi lại ở gần nhà ông ta. Từ khoảng trung
tuần tháng năm, trong lúc lật đật đi vay tiền sưu, tôi thấy ông ấy
đã lo đến cái lễ "sóc" nó đương sắp tới sau lưng. Rồi đến hai mươi
tháng năm, suốt đêm trời mưa tầm tã, gió tây nổi lên đùng đùng.
Sáng ra, gió im, mưa tạnh tôi qua trước nhà ông ấy, đương thấy
ông ta hùng dũng đứng trên mái nhà, bốc những rạ lợp ném mãi
xuống đất. Tưởng là hôm qua nhà bị gió "chốc", tôi hỏi bằng giọng
chia buồn:
- Ông lợp lại nhà đấy ư? Trận gió ban đêm tai hại lắm nhỉ!
Ông ta uể oải trả lời:
- Không! Nhà tôi có bị "chốc" đâu, mà phải lợp lại! Tôi dỡ đi
đây!
Rồi, như hiểu sự ngạc nhiên ở trong đầu tôi, ông ấy nói tiếp:
- Tuần sóc tháng sáu đến lượt tôi phải sửa oản ra thờ, nhà
không sẵn, vay không ai tin, tôi đành dỡ hai gian nhà làm củi để
bán lấy tiền mua gạo. Đáng lẽ tôi định để vài bữa nữa mới dỡ,
nhưng vì thấy trời mưa dầm, chắc là củi đắt, nên mới dỡ từ hôm
nay. Thôi thì túng kiết quanh năm, hãy cho qua cái lúc này. Bao
giờ trời cho mở mặt, bấy giờ lại làm nhà khác. Vả lại, có bốn bố
con, ở vào hai gian một chái cũng còn vừa chán.
Vừa nói, ông ấy vừa dùng cái cưa xì xoẹt cưa đứt cây tre "cái
nóc", rồi rút nó ra và quăng xuống đất một cách giận dữ. Dưới nhà
nồi niêu, thúng mủng, bát đĩa, rổ rá, lổng chổng ở gian bên kia. Ba
đứa bé con to vo ôm nhau ngồi trên chiếc giường đầy những rác
cẵn. Tối ba mươi, vào khoảng nửa đêm, tôi tình cờ lại đi qua cửa
nhà ấy. Bấy giờ cái đầu nhà bị phá hai gian vẫn còn bỏ trống chưa
có bức vách. Nhưng mà trong nhà đèn thắp sáng choang. Lố nhố
dưới bóng đèn, tôi thấy độ hai chục người chia làm bốn tốp, vây
quanh bốn chiếc mâm gỗ đầy những thịt đậu đặt trên chiếc chiếu
sàm sạp trải ở mặt đất. Tiếng cười tiếng nói vui như ngày tết.
Người ta khen ông Phúc hết lòng lo việc thờ. Người ta bảo ông
Phúc phá nhà bán củi, thật là một người tháo vát. Người ta tán
dương oản của ông ấy tốt và chuối của ông ấy mẫm. Rồi người ta
thúc bách ông ấy đi mua lấy chai rượu nữa. Ba đứa bé con vẫn rau
ráu ngồi ở đầu thềm hình như chúng thiếu chỗ ngủ. Sáng mai ông
Phúc gặp tôi liền phô:
- Thế mà đêm qua nhà tôi cũng hết năm chai rượu và hơn
đồng bạc rau đậu, ông ạ. Cái nhà phá ra, bán cả tre, rạ được bốn
đồng rưỡi. Mua gạo, mua chuối hết non hai đồng, còn hơn hai đồng
chỉ vào bữa chén không đủ. Khốn nạn, tôi có muốn tốn làm gì. Bà
con có lòng chạy đến, không thể không được. Tôi hỏi:
- Bao giờ ông lại sửa tuần sóc thứ hai?
MỘT TIÊC ĂN VẠ
Hôm ấy nhằm phiên chợ Đình, cái chợ mà cả làng Đ.G. đều
sống về nó. Tôi đi đến đầu làng ấy giữa lúc người làng đi chợ
đương đông. Quái lạ! Làm sao hôm nay không có đàn ông, trên
đường rặt những đàn bà. Kẻ gồng rau, người gánh gạo, bà này
gồng chiếc lồng lợn, bà kia quẩy đôi lồng gà, hết lũ dài dến lũ
ngắn, người ta tiếng to tiếng nhỏ, nhao nhao nói chuyện với nhau.
- Khốn nạn! Trông thấy tình cảnh ông Sửu mà tôi thương
quá. Hôm qua đến giờ, bà vợ lúc nào nét mặt cũng ủ rầu rầu, ông
chồng chỉ nằm thở dài, có lúc đấm mãi hai tay vào ngực, hàm răng
nghiến lại kèn kẹt...
Bà ấy còn định nói nữa, nhưng bị bà khác cướp lời:
- Tôi cũng ái ngại cho ông ấy. Tội nghiệp! Cả vợ lẫn chồng ai
cũng hiền lành biết điều, thật thà như đếm. Không hiểu cớ gì lại bị
nhiều người ghét bỏ đến thế? Phen này không khéo hết cả cơ
nghiệp!
Một bà thứ ba nói xen:
- Các bà là bậc nhân đức từ bi, các bà cứ thương ông ấy.
Riêng tôi, tôi chẳng thương một chút nào!... Anh em ít, cánh vế
không có, thế mà vẫn không biết thân, lại còn cứ bướng, thì ai
người ta để cho yên lành!
Lại một bà nữa tiếp theo:
- Phải, bà nói phải đấy! Mình ở trong làng, sống nhờ làng,
chết nhờ làng. Cái người đã dám vác miệng chửi làng, thì bị trừng
trị là đáng kiếp lắm. Hơi đâu mà thương.
Rồi một bà nữa cãi lại:
- Các bà đừng nói thế, oan cho ông ta! Chẳng qua ghét nhau
thì họ gắp lửa bỏ vào bàn tay... chứ đời nào ông ấy dám động đến
làng. Luôn mấy năm nay, hết người này ăn hiếp, lại đến người kia
đè lấn, ông ấy vẫn nhịn như nhịn cơm sống, có dám bướng bỉnh với
ai đâu!
Còn nữa! Làn sóng dư luận còn kéo dài mãi ở dọc đường.
Nhưng nó mỗi lúc mỗi theo những gánh gà lợn, rau gạo đi xa dần,
nên khi bay lại tai tôi, không còn rõ là tiếng gì nữa. Cố nhiên tôi
không có ý nghe chi những chuyện giữa trời, nhưng vì nó đã ngẫu
nhiên lọt vào tai, tôi cũng ngẫu nhiên bận óc vì nó. "Chắc là trong
làng đã có người nào bị đánh bị trói gì đây". Với câu phỏng đoán đó
vơ vẩn trong óc, tôi lững thững đi vào cổng làng. Người làng ở
trong các xóm, lũ lượt kéo ra con đường giữa làng, già có, trẻ có,
con nít cũng có. Trái lại với quang cảnh của đoạn đường lúc nãy, ở
đây rất nhiều đàn ông, thỉnh thoảng mới có một người đàn bà. Với
những tiếng cười cười, nói nói, vui như đám hội, người ta đổ xô về
nẻo cuối làng. Xen lộn vào sự xôn xao của đám đông người, ở trong
các xóm, lại có tiếng lợn eng éc. "Không phải là chuyện đánh nhau,
trói nhau, có lẽ người ta sắp sửa có cuộc ăn uống. Phải rồi, hôm
nay đàn ông vì bận ăn uống, nên mới nhường hết quyền đi chợ
Đình cho bọn đàn bà, đoạn này toàn là đàn ông", tôi vừa cải chính
cái câu của tôi phỏng đoán mới rồi, vừa im lặng đi theo một con
đường với lũ người ấy. Và tôi đã từ biệt họ khi đến khỏi đình: họ đi
tấp nập kéo vào điếm đình, thì tôi rẽ sang nhà Khóa Trúc, người
bạn đồng học với tôi năm xưa. Bởi vì chúng tôi có hẹn trước nên
lúc ấy anh Trúc đương vơ vẩn đón tôi ở chỗ đầu ngõ. Đường đi tuy
rằng hơi xa, nhưng nhà anh này lại ở kề với sân điếm và chỉ cách
khu điếm một bức rào bằng găng tây. Vào ngồi trong nhà anh ấy,
tôi còn thấy rõ hết thảy cảnh tượng trong điếm. Cái điếm rộng
quá!
Ngoài một tòa chính ở giữa lại có hai tòa giải vũ kèm ở hai
đầu, mỗi tòa độ bốn năm gian. Đám người lúc nãy lần lượt tiến vào
đến cửa điếm. Các ông già và người cao tuổi lên thẳng tòa chính,
còn người ít tuổi và đám con nít thì xuống hai tòa giải vũ. Giây lát,
ba bọn đàn ông lực lưỡng khiêng ba con lợn bị trói đặt vào trước
sân, và một lũ người khác đài tải tới đó đủ hết các thứ: bát, đĩa,
dao, thớt, rổ, rá và nồi ba mươi. Rồi đó, bọn này bắc nồi đun nước,
bọn kia đè lợn chọc tiết. Bắt đầu câu chuyện, tôi phải hỏi ngay anh
Trúc:
- Đám ấy là đám gì, đám gì mà có đủ từ ông bạc đầu đến lũ
trẻ con!
Anh Trúc mỉm cười đáp:
- Đó là một đám ăn vạ!
Rồi vừa pha nước, anh ấy vừa tiếp:
- Cái tục ăn vạ, thiên hạ cũng nhiều nơi có. Nhưng mà có lẽ
không đâu nặng bằng làng tôi. Bởi vì theo lệ làng tôi, quyền hành
của bốn "trùm nhất" lớn lắm, bao nhiêu công việc trong làng đều
do bọn họ quyết định, lý dịch cũng phải theo họ. Người nào cưỡng
lại với họ, ấy là họ sẽ tìm cách ăn vạ. Như đã thấy tôi không hiểu
"ăn vạ" là gì, anh Trúc uống cạn chén nước rồi thêm:
- Chắc anh chưa được chứng kiến cuộc ăn vạ nào thì phải! Có
gì đâu, người nào có lỗi với "làng" thì "làng" cứ việc mua lợn, mua
rượu, mua gạo đem ra điếm làng mà ăn. Phí tổn bao nhiêu, người
có lỗi đó phải chịu. Hôm nay họ ăn vạ lão Sửu. Tội nghiệp! Lão ấy
hiền lành, thật thà nhất làng tôi đấy! Chỉ vì nhà đã lép vế, lại có
bát ăn, một hôm một ông trong bốn ông "trùm" đến nhà hỏi vay
gánh lúa, lão ta đi vắng, mụ vợ chối là không có, ông trùm kia lấy
làm thù, cách vài hôm sau hắn mượn việc làng sinh sự cãi nhau
với lão ấy, rồi hắn vu cho lão ta chửi làng và đem chuyện đó trình
"làng". "Làng" là bọn đó chứ có ai đâu! Chúng với hắn cũng như
một đào một kép, cho nên khi thấy hắn trình, chúng liền hùa nhau
bắt vạ lão Sửu.
Anh Trúc rót chén nước nữa cho tôi, rồi tỏ vẻ ái ngại:
- Cuộc ăn vạ này, chúng làm hại lão ta đến hơn trăm bạc. Bởi
vì chúng ăn to lắm, ăn suốt từ trên đến dưới. Những đứa con nít
toét mắt, ỏng bụng mà anh thấy đó, cũng đều được ăn tất cả.
Chúng nó cũng là "làng". Hễ ai là "làng", hôm nay đều được ra ăn,
chỉ trừ đàn bà và những trẻ con ẵm ngửa.
Tôi vẫn chưa hiểu:
- Thế thì những tiền mua lợn, mua rượu, mua gạo đó ai ứng
ra cho làng?
Anh Trúc trả lời:
- Chẳng ai phải ứng hết thảy, họ đi mua chịu tất cả. Mà hễ
họ đã hỏi mua, thì ai cũng bán. Bởi vì bán chịu cho "làng" như thế,
sau này có thể tính với khổ chủ một giá rất cao và tính bao nhiêu,
khổ chủ phải trả bấy nhiêu, không được bớt xén một đồng nào hết.
- Nếu như khổ chủ không chịu thì sao?
- Khổ chủ không chịu thì họ phải lấy tiền làng mà chi.
Nhưng rồi họ sẽ họp làng tại đình, đóng chiếc đinh cù vào cột đình
và phát thệ rằng: "Nhà ấy đã không thèm tuân lệ làng, từ sau trở
đi, những lúc làng có ăn uống, không ai được ngồi với người nhà
ấy, và rồi nhà ấy có người nào chết, bất kỳ đàn ông, đàn bà, họ xa,
họ gần, làng sẽ không khiêng". Ở thôn quê, cái người lúc sống
không ai ngồi với, lúc chết làng không khiêng cho, là người cực
nhục, sống cũng như chết. Vì vậy từ xưa đến nay, họ đã ăn vạ
người nào, người ấy cứ phải bán nghiệp mà trả. Không ai dám
bướng.
Anh ta đương nói, thì ở bên điếm, có tiếng nói lớn:
- Thưa "chạ"! Hôm nay từ trên già lão đến dưới trai đinh, tất
cả hơn hai trăm xuất, ăn ba con lợn có lẽ không đủ, xin "chạ" cho
bắt thêm một con nữa.
Thế rồi, một lúc sau, lại nghe có tiếng lợn kêu. Cuộc ăn uống
linh đình mãi đến quá trưa mới tan. Chiều hôm ấy, tôi còn ở đó, đã
có tin nói lão Sửu thắt cổ chết ở trong nhà, lý dịch còn đi khất
quan về khám.
XÂU LÒNG THỜ
Một ngày hôm qua tôi thấy bác Hai Đắc đến nhà tôi trọ trước
sau tới mười một lần: lần đầu tiên trời mới sáng rõ, lần cuối cùng
chừng hết canh hai. Trừ ra lần thứ mười một vì tối quá, không thể
trông rõ, còn các lần trước, tôi đều gặp bác. Lạ thay, lần nào cũng
vậy, sau khi thấy nói ông chủ nhà tôi đi vắng, thì bác lập tức lật
đật trở về với cái bộ mặt đầy vẻ sợ hãi. Hôm nay, trời còn mờ mờ,
đã thấy tiếng bác vấm véo gọi cổng. Ông chủ nhà tôi cũng chưa về,
nên bác không vào. Rồi cách một giờ sau, bác lại hoảng hốt chạy
đến. Và vẫn bị thất vọng như lần trước, bác lại lủi thủi đi về bằng
một dáng điệu cực kỳ buồn rầu. Với bác, tôi không phải là chỗ
quen thuộc, vì trọ trong làng B.X. đã lâu nên tôi cũng có biết mặt,
biết tên, hơn nữa tôi còn biết bác là người đần độn, hiền lành, nhà
khá, có trâu cày, có ruộng cấy. Bởi vậy, nay thấy thái độ khẩn cấp
của bác, tự nhiên tôi cũng để ý suy nghĩ. Và tôi đoán rằng: chắc
bác đã phạm một tội quan trọng, nếu không chứa đồ quốc cấm, tất
là lỡ đánh chết người. Nhưng mà tôi lầm. Nếu bác mắc phải một
trong hai việc đó, thì từ hôm qua đến giờ, làng nước đã đồn ầm lên
rồi, người ta đã gông cổ bác điệu lên quan rồi, khi nào bác được
xổng xểnh chạy đi, chạy lại? Huống chi một người cẩn thận như
bác, đời nào có thể xảy ra những việc ghê gớm ấy? Thế thì cớ gì bác
phải tìm ông chủ nhà tôi gấp quá như thế? Trời cũng không thể
đoán được! Bóng nắng đã đến nửa thềm, bác lại lù lù tiến vào
trước sân giữa những tiếng sủa xô xát của đàn chó dữ.
- Cụ đã về chưa? Anh nhỏ!
Thằng nhỏ vì phải đuổi chó cho bác nhiều lần, nó cũng phải
phát cáu với bác:
- Chưa về! Làm gì mà đến hỏi luôn thế! Chỉ quấy rầy!
Bác giả vờ như không nghe tiếng và lại quay mặt trở ra, toan
đi. Vì muốn rõ cái chuyện cấp bách của bác, tôi cố gọi bác vào
trong buồng học và hỏi:
- Bác tìm cụ Chánh có việc gì mà kíp như vậy? Nói cho tôi
biết, xem tôi có giúp được chăng?
Bác cám ơn tôi và đáp:
- Chỉ có cụ Chánh họa chăng mới cứu được tôi. Nếu hôm nay
mà cụ không về, thì tôi đành phải ngồi tù. Rồi, như trong bụng
nóng nảy không thể ngồi yên, bác lại đứng dậy toan ra. Tôi phải
an ủi, giữ bác ở lại để hỏi cho hết câu chuyện. Nể tôi quá, bác lại
nén lòng ngồi xuống và kể đầu đuôi cái nạn phi thường của mình.
Thì ra trưa hôm kia, làng ấy làm lễ "thượng điền". Đó là cái lễ để
trình với vua Thần nông và các cụ tiên nông trong làng đời xưa
biết rằng: làng mình cày cấy đã xong.
Cũng như lễ "hạ điền" cử hành trong khi bắt đầu cắm cây
lúa xuống ruộng, lễ này tại các thôn quê làng nào cũng có. Bởi vì
làng B.X năm nay trời cho mưa nắng thuận hòa, suốt một vụ cấy,
không nhà nào phải tát một khau nước nào, hơn nữa, hễ cấy đến
đâu lúa cứ xanh tốt ngùn ngụt đến đấy, không cần phân tro gì hết.
Người ta tin rằng nhờ có quỷ thần ủng hộ mới được như thế. Cho
nên, nhân ngày "thượng điền" làng có sửa một con lợn, trước là tạ
ơn thần thánh, sau nữa cả làng ăn uống cho vui. Trong khi cúng
tế, thịt lợn để nguyên cả đãnh, lòng lợn cũng để nguyên cả giàn,
nhưng phải thái lấy tám bát đủ cả dồi, tim, gan, phổi, lá lách, dạ
dày, để bày vào mâm xôi thờ, người ta gọi là lòng thờ. Tế xong, đồ
lễ hạ xuống, phận sự bốn người "bàn hóa" phải giữ công việc làm
cỗ. Theo lệ làng, phần của trai làng chỉ có xôi thịt. Ngoài ra sỏ lợn,
lăm lợn, nhỡn lợn, mũi lợn, rồi móng chân lợn và khấu đuôi lợn
đều phải để làm phần biếu, để biếu từ cụ Chưởng lễ đến ông bàn
nhì. Còn riêng tám bát lòng thờ thì phải để kính tám ông trên
nhất có ra lễ thánh trong lúc cúng tế. Vì vậy, số lòng lợn ấy lại có
biệt hiệu là "lòng mũ áo". Bác Hai Đắc mới lên "bàn hóa" từ đầu
năm nay. Trong bữa "việc làng" hôm kia, bác cũng dự một chân
làm cỗ. Công việc thái thịt, bày thịt cho phần trai đinh, sức bác
làm dư đi rồi. Rắc rối cho bác, chỉ có cái số phần biếu. Thể lệ kính
biếu, không phải chỉ nói bằng miệng mà thôi. Ông nào được biếu
thứ nào, đã có sổ sách biên chép rõ rệt. Cuốn sổ ấy có chữ cả làng
ký kết, lại có trình quan trên duáệt y, nó là một pháp luật của
làng, không ai được phép thay đổi. Một người "bàn hóa" biết chữ,
khi chia phần biếu có thể giở sổ mà coi. Nhưng với những người
không biết chữ nào, ít nhất cũng phải tập sự hai năm mới thuộc,
bởi vì một năm chỉ được học việc có bảy tám lần mà thôi. Bác Hai
Đắc không biết chữ gì, và lên bàn hóa mới già nửa năm, cố nhiên
bác không thể thạo được chức vụ. Tuy vậy, hôm đó nhờ có ba người
tuổi trên cáng đáng, cho các phần cũng không lầm lẫn. Khổ cho
bác, chỉ tại một "xâu lòng thờ" của cụ Chưởng lễ. Hôm ấy cụ
Chưởng lễ có ra chủ tế, phần cụ phải có một xâu lòng thờ là dĩ
nhiên rồi. Tế xong cụ cũng mũ áo lễ thánh như các ông khác, theo
lệ, cụ lại được hưởng xâu nữa. Bác Đắc không hiểu lệ đó, chỉ để
phần cụ một xâu. Đến khi thằng nhỏ đệ phần vào nhà, cụ Chưởng
lễ kiểm lại số thịt thấy thiếu, tức thì cụ sai đầy tớ gọi bác đến nhà,
ghép bác vào tội tự nhiên cất phần của cụ, và bảo cho bác biết
rằng: việc ấy cụ đã nhất định đưa lên quan xét, rồi cụ sai đuổi bác
ra, không cho nói thêm câu nào. Mấy lần bác đã cậy người xin
giúp, đều không đắt nhời. Bây giờ chỉ còn một cách nhờ cụ Chánh
Cựu - tức là ông chủ nhà tôi - nói đỡ. Xưa nay cụ Chưởng lễ vẫn nể
cụ này, nếu như cụ này chịu giúp cho bác, họa may bác được thoát
nạn... Vì thế bác phải khẩn cấp đi tìm ông chủ nhà tôi. Nói đến
đây, thấy bác rơm rớm nước mắt và thêm:
- Năm xưa một người bàn hóa cũng đánh mất phần của cụ
Chưởng lễ, và bị cụ ấy đi kiện. Hai bên vật nhau từ huyện lên tỉnh
lại sang Hà Nội. Rút lại, người bàn hóa đó tốn kém đến gần nghìn
bạc mà vẫn bị phạt một đồng. Ấy là anh ta nhà giàu, biết lý luật,
lại biết tòa nọ, sở kia, còn không chống nổi cụ ấy. Huống chi như
tôi, tiền không có, từ thuở mẹ đẻ đến giờ không đến cửa quan bao
giờ... nếu bị kiện, mười phần chắc phải ngồi tù cả mười. Rồi bác
gạt nước mắt đứng dậy.
Ngoài sân nghe có tiếng giày sền sệt kéo trên mặt gạch. Ông
chủ nhà tôi đã về. Bác Hai Đắc vội vàng nép vào cây cột gần đó, và
vái một vái cực kỳ cung kính. Ông chủ nhà tôi điềm nhiên đi vào
trong nhà. Sau khi bỏ khăn và cởi áo ngoài treo lên đinh cột, ông
ấy ghé vào chỗ tôi, vớ lấy cái điếu, châm lửa hút thuốc. Chờ cho
ông ta thở hết hơi khói trong miệng, bác Đắc khúm núm đi ra
trước chiếc phản ngựa, thụp xuống lễ luôn hai lễ.
Ông chủ nhà tôi có vẻ ngạc nhiên và hỏi giật giọng:
- Mày làm cái gì thế, Đắc?
Bác Đắc với bộ lưng khom khom như hình con tôm, chắp tay
đứng ở ngoài thềm, nước mắt chảy ra giàn giụa:
- Lạy cụ, xin cụ cứu con...
Ông chủ nhà tôi vẫn một giọng sửng sốt:
- Mày làm sao?
Bác này như líu lưỡi lại:
- Lạy cụ cứu con!
Ông chủ nhà tôi phải gắt:
- Nhưng mà cứu cái gì chứ? Thằng này điên à?
Bác Đắc đứng bên cửa vừa mếu vừa kể cho ông ấy nghe việc
đánh mất phần của cụ Chưởng lễ và bị cụ ấy đe kiện. Ông chủ nhà
tôi nhìn tôi, và cười tủm tỉm:
- Cái phái tổng lý chúng tôi có gớm hay không?
Rồi ngoảnh sang nhìn bác Đắc, ông ấy lại gặng:
- Bây giờ mày bảo tao đi lạy mướn cho mày à?
Bác Đắc chỉ nằn nì mãi một câu:
- Lạy cụ, xin cụ cứu con!
Ông chủ nhà tôi ngần ngừ một hồi, rồi đáp:
- Nói với con mọt già ấy khó lắm, phi tiền không xong.
Nhưng cứ về đi, lát nữa tao đi cho. Chiều lại đây, công việc thế nào
tao bảo.
Bác Đắc sung sướng vái chào chúng tôi rồi ra. Mặt trời tà tà,
ông chủ nhà tôi khăn áo chỉnh tề ra đi. Một lúc lại thấy trở về và
nói với tôi:
- Tôi đã biết mà. Lão Chưởng lễ làng tôi đểu lắm, cái gì cũng
tiền. Tôi đến nói hộ thằng Đắc, lão ta nhất định đòi hai điều này:
một là thằng Đắc giết lợn mời làng tế thánh để lấy một xâu lòng
thờ biếu hắn; hai là nó đền cho hắn trăm bạc. Mà hắn đã nói một
trăm, ít ra cũng phải sáu chục mới xong. Ấy ở nhà quê khó thế,
ông ạ! Có của đã chắc giữ được mà ăn đâu?
MỘT CHIẾC LĂM LỢN
Bấy giờ bóng đã chiều cả. Mặt trời chỉ cách ngọn tre của dãy
làng xóm xa xa độ vài con sào. Chân trời phía tây dần dần hiện
những tia đỏ. Dưới đồng còn đông người làm. Trong rừng ngô đậu
xanh rì, tiếng hát theo gió đưa đi réo rắt. Tôi vừa đi đến ngã tư rẽ
vào con đường làng Đ.C và những giọng lên bổng xuống chìm của
bọn gái quê xới đậu, vun ngô như đương bảo tôi khoan bước để
thưởng cái cảnh trời xuân mình mị. Bỗng ở trong nẻo đầu làng có
tiếng thét lớn, như phá cái bầu tịch mịch của cánh đồng chiều, làm
cho các đám hát xướng đều phải im bặt. Càng đi gần lại, tiếng thét
càng dữ thêm. Tiếp đến tiếng chửi phũ phàng của cơn thịnh nộ, rồi
đến tiếng kêu làng nước inh ỏi. Trong khu văn chỉ của làng Đ.C.
bóng người đen kịt. Và ở cổng làng cũng như các ngả đường khác,
đàn ông đàn bà tất tả chạy ra. Ai cũng như nấy, mỗi người trong
tay đều có một món khí giới, hoặc sào, hoặc gậy, hoặc cán cuốc,
hoặc đòn gánh, có người thì vác cái vồ đập đất. Tứ chi bát mạch,
nhất tề đổ vào khu đất văn chỉ với một bộ điệu hùng hổ. Đánh!
Đánh! Đánh! Mấy tiếng thét đánh vừa dứt, cuộc hỗn chiến tức thì
bắt đầu. Đòn gánh giơ lên, tai cuốc bổ xuống, tiếng chí chát của
các khí giới đụng nhau xen lộn với tiếng kêu, tiếng chửi, tiếng gầm
gào, nghe thật gớm ghiếc. Tôi phải dừng lại ở một quãng xa để chờ
đến lúc tan cuộc, vì rằng đường đi đã bị chiến trường ngăn cản,
không có lối nào qua được. Tấn náo kịch mỗi lúc một thêm kịch
liệt. Các toán viện binh các nơi vẫn tiếp tục kéo đến ầm ầm. Đáng
sợ nhất là mấy mụ đàn bà. Xắn váy, xắn áo và quấn búi tóc vểnh
ngược, các mụ liều mạng xông vào trận địa như một đội quân cảm
tử.
Tôi phải rùng mình sởn gáy, khi thấy một người lực điền
thẳng tay giơ vồ đập đất bổ vào đầu một ông già vừa chui ra khỏi
vòng vây. Ông già ấy loạng choạng, lảo đảo như con gà toi giẫy
chết rồi ngã phục vị xuống đất. Người lực điền kia lại vác chiếc vồ
nghênh ngang vào trận. Giữa đám túi bụi, thấp thoáng có bóng
xanh xanh. Khi đã lách qua vòng vây, bóng xanh xanh liền hiện ra
thành hình người. Ô! Lạ! Trong đám ẩu đả lại có người mặc áo
thụng lam và đội mũ nhiễu hoa bạc! Tuy rằng đứng ở đằng xa, tôi
cũng trông rõ hình dạng. Người ấy hàm râu đã dài, cái áo thụng
lam đã toạc vạt trước, trên trán có một vết đỏ chạy thẳng từ trán
xuống cằm, có lẽ là vết máu chảy. Chỉ kịp lật mũ vất xuống vệ
đường, người ấy vén tay áo thụng, giằng lấy chiếc gậy của một
người khác, rồi quay vào đám đông người, ra sức vụt lấy vụt để.
Hình như bây giờ đến hồi loạn chiến, người ta chỉ cốt đánh cho
sướng tay, bất phân ai là phe thân, ai là phe thù. Vì vậy, giao
chiến đã lâu mà vẫn chưa phân thắng phụ. Phía trong cổng làng
chợt có tiếng hiệu rúc hồi. Một đoàn tuần phu độ hơn mười người,
kẻ vác giáo, người vác mã tấu, tấp nập đi theo lý trưởng tiến lên
khu đất văn chỉ.
- Trói lại! Trói hết cả lại! Điệu về đình kia! Đánh nhau chết
người ra đấy, tội vạ ai chịu?
Lý trưởng thét vừa dứt miệng, cả bọn tuần đinh hăng hái
sấn vào đám đông, đàn áp một cách hùng dũng và can đảm. Các
tay chiến sĩ tuy đương "ham đánh" nhưng cũng còn sợ pháp luật,
thấy bóng tuần phiên tiến vào, ai nấy tản mác lùi ra, kẻ này chạy
vào trong làng, người kia trốn xuống dưới ruộng. Trên bãi chiến
trường còn lại bọn tuần đinh với một đám độ hơn mười người hầu
hết có mặc áo thụng.
Cái gì thế nhỉ? Cớ sao người ta lại bận lễ phục để đi đánh
nhau? Hay là ở đây cũng là cửa Khổng, sân Trình, cho nên dù là
đánh nhau, cũng phải giữ lễ? Giông tố đã yên, tôi bèn lại chỗ văn
chỉ để về trong làng, và luôn thể coi qua cho biết tình hình cuộc
đại chiến. Té ra những ông áo thụng còn lại đó rặt là "tư văn" và
đều bị thương tất cả. Đau nhất là ông Cựu Thỉnh. Ông ấy bị một
vết ở má bên phải. Hình như nó là vết thương của mấu đòn gánh
đập vào -gò má bị khuyết mất một miếng thịt khá to, cái xương lòi
ra, máu chảy rành rạch xuống vai áo thụng. Rồi đến ông Cựu
Bình. Không biết ông này bị những cái gì đánh vào má trông thảm
quá, giữa trán bươu lên như quả ổi lớn, gò má bên trái sưng húp
như cái đồng chai úp vào.
Con mắt bên ấy híp lại như mắt lợn ỷ. Rồi đến ông Phó Đê,
cái ông bị một cái vồ lúc nãy. Ông ấy mất mảng tóc đỉnh đầu, thịt
non phơi ra đỏ hỏn. Cả ba ông đó cùng phải nằm liệt dưới đất, thi
nhau kêu rên hừ hừ. Còn các ông khác, hoặc bị thương ở mặt, hoặc
bị thương ở tay, hoặc bị thương ở vai hay cổ, tuy cũng đau lắm,
nhưng còn có thể ngồi gượng. Sau khi sai người lấy chiếu đắp cho
những người đau nặng, lý trưởng cắt bọn tuần phiên, một nửa ở đó
canh gác, một nửa thì đi lùng bắt những kẻ có dự vào cuộc chiến
tranh. Rồi hắn về nhà đóng ngựa lên huyện, khất quan về khám.
Lúc ấy trời đã gần tối, những người làm đồng lũ lượt trở về. Một
người cùng đi một đường với tôi, đã được chứng kiến trận ẩu đả ấy
và có biết rõ nguyên úy. Cứ như anh ta đã nói, thì căn do của tấm
thảm kịch chỉ tại một chiếc lăm lợn. Làng Đ.C. cũng như làng
khác, vẫn có riêng một số người chuyên coi về việc tế tự, người ta
gọi là "tư văn" hay là "văn giáp", hoặc "văn hội", có làng gọi là
"quan viên". Mỗi khi làng có cúng tế thì từ chủ tế đến việc rước
nến, bưng đài, đều do tư văn phải làm.
Theo nguyên tắc, hội "tư văn" tức là môn đồ của Khổng phu
tử. Bởi vì trong số hội viên, trừ những người dưới do làng bầu ra,
các người đứng đầu phải là những bậc khoa hoạn. Làng nào không
có khoa hoạn, thì lấy những người chức sắc thay vào. Hàng năm,
cứ đến ngày "đinh" của tháng giữa mùa xuân và ngày "đinh" của
tháng giữa mùa thu, tư văn làm lễ tế tại văn chỉ, gọi là xuân đinh
và thu đinh. Đó là lễ riêng của hội tư văn, người ngoài không ai
được dự. Nhưng không phải là tế Khổng tử. Quyền tế Khổng tử
thuộc về nhà vua và các văn miếu hàng tỉnh, hàng phủ, còn dân
gian thì chỉ được tế những vị "tiên đạt" của làng mình. Làng Đ.C.
không có khoa mục. Chức Chưởng lễ của hội tư văn vẫn thuộc về
cụ Bá Trung. Đáng lẽ mỗi khi trong làng có tế, bất kỳ là tế ở đâu,
cụ ấy vẫn được giữ ngôi tế chủ. Nhưng vì tuổi già, lễ bái khó nhọc,
cho nên cụ ấy vẫn giao công việc chủ tế cho ông Cửu Nghĩa. Theo
lệ nhất định, những khi làng làm lễ bằng lợn, cái sỏ lợn phải để
biếu cụ Chưởng lễ, còn cái cổ lợn thì cắt làm hai khoanh tròn -
người ta gọi là cái lăm -một khoanh biếu ông tả văn, một khoanh
nữa thì để biếu một ông nào đã gánh công việc chủ tế. Chủ tế là
ông tả văn, ông ấy sẽ được hưởng cả đôi lăm, nếu chủ tế là cụ
Chưởng lễ, thì phần cụ ấy phải có một lăm một sỏ. Mọi khi hai cái
lăm của con lợn tế thần đều là phần ông Cửu Nghĩa.
Bởi vì ông ấy vừa quyền tế chủ lại vừa viết văn. Nhưng độ
này ông Cửu Nghĩa ốm nặng, ngày mai tư văn làm lễ xuân đỉnh
chắc là ông ta không thể ra làm chủ tế. Chức ấy phải cắt đến người
thứ ba. Từ chiều hôm nay, tư văn có sửa tuần rượu đệ lên văn chỉ
làm lễ "túc yết". Ai vào chủ tế ngày mai, hôm nay phải lên văn chỉ
mà khấn, để các tư văn lễ theo. Chiếu theo ngôi thứ, chức chủ tế
ngày mai đến ông Cựu Thỉnh, và rồi ông ấy sẽ được hưởng cái lăm
lợn dư huệ của ông Cửu Nghĩa.
Ông Cựu Bình lấy thế làm tức. Bởi vì, nếu ông Cựu Thỉnh từ
chối, thì chức tế chủ và cái lăm lợn ngày mai sẽ về ông ta. Đợi lúc
ông Cựu Thỉnh xúng xính mũ áo, sắp sửa vào khấn, ông Cựu Bình
ngăn lại và nói:
- Ông định khấn như thế nào, phải đọc trước cho cả tư văn
cùng nghe cái đã! Cái đó mới hiểm độc chứ!
Một người suốt đời chưa học chữ nào như ông Cựu Thỉnh thì
đọc văn khấn làm sao cho trôi. Bí quá, ông Cựu Thỉnh phát cáu:
- Khấn thế nào, tôi không phải trình với anh.
Ông Cựu Bình càng làm già:
- Không phải trình tôi, thế thì nếu anh khấn cha, khấn mẹ về
đó, tư văn cũng phải chịu à?
Ông Cựu Thỉnh đương cơn tức tối, liền tát cho ông Cựu Bình
một cái và thét:
- À! Thằng này mày chửi ông à?
Ông Cựu Bình cũng không chịu nhịn, túm luôn lấy cổ áo
thụng ông này và đấm vào gáy một chặp. Trong đám tư văn, có
người là họ ông Thỉnh, có người là họ ông Bình, thấy hai bên đánh
nhau, kẻ thì kêu làng cầu cứu, người thì xông vào đánh giùm. Lúc
này, người làm dưới đồng còn đông, những kẻ thù ghét cả hai ông
kia, thi nhau kéo lên đánh hôi, cốt để gieo vạ cho kẻ thủ xướng, vì
thế mới ra cuộc đại chiến, và mới đến bấy nhiêu người bị thương.
Nửa đêm hôm ấy quan huyện mới về biên án. Ngay lúc đó, những
người bị thương đều được khiêng lên nhà thương. Khi họ đi đường,
người ta còn nghe tiếng rên ầm ầm...
MIẾNG THỊT GIỖ HẬU
Hôm ấy vào khoảng thượng tuần tháng chạp. Trời đương
quang đãng, tự nhiên thấy tối sầm lại. Gió bắc ở đâu kéo đến đùng
đùng. Những đám mây đen tự phía chân trời lù lù tiến lên giữa
trời, rồi hóa ra một tấm màn màu tro phủ kín bầu trời. Bằng cái
hăng hái của người chạy mưa, tôi cứ trông thẳng cổng làng H.Đ.
cắm đầu đi thật rảo bước. Tấm màn màu tro dần dần thấp xuống
rồi những luồng chớp nhằng nhằng như đàn rắn vàng đuổi nhau ở
nẻo xa xa. Rồi những tiếng sét vỡ trời từ góc trời nọ, dồn nhau
sang góc trời kia chẳng khác tiếng những tảng đá lớn từ đỉnh núi
lăn xuống chân núi. Hột mưa rào rào sa xuống, như muốn giúp sức
cho sự giá lạnh. Hai má tôi đã thấy buốt, hai tay tôi đã thấy cóng.
Trong cái quán ở đầu cổng, đàn ông đàn bà đương chen vai nhau
đứng vây chung quanh mấy bó mạ chiêm. Những lúc phong vũ bất
tình, ai cũng muốn giữ thân nấy, khi nào họ chịu nhường chỗ cho
một người lạ? Tôi đành đội mưa dò trên con đường lầm lội, định cố
đi tới nhà một người bạn rồi nghỉ luôn thể. Nhưng khi mới đến sân
đình, trời càng mưa to, không thể liều đi được nữa, tôi phải lánh
lên thềm đình. Ở ngoài cổng đình lù lù tiến vào một lũ độ trên
mười ông lão già. Ông nào cũng như ông nấy, đầu đội nón lá, lưng
khoác áo tơi, tay chống một chiếc gậy tre lộc cộc. Sau khi đã chao
chân vào cái vũng nước dưới giọt đình, các cụ lẩy bẩy trèo lên
thềm đình, và lò dò bước lên sân đình với những tiếng thít tha
đáng ái ngại. Hết bọn ấy, lại tiếp bọn khác. Các cụ lẻ tẻ đến mãi.
Những bọn sau không được đông như bọn trước, mỗi bọn độ vài
bốn người. Trên đình có tiếng mâm bát lẻng kẻng. Mùi hương ngào
ngạt trong đám tiếng người lào xào. Hẳn là người ta cúng lễ gì đó.
Tôi không để ý và chăm chăm nhìn những giọt nước từ mái ngói
chảy xuống sân gạch.
Trời tháng chạp mà sao mưa to làm vậy? Chỉ trong một lát
sân đình nước chảy lênh láng, bong bóng trôi trên mặt nước lềnh
bềnh. Gió bấc mỗi lúc mỗi thêm dữ dội; nó hắt hột mưa tua tủa vào
chỗ tôi đứng, như muốn đuổi tôi lên đình để xem cảnh tượng trên
ấy ra sao. Dưới bức chấn song ở phía sau đình, một chiếc mâm cao
sơn đỏ chễm chện kê giữa mảnh chiếu rách cạp. Trước mâm có để
mấy bó vàng hồ, một chai rượu và mấy quả cau. Trên mâm là một
tảng xôi vuông vắn bằng cái lá nem và một miếng thịt lợn luộc ước
chừng hai cân trở lại. Nén hương cắm trong mâm xôi cháy đã hết
nửa, tàn hương rụng trên mặt xôi đen xì. Các cụ túm năm, tụm ba,
bó gối ngồi trong mấy chiếc chiếu trải liền bên cạnh bao lơn. Tất cả
độ bốn chục cụ, cụ nào cũng sắc mặt xám mét. Thấy tôi nhô lên,
các cụ đều ngơ ngác nhìn. Lâu lâu, một cụ sẽ cất cái giọng run run
của người bị rét:
- Ông khách vào chơi nhà ai?
Tôi đáp rất lễ phép:
- Thưa cụ, tôi vào thăm ông tú Tĩnh
Cụ khác lên giọng phều phào:
- Ấy! Nhà tôi cũng ở liền ngõ với ông ấy. Ông hãy ở đây lát
nữa cùng đi với tôi.
Thì ra cụ này chính là cụ Thượng làng ấy. Sau khi tôi tỏ ý
cám ơn, một cụ nữa ngó vào cụ ấy và nói:
- Thôi hết hương rồi! Cụ Thượng "vái hạ" đi cho!
Cụ Thượng sẽ gật đầu, rồi lom khom đứng ra phía trước
mâm xôi, cúi đầu vái luôn ba vái. Trong đám có tiếng dõng dạc, tôi
không nhận ra tiếng cụ nào:
- Thằng Mới hạ mâm xuống để làm cỗ đi. Tất cả bốn mươi
sáu xuất, mười một cỗ rưỡi, với một cỗ nhà chứa, một cỗ cho mày.
Làm mười bốn cỗ, còn thừa hai phần! Nghe không?
Với một tiếng dạ không được lễ phép cho lắm, thằng Mới
nhanh nhẩu bưng mâm xôi thịt đến chỗ dao thớt giữa khi một cụ ít
tuổi trong bọn lệch kệch nhắc mấy bó vàng ra chỗ bệ đình, phì phò
thổi chiếc mồi rơm, châm lửa.
Thằng Mới làm cỗ mới nhanh làm sao! Đống vàng cháy chưa
hết nửa, mười bốn mâm cỗ đã xong cả rồi. Nó bưng từng mâm đặt
ra các chiếu. Mỗi mâm chỉ có một đĩa thịt mỏng, một bát nước
mắm và một cục xôi bằng bánh xà phòng ba xu. Bốn một, tám hai,
các cụ tự do ngồi vào các cỗ, không ai phải mời ai. Cụ Thượng sai
thằng Mới bổ cau quệt trầu đưa ra thết tôi:
- Mời ông xơi tạm miếng trầu. Chúng tôi xin thất lễ ông chén
rượu. Hôm nay làng tôi có giỗ ông hậu. Mọi khi còn làm to hơn.
Bây giờ thời buổi cải lương, nên có giảm đi đôi chút.
Chai rượu bị rót ra hai cái bát ở mâm thứ nhất, lần lượt
chuyển xuống đến mâm cuối cùng. Các cụ bắt đầu cầm đũa. Một
cụ lại gọi thằng Mới:
- Còn thừa hai phần, mày đem một phần chiếu lại lên mâm
cụ Thượng, còn một phần nữa thì để cho người quá lộ!
"Người ta sắp sửa bố thí xôi thịt cho mình đây chắc?" Tôi
đương tự hỏi như vậy, thì ở trong đám vừa thấy có người cắt
nghĩa:
- Ông khách hẳn chưa biết hai chữ "quá lộ" là gì. Chính
nghĩa thì là những người qua đường, nhưng đây chúng tôi chỉ nói
riêng bọn ăn mày. Là vì trong lúc dân làng ăn uống, thường
thường vẫn có ăn mày đến xin. Dù ít dù nhiều, thế nào cũng phải
cho họ. Bởi vậy, đám nào làm cỗ, cũng phải để dành cho họ, nếu họ
không đến thì cho thằng Mới.
Dứt lời, các cụ lần lượt chia đũa mời nhau "đưa cay". Câu
chuyện "cái giá cắn đôi" của đất Hà Nội, tôi mới được nghe chưa
từng được thấy, nhưng ở đám này tôi đã mục kích được một kiểu
ăn uống còn có lễ độ hơn thế. Miếng thịt gắp lên, các cụ chỉ sẽ
"nhấm" một chút xíu, rồi lại đặt luôn xuống bát của mình. Có lẽ
cái chỗ bị "nhấm" nó chỉ lớn bằng hạt đỗ. Ngoài sân sấm vẫn ù ù,
những hạt mưa đã nhỏ dần dần, chiều trời cũng quang dần. Tôi
đương vơ vẩn trông trời trông đất, chợt thấy có tiếng đũa đặt
xuống mâm leng keng. Chai rượu đã hết, các bát rượu đã cạn, các
cụ đã cùng bãi tiệc, xôi thịt còn lại, đương bị chia ra làm phần. Tuy
đứng xa tôi cũng trông rõ: mỗi phần chỉ có hai ba miếng thịt xâu
vào cái tăm và một hòn xôi bằng quả ổi con đặt ở trên mảnh lá
chuối. Mưa tạnh, các cụ lần lượt đứng dậy, ai nấy đội nón chống
gậy mặc áo tơi, lò dò bước xuống sân đình với một dáng bộ run rẩy.
Cụ Thượng phều phào bảo tôi:
- Nào! Ông khách có vào nhà ông tú Tĩnh thì đi với lão.
Hình như có vài hớp rượu, cơn rét của cụ lại càng tăng thêm.
Ra khỏi đầu đình, hai ống chân cụ loạng choạng, xiêu vẹo, mấy lần
xuýt ngã. Tôi phải chạy lại gần cụ, nắm lấy cánh tay và dắt cụ đi.
Bằng hai hàm răng đập vào nhau cầm cập, cụ vừa đi vừa nói chân
tình:
- Tôi gần tám mươi tuổi đầu, mà lúc mưa rét thế này, cũng cố
dò đi ăn uống, chắc ông sẽ cho là già tham ăn. Thực ra, tôi có thiết
gì miếng xôi, miếng thịt! Sở dĩ cố đi, chỉ vì có mấy đứa cháu. Ở nhà
quê gạo ăn còn chẳng có, lấy đâu ra tiền mua thịt? Nếu không có
miếng phần việc làng, thì những trẻ con quanh năm không được
biết mùi thịt ra sao. Bởi thế, tôi phải dò đi, để lấy phần về cho
chúng nó...
Câu chuyện chưa hết, cụ Thượng vừa tới cổng nhà, mấy đứa
trẻ con, mặt xám như gà cắt tiết, thấy cụ liền reo một cách mừng
rỡ như người được của:
- A! Ông đã về! Phần của cháu đâu?
Hình như chúng nó đợi cụ đã lâu lắm.
MÓN NỢ CHUNG THÂN
Thường thường ô tô chở khách chạy đường Hà Nội - Thái
Nguyên, vẫn bị tài xế "om" ở C.Đ. để đón khách, hoặc ăn cơm. Có
khi cao hứng, họ còn tán chuyện bù khú với bọn hàng quà, đến
hai, ba giờ đồng hồ, hành khách giục giã mặc kệ. Hôm ấy, tôi và
ông L. cũng bị họ giam lại đó. Bấy giờ đương giữa mùa hè, trời
nắng như thiêu. Vì ở trên xe chật quá, chúng tôi cũng muốn thoát
lá cái chỗ "người như nêm cối" để xuống hàng nước nghỉ mát, cho
nên dù bị chờ đợi quá lâu, cũng không ai thấy sốt ruột. Thình lình
một chiếc xe nhà ở nẻo xa xa lạch cạch kéo đến, cái xe hình như
đóng đã lâu ngày, vải mui đã rách, gọng mui đã bựt, hai càng đã
hết màu sơn, hai bánh lấm bê lấm bết, trên xe không có người
ngồi. Uể oải qua cửa hàng nước, anh xe cúi chào ông L.
- Lạy cậu.
Rồi hắn đỗ xe bên đường, lau qua những giọt mồ hôi nhễ
nhại trên trán, và hắn vừa thở vừa bước vào hàng. Trông bộ dạng
hắn, không hơn một người ăn mày. Quần đã xơ cả hai gấu, áo đã
vá hàng chục mụn mà hãy còn hở một bên vai, cái nón trên đầu đã
tả tơi như tàu lá chuối bị bão. Hạ nón úp xuống mặt chõng của
nhà hàng, hắn ngửa chiếc bát lên chõng và giục nhà hàng múc
nước. Ông L. nhìn tôi và nói:
- Thằng này là người làng tôi. Nó vẫn kéo xe cho ông T.T.
Rồi ông lại nhìn người kia và nói:
- Mày đánh xe đi đâu?
Anh xe òng ọc uống hết bát nước, rồi đáp:
- Bẩm cậu, con ra Hà Nội để đón cụ con.
Ông L. ra bộ ngạc nhiên:
- Ở Hà Nội về làng ta, chỉ hết một hào ô tô. Thế mà cũng bắt
xe nhà đi đón, sao mà cụ mày cẩn thận quá vậy!
Anh xe lắc đầu:
- Không phải cẩn thận. Chỉ vì độ này ở nhà không có việc gì,
cụ con sợ con chơi không, nên mới bắt con đánh xe đi đón cho khỏi
tốn một hào chỉ.
Rồi hắn nói tiếp:
- Trong mấy năm nay, cụ con đi đâu một bước cũng dùng xe
nhà. Không chịu mất một đồng tiền xe, tiền tàu nào hết. Nhiều
hôm con phải chết dở với cái xe ấy.
Như muốn mượn câu chuyện của hắn để tiêu thì giờ, ông L.
lại gặng:
- Xe hỏng hay sao?
Anh xe cầm chiếc nón rách vừa quạt vừa nói:
- Nào nó có hỏng đi cho, đã phúc nhà con!
Rồi hắn ngửa mặt nhìn ông L.:
- Thưa cậu, từ làng ta đến làng V.Đ ước chừng bao nhiêu câylô-
mếch?
Ông L. bấm đốt ngón tay và đáp:
- Tất cả đến sáu chục cây. Làng ta đến Hà Nội hơn mười cây,
Hà Nội đến Hà Đông hơn mười cây, Hà Đông vào V.Đ hơn ba mươi
cây.
Anh xe nhành mồm lè lưỡi:
- Trời ơi! Sáu chục cây số kia! Thế mà năm ngoái, khi sang
V.Đ đưa ma, cụ con cũng bắt con kéo đi đấy. "Bữa ấy, cũng vào
mùa hè; cụ con dậy từ gà gáy, sai người gọi con đưa xe ra cổng.
Ngoài đường, trời tối như mực, con phải đi dò từng bước, kẻo sợ
đâm xuống vệ đường. Lệ thường ở nhà cụ con, chắc cậu đã biết,
hôm nào cũng đến chín giờ thì ăn cơm sáng. Hôm ấy, vì còn sớm
quá, người nhà chưa nấu cơm, cụ con cũng đi lòng không, thì con
còn được miếng gì vào miệng! Ra đến Hà Nội, con đã đói, nhưng
phải cố gượng và tưởng thế nào vào đến Hà Đông, cụ con cũng cho
ăn quà. Té ra không, khi qua Hà Đông cụ con chỉ cho vào hàng
uống một bát nước, rồi lại bắt kéo đi liền. Trời nắng, bụng đói, con
đã vàng cả hai mắt, uể oải lôi đôi càng xe, chẳng khác gì thằng ốm
dở. Tới V.Đ. cụ con vào nhà đám, con phải nằm lử trong xe. Đến
lúc người nhà gọi cho ăn cơm, thì con mệt quá, nhai không buồn
nuốt.
"Hôm sau, đưa đám xong rồi, cụ con lại bắt kéo về. Tuy rằng
sáng nay có được ăn uống no nê, nhưng vì hôm trước phải chạy
kiền kiệt cả ngày, cho nên con thấy mỏi mệt hết sức. Tới Hà Đông,
con đi thủng thẳng bước một, giống như người đi xe giờ. Cụ con
bảo con cố kéo về đến Hà Nội sẽ nghỉ. Nhưng đến Thái Hà chân
con như bị rời ra, không thể nào mà bước đi được. Cùng quá, cụ
con bảo con kéo vào nhà một ông bạn trong ấp, để cho con ngủ một
đêm. Nói đến đấy, anh xe đứng dậy, đến chỗ chúng tôi xin mồi
thuốc lào:
- Ấy, con đi làm như thế, mà một đồng xu mua thuốc không
có, quanh năm cứ phải ăn xin. Nhiều khi con đã cố từ, nhưng
nghiện nặng quá, không sao từ được!
Ông L. véo thuốc cho hắn:
- Thế, tiền công của mày để đâu?
Hắn đón mồi thuốc bằng một dáng buồn rầu:
- Bẩm cậu, nhà con nó quến đi mất.
Ông L. tỏ vẻ ái ngại:
- Vợ mày đi mất rồi à?
- Bẩm không! Nhà con nó mới chết ạ!
Vừa nói, hắn vừa trở lại chỗ ngồi của hắn bằng một bộ điệu
chán nản. Ông L. lại hỏi:
- Thế sao nó lại quến được tiền công của mày?
- Thưa cậu, cho con hút xong điếu thuốc, sẽ xin kể để cậu
nghe.
Rồi hắn vội vàng đặt thuốc vào điếu, lấy đóm châm lửa. Và
bằng thái độ của kẻ nghiện nặng nhưng nhịn đã lâu, hắn hóp hai
má hút một hơi dài. Như muốn để cho hơi thuốc ngấm vào xương
cốt, hắn cố ngậm khói trong miệng hồi lâu, rồi mới há miệng cho
nó từ từ đùn ra. Hai mắt lờ đờ nhìn sang ông L. hắn tiếp:
- Cảnh con bây giờ khổ quá, cậu ạ! Từ giữa năm ngoái, nhà
con bị bệnh hậu sản, nhưng nó vẫn gượng đi làm. Đến đầu tháng
mười thì nó ốm nặng, suốt ngày suốt đêm chỉ nằm trên giường và
ho khù khụ. Bấy giờ con vào làm cho cụ con mới được một tháng,
tiền công lĩnh rồi, lại phải vay thêm năm đồng nữa, lấy tiền thuốc
men cho nó. "Giả sử trời để nó sống, thì số tiền ấy, chúng con trả
trong vài tháng cũng hết. Chẳng ngờ thuốc uống không chuyển,
bệnh nó chẳng những không bớt, lại cứ mỗi ngày một tăng, rồi cuối
tháng một, nó chết."
Nói đến đấy, hắn bỗng ngừng lại. Một giọt nước mắt từ trong
khóe mắt rơi xuống mặt đất. Im lặng chừng độ nửa phút, hắn lại
rẽ ràng nói thêm:
- Lệ của làng ta, chắc cậu đã rõ. Một người nằm xuống, dù
giàu dù nghèo, nhà chủ cũng phải giết một con lợn đãi "phe" một
bữa dấm ghém, phe mới khiêng cho. Không được thế, thì phải nhờ
cậy họ mạc khiêng giúp. Nhà con tuy còn ít tuổi, nhưng nó là
người thiên hạ và cũng hẳn hoi với con, nếu để họ khiêng, thì sợ
tủi vong hồn nó, và rồi con cũng không mặt mũi nào trông thấy
anh em nhà vợ nữa. Vì thế, con phải cố lo bữa rượu để mời hàng
giáp. "Một con lợn, mươi nồi gạo, vài chục chai rượu, tất cả cũng
hơn ba chục đồng, chưa kể quan ván của nó. "Trong nhà không có
đồng nào, một chốc phải tiêu đến bấy nhiêu tiền, cậu bảo lấy ở đâu
ra? "Nếu nhà vợ con mà được giàu có, thì con cũng không khổ lắm.
Nhưng mà bên ấy cũng không có gì, bà nhà con và các cậu nó chỉ
giúp cho được hơn mười đồng.
Còn thiếu, con lại phải kêu cụ T. "Cụ con bằng lòng cho con
vay thêm hai nhăm đồng nữa, với năm đồng trước thành ba chục
đồng. Cho người khác vay, cụ T. vẫn đều tính lãi mỗi đồng một
tháng sáu xu, vì con là kẻ tôi tớ cụ con cũng thương, nên mỗi đồng
một tháng chỉ lấy năm xu, nhưng tháng nào phải trả lãi ngay
tháng ấy, còn gốc chịu đến bao giờ cũng được. "Tiền công của con ở
đấy, mỗi tháng được một đồng rưỡi; trừ vào tiền lãi là vừa. Từ cuối
năm ngoái đến giờ, quần áo rách như bươm bướm, con cũng không
có đồng nào mà may.
Rồi với hai hàng nước mắt giàn giụa, hắn kết luận:
- Đời con không còn lúc nào trả xong được món nợ ấy. Bây giờ
đã vậy, không biết rồi khi về già, không kéo nổi cái xe kia nữa, thì
làm thế nào?
Ông L. cười và bảo tôi:
- Một bữa "lệ làng" có thể gây cho người ta món nợ lãi chung
thân không trả hết.
TẠP VĂN
KIỂU ĐẤT Ở PHỐ HÀNG TRỐNG
Thấy cái đầu đề này, không khéo có người đem cáng đến đón
mình đi làm đất. Xin chớ, vì khoa học Tả Ao mình thật dốt đặc, cái
kiểu đất Hàng Trống mình nói đây chỉ là do ý tưởng tượng mà
đoán ra, chẳng có căn cứ vào sách nào cả. Tuy không dựa vào sách,
nhưng quyết là đúng. Ai không tin thử diễu một vòng qua phố
Hàng Trống mà ngắm xem. Cái ngôi đền ở giữa phố choèn choèn
bằng cái quán bán nước, thè lè ra mép đường đi, chẳng biết là thờ
vị thần chi mà coi bộ sầm uất hết sức. Một năm 360 đêm, đêm nào
cũng như đêm nào, khói hương nghi ngút, đèn nến bập bùng, đàn
bà con gái đến lễ đông như nêm cối; có khi lễ trên hè không hết, lễ
xuống cả dưới vệ đường, làm cho mình nhiều lúc đi qua trông thấy
mà sợ thay, -vì nếu có hai chiếc tô tô gặp nhau ở đó, thì không
khéo có kẻ mất mạng. Lạ nhất là bất kỳ bà nào, cô nào, hễ đã bước
đến cửa đền, thôi thì đầu ai đầu nấy, gật lấy gật để, trông như
mấy chục cái chày giã gạo cùng một lúc. Coi cho kỹ thì những
người đến lễ đây, phần nhiều là những ả má phấn môi son, nếu
không trông thấy ba chữ "Nghiễn thiên muội" ở trên cửa đền, ai
cũng phải đồ là đền thờ vị thần mày trắng. Trước kia mình vẫn
tưởng vì đền này thần thiêng cho nên đông khách lễ bái, đến nay
xét ra, mới biết sự đông khách đó không tại thần thiêng chỉ tại
"được đất". Bởi vì ở đó có phải chỉ có một mình cửa đền ấy mà thôi
đâu, hai bên tả hữu còn có hai cái "xăm" nữa, nghe nói cả hai đều
được "đêm đêm hàn thực, ngày ngày nguyên tiêu" tất cả -theo câu
tục ngữ: "tốt đất, cò đậu", thì có lẽ phố Hàng Trống là chỗ đất tốt,
cho nên một đền hai "xăm" đều phát phúc như thế, không biết
mạch đất từ ngôi đền chạy sang hai ngôi "xăm", hay là từ hai ngôi
"xăm" chạy về ngôi đền? "Xăm" ở thành phố thì là sự bất thường
không lạ, duá có ngôi đền quái gở ấy mà lại lù lù mọc ở Hà thành
thì thật chướng mắt. Nếu có người Anh hay người Nhật qua đó,
bụng họ tất phải hỏi thầm:
"Làm sao ở chỗ đô hội lớn của một xứ thuộc địa nước văn
minh mà lại có chỗ kỳ khôi như vậy?" Nào các ông nghị viên thành
phố ở đâu? Mọi ngày các ông hay soi xét những ngõ dơ phố bẩn mà
xin sửa sang kia mà, cái ngôi đền Hàng Trống này đối với con mắt
người ngoại quốc chẳng qua như đống rác ở giữa phố vậy. Các ông
mần thinh sao đành?
MƯỜI NĂM NỮA BÁO CHÍ BẮC KỲ SẼ CỔ ĐỘNG ĐẾN
"THÒ LÒ" "QUAY ĐẤT"
Đó là lời một người tiên tri mới nói với mình hôm chủ nhật vì
được biết mình là người làng báo. Sau khi nghe hết câu ấy thì
mình lấy làm sửng sốt, căm giận mà hỏi lại:
- Ông rủa làng báo chúng tôi hay sao? Báo chí chết rét nào
mà lại cổ động những trò mọi rợ ấy?
- Tôi đâu dám rủa các ngài.
- Nhà tiên tri trả lời một cách điềm nhiên và tiếp:
- Các ngài là những người "hướng đạo"(!) cho quốc dân chúng
tôi kia mà. Tôi đâu dám rủa các ngài. Tôi bảo mười năm nữa báo
chí Bắc Kỳ sẽ cổ động "thò lò quay đất" đấy là theo quá khứ và
hiện tại mà đoán định tương lai, cái luật tiến hóa phải như vậy.
- ??? Có lẽ là "bình thường"
- Ngài ở làng báo, chắc là ngài nhớ hơn chúng tôi. Về quá
khứ, cách đây chừng hơn mười năm, một cuốn tạp chí hết sức cổ
động chúng tôi học Truyện Kiều nhờ đó quốc dân chúng tôi mới
biết bộ Tiểu sử của Hoa nô kia là Thánh thư phúc âm (!) của dân
tộc Việt Nam, rồi đó chúng tôi mới đua nhau nghiên cứu về khoa
"Kiều lẩy"; kế tiếp, một vài tờ báo cổ động cho quốc dân chúng tôi
học hát ả đào, nhờ đó chúng tôi mới biết cái khoa "quỳnh rượu hát
hãm" là một món quốc túy của thi nhân mặc khách ngày xưa, từ
đó chúng tôi xô nhau mà học đánh chầu nghe phách, sách dạy
đánh chầu in ra như bươm bướm. Thế là về quá khứ, chúng tôi đã
nhờ các ngài mà bước được hai bước khá dài trên đường tiến bộ
vậy. Còn về hiện tại, một bạn đồng nghiệp bằng quốc văn của các
ngài vẫn thường có đăng những bài giải nghĩa những ván tổ tôm
cắc cớ, quý nghiệp hữu sợ cổ động như vậy hiệu quả không được
chóng lại xuất bản tờ báo bằng Pháp văn, luôn luôn đăng những
kiệt tác dạy cho các hạng thanh niên tân học cái lối "nằm khàn bắt
phỗng, ăn dọc, đá ngang"; rồi đến một cuốn tạp chí vừa mới ra đời
kia, số đầu có một thiên đại bút (!) nói về môn học "xe pháo mã
tốt", số hai đã dạy cho chúng tôi cái bí yếu của những anh ôm túi
quân cờ, ngồi nơi đầu đường cuối chợ rồi. Phải, những món ấy là
những món lợi dân ích quốc (!) không có các ngài "chỉ lối đưa
đường" cho, chúng tôi đâu có biết. Từ thời kỳ các ngài khuyến
khích chúng tôi học Kiều học hát ả đào đến thời kỳ các ngài chỉ
dẫn chúng tôi đánh tổ tôm, đánh cờ tướng, chẳng qua trong vòng
mười năm. Theo luật tiến hóa, chắc là sau mười năm nữa, sẽ có
những ngài đem cái thành tâm đối với chủng tộc giang sơn đầy ăm
ắp, nóng hôi hổi mà cổ dộng cho quốc dân học những món quay đất
thò lò, vì nó cũng là món chơi đặc biệt của dân tộc Việt Nam bấy
giờ quốc dân chúng tôi sẽ nhờ ơn các Hát hãm lúc uống rượu quý.
ngài mà được mở mặt rạng mày với thế giới, "chen vai thích cánh"
với các nước phú cường. ân đức của các ngài thật lớn lắm vậy.Nói
đến đây, mình toan hỏi vặn lại thì nhà tiên tri kia trông mình mà
nhổ toẹt xuống đất một bãi rồi ngoảnh mặt đi.
Thục Điểu Đông Phương số... 17-3-1931
MẤY LỜI NHẮN NHỦ CÁC ÔNG ĐỒ
Đời vua Thái tổ Thái tôn, ngòi bút lông còn làm chúa tể cõi
học đất Việt, thế lực của các ông đồ mạnh lắm kia chứ, ông đồ
muốn ngang thì ngang, muốn dọc thì dọc, thiên hạ chẳng ai dám
trêu, lúc ấy vô phúc trêu đến ông đồ, thì ôi thôi! Nguy hiểm là
nguy hiểm. Các cụ truyền lại:
Một khoa thi cuối đời Tự Đức (trường thi Hương còn ở Hà
thành) có con gái của ông bá hộ K. là người giàu nhất thành phố,
chỉ nói chua với ông đồ một câu, thế mà đồ nọ rủ đồ kia, trong một
lúc kéo đến hàng nghìn, hò nhau phá nhà cụ Bá! Lính phòng
thành không dám can thiệp. Cực chẳng đã cụ Bá phải chuồn cửa
sau và kêu với quan tổng đốc. Lập tức quan tổng đốc tự mình đến
điều đình, bắt cô con gái cụ Bá K. phải ra trước mặt ông đồ mà tạ
tội. Bấy giờ các ông đồ mới tha cho. Kinh không? ông đồ thời ấy
chẳng khác gì quân Tam phủ đời Lê, mình nghe chuyện mà dựng
tóc gáy! Từ ngày lối học "chi hồ giả giã" đã chuyển sang lối "a, b, c"
thế lực ông đồ chẳng còn chút nào, điều đó ai cũng biết, không cần
phải nói. Trò đời, giậu đổ bìm leo, vận hội ông đồ đã suy, thiên hạ
hay tìm ông đồ mà kiếm chuyện, bấy giờ ở Hà Nội này, vẫn có kẻ
theo chân ông đồ mà xét nét từng tý, ông đồ hở đâu là họ chộp
đấy... Quả có thế thật, trong rừng "nhà hướng đạo cho quốc dân"
(!) bây giờ vẫn có thói giả mạo như vậy, thầy đồ thì hay nói đến Nã
Phá Luân, Hoa Thịnh Đốn, Lư Thoa, Mạnh Đức, Tư Cưu mà thầy
ký thì luôn luôn nhắc đến Khổng tử, Mạnh tử, có khi thầy còn giở
cả Trang tử, Lão tử nữa kia. Nhưng mà có ăn thua gì, đụng đâu
trật đấy, thầy đồ cũng vậy, thầy ký cũng thế... Vậy xin có lời cảnh
cáo mấy ông đồ rằng:
Người ta xét nét các ông là như vậy đó, mà nay về sau, cái gì
không biết thì xin các ông chớ nói, nhất là về môn học Phơ lăng xe!
Vả chăng các ông không biết môn học này, cũng chưa chắc đã là
dốt bởi vì cụ Khổng nhà ta đã dạy "biết đấy là biết đấy, chẳng biết
là chẳng biết ấy biết vậy" kia mà.
HỠI ĐỒNG BÀO VIÊT NAM, CHÚNG TA NÊN VẼ MÌNH
CHO CON CÁI CHÚNG TA
Dẫu rằng cuộc đời mỗi ngày một mới, mà ở xã hội "con rồng
cháu tiên" thiếu chi người ưa những lối xưa. Cái phong trào "bảo
tồn quốc túy" đã im đi một độ, độ này xem chừng lại thấy rục rịch
nổi lên: tờ báo nọ hô hào bạn gái cứ giữ gìn cái sinh hoạt ở cửa
buồng xó bếp, tờ báo kia cổ động dân quê nên duá trì cái thói tục ở
góc điếm, sân đình, lại một cuốn tạp chí nọ hàng tuần đem những
cặn bã ở cửa Khổng, sân Trình mà nhồi mãi vào óc độc giả! Tuy
rằng người ta chưa cho mình nghe những tiếng la "bảo tồn quốc
túy", nhưng kỳ thực cái không khí bảo tồn quốc túy vẫn tích tụ ở
giải đất từ núi Ngôi đến bến Nhị mà lan tràn ra khắp nơi. Phải,
bảo tồn là phải! Những món đó đều là những tinh hoa trong văn
minh An Nam, chẳng bảo tồn, lỡ ra mà nó tiêu diệt đi thì dân tộc
An nam sinh tồn sao được. Phải, bảo tồn là phải! Có khuyến khích
được nhiều người bảo tồn những món đó mới xứng đáng là cơ quan
độc nhất của phụ nữ, mới xứng đáng là hướng đạo cho quốc dân,
mới xứng đáng là hướng tiền phong trong đội quân tiến thủ (!)
Nhưng có điều đáng tiếc là những cái quốc túy mà mấy tờ báo chí
đang hô hào bảo tồn đó mới là những cái, những món quốc túy về
đời trung cổ mà thôi - tục ngôi thứ trong đình, mới đặt ra từ Trần
Thủ Độ, món cặn bã của đạo Chu Khổng, cũng mới tải vào từ khi
Sĩ Nhiếp làm thứ sử, còn cái lý thuyết nam ngoại, nữ nội tuy
không biết xuất hiện từ đời nào, nhưng "cổ" lắm đi nữa chẳng qua
cũng mới từ khi đời Sĩ Nhiếp là cùng, vì nó cũng là một thứ "hàng
Tàu" nhập cảng
- Đã bảo tồn thì bảo tồn hẳn những món quốc túy thượng cổ
kia có được không? Tội gì mà bảo tồn những món quốc túy trung cổ
ấy? Xét trong quốc sử, cái tục "vẽ mình" là cái văn minh rất cổ của
dân tộc An Nam, vì nó xuất hiện từ đời vua Hùng kia. Đời đó dân
tộc ta còn sống về nghề mò tôm bắt cá, nhiều người xuống nước bị
thuồng luồng ăn thịt, các cụ ta mới phát minh ra kiểu vẽ mình đó,
nghĩa là đẻ con ra thì dùng chàm mà vẽ vào mình nó những con
rồng, con rắn, con ba ba v.v... để cho nó lúc lớn lên khi nào xuống
nước, các giống dưới nước sợ mà phải tránh. Tục đó còn truyền mãi
đến đời vua Anh Tôn nhà Trần mới bỏ. Món quốc túy ấy cổ biết
chừng nào! Có lẽ không cái gì là cổ hơn nữa. Nếu món ấy mà bảo
tồn được thì dân tộc An Nam mới xứng đáng là dân tộc An Nam.
Vậy tôi xin thay mặt các nhà bảo tồn quốc túy mà hô lớn lên rằng:
"Hỡi đồng bào Việt Nam! Chúng ta nên vẽ mình cho con cái
chúng ta".
Thục Điểu Đông phương số 394 -30-3-1931
ĐỪNG GIỞ NHỮNG NGÓN ẤY RA NỮA
TÔI CAN MẤY ÔNG NGÀY NAY
Từ khi còn là đời báo Phong hóa cho đến bây giờ đổi sang đời
báo Ngày nay, chưa ai từng thấy mấy ông trưởng giả ở hai cơ quan
ngôn luận ấy sốt sắng với một việc gì, ngoài cái việc dùng môn giáo
dục "đánh phấn, xoa nước hoa, lựa màu quần áo" để câu nhử bạn
đọc phụ nữ. Chẳng những không sốt sắng, có khi mấy ông ấy còn
dùng nhiều ngón gian quyết phá thối công việc chính đáng của
người khác nữa. Đem giọng trào phúng pha vào những chuyện
quan hệ, khiến cho trong óc độc giả, chuyện quan hệ hóa ra
chuyện khôi hài, cố nói sai lạc sự thực, khiến cho trong óc Chỉ việc
họa sĩ Nguyễn Cát Tường (thường ký Lơ muya) cổ động phong trào
"vui vẻ trẻ trung", vẽ các kiểu quần áo, dạy cách trang điểm cho
phụ nữ. độc giả không thể phân biệt phải trái. Ấy là những ngón
sở trường của mấy ông ấy. Người ta vẫn tưởng đối với những việc
không quan trọng mấy, thì mấy ông đó mới dùng ngón ấy, cho nên
không ai chỉ trích làm chi. Chẳng ngờ đến việc quan hệ tới vận
mệnh dân nước, mấy ông đó cũng cứ giở những ngón ấy ra...!
Cái việc lựa chọn đại biểu, thảo tập nguyện vọng để chờ đưa
cho ủy ban điều tra đối với óc người Việt Nam, ai chẳng coi là việc
quan trọng, dù rằng chưa chắc ủy ban đó có sang hay không. Sống
trong hoàn cảnh eo hẹp đã mấy đời nay, bây giờ bỗng có một dịp,
có thể mong rằng may ra quốc dân được khỏi cảnh ấy, việc như
vậy, chẳng là quan trọng, thế nào nữa mới là quan trọng? Hiện
nay, hầu hết cả nước, nhất là anh em trong Nam, đương sốt sắng
lo lắng cho cái việc ấy được có kết quả tốt đẹp, người thì tự xuất
tiền nhà sang tận Pariạ để vận động cho Đông Dương Đại hội,
người thì vì việc hô hào Đông Dương Đại hội mà không quản đến
những chuyện bị bắt, bị giam. Thế mà mấy ông đồng nghiệp ở
đường Quan Thánh lại định làm cho việc quan trọng thành ra việc
"lùng tùng xòe". Cái đó mới nhẫn tâm chứ! Chúng ta hãy giở tập
tuyển báo Ngày nay số 28 coi thử cái nhẫn tâm của mấy ông ấy
như thế nào? Trang trào phúng, dưới cái đầu đề "Trung thu thỉnh
cầu" mấy ông Ngày nay vẽ mấy cái hình một đứa con nít xin với ủy
ban điều tra cho mình ông trăng trên trời, thế mà mấy ông bảo
rằng "Ai thảo tập nguyện vọng nên xin những điều vừa vừa chứ
thôi! Nếu xin những việc to lớn thì cũng như những đứa con nít
muốn xin mặt trăng". Phải vậy không? Thử hỏi trong vụ thỉnh cầu
này, xin những chuyện gì là to lớn? Chưa thấy ai bàn xin cho nước
Nam độc lập. Người ta chỉ nói nên xin đổi lại chính phủ hiện thời,
hoặc trực trị, hoặc tự trị, to lớn đến thế là Phong trào Đông Dương
Đại hội (1936) phát động phong trào lấy nguyện vọng dân chúng
để đưa cho ủy ban điều tra của Gô-đa sắp sang Đông Dương. cùng.
Cũng thừa biết rằng xin vậy, chưa chắc đã được, nếu như ủy ban
điều tra có sang đến đây. Nhưng dù không được đi nữa, thì xin vậy
cũng có thể tỏ cho bên Pháp biết rằng: dân Nam đã muốn như vậy.
Cái "xin" lần này tức là bậc thang cho cái "xin" lần sau:
Cái xin ấy thật không con nít, và có hão huyền cũng không
đến nỗi khôi hài như xin mặt trăng. Mấy ông bảo là con nít, mấy
ông bảo là xin mặt trăng, không những là khinh mạn người ta, lại
còn hiểm độc là khác. Bởi vì những bức vẽ ấy có thể khiến cho
nhiều người tưởng những việc kia là trò khôi hài của con nít mà
nhụt mấy cái chí hăng hái hành động. Đó là tranh vẽ, còn lý luận
nữa. Trong bài Dân nguyện mấy ông nói rằng:
"... Miệng nói vì dân vì nước, mà họ chỉ vì đảng phái, hơn nữa
vì người". Sao lại cố nói ra ngoài sự thực như vậy? Bảo rằng đảng
phái thì đúng. Hiện trọng vụ này, Bắc kỳ quả có hai phái: phái ông
Phạm Huy Lục và một phái nữa không hợp tác với phái ấy. Vì sao
lại có phái không muốn hợp tác với phái ông Lục trong bài "Dân
chúng không "hoan nghênh việc làm của bọn ông Lục đăng ở
Tương Lai số 1 đã nói kỹ rồi. Điều nên nói thêm là, một đằng chủ
trương đưa tập Dân nguyện lên phủ thống sứ, một đằng chủ
trương đưa thẳng tập ấy cho ủy ban điều tra. Chưa nói đến ý kiến
khác nhau, nhưng một chỗ chủ trương không giống nhau đó, phái
nọ cũng không thể nào hợp tác với phái kia được. Còn bảo người ta
chỉ vì đảng phái, vì người, thì không đúng. Những người không
hợp tác với phái ông Lục, là vì việc làm của phái ấy có những tính
cách chuyên quyền, độc đoán, lén lút, mờ ám v.v... Không phải họ
vì đảng phái hay cá nhân nào. Sao lại nói nộm như thế? Cũng
trong bài ấy, mấy ông Ngày nay viết rằng:
"Chỉ đệ những bản thỉnh cầu lên phái bộ điều tra. Chẳng lẽ
ai lại đi thỉnh cầu những điều khốn nạn. Mà ai để cho làm như
thế!". Câu nói vô lý làm sao! Những người có óc khốn nạn, họ sẽ
thỉnh cầu những điều khốn nạn, chứ ai? Mấy ông chưa đọc sử
Nam nên mới có gan nói liều đến thế. Nếu mấy ông có đọc sử Nam,
mấy ông biết rằng nước Nam có Trần ích Tắc, thì chắc không dám
nói như vậy. Hạng người như Trần ích Tắc thì đời nào mà không
có. Sau hồi âu chiến, Wilạon sáng lập ra thuyết "dân tộc tự quyết,
bấy giờ An Nam cũng đã có người bày mưu tự quyết thay cho nước
Nam đây mà! ấy là một hạng khốn nạn. Còn một hạng nữa - cái
khốn nạn sau đó chính ở trong óc mấy ông mà ra. Cũng trong bài
ấy, mấy ông khuyên hạng trí thức và các nhà báo nên để ý tìm hộ
nguyện vọng cho dân quê để đưa vào tập dân nguyện. Mấy ông
trưng ra năm sáu vấn đề, có cả vấn đề tuần phòng. Mấy ông nói
rằng:
"Dân quê có được ngủ yên hay không, những phương pháp
hiện thời thi hành để giữ sự yên ổn nơi thôn quê có hiệu nghiệm
hay không tưởng không phải là những điều không đáng để ý đến".
Thấy mấy ông lo cho thôn quê mà buồn. Ở thôn quê, tuần phòng là
việc thiết thân của họ, và họ có toàn quyền tự do, nên họ làm việc
được rất hoàn toàn, chẳng cần mấy ông phải để mắt đến. Vả, giá
cho việc ấy không được hoàn toàn đi nữa, cũng không có ai điên rồ
mà đem sự dân quê ngủ không yên vào tập dân nguyện. Nếu như
mấy ông đưa cả việc ấy vào tập dân nguyện, nay mai phái bộ điều
tra sang đây ngó thấy, thì người ta sẽ tưởng tượng ra sao? Tôi chắc
người ta sẽ bật cười mà nói với nhau rằng: "khốn nạn". Cái lối
thỉnh cầu khốn nạn ấy, chẳng phải chỉ riêng mấy ông mới có. Còn
nữa. Còn có người muốn xin ấn định tiền thuế cho phu xe. Còn có
người muốn xin cho dân An Nam lại học chữ Hán. Còn có người
muốn xin đừng thi hành luật tuần lễ 40 giờ. Những người ấy cũng
như mấy ông đều trực tiếp hoặc gián tiếp thuộc về bọn ông Lục tất
cả. Như thế, khốn nạn hay không khốn nạn? "Ai để cho làm như
thế", mấy ông tự mắng là phải. Nhưng "ai" đó là ai? Chắc không
phải bọn ông Nguyễn Tường Tam, những người về phái ông Lục, vì
các ngài đều là xuất sản gia của những điều thỉnh cầu khốn nạn
kia rồi. "Ai", đó hẳn là những người phản đối lại phái ông Lục.
Không cho phái ông Lục được làm như thế, phải dùng cách gì? Nếu
hợp tác với phái ông Lục đến khi quyết nghị việc gì tất bị thiểu số,
không thể ngăn nổi những việc độc đoán kia, thế thì ai đứng vào
địa vị ấy, mà không phải lập riêng một phái? Cớ sao mấy ông lại
nói nộm là "họ chỉ vì đảng phái, vì người". Tóm lại một câu: mấy
ông Ngày nay thật là đủ ngón gian quáệt, nhưng mà những ngón
ấy bây giờ đã bại lộ rồi! Tôi can mấy ông không nên giở lại nữa.
Đối với việc thảo tập dân nguyện, mấy ông đừng cổ động người ta
đưa những điều vụn vặt khốn nạn vào tập ấy.
Lộc Đình Tương Lai số ... 11-10-1936
XIN NHỜ LƠMUYA CÁT TƯỜNG VIÊC NÀY NỮA
Càng ngày càng thấy Cát Tường Lơ muya là bậc vĩ nhân.
Nhà họa sĩ ấy nếu mà vẽ khéo một chút, chắc cũng nổi tiếng như
các họa sĩ khác. Sự thi đậu thứ bét trường Mỹ thuật của ông ta
chẳng cấm ông ta đem cái óc cách mệnh mà tô điểm cho nước Việt
Nam. Cuộc cách mệnh bắt đầu từ mấy cái gấu quần, gấu áo của
bạn gái kẻ chợ mà cách mệnh đi. Trước đây, chừng năm, sáu năm
chi đó, gấu áo gấu quần của bạn gái kẻ chợ đâu được văn minh
như ngày nay. Nó còn bàn bạt bằng cái quân bài kia chứ. Nhờ về
một bầu máu nóng của họa sĩ họ Lơ tuôn xuống dưới ngòi bút vẽ,
mà đến bây giờ, bao nhiêu gấu quần gấu áo... hủ bại ngày xưa đều
bị đánh đổ tất cả. Cuộc cách mệnh ấy đã lan đến các cụ cao mũ dài
áo. Các cụ đang hăng hái cách mệnh cái áo thụng cho khỏi mang
tiếng hủ bại. Việc này rất nên có! Không cần nói đến quốc thể.
Chúng ta cứ tưởng tượng một cụ có râu hay không râu, náu mình
trong tấm áo màu lam, cổ tràng vạt, hai ống tay bằng hai cái cống
tháo nước, đứng trước một bà kẻ lông mày, bôi môi son, bận quần
trắng, đi giày cao gót, phỏng chừng bà nọ có thể nhắm mắt mà hôn
cụ kia một cái được chăng? Sợ cụ thì sợ thật, còn hôn cụ quyết
không dám. Theo tin của một tờ báo hàng ngày, kiểu phẩm phục
đó, nhà họa sĩ nọ vẽ theo lối lễ phục của sứ thần các nước đời xưa.
Nghĩa là áo kiểu tây, mà khi mặc, đít nó xòe ra như cái đuôi tôm.
Các cụ cho thế là được. Chắc rằng các bà ở nhà cũng nhận như thế
là được. Rồi đây trên trường quan lại, dân chúng sẽ vui vẻ được
trông các cụ tân thời, cũng đẹp mắt như ngày nay được nhìn các
bà tân thời. Trong mấy năm trời, nhà họa sĩ đó đã làm đỏm cho
phụ nữ, lại làm đỏm cho các quan, thượng lưu nước nhà, họ sắp
sửa đẹp đẽ cả rồi. Bây giờ tôi muốn ông mỹ thuật thứ bét hãy ngó
mắt đến kẻ hạ lưu, thôn quê... Giả sử mẹ Phó nhà tôi mà cách
mệnh được cái váy của nó, thì tôi rất cám ơn ông.
Phó Chi Tương Lai số... 4-2-1937
GIẾT NGƯỜI LẤY CỦA
Biết vài tiếng Pháp mà không có học thức thì nên đi làm
thầy cò. Biết vài chữ Hán mà không có kinh nghiệm về nghề thuốc
thì nên đi làm nho ở phủ huyện. Biết mặt vị thuốc mà không có
học thức kinh nghiệm về nghề thuốc thì nên gánh bồ về các chợ
mà bán thuốc cái, nếu không đủ tiền mở hiệu buôn thuốc sống ở
tỉnh thành. Ngày nay không phải là ngày mà những kẻ không đọc
sách thuốc, không học nghề thuốc được tự do núp sau những biển
"dược phòng", "y quán", "dược xá", "y viện" hay "gì gì đường" đó,
dùng dao cầu thuyền tán, ống tiêm ống thụt giết hại dân nghèo để
lấy tiền nuôi vợ nuôi con và làm giàu.
*
* *
Thưa các ngài. Trong cái xã hội của chúng ta ngày nay, hạng
người nào giỏi bịp và độc bụng hơn hết? Nếu đã xem xét một cách
kỹ càng, các ngài chắc không ngần ngại gì mà không nói rằng:
- Chỉ có hạng người ít học hay không học mà dám làm thầy
lang.
Thật thế. Một số rất lớn cụ lang, ông lang, chú lang, anh
lang kia đều là tổ sư, thánh sư, tiên sư và kỹ sư của nghề "bịp"...
gọi họ là "lang" hay coi họ là "lang" ấy là chúng ta tự lầm. Chữ
"lang" chỉ xứng đáng với những người có học thuốc biết chữa bệnh,
còn phường đại bịp kia đâu có "lang" một chút nào! Họ là thầy đồ
đọc cuốn sách nho không hiểu nghĩa. Họ là cậu học trò tây đi thi
tiểu học không đậu. Họ là kẻ "Hán tự không biết Hán, Tây tự
chẳng biết Tây", trong tay không có nghề gì nuôi sống lỗ miệng. Đi
ăn mày mà nhiều người cho, đi ăn cắp mà không bị tội, thì họ cũng
chẳng xoay ra cái nghề làm lang. Nhưng hai cái nghề kia không
phát tài lại nguy hiểm, cho nên họ phải giở đến cách lường gạt
người ốm. Nếu đã biết một vài chữ Hán thì họ học thêm ít tên, bài
thuốc Tàu rồi họ đóng vai thầy lang mốt cũ. Nếu có biết năm ba
tiếng Tây thì họ học thêm ít tên vị thuốc Tây rồi họ đóng vai thầy
lang mốt mới. Còn nếu chỉ biết có chữ quốc ngữ, ngoài ra không
hiểu một thứ chữ nào, thì họ tự xưng là làm thuốc gia truyền, rồi
mua vài cuốn sách thuốc quốc ngữ để tập lấy những câu nói sáo.
Trong lúc nghề thuốc còn lộn xộn, không ai có quyền được hỏi lý
lịch của người làm lang. Hễ mà họ có tủ thuốc, ô thuốc, có dao cầu,
thuyền tán, có tiêm, có thụt, có áo blouạe, ấy là họ lên mặt cứu
dân độ thế, cũng cho đơn, cũng bốc thuốc, cũng tiêm, cũng thụt,
cũng cao, đan, hoàn, tán, họ giở không thiếu trò gì. Các ngài nghĩ
xem, nghề thuốc có thể dễ dàng như vậy được chăng?
Một người đã thông chữ Hán muốn học thuốc Tầu, theo thầy
chữa bệnh hàng mười mấy năm, đọc đi đọc lại mấy trăm pho sách
mà khi thành nghề, vẫn còn có bệnh chữa lầm. Một ông đốc tờ
chưa chắc chữa bệnh khỏi sai, sau khi đã trải sáu, bảy năm trời
vừa làm vừa học ở nhà thương. Huống chi bọn đại bịp đó, ngoài
ngón bịp ra, hầu hết là kẻ ngu dốt. Vậy mà hôm trước còn là thầy
đồ dốt, còn là anh thi trượt bằng tiểu học, còn là đứa lang thang vô
nghề nghiệp, hôm sau đã là "lang" rồi, phỏng chừng họ có biết
nghề thuốc là cái gì nữa! Chúng tôi dám nói quyết rằng: họ ra
đóng vai thầy lang, mục đích không cốt ở sự chữa bệnh.
"Mỗi người bị lừa một lần thì tôi sẽ thành một nhà triệu
phú". Đó là câu của một thầy lang giả hiệu đã có cửa hàng đồ sộ ở
Hà thành trả lời chúng tôi trong khi bị hỏi dồn đến cùng đường. Té
ra sự làm thuốc của họ chỉ là một sự lường đảo, ăn cắp. Nhưng nếu
họ lường đảo, ăn cắp bằng cách khác, chúng ta chỉ mất tiền, mất
của mà thôi. Cái độc ác là họ lại lường đảo, ăn cắp bằng nghề làm
thuốc, cho nên chúng ta đã mất tiền cho họ lại mất mạng về họ
nữa. Các ngài đừng tưởng thục đại, dương qui, đẳng sâm, bạch
truật là không chết người. Các ngài đừng tưởng thủy ngân, khinh
phấn, hoạt thạch, hải kim sa là không hại gì. Các ngài cũng đừng
tưởng Gonacrine, vaccinantigonoccocique mà người nào cũng có
thể tiêm được. Không thế đâu. Nếu không biết dùng, nếu dùng
không trúng bệnh, nước lã cũng giết người được nữa là thuốc. Biết
vậy, mà nhiều người đành nhắm mắt để cho họ lừa, nhắm mắt
đem tính mệnh mà giao phó cho họ. Chỉ vì chúng ta phần nhiều là
hạng người nghèo. Nghèo không có tiền, lúc ốm không lấy đâu mà
tìm chỗ chữa bệnh chắc chắn, nên phải đánh liều dùng thuốc của
họ, phó sống thác cho sự rủi may. Không ai ngờ rằng đã mượn kẻ
mù đưa đường, thì không có may chỉ có phần rủi. Trong chúng ta,
chắc đã có người uống thuốc của họ. Thuốc chủng trừ vi khuẩn
bệnh lậu cầu nhiễm huyết.
Chúng tôi muốn hỏi có ai khỏi bệnh hay không? Một nghìn
lần không. Nếu có khỏi nữa cũng chỉ là sự hú họa. Bệnh không
khỏi, tiền vẫn mất. Vì vậy mà họ mới chóng làm giàu. Các ngài
hãy ngắm mà coi. Biết bao kẻ không nghề, không nghiệp, sau ít
năm đóng vai thầy lang, đột nhiên có ô tô, có nhà lầu, có ruộng đất
liền khu ở quê rồi. Mỗi lần họ mua ruộng đất, cất nhà lầu, sắm ô
tô thì bao nhiêu mạng vô tội chết oan về họ! Giặc cướp thuở xưa
không đến nỗi tàn ác như vậy. Nói theo sách cổ "tội ác của họ nay
đã đầy sâu". Đứng về phương diện xã hội, chúng tôi tưởng không
nên dung thứ mãi cho một hạng "giết người lấy của" ấy cứ dùng
tính mệnh dân nghèo để làm giàu! Nhưng mà trị họ bằng cách
nào? Gần đây, nghe có nhiều người muốn lập ra một hội y giới, nói
rằng mục đích cốt để chấn hưng nghề thuốc. Việc đó, chúng tôi rất
hoan nghênh nhưng chỉ lo cho lúc lựa người vào hội. Ông nào
đáng, người nào không đáng là hội viên, đó là một điều rất khó
phân biệt. Mà nếu không chịu phân biệt, ai có dao cầu thuyền tán
đều cho vào hội tất cả, thì những kẻ "giết người lấy của" sẽ mượn
thanh thế của hội mà lấy thêm của, giết thêm người. Một hội như
vậy, chẳng những vô ích mà còn hại cho xã hội giống nòi nhiều
lắm. Theo ý chúng tôi, muốn trừ hết bọn "giết người lấy của" chỉ có
một cách:
Đem hết những cách làm thuốc, khóe làm tiền của họ tuyên
bố lên báo cho mọi người đều biết.
Tuệ Nhỡn và Thái Công Tương Lai số... 4-2-1937
KÍNH MỪNG VIÊT NAM TỔ QUỐC VÀ TIẾC THAY
CHO LÀNG BÁO CỦA NÓ
Trời thật hay dọa tổ quốc Việt Nam, nói cho đúng, cái tổ quốc
của báo Tổ quốc Việt Nam. Hồi cuối năm ngoái, khắp xứ Đông
Dương đều nô nức về những cuộc đón tiếp hai ông đại biểu của
Chánh phủ Bình dân, người ta ngong ngóng sau chân hai vị đại
hiến, sẽ có những cuộc cải cách tốt đẹp. Thì sét đánh ngang trời,
cái tổ quốc của tờ báo "Tổ quốc Việt Nam" bỗng chốc xảy ra một tin
quan hệ như tin trời đổ. Ông Võ hiển Hoàng Trọng Phu từ chức
tổng đốc Hà Đông. Trời đất ơi, ai mà yên dạ cho đành! Con rồng
cháu tiên của tổ quốc, nhất là những người Bắc Kỳ, hết thảy đều lo
ngay ngáy. Họ sợ cái góc tổ quốc phía Bắc sẽ đổ đánh ụp một cái.
Phải lắm! Năm tỉnh đàng ngoài có năm tổng đốc, ví như nhà có
năm cột. Từ chức đi một ông tổng đốc Hà Đông, ấy là nhà thiếu
một cột, đứng sao được mà chẳng đổ! Mà tổ quốc đã đổ, thì quốc...
dân sẽ ở vào đâu? Nếu quả vậy, há chẳng là trời gieo vạ lớn cho tổ
quốc? Phúc bảy mươi đời, tổ quốc lại sinh ra báo Tổ quốc Việt
Nam.
"Trong dịp quốc dân đều phập phồng lo sợ thì cái báo "con
cầu con cưng" của tổ quốc ấy đã có bài sớ vãn lưu ông Hoàng đăng
trên trang nhất. Nghe nói bài sớ ấy, lời rất thiết tha cảm động,
chẳng kém gì văn chầu bà chúa Thượng ngàn. Dầu vậy mặc lòng,
ông Võ hiển vẫn không ngoảnh lại, cái đơn từ quan đã đệ lên phủ
thống sứ, nhất định ông không rút ra. May sao, trời cũng dọa chơi
chứ không làm thực. Bước sang đầu xuân tức thì đã có tin mừng.
Ông Võ Hiển đã bị giữ lại trên ghế tổng đốc Hà Đông thêm một
hạn không nhất định. Có thế chứ. Bài sớ của tờ báo "Tổ quốc Việt
Nam" thật đã thấu đến tai trời, mới có sự tốt lành ấy. Lá sớ quí
hóa đó thật là đáng giá ngàn vàng.
Nếu không, nếu tỉnh Hà Đông bị thiếu một ông tổng đốc, thì
tổ quốc có khi sẽ thành tổ... cò, chúng mình còn mặt mũi nào mà
sống ở đời được nữa! Vạn tuế! Tổ quốc vạn tuế, vạn vạn tuế! Tuy
vậy, mừng cho tổ quốc bao nhiêu, tôi cũng tiếc cho làng báo bấy
nhiêu. Tương lai số 1 đã tỏ ý mừng rằng Làng Báo chúng tôi sẽ
được một viên chúa tể của Làng Quan làm bạn đồng nghiệp, thế
vào cái chân ông Thượng Giáo dục đi mất năm xưa. Bây giờ ông
Hoàng đã vì tổ quốc mà ở lại, cố nhiên đẹp cho tổ quốc, song cũng
thiệt cho Làng Báo. Không biết bao giờ trời mới bù lại chỗ ấy?
Phó Chi Tương Lai số... 25-2-1937
BÃI NƯỚC BỌT TRÊN MẶT MỘT ÔNG TUẦN PHỦ
Đây là mặt ông Nguyễn Doãn T... tuần phủ hưu trí, hiện
đương làm việc thả lãi và vẫn vui cảnh "cố viên tùng cúc" ở làng
Du Lâm. Bãi nước bọt ở trên mặt ngài không phải nước bọt của các
cô nhỏ, cậu nhỏ nhà ngài, mà là nước bọt của ông Nguyễn Phương
Đ... nguyên thông phán phủ toàn quyền, cùng họ với ngài và
đương làm chánh hội làng Du Lâm. Lịch sử bãi nước bọt ấy hơi
dài. Số là ở làng Du Lâm, họ Nguyễn của ông T... và ông Đ... thuần
túy là một quý tộc, đã lắm quan, lại đông người hơn hết các họ
bách tính. Xưa nay quyền chánh trong làng đều ở họ này, mấy họ
khác chỉ là bọn phục tùng mệnh lệnh. Đối với họ Nguyễn, dân làng
Du Lâm quen gọi bằng tiếng "quan họ".
Vậy mà từ ngày nhận chức chánh hội, ông Đ... lại không trị
dân bằng chế độ phong kiến. Nghĩa là ông ấy không muốn cách
biệt với bọn bách tính, cho họ được ngồi ngang với mình khi bàn
các việc của làng. Hơn nữa, ông ta còn làm mấy việc chỉ có lợi cho
bình dân, không lợi cho quý tộc. Một người đại thần phong thể như
ông T... cố nhiên không thể vui lòng với những chứng bệnh lạ lùng
ấy của ông Đ... Mích lòng cụ lớn hơn hết là việc quân cấp công điền
mà ông Đ... cố ý muốn làm. Làng Du Lâm chẳng phải là xóm Hoa
Lâm của nhà Lý à? Công điền làng ấy đã chiếm một phần rất lớn
trong địa giới! Nhưng mà đến hồi gần đây, số ruộng công ấy bị hóa
thành ruộng tư rất nhiều, những ruộng chia cho trai làng chỉ có độ
hơn một nửa. Thình lình có lệnh của ông công sứ Bắc Ninh bắt
phải chia lại số ruộng công ấy. Nếu là người không muốn lôi thôi
mất công, thì thôi, ruộng công còn bao nhiêu, chia cho dân đinh
bấy nhiêu, miễn là công bằng, dân cũng nhớ ơn lắm rồi. Ông Đ...
không thế, cứ muốn theo đúng địa bạ Gia Long, móc hết những số
ruộng công đã bị hóa làm ruộng tư mà chia luôn thể. Cái khó chịu
của ông T... là ở chỗ đó. Bởi vì trong những ruộng tư của ông tuần
này lại có một thửa hay nhiều thửa đã bị ông Đ... và dân làng Du
Lâm giở đến căn cước của nó mà bảo nó là ruộng công ngày xưa.
Việc đó tuy rằng đích thực, không thể chối cãi, nhưng ông T... vẫn
có quyền xích mích với ông Đ... Cách đây không lâu, bỗng có lá đơn
của mấy ông tộc biểu đệ lên tòa sứ Bắc Ninh kiện ông Đ... về mười
sáu khoản hà lạm. Theo sự dò la của ông Đ... thì vụ kiện ấy do ông
T... cầm đầu cho lũ nguyên đơn. Với một người đã có bộ mặt Châu
Xương như ông Nguyễn Phương Đ..., vụ kiện không có sự thực kia
chính là mớ lửa đốt cho cơn giận bùng lên. Một hôm, giữa đám cỗ
của người trưởng họ, ông Đ... hỏi thẳng ông T...:
- Có phải anh đã sai lũ tộc biểu đi kiện tôi không? Lẽ tự
nhiên là ông T... phải chối. Ông Đ... chỉ mặt ông T... nói tiếp:
- Thế thì anh là kẻ hèn nhát, không có can đảm tự nhận cái
việc mà mình đã làm, tôi phải nhổ vào cái mặt hèn nhát của anh.
Rồi một bãi nước bọt từ miệng ông Đ... nhẩy luôn sang mặt ông
T... Chuyện vẫn chưa hết. Ông T... còn lấy nhiều người làm chứng
mà kiện ông Đ... Ở tòa sứ Bắc Ninh. Khi ấy, ở tỉnh Bắc Ninh người
ta đã xét ra rằng mười mấy khoản của bọn tộc biểu đã kiện ông
Đ... đều là vu khống. Đến lúc nhận được đơn kiện của ông T..., ông
sứ nói với ông tổng đốc Bắc Ninh như vầy:
"Nếu ông tuần phủ Nguyễn Doãn T... cũng có công tâm lo
lắng việc dân như ông chánh hội Nguyễn Phương Đ... thì chúng ta
không phải mất công xét xử những chuyện lặt vặt như thế này".
Vụ kiện còn đương xét hỏi chưa xong, thì ông T... theo lời điều
đình của người trong họ, lên tỉnh xin rút đơn ra. Ngài không kiện
ông Đ... nữa. Bấy giờ việc mới kết liễu. Chuyện này xảy ra, những
người trong tỉnh Bắc Ninh đều biết. Họ đã thì thầm hỏi nhau:
"Không biết lúc ấy ông T... có rửa mặt không?". Chắc không,
vì cụ lớn là một viên quan thâm nho, mà trong sách nho đã chép
một chuyện rất hợp với chuyện của cụ. Ấy là chuyện Lâu Sư Đức.
Lâu Sư Đức nhà Đường có người em được cử làm thái thú châu
Đại, khi hắn sắp sửa tới nhậm, ông ta có dặn cần phải tốt nhịn.
Hắn nói:
"Từ nay nếu ai nhổ vào mặt tôi, tôi cũng chùi đi mà thôi". Sư
Đức chưa cho là phải, và bảo thêm rằng:
"Người ta nhổ vào mặt mày là giận mày đó. Nếu mày chùi đi
càng khích cho họ giận thêm. Phải để cho nó tự nhiên khô đi".
Thiên quan châm ấy có ghi trong bộ Đường thư. Ông T... khi mới
xuất chính ắt đã đọc rồi. Thế thì trong lúc làm quan, ông T... chắc
biết trước mình sẽ có ngày phải thực hành câu nói của Lâu Sư
Đức. Bây giờ hưu rồi, việc mới xảy ra, đó cũng là may mắn lắm.
Rửa chi cho tốn nước và hại xà phòng!
Phó Chi Tương Lai số... 1-4-1937
CỤ LANG BẦN
Vì cụ quê ở Bần Yên Nhân, nên người quen biết cụ thường
gọi là cụ lang Bần. Cụ giữ nghiệp dao cầu thuyền tán cũng là một
sự ngẫu nhiên, nhưng về sau các thầy địa lý vì nặng tình cơm rượu
đã tán rằng cụ được ăn về ngôi mả tam đại phát danh y. Nguyên
trước cụ làm việc phát vé tàu điện, nhân một buổi cụ phải giữ việc
dồn toa về nhà máy, bỗng thấy một quyển sách nhỏ, đóng giấy ta
bìa cậy, bỏ chơ vơ trên ghế ngồi. Cụ cầm lên xem, tuy không nhận
rõ là quyển gì, nhưng cũng đọc lõm bõm được mấy chữ trần bì, cam
thảo. Cụ biết ngay là một quyển sách thuốc của một ông hành
khách nào bỏ quên. Cụ đem về mượn ông đồ bên cạnh sang xem
cho biết quyển sách thuốc ấy thế nào. Ông đồ bảo đấy là quyển
sách thuốc gia truyền của họ Đào để lại, các môn thuốc, các chứng
bệnh đều đã lập thành cả. Cụ bèn thuê ông đồ mấy đồng để phiên
dịch quyển sách ấy ra quốc ngữ. Trước hết hãy làm thử mấy thứ
thuốc viên cho vợ bán, như thuốc cam, thuốc sài trẻ con, thuốc khí
hư huyết tích đàn bà v.v...
Chẳng ngờ làm bỡn mà ăn thật, khách tới lấy thuốc ngày
một đông; biết là một nghệ có thể kiếm ăn được, cụ bèn quẳng trả
"sà cột" cho nhà máy điện mà về. Nuôi một ông đồ làm gia sư để
làm cố vấn trong việc biên đơn bốc thuốc, sắm cả dao cầu thuyền
tán, nghiễm nhiên làm một ông lang chính thức. Môn thuốc của cụ
đã hay, mà cái môn nói khoác lại ghê gớm hơn nữa! Này đây một
cái mộng tưởng của cụ:
- Cái nghề thuốc của tôi còn là biến hóa vô cùng! Ông cũng
đã viết ở đây, về môn chữa thuốc tây thì còn ai hơn lão "Oa đề ba"
nữa, thế mà nhiều con bệnh đến cậy lão chữa, lão đã bó tay xin
chịu, mà đến tôi thì khỏi hẳn! Thực ra tôi vẫn phục lão về cái tài
mổ xẻ châm chích, tức là môn chữa ngoại khoa. Nhưng điều đó
cũng chẳng khó khăn gì, rồi nay mai ông sẽ biết! Tôi đã bỏ phí
năm mươi đồng để vận động cho con tôi được vào làm bồi phụ
trong nhà lão.
Cụ nói tới đây rồi ngó trước nhóm sau, thấy vắng vẻ cụ mới
nói:
- Tôi xin nói thực với ông câu này, xin ông giữ bí mật cho,
nếu tiết lộ ra thì con tôi không thể nào được ở yên trong nhà lão!
Tôi sửng sốt không hiểu vì duyên cớ gì mà ghê gớm thế, gặng
mãi cụ mới nói nhỏ vào tai tôi:
"Tôi quyết cho con tôi lọt vào đấy là chỉ cốt để ăn cắp nghề
của lão cho bằng được. Rồi cụ lắc lư nói:
- Ông phải biết phàm ai tài nghề gì mà chẳng muốn giấu cho
kỹ, dù cha con cũng chưa chắc truyền cho nhau hết phép. Đấy ông
xem, nhà nước mở ra trường thuốc chẳng qua là chỉ dạy cho học
trò biết một vài món loàng xoàng thôi chứ nào đã có ai tài được
như lão đâu, như thế chẳng phải là lão có môn thuốc bí truyền là
gì? Tôi biết thóp thế, nên mới chịu bỏ tiền ra lo chạy cho con tôi
vào đấy, cốt là vì nghiệp thuốc của tôi, chứ chạy tiền để làm anh
bồi phụ thì chạy làm gì. Chỉ vài năm nữa, con tôi ăn cắp được môn
thuốc bí truyền của lão thì về môn ngoại khoa như mổ, xẻ, châm,
chích đã có con tôi. Hai bố con khi đã thu được hết phép của đông
tây rồi thì còn ai địch nổi nữa".
Cụ nói rồi, dương cái mặt khờ khạo, nở một nụ cười đắc chí!
Tôi cũng cười hộ cụ cho thêm vui, rồi hỏi:
- Thế cậu cả nhà ta đã học được món gì chưa?
- Ôi chao! Ông tưởng dễ lắm đấy! Truyền nghề cho đã là khó,
đến ăn cắp nghề lại càng khó hơn nữa. Cho nên tôi vẫn khuyên
thằng cả nhà tôi phải kiên tâm cố chí lắm mới được, mới đến bảy
tám tháng thì đã ăn thua gì. Hiện công việc của cháu ở nhà lão chỉ
có lau bàn ghế, quét dọn buồng ăn buồng ngủ, cũng như ta, các cụ
khi xưa bắt đầu nhập môn cầu học cũng phải làm những công việc,
sái, tảo, ứng, đối là thường.
Tôi lại hỏi:
- Thế cậu cả nhà ta có biết khá chữ tây không?
Cụ giương cặp mục kỉnh mà đáp:
- Ấy, chữ thì cháu không biết, nhưng tôi đã đút cho anh bồi
đưa cháu vào mấy chục để cho cháu học tiếng, nên tuy chữ cháu
không đọc được, nhưng nói thì đã khá lắm. Vả chăng cái nghề
thuốc chúng tôi, chỉ cốt trong cho tin, nghe cho rõ là được, chứ bây
giờ lại học chữ đã thì ông tính đến bao giờ. Mình học là học tắt ông
nghe chửa.
Cụ nói tới đây thì bỗng có khách lại lấy thuốc, cụ đứng dậy
bỏ tôi mà đi, tôi ngồi lại thẩn thơ tự hỏi: từ bác vé xe, nhảy lên ông
lang, từ anh bồi phụ nhảy lên ông đốc tờ, chẳng biết bao giờ hai
cha con nhà ấy sẽ gặp nhau, mà lúc gặp nhau rồi thì cái kết quả sẽ
ra sao?
Đạm Hiên Thời Vụ số 1-8-2-1938
MỘT CÁI THẢM TRẠNG
Lúc bấy giờ, trời đã nhá nhem tối, trống mõ trong các làng đã
dồn dập thu không, hồi chuông chiêu mộ trong tam quan chùa
ngân nga gieo vào khoảng không gian tĩnh mịch để cảnh cáo cho
mọi người trong thôn sự kết liễu của một ngày. Những cái cảnh sắt
chốn thôn trang, nơi đồng ruộng đều bắt đầu chìm đắm trong cõi u
âm lặng lẽ. Trên con đường đất quanh co khúc khuỷu, còn thấy có
hai cái bóng đen đương mập mờ chuyển động. Một cái chớp
nhoáng trên không trung dọi xuống, người ta nhận thấy hai cái
bóng ấy là hai người đương ì ạch dìu nhau, một người thì cao lớn
lực lưỡng đương lễ mễ bên người thấp bé, lả lướt như chẳng buồn
đi. Hai cái bóng ấy dần dần tiến về phía cổng làng. Càng lại gần,
càng nghe thấy tiếng rên rỉ, rền rẫm. Tiếng người đàn ông thở hổn
hển như thiết tha khuyên nhủ:
"Cố đi mấy bước nữa, gần đến nhà ta rồi, mình cố bước lên
cho tôi đỡ mệt".
Tiếng người đàn bà yếu ớt thều thào đáp lại:
"Đau lắm!... Nhọc lắm!... Sẽ nó tụt ra đây này!... Thôi để tôi
ngồi dựa gốc đa kia, mình mau mau chạy về gọi ai ra đỡ tôi vậy".
Người đàn ông ra dáng ngần ngừ rồi nói:
"Hay mình chịu khó nằm ngửa trên lưng tôi để tôi cõng vậy,
vì ở đây xa làng xóm, trời thì gió lạnh, sắp mưa, ở lại đây nếu có sự
gì chất ngại thì khốn! Thôi, cố về đến nhà cho yên dạ".
Nói rồi không đợi cho người đàn bà đáp lại, ráng hết sức cắp
ngang người vợ lên lưng, chạy một mạch tới cái điếm đầu làng,
bỗng người trên lưng tụt xuống, thoáng nghe thấy tiếng trẻ khóc.
Một tiếng dõng dạc trong điếm hỏi ra:
- Ai?
- Tôi xin bác làm ơn...
Người đàn ông chưa nói dứt thì mấy anh tuần đã vội nhảy cả
ra, rồi cùng reo:
- Vợ đĩ Tít đẻ anh em ạ!
Người đàn ông vội sụp xuống lạy, khẩn khoản van lơn xin
ngơ đi cho để đem vợ về tới nhà.
Bỗng một tiếng của bác trương lẫm liệt thét ra:
- Không được, việc này rất quan hệ, đàn em đâu, hãy chạy
vào trình cụ tiên xem cụ dạy thế nào đã, anh em mình quyền rơm
vạ đá, ăn chẳng có thì tội gì mà để khó đến thân".
Bác đĩ Tít hu hu bưng mặt khóc, để mặc vợ rũ rượi tóc tai.
Dưới ánh mồi lửa của bọn tuần, mẹ con người khốn nạn đầm đìa
trong vũng máu! Một anh tuần chạy đi một lát thì bỗng thấy đèn
lửa lập lòe trong xóm đi ra, người lớn trẻ con lốc nhốc kéo theo cụ
tiên chỉ. Cụ mình khoác áo bông, chân đi guốc gộc, đầu bịt chiếc
khăn bông, lòa xòa một chòm râu trắng xóa. Hai con mắt hoăm
hoắm dưới bộ lông mày bạc nhìn theo mấy anh tuần chỉ trỏ rồi cụ
cất tiếng hỏi:
- Vợ chồng thằng Tít đấy phải không?
Một tiếng dạ run run trong cổ bác Tít đưa ra còn nghẹn ngào
nức nở.
- Gô cổ mẹ nó ra gốc đa kia cho ông! Hừ! Sinh dữ tử lành,
chúng bay còn không biết à? Trời đất dân làng đang yên lành thế
này, chúng bay dám rước vạ làng ông chăng? Năm xưa đã thằng
cu ốc đem vợ đẻ về làng, rồi trong làng sinh dịch lệ tứ tung, tiễn
tống khốn khổ, chúng bay còn không nhớ à? Dù phép vua còn phải
thua lệ làng, chúng bay làm trái lệ làng thì chúng bay còn hòng ở
làng nữa hay không? Chúng bay tưởng ông không trừng trị nổi
chúng bay à? Tuần đâu rong lên, gô cổ con mẹ ấy ra ngoài kia, chỗ
dây máu kia thì lấy nắm rác đốt lên rồi rẫy cho sạch đất đổ xa đi,
còn thằng Tít thì trói nó vào cái điếm kia, mai ông sẽ liệu!...
Dứt lời oanh liệt của bậc chí tôn, bác Tít người run như cày
sấy, sụp lạy cụ Tiên, cầu khẩn xin cho theo ra để tìm cái che đậy
cho vợ con khỏi rét mướt rồi sẽ xin vào chịu tội. Mấy bác tuần răm
rắp dạ, người lớn trẻ con trong xóm đều ngấm nguýt đua nhau
thóa mạ:
"Đàn bà thối thây dầy da, kỳ sinh nở chẳng biết liệu lại còn
định dẫn nhau về để chực gieo vạ cho làng".
Cũng có người động mối thương tâm, kẻ thì thổi cơm, người
thì nấu nước đem ra cho, lại xúm nhau ôm rơm rác, chiếu nong cho
để làm lều làm túp. Cũng có kẻ lại sợ vía van, sợ cung long chẳng
dám lại gần. Duá có cái phong tục cổ truyền là cấm người đem gái
đẻ về làng chẳng hề ai há miệng nói sao, cũng chẳng ai hiểu vì sao
mà độc.
Đạm Hiên Thời Vụ số 3-15-2-1938
VIÊC LÀNG 103
KHÔNG NÊN QUÊN MỘT BỌN VĂN SĨ
Trong một tuần lễ trước đây, hội đồng Phòng bệnh hoa liễu
có họp một kỳ hội nghị bàn việc dự định thể lệ cho nghề mãi dâm.
Những thể lệ ấy đã khởi thảo rồi, ở báo hàng ngày đã có đăng rõ,
mục đích của nó không gì khác hơn là chỉnh đốn cho nghiêm cái
nghề "bán dâm" để bài trừ những bệnh hoa liễu. Một việc rất nên
làm và rất hợp thời. Hiện nay bệnh hoa liễu mỗi ngày một bành
trướng lạ thường, nếu không tìm được cách gì ngăn ngừa thì một
ngày kia, không khéo khắp trong dân tộc An Nam sẽ khó mà kiếm
một người không mắc bệnh khốn nạn ấy. Điều nên nói là trong
bản thể lệ ấy, hội đồng Phòng bệnh hoa liễu mới nhìn bệnh hoa
liễu bằng cái nguyên nhân thứ hai, còn bỏ sót cái nguyên nhân thứ
nhất của nó. Bệnh hoa liễu cũng như một vài bệnh khác, ngoài cái
nguyên nhân thứ hai là nạn mãi dâm còn có nguyên nhân thứ
nhất gây ra mầm bệnh mà không phải là loại vi trùng.
Nếu không trừ được nguyên nhân thứ nhất của bệnh, không
thể cấm bệnh không được lan ra. Nguyên nhân thứ nhất là gì? Các
ngài sẽ đổ cho sự gay go trong cuộc sinh hoạt. Cố nhiên, với sự
bành trướng đáng ghê như bệnh hoa liễu, hiện tượng sinh hoạt
vẫn phải chịu một phần trách nhiệm. Nhưng một phần thôi, còn
một phần khác, là trách nhiệm của bọn văn sĩ. Tôi muốn nói mấy
ông văn sĩ thiếu lương tâm, quen dùng văn chương khiêu dâm để
quyến rũ bạn đọc phụ nữ. Nói cho phải, văn chương của ta hồi này
cũng có tiến bộ hơn trước, nhất là nghề viết tiểu thuyết. Nhưng
trong khi tiến bộ về phương diện nghệ thuật, đồng thời nó cũng
tiến bộ luôn về phương diện khiêu dâm. Hãy giở những cuốn tiểu
thuyết tình xuất bản gần đây mà coi, các ngài sẽ thấy lời nói ấy
không sai sự thực. Tác giả những áng văn chương ấy vẫn là nhà
văn có tài, cái tài cổ động chủ nghĩa khoái lạc về nhục dục mà
người ta gọi tránh đi là "vui vẻ trẻ trung". Họ phá hủy nền liêm sỉ
của trai gái bằng những ngòi bút mạnh bạo. Họ mô tả trần truồng
cái chân tướng ái tình bằng giọng văn hay hớm và lả lơi. Họ làm
được cảnh tượng của dục tính ở mặt giấy cũng hoạt động như ở
màn ảnh. Đừng nói những hạng trai trẻ, giả sử các cụ sáu bảy
mươi tuổi nghe văn của họ có khi cũng thấy dậm dựt trong mình.
Nhờ vậy, họ đã đi được tới đích, hầu hết phụ nữ ở thành thị đều
đua nhau làm độc giả của họ.
Trong vài năm nay, tâm hồn phụ nữ thành thị đã bị họ cám
dỗ...; người ta đã nói bằng giọng của họ, người ta đã nghĩ bằng tư
tưởng của họ, rồi người ta muốn làm như những nhân vật trong
tiểu thuyết của họ. Cái ảnh hưởng ấy, nó đưa chị em phụ nữ đến
đâu? Bước thứ nhất là đến một cuộc đời lãng mạn. Trong vài năm
nay, đối với phụ nữ -nhất là phụ nữ tân thời -liêm sỉ chỉ là tính
hèn nhát, dư luận chỉ là lời hủ bại, biết bao nhiêu người đã ngang
nhiên đem thân thể thờ thần nhục dục một cách tự do, không e lệ,
cũng không hối hận. Tại các thành thị, tiệm nhảy và phòng ngủ
mở ra mỗi ngày mỗi nhiều, đó là bằng chứng rất rõ rệt về phong
trào lãng mạn của phụ nữ. Ai nấy chắc đều nhận rằng: từ lãng
mạn đến mãi dâm không xa, và từ mãi dâm đến bệnh hoa liễu
càng không xa nữa. Đi ngược trở lại, chúng ta có thể nói rằng: bao
nhiêu nữ tướng trong việc truyền bệnh hoa liễu đều là tín đồ của
chủ nghĩa lãng mạn; mà bao nhiêu nữ tín đồ của chủ nghĩa lãng
mạn đều là độc giả của những văn sĩ kia. Vậy thì những người mắc
bệnh hoa liễu đều là người đã phải bùa mê của bọn văn sĩ khiêu
dâm, chính bọn văn sĩ khiêu dâm đã đưa người ta lên giường bệnh
hoa liễu.
Nói vậy không phải quá đáng. Nếu vào nhà thương mà hỏi
những chị em bệnh hoa liễu có đọc tiểu thuyết của bọn văn sĩ kia
không, quyết rằng trong số trăm người đều trả lời rằng có. Đối với
pháp luật, văn chương khiêu dâm vẫn thuộc về tội đáng trừng
phạt. Nhưng cái điều kiện của pháp luật về những khoản đó hình
như không rõ ràng, cho nên bọn văn sĩ khiêu dâm vẫn có đường
trốn. Họ trốn ra đường nghệ thuật. Họ viện vào thuyết "nghệ
thuật" để bênh vực cho nghề nghiệp của họ. Nếu những tác phẩm
của họ cứ được tự do đầu độc phụ nữ thì nghề mãi dâm còn thịnh
hành và bệnh hoa liễu còn bành trướng.
Thuyết Hải Thời Vụ số 5-22-2-1938
CON CHÁU KHÔN HƠN ÔNG VẢI ?
Tôi muốn nói hai ông Khổng Đức Chương và Mạnh Khánh
Đường, nhân vật hiện thời của nước Tàu. Đức Chương là cháu bảy
mươi đời cụ Khổng, ai cũng biết rồi. Còn Khánh Đường bây giờ
mới được nhắc tới, tuy chưa có tin nói đích ông đó là con cháu cụ
Mạnh, nhưng ông ta đã họ Mạnh, lại ở huyện Châu là quê cụ
Mạnh và làm thủ từ đền Y thánh là chỗ thờ cúng cụ Mạnh thì chắc
là con cháu cụ ấy không sai. Cả hai ông ấy hồi này đều được người
Nhật biệt đãi. Năm ngoái, khi lấy trôi mấy tỉnh Hoa Bắc, những
nhà đương cục bên Nhật muốn lập cho vùng đó một cái chính phủ,
họ đã đến tận Khúc Phụ (quê cụ Khổng) cố rước Đức Chương sang
Bắc Bình để mần vua.
Mới rồi, khi một đạo quân Nhật kéo đến huyện Châu, viên
tướng chỉ huy đạo quân ấy cũng đến tận đền Y Thánh xin vào ra
mắt Khánh Đường, hòng nói năm ba câu chuyện, chắc cũng định
dựng cho ông ta một chức gì đó. Nếu như theo đúng "đạo thống" tổ
truyền, thì hai ông Khổng con Mạnh con, tất nhiên phải hoan
nghênh người Nhật chẳng mần vua thì mần quan, chẳng giữ chức
lớn thì giữ chức nhỏ. Nhưng mà không:
Đức Chương thì viết thư từ chối người Nhật, còn Khánh
Đường thì một mực khăng khăng, thà chết không chịu tiếp kiến
tướng Nhật. Thật là con cháu khôn hơn ông vải! Cụ Khổng, cụ
Mạnh ngày xưa đâu có khó tính như vậy? Hai cụ ấy tuy đẻ cách
nhau hơn một trăm năm, nhưng là thày trò với nhau, thày trò
bằng lối cách bức, và cái "đạo" của các cụ, nhiều chỗ giống nhau
như tạc, nhất là hai cái chủ nghĩa: hành đạo và tùy thời. Hành
đạo, nói một cách nôm na, tức là làm quan, làm quan để thực hành
đạo giáo của mình. Mà tùy thời? Cắt nghĩa một cách không cho ai
hiểu, thì là... tùy thời (!) Khổng Tử sính làm quan lắm. Cứ như
Trang Tử đã nói thì chính mình cụ đã đem "đạo" đi rao với 72 ông
vua, dấu ngựa, bụi xe của ngài khắp cả các nước, rút lại vẫn không
đắt hàng. Cùng quá, đến nỗi hai anh tướng giặc nước Lỗ, cái "nước
cha mẹ" của ngài, trong khi chiếm đất làm loạn, muốn mời ngài
đến giúp việc, ngài cũng định đi với họ. Đó là một nghĩa tùy thời.
Mạnh Tử cũng vậy. Tuy không "bệ kiến" nhiều vua như cụ Khổng,
nhưng với vài chục cỗ xe đi trước vài chục đầy tớ đi sau, cụ này đã
ăn khắp lượt mấy nước chư hầu và đã yết kiến vua Tuyên nước Tề,
vua Huệ nước Lương, cho đến vua Văn nước Đằng, một nước giật
gấu vá vai mới được năm chục dặm đất, cũng có dịp được gặp cụ
nữa. Cầu quyền với các vua ấy như thế, không phải cụ ấy có thiết
gì danh vị, chỉ cốt làm quan để thực hành cái "đạo" của mình. Đó
là cụ cũng tùy thời như cụ Khổng vậy. Ấy đó, hai cụ tùy thời một
cách dễ dãi như vậy, mà sao lại sinh ra hai ông cháu khó tính thế
kia?
Xuân Trào Thời Vụ số 17 -5-4-1938
CỨ ĐỂ CHO NÓ CHẾT
Vừa rồi, bác cựu binh Nguyễn Văn T... người làng Tứ Kỳ,
tổng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Đông tìm tới cái chết tại hồ
Hoàn Kiếm Hà Nội chỉ vì đã mất 4, 5 trăm đồng bạc để khao vọng
vào ngôi tư văn, mà chánh hội và tiên chỉ làng ấy không cho vào
chủ tế. Bị ức, bác phải thưa quan, mà quan cũng không xử cho.
Giá tôi là bác phu lục lộ của thành phố được chứng kiến lúc bác
T... nhảy xuống hồ, khi cứu lên mà được biết cái nguyên nhân đã
làm cho bác chán đời muốn chết trong thư tuyệt mệnh thì chẳng
những tôi không cứu, không can không dẫn về cẩm, lại muốn dìm
xuống cho bác T... chóng chết là khác nữa!
Cái tư tưởng ấy tuy có khốc liệt một chút nhưng tôi muốn
khu trừ cái nọc độc mà Trần Thủ Độ xưa kia đã gieo cho dân một
cái thảm họa tới nay chưa dứt được. Bày ra một cái triều đình giả
dối, lấy ông thần gỗ tôn lên ngôi báu, lấy tổng lý làm công khanh,
lấy thịt xôi làm bổng lộc để họ ham mê áo mũ xênh xang, trống
giong cờ mở. Những vị thần gỗ ấy, ngoài những đấng anh quân
lương tướng mà ngày nay họ dùng làm ông ngáo ộp để trừ tà trị
bệnh, bói thẻ cầu mộng, lợi dụng cái lòng mê tín dị đoan của lũ
dân khờ dại, lại còn lẫn cả thần ăn trộm, thần ăn mày, thần chết
trôi, thần gắp phân, thần loạn dâm. Hơn nữa, lại thờ cả con rắn,
con voi, con ngựa. Đấng tối linh của họ đã có cái lịch sử, cái sự
nghiệp khốn nạn như thế, thì kẻ sùng bái tất nhiên là những kẻ
ngu tham, ngoan ngạnh, thằng khôn ăn vào đấy, thằng dại khổ vì
đấy. Thế mà hết đời này sang đời khác, người ta vẫn nhẫn tâm bắt
dân đeo cái xích sắt ấy mà lại muốn cho dân cường nước thịnh thì
cũng lạ thay! Trong lúc người ta theo làn sóng cạnh tranh tiến
hóa, sôi nổi khắp mọi nơi, người ta đang ganh đua tài trí để quyết
đấu quyết thắng trong trường hoạt động, tìm lấy cách sống cho
xứng đáng, gây lấy cuộc đời cho rực rỡ, lập lấy sự nghiệp cho vẻ
vang thì dân quê mình hãy còn mờ mịt tối tăm, còn ham mải tranh
xôi cướp thịt, tị nhau chiếu dưới chiếu trên, kiện nhau miếng trầu
biếu, bán gia tài cơ nghiệp để chuốc lấy cái hư vinh ông hiến, ông
trùm. Không được thỏa thì hồi tâm táng chí, lấy cái chết để rửa
hờn rửa nhục! Bác cựu binh Nguyễn Văn T... muốn chết cũng
thuộc trong tình trạng như trên vừa nói. Cũng là kẻ thụ độc của
họ Trần! Nhưng bác muốn chết hay dọa chết đấy? Có lẽ bác dọa
chết: vì nếu bác muốn chết thật thì thiếu gì cách chết ở trong làng:
treo cổ lên cây, đâm đầu xuống giếng, uống thuốc độc... Nhưng
chẳng qua là bác tới đây tìm cái chết để cho có nhiều người cứu
sống, mong. .. tố cáo cái tội ác của lũ đàn anh kia đã ngăn trở
không cho bác cái vinh dự vào "hầu hạ nhà thánh". Tội chúng đã
nặng nề mà quan bản hạt cũng làm ngơ. Bác muốn chết thật ư?
Giá tôi được chứng kiến lúc bác gieo mình xuống dòng nước, thì tôi
rất vui lòng đợi bác chết hẳn rồi mới xuống kéo lên cho khỏi thối
nước hồ!
Không những thế, tôi lại mong cho những người có tư tưởng
đớn hèn như bác theo nhau mà chết để tẩy uế cho thôn quê, giải
tội cho đình miếu, trừ cái nọc độc của họ Trần để lại! Kìa cái chết
của viên thuyền trưởng khi gặp nạn ngoài khơi. Không phải tin
mình bơi giỏi, sức khỏe mà không sợ chết, nhưng cái phận sự phải
nhường cái sống cho khách đi tàu, tung phao ra, thả xuồng xuống,
quên mình đi, cứu vớt người thoát nạn, mà cam tâm đợi phút cuối
cùng! Cái chết anh hùng ấy, chốn hương thôn chẳng làm gì có,
nhưng cũng có người liều thân lăn vào đám cháy cứu lấy sinh
mệnh tài sản cho người; cũng có kẻ vì phận sự hộ đê, gặp thảm
họa tới nơi cũng cam lòng cho dòng nước trôi đi; cũng có kẻ dám
xông xáo trong hồi dịch tệ, cứu chữa cho người ốm, chôn cất cho
người chết mà không hề quản ngại đến thân. Đó là cái chết vì ích
chung, vì đồng loại mà chết, vì lòng nhân mà khổ sở. Tôi nhận cái
can đảm ấy, cái khí phách ấy là xứng đáng với đạo làm người.
Đáng trọng lắm, đáng kính hương sùng bái lắm! Cái chết của bác
cựu binh Nguyễn Văn T... nếu được chết thật, bất quá cũng là cái
chết vô ý thức. Song dù chết thật hay chết giả, cái tâm hồn ấy có
thể nói là tâm hồn bại liệt, không đáng sống trong đời cạnh tranh
kịch liệt này. Trước cái tình trạng dân thôn ngày nay, ta có thể
quả quyết mà nói rằng còn cái tiểu triều đình giả dối ấy, còn có kẻ
hám hư vinh, cơ nghiệp còn đồi bại. Trong chốn hương thôn, gây
năm bè bảy bối chỉ vì miếng ăn, chỗ ngồi sinh ra đánh nhau, kiện
nhau kẻ bị giết, kẻ tự giết còn đầy rẫy ra đó. Thế mà bề ngoài ta
vẫn trông thấy đình rộng trống kêu, cờ điều tán tía, mũ áo xênh
xang. Đó chỉ là cái lớp phủ lên trên sự thối tha, dơ dáy, thực cũng
thảm thương thay!
Đạm Hiên Thời Vụ số 17-5-4-1938
AN NAM LẠI SINH THÁNH
Thánh có nhiều hạng. Cái hạng thánh nhất trong các vị
thánh là những ông lập ra tôn giáo. Từ nửa trên thế kỷ 20 về
trước, tất cả thế giới chỉ có bốn ông thánh về hạng này. Một là ông
Thích Ca Mầu Ni sáng lập ra đạo Phật, hai là ông Gia tô Cơ đốc
sáng lập ra đạo Gia tô, ba là ông Mô-hãn-mặc-đức sáng lập ra đạo
Hồi, bốn là cụ Khổng, thủy tổ của đạo Nho. Bốn vị đại thánh nhân
đó đều đẻ ra trong giải đất Y châu. Thích Ca là người ấn Độ, Gia
tô là người Do Thái, Mô-hãn-mặc-đức là người Thổ Nhĩ Kỳ, cụ
Khổng là người ở Trung Hoa. Đó là một điều rất lạ. Đất cát năm
châu không hẹp, cớ gì các ngài không đẻ san ra các nơi khác, lại
chen nhau sinh vào một khu? ông Lương Khải Siêu, một nhà
thông minh bác học ở Tàu cũng không hiểu được lẽ đó, đã phải
đánh đố như vầy: Ai mà nói được cái cớ vì sao ba vị đại thánh
nhân ấy (Gia tô, Thích Ca, Khổng Tử) lại cùng đẻ ở châu Y thì tôi
xin cầm roi ngựa mà theo hầu. Nhưng xét ra cớ ấy cũng không có
gì là khó giải. Chẳng qua vì Y châu là nơi "thổ sản giáo chủ" cũng
như Sơn Tây là nơi "thổ sản rau muống", Đình Bảng là nơi "thổ
sản củ mài" vậy, cho nên các ngài mới cùng tìm đến Y châu mà đẻ.
Nói thế không phải là nói chày cối, tôi có nghiệm xét rõ ràng. Nếu
Y châu không phải là nơi thổ sản giáo chủ thì sao lại cứ sản ra
giáo chủ luôn luôn? Cho nên ngày nay của "hiếm có" ấy vẫn cứ nẩy
ra ở đại lục này như thường. Cái ông giáo chủ cuối cùng là người
nước ta, thánh hương ở ấp Bến Tam, tỉnh Biên Hòa, thánh húy là
đức Xã Phúng, đạo của ngài là đạo Nhất tâm. Theo báo Lục tỉnh
tân văn, đạo Nhất tâm xuất hiện mới 4 tháng nay, tín đồ hiện đã
đông lắm. Mỗi tháng cứ đến hai ngày rằm và mùng một là kỳ
giảng đạo, trong nhà thờ đèn nến sáng choang, đàn ông đàn bà
"con chiên" rải nệm ngồi la liệt từ ngoài đầu sân ngồi vào. Quá
luật của đạo này cũng giống quá luật của đạo Thiên chúa, ai đã
theo đạo thì phải theo gọn cả nhà, không được để ở nhà mình có
một người nào ngoại đạo. Lạ lùng nhất là phép chữa bệnh của đức
giáo chủ. Kẻ nào có bệnh xin chữa thì ngài hoặc dùng roi mây mà
quất vào đít, hoặc dùng nước lã mà đổ vào mũi, hoặc dùng bùa
giấy mà thọc vào trong cuống họng, để chảy ra rãi xanh, rãi vàng.
Vậy mà nhiều người cũng cứ đem bệnh đến cho ngài chữa. Nghe
nói ngài đang dự định soạn một bộ kinh thánh để truyền bá cho
đời, không biết nay đã xong chưa! Tiếc rằng ngài sinh khí muộn,
nếu sớm được hai nghìn năm nữa... chắc đâu bây giờ ngài không là
một vị cứu thế? Đi ngược trở lại, ta còn thấy nhiều đức giáo chủ
khác cũng giống như giáo chủ Nhất tâm. Giáo chủ của Tam Kỳ đại
đạo, giáo chủ của Bạch liên giáo, đều sản ở Y châu tất cả. Coi đó
biết Y châu thật là cái ổ nở ra giáo chủ. Quý hóa thay!
VIÊC NÀY LẠI PHẢI NHỚ ĐẾN CỤ NGHÈ BÂN
Tôi rất vui vẻ và không dám cười để báo tin cho bạn đọc hay
rằng: đến ngày rằm tháng Bảy An Nam sắp tới -và trăm năm về
sau cũng vậy -các bạn sẽ được nghỉ một buổi chiều, nếu như các
bạn là công chức, là học sinh, là thợ thuyền hay là tù phạm. Bởi vì
hiệp tá đại học sĩ sung Bắc Kỳ phật giáo hội hội trưởng kiêm Hà
Nội Quán Sứ tự trụ trì Nguyễn Năng Quốc đại nhân, mới xin được
nửa ngày đó để làm cả ngày phục thiện, coi như công lễ của hai xứ
Trung Bắc Kỳ. Các bạn chắc cũng biết qua lai lịch của ngày rằm
tháng bảy? Ngày ấy, nhà Phật gọi là tiết Vu Lan Bồn. Theo kinh
"Phật thuyết Vu Lan Bồn" thì gây ra tiết ấy bởi tại bà mẹ ông Mục
Kiên Liên.
Bà ta lúc sống ác lắm, lúc chết phải án "giam vào ngục lửa".
Giả sử nó là lửa của trần gian vẫn dùng đun nấu thì vô luận vật
gì, bỏ vào một lúc, tức thì ra tro. Nhưng lửa của âm phủ chừng
như không nóng, cho nên bà kia bị tống vào đó hàng mấy chục
năm mà vẫn còn sống, tuy rằng bà ấy đã chết. Rồi khi ông Mục
Kiên Liên theo Phật đắc đạo xuống chơi địa ngục thăm mẹ thì
thấy bà cụ đói lắm, đại khái cũng đói độ như dân đói ở Bắc Ninh
bây giờ. Ông ấy rất thương xót bèn hóa phép chế một nải chuối
đưa cho mẹ ăn. Nhưng tội nghiệp, bà ấy vừa đưa lên miệng thì
chuối bỗng hóa ra lửa mất cả. Buồn quá, ông ấy trở về hỏi Phật
xem có cách gì cứu mẹ mình. Phật bảo ông ấy đúng đến ngày rằm
tháng bảy, lập đàn Vu Lan Bồn, bố thí cơm cháo cho mấy vạn đại
chúng thì bà ấy sẽ được siêu thoát. Đại lược sự tích ngày rằm
tháng bảy là vậy. Bởi sự tích ấy hơi có tính cách ân xá, cho nên về
mùa sau những người bắt chước ông Mục Kiên Liên dùng ngày ấy
mà cúng tổ tiên, họ thường gọi là ngày "vong nhân xá tội".
Nhưng cũng nhiều người không chịu cúng bái vào ngày ấy.
Vì họ tin rằng: tiên tổ nhà họ không làm gì nên tội, không bị giam
cầm, muốn về dương gian ngày nào cũng được, chẳng riêng gì ngày
rằm tháng bảy. Nói vậy kể cũng có lý, song nó trái với thuyết của
Phật. Cứ như Phật nói thì cái thế giới thứ 13 là chỗ chúng ta ở này
cũng như Sơn La, Lao Bảo hay Guyan, chỉ là nơi đầy ải "kẻ có tội".
Đã đẻ vào đây, vô luận ai ai, đều là hạng can án tất cả. án ấy
không biết ở đâu dựng lên, tội nhân trả trong lúc sống chưa hết,
chết rồi còn phải trả nữa. Đương sống mà chết, Phật bảo là kiếp
luân hồi tức là một chuyến tù đổi sở giam. Vậy thì, vô luận ai ai,
nếu theo đạo Phật, lúc chết đều phải vào hỏa lò của vua Diêm, chỉ
có ngày rằm tháng bảy là ngày đại xá, mới được tự do mà thôi.
Nếu trong ngày ấy, con cháu không cúng, có khi vong nhân sẽ phải
"reo đờ fanh" suốt đời. Hoặc giả vì sợ tư tưởng ấy (cái tư tưởng
"phản đối" ngày rằm tháng bảy) lan rộng mãi ra, thì không khéo
phong trào tuyệt thực ở nhà lao Phong đô sẽ mỗi ngày mỗi lớn, có
khi đến rối cuộc trị an ở cõi âm, cho nên cụ hội trưởng của hội
Phật giáo mới xin cho thiên hạ nghỉ ngày Trung nguyên để họ có
thì giờ mà cúng vong nhân. Nếu không, cụ đã xin nghỉ vào ngày
vía Phật. A di đà Phật! Việc này của cụ thật là "ơn tới xương khô"!
Chẳng những thế thôi, với việc này, cụ còn gỡ lại rất nhiều
thể diện cho tín đồ của đạo Phật nữa. Xứ này là xứ ba cái tôn giáo
trộn lẫn, tín đồ suýt soát như nhau. Vậy mà bao nhiêu ngày lễ
trước đây đều là ngày kỷ niệm của đạo Gia tô, các tín đồ của đạo
khác đều phải nghỉ nhờ, nghỉ "boóng". Bây giờ mới có ngày lễ
chính thức của đạo Phật để bù chỗ thiệt thòi từ xưa đến giờ. Ấy là
đạo Phật đã trả được nợ cho đạo Gia tô rồi vậy! Còn đạo Khổng
nữa! Gà người gáy không lẽ gà nhà cứ im. Nếu không có một ngày
công lễ của đạo Nho thì cụ Khổng há chẳng lép vế lắm à? Có lẽ
phải nhờ đến cụ nghè Bân. Bởi vì trong các nhà Nho hiện thời, cụ
là nhiều tuổi hơn hết. Lúc này làng cụ mới bị hỏa hoạn thê thảm,
chắc cụ còn bận về việc chẩn tai tuất hoạn, chưa có thì giờ nghĩ
đến chuyện khác. Mai mốt rảnh việc, thể nào cụ cũng xin cho nhà
Nho một ngày công lễ, để cụ Khổng khỏi thẹn với cụ Thích, cụ Gia.
Xin cụ nhớ xin nghỉ vào ngày xuân đinh, thu đinh vì những ngày
trên có sỏ trâu, sỏ lợn.
Xuân Trào Thời Vụ số 26-10-5-1938 81 82
BẮC NINH CẦU CỨU
Lật sang trang sau, các bạn sẽ thấy bức thư của mấy ông hội
viên hàng tỉnh Bắc Ninh gửi lên toàn quyền, quan thống sứ và ông
hội trưởng của hội Phổ tế Bắc Kỳ xin phát chẩn cho nhân dân mấy
huyện của tỉnh ấy. Đọc hết bức thư ấy, có khi các bạn sẽ không
cầm được nước mắt, nếu các bạn là người dễ cảm. Từ ngày dân
chúng Bắc Kỳ có người thay mặt đến giờ, chưa có ông hội viên
hàng tỉnh hay ông nhân dân đại biểu nào nói đến tình cảnh của
dân một cách thiết tha như bức thư ấy. Đó không phải là các ông
hội viên ấy đã cố viết ra lời văn cảm động. Chỉ vì cái sự thực làm
tài liệu cho bức thư ấy vốn là những cảnh đau đớn vô cùng. Nếu
không tiện về tận những hạt đang bị đày đọa, các bạn hãy cứ giở
tờ Việt Báo tháng trước và tờ Đông Pháp gần đây, hoặc là sang
đầu cầu Đuống mà coi, chúng ta sẽ thấy vô số dân đói đã cách xa
sự sống nhiều lắm, tuy rằng họ vẫn chưa chết. Những kẻ ngắc
ngoải muốn chết đó, phần nhiều là dân các huyện Lang Tài, Gia
Bình, Thuận Thành, Quế Dương, Võ Giàng, Tiên Du và Đông
Ngàn nữa. Trong mấy huyện khổ đó, nhất thì Lang Tài, Gia Bình,
Thuận Thành. Đời họ chỉ sống bằng nghề làm ruộng, vậy mà hai
năm bị hai trận lụt nước sông, lại kèm một trận "tiêu khô cháy
đồng" ở giữa, như thế đến cỏ cũng chết đừng nói người. Ai đáng
phải chịu trách nhiệm với họ trong những tai nạn thảm khốc ấy?
Ngày xưa thì đổ cho trời, nhưng bây giờ... ít nhất cũng phải truy
vào sở Lục lộ Bắc Ninh. Hàng năm, họ phải nuôi sở Lục lộ bao
nhiêu thuế bách phân và các thuế khác, chỉ nhờ sở ấy trông nom
đê điều cầu cống cho mình. Vậy mà người ta cứ để cho họ luôn
luôn phải lụt, phải hạn hán, rồi phải chết đói. Kể cũng nhẫn tâm.
Giả sử ở đời mà có công lý và nhân đạo, tất nhiên họ sẽ được tiền
bồi thường xứng đáng với sự thiệt hại. Những việc bồi thường như
thế, với chính phủ cũng không lạ gì. Bởi vì chính phủ thực hành
đã quen, nhất là người Pháp, thí dụ như việc vừa rồi bồi thường
một vạn đồng cho nhà thầu khoán Soyez-Lucien về sự thiệt hại
trong khi làm cầu cho đường xe lửa ở Song Long Song. Nhưng họ
là dân nhà quê, vạn đời không dám mong cái hân hạnh như nhà
thầu khoán người Tây. Trái lại họ chỉ muốn được đi ăn xin trong
khi vì sự bất lực của sở Lục lộ mà tan nát tài sản. Song sự ăn xin
của họ ở tỉnh Bắc Ninh bây giờ cũng đã tuyệt vọng.
Người ta đã lấy cơ sự phát ra bệnh dịch tả mà phá cái nhà tế
bần Đạt tráng để đuổi họ đi. Hơn nữa, người ta còn cắt người canh
gác các đầu đường, không cho họ được lai vãng vào trong thành
phố! Thì ra họ chỉ vì một cái tội "đói" mà đã bị tỉnh Bắc Ninh khép
án trục xuất và cấm lưu trú. Không hiểu cái chính sách ấy là
chính sách gì vậy? Dưới cái chính sách kỳ quái đó, họ bị ma đói
giết chết đã nhiều, những kẻ sống sót đến bây giờ, chỉ còn cách
mong vào cuộc phát chẩn của chính phủ. Cái đó, họ được quyền
mong. Là vì từ khi nghe tin Bắc Kỳ có nạn vỡ đê, các nhà từ thiện
quyên giúp cũng nhiều, riêng một số tiền của bên Pháp gửi cho
cũng đã đến 18 vạn. Hoặc giả trước kia vì không ai kêu, chính phủ
chưa kịp xét đến tình cảnh quá khổ của họ.
Bây giờ các ông hội viên Bắc Ninh đã bày tỏ một cách rõ rệt,
chắc là chính phủ cũng phải cảm động. Với cái nạn dịch tả ở phủ
Thường Đức tỉnh Hồ Nam bên Tàu, chính phủ còn hảo tâm giúp
họ 50 vạn ống thuốc trừ tả, huống chi với dân Bắc Ninh, một tỉnh
cạnh nách Hà Nội, lẽ nào chính phủ lại không đoái thương đến họ?
Chúng tôi tin rằng cái đơn của mấy ông hội viên Bắc Ninh sẽ có
hiệu quả. Điều nên nói là, nhân dân trong mấy huyện ấy, chịu đói,
chịu khổ đã hơn hai năm, họ sống được đến ngày nay cũng là cố
lắm. Nhiều kẻ chỉ chực chờ chết. Trên hai con đường Bắc Ninh
- Phả Lại và Hà Nội
- Thái Nguyên luôn luôn có người chết đói nằm ở ven đường.
Đó là chưa kể ở các thôn quê còn có những kẻ không đi được nữa.
Chính phủ có thương đến họ thì việc phát chẩn cũng nên tìm cách
giản dị, mau chóng. Nếu lại theo cái kiểu mọi ngày, tư về quan
tỉnh để quan tỉnh bắt các phủ huyện kê khai số người đói khổ
trong hạt, rồi mới đưa tiền đưa gạo về phát, thì có nhiều người sẽ
không thể sống được đến lúc lĩnh gạo phát chẩn mà ăn.
Thuyết Hải Thời Vụ số 26-10-5-38
HỌ VẪN ĂN VÀO CÁI XÁC CHẾT
Ông lý Bá làng tôi đáo để thật! Tôi xin thuật ra đây một cái
"đáo để" mà ông ta đã dùng để kiếm tiền.
Một hôm trời gần tối, người tuần phu đến lượt quét chợ, hấp
tấp chạy vào trình rằng ngoài chợ có bà lão ăn mày chết. Ông ta
hỏi:
- Nó nằm ở gian hàng nào?
- Bẩm ông, nằm ở gian hàng bà năm Ngẩn.
- Có phải gian hàng bán quà bánh phải không?
- Bẩm vâng!
- Được rồi, thế thì mày đi gọi con mẹ năm Ngẩn lại đây, bảo
đã.
Anh tuần chạy đi một lát thì thấy mụ năm Ngẩn lật đật chạy
theo đến. Ông lý ra vẻ ôn tồn nói:
- Chỗ bà con tôi bảo thật, ngày mai có phiên chợ, gian hàng
bán quà bánh của bà lại có cái xác mụ ăn mày nằm chết tại đấy,
thì ngày mai bà hãy nghỉ hàng, vì tôi còn phải trình quan khám
biên đã rồi mới đem nó đi chôn được, và sau này bà có phải lên
tỉnh xuống huyện khai báo về cái xác chết ấy thế nào, bà cứ liệu
mà nói. Nhưng khéo ra bà cũng phí tổn ít nhiều, vì nó chết ở gian
hàng của bà, nếu không khéo thì cũng rầy rà kia đấy.
Mụ Ngẩn nghe nói rụng rời, những nghe nói hàng mình có
xác chết đã sợ, lại thấy nói phải lên quan thì kinh hãi biết dường
nào, hàng bán đồ ăn thức uống, thuế nộp rồi, nếu cả chợ họ biết
người chết ở gian hàng mình thì còn ai mua bán gì nữa. Mụ bèn
năn nỉ nói:
- Chết chửa, thế thì làm thế nào? Thưa ông, nhờ ông nghĩ
giùm cháu, nhờ ông châm chước đi cho.
- Châm chước thế nào? Xác chết ở hàng nhà bà, chẳng lẽ bây
giờ bà bảo tôi đem về nhà tôi chăng?
- Thôi, trăm sự nhờ ông, ông nghĩ cách nào cho cháu nhờ thì
cháu không dám quên ơn ông.
- Cứ về lo lấy chục quí (10p) đem lại đây thì tôi liệu cho.
- Chết! Nhà cháu còn có gì nữa, vốn liếng được bao nhiêu,
ông dạy thế thì cháu lo liệu làm sao cho được, lạy ông giơ cao đánh
sẽ, xin ông làm phúc giúp cháu.
- Thôi thế thì chục gián (6p) là nhẹ lắm rồi, chẳng qua là cái
hạn của bà, bán đường dài mua đường ngắn chỗ bà con tôi cũng
đành cáng lấy cái chết cho bà vậy, nếu bà còn nói lôi thôi nữa thì
tôi mặc, sau này bà phí tổn vài ba chục thì bà đừng trách tôi
khoảnh độc.
Mụ Ngẩn tụt bao lưng, giốc ra một cái túi vải nâu, đổ ra đếm
cả xu lẫn hào và tiền trinh được 1p30 và ba cái giấy một đồng, vừa
khóc vừa nói:
- Thưa ông, cả cửa nhà cháu chỉ có thế này, xin ông làm ơn
nhận giúp cho, nếu còn nữa, cháu không dám tiếc, nếu bây giờ đi
vay mượn đâu, sợ lộ chuyện có đứa nó cáo giác ra thì cháu chết,
thôi xin ông dón tay làm phúc.
Ông lý ngần ngại một hồi mới chịu nhận và dặn phải kín
đáo. Anh tuần phu chạy theo đánh chó cho mụ Ngẩn đi ra rồi lại
quanh vào đứng dựa cột chờ lệnh ông lý. Ông lý ngước mắt nhìn
bác tuần phu ra vẻ đắc chí.
- Con mẹ này xưa nay vẫn có tính keo bẩn, bây giờ bóp cổ
mới chịu lè lưỡi. Thầy trò ta có chén rồi đây! Bây giờ mày chịu khó
một tí nhé, mày ra kéo cái xác con mẹ ăn mày đến gian bán thịt
của thằng Khướu, rồi mày lại gọi nó đến đây cho tao, ông cho
thằng này một vố nữa đã!
Anh tuần phu dạ một tiếng dài, một tiếng dạ có hơi kim khí!
Lanh lẹ ra đi một lát đã thấy bác Khướu, rượu say bí tỉ, miệng
bỏm bẻm nhai trầu tiến vào, tưởng là cụ Bá có lợn muốn bán. Sau
tiếng chào của bác Khướu, cụ Bá hất hàm hỏi:
- Mai anh mổ mấy lợn?
- Bẩm cụ, mai vừa tết Đoan ngọ lại chính phiên chợ, cháu mổ
cả thảy ba lợn, lại lấy thêm thịt bò về bán kèm nữa, trong cụ có lấy
gì xơi không?
Cụ Bá cau mày:
- Thế thì lỡ việc của anh rồi, tuần nó vừa vào trình tôi rằng
tại gian hàng của anh có người ăn mày chết về bệnh tả, anh thử ra
xem có thực thế không, nhưng đừng làm huyên náo mà mất cả
buôn lẫn bán đấy.
Câu nói của cụ Bá chẳng khác gì tiếng sét đánh vào tai bác
Khướu, mắt tròn lên, miệng há hốc ra, hơi men như ngừng bốc,
những giọt mồ hôi trên trán toát ra. Giữa tình trạng ấy, cụ Bá cứ
làm thinh lơ đãng như không để ý.
- Chết! Lợn, cháu đã lấy về lò sát sinh rồi, thịt bò, cháu đã
đặt tiền rồi, làm thế nào hở cụ?
- Làm thế nào, anh hãy nghỉ hàng, mai tôi còn trình quan
khất khám, còn tẩy uế đã, rồi trước mặt quan, cửa hàng của anh
có xác chết, anh muốn khai thế nào thì khai, tôi biết đâu.
Anh tuần đứng ngoài hớt vào:
- Thôi, bác nói với cụ, nhờ cụ che chở châm chước đi cho,
buôn bán còn lâu dài, nếu để đến ngày mai, cả chợ họ biết gian
hàng của bác có người chết dịch tả thì bác bán thịt cho ma nó ăn.
- Vâng, bác ấy nói chính phải, cháu cũng nghĩ thế, thôi xin cụ
làm ơn giúp nhà cháu, hay là cụ để cho cháu ra vác nó đi chôn
quách một chỗ là xong, ai biết đâu.
- Anh nói đã dễ chưa, mạng người có họa là cái bánh hỏi, lỡ
gặp phải anh nào nó biết thì anh mất nghiệp. Ừ, anh muốn thế, tôi
thây kệ anh, anh có giỏi thì thử ra vác đi tôi xem nào.
Bác lái lợn xem ra đã chợn, đứng đực mặt, chẳng biết nói
sao. Cụ lý ôn tồn bảo:
- Này tôi bảo, muốn xuôi việc thì cứ "con công", "con công" tớ
giúp cho yên ổn, ngày mai lại buôn bán như thường, nếu không thì
tùy ý, muốn làm thế nào thì làm.
Bác lái được lời cụ lý truyền cho, nhẹ mình như cất gánh
nặng, đành nhắm mắt, nặn hầu bao lấy đủ năm đồng, đặt vào cái
đĩa, rồi gãi đầu xin cụ thu xếp đỡ cho.
- Thôi được, cứ về, nhưng phải câm nhé, nếu có đứa nào nó
biết thì tôi không thể nào che chở được mà anh thì tiền mất tật
mang đấy, thôi anh tuần đánh chó cho anh ấy về.
Bác Khướu về khỏi, cụ Bá tính gộp lại hai món được 9,30.
Anh tuần còn nhắc:
- Bẩm cụ, con lại lôi sang gian hàng khác, cụ nhé!
Cụ Bá tủm tỉm lườm anh ta một cái rồi chửi yêu:
- Lôi mẹ mày đi đâu mà lắm thế! Ăn lắm không sợ hóc à?
Này đây ông cho bữa chén.
Miệng nói tay vứt cho anh tuần 1p30 và dặn:
- Bây giờ một mình mày làm thế nào tha con mẹ ấy ra quán
Trúc mà để, đấy là địa phận làng Yên Xá rồi.
Sáng hôm sau, nghe ngóng mới biết lý dịch Yên Xá đã kéo
xác mụ ăn mày xuống bờ Trầm mây, địa phận làng Lôi! Đấy, một
cái xác chết của kẻ khốn cùng, họ nỡ nhẫn tâm như thế. Nếu hỏi
họ tại sao làm điều vô đạo ấy thì họ thản nhiên mà đáp: Pháp luật
bây giờ lắm khi vì làm phúc mà phải tội là thường.
Đạm Hiên Thời Vụ số 29-20-5-1938
NGƯỜI CÓ DANH VỌNG TRONG LÀNG
Tôi về thăm quê một người bạn cũ. Sau những câu chuyện
hàn huyên, tôi bèn hỏi:
- Ở dân ta thì ai là bậc danh vọng nhất trong làng?
Bạn tôi mỉm cười mà hỏi lại:
- Bác hỏi người có đức độ hay người có thế lực? Nếu người có
đức độ thì làng tôi hiếm lắm, nhưng hạng người có thế lực không
ai bằng ông lý bá Khánh. Ông tục danh là thằng Bòi, con một nhà
giàu nhất làng. Từ lên một tới lên bảy thì ông vào hàng con cưng,
cha mẹ sợ ông yếu, nên không dám cho đi học. Năm lên tám tuổi,
ông đã vớ một cô vợ kếch xù, con gái họ Đào, người rất đảm đang,
xinh xắn, tuổi mười bảy, trước đã hứa gả cho con trai họ Tạ, tuy
con nhà nền nếp thi thư, nhưng phải tội nghèo, nhà ông Khánh chỉ
dẫn hơn hai trăm bạc mà đắc thắng một cách dễ dàng. Năm 16
tuổi, ông đã có con rồi từ đấy vợ cứ sinh năm một cho tới chẵn hai
cỗ bốn trai bốn gái. Tuy không biết chữ, nhưng sinh vào con nhà
giàu, theo thói đặt lãi cho vay, ông rất thông thạo những văn tự
cầm, văn tự đợ, gốc lãi tính phân minh không nhầm lẫn. Trong
làng cũng nhiều kẻ khinh ông vô học, năm 20 tuổi, ông tức khí bỏ
tiền ra mua cái khóa sinh, chẳng phải ôn nhuần học tập, cứ ngồi
nhà đợi giấy sức lĩnh bằng, khao một bữa lên ngay ông khóa, vọng
tư văn sánh với bọn văn thân.
Được bên thân, chẳng chịu kém bên hào, năm 25 tuổi, thấy
miếng lý trưởng ngon lành, ông vứt mấy trăm mua cho bằng được,
chẳng lên phủ xuống huyện, chẳng lạy quan van dân, nhưng chức
lý trưởng chẳng ai dám cãi. Ông vọng đủ các ngôi các món, những
năm ông chịu đăng cai chứa đám, thì danh tiếng lừng lẫy khắp
vùng. Năm 29 tuổi, nhân cuộc âu chiến, nhà nước cần tiền, ông vứt
ngót nghìn bạc ra quyên, được thưởng ngay bá hộ, những Bên
thân bên hào: bên văn thân bao gồm những người có học và bên
hào bao gồm bọn tổng lý. ngày rước sắc cùng mấy ngày khao của
ông, phí tổn mấy nghìn đồng, trâu bò lợn gà chết về tay ông như
chết dịch. Năm ông 39 tuổi, làng có tiệc khánh thành đình, ông
viện thế quan tỉnh quan huyện về làng quyết tranh cho được chức
mạnh bái với ông kép Viên.
Liền sang năm ông 40 tuổi, ông khao ngôi trùm cả để nhòm
ngôi tiên chỉ, phí tổn cũng chẳng phải vừa. Năm ông 48 tuổi, làng
khuyết chân thứ chỉ, ông lại ra tranh, mỗi lần ông tranh là mỗi lần
ông thắng, mỗi lần ông thắng là mỗi lần ruộng đất của ông phải
đổi chủ sang tên cho người khác. Hiện nay ông định vượt lên ngôi
tiên chỉ, cho nên ông cố cầu thân với quan trên quan dưới, để hòng
cái chương mỹ bội tinh, thì cái hàn lâm ông nắm chắc, cái thủ lợn
béo phính của làng, ông cụ Kép tất có ngày phải rời ra. Đấy cái lý
lịch của một người có danh vọng trong làng tôi rực rỡ vẻ vang là
thế. Ông hết sức báo hiếu cha mẹ trong những ngày ma chay giỗ
tết, ông hết lòng sùng phụng đức thượng thần trong những ngày
đản, ngày hội, ông hết sức kính trọng dân làng bằng những tiệc
khao tiệc vọng, ông hết sức theo đuổi công danh một cách hăng
hái, dù bán gia tài mua lấy danh phận ông cũng chẳng từ, ông hết
lòng mến phục các quan trên, từ ngày giỗ mọn cho chí ngày tết to,
trong các quan trên tỉnh dưới huyện, không bao giờ vắng được mặt
ông, mà những đồ lễ của ông đưa đến bao giờ cũng được hơn người,
ai cũng phải khen là một người lịch sự, phúc hậu, không cái kiện
nào là cái kiện ông chịu thua ai, dù ông trái mười mươi cũng vậy.
Bước công danh của ông thoăn thoắt tựa bậc thang, không bao giờ
vấp vảy, từ ông khóa mãi (khóa sinh mua) tới ông lý quyên (quyên
tiền cho làng mà được) rồi tới ông bá quốc (quốc trái), rồi đến chức
Hàn lâm ông đương cày cục thực dễ dàng, đó là nhờ ở sức đồng
tiền mồ hôi nước mắt của người trong dân, nhân lúc cha mẹ lâm
chung hay buổi sưu thuế cập kỳ, ông lèn một vốn bốn lời cho đẫy
túi.
Bạn tôi kể xong, rồi chép miệng mà rằng:
- Trong lúc nhá nhem này, dân làm sao thì nước làm vậy,
những kẻ mà ta thấy họ tâng bốc nhau là thượng lưu trong nước
hiện nay thì thiếu chi những kẻ có cái dĩ vãng xấu xa đê tiện, họ
làm mặt cao sang, huênh hoang yêu nước thương nòi, lại có kẻ
tung tiền ra mua chuộc lấy những tiếng hư vinh, gây thế lực để
mong lũng đoạn những kẻ bần cùng khốn khó, thế mà họ không
biết thẹn với lương tâm, dơ với thực giả, thực cũng đáng buồn
thay.
Đạm Hiên Thời Vụ số 31-27-5-1938
BÁO TÂN VIÊT NAM VÀ VỢ CHU MÃI THẦN
Bạn đọc chắc không ai lạ gì anh Chu Mãi Thần. Hắn là người
đời nhà Hán bên Tàu, một tay có tài mà vẫn nghèo xác, nghèo xơ,
ngày ngày phải trông vào nghề kiếm củi mà sống. Thế nhưng, hắn
vẫn tin rằng mình vẫn có ngày phú quý. Những khi vai đèo gánh
củi, hắn thường vừa đi vừa hát, ra bộ rất ung dung. Vợ hắn không
chịu nổi cảnh cùng quẫn của gia đình, một hôm phát cáu hỏi
chồng. Cái ngày phú quý của anh sẽ là ngày nào? Hắn bảo mười
hai năm nữa. Bấy giờ hắn năm mươi tuổi rồi, đợi đến mười hai
năm nữa mới được phú quý thì phỏng còn gì là đời. Nghĩ vậy, chị
ta bèn xin lá dị đi lấy người khác.
Thế rồi, mười hai năm sau hắn được vua Hán cho làm tể
tướng. Chị vợ nghe tin lại bỏ chồng mới trở về thăm hắn và xin
đoàn tụ như xưa. Hắn liền đưa cho chị ta bát nước, bảo hắt xuống
đất rồi lại hót lên, nếu còn nguyên như trước, thì hắn sẽ lại cho về
làm vợ. Ấy là chuyện vợ Chu Mãi Thần đại khái là thế. Cái đời
Tân Việt Nam cũng giống như vậy. Một ông đã thoái ngũ ở hội
Thanh niên đồng chí, một ông bị trục xuất ở cuộc vận động Đông
Dương Đại hội và một ông nữa... khó nói lắm, xin thôi không nói,
với những quá khứ quý hóa ấy, không cần nói đến lịch sử người ta
cũng đủ trông thấy bộ óc "xã hội" của họ là thế nào rồi! Huống chi
mỗi ông lại có một thiên lịch sử rất đẹp, nhiều người biết rõ, trừ ra
chi nhánh của đảng xã hội SFIO... Ấy thế mà không ai bảo ai, cả
ba ông ấy lần lượt đều xin vào đảng xã hội. Cố nhiên họ không
thèm biết chủ nghĩa xã hội là tai ếch hay là đầu cua. Mục đích vào
đảng của họ, chỉ cốt mượn tiếng đảng ấy làm thang để trèo lên ghế
nghị viện, trong kỳ sắp tới. Chi nhánh của đảng xã hội SFIO ở đây
chỉ cần đông người, không cần giữ danh dự của đảng, cho nên
người ta cứ nhận bừa họ làm đảng viên. Phường trò ra hề còn phải
bôi mượt một lượt nhọ vào mặt, chứ họ đóng vai đảng viên xã hội,
không hề dính tí "sơn" nào của quốc tế thứ hai, từ ngoài mặt cho
đến trong óc. Thế nhưng, trót đã đeo cái nhãn hiệu xã hội, tất
nhiên họ phải theo đuôi quần chúng để hòng lường gạt quần
chúng. Bởi vậy trên báo Tân Việt Nam, họ phải luôn luôn bưng
miệng không cười mà hô những tiếng "Anh em thợ thuyền", "chị
em lao động". Họ chỉ "anh em" "chị em" ở trên mặt báo, nghĩa là
anh em chị em với 4 đồng xu mua một số báo mà thôi. Thật thế,
nếu ai mà bắt gặp họ gọi người cùng dân là anh là chị hay là em
khi đứng trước mặt những người ấy, thì tôi xin đi đằng đầu.
Họ tưởng chỉ hô "anh em", "chị em" sẽ có thể bịp được quần
chúng tức thì. Chẳng ngờ quần chúng xứ này bây giờ khôn lắm, họ
hô mặc họ, không ai thèm thưa. Bởi thế họ đã dỗi với chủ nghĩa xã
hội mà quay ra quảng cáo cho đế quốc Nhật. Cái cảm tình của họ
đối với quần chúng khi ấy thật chẳng khác gì cảm tình của vợ Chu
Mãi Thần đối với chồng khi thấy chồng nghèo mà xin đi lấy người
khác. Giả sử đế quốc Nhật nuôi sống được họ thì họ đã đặt quần
chúng xuống dưới gót chân từ lâu rồi. Chỉ vì bợ đỡ đế quốc Nhật
cũng chẳng được ăn là bao, cực chẳng đã họ lại quay vào mặt thợ
thuyền lao động mà hô anh em, chị em. Lần này, quần chúng
không những không thưa, lại cho họ biết một bài học. Bài học ấy
họ nhận thấy khi đón từng ôm báo của nhà dây thép hàng ngày
đưa lại và khi xem sổ kết toán hàng tháng của các đại lý bán báo.
Những bài học đáng "tỉnh người ra". Vì thế, hồi này họ hô "anh
em", "chị em" càng riết để hòng cố lừa quần chúng cho được. Thấy
cái cảnh "có hô mà không có ứng" của họ thật cũng đáng thương.
Nhưng bát nước đã hắt xuống đất, hót lại sao được? Vợ Chu Mãi
Thần ngày xưa, chỉ có thế mà xấu hổ đến phải tự tử.
Xuân Trào Thời Vụ số 32-31-5-1938
HỌ LẠI KIẾM ĂN VÀO NẮM XƯƠNG KHÔ
Chúng tôi tưởng các nhà đương sự cũng nên vì dân quê mà
trừ khử lũ thầy địa kia, vì chính họ là những kẻ lường gạt. Hồi
này vì kinh tế khó khăn, ở các thôn quê lại đẻ ra rất nhiều thầy
địa. Bọn đó là một hạng người vô nghệ nghiệp, họ chỉ có một cái la
kinh làm vốn để lân la hết làng này đến làng khác, hết nhà này
đến nhà kia, mục đích cốt kiếm vài bữa cơm, hoặc năm ba đồng
bạc. Điều đó tuy là tội của phường bất lương, nguyên nhân cũng vì
sự mê tín của dân quê mà ra. Xưa nay dân quê rất tin phong thủy,
tín ngưỡng quỷ thần, phụng sự tổ tiên đều có hàm một cái tính
cách ỷ lại vào sức mầu nhiệm vô hình của khoa phong thủy mà
cầu lợi. Họ yên trí rằng cái số phận dân làng may rủi hay hèn, đều
theo ở hướng đình, con cháu cường thịnh hay suy vong, đều trông
vào ngôi mộ tổ. Chỗ đình chùa trong dân thôn còn bị chi nọ chi kia
ràng buộc, không mỗi chốc di đi dịch lại được, chứ như trong một
nhà, thì nắm xương kẻ chết bị họ đào lên chôn xuống luôn luôn -
hòng nhờ sự kết phát để cầu đinh tài, quyền chức.
Người ta bảo họ dùng nắm xương cha mẹ để làm mồi cầu phú
quí, thực không oan. Một việc vô lý và vô đạo như vậy, không hiểu
vì sao vẫn có người tin? Bảo rằng cuộc thành bại hưng vong trong
sự nghiệp và thân thế con người ta là do sự chủ trương của đấng
cao xanh mà khoa phong thủy, dùng âm phần dương trạch của
người ta làm cái "cầu chì" để thành toán cho sự chủ trương của
trời đất, thì người ta một khi đã gặp được thầy phong thủy để cho
ngôi đất, cắm cho ngôi nhà, rồi cứ nghiễm nhiên tọa hưởng kỳ
thành, không học mà hay, không làm mà có hay sao?
Nếu nhận rằng phong thủy là một khoa học do cái văn minh
xán lạn của Trung Hoa cấu tạo nên, lấy thiên cơ địa đạo hộ vệ cho
nhân sinh, sự mầu nhiệm có quan hệ tới sự cùng thông đắc táng
một cách rõ rệt, thì sao hiện nay dân quốc Trung Hoa lại hạ lệnh
trừ khử một cách cương quyết những kẻ làm nghề phong thủy?
Hẳn là họ cũng đã xét cái khoa học ấy, một là nhất truyền, hai là
vô hiệu, nếu còn để mãi thì chỉ gây ra cái họa quần manh dẫn
quần manh vào con đường mê tín và ỉ lại là hai cái trở lực cho cơ
tiến hóa, cho nên họ phải cấm đi. Có người nói rằng di hài cha mẹ
là bảo vật của người con chí hiếu, kẻ hiếu dưỡng cha mẹ lúc sinh
tiền thì ăn tất dâng cơm dẻo canh ngọt, ngồi tất đặt giường cao
chiếu sạch, thì khi tử hậu tất cũng phải tìm chỗ đất lành, phong
cảnh đẹp đẽ để an táng mới yên lòng. Nếu chỉ một ý nghĩ trọng
hậu ấy thì hà tất phải dùng thầy phong thủy, moi móc nắm xương
tàn, tha hết đồng này xứ khác. Xét về môn học phong thủy mà
được thịnh hành ở xứ ta, hoàn toàn nhờ sự cổ động của sách vở đời
xưa còn lại. Chẳng những người ta tán dương nó bằng sách địa lý
mà còn ca tụng nó bằng sách truyện ký nữa. Sách Công dư tiệp ký
chép những lương tướng hiền thần, lập nên sự nghiệp lẫy lừng,
không chuyện nào không nói đến việc phong thủy. Ông nọ được về
ngôi mả hổ táng, ông kia được ngôi mả thiên táng; vua Đinh Tiên
Hoàng là con rái cá, bố ông trạng Mạc Đĩnh Chi là con con khỉ độc,
bịa đặt toàn những chuyện hoang đường. Sau pho sách ấy là
quyển Nam hải dị nhân của ông Phan Kế Bích biên dịch cũng một
tính cách như thế. Thế mà ngày nay được Nha học chính công
nhận là hạng sách giáo khoa. Quyển sách ấy chẳng biết tốt cho lũ
trò non về phương diện nào, nhưng về phương diện phong thủy thì
hẳn lũ trò non sẽ truyền thụ được cái thói ỉ lại di truyền, và họ sẽ
in sâu vào bộ óc non nớt ấy rằng, tuy sống ở đời khoa học thực tế
này, riêng con dân Nam Việt còn phải nhờ hòn đất mới được vinh
thân phì gia, nhờ hòn đất mới được phấn vua lộc nước, tài năng
học thức chỉ là món phụ thuộc mà thôi. Nếu như thế thì những kẻ
làm con trong thời buổi khó khăn, gặp cảnh cơm không đủ ăn, áo
không đủ mặc, lại đèo bòng cha già mẹ yếu, vợ mọn con thơ, hẳn
cũng có khi thoáng một ý nghĩ mơ hồ rằng: sao hai đống thịt yếu
hèn kém cỏi kia, sống đã vô dụng thì chẳng chết quách đi cho
mình tìm nơi đất kết mà chôn để ta được giàu có sang trọng như
người, còn bắt mình nuôi "báo cô" mãi tới bao giờ? Tóm lại, cái
nghề phong thủy nó đã làm hại dân ta đủ các phương diện, nhất là
hồi này, vì kẻ vô nghệ nghiệp đều xoay ra làm nghề ấy lại càng tai
hại hơn. Chúng tôi tưởng các nhà đương sự cũng nên vì dân quê
mà trừ khử lũ thầy địa kia, vì họ chính là những kẻ lường gạt.
Đạm Hiên Thời Vụ số 36-14-6-1938
TRỪ NẠN CHO VAY NẶNG LÃI, LẠI NẢY RA NẠN BÁN RẺ
Muốn trừ nạn cho vay nặng lãi, chính phủ định ra các điều
kiện nghiêm ngặt để hạn chế các chủ nợ. Các chủ nợ ngày nay
không dùng tiền để đặt lãi được, xoay ra mua rẻ sản nghiệp của kẻ
cần tiền, thì lại càng nguy khốn hơn nữa. Trước kia, số tiền lãi 5
phân hay 10 phân, còn có hạn, con nhà công nợ tuy phải nhắm
mắt mà vay, nhưng còn há vọng có món nọ đập món kia, hoặc tới
hạn dù không trả được gốc thì cố lo lấy tiền lãi, khất lại để giữ lấy
ruộng đất mà làm ăn. Cùng ra, không trả được, chủ nợ muốn tịch
biên gia sản, còn phải trước bạ văn tự, thưa tòa án, xin bán đấu
giá, còn bị nhiều khoản phí tổn. Nay họ viện lẽ nhà nước cấm cho
vay, không chịu cho người cần tiền cầm ruộng đất, phải bắt viết
văn tự bán đứt, hạn chuộc lại, chỉ ước hẹn với nhau bằng miệng
mà thôi; đã thế, quá mười đồng thì chỉ bán được hai ba thôi và
tính gốc lãi tới ngày giao hẹn viết bằng văn tự. Tới hạn, không trả
được thì văn tự ấy chỉ cần trước bạ sang tên thôi.
Kỳ trả nợ của dân quê tức là sau vụ gặt bán thóc để chuộc
ruộng thì lại bị kẻ trung gian, kẻ đầu cơ bắt chẹt lần nữa! Ruộng
đất đã bán rồi, chẳng lẽ ngồi không nhịn đói, vì dân quê, ngoài
việc cày cuốc ra chẳng còn nghề nghiệp gì làm kế sinh nhai cả, bất
đắc dĩ lại phải đem đầu tới chủ ruộng xin làm giấy lĩnh canh, vì
chỉ có những kẻ lĩnh canh mới có há vọng vay mượn khi túng bấn.
Mùa mất, chiêm hỏng, mặc mình chủ ruộng cứ chiếu số thóc ghi
trong giấy bắt phải nộp. Nếu số thóc còn thiếu ít nhiều thì chủ
ruộng, tuy lại cho chịu, nhưng bắt phải giấy nhận lĩnh số thóc ấy
làm lương ăn mà chủ ruộng cấp cho, chờ vụ lúa sau sẽ nộp trả, nếu
không có trả thì xin chịu tội lừa đảo. Vụ lúa sau, cố nhiên cũng
không trả được, vì số lương ăn viết nhận trong giấy chỉ là nợ,
muốn có ăn, tất phải vay nữa. Muốn tránh cái tội lừa đảo chủ
ruộng bắt làm giấy gán người, người đàn ông mạnh khỏe cày bừa
được thì mười hai đồng một năm, người đàn bà cấy hái được thì
tám đồng, trẻ con từ 15 tuổi trở lên 4 đồng, ở làm trừ khi hết nợ,
trái chủ xé văn tự cho về; bỏ trốn đi, thì cái tội lừa đảo kia còn ở
trong tay chủ nợ. Cái sản nghiệp của người dân quê đã mỏng
manh, cho nên từ anh hữu sản đến anh vô sản, từ anh vô sản tới
anh can án, từ anh can án tới anh trộm cướp, những cái "giai cấp"
không cách xa nhau mấy nỗi.
Đạm Hiên Thời Vụ số 39-24-6-1938
CÔ TÂY HOẺN
Gặp phải cảnh mẹ chồng cay nghiệt, cô Hoẻn cắp áo trốn nhà
ra đi, đoạn tuyệt với anh chồng lưng đen, khố bện, từ giã cái cảnh
cà chua mắm mặn, với cái đời chân lấm tay bùn. Cô đi đâu? Bẵng
đi sáu bảy tháng trời, biệt vô âm tín khiến cho hai họ xảy nhiều
điều xếch mếch. Bỗng một hôm, lũ trẻ chăn trâu tới tấp chạy về
làng, hoảng hốt báo:
"Có tây về làng ta!" Các tướng nấu rượu lậu nhớn nhác xô
nhau cất dọn giấu giếm, cả cái lão trùm Đẩu đương du dương say
tỉnh với mấy phân thuốc phiện ngang cũng vội nhỏm dậy lẻn ra
đầu nhà vứt cái hến thuốc xuống ao! Tây càng đi gần tới, lũ trẻ
càng xô nhau chạy, mọi người đứng trong bụi hàng, hay nấp trong
cổng nhìn ra:
Một anh tây lính mũi lõ râu xồm, mình cao, bụng phệ, dắt
chiếc xe đạp đi bên cạnh một người đàn bà phấn son sặc sỡ, quần
áo lam, giày cao gót, chiếc ô xanh biếc, chiếu xuống bộ mặt phấn bị
mồ hôi loang lổ, bộ răng trắng nhom nhem khấp khểnh như rã rụa
với bộ môi cong mỗi khi cười nói. Bộ răng ấy, bộ môi ấy đã làm cho
dân làng nhận được là cô Hoẻn, con ông đĩ Hoét! Đi sau là một mụ
vú già khệ nệ vác chiếc va li to kệch. Lũ trẻ quê ngờ nghệch chắp
hai tay lên cổ, hấp háy trông theo, các "chủ lò rượu" yên tâm, chỉ
lão trùm Đầu tha thiết tiếc mấy phân thuốc phiện, giậm chân, đạp
cẳng, lẩm bẩm chửi bâng quơ cho hả giận rồi vào! Một bữa cơm
thết chàng rể mà cảnh nôn nao rộn rịp như trong làng có loạn, nào
xua gà, đuổi cá, chuốc từ nải chuối, kén từ mớ rạ, vất vả nhất là
ông anh đi lùng mua rượu, bánh. Trong khi ấy thì cô tây Hoẻn dắt
đức lang quân đi khắp đình chùa miếu mạo. Ông đĩ Hoét cũng áo
the khăn lượt dẫn theo sau, giảng giải từ bệ tế thần nông tới văn
chỉ tế thánh Khổng, mở rộng cửa đình cho con rể xem chỗ phụng
tự, chỗ ăn ngồi. Sau những tiếng rụt rè nhỏ nhẹ của ông đĩ Hoét,
cô Hoẻn lại cong môi chĩa răng ra thông ngôn lại bằng một chuỗi
tiếng bồi, lũ trẻ chạy theo xem cũng học lỏm được mấy chữ "lúy
phe", "lúy điếc".
Bác lính tẩy lúc bấy giờ trông hiền lành ngoan ngoãn tệ!
Chẳng thế mà mỗi lần đi ra xa một tý, cô Hoẻn gầm lên một tiếng
"sê ghi" mà chậm lại, là cô nhả tiếng ta chửi thống cho một hồi, chỉ
thấy anh Tây há hốc mồm ra cười, chứ không hằm hằm độc dữ
như mấy anh tây đoan về bắt rượu mọi ngày. Cô Hoẻn càng thấy
dân làng đổ ra xem, lại càng trổ tiếng tây dữ! Vừa nói vừa khua
tay mua chân cười nói tự nhiên, nhưng cũng nhiều người chê là lố
bịch! Chiếc va li trong đựng những gì? Đó là những khí cụ văn
minh của tây đủ cải hóa cả một gia đình ông đĩ Hoét! Này thì đây:
Của quý mà con gái và con rể đem lại cho ông: một cái kê pi, một
cái cát két, hai thứ tiện dụng cho cha và anh lúc cày bừa, dùng nó
che nắng mà không bị gió lật như đội nón, bốn chiếc bành tô vàng
đã cũ, hai cái sơ mi đàn ông, ba cái cóc sê viền đăng ten, trông
cũng hay hay, bà đĩ Hoét tính không hay đỏm dáng, chỉ dấn vài
nước nâu là được một cái vừa làm áo vừa làm yếm, tiện biết bao!
Này lại hai đôi giày, một đôi bằng da dưới có đinh lởm chởm, đôi
này ông đĩ sẽ dùng khi có đám thứ việc làm, còn đôi băng túp thì
để cho ông anh khi đi tuần có cái dùng cho đỡ xéo phải gai. Đến cái
khăn bông tắm kích nô, tuy còn lành nhưng hân ố nhiều chỗ. Ông
đĩ Hoét bảo:
Cái này nhấn vài nước vỏ xó để mùa rét làm khăn bịt đầu thì
ấm chán! Một cuộn tranh trong có đủ cả ảnh mấy tướng Foch, lòe
loẹt, những mẫu áo tây gọn ghẽ của hàng thợ may, cô Hoẻn mắt
trông, tay chỉ cho cả nhà xem những cái hay cái lạ trong quyển cát
ta lô nào cái cối xay hạt tiêu, cái cối xay cà phê, cái cối vắt nước
chanh, cái cùi dìa, cái phóng sét.
Ai cũng nắc nỏm khen cô thông minh sáng láng, giá không đi
ra ngoài, thì đời nào biết được như thế! Cô lại quá cao hứng bắt
ông bố đặt tên hai con chó. Một con đặt tên là con phốc để thay tên
con cộc, một con đặt tên là ki ki để thay tên là cái! Vì cô rất ghét
gọi chó mà lại cứ rống lên êu-êu, cộc-cộc! Cô bắt dọn riêng cho cô
một cái chái nhà để cô đem bộ giường về kê, phòng khi đi về có chỗ
nằm, hoặc khi chồng đi "man nơp" hay đi "câu lơn" thì cô về ở cho
vui. Ngày vui ngắn chẳng đầy gang, vợ chồng cô sắp từ biệt ra đi,
ông đĩ Hoét còn giữ lại việc trả của cho người chồng cũ. Cô trợn
mắt nói:
"Thây mẹ chúng nó, tôi lấy tây thì tôi tức là đầm rồi, đứa nào
vô phúc thì động đến lông chân tôi mà chơi, thầy đừng lo! Việc làm
ăn cứ chăm chỉ rồi có muốn tậu ruộng tậu vườn, nếu trong làng ai
bán thì thầy cứ ra bảo tôi. Thằng này tuy khá, nhưng nó sắp phải
về tây, chẳng bòn cũng thiệt".
- Thế "anh nó" không sang nữa ư? Rồi làm thế nào?
- Không sang thì thôi, lấy thằng khác, cần gì!
Trong khi nói chuyện anh tây lúi húi sửa cái xích xe đạp, cô
Hoẻn cầm cái ô tần mần xỉa xuống đất thành những lỗ con, rồi
ngước mắt nói:
- Rồi tôi sẽ dắt díu cho lũ trẻ làng ta ra ngoài ấy, dạy dỗ cho
tiếng tây thông thạo, phấn son vào, ăn mặc vào rồi mối manh cho
khéo, bùa thuốc cho linh, thay quyền cha mẹ chúng nó mà gả bán
cho tây thì phải biết là khá!... Tội gì mà cứ bắt chúng nó chăn trâu
cắt cỏ ở chốn quê mùa này, khổ bỏ mẹ đi ấy.
Tiếng chuông xe đạp bấm kính coong, báo hiệu giục đi, cô
Hoẻn nhoẻn mép nghiêng mình chào bố mẹ, bác lính tây ngả mũ,
chìa tay ra bắt tay ông đĩ Hoét mà bảo:
"Ông già bố cu tốt" kèm theo một tiếng cười ròn rã gửi lại cái
nhà tranh. Lũ trẻ chạy theo một cách bạo dạn hơn!
Đạm Hiên Thời Vụ số 40-28-6-1938
TÉ RA ÔNG BÙI TIẾN M... TRÚNG SỐ KHÔNG VÌ VẬN ĐỎ
Thời vụ số trước có nói đến vụ ông Bùi Tiến M... trúng số 4
nghìn. Chúng tôi cho rằng: sự phát tài ấy của ông M... là nhờ ở
vận đỏ mà ra. Một người trước đây 10 năm còn là thừa phái bị
cách chỉ vì có dự vào bộ trọng yếu của đảng Việt Nam Quốc dân
mà biết nhiều sự bí mật của đảng ấy... rồi không biết làm sao
trong khi bảy tám đồng chí và ông nhạc mình đi Côn Lôn, thì
mình đặc cách làm ông tri châu, rồi tri huyện, rồi tri phủ, bây giờ
lại trúng cả số độc đắc, như thế ai không bảo là vận đỏ. Kỳ thực
không phải! Sự trúng số đó cũng nhờ công lao khó nhọc của ông
M... mà có, chẳng phải là sự ngẫu nhiên. Theo lời ông M... đã nói
với phóng viên Việt báo thì ít lâu nay, ngoài việc chăn dân Yên
Sơn, ông ấy còn bị quan tỉnh Tuyên Quang cử ra trông nom công
cuộc tu bổ mấy ngôi đền ở Tam Cờ nữa. Công cuộc thứ hai đó tuy
có vất vả nhưng ông ấy không hề quản ngại. Các đền chữa xong,
theo ý ông M... đâu đâu cũng đẹp cả, chỉ hiềm có lớp mái hiên quá
hẹp nó không đủ sức che chở mưa nắng làm lạt màu vàng son, ông
rất lấy làm áy náy trong lòng. Thế rồi, một hôm ông ấy khấn đầu
trước bóng Thánh mẫu, khấn rằng:
Nếu được "mẫu" run rủi cho một dịp phát tài thì ông sẽ bày
tỏ với quan tỉnh sửa lại cái mái hiên ấy cho rộng thêm và đẹp
thêm. Cố nhiên những câu khấn ấy đều là những sự thành tâm.
Nó cũng thành tâm như khi các quan nhỏ dâng cái "vi thiềng" lên
các quan lớn, chứ nó không giống những lời thề nhảm ở trước bàn
thờ tổ quốc của đảng Việt Nam Quốc dân. Bởi thế, sau khi trúng
số, ông M... mới thành thực nhận là công hiệu của mấy câu khấn.
Nghĩa là mấy câu khấn ấy lọt đến tai "mẫu", nên "mẫu" phù hộ
ông M... được 4 nghìn đồng. Có thể thế được lắm. Thánh mẫu tuy
là thần thánh song cũng ở trong đất An Nam, lẽ dâu lại không
thích những cái "vi thiềng" của người ta khấn? Nghe nói ông M...
đã sắp sửa thực hành những lời khấn đó. Bằng món tiền 4 nghìn
đồng, ông ấy đương định sửa lại cái mái hiên của đền Hiệp Thành
và cứu giúp cho kẻ nghèo khổ, còn nữa thì để làm vốn cho các con,
chứ không làm chay siêu độ cho những đám u hồn đương vẩn vơ
ngoài Côn Đảo.
Như thế cũng phúc đức lắm rồi. Với cái công đức lớn lao ấy
chắc thánh mẫu lần này sẽ phù hộ cho ông M... bằng hai lần trước.
Không phải tôi nói kỳ sau "mẫu" sẽ run rủi cho ông M... trúng số 8
nghìn. Đường đường một ông tri phủ có thiếu gì của? Cái cần của
ông M... ngày nay có lẽ là con. Vì khi tiếp phóng viên Việt báo ông
ấy mới kể Ngô Tất Tố phê phán Bùi Tiến M... đã thề trung thành
vói Việt Nam Quốc dân đảng (Nguyễn Thái Học) nhưng sau đó lại
phản bội. tên hai cô con gái do hai bà phủ đẻ ra và một cậu con
nuôi của ai đẻ hộ thì không biết, chứ không thấy nói đến tên con
trai. Nếu như ông ấy chưa có con trai thì là trời không có mắt.
Chắc rằng chuyến này "mẫu" sẽ phù hộ ông ấy cố đẻ lấy năm, bảy
người con trai để cho có kẻ thừa nhận những cái phú quý mà ông
ấy đã lập lên từ viên thừa phái bị cách đến chức tri phủ! Nhưng đó
còn là câu chuyện về sau. Bây giờ chỉ nên nhớ rằng: nhờ sự trúng
số của ông M... mà cụ Khổng lại được lòi ra một vị tín đồ. Phải, khi
tiếp phóng viên Việt báo, ông M... có tự phô mình là tín đồ của cụ
Khổng thật. Không biết ông ấy đã đi theo cụ Khổng hồi nào? Có lẽ
là lúc còn làm thừa phái. Dù sao mặc lòng, trong khi thánh đạo
suy vi mà được có một ông phủ tự nhận làm tín đồ, cụ Khổng chắc
lấy làm hả! Điều đáng nói là nếu ông M... mà là tín đồ cụ Khổng,
thì ông Nhiễm Cầu chắc phải ghen đến hộc máu. Ông này không
phản đảng, chỉ có cái tội làm giàu cho kẻ quyền thần họ Quý! Thế
mà cụ Khổng còn sai học trò thúc trống đuổi đi, không cho là môn
đệ mình nữa. Ấy, cụ Khổng ngày xưa nghiệt như thế đấy. Không
rõ quan phủ Bùi Tiến M... có biết hay không?
Xuân Trào Thời Vụ số 53-12-8-1938
PHẢI HỎI NGÔI ĐỀN ẤY THỜ ÔNG NÀO ĐÃ
Có lẽ dân làm muối ở Thái Bình hôm nay hãy còn mất vía về
vụ đền làng Ngải Châu bị đốt. Người đã đốt ngôi đền ấy không
phải là gặp cướp, chính là ông Dauret, nhân viên của sở thương
chính. Bữa đó nhằm ngày 11 Aout, chừng ba giờ chiều, ông Dauret
có đem một bọn tùy tùng đến làng Ngải Châu để khám muối lậu.
Nhưng cái làng vô lễ, không biết chiều ý nhân viên nhà đoan trong
khi ông này đến khám, họ "dám" không có một hột muối lậu nào
cả. Chừng cũng cáu về tội đã làm cho mình phải lặn ngòi ngoi nước
tới nơi, mà không kiếm được chút tang vật gì có thể xin bắt phạt
họ để lấy hoa hồng, ông Dauret liền sai lũ người tùy tùng phóng
hỏa đốt ngôi đền của làng ấy. Thế là ngôi đền ấy đã phải chịu cái
số phận của chùa Hồng Liên trong chuyện kiếm hiệp Tàu. Nghe
nói dân làng Ngải Châu đã phái người đi trình quan sở tại, và
quan sở tại đã về tận nơi làm biên bản để ghi lại cuộc "hỏa thiêu"
ấy. Việc này chắc còn lôi thôi. Chưa ai có thể đoán trước nó sẽ lôi
thôi như thế nào. Người ta chỉ biết dư luận vùng bể rất cay cú về
cái hành động lạ lùng ấy của một ông nhân viên nhà đoan. Một
bạn đồng nghiệp trong khi đăng cái tin đó đã phải cho là một việc
đáng than phiền, vì nó phạm đến sự tín ngưỡng của người An
Nam. Rồi bạn đồng nghiệp ấy xin chính phủ răn bảo những viên
chức nhà Thương chính từ nay không được làm như thế nữa. Cố
nhiên lời nghị luận của bạn đồng nghiệp vẫn là chính đáng. Nhân
viên sở Thương chính chỉ có trách nhiệm đi khám những nhân vật
lậu thuế, sao lại kiêm cả việc đốt đình đốt chùa của người An
Nam?
Nhưng nếu nghĩ lại cho kỹ, chúng ta... phải hỏi xem cái đền
ấy thờ ông nào đã. Phải! An Nam vốn là một nước nhiều Thần
nhất thế giới. Cái vạ "thần mãn" kéo dài mấy trăm, mấy nghìn
năm nay, làm hại bao nhiêu trâu bò, gà lợn của chúng ta. Đành
rằng cũng nhiều ông thần có công với dân, đáng để cho dân kỷ
niệm, song cũng vô số ông thần cực kỳ bẩn thỉu, dơ dáy; thí dụ như
ông thần Cường bạo đại vương chẳng hạn, nếu còn sống chắc phải
đi đày... Thế mà chúng ta cứ thờ bừa đi, lễ bừa đi, há chẳng oan
cho cái đầu, cái cổ! Bao nhiêu năm nay chúng ta chẳng hô hào trừ
sự mê tín đấy ư? Nhưng có được đâu? Nó vẫn bám vào hai chữ tôn
giáo mà được trơ như đá vững như đồng vậy!
Xuân Trào Thời Vụ số 57-26-8-1938
THẾ THÌ NHÀ BÁO LÀ ÔNG TRỜI
Các báo Trung, Bắc chưa được có hân hạnh ấy. Đây là sự
vinh dự của các bạn đồng nghiệp trong Nam! Nhưng không phải là
chuyện tự do báo chí. Nó là dây dưa của nạn cướp lúa. Trong một
bài trước, tôi đã nói qua, nạn ấy, độ nọ, đã làm cho nhiều nơi ở
miền Hậu Giang hầu như lộn xộn trật tự. Cứ lời ông Nguyễn Văn
Sâm đã nói trong báo Tự do, thì đầu đuôi trong mấy hôm trời, hai
tỉnh Bắc Liêu, Rạch Giá xảy ra mười đám cướp lúa cả thảy. Nói là
cướp, chẳng qua tôi muốn hà tiện cho cái ngòi bút. Kỳ thực bấy
nhiêu đám đó đều chưa đủ điều kiện được gọi là những vụ cướp.
Bởi vì bao nhiêu ngàn người dự các vụ ấy đều không có một tấc khí
giới. Hơn nữa, khi đến những nhà chủ điền, nhiều người còn trao
cho họ những bức văn tự vay nợ, có ký tên tuổi rõ ràng. Đáng lẽ
phải gọi là vay. Nhưng vì trong khi hỏi vay, người ta không đợi
chủ nợ ưng ý, cứ kéo ùa vào mà xúc lấy lúa, vay đâu có lối vay thế!
Thà bảo là cướp còn có nghĩa hơn. Dù vay dù cướp cũng vậy, sự
đặt tên ấy không quan hệ gì. Cái quan hệ là nguyên nhân nạn ấy ở
đâu mà ra? Quan thống đốc Nam Kỳ bảo là có kẻ xúi giục. Ông
Nguyễn Văn Sâm của báo Tự do bảo tại cái máy chính trị vụng về,
không biết kiếm công tìm việc cho dân làm ăn trong khi túng
thiếu. Bạn đồng nghiệp Lục tỉnh tân văn chừng muốn được lòng
mấy ông xét tá đổ tội luôn cho đạo nghị định cấm việc cho vay
nặng lãi. Còn tôi? Lúc đầu, tôi vẫn tưởng rằng:
Nạn đó, một phần là tại mấy ông chủ ruộng. Giả sử, ngày
thường các ông ấy không bòn rút bọn kia một cách thái thậm, thì
dù có gặp một năm mất mùa may ra họ cũng không đến nỗi đói.
Hay là giả sử trong lúc họ trót đói rồi, các ông ấy chịu bố thí bớt
cái thừa thãi của mình để cứu những bộ dạ dày trống rỗng của họ
thì đâu đến nỗi họ phải rủ nhau đi cướp? Nhưng không thế!
Những năm được mùa, người ta đã nạo xương họ, hút tủy họ chỉ
để họ đủ sống một đời ngắn ngủi, rồi khi đói khổ, người ta khư khư
khóa chặt "lẫm lúa" không chịu vung ra một hạt.
Nào ai cãi lại câu đó để tôi xin mời hai ông Hứa Quang Chiểu
và Trương Quang Thành làm chứng. Bằng một thứ giấy bạc đặc
biệt, ông Chiểu đã cho tá điền vay nợ với kiểu "một vốn tám chín
mười lời". Và trước cái cảnh nheo nhóc của hàng nghìn dân đói,
ông Thành vẫn chất lẫm một vạn ba nghìn giạ lúa để cho mọt ăn.
Những chuyện ấy trong tờ báo này đều có nói đến.
Thế là người ta chế tạo ra lũ dân đói để bắt họ phải đến nhà
mình mà cướp chứ gì? ấy là khi trước thì tôi nghĩ vậy. Song, sợ
mất lòng mấy ông điền chủ, cho nên hôm nọ tôi phải kết án cho
con ma đói. Nhưng xét cho kỹ buộc tội nó oan nó, chính nó cũng là
khổ chủ, không phải thủ phạm. Vì thế, tôi đương muốn trút tội lỗi
vào đầu ông trời. Bởi tại ông ấy gây ra nạn lụt nạn "tim", lấy hết
lúa gạo của lũ dân cày, cho nên mới đẻ ra lũ ma đói chuyên xui
đàn bà con nít kéo đi cướp lúa. Quả báo! Tôi mới nghĩ vậy mà chưa
kịp nói, thì, như muốn trả thù cho trời, mấy ông điền chủ trong
Nam đã quay trở lại mà đổ tội luôn cho các bạn đồng nghiệp của
tôi trong ấy. "Cái nạn dân đói cướp lúa, chỉ tại các báo quốc âm
gây ra", khi quan thống đốc xuống miền Hậu Giang, các ông ấy nói
ở trước mặt ngài như thế, và các ông ấy còn yêu cầu chính phủ
khôi phục lại việc kiểm duáệt báo chí là khác. Cố nhiên các báo
trong ấy không có báo nào xui dân đi cướp lúa, cũng không báo
nào xui dân "đói đi". Thế thì cớ sao lại bị người ta gắp lửa mà bỏ
bàn tay? Hay là các bạn đồng nghiệp trong ấy đã có bí thuật gây
ra nạn lụt, nạn "tim"? Nếu thế thì các báo quốc âm cũng có uá
quyền thiêng liêng như ông trời rồi còn gì! Nhưng không nên trách
mấy ông chủ ruộng, chỉ trách các báo trong ấy. Làm sao các bạn đã
lĩnh cái trách nhiệm hướng đạo quốc dân, mà còn để cho khu vực
của mình vẫn có những ông điền chủ ngây thơ đến vậy? Tôi muốn
yêu cầu các bạn từ đây trở đi, mỗi bạn nên mở thêm một mục
"điền chủ giáo dục" dành riêng cho mấy ông ấy.
Xuân Trào Thời Vụ số 74-25-10-1938
TỘI TRẠNG CÔ VŨ THỊ CÚC
Hỡi ôi thương thay, ông huyện Trường Bắc Giang đã theo
ông huyện Toán Yên Bái mà há sinh tính mệnh cho nghề đào mỏ
mất rồi. Thế là trong một năm trời, cái nghề tai hại đã giết chết
của dân Bắc Kỳ hai ông "phụ mẫu". Thật là "sinh ư nghệ, tử ư
nghệ", tôi xin trịnh trọng có lời chia buồn cùng các tang quyến. Chỉ
tiếc nghề đào mỏ này không giống nghề đào khác, người ta không
thể vin luật lao động mà đòi tiền tuất của chủ. Tội nghiệp! Với ông
huyện Trường cũng như ông huyện Toán tôi phải kính trọng vong
linh những người đã quá cố (dù là quá cố về nạn đào mỏ cũng
không dám động đến). Và nếu có cần, tôi cũng kính trọng cả cái
nghề nghiệp của các ông ấy luôn thể. Bởi vì nhân sinh bách nghệ,
ai thích nghề gì làm nghề ấy, miễn là nhất nghệ tinh, thì nhất
thân vinh. Hai ông ấy đã làm tri huyện lại kiêm cả nghề đào mỏ
chẳng qua cũng muốn vinh thân như mọi người vậy. Chẳng may
gặp phải cái "mỏ dữ", các ngài đã lỗ đến thân thể, thì nó chỉ thiệt
cho đời các ngài chứ có hại gì đến ai mà nói. Không nói ông huyện
Trường. Nhưng không thể nể cô Vũ Thị Cúc, cái cô hàng gạo đã có
mỏ để ông Trường đào và đã vừa đâm vừa chém ông Trường đến
34 nhát. Người ta đồn rằng: cô ấy có biết võ nghệ. Trong lúc mở
cửa hàng gạo, cô ấy tuy lượt thượt với bộ quần áo tân thời, nhưng
có lần đã một mình đẩy một chiếc xe gạo từ Hà Đông lên Hà Nội
không quản ngại. Có thật vậy không? Nếu quả như vậy thì cô Cúc
cũng là một hạng đàn ông trong đám đàn bà. Vả lại, trong khi sắp
giết ông Trường, mà gặp ông ấy đương ngủ, cô ta còn đánh thức
dậy để bảo cho biết sự hành động của mình, không thèm giết vụng,
giết trộm.
Như vậy, cô ấy vẫn không tránh khỏi tội lỗi. Tôi không nói
cái tội giết người. Là vì việc đó phần của Tòa án. Tha bổng hay
làm án cô ấy do ở quyền các quan tòa, phúc đức nhà tôi được bao
mà dám buộc tội cho người? Tôi chỉ ghép cô ấy vào cái tội dốt,
không đọc Cung oán ngâm khúc. Các ngài hẳn không ai mà không
nhớ ở trong Cung oán ngâm khúc, tác giả đã nói nhiều câu chí lý,
đáng làm gương cho các cô gái kén chồng. Thí dụ:
Mỗi phú quí dử làng xa mã, Bả vinh hoa lừa gã công khanh
Giấc Nam kha khéo bất bình, Bừng con mắt dậy thấy mình tay
không Hay là Miếng chung đỉnh phong lưu nhưng lợm Mùi hoắc lê
thanh đạm mà ngon Cùng nhau một giấc hành môn Lau nhau ríu
rít có con cũng tình Giả sử cô Cúc mà đọc những câu đó, tất nhiên
không phải mang tội sát nhân. Bởi không chịu đọc những bài học
đó, nên cô ấy mới say mồi phú quí, thèm bả vinh hoa, mà đem mỏ
của mình dâng cho ông Trường, để hòng mua lấy chức bà huyện.
Rồi vì thích làm bà huyện, cô ấy mới bị ông Trường hắt hủi trong
khi quặng mỏ đã hết. Lâm đến nước ấy, cô gái táo bạo kia nếu
không làm kẻ giết người, thì chỉ còn cách tự tử, chứ biết ăn làm
sao nói làm sao cho khỏi nhục với cha mẹ chị em! Thôi thế cũng
xong! Từ nay trở đi xã hội An Nam có lẽ sẽ ít người nghiệm làm bà
và cũng đỡ sản xuất những ông kỹ sư đào mỏ.
Xuân Trào Thời Vụ số 79-18-11-1938
TỘI TẠI BÀ CHÚA HÀNG TRỐNG
Tôi muốn nói thêm về vụ án mạng ông Nguyễn Xuân
Trường. Nhưng chưa biết công việc xét xử của các quan tòa ra sao.
Nhưng mà những người thân với ông Trường, chắc ai cũng muốn
trị tội cô Cúc thật nặng, trừ ra ông Nguyễn Duá Long. Cố nhiên,
đối với kẻ thù, nhất là kẻ thù đã đâm và chém người thân của
mình, người ta phải có ý ấy. Nhưng theo ý tôi, cô Cúc dù phạm tội
đi nữa, cũng chỉ là tội tòng phạm. Còn kẻ thủ phạm phải là bà
chúa Hàng Trống. Bà con Hà thành thì không ai lạ cái đền Hàng
Trống. Nhưng nếu hỏi vị thần đền ấy là ai, có lẽ cũng ít người biết.
Ấy là một bà "cô đào" đã thuê ông Nguyễn Công Trứ quẩy đàn bà
và bị ông ấy cưỡng bách làm vợ mấy phút ở nơi đồng vắng đêm
khuya, rồi khi việc cũ đã quên, bà ấy còn làm cho ông cụ kia phải
nhớ tình xưa bằng một câu hát:
Giang sơn một gánh giữa đồng Thuyền quyên "ứ hự", anh
hùng nhớ quên? Từ địa vị nàng hầu ông Nguyễn Công Trứ lên đến
địa vị bà thần của phố Hàng Trống, không biết bà ấy còn phải trải
qua những thế nào nữa. Chỉ biết từ lúc làm thần đến nay bà ta ra
bộ thiêng lắm. Chẳng thế mà ở cửa đền, ngày nào như ngày ấy,
người vái cứ đông nghìn nghịt, đủ cả Tây, Tàu, An Nam, chỉ thiếu
có người Nhật Bản. Họ vái một cách tàn nhẫn, vái lia vái lịa, vái
hủy vái hoài, vái từ dãy hè bên kia chõ sang dãy hè bên này,
không nể những người đi đường. Không thiêng liêng sao lại được
thế? Vì thiêng, cho nên thỉnh thoảng lại có những người đem đầu
đến đó mà thề.
Cứ lời cô Cúc đã khai với quan dự thẩm Bắc Giang, thì lúc cô
ấy với ông huyện Trường nhân tình với nhau, hai người đã có đem
nhau đến thề ở đền Hàng Trống. Ông Trường thề rằng:
"Một khi đã công thành danh toại sẽ cùng Cúc kết tóc xe
tơ..." Đó là theo tin của báo Đông Pháp. Tuy rằng báo ấy chỉ thuật
có thế, nhưng mà người ta có thể chắc rằng ở dưới câu đó còn một
câu độc địa bằng chữ "nếu"... Nếu như không thế thì sao thành ra
lời thề và sao cô Cúc lại tin? Trong thế gian này, bao nhiêu cuộc
thề đều có linh nghiệm cả. Ai không tin hãy giở Truyện Kiều ra
mà coi:
Kim Trọng khi gặp Thúy Kiều thì:
Tiên thề cũng thảo một chương, Tóc mây một món dao vàng
chia đôi Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai miệng một
lời song song.
Mã Sinh khi mua Thúy Kiều thì: Cạn lời khách mới thưa
rằng Bước chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao Mai sau dù có thế
nào, Kìa gươm nhật nguyệt, nọ dao quỉ thần.
Tú Bà khi mua Thúy Kiều thì: Mụ rằng con hãy thong dong
Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi? Mai sau ở chẳng như lời, Trên
đầu có bóng mặt trời sáng soi.
Bạc Hạnh khi lừa Thúy Kiều thì:
Bạc Sinh quỳ xuống với nàng Quá lời nguyện hết thành
hoàng thổ công. Sở Khanh lúc dắt Thúy Kiều đi trốn, cũng có thề,
cho nên nàng mới nói với Mã Kiều là chàng đã "thề thốt nặng lời,
có đâu mà lại ra người hiểm sâu". Bấy nhiêu người thề với cô Kiều,
trừ ông tri huyện Kim Trọng đã được vuông tròn, vì đã trước sau
tha thiết với nàng còn các người khác không giữ lời thề, đều phải
máu rơi thịt nát tất cả. Người ta vẫn bảo việc đó do ở Từ Hải làm
ra, kỳ thực đâu có phải vậy. Sở dĩ bọn đó mà phải mất đầu, chỉ tại
những vị trời đất, quỷ thần đã bị mời làm giám thệ, cố sức làm
việc phận sự, xui khiến đại vương họ Từ báo oán cho Thúy Kiều
đó. Bà chúa Hàng Trống cũng bị ông Trường, cô Cúc mời làm giám
thệ, và ít ra cũng có ăn lễ của cô ấy nữa tất nhiên bà ấy cũng phải
làm hết phận sự khi thấy ông Trường có ý lỗi thề. Nếu như bà ta
mà bỏ phận sự không làm, thì sau này còn ai đến đó mà lễ và vái.
Vậy thì cái vụ án mạng ông Trường, chẳng qua bởi tại bà chúa
Hàng Trống xui giục cô Cúc phải đối đãi với ông huyện Trường
bằng cách "thề sao thì lại cứ sao gia hình", không phải hoàn toàn
là tại cô ấy. Vì thế nên coi bà ấy là bậc thủ phạm trong vụ này.
Xuân Trào Thời Vụ số 82-29-11-1938
VIÊC TUẦN PHÒNG Ở CÁC LÀNG
Hương thôn có tuần tráng cũng như ở thành thị có cảnh sát,
để ngày đêm canh giữ trong làng và ngoài đồng, ngăn ngừa trộm
cướp, cấp cứu thủy hỏa cùng thi hành những mệnh lệnh của dân.
Người đi tuần đã vì công an, công ích mà xuất lực, thì phận sự của
người cùng làm đều vui lòng báo lại bằng lệ lấy lúa sương, mỗi sào
vài lượm, hoa màu ngô khoai thì mỗi sào mấy xu, trong làng thì
cho thu tiền nóc nhà chia ra làm ba hạng, nhà ngói nhà gỗ và nhà
tre, thuế trâu bò và tiền cheo của con gái khi đi lấy chồng. Cổ lệ,
thì mỗi làng cắt mười người đàn em chia nhau canh gác trong năm
trống canh, hai người trương tuần thì hiệp lực với phó lý để trông
nom đốc thúc. Những món lợi hàng năm mà dân cho chẳng qua chỉ
là món phụ cấp, chứ không phải lương, vì món tiền ấy chẳng được
bao nhiêu. Về sau, những nhà giàu có, đến tuổi đóng góp với làng
không chịu gánh vác việc khó nhọc ấy, nhà nghèo thì trông vào số
lợi ấy không đủ nuôi thân cũng sinh lòng chán nản, người ta mới
nghĩ cách mua nhiêu mua xã để cho hạng bạch đinh trọc phú bỏ
của ra cho khỏi phải chịu việc khó nhọc. Thế là từ đấy, những việc
gian lao nguy hiểm ấy trút cả cho bọn cùng đinh. Bắt những người
nghèo khó, nhà tranh vách đất, ăn đói mặc rét, phải canh giữ cho
những người giàu có sung sướng. Bọn đó cố nhiên là ai cũng có
quyền khinh rẻ thì những món lợi mà dân để cho lại bị bọn tổng lý,
nha lại, lính lệ, lính tuần lấy thế là người được quyền kiểm soát,
đốc thúc rồi cũng tìm cách ăn bớt, ăn chặn mất cả. Ngoài việc
phận sự canh gác, lại còn phải hầu hạ các ông tổng lý, nào là theo
hầu ông lý ông bá trong các đình đám, nào là phục dịch trong nhà
các ông ấy khi có giỗ chạp, hoặc sai bảo việc này việc khác của
những ông có quyền đánh mắng. Quyền lợi đã không có, công việc
lại khó nhọc, thế mà trong việc canh giữ nguy hiểm thì khí giới
không có, luyện tập cũng không thì địch lại thế nào được những
quân trộm cướp hung bạo.
Một khi trong làng có trộm cướp xảy ra, nếu không đút lót
cho tổng lý, van lạy sự chủ thì sẽ bị người ta khép vào tội không
ứng cứu mà bắt đền, bắt lỗi nữa. Xưa nay việc trộm cướp xảy ra
trong làng phần nhiều là do bọn du thủ du thực kết nạp với bọn ở
ngoài mà đem việc trộm cướp về làng. Việc xong rồi cũng có người
biết là tự thằng nọ thằng kia mà không dám nói rõ trước mặt nhà
chuyên trách, vì việc thám báo đã chẳng lợi gì, mà có khi mắc tội
man báo, có khi bị chúng nó thù oán khó lòng làm ăn yên ổn được.
Bọn tổng lý nhân đấy tìm cách ăn thông với cướp, tìm cách che chở
bênh vực, dọa nạt sự chủ, tuần phiên, rồi lập tờ trình qua quýt cho
xong chuyện, ngoài việc dối trá trong việc khai trình, còn bắt sự
chủ và tuần phiên đút lót với quan nữa. Việc phòng thủ thôn quê
hiện nay có mấy điều khó khăn là cấp lương cho tuần phiên thì
dân đinh, điền họ đóng góp nặng nề lắm rồi, không chắc có thể
nuôi nổi lương tuần, mà tuần có lương, tổng lý không có lương thì
trước hãy xảy ra một cuộc đấu giá cho nha lại tổng lý, rồi sau này
anh nào được còn phải cung ứng cho khỏi bị họ hành hạ để bóp
nặn. Việc luyện tập thì không có người huấn luyện, mà cũng chưa
biết huấn luyện theo phương pháp võ nghệ của ta, hay theo lề lối
của nhà binh. Nếu tập theo võ nghệ của ta thì môn ấy đã thất
truyền từ lâu, và có cũng không thể đem giáo mác gậy gộc ra đối
địch với quân cường đạo có súng ống đạn dược.
Nếu tập theo cách nhà binh thì hẳn là chính phủ không bao
giờ dám cấp súng cho tuần. Việc dò xét trộm cướp cần phải có một
cơ quan thám thính, thì hiện nay sở liêm phóng bắt buộc sự chủ
phải nộp tiền lệ phí rất nặng, rồi mới ra lệnh truy tầm là một sự
rất khó khăn, mà quan bản hạt thì trăm việc đổ vào đầu, không
sao làm xiết được, nếu trong hạt mà trộm cướp nổi lên lại là một
dịp kiếm tốt, một việc không quan thiết tới cuộc thăng thưởng của
mình như việc bán rượu cho chạy, thu thuế cho róc, thì tội gì vất
vả khó nhọc, mà có khi lại còn nguy hiểm tới thân...
Đạm Hiên Thời Vụ số 83-2-12-1938
ĐẺ CHẬM MẤT VÀI NGHÌN NĂM
Theo tin của báo Tự do, ở tỉnh Tân An mới có một cuộc tôn
vương. Đức tân quân hãy còn đương tuổi ấu xung, ngài lên ngôi
sau khi ra đời độ vài ba ngày, có lẽ còn chưa khai sinh, chưa kịp
đặt tên, đặt hiệu. Cứ như bài tường thuật của báo Tự do, thì ngài
chỉ là cháu ngoại một người hương chức, gọi là Hương X. Không
phải người của cành vàng lá ngọc nào cả. Sở dĩ ngài được lên ngôi
báu hoàn toàn nhờ ở mệnh trời. Người ta nói rằng: bà thân của
ngài, năm nay tuổi mới đến thì. Người còn là hạng gái tân, chưa có
kết duyên với ai. Thế mà từ mấy tháng trước, tự nhiên thân thế
của người cứ phinh phính lớn giữa lớn ra, y như một người có
chửa. Ông Hương, bà Hương cho là chuyện lạ, đã cố gạn hỏi căn
do.
Người nói: chính người chưa từng gần với đàn ông. Chỉ vì
một hôm nằm mơ được ăn một quả đào tiên rồi sinh ra thế. Nếu là
ngày xưa tất nhiên người không thể ở nhà được nữa. Vì nếu ở nhà
sẽ bị làng bắt mất trâu. Nhưng ở ngày nay thì không ai động đến
lông chân, người vẫn tự do như thường. Thấm thoát hết hạn 9
tháng 10 ngày, quả đào tiên ở trong bụng người cố nhiên phải tìm
đường ra. Thì ra đó là một đứa con trai, cũng như vô số cái bào
thai khác. Chắc là chung quanh đứa con trai ấy cũng chẳng có gì
lạ đâu.
Nhưng vì ông Hương bà Hương hoặc giả có đọc truyện Phấn
trang lâu, cho nên mới nói thêm rằng: Thằng con trai ấy lúc lọt
lòng mẹ, tay phải thấy có hai chữ "sơn hà" tay trái thì có hai chữ
"xã tắc". Sơn hà xã tắc nằm ở trong tay, chẳng phải là vua thì gì?
Thế là dân kéo đến bệ kiến rất đông. Họ đặt đứa con trai ấy lên
bàn thờ, rồi họ thi lễ bái và gọi là vua. Việc đó đến tai quan quận.
Trong lúc lễ đang cử hành một cách linh đình thì có lính quận đến
bắt. Dân làng, ông Hương, bà Hương và đức Thái mẫu đều chạy
tán loạn, chỉ còn ấu quân vẫn nằm nghiễm nhiên trên bàn thờ.
Thế là tân quân ấy hóa ra ông Phế đế. Than ôi, quốc tộ thật là
ngắn ngủi! Cái đó chỉ vì ngài đẻ khí chậm. Giả sử đẻ sớm vài
nghìn năm nữa, nếu không làm vua quyết là ngài cũng làm chúa.
Các vị vua chúa ngày xưa cũng thường ra đời một cách đột ngột
như ngài. Bà mẹ ông Tiết chỉ vì nuốt trứng chim chả thành ra có
mang, rồi mới sinh ra ông Tiết. Bà mẹ ông Tắc thì vì ướm chân vào
cái vết chân một người to lớn, bà liền thụ thai rồi sinh ra ông Tắc.
Đức thánh mẫu của đạo Thiên chúa tuy có chồng nhưng vẫn là gái
đồng trinh, chỉ vì mơ thấy thiên sứ hiện vào mình mà cũng có thai
và cũng đẻ ra đức chúa Giêsu. Những chuyện ấy đều có chép ở
Kinh thi và kinh thánh của đạo Thiên chúa, chắc không sai với sự
thực. Bởi sự giáng sinh khác thường cho nên đức chúa Giêsu mới
trở nên vị chúa cứu thế, ông Tiết mới làm ông Tổ nhà Chu, khiến
cho muôn đời sùng bái. Cuộc ra đời của vị ấu quân Tân An có khác
gì thế.
Nếu không bị ông quận Tân An phá ngang, thì chưa biết
chừng sau này có khi ngài làm vua làm chúa chứ kém gì! Bởi thế
có người đã trách ông quận Tân An không biết lịch sự, dám làm
một việc bạo nghịch. Trách là phải! Có điều trong lúc phong trào
phụ nữ giải phóng đương thịnh hành, nếu những việc ấy mà
không bị ngăn cản, e rằng trong nước sẽ không đủ nhà bảo anh để
chứa những đấng dị nhân.
Xuân Trào Thời Vụ số 89-23-12-1938
MỘT NGƯỜI OAN, MỘT NGƯỜI KHÔNG OAN
Tôi muốn nói vụ án Quốc gia tuần báo bị truy tố vì một bức
hí họa đăng ở số 4. Bạn đọc chắc đã biết rõ, vụ ấy có ba người bị
cáo, chủ bút là ông Trương Tửu, họa sĩ là ông Nguyễn Đỗ C... và
quản lý là mụ Ngô Thị Thoa, vợ Lê Ngọc Thiều tức Bảo Ngọc, tức
Bình Hưng tức chủ một hàng thuốc lậu. Người ở các tỉnh còn chưa
biết lắm, chứ ở Hà Nội không ai lạ gì chị họ Lê này. Ngoài Lê Ngọc
Thiều còn Lê Huy Phách anh ruột hắn và Lê Ngọc Vụ em ruột hắn
cũng đều làm nghề bán thuốc hạ bộ. Đã mấy năm nay cả chi đều
trông vào số dân lậu mà ăn. Không biết từ trước đến giờ, đã có
những ai uống thuốc của nhà ấy mà được khỏi bệnh. Người ta chỉ
biết về đường học vấn, Thiều cũng như Phách mà Phách thì cũng
như Vụ, cả ba đều xứng đáng treo làm câu đối hai câu "Hán tự
đếch biết Hán, Tây tự đếch biết Tây" của ông Tú Xương. Nhưng
quốc ngữ thì không mít đặc. Họ cũng đọc được chỉ có viết thì không
thông. Ấy vậy mà trong bọn đó có kẻ đã dám rao rằng chính mình
đang mở một lớp hàm thụ dạy về nghề thuốc kia đấy. Xã hội Việt
Nam chưa hết người khờ dại. Thuốc của họ có người mua, tất
nhiên việc dạy thuốc của họ cũng có người học. Giả sử họ yên phận
sống về nghề lậu thì có ai thèm nói đến. Cái tức cười là mấy tháng
trước đây, Lê Ngọc Thiều lại táo bạo vác cái bằng sơ học yếu lược
để theo vợ vào làng báo, mới khổ cho người ta chứ. Hẳn là hắn
cũng tưởng rằng: nhà đã có đất phát về nghề bán thuốc lậu, thì
cũng có đất phát về nghề buôn báo chứ gì?
Nhưng, hình như mả tổ của hắn chỉ có ống thụt, không có
quản bút. Bởi thế, tờ báo của hắn ra 16 số thì bị đình bản và bị tòa
án truy tố. Sau mấy tháng điều tra, trong phiên mới đây, tòa đã xử
xong việc ấy. Ngô Thị Thoa phải phạt trăm quan, ông Trương Tửu
thì bị gấp hai, họa sĩ Nguyễn Đỗ C... thì được trắng án. Vụ này lúc
đầu một vài tờ báo trong Nam đã có nói đến, và cho Thị Thoa cũng
oan như hai người kia.
Chừng như các bạn tưởng rằng vợ chồng thị ấy là người quý
lắm, có thể là bạn đồng nghiệp với mình, nên cố bênh vực cho họ.
Tôi không nhận họ là bạn đồng nghiệp, nhưng tôi cũng cho Thị
Thoa bị án là oan. Trên kia tôi phải nói qua về nghề nghiệp của
anh em vợ chồng nhà thị cốt để minh oan cho thị. Thì một người
đàn bà trong một nhà chuyên bán thuốc lậu như thế, còn biết báo
là cái gì. Thế mà người ấy lại được can án về việc báo, há chẳng
oan sao? Nhưng ông Trương Tửu thì không oan một chút nào. Ai
bảo ông ấy "thí nghiệm ngòi bút" với hạng người ấy? Trời cho mình
cái bút, cũng nên trân trọng mới phải. Lẽ nào cái chỗ chỉ chứa
thuốc lậu mà cũng chọc nó vào được! Huống chi ông ấy không
những chỉ chọc vào đó mà thôi, lại còn đem những tư tưởng chính
trị quảng cáo cho nhà thuốc lậu, để vì nhà ấy mà mua tín nhiệm
của quốc dân nữa chứ! Đừng tưởng thế là không hại cho ai.
Nhờ sự quảng cáo ấy của ông Trương Tửu mà họ mới dám
rao lên báo rằng: Quốc gia tuần báo đình bản là cần sửa soạn để ra
hàng ngày. Rồi họ in luôn 10 vạn biên lai mua báo Quốc gia giống
hệt như vé sổ số Đông Dương và gửi bán khắp cả ba kỳ. Chính Lê
Ngọc Vụ đã đem 43 tập vé giả ấy vào bán ở Sài Gòn rồi. Coi đó đủ
biết số người bị lừa về kiểu "mập mờ đánh lận con đen" của anh
em nhà hắn không phải là ít. Ông Tửu tuy không dính đến việc ấy,
nhưng cũng không thể chối được trách nhiệm. Nếu không có ngòi
bút của ông ấy thí nghiệm một cuộc làm báo với họ thì họ đâu biết
ngón lường gạt ấy?
Vả chăng, ông Tửu dù không phải chịu trách nhiệm về việc
giả mạo số vé đi nữa, thì cũng phải chịu trách nhiệm về sự lường
gạt của báo Quốc gia. Phải! Báo Quốc gia rao với độc giả là sẽ xuất
bản hàng ngày. Vậy mà bây giờ họ lại dùng nó để in những tập
tiểu thuyết mót lại của Tàu, khuôn khổ vừa vặn bằng cái bàn tay,
như thế không là lường gạt, thì thế nào nữa mới là lường gạt ? Cố
nhiên ông Trưởng Tửu cũng không can liên gì đến việc này, nhưng
chính ông ấy là người đã lôi bọn đó vào làng báo. Bây giờ bọn đó
vấy bẩn làng báo như vậy, ông ấy không chịu trách nhiệm thì để ai
chịu? Thế thì cái án hai trăm quan tiền mà tòa trừng trị mới phạt
ông ấy còn là nhẹ lắm. Đáng lẽ còn phải mấy năm quản thúc ngòi
bút, để cho ông ấy khỏi thí nghiệm nó một cách bừa bãi.
Xuân Trào Thời Vụ số 96-17-1-1939
BÀ GIÀ ĐÃ TÁM MƯƠI TƯ,
NGỒI TRONG CỬA SỔ ĐƯA THƯ KÉN CHỒNG
Tôi muốn nói về cụ đồng nghiệp Trung Bắc Tân Văn ở phố
Đường Thành. Phải gọi bằng cụ, là vì đối với làng báo Đông
Dương, cụ chỉ kém ngài Lục tỉnh Tân Văn vài tuổi mà đối với làng
báo Bắc Kỳ thì cụ là bậc thọ khảo hơn hết. Tuy vậy cụ mới sống có
26 năm, nhưng ở cái xứ báo chí luôn luôn chết non chết yểu, bất
đắc kỳ tử về chính trị hay về tiền tài thì bấy nhiêu tuổi đã là nhiều
lắm. Nếu ta tạm tính một tuổi báo chí bằng hai tuổi người, thì ít
ra cụ cũng có cháu tứ đại. Hình như cũng nhận mình là bậc già lão
trong xã hội báo giới, cho nên, hàng ngày tuy vẫn nói bàn việc nọ
việc kia, mà lúc nào cụ cũng ra thái độ mỗi ngày mỗi suy. Suy như
nằm kề miệng lỗ. Thấy cái giọng nói rời rạc uể oải của cụ, mấy kẻ
hậu tiến đương muốn khuyên cụ xây sẵn một ngôi sinh phần, để
phòng bị cho cái tuổi "ngọn đèn trước gió" thì thình lình thấy cụ
rao lớn lên rằng:
"Xuân Trung Bắc Vui vẻ trẻ trung... Nhớ đón xem..." Té ra cụ
tuy tuổi tác, nhưng cũng thích làm đỏm như bọn Tiểu thuyết thứ
năm bây giờ và Phụ nữ tuần báo độ nọ. si! "Bà già đã tám mươi tư,
ngồi bên cửa sổ đưa thư kén chồng", câu ca dao ấy đúng với cái cử
chỉ này của cụ. Tuy vậy, chúng ta cũng nên nhớ rằng: sự làm đỏm
ấy không phải tự cụ mà ra. Cái người làm đỏm cho cụ chính là ông
Nguyễn Văn Luận, thừa trọng tôn của cụ. Bởi ông ấy còn thích vui
vẻ, trẻ trung, nên mới bắt cụ cũng phải vui vẻ trẻ trung như ý
muốn của mình. Nhưng mà ông Luận, kể tuổi cũng không phải là
hạng trai tơ. Ở làng báo ông ấy đã lên bậc "bô", anh em báo giới đã
tặng cho ông cái tên "bô" Luận. Ngó bộ trán hói gần đỉnh đầu,
người ta có thể đoán rằng tý nữa bô sẽ sáu chục tuổi. Thế mà bô
còn thích vui vẻ, trẻ trung: thật là nhân lão tâm bất lão. Nói vậy
thì nói, không phải tôi dám chê bai gì bô. Cố nhiên trên đời ai cũng
kính trọng người có tuổi. Nhưng tự các bậc có tuổi, phần nhiều lại
ghét cái già, chỉ muốn người ta coi mình là hạng còn tơ. Các bạn
không tin hãy coi ở các đường phố Hà Nội thì biết. Trên các đường
phố Hà Nội, nhất là phố Paul Bert biết bao nhiêu bà mắt đã lõm,
má đã hóp, có khi mái tóc đã bạc gần nửa. Nhưng vẫn gia công tô
son đánh phấn, kẻ lông mày, nhuộm má đào và vẽ môi trái tim, để
hòng kéo cái xuân xanh ở lại. Với những bà ấy, nếu kẻ nào vô phúc
mà chào là cụ, tuy có xứng đáng, nhưng không khéo sẽ bị nguyền
rủa một hồi. Bô Luận có lẽ cũng cùng một tâm lý với mấy bà ấy.
Bô không thích già, không muốn cho cụ Trung Bắc nhà mình
mang tiếng già, nên mới cố bắt cụ phải vui vẻ trẻ trung trong dịp
năm mới. Tiếc thay bô là đàn ông.
Giả sử trời cho là đàn bà, quyết là phen này bô phải cạo răng
đen, cạo lông mày, để lượt thượt với bộ quần áo tân thời, dù mà
hàm răng của bô sắp rụng. Chúc bô vui vẻ trẻ trung. Và khuyên
anh em thợ in ở nhà in Trung Bắc, tết này đừng mừng tuổi bô. Vì
mừng tuổi bô tức là rủa bô.
Xuân Trào Thời Vụ số 102-7-2-1939
HẾT NĂM
Còn một ngày và nửa đêm nữa thì đủ ba trăm sáu chục ngày
của "ông ba mươi". Nếu quan thế của nhà trời đúng với sự tin
tưởng của người phương Đông, thì khi số báo này đến tay các bạn,
có lẽ cụ lớn Đương niên hành khiển của năm Mậu Dần đương làm
bàn giao với cụ lớn Đương niên hành khiển của năm Kỷ Mão, để
nghỉ một hạn là mươi hai năm. Năm cũ đã hết. Theo lệ, nhà báo
cũng như nhà buôn, lúc giao thời này phải cộng hết số công việc
trong mười hai tháng vừa qua, để báo cáo. Và luôn thể để quảng
cáo với độc giả. Nhiều bạn đồng nghiệp của chúng tôi đã làm tròn
cái phận sự ấy. Tựu trung làm được oanh liệt hơn hết là ông
Hoàng Đạo của báo Ngày nay. Phải! Giữa lúc dừng chân ngắm
công đức của báo ấy trong năm Mậu Dần, nhà "độc quyền ru ngủ
chúng ta bằng món xã thuyết" của đồng nghiệp trên đường Quan
Thánh đã nói thế này:
"Trong công cuộc ấy, một điều rõ rệt hơn nhất, là chúng tôi
đã dừng hai bước -để tỏ lòng phẫn uất đối với những vụ bất công,
những điều ức hiếp, công kích chế độ dã man, những phong tục cổ
hủ, những sự mê tín không lý, vạch rõ những sự thật xấu xa che
đậy dưới sự xảo quáệt của người..." Chà chà công đức vô lượng!
Nhưng chưa hết, ông ấy còn bới trong tập lưu cảo của Ngày nay để
nhắc lại với chúng ta nhiều công lao khác và kết luận rằng:
"Ngay bên công cuộc chỉ trích, phác họa xưa (?) chúng tôi đã
xây dựng một công cuộc kiến thiết vững vàng (?). Trên đời còn gì
hơn hiểu và biết. Các bạn và chúng tôi đã dắt tay nhau đi vào
vườn trí thức, ngắt những bông hoa của tinh thần, những bông
hoa thơm của văn chương, những bông hoa lạ của tư tưởng...". Tốt
đẹp vậy thay những sự nghiệp ấy của báo Ngày nay. Té ra báo
Ngày nay đã dắt được những ông nào, có lẽ bà nào thì đúng hơn -
những bà nào đó, vào vườn trí thức, không rõ là kiến thiết cái gì -
rồi đấy. Thế mà đồng bào, quốc dân và cả mấy ông Ngày nay vẫn
đều không biết. Oan uổng. Đọc hết bài ấy của ông Hoàng Đạo, tôi
rất kính phục và nhớ luôn đến câu này của mấy ông lang thuốc lậu
vẫn nói trong máy truyền thanh:
"A lô! A lô! Xin các quí ngài chú ý! A lô! A lô! Bản hiệu từ khi
ra đời, đã chữa được mấy triệu người bệnh, danh tiếng lừng lẫy
khắp cả Đông Dương không ai mà không biết! A lô! A lô!". Hai thứ
văn chương ý thật giống nhau như tạc có điều ông Hoàng Đạo là
nhà ngôn luận, cho nên giọng nói của văn hơn, mấy ông cứu thế độ
của... hạ bộ nước nhà. Trông người mà ngắm đến ta, tôi rất buồn
bã. Là vì, tôi cũng là kẻ viết báo, đáng Chế giễu văn chương báo
Ngày nay đã quyến rũ các bà các cô vào con đường lãng mạn, hư
hỏng. lẽ cũng phải tụng công đức của mình như người ta chứ.
Nhưng mà nghĩ mãi hai ba ngày nay, chưa biết nên tụng các công
đức nào. Thật khổ cho tôi. Giả sử cũng gác liêm sỉ một bên để
quảng cáo cho mình như ông Hoàng Đạo hay bọn lang thuốc lậu,
thì tôi cũng có thể khoe với các bạn như vầy:
"Một điều rõ rệt hơn nhất là tôi đã dùng trào phúng để đánh
đổ cái chính sách độc tài của Hít le, cái thủ đoạn chuyên chế của
Muạạolini, cái cử chỉ tàn bạo của bọn Nhật Bản. Và ngay bên ấy,
tôi đã xây dựng một nền tảng cho cuộc hòa bình của âu châu. Vì có
lời nói của tôi mà nước Đức mới thân thiện với nước Pháp bằng
bản hiệp ước Pháp - Đức, vì có lời nói của tôi, nước Pháp mới tỏ
thái độ cương quyết trong khi nước ý đòi đất của mình, vì có lời nói
của tôi, quân Nhật ở đất Tàu, mới dùng dằng không dám đánh vào
Quảng Tây, Vân Nam". Nói vậy, tôi cũng có lý hơn ông Hoàng Đạo,
bởi vì chính tôi đã có nói tới công việc của mấy nước ấy. Và tôi tin
rằng nói thế Hít le, Muạạolini hay bọn quân phiệt Nhật Bản, cũng
không cải chính. Nhưng chỉ sợ bạn mắng tôi là vô liêm sỉ. Thế thì
tôi biết nói làm sao? Không lẽ lại nín không nói. Vậy theo cái lễ
phép của mọi năm, tôi xin chúc mừng các bạn năm mới. Nhưng mà
những cái bình an, mạnh giỏi, đắc tài, đắc lộc, các bạn chắc không
thiếu gì bởi vì người ta chúc tụng các bạn đã nhiều. Về phần tôi,
tôi xin cầu cho các bạn, trong năm sắp tới, không phải nghe giọng
ru ngủ của ông Hoàng Đạo. Đó là hạnh phúc thứ nhất trên đời.
Xuân Trào Thời Vụ số 105-17-2-1939
BÀ ẤY CHỈ HIỂU LẦM MỘT CÂU TRUYÊN KIỀU
Bạn gái Hà thành, nhất là những vị tín nữ của thuyết tự do
giá thú, chắc đương chau mày, nghiến răng, bất bình thay cho
cuộc gả bán của cô Đoàn Thị Tuệ. Cô Tuệ là một nữ nghệ sĩ của
gánh hát Nhật Tân, có tài hát lại có cả tài diễn kịch. Trong khi
theo gánh hát ấy đi diễn trò khắp các tỉnh Bắc Kỳ, cô ấy nổi tiếng
là một đào giỏi. Vậy mà xuân xanh chưa có bao nhiêu. Có người
bảo rằng cô ấy mới 13 tuổi. Đó là người ta muốn cho cô ấy thêm vẻ
ngây thơ. Kỳ thực, nữ nghệ sĩ ấy năm nay đã vừa tới tuần cập kê.
Nghĩa là bằng tuổi cô Kiều trong lúc bắt đầu gặp chàng Kim
Trọng. Và về sự phát triển của đường tình, cô Tuệ cũng không
thua gì cô Kiều. Cái người đã được cô ấy để vào mắt xanh và
đương cố đóng vai Kim Trọng là một học sinh trường tư, hiện ở với
chị tại phố Hàng Nón Hà Nội.
Không hiểu đá biết tuổi vàng từ bao giờ, lâu rồi hay mới.
Người ta chỉ biết cô cậu đã nặng lời thề thốt, nhất định cùng nhau
tạc một chữ đồng đến xương. ác nghiệt là cái bà mẫu của cô. Bà ấy
cũng như Thúc ông, cố tình nghiến răng bẻ chữ đồng làm đôi. Là vì
có ông chuyên "xếp chỗ ngồi cho khách" ở rạp Hiệp Thành cũng hỏi
cô Tuệ làm vợ. Không rõ vợ chính hay vợ thứ. Chừng như thích
phường trò hơn là học trò, nên bà Vũ Thị Định mới tựa vào công
mang nặng đẻ đau, bắt cô Tuệ phải bỏ người tình mà lấy cái người
"không tình". Cố nhiên cô Tuệ không thuận. Cố nhiên bà Định vẫn
cố ép uổng.
Nhưng, những sự đó chỉ là việc bất thường trong các gia đình
nửa mới nửa cũ. Cái lạ là thứ hình phạt của bà mẫu kia đã dùng
để phạt cô Tuệ. Không đánh, không đập, không cần đến thủ đoạn
phũ phàng. Bà ấy đưa tuột cô Tuệ vào làng Đồng Quang, phủ
Thường Tín, cái làng quê mình. Rồi thì bà ta nhốt luôn cô ấy vào
buồng và đóng thật chặt các cửa. Sợ cô ấy còn có thể trốn, bà Định
lại dùng xích sắt xích chân con gái vào chân mình nữa. Nhiều
người thấy vậy cho rằng vị hiền mẫu ấy đã xử với con một cách tàn
nhẫn. Nhưng mà xét cho kỹ ra, có lẽ nó không tàn nhẫn tý nào,
chẳng qua bà ta cũng chỉ vì hiểu lầm một câu Truyện Kiều mà
thôi. Cuốn Kiều chẳng có chỗ nói:
"Buộc chân tôi cũng xích thằng nhiệm trao" à? Chắc là bà đó
cho rằng "xích thằng" tức là xích sắt, nên mới dùng nó "trao" cho
con gái. Nhưng sao bà ta lại không xích cô Tuệ vào chân ông "xếp
chỗ ngồi" của rạp Hiệp Thành, mà lại xích vào chân mình. Chỗ đó
cũng khó hiểu một chút. Đáng lẽ bữa nay là ngày cô Tuệ phải xích
về nhà ông "xếp chỗ ngồi" của rạp Hiệp Thành. Vì lệnh bà mẫu cô
ấy giục phải cưới đi, kẻo chậm nữa, e rằng xích không giữ nổi.
Nhưng, cậu học sinh Hàng Nón còn đi trình Cẩm, và nhờ các nhà
đương sự can thiệp, không rõ tấn tuồng đã diễn đến cảnh gì rồi.
Dù cho diễn đến cảnh nào đi nữa, thì cô Tuệ cũng không thể vượt
quyền bà mẫu kết duyên với cậu học sinh Hàng Nón, nếu như bà
ấy không thuận. Bởi vì xứ này không phải là chỗ để chứa những
quyền tự do của cá nhân, dầu nó là quyền tự do về sự giá thú.
Chẳng thế mà quyển Bắc Kỳ dân luật đã cho chúng ta hiểu rằng:
con trai lấy vợ, con gái lấy chồng, đều phải do người gia trưởng
làm chủ hôn.
Thế nhưng, nói dại đổ đi, nếu cô Tuệ vì tuyệt vọng về đường
nhân duyên mà phải sống khác với tình, thì chẳng có ai bị tội về
cái án đó! Nếu thế thì ai giết người?
Xuân Trào Thời Vụ số 120-18-4-1939
LỜI CỦA GIẢN UNG ĐÃ ĐƯỢC THỰC HÀNH
Chuyện này hình như ở Tam quốc chí không có. Người ta
chép nó vào bộ Hán thư. Hồi ấy, chắc vì Trương Phi say rượu đánh
mất Tiểu Bái, Lưu Bị mới hạ lệnh cấm rượu. Không phải vì cấm
rượu lậu, không cấm rượu tá như bây giờ đâu. Vì anh hùng khéo
khóc này cầm hết các thứ chế bằng men, vô luận là lậu hay không
lậu. Thế rồi, một hôm tình cờ đi với Giản Ung vào một nhà dân,
Lưu Bị vớ được bộ đồ nấu rượu, ông ấy liền làm như các lính Đoan
ngày nay, bắt luôn cả người và tang vật điệu đi. Và định trị tội
một cách rất nặng, vì tên dân ấy đã dám chứa đồ nấu rượu. Giản
Ung không nói gì cả. Đi một quãng nữa, thình lình gặp một người
đàn ông. Giản Ung chỉ vào mặt hắn và bảo Lưu Bị:
- Người kia có tội. Phải bắt mà trị.
- Tội gì?
- Tội dâm.
- Sao Tiên sinh biết?
- Khám trong mình nó, chắc là có chứa "đồ dâm". Lưu Bị biết
Giản Ung chế giễu việc mình bắt kẻ chứa đồ nấu rượu, ông ta liền
tha cho hắn. Coi chuyện đó, ai chẳng tưởng nó là một câu khôi hài,
không khi nào mà được thực hành. Bởi vì trong thế gian, người ta
có quyền được chứa đồ dâm, bắt làm sao được? Vậy mà ngày nay
nó đã được đem thực hành. Có điều người ta mới thực hành cho
loài bò chứ chưa dùng vào loài người. Theo tin của báo Tiếng dân
nhiều con bò đực ở vùng mấy làng An Phong, Phúc Tích, Thạch An
trong tổng Bình Trung, phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đương bị
ki-mi một cách rất ngộ. Cổ nó đeo một cái khung hình vuông giống
như cái gông. Bụng nó, dưới chỗ thận nang, có nhiều dây buộc
chằng chịt, đầu cái bửu bối về sự sinh dục thì có treo một cái ống
như thể hứng lấy tiểu tiện của nó. Cố nhiên là nó bị tội. Nhưng đố
ai biết tội gì? ấy là tội dâm. Không phải nó đã "dâm nhân thê
thiếp" như luật Gia Long đã nói, chỉ phạm cái tội chưa thiến. Nghe
đâu trong mấy năm nay, ở tỉnh Quảng Ngãi có công việc kén
chồng cho loài bò cái vẫn được tiến hành một cách chu đáo.
Người ta đã về nhà quê lựa chọn những con bò đực béo tốt
khỏe mạnh để làm bò giống. Người ta đã sức cho những nhà có
nuôi bò cái phải dắt nó đến cái nhà có bò giống lấy "đực" cho nó.
Rồi thì người ta lại phái nhân viên của Sở thú y về liên thôn quê
thiến bớt những con bò đực không đủ tư cách sinh dục đi nữa. Vậy
mà còn sợ trong cái xã hội loài bò vẫn chưa hết thói hỗn dâm, cho
nên người ta lại phải đề phòng. Những thứ hình phạt đối với bò
đực nói ở trên kia đều do kiểu của Sở thú y đề ra cho dân làm theo.
Ông kỹ sư chế ra bộ đồ "phòng dâm" ấy đã nghĩ rất kỹ, mỗi bộ
phận trong bộ đồ đó đều có công dụng riêng cả. Cái gông, cốt để
cản con bò đực khỏi nhảy lên lưng bò cái. Cái ống là để hãm bộ
bửu bối của nó khỏi thòi ra ngoài. Còn những dây chằng chung
quanh thận nang thì để làm cho cái ổ dâm dục ấy phải vướng vít
không thể tự do hành động. Với sự phòng bị cẩn mật như vậy, con
vật vô giáo dục dù có động cỡn mà muốn hiếp dâm hay hòa gian
với con bò cái cũng không tài nào đạt được ý nguyện. Thần diệu
thay sự sáng chế ấy, chẳng những có thể lặp lại chủng tộc cho loài
bò, nó còn có công duá trì phong hóa cho giống vật mang tiếng dốt
ấy nữa! Vậy là ý kiến của Giản Ung phát minh sau hơn nghìn
năm, đã được thực hành ở nước An Nam rồi vậy. Phải, theo thuyết
"trạch chủng tưu lương" thì công cuộc ấy rất nên làm, tuy nó cũng
hơi nhũng nhẵng lôi thôi và có ngãng trở cho sự làm ăn của các
chủ bò. Chỉ tiếc cái khí cụ ấy sao lại chỉ ứng dụng vào một loài bò.
Chúng ta há chẳng thấy những ông tu hành lợi dụng bóng Phật để
đi chim vợ chim con người ta đó sao? uớc gì vị kỹ sư nào đó, cố
nghĩ lấy một bộ đồ "phòng dâm" đẹp đẽ hơn và chắc chắn hơn, để
bán cho mấy ông đó, thì có lẽ trong nước An nam sẽ có nhiều người
thành Phật.
Xuân Trào Thời Vụ số 124 2-5-1939
THUỐC LẬU, CHUYÊN KIẾM HIÊP, VÉ SỔ XỐ GIẢ
VÀ CỤ NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Đọc mớ danh từ nộm nạm, hỗn tạp trong cái đầu đề kia, các
bạn chắc cũng đoán tôi muốn nói đến Lê Ngọc Thiều, tức Bình
Hưng, kẻ mới bị bốn tháng tù treo về tội chực lừa cả nước. Chính
tôi định nói đến Lê Ngọc Thiều. Vâng! Các ngài không lầm. Chắc
không ai lạ con người đeo cái tên ấy. Trước kia hắn chỉ là một anh
bán thuốc lậu, và thụt thuốc lậu. Người ta không thể biết rằng
những ai dùng thuốc của hắn mà được khỏi bệnh. Chỉ biết trong
đám con rồng cháu tiên, cái số dân lậu không ít, vì vậy hắn vẫn cứ
sống. Được rồi, y giới xứ này còn nhan nhản những kẻ không biết
chữ "nhất" là một, Thiều vẫn có quyền được thụt thuốc lậu, bán
thuốc lậu, không ai cấm. Nhưng Thiều lại xoay ra nghề buôn sách.
Kèm với cửa hàng thuốc lậu, Thiều đã công nhiên lập một văn
đoàn (!) xuất bản ít chuyện kiếm hiệp để dỗ tiền của lũ trẻ con.
Cũng được. Những chỗ ngã ba, ngã tư các chỗ còn có những kẻ xúc
thẻ kẹo đạn, mở bàn cò quay, Thiều vẫn có thể in bán những thứ
sách ấy. Cái cả gan là Thiều đã dám lẩn vào làng báo, làm chủ cái
báo Quốc gia, rồi in những giấy biên lai giống hệt như vé số Đông
Dương, để đánh lộn sòng với những vé ấy. Đáng lẽ lại cũng được
nữa. Nhưng vì có người tố cáo, nên Thiều phải ra tòa và bị bốn
tháng tù treo.
Bây giờ Thiều vẫn cứ con đường cũ mà đi. Trên báo hàng
ngày, ngoài việc rao bán thuốc lậu, Thiều còn rao bán cả tiểu sử cụ
Nguyễn Thượng Hiền nữa chứ. Cứ lời Thiều rao, thì cuốn tiểu sử
ấy, Thiều sẽ in từng tập nhỏ như tập kiếm hiệp bán ba xu một. Cái
đó mới tai ngược thay! Hẳn ai cũng nhận thấy rằng: tiểu sử cụ
Nguyễn Thượng Hiền, hiện nay ở trong xứ này, ngoài cụ Phan Bội
Châu khó có người nào biết rõ. Với cái sức học "Sơ học yếu lược",
Thiều sẽ căn cứ vào đâu mà viết? Cố nhiên, tiểu sử cụ Nguyễn
Thượng Hiền cũng cần lưu lại ở nước An Nam, nhưng bây giờ chưa
phải là lúc xuất bản. Bởi vì đã là sử phải nói cho đúng sự thực, mà
cái sự thực của cụ, lúc này chưa thể nói được. Thế là Thiều viết,
Thiều bán, thì cuốn tiểu sử ấy nó ra sao, không phải đọc cũng rõ.
Nó chỉ là món hàng buôn chứ gì? Vậy là cụ Nguyễn Thượng Hiền
đã bị Thiều coi như thuốc lậu, truyện kiếm hiệp và xổ số giả vậy.
Xuân Trào Thời Vụ số 125-6-5-1939
NGUYỄN KHẮC NƯƠNG VÀ BÀ BÉ TÝ
Té ra ông Nguyễn Khắc Nương trong Nam vừa mới làm xong
một cuộc du lịch cực kỳ vĩ đại. Không phải là lên cung trăng như
nhà thi sĩ Tản Đà, ông ấy cùng một số người gộp tiền đi thẳng một
quệt từ Nam đến Bắc. Bây giờ ông Nương ở Bắc về Nam đã lâu và
đương viết một lô bài để kỷ thuật cái hành trình rất oanh liệt ấy.
Thì ra ông Nương đã đi qua Huế, qua Vinh, qua Thanh, lại ra Sầm
Sơn rồi đến tận đất Hà Nội. Các bạn đừng tưởng ông Nương chỉ
ngủ vài đêm ở xứ "nghìn năm văn vật" mà thôi. Không thế đâu.
Trong khi tới đây, ông ấy có đi thăm viếng nhiều chỗ. Cứ lời ông
ấy đã nói, thì sớm mai bữa ấy, các ông trong đoàn du lịch vừa ra
khỏi phòng, đã có một lũ xe kéo đậu ở trước phòng chờ đợi. Thế rồi
mỗi người trong đoàn lên một chiếc xe. Đi đâu? Đi dạo châu thành
Hà Nội. Thoạt tiên tới chùa Một Cột. Tôi vào vườn bách thú, rồi
đến chùa ông thánh Đồng đen, cái chùa mà người Hà Nội vẫn gọi
là chùa Quan Thánh, hay đền đức thánh Trấn Võ. Các ông lại còn
xem cả hồ Tây, hồ Trúc Bạch và cầu Đu me nữa chứ.
Sau cùng thì đến nhà bà Bé Tý. Tại đây hình như ông Nương
đã cảm thấy sự long trọng khác thường. Chẳng thế mà với hồ Tây,
ông Nương chỉ thấy nó là hồ Tây, với hồ Trúc Bạch, ông Nương chỉ
thấy hồ Trúc Bạch, với đền Quan Thánh, ông Nương chỉ thấy pho
tượng Đồng đen và tấm áo chầu của vua Minh Mệnh ban cho,
nhưng với nhà bà Bé Tý, ông ấy đã thấy nhiều lắm, nhiều hơn
những kẻ đã soi bao đèn điện, uống cạn nước máy của đất này?
Tôi nói thật không phải bỡn. Nếu có hỏi các ngài nhà bà Bé
Tý vẫn có những gì, chắc là các ngài chỉ đến trả lời bằng những
cây sá, cây sung, con gà, con lợn, hay cái biển đề hai chữ "vật hoa"
là cùng. Thế thì các ngài còn thua ông Nguyễn Khắc Nương rất xa.
Chẳng những ông ấy chỉ biết trong nhà bà này có nhiều những đồ
"cổ tích ngọc ngà châu báu" mà thôi. Theo lời đã nói ở bài tường
thuật, thì bà chánh Tý còn bảo cho ông ấy biết trong mình bà ta
còn có "mười một vật lạ" tất cả. Cái đó, quyết không sai. Quí nhân
phải có quí tướng, xưa nay vẫn thế. Lưu Bang từ ngôi đình trưởng
ấp Bái nhảy lên ngôi vua nhà Hán, chỉ nhờ có 72 nốt ruồi mọc ở
trong mình. Lưu Bị xuất thân là anh dệt chiếu đóng dép mà làm
được vua nước Thục, cũng chỉ nhờ về hai chữ vành tai to, và hai
cánh tay dài quá đầu gối. Bà Bé Tý há phải một người bé tý? Các
bạn đọc báo Thời vụ hồi tháng Avril năm ngoái, chắc còn nhớ hai
câu đối này:
"Cõi tục cốt cách tiên, hiếu hạnh sắc tài Chu Thái hậu.
Người trần tâm tính phật, nghi dung đức độ Tống nguyên phi". Ấy
là câu ông nhà nho nào đó đã nghĩ cho bà Bé Tý treo ở trong nhà
bà ấy. Vậy thì chính bà Bé Tý vẫn tự nhận mình là tiên, là phật, là
bà nguyên phi nhà Tống và là cả bà thái hậu nhà Chu nữa vậy.
Tuy rằng ngày nay chưa biết bà ấy làm những bậc ấy chưa, nhưng
mà người ta đã thấy trong nhà bà ấy có đủ các hạng quí khách:
nào Tây, nào Tàu, nào An Nam, nghe nói lại có cả ng Lê nữa đấy.
Vì vậy có người đã mượn câu này để vịnh bà ấy:
"Nhà nhỏ như thuyền, chở đã lắm người Hồ lại Việt. Buồng
to tầy đấu, chứa bao nhiêu khách Bắc rồi Nam". Đó là câu dịch của
sách Tàu, nguyên văn chữ Hán thế này:
"Ốc tiểu như châu, trang tải hứa đa Hồ, Việt khách. Thất đại
vu đẩu, bao tàng vô hạn Bắc, Nam nhân". Phải chở đủ khách Hồ
khách Việt, chứa cả người Bắc người Nam, bà chúa chuồng chim
Hàng Bạc thật là vĩ nhân của nòi giống Rồng tiên. Ông Nương ca
tụng là phải! Một đấng vĩ nhân như thế, tất nhiên phải có rất
nhiều quí tướng, ông Nương bảo trong mình bà ấy có mười một vật
lạ còn là ít đấy, có lẽ hãy còn hơn nữa. Tiếc rằng trong lúc làm trò
lạ để tiếp đoàn du lịch, bà ấy không cho ông Nương coi những vật
lạ kia! Thôi để lần sau. Lần sau nếu có du lịch ra Bắc, ông Nương
nên đòi cho được những vật lạ ấy, coi nó thế nào.
Xuân Trào Thời Vụ số 129-23-5-1939
CHỦ NGHĨA "TỰ DO LUYẾN ÁI"
ĐÃ LAN ĐẾN GIỚI THẦN THÁNH
Những người ở qua Nam Kỳ, phần nhiều đều nghe cái thiêng
của thần làng Phong Phú, một làng thuộc quận Thủ Đức, chỉ cách
Sài Gòn độ 4 cây số. Bởi vì, người ta tin rằng thần ấy thiêng lắm,
cho nên hàng năm, cứ đến ngày rằm tháng giêng thì ở Sài Gòn
Phú Nhuận, Gia Định và nhiều nơi khác, những nhà buôn bán,
nhất là các cô, tấp nập kéo đến đình làng Phong Phú mà lễ. Để
làm gì? Bà con cầu khấn thần ấy phù hộ cho mình phát tài. Có
người xin vay tiền của thần làm vốn, cũng như những ông lái
thuyền nước mắm Thanh-Nghệ ngày xưa hay vay tiền của bà Liễu
Hạnh ở Phủ Giầy vậy. Không biết thần ấy thuộc về loài gì, nhưng
chắc ngài là giống đực. Vì vậy hồi này ở vùng Sài Gòn mới có tin
đồn thầy ấy sắp sửa cưới vợ. Thiên hạ kéo nhau đi coi rất đông. Té
ra chuyện thật không phải chuyện bỡn.
Cuộc tốt lành ấy đã cử hành trong hôm mới đây, chưa rõ họ
nhà gái là những ông nào, bà nào, người ta chỉ nói họ nhà trai
toàn là hương chức của làng Phong Phú. Bữa đó, họ đã khăn đen
áo dài, đi đón dâu về cho thần rồi. Cô dâu là một thiếu nữ mới 17
tuổi, con gái một ông đương chức cũng ở làng ấy. Trong đám cưới
của người trần, thì cuộc đuốc hoa phòng động nhất định phải về
ban đêm. Nhưng mà trong đám cưới này, thì cô dâu vừa vào tới
đình, liền bị ngã ngửa ra đó và nằm bất tỉnh nhân sự, như đương
trải qua một cuộc ái ân đằm thắm vậy. Sao thế nhỉ? Hay các đức
Thượng đẳng ấy đã dám lấy ngày làm đêm? Có lẽ ngài vì không vợ
đã lâu, trong mình đã rạo rực quá, không thể nhịn được đến tối,
mà phải nhập phòng ở trước công chúng đó chăng!
Thần thì người ta phải chịu, chứ nếu người trần mà làm cái
việc bất nhã như vậy, ít ra cũng bị đội xếp giải bắt về bót. Bởi vì
ông thần đã làm việc quá ư sỗ sã như vậy, cho nên trong Nam
nhiều người không tin đám đó là đám cưới thần. Họ bảo đó là
những kẻ xảo quáệt bày vẽ ra để lợi dụng lòng mê tín của bọn ngu
dại mà làm tiền. Cái đó kể cũng có lý. Trong cái buổi đời tai quái,
người ta có thể giả làm nhà báo, giả làm tín đồ của đạo Phật để
xoay tiền của thiên hạ, thì cũng có kẻ giả vờ cưới vợ cho thần để
kiếm tiền của kẻ ngu khờ. Nhưng theo ý tôi, sự ức đoán ấy chưa
chắc đã đúng. Giả sử trong chỗ không thể trông thấy, sờ thấy, mà
không có gì thì thôi, chứ nếu đã có thần thánh, thì cái sự thần đi
cưới vợ, không thể bảo là không có. Cung oán ngâm khúc đã có
một câu chí lý mà rằng:
Có âm dương có vợ chồng Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu
thê Coi đó thì biết trời đất còn có vợ có chồng, huống chi là thần.
Thần thánh tuy ở cao xa, nhưng đến tính tình chẳng qua cũng như
bọn mình. Các ngài chắc đã từng thấy những ông đã hai, ba vợ kè
kè, thế mà nhiều lúc vẫn giải trí bằng cô đào hay bằng me Tây, gái
xăm. Nữa là thần thánh quanh năm suốt đời, vò võ nằm một mình
trong cái gian đền hiu quạnh thì chịu thế nào! Trâu khát nước làm
sao thì bò khát nước làm vậy. Đó là một sự tất nhiên. Điều hơi lạ
là các đám cưới gả người trần, phần nhiều phải qua mối lái, phải
có lời cho phép của cha mẹ, ông bà, thì mới là đám đứng đắn. Đằng
này, ông thần Phong Phú đi lấy bà ấy, chẳng rõ có ai làm mối hay
không, chứ lời cha mẹ, ông bà thì quyết không có. Đó là một chỗ
theo luận lý cũ, có thể dị nghị. Nhưng theo luận lý mới thì không
hề chi, trai gái của nước Việt Nam có thể tự do luyến ái chứ sao!
Thế thì chủ nghĩa "tự do luyến ái" đã lan đến thế giới thần thánh
rồi vậy. Chúng ta cũng mừng cho anh chị em quỉ thần đã tiến được
một bước khá dài.
Xuân Trào Thời Vụ số 131-2-6-1939
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro