vh
Mở đầu
Thế kỉ 19, giai cấp tư sản ở nhiều nước Tây Âu lần lượt giành thắng lợi và củng cố chính quyền sau cuộc Cách mạng tư sản Pháp 1789. Công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa diễn ra đồng thời với sự phát triển của các ngành khoa học, công nghệ. Giai cấp vô sản dần dần lớn mạnh trở thành một lực lượng chính trị đối lập với giai cấp tư sản. Từ giữa thế kỉ 19, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển với qui mô lớn. Ðây cũng là thời kì xuất hiện những lý thuyết khoa học và tư tưởng lớn của thời đại như chủ nghĩa xã hội khoa học của Marx và Engels, thuyết tiến hoá củaDarwin v.v.
Văn học phương Tây thế kỉ này bao gồm nhiều khuynh hướng, trào lưu với nhiều tác phẩm nổi tiếng thế giới. Trong đó, hai trào lưu văn học chủ yếu là chủ nghiã lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực đã hình thành ở hầu hết các nước phương Tây. Văn học các nước Tây Âu có những đặc điểm chung và cũng có những sắc thái riêng do hoàn cảnh đấu tranh xã hội, ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và sự kế thừa truyền thống văn nghệ của mỗi nước qui định.
Giáo trình này chỉ giới thiêụ thành tựu văn học của một số nước như Pháp, Anh và Mĩ- những nền văn học tiêu biểu cho thời đại. Văn học Mỹ còn được giới thiệu sơ lược hai thế kỷ đầu tiên (XVII, XVIII) để bạn đọc nhìn rõ hơn sự tiếp nối của thế kỷ XIX và XX về sau.
Phần văn học Pháp được giới thiệu kĩ nhất vì nó có tính chất tiêu biểu, điển hình và đạt thành tựu mẫu mực nổi bật hơn cả ở khu vực Tây Âu.
&
Khái quát về biến động cách mạng và những tư tưởng lớn
Cuộc cách mạng tư sản Pháp bắt đầu 14 tháng 7 năm 1789 đã mở ra một thời kì phát triển mới trong lịch sử châu Âu. Trong lịch sử thế giới đó là cuộc cách mạng tư sản duy nhất chiến thắng triệt để chủ nghĩa phong kiến lâu đời.
Cách mạng Pháp đã mang lại sự thay đổi lớn lao trên tất cả mọi lĩnh vực của xã hội Pháp.
Phái Jacobin kiên quyết đập tan tất cả mọi trở ngại phong kiến đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội và thiết lập một nền chuyên chính cách mạng. Nhiệm vụ lịch sử của họ là tiêu diệt chế độ phong kiến Pháp, mở đường cho chủ nghĩa tư bản và sự thống trị của giai cấp tư sản (1793).
Cuộc đảo chính phản cách mạng ngày 9 Tecmidor (27.7.1794) đã đưa tầng lớp tư sản mới làm giàu bằng cách đầu cơ tích trữ trong mấy năm giao thời cách mạng mới lên nắm chính quyền.
Phái Tecmido đã khủng bố những người cách mạng, đưa ra Hiến pháp phản động bãi bỏ quyền tuyển cử phổ thông, "Sự cai trị của viện chấp chính đã tạo điều kiện cho đời sống thật sự của xã hội tư sản mới vươn mạnh và phát triển đầy đủ"(Karl Marx). Thời kì này những cuộc nổi loạn của bọn bảo hoàng muốn phá bỏ nền cộng hoà để khôi phục chế độ quân chủ đã nổ ra ởParis. Ở Vandet, tướng Napoleon Bonaparte đã nổi danh khi chỉ huy quân đội chống bọn phiến loạn trong nước và đánh thắng quân Áo trong chiến dịch thôn tính Italia.
Giai cấp tư sản Pháp định thực hiện một chương trình to lớn dùng Italia làm bàn đạp chiếm toàn bộ châu Âu rồi tiến đánh Ai cập và Syrie. Giai cấp tư sản cần một chính quyền mạnh, dựa vào một tay kiếm vững chắc để trấn áp bọn bảo hoàng và phái cách mạng Jacobin, đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh chống liên minh phong kiến châu Âu.
Cuộc đảo chính ngày 18 tháng Sương mù (9-11-1799) đã chuyển chính quyền sang tay Napoleon thiết lập chế độ Tổng tài (1799) và nền Ðế chế I (1804).
Chính phủ Napoleon là một chính phủ tư sản đã giữ gìn những thành quả cách mạng có lợi cho giai cấp tư sản. Ông đã khuyến khích phát triển công nghiệp, dự thảo bộ Dân luật là một văn bản luật pháp có hệ thống bảo đảm quyền tư hữu của giai cấp tư sản.
Ðế chế Napoleon đã tiến hành chiến tranh xâm lược châu Âu và hầu hết các nước châu Âu đều bị đặt dưới quyền cai trị của đế quốc Pháp. "Napoleon đã giương cao ngọn cờ bình đẳng để đi thiết lập bất bình đẳng ở châu Âu"(Karl Marx). "Liên minh thần thánh" châu Âu gồm các nước Anh, Phổ, Aó, Nga, Tây Ban Nha đã chống lại Napoleon I, đặc biệt nhân dân Nga và nhân dân Tây Ban Nha đã anh dũng chiến đấu giải phóng dân tộc mình. Quân đội Pháp thực hiện đường lối xảo quyệt của Napoleon đã tham gia vào việc làm suy yếu các chế độ phong kiến ở châu Âu, tạo điều kiện cho giai cấp tư sản ở nước đó một cơ hội phát triển. Tuy vậy, chế độ áp bức của Napoleon đã thức tỉnh tinh thần dân tộc và sự nổi dậy của phong trào giải phóng dân tộc.
Năm 1814, đế chế Napoleon sụp đổ, dòng họ vua Bourbon đưa các thế lực phong kiến lưu vong ở nước ngoài trở lại nắm chính quyền ở Pháp. Dưới chế độ vương chính Louis 18 phục hồi, đẳng cấp quí tộc và tăng lữ đòi chiếm lại ruộng đất đã bị cách mạng tịch thu. Mặc dù đã có bản Hiến chương của một chế độ Quân chủ lập hiến, nhà vua vẫn khuyến khích bọn bảo hoàng cực đoan hoành hành áp chế nhân dân. Dân chúng đã vùng dậy làm cuộc cách mạng tháng Bảy 1830. Một lần nữa, giai cấp tư sản lợi dụng thắng lợi của nhân dân, thiết lập nền Quân chủ tháng Bảy với thực chất là chế độ tư sản, đứng đầu là Louis Philip ông vua của giai cấp tư sản tài chính.
Những cuộc khởi nghĩa của nhân dân liên tục nổ ra những năm 1832, 1835. Giai cấp vô sản dần dần lớn mạnh và đấu tranh trực diện.
Cuộc Cách mạng tháng Hai năm 1848 tái lập nền Cộng hoà.
Cuộc Cách mạng tháng Sáu năm 1848 là cuộc đụng độ quyết liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ở nước Pháp. Từ đây một hố sâu ngăn cách những kẻ bảo vệ trật tự tư sản và quần chúng nhân dân lao động. Tính chất cách mạng của giai cấp tư sản Pháp đã tiêu tan và giai cấp vô sản trở thành một giai cấp tự giác bước lên vũ đài lịch sử.
Do những mâu thuẫn nội bộ gay gắt, nền cộng hoà sụp đổ và cuộc đảo chính ngày 2 tháng 12 năm 1851 đã đưa Louis Napoleon lên ngôi hoàng đế của nền Ðế chế II. Dưới sự thống trị của Napoleon III, văn nghệ, báo chí bị kiểm duyệt gắt gao, đời sống nhân dân khốn cùng. Những thiệt hại về ngoại giao và quân sự từ sau 1860 đã làm cho Ðế chế II suy yếu và sụp đổ năm 1870.
Công xã Paris bùng nổ ngày 18 tháng Ba năm 1871. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, giai cấp vô sản thể nghiệm việc giành và giữ chính quyền của mình. Sau 72 ngày chiến đấu dũng cảm, Công xã đã thất bại. Thế lực tư sản phản động đã khủng bố tàn bạo nhân dân lao độngParis. Công xãParis đã tạo nên "một thời điểm mới có tầm quan trọng lịch sử toàn thế giới" (K.Marx).
Nền cộng hoà Pháp từ những năm 80 sắp kết thúc giai đoạn chủ nghĩa tự do cạnh tranh để chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Và từ đây, cuộc đấu tranh giai cấp giữa tư sản và vô sản ngày càng diễn ra quyết liệt.
Văn học Pháp thế kỉ 19 đã phản ánh những biến động cách mạng, những tư tưởng lớn của thời đại như chủ nghĩa xã hội không tưởng đầu thế kỉ và chủ nghĩa xã hội khoa học nửa sau thế kỉ, cuộc sống xã hội chính trị của nhân dân Pháp, nhiều trào lưu và khuynh hướng văn học liên tục xuất hiện qua các thời kì khác nhau với nhiều tác giả danh tiếng.
Chương 1. CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TÂY ÂU
1 Văn học Pháp
1.1 Chủ nghiã cổ điển "mới" và âm vang văn học cách mạng tư sản
1.2 Văn học lãng mạn Pháp phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong khoảng giữa hai cuộc Cách mạng (1789 và 1848). Ðúng như nhận định của Marx, khuynh hướng lãng mạn là sự phản ứng đầu tiên đối với Cách mạng Pháp và tư tưởng Ánh sáng gắn liền với cuộc cách mạng đó .
Văn học lãng mạn đã kế thừa các nhân tố sau :
Chủ nghĩa tình cảm, một tư trào văn chương thế kỷ 18 ra đời nhằm cân đối với tính lý trí của văn học Ánh sáng 18 vốn nặng về lý trí.
Về triêt học, chủ nghĩa lãng mạn chủ yếu mang tính duy tâm chủ quan. Đặc biệt văn học lãng mạn chịu ảnh hưởng khá sâu của học thuyết "chủ nghĩa xã hội không tưởng" của Owen và Furier.
Về nghệ thuật, thiên về tính trữ tình yêu thiên nhiên như một phương thức giải thoát thư giãn, phản ứng với hiện thực xã hội ngột ngạt bon chen.
Văn học lãng mạn vẫn có chú ý ít nhiều đến hiện thực đau khổ của người lao động.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật chưa chú ý xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, nó là cá nhân dị biệt, ngẫu nhiên, bất chấp sự vận động của hoàn cảnh khách quan.
Tính chất nhân đạo tràn ngập các tác phẩm lãng mạn.
Các tác giả tiêu biểu
Victor Hugo (1802-1885)
Là nhà văn, nhà thơ lãng mạn tiến bộ của nền văn học Pháp. Trong hơn sáu chục năm sáng tác, ông đã để lại hơn 20 vở kịch, 10 tiểu thuyết lớn và truyện ngắn, 15 tập thơ, hàng trăm bài văn chính luận, lí luận văn học, hàng nghìn bức thư tình và vài ba nghìn tranh vẽ. Sự phong phú về sáng tác của Hugo bắt nguồn từ mối liên hệ của nhà thơ với đời sống rộng rãi đa dạng của nhân dân, sự tham gia trực tiếp vào các phong trào chính trị và văn hoá tiến bộ.
Những tập thơ đầu tay Ðoản thi, Về phương Ðông đã rung lên niềm yêu thương của nhà thơ lãng mạn với quá khứ xa xăm hoặc những miền xa lạ. Những tập thơ trữ tình sau năm 1830 như Lá mùa thu,Tiếng hát buổi hoàng hôn, Tiếng nói bên trong, Tia sáng và bóng tối. Ông mở rộng suy tưởng về lẽ sống, về tình đồng loại, về nỗi đau khổ và sức mạnh của nhân dân. Ðến những năm 50, viết những tập thơ chiến đấu và hùng ca như "Trừng phạt, Chiêm ngưỡng, Truyền kì các thời đại" đã vươn lên tầm khái quát xã hội, ông nhìn ra hai nước Pháp: một nước Pháp của nhân dân nghèo khổ và một của bọn giàu sang quyền quí. Tình yêu thương con người khốn khổ bị đoạ đày như được gieo mầm khắp các tập thơ để kết đọng thành những rung động âm vang qua các hình tượng lớn trong tiểu thuyết và kịch của Hugo. Sự kết hợp tài tình giữa các yếu tố nghệ thuật đó đã giao hoà tình thương cảm giữa tác phẩm và bạn đọc, gây ấn tượng mạnh mẽ về tấm lòng nhân đạo bao la của nhà văn.
Hugo bênh vực người da đen cầm đầu nghĩa quân chống lại bọn thực dân da trắng và những luật lệ khắc nghiệt... Trong tác phẩm "Nhà thờ Đức bà Paris", Hugo ca ngợi tình thương yêu của những con người bình thường: cô vũ nữ Esmeralda, anh gù kéo chuông Quazimodo. Tác phẩm "Những người khốn khổ"miêu tả những tình cảm đau lòng dưới đáy xã hội Pháp với cả chiều rộng và chiều sâu. Hugo hi vọng giải quyết ba vấn đề "Sự sa đoạ của đàn ông vì bán sức lao động, sự truỵ lạc của đàn bà vì đói khát, sự cằn cỗI của trẻ thơ vì tối tăm". Những con người bị vùi dập hiện ra trong tác phẩm với những vẻ đẹp cao cả. Những rung động đầy chất thơ và sự suy tưởng khát vọng xoá bỏ nỗI đau khổ của loài người.
Nhà văn tin rằng lòng thương yêu tuyệt đối có khả năng tiêu diệt cái ác và mang lại hạnh phúc cho những người khốn khổ.
TÁC GIẢ VICTOR HUGO
Hoàn cảnh gia đình
Victor Marie Hugo sinh ngày 26/1/1802 ở Bizanson, một thành phố ở Tây Ban Nha. Cậu bé lúc mới sinh ốm đau quặt quẹo sớm phải chịu cảnh "nếu có cha thì không có mẹ ở bên mình". Hoàn cảnh chinh chiến của người cha, một sĩ quan của Napoleon I, khi ở Italy, khi qua Tây ban nha khiến ông phải theo sang Italia, khi lại đi Tây ban nha. Thơ của ông sau này không chỉ bắt nguồn từ những nét trái ngược, từ sự đan chéo cái thô kệch tầm thường và cái cao cả trong cảnh vật, từ sự rối loạn ở đất nước Tây ban nha dưới gót giày quân đội Pháp do Hugo giữ lại ấn tượng mạnh mẽ từ tuổi thơ, mà còn phản ánh những giằng xé bắt nguồn từ cuộc sống gia đình: mâu thuẫn giữa mẹ và cha của Hugo kết thúc bằng sự chia rẽ hoàn toàn vào lúc Hugo 16 tuổi.
Hugo giải thích "cha tôi là người chiến binh dày dạn, mẹ tôi người xứ Vandet (vùng Vandet có những cuộc nổi loạn cách mạng và cha Hugo được phái đến để dẹp loạn, đã gặp gỡ cô Sophie Trebuse vốn thường che chở một số nhà tu hành chống cách mạng, cô trở thành mẹ Hugo sau này). Sự xích mích giữa cha mẹ Hugo xảy ra chủ yếu do không hợp về khí chất và quan điểm chính trị giữa hai người. Mẹ Hugo đã yêu Laorie một người có học thức hơn, hợp xu hướng chính trị với bà và ông ta cũng là một viên tướng (như cha Hugo) lại bị thất sủng nên lúc đó đang âm mưu chống lại Napoleon. Bị phát giác, ông trốn tránh ở nhà mẹ con Hugo và chính thức cưới cô năm 1821 không lâu trước khi mẹ Hugo mất. Thực ra sự đối lập về tư tưởng của hai vợ chồng chưa đến mức dữ dội. Mẹ Hugo mặc dù gọi là "bảo hoàng" vẫn được coi là "bảo hoàng theo kiểu Voltaire" nghĩa là vẫn gần gũi với tư tưởng Ánh sáng hơn là kiểu Nhà thờ. Bà vẫn là đứa con của một thời đại mãnh liệt. Còn Hugo chỉ nhận thấy cha đẻ có những phẩm chất cao thượng sau khi mẹ mất. Tuy nhiên ảnh hưởng của người cha đỡ đầu - là người tình của mẹ - cũng có những khía cạnh lành mạnh, mang hơi thở thời đại. Laorie dạy cậu bé Victor đọc sách La tinh, đồng thời đã dạy cậu bé trước hết, cái quí nhất vẫn là Tự do.
Thiên tài Hugo bộc lộ từ rất sớm. Nhà văn lãng mạn Chateaubriand khi dạy cậu bé đánh vần và phát hiện Hugo đã biết đọc từ lâu rồi, đã gọi Hugo là "cậu bé trác việt". Mười tuổi, Hugo đã làm thơ, 14 tuổi viết một vở kịch, 15 tuổi được bằng khen của Viện Hàn lâm Pháp, 17 tuổi được giải Bông huệ vàng trong cuộc thi thơ ở Tulouse... Hugo thoát khỏi sự áp đặt của người cha, không đi theo hướng khoa học, đã cùng người anh là Engene Hugo lập ra tờ báo "Người bảo thủ văn học". Năm 1820, một cuốn tiểu thuyết của Hugo ra đời.
Trong đời sống gia đình, Hugo đã phải chịu một cái tang đau đớn : người mẹ qua đời. Rồi mối ám ảnh đầu tiên về huyền thoại Aben và Cain (hai anh em thù nghịch về sự phạm tội ngoài ý muốn: người anh là Engene Hugo sau nhiều dấu hiệu của bệnh điên đã phát điên thật sự khi Victor Hugo cưới Adele Fuset, cô bạn gái mà từ nhỏ hai anh em đã cùng yêu). Nhưng vinh quang đã đến sớm khi ông nổi lên như một nhân vật đầy hứa hẹn với nhiều ý niệm mới mẻ trong thi ca. Các vua chúa thời Trung hưng cũng chú ý tới nhà thơ trẻ này và muốn biến ông thành một loại thi sĩ cung đình. Vua Louis 18 cấp cho Hugo hai món lương bổng đặc biệt, nhờ đó chỗ dựa kinh tế gia đình được bảo đảm; sau đó vua Charles 10 lại ban cho ông huân chương Bắc đẩu bội tinh và mời nhà thơ tới dự lễ đăng quang của mình (1825).
Hugo xuất hiện như một ngôi sao mọc sớm và lặn rất muộn ở chân trời thế kỉ. Mãnh liệt và cường tráng, thiên tài ấy đã được khẳng định ngay từ đầu như chủ soái của trường phái văn học lãng mạn. Cho đến nửa sau thế kỉ dù khi trào lưu lãng mạn đã vượt quá thời vàng son của nó thì bản thân Hugo vẫn làm mờ nhạt tài năng của nhiều thứ "chủ nghĩa" nở nhanh và mau tàn ở cuối thế kỉ, đến nỗi những người thất bại phải than rằng "cây sồi già cứ xanh ngắt cho đến lúc chết" đã làm cớm nắng cả một vùng rộng lớn.Tuy rằng những tập thơ và tiểu thuyết xuất hiện lúc này như Đoản thi và tạp thi, "Đoản thi và ballade"...chỉ là một chùm sáng mơ hồ" nhưng sáng tác này vẫn không thể coi là chìm trong bóng tối của những tư tưởng bảo hoàng mà ở đây đã ló ra một quan niệm về sứ mệnh cao cả của nhà thơ, sau này sẽ phát triển mạnh mẽ và liên tục trong sáng tác của ông: hình tượng nhà thơ Ánh sáng "được cảm thông khi trái đất còn mù mịt".
Những dấu hiệu thiện cảm đầu tiên của Hugo đối với Napoleon I không thể giải thích bằng việc tìm lại người cha và qua hình tượng nhân vật Marius trong tác phẩm "Những người khốn khổ'. Thực ra trong bối cảnh giai đoạn đó, hướng về huyền thoạI Napoleon chính là biểu hiện của sự phủ nhận thời Trung hưng của dòng hoàng tộc Bourbon. Bởi vậy có thể nói ngay từ giai đoạn này, nhà thơ trẻ Hugo đã bộc lộ một niềm khát khao "hướng tới những vầng ánh sáng cứ mãi lùi xa".
Cùng một lúc, Hugo xuất hiện trên cả ba lĩnh vực: thơ, kịch và tiểu thuyết. Mới bước chân vào văn đàn, Hugo tuyên bố rằng "Tôi sẽ là Chateaubriand hoặc chẳng là gì cả !" Ngày nay các nhà phê bình đã tin rằng ngay khi pháttuyên ngôn ấy, Hugo đã là Hugo.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
(Les Miserables 1823-1861).
(Trước Cách mạng tháng Tám tiểu thuyết được dịch tiếng Việt với tựa đề "Những kẻ khốn nạn")
Cuối cùng, đề cương chính thức được đổi thành 5 phần như sau :
1 Phần thứ nhất : Fantine
2 Phần thứ hai : Cosette
3 Phần thứ ba : Marius
4 Phần thứ tư : Tình ca phố Plumet và Anh hùng ca phố Saint Denis
5 Phần thứ năm : Jean Valjean.
Tóm tắt tác phẩm :
1 - Jean Valjean là một thanh niên nghèo làm nghề xén cây, cha mẹ đã mất chỉ còn người chị goá chồng nuôi bảy cháu nhỏ. Mặc dù đã lớn tuổi, Jean chưa lập gia đình, anh mãi làm lụng giúp chị nưôi đàn cháu. Gặp phải lúc thất nghiệp, anh buộc lòng phải ăn cắp một số bánh mì cho lũ cháu đang đói. Bị bắt và kết án năm năm tù khổ sai. Sau bốn lần vượt ngục không thành, án tù tăng dần đến con số 19 năm. Mãn hạn tù Jean mang giấy thông hành màu vàng dành cho phần tử công dân nguy hiểm (có tiền án), nên đi đường tới đâu cũng bị nghi ngờ, hắt hủi. TrờI tối, đương lúc thất vọng, đầu óc quay cuồng chán nản, anh ghé vào nhà thờ của giám mục Miryen địa phận Dignet là người nhân từ độ lượng đã đối xử tử tế với anh, lại còn tha thứ cho anh tộI ăn cắp đồ vàng bạc cuả nhà thờ. Khi rờI khỏiinhà thờ lần thứ hai anh lại phạm tộI tước đoạt một đồng bạc của thằng bé Gecve lang thang. Hình ảnh đứa bé đứng khóc nức nở, sợ hãi tiếc rẻ hồI nãy đã thức tỉnh lương tâm anh, gợI nhớ cuộc đời lao động nghèo khó xưa kia, và những đứa cháu tội nghiệp...cùng với mẹ chúng nay đã thất tán không rõ ai còn ai mất. Anh hốI hận đi tìm thằng bé Gecve nhưng nó đã đi xa hút. Nhớ li hành động hào hiệp lạ lùng của đức giám mục Miryen đối với anh, Jean rùng mình như ngưòi lột xác. Anh quay lại trước cửa nhà thờ quỳ gối, xưng tội và cầu nguyện suốt đêm...Rồi anh ra đi, về phía tỉnh Mont'reui.
2- Đến Mont'reui, gặp và cứu một đám hoả hoạn, Jean được làm giấy thông hành mang tên mới : Madelaine. Sử dụng bí quyết sản xuất thuỷ tinh đen (hạt huyền) dùng làm đồ trang sức mà một ngưòi bạn tù đã dạy cho anh, Jean mở nhà máy sản xuất hạt huyền , thu nạp công nhân trong vùng. Kinh doanh phát đạt, ông ra sức làm công việc từ thiện : mở trường học, xây nhà thương miễn phí cho dân nghèo. Được dân bầu làm thị trưởng thành phố Mont'reui. Trong xưởng máy của ông có một người thợ tên là Fantine.. .
Fantine vốn là cô thợ khâu ở thành phố Paris, bị Tolomiette một gã quí tộc lừa tình, khi có mang, cô bị ruồng bỏ. Đẻ một đứa con gái, đặt tên Cosette, đem gởi một quán trọ của vợ chồng Thenardier ở thị trấn Montfermeil nuôi. Trở lại Paris kiếm sống nhưng... rồi tìm về thành phố Dignet xin vào làm ở xưởng thuỷ tinh của ông Madelaine, sau khi vì cạn tiền phải bán răng, bán tóc gởi cho con...Mụ giám thị khắc nghiệt đanh ác khi biết chị đã có con hoang liền đuổi chị khỏi xưởng may. Fantine đành phải đi làm gái điếm. Khi chị ốm nặng, lại bị Javert bắt giữ, Jean mới biết, đưa chị về nhà chữa trị, săn sóc và hứa sẽ chăm sóc Cosette . Cảnh sát trưởng Dignet là Javert luôn luôn nghi ngờ và rình rập ông Madelaine vì hắn nghi ông là tên tù khổ sai Madelaine phạm tội cướp đồng bạc của thằng bé Gecve năm xưa.
3 - Jean Valjean ra toà án tự thú để cứu Champmathieu - một người nông dân bị bắt oan vì hình dạng giống Jean . Lần thứ hai vào tù, Jean lại tìm cơ hội bỏ trốn đi tìm Cosette ở thị trấn Montfermeil, chuộc Cosette ra khỏi quán cơm của vợ chồng gã lưu manh Thanardier... Hai cha con sống lén lút âm thầm ở Paris suốt 10 năm trong một nhà thờ nữ tu. Ông vẫn bị tên mật thám Javert rình mò tìm kiếm... Cosette lớn lên trở thành thiếu nữ xinh đẹp, quen biết và yêu Marius, chàng sinh viên quí tộc từ bỏ ông ngoại sống độc lập.
Cuộc khởi nghĩa năm 1832 bùng nổ ở thủ đô Paris. Cuộc chiến đấu của các chiến sĩ cộng hoà diễn ra ác liệt. Bên cạnh những sinh viên ưu tú như Combeferre, Enjonbras... có tấm gương hi sinh dũng cảm của cụ già Mabop, chú bé bụi đời Gavrochee..., Jean cũng lên chiến luỹ, đứng về phía các chiến sĩ chống lại nền Đế chế của Louis Philip, vừa là do vô thức vừa muốn bảo vệ Marius con rể tương lai của ông, ông tha chết cho Javert. Cuộc khi nghĩa thất bại, ông cứu được Marius, đưa trả về nhà ông ngoại chàng. Ông bị Javert bắt lại, Javert buông tha ông và y nhảy sông tự vẫn.
Đám cưới Marius và Cosette. Ông già Jean Valjean càng cô đơn và gặp nhiều nỗi đau khổ dằn vặt nhưng vẫn ra sức vun đắp hạnh phúc cho con gái nuôi hồn nhiên, ngây thơ. Cuối cùng ông ngã bệnh và chết trong bàn tay hai đứa con khi chúng hối hận đã muộn màng.
Hơn một trăm năm đã qua kể từ khi bộ tiểu thuyết "Những người khốn khổ" được "khởi thảo bởi một người tù và hoàn thành bởi một vị nguyên lão". Sau nhiều năm bị ngắt quãng gián đoạn bởi cuộc lưu đày, như một cái chai ném ra giữa "đại dương con người" chứa lời tiên tri về những khát vọng và về một xã hội tốt đẹp hơn, trở thành bức thông điệp mà ngày nay thế giới tiếp tục vươn lên và đón nhận.
Người ta đã có nhiều cách nhận xét khác nhau về bộ tiểu thuyết đồ sộ này. "Bộ tiểu thuyết nhân dân", "anh hùng ca của những người bình thường", "một tiểu thuyết sử thi", "tiểu thuyết luận đề", "một cuốn tiểu thuyết Ánh sáng", "sử thi triết lí", "tiểu thuyết lịch sử", "tiểu thuyết lãng mạn", "tiểu thuyết hiện thực", thậm chí "một tác phẩm mênh mông".
Cuối cùng các nhà nghiên cứu thấy rằng tất cả mọi yếu tố đó đều chung sống trong bộ tiểu thuyết này, và Hugo đã làm cái việc "hoà lẫn mọi thứ anh hùng ca thành một thứ anh hùng ca ưu việt".
Cũng như các cuốn truyện trước, Hugo khai thác thành công loại tiểu thuyết nhiều kì đăng báo rất bình dân và rất ăn khách. Sơ đồ tiểu thuyết đăng báo thường gồm mối liên hệ giữa bốn hình tượng sau (A: kẻ bị loại bỏ, B: đối tượng của tình yêu; C: kẻ nắm quyền lực; D: kẻ hung đồ ).
Cấu trúc như trên là motif của loại tiểu thuyết đen và loại kịch melodrame quen thuộc ở Pháp. Với Hugo, sơ đồ trên bị phá vỡ và xáo trộn. Trong Jean Valjean có cả A lẫn D (ở những thời điểm khác nhau) và Fantine, Thenardier, Eponine, Azenma... cũng vậy. Trong Cosette có cả A (thuở nhỏ) lẫn B, Javert vừa là C vừa là D. v.v..."Ánh sáng" và "Bóng tối" lúc đầu tưởng như phân định rạch ròi, cũng không hoàn toàn như vậy ở các giai đoạn kế tiếp.
Mỗi một nhân vật lại chứa trong mình cả một sơ đồ cốt truyện loại khá : câu chuyện Cosette giống một truyện tiên kể cho các em nhỏ (có cả quỉ và cả bà tiên là Jean, có hoàng tử thức tỉnh mùa xuân của hằng nga Cosette ở vườn Luxamburg là Marius...). Mối tình Marius - Cosette là một thiên tiểu thuyết diễm tình tiêu biểu, cũng như truyện Fantine - người con gái bị quyến rũ và bị phụ bạc, mẹ của đứa con hoang, là cốt truyện kiểu melodrama.
Thế nhưng, nếu chỉ có vậy thì "Những người khốn khổ" chỉ là sách bán chạy của một thời ; Tiểu thuyết còn chứa cả một tương lai mơ hồ hé qua chân trời tối sầm lại của "một chiến luỹ", và những suy tưởng, những cơn "bão tố nổ ra trong đầu", trong lương tri của nhà nghệ sĩ lớn Hugo. Những thắt nút những đòn bất ngờ, những tình tiết hỗn hợp xoay quanh vận mệnh của các nhân vật và "nhân vật trung tâm" thực ra là những phố xá lan man của Paris "theo đường bay của chim cú", tu viện, cống ngầm, dòng sông Sein đều có điểm gặp gỡ: những chiến luỹ của "bản anh hùng ca phố Saint Denis và nhiều cuộc khởi nghĩa khác (1832, 1848) từ tài liệu sử sách và cả những điều nhà văn tai nghe mắt thấy. Những cảnh khốn cùng, những người khốn khổ đều là những nhân vật có gốc tích mà nhà văn gặp trên đường đời.
"Cuốn sách này là một tấn bi kịch mà nhân vật đầu tiên là vô biên. Con người là nhân vật thứ hai". Lời tuyên bố của tác giả tuy có làm rõ thêm tính triết lí của cuốn sách cũng không thể xoá bỏ luận đề xã hội mà cuốn sách nêu ngay từ trang đầu :
"Khi pháp luật và phong hoá còn đày đoạ con người, còn xây nên những địa ngục ở giữa xã hội văn minh và đem một thứ định mệnh nhân tạo chồng chất lên trên thiên mệnh..."
Với tư cách là một tác phẩm lãng mạn, bộ tiểu thuyết chủ yếu vẫn là khẳng định thế giới lí tưởng của nhà văn nhưng không thể thiếu những phần phê phán xã hội. Cuốn sách được viết khi trào lưu hiện thực chủ nghĩa đang dần thay thế cho trào lưu lãng mạn, bởi vậy tác phẩm đã xen kẽ nhiều yếu tố hiện thực. Những nhân vật như Jean, Fantine, Cosette, Gavrochee, Azenma... không có tên hay là một lai lịch rõ ràng, "đừng hỏi tên họ của một kẻ đi xin chỗ trú thân, Jean muốn có một cái tên đáng kính thì phải ăn cắp (ba lần), cho dù cần một cái tên giả để làm việc thiện. Và cuối cùng ông thú nhận cùng Marius "Để sống, xưa kia tôi đã phải ăn cắp một cái bánh, bây giờ để sống tôi không muốn ăn cắp một cái tên, tên tôi chính là Tôi". Quả vậy, xã hội tư sản mang lại quyền sở hữu "cái tôi" chỉ cho những ai có sở hữu tiền bạc. Cùng với họ tên, là vấn đề gia đình, Jean nói với Marius "tôi chẳng thuộc gia đình nào, thế đấy. Tôi chẳng thuộc gia đình của ông. Tôi không thuộc về gia đình của con người (...). Tôi là kẻ khốn khổ, tôi ở bên ngoài". Do vậy, những nhân vật khốn khổ của Hugo chưa thể gọi là những "điển hình" (tức là mang tính cá biệt), song vẫn có một ý nghĩa xã hội, họ là những "siêu mẫu" của tiểu thuyết hiện đại, (gần gũi với điển hình A.Q của Lỗ Tấn, Chí Phèo của Nam Cao hoặc với những nhân vật đánh mất tên tuổi trong tiểu thuyết Kafka thế kỉ 20 sau này). Không phải ngẫu nhiên mà trình tự câu chuyện gồm 5 phần mà hai phần đầu lại mang tên Fantine (I), và Cosette (II) trong đó Cosette sẽ còn sống tới cuối truyện (phần V). Còn nhân vật Jean xuất hiện một mình ngay từ đầu lại dành đặt tên cho phần chót. Ba nhân vật Fantine, Cosette, Jean Valjean mang âm hưởng đặt vấn đề, nêu câu hỏi. Jean từ khi chưa gặp giám mục Myrien là một bằng chứng phản đề cho giải pháp tình thương, để sau đó cuộc sống của anh như một lời chuộc tội, một đức tính cứu rỗi con người.
Là một thứ chủ nghĩa khai sáng, với bệnh viện mở cho người nghèo, với niềm tin rằng "sách là người bạn đáng tin cậy", với những "ốc đảo không tưởng" của Madelaine giữa bãi sa mạc đại hạn tình thương là cái xã hội người bóc lột người. Với hình tượng Myriel, được tiếp nối ở hình tượng ông thị trưởng Madelaine, với dư âm khúc hát về Voltaire và Rousseau của chú bé Gavrochee, cái cách mạng tưởng như không liên tục ấy, tất cả nói lên chủ nghĩa khai sáng như một hoài vọng mà Cách mạng tư sản không thể biến nó thành hiện thực và rất gần với những ảo tưởng về cuộc đời sự nghiệp của nhà xã hội không tưởng Owen.
Chiều hướng thứ ba trong kết cấu tác phẩm có thể mập mờ hơn nhưng đã được nhà thiên tài lãng mạn dự cảm thấy trong những chương như "Hé sáng rồi lại tối sầm" (phần thứ 5) khi chiến luỹ rơi vào cảnh tuyệt vọng, nhưng một tiếng nói "từ trong khoảng tối tăm nhất" vang lên thay đổi cả chiến luỹ. Theo Hugo đó là tiếng nói của một người thợ không ai biết tới, một người vô danh, một kẻ bị quên lãng, một người qua đường anh hùng, cái kẻ vô danh vĩ đại luôn luôn hoà vào những cuộc khủng hoảng của loài người và những cơn thai nghén của xã hội, vào những giây phút quyết định, họ nói lên lời tối hậu quyết định nhất, và tan biến vào bóng tối sau khi đại diện trong giây phút, giữa ánh sáng chớp loè, cho nhân dân và Đức Chúa".
Qua hình tượng của nhân vật, chúng ta thấy kích thước của tương lai xuất hiện qua Gavrochee - chú bé tiên đồng bất tử - bởi trong cái chết của chú không có chết chóc mà chỉ là " cái linh hồn bé bỏng và vĩ đại ấy đã bay đi". Hai đứa em bị bỏ rơi sau khi chú chết, đứa lớn dắt đứa bé, "làm anh rồi lại làm cha". Kết thúc là cảnh thằng anh vớt bánh của con thiên nga dưới hồ lên, đưa cho em ăn với câu nói giống hệt Gavrochee hồI trước "Này, tọng vào nòng súng đi". Ngôn ngữ của Gavrochee, ngôn ngữ của thời đại không chết với Gavrochee mà đang tái sinh ở những đứa bé anh hùng. Cảnh này trùng điệp cảnh kia như điệp khúc, dư ba của bản giao hưởng anh hùng.
Bạo lực và Ôn hoà, Cách mạng và Tình thương không còn là một thứ ánh sáng phân đôi, mà đan chéo, hoà quỵên và giằng xé ngay trong lòng một nhân vật lí tưởng như Jean Valjean -nhân vật trung tâm thể hiện những ảo tưởng lãng mạn biến cải thế giới bằng tình thương - đã có lúc lên chiến luỹ chỉ vì lo hạnh phúc riêng tư của con gái Cosette, nhưng nhà văn vẫn dẫn con người lí tưởng của mình tới chiến luỹ của những người Cộng hoà chứ không phải của quân chính phủ. Còn khi Anjonras phải thay bạn nhằm bắn một tên quốc dân trông giống hệt đứa em trai bạn thì "một dòng nước mắt long lanh chảy trên gò má lạnh như đá của anh". Mối băn khoăn giày vò giữa "ánh sáng đen" và "ánh sáng trắng" từ tác giả thấm vào nhân vât vẫn là câu hỏi ám ảnh những tiểu thuyết và thơ sau này như "Chín mươi ba" và "Năm khủng khiếp".
Trong toàn bộ bản giao hưởng có "tiếng sắt tiếng vàng" chen nhau, tìm hiểu âm hưởng chủ đạo của nó, ta không thể chỉ rút ra những kết luận của Hugo ở những đoạn bình luận ngoại đề (dù ở chỗ đó nhà văn phát biểu trực tiếp quan điểm của mình), mà đối với tiểu thuyết, ta vẫn phải xét nhân vật trung tâmtrong mối liên hệ với các nhân vật khác, đặc biệt là các nhân vật tích cực, sự đan chéo giữa hai tuyến bạo lực - tình thương, và sự phân thân của từng nhân vật. Ở tác phẩm của nhà văn lãng mạn này, hình tượng rộng hơn tư tưởng
Về mặt ngôn từ, "Những người khốn khổ" vẫn tồn tại những ý kiến đánh giá trái ngược: đó là giá trị của những đoạn, chương trữ tình ngoại đề mở rộng với kích thước khác thường so với các tiểu thuyết khác. Có người phản ứng vì tính chất giáo huấn khá lộ liễu của nó, trong khi đó những độc giả bình thường khi theo dõi cốt truyện chẳng ai thích đọc những đoạn, những chương này. Tuy nhiên, tính chất giáo huấn đã nhiều khi nhường chỗ cho cảm hứng và suy nghĩ dằn vặt của nhà văn trước một chủ đề nhất định, đó là Lịch sử, và nó là một câu hỏi hơn là một sự khẳng định võ đoán; Có những lúc nó lại mang chất thơ cho tiểu thuyết ; ví dụ những đoạn viết về Paris, về nhà tù, lan man những hoài niệm đang xuất hiện trong đầu người kể chuyện hướng về tổ quốc trong những ngày lưu đày.
Bên cạnh đó, trong tiểu thuyết, nhà trữ tình vẫn phải xoá nhoà hình ảnh mình đi rất nhiều. Ở đây do sức chứa rộng lớn của cuốn sách, do đề tài và nhân vật huy động tới từ những bậc cao tới tận dưới đáy xã hội, ta thấy cất lên tiếng nói đa âm trong cuốn tiểu thuyết. Từ giọng điệu của những lão già bảo hoàng như lão Gillenormand (ông ngoại Marius) đến giọng nói dõng dạc của luật pháp (không chỉ qua miệng thanh tra Javert mà đan cài vào giọng của người kể chuyện qua nhiều vụ án và ngược lại cũng là giọng điệu mỉa mai). Giọng của các cô thợ trẻ vô tư lự, tiếng lóng của những kẻ sống theo luật giang hồ, đối thoại của sinh viên, những điệu đồng dao, điệu hát dân ca và bài ca cách mạng đi thẳng vào văn bản qua miệng của người phát ngôn kì thú, thích hợp nhất là chú bé Gavrochee v.v. Đôi khi tiếng nói của nhân vật Jean Valjean đã tiếp cận với mê sảng, nhưng về mặt này người kể chuyện vẫn hết sức tỉnh táo giữ lại thăng bằng bằng cách duy trì một thứ âm vận của thơ bàng bạc suốt tác phẩm; tính chất nhịp nhàng sóng đôi của câu thơ Alexandrin dường như vẫn vang lên trong câu thơ của "Những người khốn khổ".
Rồi đây, tiểu thuyết "Chín mươi ba" cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Hugo sẽ trở lại vấn đề này và kiểu nhân vật này ở mức độ khác, kích thước khác. Tuy nhiên sự trung thực của nhà văn cảm thấy giới hạn cuả mình trước lịch sử khiến ông khi khẳng định thì sự khẳng định ấy vẫn ít nhiều mang dáng dấp một sự giày vò, một câu hỏi. Và, sức tổng hợp của "Những người khốn khổ" chính là ở chỗ : những nhân vật ở đây đã chứa trong mình những phần nhất định của các nhân vật nổi tiếng ở các tiểu thuyết khác. Nhớ đến Quazimodo, ta vẫn thấy phiên bản của Jean Valjean, Eponine, Gavrochee, Fantine. Người ta nói rằng : tất cả các hình thức lãng mạn đều có thể tìm thấy ở Hugo . Nhưng cũng phải nói thêm rằng: tiểu thuyết lãng mạn còn tìm thấy ở Hugo những cái mà nó chưa có.
"Đơn độc mà liên kết, liên kết mà đơn độc". Người ta cho rằng câu châm ngôn của Hugo nói về mình trong những năm lưu đày cũng đã bao hàm mối liên hệ của ông với thời đại : ông vừa là hiện thân của nó vừa phản ứng với cái thế kỉ mà ông từng gọi tên nó trong thơ mình bao lần, như một nhân chứng, một quan toà nhưng có khi lại như một kẻ bị kết tội.
Chương 2. CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TÂY ÂU
(Từ giữa thế kỉ 19 đến những năm 60)
2.1 Văn học Pháp
Văn học hiện thực Pháp xuất hiện sau năm 1820 dưới thời Trung hưng, phát triển mạnh mẽ cho đến những năm 60, có thể chia ra hai giai đoạn: trước và sau năm 1848.
Sau cuộc Cách mạng tháng Bảy năm 1830, chính quyền thuộc về giai cấp đại tư sản mà Marx gọi là bọn "quí tộc tài chính". Đồng tiền thống trị mọi lĩnh vực xã hội với quyền lực và sức mạnh tha hóa của nó. Cuộc Cách mạng công nghiệp diễn ra và giai cấp công nhân dần dần trưởng thành đã dẫn tới cuộc Cách mạng tháng Sáu năm 1848. Đây cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ của trào lưu văn học hiện thực với những nhà văn ưu tú: Stendhale, Balzac, Merimee.
GIAI ĐOẠN 1
Stendhale (1783 - 1842)
Xuất thân trong một gia đình trí thức. Ông rất thích âm nhạc, hội hoạ và văn chương Italia. Đối với Napoleon I, ông vừa khâm phục tài năng vừa phê phán sự tàn bạo của nhà độc tài. Năm 1814, ông bắt đầu viết một số tác phẩm nghiên cứu về âm nhạc và hội hoạ. "Tiểu luận về tình yêu" (1822) phân tích diễn biến quá trình yêu đương khi ông đeo đuổi một thiếu phụ xinh đẹp ởMilan.
Năm 1823, Stendhale xuất bản tiểu luận "Racine" và "Shakespeare" trong đó ông đứng về phía các nhà văn lãng mạn chống lại những qui tắc lỗi thời của chủ nghĩa cổ điển. Tóm tắt các luận điểm của ông như sau :
Phân tích tính chất lịch sử của lí tưởng thẩm mĩ
Đưa ra những qui tắc nghệ thuật kịch nói, nhấn mạnh chỉ cần tôn trọng qui tắc "duy nhất về hành động".
Viết kịch bằng văn xuôi cho giản dị và tự nhiên.
Học tập thực chất của Shakespear "điều cần bắt chước con người vĩ đại đó là cách nghiên cứu, quan sát thế giới trong đó ta đang sống".
Yêu cầu nghệ thuật phải thể hiện nồng nhiệt và chính xác những niềm say mê bằng một hình thức trong sáng.
Nghệ thuật phải gắn bó với chính trị như trước kia chủ nghĩa cổ điển đi với chế độ quân chủ và giai cấp quí tộc, còn chủ nghĩa lãng mạn đi với cách mạng.
Khái niệm "chủ nghĩa lãng mạn" (romanticisme) mà Stendhale dùng ở đây có khác với khái niệm "romantisme" của các nhà văn lãng mạn đương thời .Nội dung khái niệm mà Stendhale dùng lại là khuynh hướng "hiện thực chủ nghĩa" đang hình thành mà ông là cây bút đầu tiên.
Stendhale đã viết một số tiểu thuyết, tiêu biểu là ba tác phẩm "Đỏ và đen"(1830), "Tu viện thành Pacmer" (1839) và "Lucien Lewel" (1835).
"Đỏ và đen" là một tác phẩm hiện thực xuất sắc khi tác giả xây dựng tính cách điển hình Julien Sorel hình thành và phát triển trong hoàn cảnh điển hình. Những sự kiện chính của xã hội Pháp thời Trung hưng được miêu tả cụ thể, chân thực. Tính cách của các nhân vật Julien Sorel con ông thợ xẻ, vợ chồng thị trưởng De Renald, hầu tước De La Mole và con gái Mathildez...đều được xây dựng phong phú, sinh động với nghệ thuật phân tích tâm lí tài tình của Stendhale. Tác giả không thích giải thích ý nghĩa của nhan đề tiểu thuyết "Đỏ và đen". Nhiều nhà văn và nhà nghiên cứu đã giải thích khác nhau. Đỏ và đen ám chỉ sự may rủi, đỏ đen của nhân vật trung tâm; hoặc đỏ và đen là hai mặt của tính cách Sorene; hoặc đó là hai mặt tương phản của cách mạng màu đỏ và tội ác phản động màu đen; hoặc màu đỏ là màu đồng phục của sĩ quan thời Napoleon, màu đen là màu áo choàng tu sĩ thời Trung hưng v.v...Cách lí giải nào cũng đều có ý nghĩa tương đối phù hợp với diễn biến sự việc và các tính cách nhân vật trong tác phẩm.
ĐỎ VÀ ĐEN
(Le Rouge et le Noir)
Chuyện xảy ra tại thành phố nhỏ Verie, có hai vợ chồng thị trưởng De Renald, lão Sorel làm nghề thợ xẻ, vị tu sĩ tốt bụng Selang, gã tư sản Valeno giám đốc viện tế bần. Julien là con thứ ba của lão Sorel. Anh không có được thân thể lực lưỡng, cường tráng như hai anh trai, nhưng là một thanh niên thông minh, có mơ ước thoát ly địa vị thấp kém của giai cấp mình và chiếm một chỗ đứng trong xã hội quí tộc, tư sản thời kì Trung hưng lúc bấy giờ. Julien ham đọc sách, nhất là cuốn hồi kí của Hoàng đế Napoleon, một thần tượng ám ảnh đầu óc từ ngày còn bé, khi anh có dịp ngây ngất chứng kiến đoàn quân của Hoàng đế hùng dũng đi ngang qua. Nhưng rồi đế chế sụp đổ, Julien liền vào trường dòng mong tìm một con đường tiến thân hợp thời hơn. Đang lúc đó, thị trưởng De Renald mời anh đến nhà làm gia sư kèm cặp cho đứa con nhỏ. Julien nhận lời, hi vọng đây là một dịp bước chân vào thế giới thượng lưu và len lỏi kiếm chác địa vị. Tính tình của Julien và lòng kiêu hãnh của anh đã làm xiêu lòng bà De Renald, một phụ nữ còn trẻ và giàu tình cảm. Quan hệ giữa hai người khiến cho dư luận dị nghị. Ông De Renald nhận được một lá thư nặc danh. Tuy không tin vào những lời đồn đại nhưng ông cũng quyết định cho Julien thôi việc để tránh tai tiếng. Đó cũng là "ý muốn" của bà De Renald vì bà bắt đầu cảm thấy lo sợ. Julien được tu sĩ Selang giới thiệu đi học ở Trường dòng Bizanson do linh mục Pira cai quản và chẳng bao lâu lại được linh mục tiến cử lên Paris làm thư kí riêng và thủ thư cho hầu tước De La Mole. Trước khi đi anh quay về Verie từ biệt bà De Renald và được bà giấu trong phòng riêng suốt cả đêm. Ở Paris, Julien được hầu tước De La Mole hết sức tin yêu và ban cho nhiều ơn huệ. Con gái hầu tước, cô Mathildez kiêu hãnh, cũng yêu Julien và không ngần ngại hiến thân cho anh. Dưới mắt cô, Julien không phải loại người tầm thường như bọn thanh niên quý tộc, hơn nữa lấy Julien cũng là một hành động khiến cho cô có thể trở nên khác người. Còn đối với Julien thì đây là một cơ hội tốt để leo lên bậc thang danh vọng. Mathildez có mang, liền thú thật với cha. Hầu tước De La Mole đành quyết định thay đổi họ cho Julien và chuẩn bị cuộc sống lứa đôi cho anh với con gái mình. Đang lúc đó thì bà De Renald bị một linh mục địa phương ép viết thư tố cáo Julien với hầu tước De La Mole. Câu chuyện hôn nhân bị cản trở. Julien tức giận liền quay về Verie, vào nhà thờ, dùng súng bắn bà De Renald hai phát, nhưng bà chỉ bị thương. Ở trong tù, Julien mới tỉnh giấc mộng danh lợi. Anh bị kết án tử hình. Cả bà De Renald và cô Mathildez đều vào trong tù thăm anh và vận động xin toà ân xá cho anh nhưng không kết quả. Cô Mathildez năn nỉ Julien chống án, anh không nghe theo. Ba ngày sau khi anh bị xử tử, bà De Renald đau buồn mà chết.
Stendhale là nhà văn hiện thực lớn "nhân đạo một cách sâu sắc và có tính triết học" (M. Gorki), "là nhà tâm lí học vĩ đại nhất" (Ten). Khi ông còn sống, rất ít người đọc tác phẩm của ông nhưng Balzac là nhà văn lớn duy nhất của thế kỉ đánh giá đúng đắn tài năng của ông.
H'onore De Balzac (1799-1850)
Là nhà văn hiện thực lớn nhất nước Pháp nửa đầu thế kỉ 19.
Trong hai mươi năm, từ 1829 đến 1848, Balzac đã viết hơn 90 tác phẩm lớn nhỏ mà phần lớn được tập hợp thành bộ "Tấn trò đời". Ngoài ra còn nhiều vở kịch và những "Truyện ngắn ngộ nghĩnh". Khối lượng đồ sộ làm danh tiếng ông vang lừng khắp châu Âu. Balzac đã tự hào nói rằng "tôi mang cả một xã hội ở trong đầu của tôi". Ông lui tới nhiều phòng khách (salon), hội Tao đàn, cộng tác với nhiều tờ báo; viết kịch và hoạt động sân khấu ; đi du lịch ở nhiều nơi ở trong và ngoài nước, hoạt động chính trị, gia nhập phái chính thống và ứng cử vào nghị viện v.v...Balzac quan hệ rộng rãi với nhiều phụ nữ và tỏ ra am hiểu phụ nữ sâu sắc qua nhiều hình tượng trong tác phẩm ông đã viết. Balzac cũng gặp nhiều trắc trở trong tình yêu, mãi cho đến năm 1850 ông mới cưới bà Hanska, một phụ nữ quí tộc Nga gốc Ba Lan sau mười tám năm quen biết, thư từ qua lại.
Balzac mất năm 51 tuổi vì làm việc quá nhiều.
Ông đã thực hiện ước vọng trở thành "Napoleon trong văn học" bằng một sự nghiệp văn chương lớn lao, "Tấn trò đời" là một công trình toàn vẹn, mỗi tác phẩm trong đó là một đơn vị hoàn chỉnh, độc lập nhưng lại liên kết hữu cơ với các tác phẩm khác. Nhiều nhân vật sống luân lưu từ tác phẩm trước đến tác phẩm sau. Đó là bức tranh toàn cảnh xã hội Pháp từ năm 1818 đến 1848. "Lời nói đầu" của "Tấn trò đời" đã đúc kết quan điểm sáng tác và phương pháp nghệ thuật hiện thực của Balzac. Do sự so sánh nhân loại học với động vật học, ông đã bộc lộ quan điểm duy vật khi ông nhận thức được ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với con người :
"Tình trạng xã hội có những điều ngẫu nhiên mà tự nhiên không thể có, bởi vì tình trạng xã hội là tự nhiên cộng với xã hội"
"Xã hội Pháp là nhà sử học, tôi chỉ làm người thư kí. Tiểu thuyết sẽ chẳng là gì cả nếu trong sự nói dối trang nghiêm ấy thiếu sự thật trong chi tiết" (Trich Lời nói đầu).
Ông khẳng định nghệ thuật phải gắn chặt với thế giới thực tại, phải có tính lịch sử và thể hiện chân thật cuộc sống. Lời nói đầu thể hiện tư tưởng phức tạp của nhà văn (về triết học, tư tưởng và tôn giáo). Về nghệ thuật, Lời nói đầu đề cập phương thức xây dựng tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình của chủ nghĩa hiện thực :
"Xây dựng những tính cách điển hình bằng cách kết hợp những nét của vô số những tính cách đồng nhất không chỉ của con người, mà các biến cố của đời sống cũng biểu hiện bằng điển hình".
Nộị dung tiểu thuyết hiện thực của Balzac bao quát mọi hoạt động của con người ở nhiều lĩnh vực khác nhau, mọi giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau. Từ đời sống vật chất, kinh tế, tinh thần...từ nơi ăn chốn ở, đi lại, làm lụng, mua bán, học hành, nghiên cứu, sáng tạo, kinh doanh...Đặc biệt Balzac đã vạch trần vai trò của đồng tiền trở thành động lực xã hội trong tay của giai cấp tư sản nắm chính quyền và đưa xã hội vào con đường công nghiệp hoá...Nhà văn đã phản ánh cuộc đấu tranh sống còn giữa giai cấp quí tộc suy tàn và giai cấp tư sản đang lên ở đô thị và cả nông thôn và tuy "về mặt chính trị, Balzac là một đảng viên chính thống, tác phẩm lớn của ông vẫn là một bản trường hận ca than thở sự tan rã không cứu vãn được của xã hội thượng lưu...(Ănghen).
Các nhân vật phản diện chiếm số đông trong tác phẩm của Balzac: bọn tham lam, hãnh tiến, lũ cơ hội, kẻ bất nhân...Có nhà phê bình nhận xét "Balzac là thiên tài của cái Ác và thông tục" (Langson). Thực ra Balzac cũng quan tâm miêu tả "những nhân vật đức hạnh", những người tốt và lí tưởng trong tiểu thuyết song việc này quả khó khăn hơn. Đó là các hình tượng nhà phát minh sáng tạo như Bantasa Claet, David Cezar, nhà tư tưởng như Louis Lambe, nhà cách mạng như Misen Chrestien, văn nghệ sĩ như hoạ sĩ Franhofe nhạc sĩ Gambara, nhà văn Actese v.v; Bên cạnh đó còn có những gương mặt phụ nữ cao thượng, nhân hậu như Eve, Eugenie...như Pauline, Berenise...Họ là những con người chân chính của tương lai, trước mắt chẳng đủ khả năng đe doạ sự tồn tại của trật tự tư sản.
Prosper Merimee (1803-1870).
Nhà văn viết truyện ngắn của văn học hiện thực Pháp. Xuất thân từ gia đình nghệ sĩ - trí thức, Merimee được giáo dục chu đáo, toàn diện. Tốt nghiệp luật khoa, ông làm hành chính và bảo tàng khảo cổ nhưng con người nghệ sĩ lấn át con người viên chức. Sớm kết bạn với Stendhale và chịu ảnh hưởng sâu sắc của nhà văn hiện thực lớn. Ông say mê nghiên cứu các nhà văn Anh như Walter Scott, Shakespeare và các nhà văn Nga cùng thế kỉ như Turgueniev, Puskin, Gogol. Năm 40 tuổi, ông được bầu vào Viện Hàn Pháp và Viện Hàn Lâm khảo cổ. Từ năm 1829, Merimee đã tìm được thể loạI thích hợp là truỵên ngắn và truyện vừa. Nhưng kiệt tác trong hơn hai mươi năm sáng tác là: Colomba, Tamango, Mateo, Phancon, Carmen v.v..
Merimee viết về con người thượng lưu Pháp nhằm phơi bày những tính cách nghèo nàn, phù phiếm, thói đạo đức giả và vị kỉ của họ. Ngay cả người phụ nữ thượng lưu cũng là nạn nhân của sự giả dối, lừa lọc (truyện Hai sự hiểu lầm). Chán ghét đề tài giới thượng lưu đương thời, ông quay sang tìm những đề tài ở xứ sở xa lạ, thể hiện những tính cách mãnh liệt với những vẻ đẹp tự nhiên hoang dã.
Truyện vừa "Carmen" là một đỉnh cao nghệ thuật. Carmen là cô thợ thủ công người Bohemien rồi trở thành một cô gái lang thang, Jose là lính đào ngũ trở thành tên cướp. Carmen không tránh khỏi mê tín, tuỳ tiện nhưng cô là người dũng cảm, can trường, nghị lực, yêu say mãnh liệt. Carmen gây sức hấp dẫn người đọc còn vì biết tôn trọng danh dự, biết bảo vệ tự do, sẵn sàng đi đến cái chết không chút sợ hãi... (Thế kỉ XX có vở vũ kịch ballet Carmen dựa trên tiểu thuyết này)
GIAI ĐOẠN 2
Gustave Flaubert (1821-1880)
Cha của Falubert là thầy thuốc phẫu thuật. Thời gian học trung học, anh mơ ước trở thành "trước hết là nghệ sĩ". Lên Paris học luật,tiếp xúc nhiều nhà văn nổi tiếng như Hugo. Hai năm sau bị bệnh thần kinh phải bỏ học luật về ở trại ấp riêng ở Rouan. Năm năm sau đi du lịch một số nước phương Đông ...Ông viết nhiều tác phẩm nghệ thuật ưu tú như "Bà Bovary", "Sự cám dỗ của thánh Angtoan"...tiếp tục truyền thống văn học hiện thực của Stendhale và Balzac Sau biến cố 1848 ông trở nên hoài nghi, bi quan nên rút vào "tháp ngà nghệ thuật"
Tuy nhiên tác phẩm của ông vẫn có giá trị tố cáo mạnh mẽ nền văn minh tư sản như ông viết: "Sự thô bỉ là sản phẩm của thế kỉ 19". Ông cảm thấy sự suy thoái của xã hội tư sản nhưng không tìm ra được lối thoát. Quan điểm thẩm mĩ của Flaubert cũng thể hiện mâu thuẫn thế giới quan của ông : vừa chấp nhận cái đời thường là đối tượng miêu tả của nghệ thuật vừa yêu cầu "nghệ thuật thuần tuý, hình thức hoàn mĩ" của nghệ thuật khách quan.
"Bà Bovary" (1857) được viết cật lực sau hơn 4 năm. Khi đăng lần đầu trên tạp chí thì bị chính quyền theo dõi, kiểm duyệt. Emma Bovary là một phụ nữ xinh đẹp trẻ trung, không bằng lòng với số phận đã cố sức đi tìm một "cuộc sống Pháp" nhưng rồi sa ngã và cuối cùng tự tử vì tuyệt vọng. Thực tại đớn hèn của xã hội bao quanh nàng và khi ngoại tình nàng lại thấy sự vô vị của hôn nhân. Luẩn quẩn không lối thoát ra khỏi cuộc đời toàn những sự giả dối, Emma vùng vẫy muốn thoát ra khỏi cái thấp hèn rồi lại bị cái thấp hèn xâm nhập trở lại. Ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt đã mô tả quá trình sa đoạ của Emma từ cô thiếu nữ đa cảm đến người đàn bà dối trá, đắm chìm trong nhục cảm.
Guide Maupassant (1850-1893)
Sinh ra trong một gia đình quí tộc phá sản ở Rouan. Sau khi cha mẹ li dị, Maupassant sống tự do với mẹ ở quê ngoại. Tốt nghiệp trung học loại giỏi. Nhập ngũ, tham gia chiến tranh Pháp-Phổ. Về Paris làm viên chức Bộ hải quân và từ năm 1878 làm ở Bộ giáo dục. Được sự dìu dắt của Flaubert bạn thời niên thiếu của mẹ ông, Maupassant bắt tay viết văn. Tác giả "Bà Bovary" chỉ dẫn cho ông một số nguyên tắc của nghề văn :
Phải tiếp xúc với thực tại.
Tìm hiểu những điều chưa ai nói đến
Cần coi thường sự khoa trương và những định kiến tư sản
Cần phải kiên trì và độc đáo trong nghề này.
Trong 7 năm, Maupassant hay làm thơ và viết kịch ngắn. Flaubert vẫn giúp đỡ sửa chữa cho Maupassant và khích lệ tài năng của ông. Năm 1880, ông thực sự nổi tiếng với truyện ngắn "Viên mỡ bò". Từ đó ông chuyển hẳn sang nghề văn. Năm 1885 ông mắc bệnh thần kinh, đến năm 1893 Maupassant từ trần ở một nhà thương điên Paris.
Sáng tác của Maupassant gồm hơn ba trăm truyện ngắn và sáu tiểu thuyết. Tiểu thuyết nổi tiếng có "Một cuôc đời", "Anh bạn điển trai", "Đỉnh Orion"... Đề tài truyện ngắn của ông rất phong phú từ cuộc sống bình thường của tầng lớp trung lưu, dân nghèo ở thành thị và nông thôn, tác giả đã phản ánh những dục vọng chạy theo danh lợi, đồng tiền, những hành vi xấu xa tội lỗi gây nên những tấn kịch trong gia đình (Bố của Simon, Món gia tài, Ngoài khơi, Chú Jule tôi...) tình yêu nước sâu xa của người dân bình thường (Viên mỡ bò, Đôi bạn, ông cụ Nilon...). Trong một số tác phẩm, bắt đầu có những yếu tố bi quan về thân phận con người hoặc đôi khi xa vào tự nhiên chủ nghiã. Ông phủ nhận Chúa Trời "dốt nát, chẳng hiểu ý nghĩa mọi việc trên đời", ông còn mất niềm tin ở con người "chúng ta chẳng biết gì cả, chẳng tưởng tượng ra điều gì". Vì vậy mà nỗi lo âu khắc khoảI của con người hiện lên rõ nét trong một số truyện của ông vào thời kì cuối đời (Sự sợ hãi, Hocla).
Maupassant là nhà văn hiện thực tiêu biểu trong giai đoạn văn học hiện thực Pháp sau năm 1848.
Văn học Công xã Paris
Sau Cách Mạng tháng Sáu 1848, cuộc đấu tranh giai cấp giữa tư sản và vô sản ở Pháp ngày càng diễn ra gay gắt. Năm 1851, Louis Bonaparte làm cuộc đảo chính, khai sinh Đế chế II. Hai mươi năm sau, Đế chế II sụp đổ sau khi thất bại trong cuộc chiến tranh Pháp - Thổ. Đế chế II thối nát và ách áp bức nặng nề của giai cấp tư sản phản động là nguyên nhân của cuộc nổi dậy của nhân dân lao động Paris 1871 "Đế chế là hình thức vô lại nhất, đồng thời là hình thức tồi tệ nhất của xã hội tư bản nô dịch lao động" (K.Marx).
Từ thánh 9 năm 1870, đến tháng 3 năm 1871 nổ ra cuộc xung đột phức tạp giữa Chính phủ Cộng hoà tư sản và nhân dân lao động Paris vũ trang, đứng đầu là giai cấp vô sản. Sáng ngày 18 tháng 3 năm 1871, Paris được đánh thức bằng tiếng reo hò vang dội lặp đi lặp lại: "Công xã muôn năm". Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, giai cấp vô sản đứng lên làm chủ một thủ đô. Ngày 28 tháng 3, Hội đồng công xã được thành lập. Các chính sách mới của chính quyền Cách mạng được ban hành. Cuộc chiến đấu ác liệt lại diễn ra giữa Công xã và bọn phản động Verseille. Sau 72 ngày tồn tại, Công xã thất bại; những chiến sĩ Công xã bị thế lực tư sản phục thù và đàn áp đẫm máu.
Cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân lao động Pháp, thắng lợi và thất bại của Công xã Paris đã hình thành một giai đoạn văn học mới - văn học tiên phong nữa sau thế kỉ 19 ở nước Pháp. Những nhà văn, nhà thơ Công xã cũng là những chiến sĩ kiên cường, bất khuất của Công xã như Eugene Potier, Louise Mechel, Jule Valet, Jean Baptiste Clemant...
Văn học Công xã gồm thơ, văn được sáng tác trước và sau khi Công xã thành lập. MườI năm sau khi Công xã thất bại, vẫn còn nhiều tác phẩm văn viết về Công xã như Victor Hugo, Rimbeau, Verlaine. Có thể kể một số tác phẩm tiêu biểu :
Biểu tình đòi hoà bình. Thơ, Louise Michel.
Đổi Paris lấy bít-tết. Thơ, Emile Drue.
Paris, hãy chiến đấu. Thơ của Eugene Potier.
Quốc tế (Internationale), thơ Eugene Potier.
Quốc tế ca là bài thơ bất hủ, kêu gọi "đoàn quân nô lệ" vùng lên lật đổ chế độ tư bản, khẳng định sức mạnh của người lao động có thể tự giải phóng, yêu cầu đập tan nhà nước tư sản, thiết lập nhà nước mới, kêu gọi binh lính phản chiến, đoàn kết liên minh công nông. Mở đầu và kết thúc bài thơ là điệp khúc "quốc tế cộng sản sẽ là xã hội tương lai".
Nhiều bài thơ được sáng tác trong nhà tù như "Chúng tôi ca hát gì trong tù, Hoa cẩm chướng, Thất bại.."bộc lộ tinh thần kiên định và niềm tin tưởng vững chắc vào tương lai. Mười năm sau ngày công xã thất bại, các nhà thơ vẫn viết để kỉ niệm Công xã và lên án bọn khủng bố tàn bạo (Công xã Paris, Ở chỗ này Công xã đi qua của Potier, Bài ca người tù của Michel, Tuần lễ đẫm máu của Clement,...) và đòi ân xá những người Công xã.
Nhà văn Jule Valex viết cuốn tiểu thuyết "Jacque Vintera" 3 tập: "Chú bé, Cậu tú, Người khởi nghĩa" trong đó xây dựng cuộc đời chiến sĩ Công xã tên Vintera - có thể coi đây là nhân vật hoàn hảo đầu tiên của văn học cách mạng.
Văn học suy đồi (Trường phái "nghệ thuật vị nghệ thuật"của Pacnasse, Chủ nghĩa tượng trưng, Chủ nghĩa tự nhiên)
Vào thời điểm 1848, tính chất cách mạng của giai cấp tư sản Pháp đã thoái hoá. Những năm 60, chủ nghĩa tư bản Pháp chuẩn bị bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Hệ tư tưởng tư sản suy thoái được thể hiện thành nhiều lí thuyết duy tâm, siêu hình như lí thuyết về sử học của Fusten De Coulanger, lí thuyết thực chứng của Hippolit Ten...
Trường phái thơ ca Pacnase ra đời 1852 ở Pháp với các nhà thơ Theophin Gotier, Le Compte, Theodore de Banville...Họ đưa ra tuyên ngôn về nghệ thuật thuần tuý qua những tập thơ "Thơ cổ đại", "Thơ hoang dã" lấy đề tài từ thời cổ Hi Lạp và Ấn Độ. Quay lưng hoàn toàn với thực tại xã hội, họ nói về bí mật của thế giới nội tâm, sùng bái vẻ đẹp lịch sử, cổ xưa, ngoại lai, họ muốn kết hợp "nghệ thuật với khoa học bởi lâu nay tách rờI nhau", rằng thơ ca chỉ nên quan tâm tới cái Đẹp, không nên phục vụ lợi ích thiết thực của con người. Các trường phái nghệ thuật vị nghệ thuật mà tiên phong là Pacnasse quay lưng với thời cuộc, đắm chìm trong cái đẹp thuần tuý, thực chất là họ bộc lộ nỗi chán chường, bi quan trươc xã hội đương thời.
Chủ nghĩa tượng trưng tiếp tục thể hiện những sắc thái khác nhau của tư tưởng bi quan, lo âu trước những biến cố xảy ra trong nửa sau thế kỉ 19 bằng bút pháp tượng trưng của các nhà thơ nổi tiếng Charles Baudelaire, Rembeau,Verlain, Malacmee...nhà thơ tượng trưng chống lại truyền thống của chủ nghĩa lãng mạn và cả trường phái Pacnase với phong cách biểu hiện tượng trưng độc đáo.
Charles Pierre Baudelaire
sinh ngày , (mất , ) là một trong những nhà thơ có ảnh hưởng lớn nhất ở trong . Ông sinh năm 1821 tại. Năm 1827, cha ông qua đời. Sau đó, mẹ ông tái giá và gửi ông vào một trường nội trú. Ông cùng gia đình tới vào năm 1841. Khoảng một năm sau đó, ông trở về , đối mặt với cuộc sống thiếu thốn và bắt đầu sáng tác. Ông có tham gia cuộc kết thúc nền . Trong thời kỳ này, ông gặp một phụ nữ đẹp tên là Jeanne Duval, và chính người này đã đem nhiều cảm xúc và thi hứng cho ông. Năm 1867, ông qua đời sau một thời gian ốm nặng. Ông đã viết nhiều bài tiểu luận phê bình nghệ thuật, dịch nhà thơ Mĩ , xuất bản tập thơ Les Fleurs du Mal (đã xuất bản ở Việt Nam dưới cái tên "Những bông hoa ác"). Sau cái chết của ông, một số tác phẩm như Journaux intimes (Nhật ký riêng tư) và Petits poème en prose(Những bài thơ nhỏ viết theo thể văn xuôi) mới được xuất bản. Nhà thơ cảm thấy chán ghét thế giới tư bản và mang một nỗi buồn sâu sắc, luôn luôn bị ám ảnh bởi tuổi già và cái chết. Những tập thơ tiêu biểu là "Nỗi u buồn Paris", "Tim ta trần trụi", và đặc biệt tập thơ "Bông hoa Ác" (Fleurs du Mal, 1857). Trong một bức thư gởi cho bạn năm 1866, ông viết "sự nhất quán chân thực của Bông Hoa Ác là ở sự chân thành đau đớn của nhà thơ được thể hiện trọn vẹn trong đó. Cần phải nói với anh rằng trong cuốn sách dữ dội này, tôi đã gởi vào đó tất cả sự hận thù của tôi...". Tác phẩm làm chấn động dư luận, bị toà kết án. Lần đầu tiên trong văn học, một nhà thơ đã thi vị hoá cái xấu, cái ác và nỗi đau. Tác phẩm phản ánh nỗi cô đơn và những tình cảm suy đồi của con người trong thế giới tư bản.
Chủ nghĩa tự nhiên là một trào lưu văn học suy đồi ở Pháp từ những năm 60 thế kỉ 19. Những dấu hiệu đầu tiên của chủ nghĩa tự nhiên đã xuất hiện ở Gustave Flaubert khi ông tuyên bố: "nghệ thuật lớn có tính chất khoa học phi ngã".
Những nhà văn tự nhiên chủ nghĩa tiêu biểu hơn cả là hai anh em Goncur (Edmond và Jules) và Emil Zola.
Về lí luận, Zola cho rằng cần áp dụng khoa học thực nghiệm vào nghệ thuật ; ông ứng dụng những phương pháp của khoa học thực nghiệm vào tiểu thuyết. Chịu ảnh hưởng của Ten, ông tin rằng tình cảm, tính cách của con người đều bị những qui luật chi phối, như qui luật di truyền và những qui luật sinh lí học khác. Tiểu thuyết trở nên một bộ phận của lịch sử tự nhiên và y học.
Tuy nhiên, nhiều tác phẩm của Zola có giá trị hiện thực. Về sau ông càng quan tâm đến các hoạt động xã hội và dần dần từ bỏ chủ nghĩa tự nhiên để trở về là nhà văn hiện thực.
Cuối thế kỉ 19, tình hình văn học Pháp ngày càng phân hoá: văn học tiến bộ và văn học suy đồi đan xen nhau.
Văn học hiện thực (phê phán) Pháp thế kỉ 19 đã được Marx và Engels đánh giá cao, nhất là về giá trị nhận thức xã hội, cũng như đối với văn học hiện thực Anh. Giới nghiên cứu đã nêu lên những điểm khác biệt của văn học hiện thực Pháp như sau: "Trong chủ nghĩa hiện thực Pháp, sự hư hỏng của con người được trình bày như là sự bộc lộ trực tiếp bản chất sinh vật, được khẳng định như là bản chất cố hữu của nó".
Sự khẳng định vai trò cá nhân thực ra là sự đấu tranh của cá nhân với toàn thể xã hội. Do ảnh hưởng của tinh thần khoa học, nhu cầu về tính khách quan trong sự quan sát thế giới được nâng lên mức tối đa. Sức thuyết phục của tác phẩm trước hết là ở tính chân thực và sự nhận thức cuộc sống.
b
HONORE DE BALZAC
(1799-1850)
Giới thiệu tác giả
Khi Balzac xuất hiện trên văn đàn thì nhiều ngôi sao của thế kỉ đang độ toả sáng rực rỡ : Walter Scott, Byron (Anh), Chateaubriand, Hugo, Vigny, Musset...và Stendhale. Đến sau nhưng sự nghiệp đồ sộ của nhà văn lại chứa đựng một sự tổng kết cả thời kì đã qua và hé mở một viễn cảnh mới của văn học thời đại. Cho tới tận bây giờ, khi bàn đến một vấn đề mới của tiểu thuyết, người ta vẫn lấy Balzac làm mốc đối chiếu.
Ngay từ nguồn gốc xuất thân, Balzac đã không thuộc loại quí tộc phong nhã, hào hoa như đa số những nhà văn lãng mạn của thế kỉ. Ông chẳng có một quá khứ dòng dõi, một tên hiệu quí tộc, một lâu đài để mà nhớ tiếc, thậm chí chẳng có một tủ sách, một khu vườn thơ mộng hoặc chiến công của ông cha, một bầu trời nước ngoài từng du ngoạn, hay những phòng khách thanh lịch...Dòng họ của ông, tổ tiên là họ Bansa, những người nông dân đổ mồ hôi sôi nước mắt trên những mảnh ruộng vùng Tach. Năm 1769, cha Balzac đã dành được ít tiền, chuyển lên Paris và đổi thành họ Balzac. Cuộc cách mạng đã tạo ra một lớp người "đục nước béo cò" mà cha của Balzac, ông Bannat Francoisé Bansa chính là thuộc lớp người đó. Cuối chặng đường đó là một vụ hôn nhân béo bở: năm mươi mốt tuổi, ông cưới con gái của một gia đình tư sản chuyên làm dịch vụ hậu cần cung ứng cho quân đội, lúc ấy cô ta mới mười chín tuổi . Hai năm sau đứa con trai ra đời: đó là Honore de Balzac sinh ngày 2 tháng Năm ở thành Tours khi gia đình đã khá giả. Honore vốn chẳng phải dính dáng gì đến dòng họ quí tộc Balzac D'Antreger như ông thêm vào tên mình cùng với gia huy và tiểu từ "de" - đó chính là "hư cấu" đầu tiên trong sự nghiệp văn chương của ông. Chúng ta cứ coi Balzac là bút danh của Honore là đủ .
Balzac cũng không thuộc loại "thần đồng" nổi tiếng từ lúc 16, 17 tuổi như Hugo, Musset. Đoạn đời Balzac học sinh ở trường Vandome cũng không có gì chói lọi. Những kỉ niệm thời ấy, có lẽ là những cuốn sách đủ loại mà Balzac đã đọc, và mặc cảm của một chàng thiếu niên biết mình chẳng đẹp, không nổi bật bằng đứa em trai tên Henry luôn được mẹ cưng chiều và thiên vị . Sau đó ông chuyển sang trường trung học Tours, do mệt mỏi vì đọc khối lượng sách quá đồ sộ. Tới năm 1819, sau khi học xong khoa luật, sang thời kì tập sự, ông đã chống lại ý kiến gia đình, không chịu theo nghề luật, mà lên ở Paris trong một căn gác xép số 9 phố Ledigie, để bước vào văn nghiệp. Bước đầu, bố mẹ nhà văn chịu nhượng bộ. Kết thúc hai năm trời gia đình ứng tiền cho Balzac viết lách là một vở bi kịch tựa đề Cromwell (trùng tên với vở kịch do Hugo viết), đó là vở kịch khi ông đọc thử cho gia đình nghe, cả nhà đã ngủ gật.
Tiếp theo đó là mười năm trời không tên tuổi, nói đúng hơn là mười năm viết dưới những tên tuổi khác. Tuy nhiên không thể coi thời kì này là một sự lãng phí, mất mát. Vốn sống ngày càng dày dặn, sự cọ sát với cái bình thường, sự tiếp xúc với đủ loại người và cả những lối viết thời kì này cũng để lại những dấu vết khó phai mờ về sau. Nhà văn cũng tiếp thu cả mặt xấu như nhà văn Đức Stepan Zvaig nhận xét: "chính vì giai đoạn này mà lối viết và ngôn ngữ Balzac sẽ suốt đời mất đi vẻ tinh khiết". Tuy nhiên, cái nguồn "tiểu thuyết đen" mà Balzac đang vục tay vào đó cũng không nhất thiết là một nhãn hiệu xấu. Trong những cuốn tiểu thuyết thời kì này, có những cuốn đã báo trước một vài nét của Balzac thời kì sau.
Giao đoạn đầu sáng tác
Tác phẩm "Những người Chouans" ra đời năm 1892 là tác phẩm lớn nhất của giai đoạn đầu đựoc nhà văn chọn xếp vào bộ "Tấn trò đời" sau này. Tác phẩm này chấm dứt thời kì làm ăn chung vốn với một số nhà văn khác cùng viết những chuyện li kì, dễ dãi mà giới phê bình ngày nay gọi là sản phẩm của "Công ty Horace de Cinglin, anh và em".
Thời kì 1829-1835 được coi là thời kì in dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương Balzac . Tuy thế, có một số nhà nghiên cúư Pháp cho rằng, chủ nghĩa lãng mạn thời kì đầu đã để lại một dấu ấn không phai mờ trong suốt cuộc đời nghệ thuật của Balzac.
Nếu coi những chi tiết "không chân thực" (theo nghĩa là: không ở cái dạng vốn có trong cuộc sống), như một dấu hiệu căn bản của văn học lãng mạn thì quả là thời gian này Balzac đã cho ra toàn những tác phẩm có yếu tố hoang đường của bộ "Tấn trò đời" . Đó là năm tác phẩm sau: Thuốc trường sinh (1803), Miếng da lừa (1831), Đức chúa Kito ở Flandre (1831), Serephita, Menmote qui thiện(1835) . Ngoài ra, những motif khác của chủ nghĩa lãng mạn như - thiên nhiên, những hình tượng quá cỡ, khác thường... cũng có thể tìm thấy ở giai đoạn này .
Nói về cuốn "Những người Chouans", về sau Balzac đã tâm sự với phu nhân Hanska: "đó quả là một bài thơ tuyệt đẹp. Chất thơ ở đó thật diệu kì. Xứ sở và chiến tranh nơi đây được miêu tả một cách hoàn hảo và khoái hoạt khiến tôi kinh ngạc". Cuốn tiểu thuyết lịch sử có hai nhân vật chính đứng ở hai chiến tuyến đối địch nhau cho đến chết ; với họ đêm tân hôn cũng là đêm cuối cùng. Tuy nhiên, cuốn tiểu thuyết ấy đã xoá bỏ hẳn khoảng cách thời gian trong tiểu thuyết lịch sử thường thấy trong chủ nghĩa lãng mạn trước đây: Balzac đang viết sử về thời kì hiện đại. (Giống như Hugo viết "Chín mươi ba" - cuốn sử của thời kì hiện đại). Đúng như lời tác giả nói "Tôi có trước mắt mình cái mẫu : thế kỉ 19". Cảm giác về những số phận, cảnh đời và những triết lí hiện đại đã khiến chúng ta thấy những cuốn tiểu thuyết (có vẻ lãng mạn) này gần kề với tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa , chớ không nhất thiết phải tái hiện chi tiết chân thực.
Mở đầu "Thuốc trường sinh", Balzac cũng nói rõ bằng hình ảnh hoang đường chỉ là một phương tiện, còn mục đích của tác giả là để phản ánh những quan hệ xã hội thực đương thời. Chi tiết hoang đường nằm ngay ở tựa đề tác phẩm - De Benvideco, là người cha của Don Juan (vẫn là Don Juan quen thuộc ở châu Âu) lúc hấp hối, trao lại cho con lọ thuốc trường sinh để con trai tẩm vào ông khi đã chết hẳn thì người cha sẽ hồi sinh . Khi người cha chết, Don Juan không muốn cha sống lại nữa. Anh ta vừa muốn một mình làm chủ gia tài lại vừa muốn thử thuốc để sau này dùng cho bản thân nên đã tẩm thuốc vào một con mắt của cha, con mắt mở ra, trong sáng, trẻ trung. Thế là Don Juanvội vã bóp chết con mắt đang sống lại. Trong đoạn "Gửi độc giả", Balzac viết "đây không phải là một trong những trò đùa hợp thời trang của năm 1830 lúc mà tác giả nào cũng dùng "cái khủng khiếp" để làm vừa lòng các cô thiếu nữ"... và Balzac nói đến hiện tại "...khi chúng ta đang đạt tới cái tội giết cha một cách phong nhã như Don Juan...". Độc giả phải chăng không nhận thấy trong lòng xã hội có bao kẻ mà luật lệ, phong tục và những lề thói của chúng khiến họ luôn luôn nghĩ tới cái chết của người thân và muốn lợi dụng cái chết ấy. Họ cân nhắc xem một cái gia tài đáng giá bao nhiêu khi đang mua cho vợ một cái khăn quàng, trong lúc bước lên thềm rạp hát , khi ao ước đi xem ở rạp Buffon, lúc mơ một cái xe... Lúc nào họ cũng nhìn thấy những con mắt mà họ muốn khép chúng lại, thế nhưng nó lại cứ mở ra mỗi buổi mai trước ánh sáng, như con mắt của Benvidero trong công trình nghiên cứu này"
Tác phẩm "Miếng da lừa" khi xuất hiện đã khiến những nghệ sĩ lớn đương thời như Goethe phải thán phục, cho đến nhà văn Anh Oscar Wilde ở cuối thế kỉ vẫn còn xúc động vì hình ảnh quái dị đã nói lên một triết lí nhân sinh sâu săc:những khát vọng và sáng tạo của con người sẽ thiêu huỷ họ. Cũng vẫn hình tượng quái dị ấy, nhà nghiên cứu Oblomiersky lại gắn nó với những ý nghĩa những tiến trình lịch sử cụ thể. Ông coi nhân vật chính Raphael như điển hình cho sự phân huỷ bên trong của một tính cách bị ép giữa một hoàn cảnh có tính chất hai mặt. Bởi thế, anh vô phương cứu rỗi trước hình tượng về sức mạnh đã nghiến nát mình, và hình ảnh quái dị ấy ở đây phản ánh cái tiến trình hoàn thành ngoài ý thức con người, có tính khách quan .
"Miếng da lừa"
Raphael de Valentant là thanh niên thuộc một gia đình quí tộc phá sản. Cha mẹ mất sớm, anh là người có tài năng và lí tưởng. Sống cảnh nghèo trong một căn gác xép, cần cù học tập và viết sách nghệ thuật. Anh lại khao khát tình yêu, một tình yêu trong giàu sang nhung lụa nên không quan tâm đến mối tình trong sáng và thắm thiết của Pauline, con gái bà chủ nhà. Hai mẹ con tuy nghèo nhưng sẵn lòng yêu mến, ân cần đối với anh.
Rồi vì thiếu kiên nhẫn, anh theo một người quen tên là De Rastignac rủ rê từ bỏ cuộc sống lao động nghèo để chen vào cuộc sống phóng đãng phù hoa của giới thượng lưu Paris. Anh yêu say mê nữ bá tước Fedora - người đàn bà thời thượng có sắc đẹp và tiền của nhưng lại thiếu một trái tim để hưởng ứng mối tình chân thành và nồng nhiệt của Raphael. Cuối cùng anh bị Fedora cự tuyệt. Thất vọng, anh lăn mình vào những cuộc chơi truỵ lạc, khi hết sạch tiền, anh định đi kết liễu cuộc đời mình.
Trên đường đi ra sông, vô tình anh ghé vào một cửa tiệm bán đồ cổ. Lão chủ tiệm tặng cho anh một miếng da lừa có phép thiêng thoả mãn mọi ước nguyện cuả người chủ mang nó trong tay, nhưng với điều kiện là mỗi lần toại nguyện thì miếng da lừa co lại, tuổi thọ của người chủ sẽ giảm đi. Với miếng da lừa trong túi, Raphael mau chóng trở thành triệu phú, gặp lại Pauline lúc ấy đã trở nên giàu có nhờ được kế thừa một tài sản lớn. Anh xin kết hôn với nàng. Sau đám cưới, sức khoẻ anh suy sụp, anh ngã bệnh. Không cần dùng đến cái miếng da lừa kia nữa, thậm chí đem quẳng nó đi cũng không xong. Anh cố gắng không ứơc điều gì hết, muốn tìm một lối sống như cây cỏ...xa rời đời sống xã hội, nhưng cũng uổng công. Cuối cùng trong cơn điên loạn, anh không ngăn được ước ao ân ái với Pauline và tắt thở trong cánh tay người vợ trẻ.
Tóm lại trong giai đoạn đầu tiên, Balzac đã cho ra đời cuốn "Những người Chouans" như một tia sáng còn lại của thiện cảm cách mạng trước 1831, kế đó, "Thuốc trường sinh" và "Miếng da lừa" lại bày tỏ thái độ phủ nhận những quan hệ quí tộc và tư sản, bắt đầu hé mở toàn bộ "Tấn trò đời". Tuy nhiên, tác phẩm tiêu biểu nhất cho giai đoạn đầu của Balzac chính là Eugenie Grandet .
Giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu
Tiểu thuyết Eugenie Grandet- cuộc chia tay lưu luyến với chủ nghĩa lãng mạn
"Eugenie Grandet" được coi như một trong những kiệt tác giai đoạn đầu tiên khi nhà văn thật sự "trở thành Balzac". Và đến cuối đời khi nhà văn đã thật sự trưởng thành già dặn về tài năng thì đối với một số người có thị hiếu ưa truyền thống trong sáng, gọn nhẹ của lối viết Pháp vẫn ưa thích cuốn này hơn cả "Vỡ mộng", "Những người nông dân"...
Nhân vật chính của tiểu thuyết này khác xa với nhân vật chính của nhiều tác phẩm khác trong bộ "Tấn trò đời" (La Commedie humaine): duy nhất nàng Eugenie Grandet là nhân vật chính diện (các nhân vật chính khác của Balzac đều là nhân vật phản diện).
Không phải lão Grandet bố nàng mất trước, không phải vì căn cứ theo độ dài của trang chữ mà ta coi Phelix Grandet chẳng phải là nhân vật chính. Trái lại cái "màn kịch hài hước một cách xót xa này" nhờ có "nhân vật Grandet mà được nổi bật trên sân khấu và được soi sáng". Ở lão Felix Grandet, người ta nhận ra ngay cái cốt cách quen thuộc của kiểu "nhân vật dục vọng" của Balzac . Nét chủ đạo ấy của nhân vật Balzac được trình bày qua cả một thế giới đồ vật, từ cái phòng khách, ngôi nhà xấu xí, lạnh lẽo nhưng kiên cố...đến chùm chìa khoá mà ông "tình cờ mang theo mình"...Hình ảnh Grandet gắn chặt với "những cảnh đời tỉnh lẻ" - nơi chủ nghĩa tư bản đang đổi thay nếp sống gia trưởng cũ kĩ và lối sống điền viên bắt đầu đô thị hoá.
Quả là có một cái gì đó quái gở khác thường trong dục vọng thì nhân vật Grandet vẫn là điểm gặp gỡ, là sản phẩm của một thời kì cách mạng Pháp đã đi qua, lúc mà gã hãnh tiến từ đẳng cấp thứ ba có thể ngoi lên được bằng những con đường rất giống với cha của Balzac. Thậm chí đối thủ của nhà chú cháu Cruchot lại là dòng họ Des Grassin, một dòng họ quí tộc lâu đời ở nơi đây. Grandet vừa có những nét tính cách của một gã tư sản mới nổi lên, hung hăng dẫm lên tất cả, y có thể "làm một con tính trên tờ báo đăng tin người em trai mới chết", lại vừa có cái khôn ngoan, thực tế của một bác phó thùng trước đây, với cuộc sống chật vật vất vả làm ăn chưa xa lắm. Bởi thế, tuy mù quáng vì vàng, đôi khi lão tỏ ra rất thông minh, hóm hỉnh. Lão có cả một quá khứ, một lịch sử để giải thích quá trình phát triển tính cách của mình. [Còn H'Arpagon chỉ là một con người hà tiện đúng như tựa đề vở kịch, không hơn không kém : nhân vật đó nguyên phiến, ít tính chất động. Khi so sánh điều này, các nhà nghiên cứu mới giảI thích bằng những nguyên lí của chủ nghĩa cổ điển. Tuy nhiên, có lẽ cũng cần chú ý đến khả năng của thể loại: Moliere đã viết một vở kịch, còn Balzac đã viết một tiểu thuyết. Nhưng ngay cả điều này nữa, nó không phải là một ngẫu hứng : việc lựa chọn thể loại là do nhu cầu thể hiện của nhà thơ qui định. Không phải ngẫu nhiên mà Balzac đã nắm lấy cái thể loạI thường được gọi là "anh hùng ca tư sản" này] .
Bên cạnh cha, mới nhìn, Eugenie quả là một hình ảnh tương phản. Nhiều nhà phê bình đã căn cứ vào việc cô là một nhân vật chính diện, một cô gái ấp ủ một tình yêu lãng mạn để coi đây là dấu vết của chủ nghĩa lãng mạn.
Gợi ý phân tích tác phẩm
Eugenie đưa tặng Charles 5 800 franc
Charles gửi lại một hộp nữ trang của mẹ
Charles sau 7 năm kiếm được: 190 000 franc
y trả lại cô 8 000 franc gồm vốn và lãi sau 7 năm, y đòi lại cái hộp nữ trang
Y đã sòng phẳng chưa ?
Khi đã dứt tình, cô lại còn trả nợ thay y : 1 200 000 franc
Cô lại trả công ông Des Grassin giữ nợ giùm cha Charles suốt 7 năm qua: 50 000 franc
Cô còn lại 17 triệu.
Về sau lại cộng thêm số tài sản lớn của ông "chồng hờ" Cruchot de Bonfons.
Cuối cùng cô sẽ còn tái giá với hầu tước De Froifons .
Dưới đây, xét "thời gian nghệ thuật" trong cuốn này chúng ta cần căn cứ vào trình tự hoạt động. Chúng ta cũng cần xem xét sự phân bố trường độ thời gian (năm tháng trong cuộc đời, hành động của nhân vật) với thời gian miêu tả bằng ngôn từ trên trang giấy, ta thấy nhịp độ kể chuyện như sau:
Tên các chương
Nhân vật hoạt động chính
Thời gian
cốt truyệnThời gian
kể chuyệnChương I
Mấy dáng dấp thị thành
Chương II
Cậu em họ ởParis
Chương III
Chuyện tình ở tỉnh nhỏ
Chương IV Bác keo hứa, bạn tình thềThị trấn Saumur
Lão G, cô E, bà G, mụ Nanon... và 2 gia đình "bao vây" cô Eugenie ...
Mấy ngày
(năm 1819 )
116 trang
Chương V
Những chuyện buồn trong gia đình
Eugenie. . . và gia đìnhBa ngày cuối năm 1819 (và sơ lược đến năm 1824)
58 trang
Chương VI Sự đời là thế
Eugenie, Charles . . .Ba năm
(từ 1825 đến 1827)
72 trang
Kết cục và Vĩ thanhEugenie và chồngTừ 1830 về sau
3 trang
Nghiên cứu số trang viết (thời gian kể chuyện) có sự không phù hợp với tính cách, lúc này thời gian kể chuyện đã trở thành "thời gian nghệ thuật", người đọc tìm hiểu quá trình xây dựng nhân vật Eugenie nhận thấy tác giả đã tỏ ra bối rối. Những trang viết về đời sống lãng mạn của Eugenie (116 trang + 58 trang) dài hơn những trang nói về cuộc sống chấp nhận hiện thực (72 +3 trang)... Điều đó thêm một bằng chứng cho thấy nhà văn rất "lưu luyến" chủ nghĩa lãng mạn nhưng cuối cùng đành phải viết theo tinh thần tôn trọng hiện thực.
"Eugenie" là "một ngoại lệ kì khôi" như lời Balzac đã giới thiệu . Điều ấy có thể do tính cách tuổi trẻ và sự cách biệt của nàng với thế giới tiền bạc mà cha nàng cố gắng tạo ra cho đứa con. Cô sống giữa một ngôi nhà u buồn tẻ nhạt. Thế giới bên ngoài duy nhất cô tiếp xúc gồm cậu ấm Adolf luôn luôn bị một bà mẹ quá sắc sảo điều khiển và ông chánh án Cruchot de Bonfons ưa diện áo viền đăng ten ở cổ thì trông "giống một con gà tây" thì cái việc cô yêu Charles đến mức thay đổi phần nào cả tính cách, đến mức "lần đầu tiên trong đời nàng, những thiên hướng cao quí (...) trỗi dậy", "lần đầu tiên nàng xét đoán cha"cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, Balzac luôn luôn có hàm ý tranh luận với tiểu thuyết lãng mạn khi ộng viết lịch sử mối tình của Eugenie. Ông gọi đó là "một tấn bi kịch không dao găm, không thuốc độc, không lưu huyết"- một "tấn bi kịch tư sản".
Bi kịch, ở tiểu thuyết này, có liên quan đến miếng ăn, túi tiền ! Khi "Grandet chồm lên như con ngựa nghe tiếng súng đại bác", khi lão nguyền rủa con suốt đời vì gói vàng nho nhỏ của Eugenie đã trao cho Charles. Lớp xung đột đỉnh điểm là do cái ảnh có gắn vàng trong hộp đồ trang sức Charles gửi lại...(Từ 1820, khi "chưa là Balzac", ông từng viết một cuốn sách phê phán cuốn "Reunet" lãnh mạn của Chateaubriand với một câu hỏi "Trong tiểu thuyết Reunet, con người có ăn uống không ?"- câu hỏi báo hiệu Balzac sẽ là nhà văn hiện thực chủ nghĩa sau này ).
Nếu những xung đột kể trên giữa cha và con được Balzac gọi là những lớp bi hài kịch tư sản bởi động lực của nó là một dục vọng tầm thường, thì chắc chắn cái dư vị bi kịch ở đây không phải do người cha đem lại. Eugenie biến đổi nhưng nàng cũng chẳng thể rời khỏi những ràng buộc tất yếu của cuộc sống. Ở cha nàng, cuộc giằng co chỉ là đống vàng to và đống vàng nhỏ. Còn đối với Eugenie, nàng không thể phụ tình Charles, không quên lời hứa với "một người bà con khốn khổ" nhưng cũng không thể dứt tình cha con, dù lão ấy là Grandet. Bởi thế dù có vì một bức ảnh dát vàng, nàng đã "nhân danh Đức Mẹ, nhân danh Đức chúa Jesus hi sinh trên cây thánh giá" và những lời lẽ cao thượng ấy vẫn đúng chỗ, tự nhiên, nói lên tấn bi kịch đang giày vò trái tim nàng, mang cho nàng một kích thước cao cả.
Dáng dấp bi kịch của nhân vật còn do sự đơn độc của nàng trước một xã hội mà nàng không ý thức được hết, hoặc chỉ ý thức được dần dần. Khi giấc mơ đã tỉnh, người phụ nữ lãng mạn ấy hiểu ngay qui luật của trò chơi trong "tấn trò đời"...Một người bạn của nhà văn kể lại có lần ông ta đến thăm Balzac khi nhà văn đang viết "Eugenie Grandet" , và ông đã giật mình thấy đột nhiên Balzac kêu lên : "Có thể tưởng tượng được không ? Cô ta chết mất rồi"...Như thế, ta có thể biết dự kiến ban đầu của nhà văn đã được sửa lại sau này. Có lẽ, vì con người thực của cuộc đời thường chẳng hay chết vì tình yêu nên Eugenie đã "được sống", không những thế, nàng đã lấy chồng, dù nàng nói với ông Cruchot de Bonfons rằng "tôi biết ông yêu tôi vì cái gì".
Có nhà phê bình căn cứ vào kết cục tác phẩm, vào cách nàng sống theo lối "tu tại gia đình" để đánh giá tư tưởng của Balzac là bảo thủ. Thực ra, sự phát triển của Eugenie ở đây rất phù hợp với qui luật nội tại của nhân vật. Một con người "hoàn toàn tình cảm" cuối cùng "đâm ra nghi ngờ mọi thứ tình cảm", con người đã yêu đến mức có thể sống trong bảy năm trời chờ đợi với bức tường cũ, mảnh vườn xưa, "cái ghế gỗ dài be bé ở đó hai người đã thề thốt yêu nhau cho đến trọn đời"...Và đến khi bị Charles phản bội, nàng cũng chẳng có một lối thoát nào khác.
Balzac không cố ý lí tưởng hoá "vị nữ tu rất thánh" ấy: Bà sống keo kiệt, bủn xỉn như cha bà xưa kia, bà cũng lo tích luỹ, làm giàu và còn giàu có hơn cha bà, đến mức phu nhân Des Grassin phải nhận xét "Ngày nay tiếng nói của cô là tiếng nói của ông nhà xưa kia !". Tác giả tiếp tục miêu tả ở đoạn chót (như một vĩ thanh) "dư luận tỉnh lẻ lại đồn rằng hình như vị quả phụ ấy sắp tái giá".
Thực ra Eugenie vẫn là một tính cách toàn vẹn, nhất quán. Vẫn có một nét gì đó trong tính cách chủ đạo của nàng đã hình thành từ thời trẻ: nàng không chịu dung hoà, thoả hiệp với hoàn cảnh thực tại. Bản cam kết hôn nhân đầu tiên thật lạ lùng : ngay sau cưới, cô dâu chú rể sống ly thân. Nàng yêu cầu chú rể mang tiền đi thanh toán nợ nần cho người tình cũ phản bội. Khi thay cha quản lý cơ nghiệp, nàng tiếp tục làm giàu, đồng thời mở lòng từ thiện cho dân nghèo. Nàng còn một hi vọng mong manh nào ở sự trở về của Charles chứ dứt khoát không chấp nhận một "mối tình tay ba" khá phổ biến trong giới thượng lưu quí tộc thời ấy. Trong nàng vẫn có một mảnh vườn cũ bức tường xưa không thể phá huỷ.
Có nhà phê bình nhận xét nhân vật Eugenie là "một chân dung vẽ hỏng của chủ nghĩa lãng mạn" (Langson)
Tài năng của Balzac còn thể hiện ở chỗ: cùng hướng về một chủ đề nhưng những nhân vật của ông xây dựng vẫn đa dạng, không lặp lại, ngay cả ở nhân vật phụ Charles. Y đúng là "đứa cháu ruột" của ông bác Grandet song vẫn khác ông ta. Với Charles, tác giả sử dụng một lối kể chuyện khác.
Tiểu thuyết Lão Goriot
(Le Père Goriot)
Bối cảnh
Nước Pháp sau CM khoảng từ năm 1813 đến 1819
Một quán trọ ở ngoại ô Paris.
Nhân vật chính
Mụ goá Vauquer (vô ke) chủ quán trọ
Giúp việc: cô Sylve, cậu bé Christophe
Khách trọ :
- lão Goriot (Gô ri ô)
- Eugene de Rastignac (Ơ gien đờ Ras ti nhắc) sinh viên Luật.
-Vaut'rin (Vô t'ranh) vô nghề nghiệp, nhân vật phản diện độc đáo, bí ẩn
- Couture, vợ goá viên tướng, sống bằng tiền trợ cấp (vợ liệt sĩ)
- Victorine, con gái bị bỏ rơi của tỉ phú ngân hàng Taillefer (Tay ơ phe). Cô được bà Couture bảo trợ sống chung một phòng trọ. Vautrin xui chàng Rastignac cưới cô để thừa kế gia tài lớn hàng triệu. Y hứa "giúp" Rastignac trở thành triệu phú, bàn bạc dự định bố trí trận quyết đấu giết chết con trai duy nhất của lão chủ ngân hàng Taillefer. Nhưng Rastignac tự trọng không cầu hôn cô. Anh tiếp tục đeo đuổi tình nhân Nucingen, anh chỉ vì tình chứ không vì tiền . . .
- Poiret (Poi rê) viên chức nghỉ việc (không rõ lí do)
- Michonneau (Mi xôn nô) cô gái già không rõ lai lịch, cặp bồ với Poiret, đã chỉ điểm cho cảnh sát bắt Vautrin (tên thực là Jacques Collin) để lấy tiền thưởng ...
- Bianchon (Bi ăng sông) SV y khoa thực tập, khách ăn tối ở quán Vauquer, bạn thân với Rastignac. Chỉ có đôi bạn này quan tâm săn sóc và chôn cất lão Goriot .[Trong các tiểu thuyết sau này, Bianchon tiếp tục trở thành thầy thuốc tài năng và nghèo. Anh là một trong số ít nhân vật chính diện trong bộ Tấn trò đời của nhà văn ].
Phu nhân tử tước Beauseant ... bà con xa của De Rastignac. Một quí bà mẫu mực tiêu biểu của giới quí tộc thượng lưu. Bà ta làm cây cầu dẫn Rastignac vào xã hội thượng lưu quí tộc-tư sản. Nhân tình của bà là lão triệu phú Ả rập d'Ajuda. Lão bỏ bà đi cầu hôn cô Rochefide con gái thừa kế triệu phú. Kết thúc truyện, bà ta thất vọng bỏ nhà đi xa tìm nơi khác sống ...
Phu nhân Anastasie (Nasie), con gái đầu của ông Goriot, vợ của bá tước Restaud cô hầu là Therese, nhân tình là Marsay...
Phu nhân Delphine (Fifine), con gái thứ 2 của ông Goriot, vợ của tử tước De Nucingen, cô đã có nhân tình là Maxime Trailler. Vì chiều chuộng gã nhân tình ham mê cờ bạc bị thua, cô cũng bị rắc rối với chồng. Chồng kinh doanh thất bại, y đe doạ có thể chiếm hết phần tài sản của cô (lão Goriot cấp cho con làm của hồi môn). Cô gặp gỡ, yêu De Rastignac và quyết cùng anh xây dựng hạnh phúc mới. Lão Goriot đem số tiền cuối cùng 12 nghìn francs mua căn hộ cho De Rastignac và Delphine chuẩn bị xây tổ ấm. Delphine còn tặng chiếc đồng hồ đắt tiền cho người chồng tương lai... hi sắp dọn nhà đến, hai chị em đều kêu cứu với cha. Lão Goriot đau khổ hứa vào cuộc chống lại chàng rể nam tước để bảo vệ của hồi môn cho Delphine...Rastignac đành ký tờ ngân phiếu 12 nghìn vay của Vautrin rồi giao cho bà chị Anastasie (cô đến xin tiền cha để trả nợ nhưng lão đã hết tiền)... Bán nốt đồng hồ quà tặng của người yêu để lo chạy chữa và chôn cất lão Goriot. Thế là hết, chàng chỉ còn mắc nợ Vautrin vừa bị bắt vào tù. Món nợ ấy là sợi dây định mệnh kéo chàng về một tương lai do Vautrin chỉ đạo
Gondureau: thanh tra cảnh sát, mua chuộc cô Michonneau giúp y theo dõi truy bắt Vaut'rin.
Nhân vật đặc biệt: đồng tiền có mặt mọi nơi mọi lúc trong tiểu thuyết.
TẤN TRÒ ĐỜI một thế giới hoàn chỉnh
Ý đồ nghệ thuật và thủ pháp nghệ thuật
Ngày tháng chính thức công bố những dự định viết bộ "Tấn trò đời": năm 1842 viết bài Tựa (chung cho toàn bộ), năm 1845 công bố phác hoạ tổng thể các thiên tiểu thuyết đó. Một công trình như thế, kích thước mang tính chất sử thi đã khiến M.Gorki phải "choáng ngợp" đã chứng tỏ độ chín muồi của tài năng khi nhà văn Balzac đã ý thức được hết sức mạnh của mình.
Người ta thường dựa vào bài Tựa (1842) để phân tích những quan niệm chỉ đạo "Tấn trò đời", nhưng thật ra còn có những bài tựa riêng cho các tác phẩm xuất bản lẻ tẻ, và hơn nữa, không chỉ dựa vào những văn bản lí luận đó, điều cốt yếu là thông qua toàn bộ hình tượng của tác phẩm chúng ta mới hi vọng hiểu biết đầy đủ những ý đồ của nhà văn.
Dưới đây là danh mục tác phẩm "Tấn trò đời" do Balzac thảo ra và công bố 1845 (ít hơn số lượng thực tế).
Phần một
Khảo cứu phong tục
1 - Những cảnh đời tư (gồm 32 tác phẩm, trong đó 4 mới là dự kiến).
Hiệu chú mèo đánh quần vợt.
Vũ hội ở Soe.
Hồi kí của hai thiếu phụ.
Một cô con gái nàng Eva.
Đại tá Sabert.
Gobsech.
Người đàn bà ba mươi tuổi.
Lão Goriot.
Pierre Grassoe.
Lễ Misa của người vô thần.
Bảo trợ...
2- Những cảnh đời tỉnh lẻ (gồm 17 tác phẩm trong đó 6 dự kiến).
Hoa huệ trong thung lũng.
Eugenie Grandet.
Pierette.
Linh mục thành Tour.
Cô gái xua cá.
Gosdisa cừ khôi.
Cô gái già
Phòng đồ cổ.
Vỡ mộng (Ảo mộng tiêu tan)...
3- Những cảnh đời Paris (gồm 20 tác phẩm trong đó 6 dự kiến).
Feraguse.
Bà công tước De Langgie.
Cô gái mắt vàng.
Viên chức.
Ceda Birotto.
Nhà ngân hàng Nucingen
Fasino Canne.
Dân tiểu tư sản...
4 - Những cảnh đời chính trị (gồm 8 tác phẩm trong đó 4 dự kiến).
Một chuyện dưới thời khủng bố.
Một vụ ám muội.
Người đại biểu của Arsi.
Z. Marcaz...
5- Những cảnh đời nhà binh (gồm 23 tác phẩm trong đó 20 dự kiến).
Những người Chouans.
Một dục vọng giữa sa mạc.
Người chủ quán...
6- Những cảnh đời nông thôn.
Linh mục nông thôn.
Phần hai
Khảo cứu triết học
(gồm 27 tác phẩm trong đó 5 mới dự kiến).
Miếng da lừa.
Chúa Jesus ở Flandre
Menmos cáo lui
Masimila Zonie.
Kiệt tác vô danh.
Gambara.
Đi tìm tuyệt đối.
Quán đỏ
Truyện Katerine de Medisis.
Thuốc trường sinh.
Louis Lambert
Seraphita...
Phần ba
Khảo luận phân tích (tất cả 5 cuốn)
Sinh lí học hôn nhân.
Những nỗi phiền hà của cuộc sống vợ chồng.
...
Balzac phác thảo 137-143 tác phẩm, nhưng chỉ hoàn thành được khoảng từ 91 đến 97 tác phẩm.
Những nhân vật tái xuất hiện trong nhiều tác phẩm (ít nhất 2 lần) khoảng từ 460 đến 567 nhân vật.
Số lượng nhân vật hư cấu và nhân vật lịch sử (có thật) được nhắc đến tên trong bộ Tấn trò đời: khoảng 5000 nhân vật.
Những ý đồ nghệ thuật của Balzac có thể không đạt được ở mặt này, mặt khác, thậm chí bị hình tượng nghệ thuật phản bác. Điều này là lẽ thường tình. Tuy vậy không phải vì thế mà giá trị của tác phẩm bị giảm sút. Sau khi phân bố tổ chức toàn bộ Tấn Trò Đời ông vẫn thay đổi ý định, di chuyển một sô cuốn từ "cảnh đời" nọ sang "cảnh đời" kia. Hoặc, trong một tác phẩm "khảo sát phong tục" vẫn chứa đựng cả "khảo sát triết lí" và ngược lại. Cuộc đời trôi chảy hỗn độn trong đó, thật chẳng ai dễ dàng ngăn thành từng ô riêng rẽ.
Ý đồ của Balzac là viết nên bộ "Nghìn lẻ một đêm của Tây Âu", ông muốn không chỉ viết nên một bộ sách mà cả một thế giới. Về điểm này, quả thực Balzac không những đã vượt hơn Napoleon như ông quả quyết mà có thể sánh được với tài sáng tác của Chúa trời. Để thực hiện ý đồ này, Balzac đã sáng tạo ra một thủ pháp nghệ thuật độc đáo. Đó là thủ pháp cho nhân vật trở đi trở lại nhiều lần qua nhiều tác phẩm .Với thủ pháp này, mỗI thiên tiểu thuyết sẽ chỉ là "một chương" trong Tấn Trò Đời đồ sộ, và Tấn Trò Đời càng gợi nên cảm giác về một thế giới hoàn chỉnh. Năm 1833, khi loan báo cho em gái phát hiện của mình về thủ pháp tái xuất hiện nhân vật, Balzac đã kêu lên rằng "Anh đang trở thành một thiên tài đấy !". Tuy thế, chính ông cũng chưa ý thức hết khả năng, sức mạnh của thủ pháp này trong việc thể hiện quá trình phát triển phát triển tính cách nhân vật.
Thử lấy một nhân vật chính ở cuốn tiểu thuyết đầu tiên mà ông thực hiện thủ pháp tái xuất hiện nhân vật, như De Rastignac trong tiểu thuyết "Lão Goriot" (1834) và theo dõi tính cách của anh ta trong một số tác phẩm, ta thấy có sự phát triển tính cách trong mối liên hệ với hoàn cảnh. De Rastignac xuất hiện trong khoảng hai chục tác phẩm của bộ Tấn Trò Đời. Chỉ cần lấy 5 tác phẩm chính để quan sát một trong những gương mặt ám ảnh của "Thế giới Balzac" (1819 đến 1839) Từ "Lão Goriot"qua "Vỡ mộng", "Bảo trợ tài sản", "Nhà ngân hàng Lucingen" tới "Đại biểu thành Arci", trong hai chục năm trời, một sinh viên nghèo ở quán trọ Vauquer đã thay đổi như thế nào ? :
Thời 1819-1820, vừa ở quê nhà lên Paris, còn có lương tâm của người thanh niên đã từng nếm trải cảnh sa sút, gốc tích quí tộc của anh vẫn hút anh từ quán trọ Vauquer tới những phòng khách thượng lưu của phu nhân De Beauseant và các phu nhân trẻ, bà De Restaud, De Nucingen. Chút ánh sáng còn lại của tuổi trẻ, của cảnh nghèo, của người thanh niên có giáo dục không cho phép anh mạo hiểm làm theo bài học vỡ lòng của một con người khó hiểu là Vautrin, vả chăng ở cuối tác phẩm y bị còng tay. Tuy nhiên, Rastignac vẫn tiếp thu được bài học ấy dưới dạng thanh lịch hợp pháp qua một đệ nhất phu nhân bấy giờ là bà Bianzon kiều diễm. Lối kết thúc tác phẩm của Balzac, cũng như ở nhiều cuốn khác là lối để ngỏ. Có thể coi đó là thủ pháp đặc sắc thứ nhì tạo cho bộ Tấn Trò Đời ăn thông muôn ngả giữa cuộc sống. Nhân vật De Rastignac đã mở ra những giả thiết hơn là những kết luận. Ta vẫn thấy nét tính cách chủ đạo của anh qua hành động chính: anh cùng với sinh viên y khoa Bianchon đã lên án hai cô gái thực sự là bước qua xác cha mà đi vũ hội nhưng anh vẫn bị hút tới đó như con thiêu thân hướng tới ánh đèn. Và khi đứng trên nghĩa địa Pere Lasezer nhìn xuống Paris, lời nói của anh là sự thách thức quyết đầu nhưng lại hàm ý chấp nhận "Nào, bây giờ còn tao với mày !".
Tới cuốn "Vỡ mộng", ta lại thấy De Rastignac đến gặp Bianchon trong một vụ án bảo trợ tài sản. Anh mến phục một người bạn cũ đã thành công trong học tập trở thành thầy thuốc tài năng mà vẫn nghèo như xưa nên đã khuyên bạn bằng những bài học thuộc lòng của kẻ tham vọng và hãnh tiến "Hãy làm như ông bạn Deplin của cậu, hãy trở thành nam tước, thành nguyên lão nước Pháp, và hãy gả các con gái của mình cho các câu công tước (...) cậu chỉ thạo nghề thuốc mà thôi. Nói thực lòng, cậu làm cho tớ buồn phiền hết sức".
Cũng vào thời gian ấy (khoảng1826-1836) trong cuốn "Nhà ngân hàng Nucingen" - cái ngân hàng mà anh có cổ phần, anh đã cùng người chồng của cô nhân tình của mình là chủ nhà băng Nucingen tham gia vào những vụ affair mờ ám khiến bao gia đình phải khuynh gia bại sản.
Một trong những tác phẩm cuối cùng mà De Rastignac xuất hiện đậm nét là cuốn "Đại biểu thành Arci" bối cảnh là các vụ tranh cử năm 1839. Lúc này Rastignac đã là bộ trưởng, anh vừa được phong bá tước gần như ngoài ý muốn. Bố vợ anh ta, nam tước De Nucingen đã thành nguyên lão nước Pháp, em của anh đã là giáo chủ, bá tước De La Reuse Hugon là em rể làm đại sứ và De Rastignac được coi là không thể vắng mặt trong những mưu đồ nội các sắp tới. Một tay công tử bột đã phất lên cơ nghiệp như Macxime de T'railer cũng phải thán phục: "Cậu sướng thật đấy ! Cuối cùng cậu đã lấy được cô gái thừa tự triệu phú Nucingen. Mà kể ra cũng xứng đáng... hai mươi năm khổ sai kia mà !" (Ý nói hai chục năm De Rastignac phải kết nhân tình với Delfine de Nucingen và nay bà ta sắp làm...mẹ vợ anh).
Cũng như những cuốn tiểu thuyết khác của Balzac, kết thúc trên đây của nhân vật De Rastignac vẫn chưa phải kết cục của một số phận, mà vẫn được để ngỏ, như cuộc đời kia vậy. Số phận nhân vật được để ngỏ ra nhiều hướng, và sẽ được cuộc sống viết tiếp. Khi đọc tiểu thuyết Balzac, đối chiếu Rastignac với cuộc sống, người ta thấy có khá nhiều nguyên mẫu thật gần gũi hẳn là đã từng vô tình làm "người mẫu" cho Balzac. Một nhà nghiên cứu phát biểu rằng ông tiếc vì Balzac đã mất sớm, không sống tới Công xã Paris để xem Chie- gã chính khách mà lịch sử Pháp đã gọi là "con quỉ" sát hại bao chiến sĩ Công xã và dân lành vô tội trong "Tuần lễ máu" ấy chính là cụôc tái xuất giang hồ cuả De Rastignac. Karl Marx, trong cuốn "Ngày mười tám tháng Sương mù của Louis Bonaparte"đã nói "dường như ở Balzac đã có những mẫu người tiêu biểu cho gã chính khách tư sản sau thời Balzac - thời Đế chế II (1852-1871)
Thủ pháp tái xuất hiện nhân vật có một ý nghĩa cách tân, thể hiện được cái nhìn và tài năng hiện thực của nhà văn. Một mặt, nó đặt nhân vật trong mối liên hệ với nhiều hoàn cảnh, thể hiện được sự vận động tự thân của tính cách ; mặt khác nó gợi được ở người đcọ cảm giác đứng trước cuộc sống thực, sôi động chẳng bao giờ ngừng. Cảm xúc rợn ngập "bàng hoàng" của nhà văn M.Gorki trước bộ Tấn Trò Đời hoàn toàn dễ hiểu và chia sẻ được. Đó là nhờ cái nhìn của Balzac gắn liền với cuộc sống trong tổng thể với những mốI liên hệ biện chứng không thể chia cắt được.
Những công trình nghiên cứu tỉ mỉ về giai đoạn cưối đời Balzac của các nhà nghiên cứu lịch sử văn học Pháp, đặc biệt công trình chú giải Tấn Trò Đời bổ sung vào năm 1981 đã xác nhận khả năng sáng tạo thần kì, độc đáo của ông. Ngay cả những tác phẩm chưa hoàn thành thì những phác thảo hay nhất chính là bản cuối cùng, vào những năm 1843 - 1848. Nắm được phương tiện của mình nhưng lại bị thúc bách căng thẳng về cuộc sống, Balzac vào độ ấy đã đạt được những đỉnh cao sống động và phong cách của lốI viết. Đó là những thúc bách của những hợp đồng với các nhà sản xuất, những món nợ, những món chi tiêu để chuẩn bị cưới phu nhân Hanska, "nàng công chúa xa xôi", nên con người ấy không có cách gì hơn là sáng tạo bằng cây bút.
Về tư tưởng, lúc này Balzac đã thấy vấn đề người công dân có tầm quan trọng đặc biệt. Nếu nó chưa kịp biến thành hình tượng nghệ thuật, thì đặc biệt trên những bài báo, chính luận, ông đã tranh thủ trình bày, biểu lộ điều này. Và ở đây, mâu thuẫn vẫn tồn tại, giằng xé ông hơn bao giờ hết.
Balzac và những đổi mới về quan niệm tiểu thuyết
Với những quan niệm về sáng tạo nghệ thuật được soi sáng bởi những thành tựu khoa học mới mẻ nhất lúc đương thời, với một qui mô tác phẩm tác phẩm đồ sộ, một hệ thống hình tượng đa dạng, một thủ pháp độc đáo như thế, Balzac đã là một cái mốc đánh dấu sự đổI mới quan trọng về tiểu thuyết và quan trọng niệm nhân vật.
Trước Balzac, có người cho rằng tiểu thuyết chỉ là một giấc mơ mà thôi. "Tấn Trò Đời" là một tổng kết những hình thức tiểu thuyết truyền thống và đương thời, nhưng đồng thời lại có nhiều đổi mới : tiểu thuyết truyền thống và đương thời, nhưng đồng thời lại có nhiều đổi mới : tiểu thuyết tình, tiểu thuyết gia đình, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết về phong hoá...Bao trùm tất cả những câu chuyện ấy vẫn là sự đối nghịch đương đầu của cá nhân và xã hội - đó là sự đổi mới về chủ đề.
Do cái nhìn cuộc sống trong một tổng thể, nên ngay cả những truyện vừa trong Tấn Trò Đời cũng có tính chất khác. Thông thường, người ta cho rằng truyện ngắn và truyện vừa vừa không đủ khả năng thể hiện sự vận động biện chứng của cuộc sống như truyện dài. Nhưng đọc truyện vừa của Balzac ta có cảm giác khác hẳn. Ghép vào Tấn Trò Đời có khoảng một chục truyện vừa (Bà mèo chơi bóng, Đại tá Sabert, Gopsech, Lễ cầu hồn của kẻ vô thần, Quán đỏ, Bảo trợ tài sản, Fiermiamie, Kiệt tác chưa ai biết). Nhưng do chúng "chỉ là một chương trong toàn bộ Tấn Trò Đời, do thủ pháp tái xuất hiện nhân vật nên "cuốn này nối liền cuốn khác" khiến lịch sử của cái xã hội hư cấu ấy giống hệt như một thế giới hoàn chỉnh". Từ đó, khái niệm về nhân vật chính, phụ cũng thay đổi : có nhân vật chỉ là phụ trong một số cuốn này thì lại trở thành nhân vật chính trong tổng thể Tấn Trò Đời (như Vautrin chẳng hạn).
Ý niệm về thời gian cũng là một nét thi pháp nổi bật của các nhà viết tiểu thuyết thế kỉ 19. Cái thế giới ấy là một không gian và thời gian rất mới mẻ đối với tiểu thuyết đương thời, bởi lẽ nó là thế giới hiện đaị. Balzac ý thức rất rõ điều này khi ông viết : "Tôi còn phải hoàn thành bộ lịch sử của tôi về xã hội hiện đại". Rải rác trong suốt Tấn Trò Đời, ta thấy hình thành một cuộc luận chiến ngầm với tiểu thuyết lãng mạn. Balzac viết "ngựa nòi, gái giống - những thành ngữ ấy bắt đầu thay thế những nàng tiên trên trời, những hình tượng thú vị và tất cả những hình tượng thú vị và tất cả thần thoại cổ xưa về ái tình đã bị thời đại thượng lưu phế bỏ". Ông hiểu rằng với lối viết cũ, nghệ thuật lí tưởng hoá không còn chỗ đứng trong thế giới hiện đại nữa. Đây không chỉ là lời phê phán cách miêu tả thiếu tính chân thực, lịch sử cụ thể rất thịnh hành bấy giờ, mà còn là sự khẳng định hướng về hiện tại và tương lai.
Nếu xét về thời gian được miêu tả thì trong gần 100 tác phẩm của Tấn Trò Đời, chỉ có độ dăm cuốn miêu tả những sự kiện xảy ra trước Cách mạng tư sản (nhưĐức chúa Kito ở Flandre, Thuốc trường sinh, Kiệt tác chưa ai biết tới, Catherine de Medici...,). Nhưng dù viết về thời Trung cổ, về thế kỉ 16 thì những cuốn sách ấy vẫn tắm trong không khí hiện tại, bởi vì bóng dáng của "đấng quyền lực vạn năng", "vị thần hiện đại duy nhất" mà người ta tín ngưỡng là "thần tiền" đã xuất hiện.
Nếu như cuốn "Kiệt tác chưa biết tới" đề cập một vấn đề thuần tuý nghệ thuật, thì con người hiện đại ở đó đã in một dấu ấn không thể phai mờ đó là đam mê và dục vọng.
Tính cách nhân vật
Đam mê gắn liền với đồng tiền - đó là động lực đầy kịch tính của Tấn Trò Đời , là màu sắc rực rỡ nhất của bức tranh toàn cảnh về những tính cách. Bản thân dục vọng, đam mê ở những nhân vật của Balzac không phải lúc nào cũng hàm nghĩa tiêu cực mà chính nó đã từng làm cho nhân vật của ông có một tầm cở, kích thước khác thường, khác với những nhân vật của Flaubert, Guide Maupassant sau này. Tuy nhiê, bởi ngay những đam mê về nghệ thuật, khoa học và tình yêu không thể tách rời nền tảng xã hội nên có lẽ vì thế mà ở những nhân vật chính diện, đam mê vẫn mang sắc thái huỷ diệt. "Muốn" và "Làm được", khao khát và hành động đều khiến cuộc sống con người co lại một cách bi thảm, khủng khiếp trong "Miếng da lừa". Một nhân vật từng đi tìm "cái tuyệt đối" như Bantasa Clack bị huỷ diệt bởi chính sáng tạo của ông ta. Và cái sáng tạo mà ông hoàn thành được vào lúc không thể nào đươc truyền lại được cho ai nữa, lúc ấy ông đã vào giây phút hấp hối. Sáng tạo ấy chính là cách chế tạo ra vàng.
Đã qua rồi cái thời đại day dứt vì lí tưởng của Hamlet "tồn tại hay không tồn tại". Nay là thời đại của một thiên độc thoại mới "có tiền hay không có tiền ?". Với Tấn Trò Đời , đồng tiền đã trở thành nhân vật chính, cũng đúng như trong cuộc sống đương thời.
Với một qui mô đồ sộ, một trường độ tồn tại dài đến như thế, bộ mặt con người và xã hội mới được phân tích một cách khoa học trong mọi sắc thái riêng biệt. Bởi Tấn Trò Đời là "một thế giới hư cấu giống hệt như ngoài đời" nên các nhà thống kê, nhà sử học, nhà nghệ sĩ có thể tìm thấy đủ mọi chi tiết về cuộc sống nửa đầu thế kỉ 19 ở trong đó. "Người ta không hỏi chính kiến của ông là gì mà chỉ hỏi ông nộp thuế bao nhiêu" (Eugenie Grandet)...bởi Tiền chính là một trong những điều kiện đủ tư cách đi bầu cử, ở cái chế độ chính trị này. Còn "luật pháp chỉ là cái mạng nhện ở đó con ruồI to thì lọt, con ruồI nhỏ thì mắc" (Nhà ngân hàng Nucingen) ý nói con ruồi to có đủ sức đâm rách màng nhện. Và đây thực chất của bản "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền" là "khi người ta công bố quyền bình đẳng của mọi người, người ta đã công bố bản tuyên ngôn của quyền Thèm khát" (Beatrice). Trong cuốn "Kiệt tác chưa ai biết tới" các nghệ sĩ có thể tìm thấy những tiên cảm về hội hoạ, âm nhạc... và cả về y học.
Chưa kể mấy tác phẩm viết về những thế kỉ trước (đã nói ở trên) thời gian sự kiện được miêu tả trong Tấn Trò Đời đã chiếm một trường độ dài hơn cuộc đời của nhà văn mà khả năng sáng tạo đã hút cạn sức lực vốn phi thường của ông trong độ tuổi năm mươi. Nhân vật vào loại già nhất trong Tấn Trò Đời là ông cậu nhà phu nhân De Langty. Trong cuốn Saradin đã trên một trăm tuổi (già đến nỗi không còn tính tuổi nữa). Sự kiện cũ nhất của thế kỉ tư sản là cuốn "Cô gái xua cá", khởi sự năm 1792 khi Balzac chưa sinh ra đời. Còn hành động mới nhất được miêu tả trong 2 cuốn "Người anh họ Paul, Những đào kép không tự giác" xảy ra vào những năm 1845, 1846 - khoảng vài ba năm trước khi nhà văn qua đời.
Tấn Trò Đời, đó là một pho biên niên "gần như từng năm một" (Engels), một bộ bách khoa toàn thư, một hệ thống huyền thoại - tuỳ theo cách gọi của từng nhà nghiên cứu (sách có đề ngày tháng trong khoảng 1792- 1846).
Và Tấn Trò Đời, thời gian kể trên phải nhân lên với ít nhất là 2000 nhân vật, trong đó có những bộ mặt ám ảnh, những bộ mặt không thể quên, người nào ra người ấy, những người đã quen biết mà vẫn là người lạ...Balzac điểm lại rất đầy đủ "đội ngũ" của ông trong thế giới Tấn Trò Đời "quí tộc, tư sản, thợ thủ công, nông dân, chính khách, trí thức, công tử bột...trong đó con người, xã hội, nhân loại sẽ được miêu tả, đánh giá, phân tích không hề lặp lại trong một tác phẩm giống như bộ "Nghìn lẻ một đêm của Phương Tây".
Đành phải thấy rằng đội ngũ của ông vẫn còn thiếu một nhân vật đang chuẩn bị bước lên vũ đài lịch sử vào năm 1848: nhân vật "người công nhân" theo đúng nghĩa của từ này. Thực ra, Balzac mới chỉ miêu tả lướt qua cuộc sống thợ thuyền trong "Người con gái mắt vàng, Miếng da lừa, Fancine Can, Một gia đình kép" chỉ là những đoạn có tính chất bình luận ngoại đề. Người công nhân chưa trở thành đối tượng thẩm mĩ ở Balzac. Nhà văn cho rằng "Giống như những cái máy hơi nước, những người sống theo chế độ lao động đều được sản sinh ra chung một dạng và không có nét cá thể. Con người công cụ là một kiểu số không về mặt xã hội, mà con số ấy lớn nhất đi chăng nữa cũng sẽ chẳng bao giờ làm được cái gì nếu nó không được kèm thêm ở đằng trước vài con số khác nữa".
Không hiểu được người lao động công nghiệp, nhà văn còn đổ lỗi cho họ. Họ chỉ tương đương với con số không và chỉ biến thành sức mạnh khi đứng sau một lực lượng lãnh đạo. Nhưng cũng đúng là một nhà văn hiện thực: Balzac không thể nào nặn ra một điển hình nữa cho Tấn Trò Đời nếu ông không cá thể hoá họ. Tuy nhiên, vẫn phải đối chiếu với cuộc đời thật một phần. Nếu hình ảnh người công nhân vô sản vắng bóng, điều đó không phải do môi trường xã hội của tác giả và độc giả, mà vì người vô sản thuộc về một giai cấp đang hình thành và chưa tồn tại ở trạng thái âm bản.
Ở thế kỉ 19, có một số người chê bai Balzac rằng lối viết của ông như "vết nhăn trên những viên ngọc" mà ông mài giũa nên. Đến thế kỉ 20, điều đó không thành vấn đề nữa (vì người ta còn phải quen với những thứ bút pháp kì lạ, rối rắm hơn nhiều), một nhà nghiên cứu (Tibodez) cho rằng một tài năng như thế phải chọn lối viết như vậy: "Một sức mạnh của thiên nhiên rất cần phải sử dụng một bút pháp trào dâng, một bút pháp hành quân... Balzac tiến lên trong bước dậm chân của người, ngựa đang tiến bước, mãnh liệt và không dè dặt. Và cuối cùng, đôi khi chúng ta cũng phải nhận ra rằng đó là đại quân đang đi qua".
Ngôn từ và lối kể chuyện, Balzac cũng tiêu biểu cho một nghệ thuật mà thị hiếu của thế kỉ 20 đã khác xa do họ không thích nhà văn đứng ở địa vị Đức Chúa - biết - hết - tất - cả. Những nhân vật chính của tiểu thuyết,mặc dù có cố gắng cá tính hóa, đôi khi họ vẫn ăn nói giống như tác giả, thường bị biến thành cái loa phát ngôn cho lí tưởng của nhà văn. So với tiểu thuyết thế kỉ 20 thì sự hiện diện của nhà văn đã quá rõ ràng. Dù cho khá nhiều nhân vật giống Balzac như con giống cha, dù cho giọng đối thoại đôi khi bị át bởi lời kể chuyện thì tài năng phi thường của nghệ sĩ ấy vẫn hà hơi, tiếp sức cho họ đi đây đi đó, không hề nhốn nháo trên mọi nẻo đường của thế giới Tấn Trò Đời, nơi bóng dáng Balzac vẫn ngự trị như một Đức chúa biết rõ số phận của chàng Adam và nàng Eva của mình. Tác giả đã so sánh Tấn Trò Đời như "ngôi nhà thờ Bourge của tôi", "ngôi nhà thờ Madelaine của tôi" là những hình ảnh kiến trúc của nước Pháp quả là còn khiêm tốn. Tác phẩm của ông là cả một đội ngũ, đó là đại quân đang đi qua, đó là một thế giới mà ông đã tìm ra chiếc chìa khoá để mở ra tính cách của con người trong đó.
"Cây bút còn vượt lên trên lưỡi kiếm"- khát vọng Balzac
Thuở hàn vi, Balzac đã ghi trước mặt bàn làm việc của mình dòng chữ "Cái gì mà người ấy (Napoleon) đã không hoàn thành bằng lưỡi kiếm, tôi sẽ hoàn thành bằng cây bút"(có giai thoại kể ông viết câu ấy trên cánh tay bức tượng Napoleon trong một viện bảo tàng) Cho tới năm 1846, đã ở trên đỉnh cao của công trình bát ngát của mình, Balzac vẫn còn viết cho phu nhân Hanska "Tôi đang xét xem mình còn phải viết gì nữa để cho Tấn Trò Đời mang một ý nghĩa hợp lí và đừng để cho toà lâu đài ấy phải ở trong tình trạng không rõ ràng...". Dường như một cảm giác nuối tiếc về sự nghiệp chưa hoàn thành đã len lỏi vào lời nói tri thiên mệnh của Balzac. Quả vậy cơ thể cường tráng khác thường của con người thường xuyên làm việc mười sáu giờ một ngày đã suy sụp. Ông nói rằng ông đã phát ghét những cuốn tiểu thuyết, "nhất là những cuốn tiểu thuyết phải hoàn thành !". Những dòng chữ đã vắt kiệt sức của Balzac khiến cho "miếng da lừa" của đời ông sớm co lại trong tiếng sột soạt cuối cùng. Ông mất năm 1850, trong ngôi nhà ởParis.
Người ta nói rằng Balzac bị ám ảnh bởi chính thế giới mà ông sáng tạo ra đến nỗI trong cơn mê sảng lúc ốm đau, bạn ông nghe thấy ông kêu lên rằng "phải có Bianchon (nhân vật bác sĩ tài giỏi giàu lương tâm tái xuất hiện trong khoảng hai chục tác phẩm của Tấn Trò Đời ) thì mới chữa khỏi bệnh cho tôi". Khi Victor Hugo đến thăm, Balzac nằm cô đơn giữa ngôi nhà nến thắp sáng, giữa những đồ đạc mua sắm đón phu nhân Hanska về trước đó mấy tháng. Và Hugo đã viết "trông ông giống như hoàng đế". Balzac được chôn cất ở nghĩa địa Perre La Sezar, như lão Goriot trong tiểu thuyết, không có nghi lễ quốc tang trọng thể như Hugo sau này. Giữa cảnh mưa gió, bùn lầy và sự lạnh nhạt cuả một số người, nhà văn lãng mạn Hugo đã nói lên lời đánh giá căn bản của ông:"Dù muốn hay không muốn (...) ông thuộc về nòi giống cường tráng cuả các nhà văn cách mạng". Để so sánh ông với Napoleon, qua cuộc đời, qua sự nghiệp muốn đánh giá cho đúng nhà văn ấy, ta phải nhắc lại lời của chính ông tuyên bố khi đã nổi tiếng: "cây bút còn hơn cả lưỡi kiếm...so với hoàng đế, người đã truyền vào cơ thể mình biết bao đội quân (...) còn tôi, tôi chứa cả xã hội trong đầu mình".
Giữa cuộc đời, "cái thung lũng đầy nước mắt" mà Chúa Trời tạo ra, nhà văn Nga Maxim Gorki đã tìm thấy ở tác phẩm của Balzac cảm giác êm dịu của kẻ bộ hành đã mỏI mệt "khi men theo một thung lũng buồn nản và khô héo lại hồi tưởng tới một xứ xở mà người ấy đã từng đi qua xưa kia, phong phú và phì nhiêu bởi vẻ đẹp và sức mạnh". Vẻ đẹp và sức mạnh của SÁNG TẠO.
Nếu căn cứ vào độc giả làm tiêu chí của giá trị nghệ thuật, thì Balzac đã có những độc giả lí tưởng nhất...Rất sớm, từ nước Nga, thi hào Puskine đã quan tâm tới ông khi tác phẩm "Vụ rửa thù" lần đầu tiên được dịch ra tiếng Nga, năm 1831. Rồi Bielinski, Dostoievski (Nga), Goeth (Anh), Robert Browning (Mỹ) T. Hardy, Robert Fost, Ec da Paand, John Gans Worthy, Henry James...Họ không chỉ là độc giả, Dostoievski, do cảm hứng khi dịch cuốn Eugenie Grandet đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên "Những người nghèo", Oscar Wilde nhà văn Anh, do ảnh hưởng của "Miếng da lừa" mà viết được "Chân dung của Dorian Gray". Cuốn "Một vụ mờ ám" của Balzac đã ảnh hưởng lớn đến Conal Doyle nhà viết truyện trinh thám Anh nổi tiếng thế kỉ 20 (Sherlock Home)
Nếu căn cứ số lượng công chúng, số lượng bản dịch như một dấu hiệu bất tử của nhà văn thì cho tới nay Balzac vẫn là người được đọc và dịch nhiều nhất. (Vài con số thống kê như sau : Tác phẩm Balzac xuất bản bằng ngoại ngữ trên 22 triệu bản - gồm 17 thứ tiếng ở Liên Xô tính đến 1979. Từ 1961 đến 1967, tác phẩm của Balzac được dịch trên thế giới với tổng số lớn hơn sách dịch của Dickens, Jack London, Graham Green, Emin Zola, V.Hugo, Goeth, Stendhale cộng lại.
Và"vấn đề (hạnh phúc) của cuộc sống không phải ở chỗ độ dài của nó mà là ở chất lượng, sự đa dạng, số lượng của những cảm giác...", với tư cách một nghệ sĩ, Balzac đã nghĩ như thế khi viết "Miếng da lừa". Dù là một nghệ sĩ lớn, một thiên tài đi chăng nữa, không một ai có thể chứa đựng nổi mọi vấn đề cho mai sau, sẽ có những phần "chết đi" trong sự nghiệp của họ. Nhưng với Balzac, phần còn lại vẫn còn được đo bằng những kích thước đặc biệt - kích thước của Tấn Trò Đời - ở đó, một khi hiện tại nổi lên rõ nét đến như thế, thì dù "chiều thứ ba" của thực tế hãy còn chìm ẩn, người đọc tỉnh táo vẫn có thể nhìn thấy mọi khuynh hướng lành mạnh toát ra từ tình thế và kết cấu của tác phẩm.
Ï
Yêu cầu và câu hỏi nghiên cứu, ôn tập chương II
1. Nắm vững nội dung 03 tác phẩm tiêu biểu của Balzac đã được giới thiệu (Eugenie
Grandet, Lão Goriot và Vỡ mộng) cần phải tìm đọc tác phẩm.
2. Giải thích đoạn văn chót tiểu thuyết "Lão Goriot":
"Cúi nhìn lần nữa ngôi mộ, giọt nước mắt cuối cùng của chàng trai trẻ lăn dài,
giọt nước mắt trào ra vì những rung cảm thiêng liêng của một trái tim trong trắng,
nó rơi xuống mặt đất rồi từ từ vút lên trời cao..."
3. Phân tích nghệ thuật xây dựng cặp nhân vật "Goriot- Rastignac".
4. Hãy chỉ ra những nhân vật lãng mạn trong ba tiểu thuyết kể trên, xác định vai trò của
họ trong tác phẩm Balzac.
TỔNG KẾT VĂN HỌC TÂY ÂU THẾ KỈ XIX
Chủ nghĩa lãng mạn
Chủ nghĩa lãng mạn là trào lưu tư tưởng và nghệ thuật của văn hóa châu Âu, bao trùm mọi loại hình nghệ thuật và khoa học; thời kì phồn thịnh của phong trào này là cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX.
Chủ nghĩa lãng mạn nảy sinh do hàng loạt nguyên nhân, cả những nguyên nhân xã hội-lịch sử lẫn nguyên nhân nội tại của nghệ thuật. Quan trọng nhất trong số những nguyên nhân ấy là tác động của kinh nghiệm lịch sử mới mà Cách mạng Pháp 1789 -1794 đưa lại. kinh nghiệm ấy đòi hỏi sự lí giải, kể cả lí giải bằng nghệ thuật, và bắt buộc phải xem xét lại các nguyên tắc sáng tác. Nhiều tư tưởng của chủ nghĩa lãng mạn trong suốt nửa thế kỉ tồn tại của nó đã bị biến đổi ở mức đáng kể, nhưng những tâm thế chung, có tính chất thế giới quan, vẫn được phát triển trong một định hướng thẩm mĩ thống nhất, và được sự hậu thuẫn của những đại diện của các trường phái lãng mạn khác nhau.
Trung tâm của phong trào lãng mạn là nước Đức: các nhà lãng mạn Anh, Pháp, Ba Lan, Nga đều tìm kiếm các ý tưởng của họ từ các tác phẩm của các nhà thơ và triết gia Đức. Thời đại chủ nghĩa lãng mạn - thay thế thời đại Ánh sáng - là thời đại đối lập với tư tưởng ánh sáng về nhiều mặt. Tuy vậy văn hóa Ánh sáng cũng đã sản sinh trong lòng nó cái hiện tượng được gọi là "chủ nghĩa tiền lãng mạn". Tiền bối của nó là các nhà thơ của "chủ nghĩa cổ điển Weima" (Goeth, Shiller), là các nhà tư tưởng như Lessing, Hecze. Dù không đoạn tuyệt với truyền thống mỹ học Ánh sáng, những nhà tiền bối này của chủ nghĩa lãng mạn đã có thể nhận ra những mặt yếu của truyền thống ấy và đánh giá nó một cách có phê phán, chống lại việc tuyệt đối hóa các nhân tố hình thức của hoạt động nghệ thuật, chống lại việc lí giải một chiều duy lí đối với hoạt động ấy. Các nhà lãng mạn tiếp tục phê phán các nguyên tắc sáng tác của các nhà Ánh sáng; họ xem nghệ thuật như lĩnh vực giải phóng các năng lực đa dạng của cá nhân, như lĩnh vực mà cá nhân tự thực hiện mình một cách tự do và tự nguyện. Chính vì vậy, cả triết học, ngữ văn học, thậm chí cả những quan tâm đến khoa học tự nhiên , ở thời đại chủ nghĩa lãng mạn, đều mang sắc thái mỹ học, và đều gắn bó mật thiết với các vấn đề mỹ học và lý luận nghệ thuật.
Nhiều nhà lãng mạn cảm thấy những ảo tưởng nảy sinh bởi Cách mạng Pháp đã hoá thân thành thực tại xã hội tư sản mà lối sống tầm thường, dung tục của nó, tính chất ích kỉ, không có chỗ đứng cho tâm hồn trong các quan hệ xã hội của nó, v.v...họ thấy không thể chấp nhận. Họ đau đớn trải nghiệm sự đổ vỡ của những ảo tưởng ấy. Tính chất hai mặt của cảm quan lãng mạn chủ nghĩa tương ứng với bức tranh của các sự kiện khách quan: "Cái thể chế xã hội và chính trị được thiết lập bởi "thắng lợi của lý trí" hóa ra lại là ác, là bức biếm họa đối với những lời hứa xán lạn của các nhà Ánh sáng, gây nên sự thất vọng cay đắng" (Ănghen). Thực tại lịch sử hóa ra không tuân phục "lý trí", nó hóa ra là một thực tại siêu lý trí, đầy những bí ẩn không thể thấy trước, còn thể chế hiện thời thì thù địch với bản chất người, với tự do của cá nhân. Thái độ không tin vào tiến bộ xã hội, công nghệ, chính trị, khoa học - cái tiến bộ đã đưa tới sự tương phản và đối kháng mới; sự thất vọng sâu sắc trước cái xã hội từng được tiên đoán, luận chứng và rao giảng bởi những khối óc ưu tú nhất châu Âu - dần dà được triển khai thành một chủ nghĩa bi quan có tầm "vũ trụ". Sự thất vọng, bi quan ở chủ nghĩa lãng mạn mang tính phổ quát toàn nhân loại, đi kèm với một "nỗi đau toàn thế giới". Đề tài về nỗi đau này ("căn bệnh thời đại"), đề tài về "người nằm trong cái ác", về "thế gian khủng khiếp"(với quyền lực mù quáng của các quan hệ vật chất, với tính vô lý của số phận, với nỗi buồn về sự đơn điệu vĩnh cửu của đời sống thường ngày...) là những đề tài xuyên suốt lịch sử của văn học lãng mạn và được thể hiện rõ rệt nhất trong loại "kịch số mệnh", "bi kịch số mệnh" Kleist (1777-1811) cũng như trong các tác phẩm của Byron, Brentano, Hoffmann, Poe, Hothornor...
Kinh nghiệm phức tạp của Cách mạng Pháp củng cố trong ý thức các nhà lãng mạn cái ý tưởng về tính chất nhiều chiều kích của thực tại khách quan (cả tự nhiên lẫn xã hội) ý tưởng về sự phong phú không thể khai thác hết của những khả năng vẫn tiềm ẩn trong thực tại. Đây là đề tài mà những nỗ lực chủ yếu của mỹ học và thực tiễn nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa tập trung khám phá. Quan niệm về chất mỉa mai (tiếng Pháp: ironie) có vị trí quan trọng ở mỹ học lãng mạn. Với tư cách một lập trường triết học và một biện pháp nghệ thuật đặc thù, chất mỉa mai lãng mạn chủ nghĩa là phương thức miêu tả thế giới xung quanh một cách hàm súc. Thoạt đầu, nó có nghĩa là thừa nhận tính hạn hẹp của bất kì điểm nhìn nào (kể cả điểm nhìn lãng mạn, nếu chỉ hướng tới cái "vô tận"), thừa nhận tính tương đối của mọi thực tại lịch sử, thừa nhận tính không trùng nhau giữa những khả năng vô hạn của tồn tại và cái thực tại kinh nghiệm được cảm nhận bởi con người. Về sau, mỉa mai còn phản ánh việc ý thức được tính phi thực tại của các lý tưởng lãng mạn chủ nghĩa, ý thức được tính đối địch vĩnh viễn giữa ước mơ và cuộc đời thực. Được nhìn qua lăng kính lãng mạn, những hoài nghi, bất tín nhiệm, thế giới bên trong của cá nhân con người và kịch tính của các quá trình lịch sử khách quan bỗng lộ ra sự phong phú của những khả năng còn tiềm ẩn., và được cảm nhận một cách đa diện. Tuy nhiên, ý đồ vươn lên trên chất "văn xuôi" dung tục của tồn tại ở các nhà lãng mạn đã không biến thành sự "mỹ hóa" đời sống một cách trừu tượng, vì vậy ý đồ đó vẫn gắn liền với hoạt động phê phán tỉnh táo của ý thức.
Các nhà lãng mạn đã phát hiện ra tính phức tạp, chiều sâu và tính đối kháng của thế giới tinh thần con người, tính vô tận nội tại của cá nhân con người. Đối với họ, con người là cả một tiểu vũ trụ. Chú ý đến những tình cảm mạnh mẽ, chói rực; đến những vận động bí ẩn của tâm hồn; đến những mặt "đen tối" của tâm hồn; đến trực giác và vô thức - là những nét cốt yếu của cảm quan lãng mạn chủ nghĩa. Bảo vệ tự do, chủ quyền và giá trị tự thân của cá nhân; chú ý đến cái đơn nhất không lặp lại ở con người; sùng bái cái cá nhân - cũng là những nét đặc trưng cho chủ nghĩa lãng mạn. Biện hộ cá nhân gần như là cách tự bảo vệ trước tiến trình tàn nhẫn của lịch sử.
Phản ứng mang tính hai mặt của các nhà lãng mạn đối với các sự kiện Cách mạng Pháp đã khiến họ "nhìn mọi thứ dưới ánh sáng trung đại, lãng mạn"; chính phản ứng này đã khiến họ quan tâm đến những hiện tượng dân gian mang tinh thần dân chủ của văn hóa thời trung đại và thời Phục hưng. Họ kế thừa cả chất giả tưởng huyền hoặc của văn hóa trung đại; nhưng cái mà họ thú vị hơn ở văn hóa ấy là các truyện kể, các niềm tin dị đoan, tinh thần tự do suồng sã của hội cacnavan, lối phóng đại nghịch dị và tính thoải mái giản dị của văn hoá Arap. Họ chú ý đến các truyền thuyết, các sáng tác dân gian, các phong tục tập quán của các dân tộc xa lạ, các phong cảnh xứ lạ. Thực tế vật chất thấp hèn bị họ đem đối lập với những dục vọng cao cả (đây là quan niệm của chủ nghĩa lãng mạn về tình yêu) và đời sống tinh thần mà những biểu hiện cao nhất, theo họ, là nghệ thuật, tôn giáo, triết học.
Yêu cầu về chủ nghĩa lịch sử và tính nhân dân (chủ yếu theo ý nghĩa là sự tái tạo trung thành màu sắc của địa điểm và thời gian)- là một trong những thành tựu vĩnh cửu của mỹ học lãng mạn. Chủ nghĩa lịch sử của tư duy ở các nhà lãng mạn bộc lộ rõ nhất trong thể loại tiểu thuyết lịch sử do họ tạo ra. Tính đa dạng của các đặc điểm địa phương, thời đại, dân tộc, lịch sử, cá nhân - trong cách nhìn của các nhà lãng mạn - có ý nghĩa triết học: nó là sự bộc lộ tính phong phú của một chỉnh thể, của thế giới phổ quát thống nhất.
Đối lập với nguyên tắc "bắt chước tự nhiên" của chủ nghĩa cổ điển, các nhà lãng mạn đề cao tính tích cực sáng tạo, quyền cải biến thực tại của nghệ sĩ: anh ta tạo ra một thế giới đặc biệt, của mình, đẹp hơn, chân thực hơn cái thực tại kinh nghiệm; bởi vì nghệ thuật, sáng tạo là thực chất thầm kín, là ý nghĩa sâu kín và là giá trị cao nhất của thế giới, cũng có nghĩa nó là thực tại cao nhất. Tác phẩm nghệ thuật được so sánh với cơ thể sống ; hình thức nghệ thuật được xem không phải như cái vỏ của nội dung mà như một cái gì mọc lên từ đáy sâu và gắn liền với cái mà nó biểu đạt. Các nhà lãng mạn nhiệt liệt bảo vệ tự do sáng tác của người nghệ sĩ, bảo vệ quyền tưởng tượng của nghệ sĩ ("thiên tài không lệ thuộc các quy tắc mà là kẻ sáng tạo ra các quy tắc"), bác bỏ tính quy phạm.
Thời đại chủ nghĩa lãng mạn được đánh dấu bằng những cách tân về nghệ thuật: sáng tạo ra các thể tài tiểu thuyết lịch sử, truyện giả tưởng, trường ca sử thi - trữ tình, cải cách sân khấu. Thơ trữ tình đạt đến độ cực kỳ phồn thịnh; các khả năng của ngôn từ thi ca được mở rộng nhờ tính đa nghĩa, tính liên tưởng, tính ẩn dụ đậm đặc, nhờ các phát hiện trong lĩnh vực câu thơ. Tiểu thuyết được coi là hình thức phù hợp nhất của sự tổng hợp thi ca: đó là thể loại thống nhất thi ca với triết học, đẩy lùi giới hạn giữa thực tiễn nghệ thuật và lý luận, trở thành sự phản ánh như trong bức tiểu họa cả một thời đại văn học, kết hợp được sự lí giải bằng nghệ thuật và sự lí giải bằng lịch sử về thời đại. Các lý thuyết gia lãng mạn truyền bá tư tưởng về sự xói mòn của các loại thể văn học; về sự thâm nhập lẫn nhau của các ngành nghệ thuật; về sự tổng hợp nghệ thuật, triết học và tôn giáo; nhấn mạnh nhân tố âm nhạc trong thi ca. Về các nguyên tắc miêu tả, các nhà lãng mạn hướng tới giả tưởng, nghịch dị trào lộng, tính ước lệ lộ liễu của hình thức, mạnh dạn pha trộn chất đời thường và chất dị thường, chất bi và chất hài.
Di sản văn hóa của chủ nghĩa lãng mạn, phản ứng tiêu cực của nó đối với thời đại sản sinh ra nó - thời đại phát triển công nghiệp và đô thị hóa - trở thành một trong số những căn cứ cho các nhà Tương lai học ở cuối thế kỉ XX nêu lên nhận định về tính giới hạn của tri thức khoa học công nghệ, tính huỷ hoại toàn cầu của việc phá hoại môi sinh và phá hoại các giá trị nhân văn trong quá trình phát triển nền sản xuất công nghiệp tự động hóa; từ đó đề xuất nhu cầu bảo vệ cân bằng sinh thái tự nhiên và tính ổn định nhân văn như một trong những nhu cầu cốt thiết của sinh tồn nhân loại.
Chủ nghĩa hiện thực
Những cơ sở làm nảy sinh chủ nghĩa hiện thực
CƠ SỞ XÃ HỘI
Thái độ bất bình của mọi tầng lớp nhân dân trước thời đại tư bản chủ nghĩa phát triển. Nhu cầu tìm hiểu thực trạng xã hội khiến văn học hiện thực phát triển...
CƠ SỞ TƯ TƯỞNG
Triết học duy vật phát triển ở Tây Âu có mấy điểm chính:
+ Có một thế giới khách quan tồn tại ngoài ý thức con người
+ Ý thức con người có thể hiểu được thế giới đó
+ Ngành mĩ học phát triển với các nhà mĩ học như Bielinski, Sernysevski, HegelCƠ SỞ KHOA HỌC TỰ NHIÊN, CÔNG NGHỆ, IN ẤN XUẤT BẢN...
Những cơ sở vật chất kĩ thuật cũng tạo điều kiện cho văn xuôi hiện thực phát triển.
Cơ sở của nguyên tắc sáng tác này là: các tính cách và hoàn cảnh trong tác phẩm nghệ thuật được cắt nghĩa ở bình diện xã hội-lịch sử, sự liên hệ theo quy luật nhân quả giữa chúng (quyết định luận xã hội) được khám phá trong sự phát triển về chất (chủ nghĩa lịch sử) nhờ việc điển hình hóa các sự kiện tồn tại, tức là tương ứng với thực tại nguyên khởi. Theo một ý tưởng của Ănghen, "chủ nghĩa hiện thực đòi hỏi, bên cạnh tính chân thực của các chi tiết, tái hiện chân thực những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình". Ở tác phẩm hiện thực chủ nghĩa, con người được bộc lộ như một sinh thể xã hội, tương tác với các điều kiện sống khách quan (quyết định luận xã hội chính là mối liên hệ điển hình giữa tính cách và hoàn cảnh).
Chủ nghĩa hiện thực nảy sinh như sự thừa kế đồng thời như sự đối lập với chủ nghĩa lãng mạn. Các nghệ sĩ hiện thực chủ nghĩa đầu tiên: các nhà văn như Puskin, Stendhale, Balzac, Dickens...đã không tự gọi mình là những nhà hiện thực chủ nghĩa. Tư tưởng lý thuyết đương thời không ý thức ngay được về ý nghĩa của một bước ngoặt trong nghệ thuật mà sau này sẽ được nêu lên: cho đến tận những năm 20 - 30 thế kỉ XIX, toàn bộ nghệ thuật thế giới trong việc lí giải con người và xã hội vẫn đặt chúng bên ngoài những điều kiện cụ thể của một môi trường xã hội ở một thời gian lịch sử nhất định. Ở chủ nghĩa hiện thực, tính cách con người được khám phá một cách gián tiếp, thông qua cái riêng, với tư cách là sự biểu thị cái chung ; điểm trọng tâm ở đây là giá trị của cái duy nhất không lặp lại xét về mặt lịch sử, các vấn đề xã hội - lịch sử ở đây hiện diện như là tuyến chính yếu của nghệ thuật.
Vào giữa thế kỉ XIX, các đối thủ văn học của nhà văn Pháp Champleury (1821- 1899) đã gọi những sáng tác phê phán sắc cạnh của ông và những người cùng xu hướng với ông là "chủ nghĩa hiện thực". Champleury chấp nhận cách gọi này, đặt tên một cuốn sách tập hợp các bài báo là là "Chủ nghĩa hiện thực" (Réalisme,1857), mặc dù ông giải thích nó phần lớn theo tinh thần chủ nghĩa tự nhiên và phi lịch sử. Ở Nga, thuật ngữ này được nhà phê bình Annenkov (1812-1887) áp dụng lần đầu vào văn học (1849), trong khi các nhà phê bình như Bielinxki, Dobroliubov, Pixarev (1840-1868) không dùng nó. Với ý nghĩa là một nguyên tắc sáng tác cơ bản, thuật ngữ này trở nên thông dụng ở Nga và châu Âu từ những năm 60 thế kỉ XIX. Chỉ ở phê bình văn học và nghệ thuật dưới thời Xôviết từ những năm 20- 30 thế kỉ XX, ý nghĩa của khái niệm này như một phương pháp sáng tác mới được đề xuất và sử dụng. Cho đến gần cuối thế kỉ XX, nhiều nhà lý luận ở châu Âu và phương Tây vẫn hiểu "chủ nghĩa hiện thực" như sự phản ánh cái thực tại có sẵn, không phân biệt nó với "chủ nghĩa tự nhiên". Ở học thuật Xô viết trong những năm 60- 80 thế kỉ XX có nhiều cuộc tranh luận về chủ nghĩa hiện thực, về các giới hạn thời gian của nó trong lịch sử văn học nghệ thuật thế giới. Một số nhà lý luận áp dụng khái niệm này vào nghệ thuật Phục hưng, nghệ thuật thế kỷ XVII, nghệ thuật Ánh sáng...Một số khác chỉ gắn điểm khởi đầu của nó với chủ nghĩa hiện thực phê phán thế kỉ XIX; ở khuynh hướng nghệ thuật này, việc khám phá tính cách được gắn liền với thời gian lịch sử, với việc phân tích các vấn đề xã hội. Nhiều nhà nghệ thuật học thừa nhận chủ nghĩa hiện thực đã có trong nghệ thuật tạo hình các thế kỷ XVII - XVIII, đôi khi của các thế kỷ xưa hơn nữa. So với văn học, chủ nghĩa hiện thực nói ở hội họa gắn bó nhiều hơn với những phương tiện miêu tả tạo hình gây được ảo giác xác thực thị giác; nhưng dấu hiệu chủ yếu của chủ nghĩa hiện thực ở đây là khám phá tính cách xã hội của con người, thể hiện những niềm vui, nỗi lo về thời đại cụ thể của mình và biểu lộ những tâm trạng tương ứng (nhất là loại hội họa có chủ đề, nơi mà chân dung không giữ vai trò quyết định). Vì vậy có thể cho là ở nghệ thuật tạo hình nói chung, chủ nghĩa hiện thực chỉ giành được chỗ đứng chắc chắn vào thế kỷ XIX chứ không thể sớm hơn.
Khái niệm "chủ nghĩa hiện thực" được áp dụng chẳng những vào văn học và nghệ thuật tạo hình là các lĩnh vực mà sự phản ánh thực tại bằng hình tượng có thể đạt tới tính xác thực cảm giác-thị giác, mà còn được áp dụng vào khu vực được gọi là nghệ thuật biểu cảm. Ví dụ ở âm nhạc, chủ nghĩa hiện thực là sự truyền đạt những tâm trạng, những cảm quan của cá nhân trong các môi trường xã hội mà nó chấp nhận hoặc phản kháng tùy thuộc tính cách của nó và tính chất của môi trường xã hội theo nhận định của nó. Chủ nghĩa hiện thực gắn với tinh thần dân chủ. Trong khuôn khổ nội dung xã hội lịch sử của chủ nghĩa hiện thực, các nhà lý luận chia ra 2 phương pháp sáng tác cơ bản: chủ nghĩa hiện thực phê phán và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Một số nhà lý luận và nghệ sĩ còn kì vọng luận chứng cho những phương pháp hiện thực chủa nghĩa khác, ví dụ "chủ nghĩa hiện thực cách mạng" với tư cách là bước quá độ sang chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa; chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong văn học và nghệ thuật các nước Mỹ Latinh, nơi mà quyết định luận xã hội-lịch sử được kết hợp với sự lí giải thực tại theo mô hình những biểu tượng huyền thoại.
TĐVH bộ mới
Đọc thêm
NGHIÊN CỨU VỀ THI PHÁP
CỦA CHỦ NGHIÃ LÃNG MẠN VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
THI PHÁP CHỦ NGHIÃ LÃNG MẠN
Sự phong phú đa dạng bút pháp khiến cho lí luận văn học không thể đúc kết đầy đủ.
Thi pháp học hiện đại có thể rút ra một số đặc điểm phổ biến như sau:
Cách nhìn của nhà văn
+ Tự khẳng định cái "tôi" chủ quan trong cách nhận thức và xây dựng hình tượng, lấy mộng tửơng thay cho thực tiễn bất khả tri, lấy cái ngẫu nhiên cá biệt thay cho cái phổ biến.
+ Cảm hứng yêu thương tha thứ cảm hóa thiết tha mãnh liệt.
+ Giải pháp cải tạo xã hội là "chủ nghĩa xã hội không tưởng" và "đức tin Thiên chúa".
+ Chống giải pháp bạo lực."Nơi nào có Ánh sáng (Chúa Trời) thì đừng đem lửa (bạo lực) đến làm gì !" - linh mục Myriel nói.
Thơ lãng mạn
Thơ là thể loại tiêu biểu nhất cho CNLM, ổn định về thi pháp tiêu biểu nhất là ở châu Âu thế kỉ XIX.
Cái tôi cá thể hóa cao độ, đứng cao hơn tất cả thế giới khách quan.
Cảm hứng tình yêu, cô đơn, nỗi đau buồn, say mê cái đẹp phi thường...đặc biệt gắn bó với thiên nhiên (quay lưng với xã hội thì tìm bạn ở thiên nhiên vô tư...).
Hình thức biểu hiện rất phong phú...
Thi ca cổ điển phương Đông cũng như thi ca lãng mạn Phương tây thế kỉ XIX đã đạt đến mẫu mực thi pháp lãng mạn như bản chất thơ trữ tình. Đó là trình độ lí tưởng để giaỉ bày chủ thể trữ tình với vô vàn phương thức đa dạng ( quan niệm nghệ thuật về con người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, đề tài lãng mạn, tổ chức chọn lựa ngôn ngữ (lời văn nghệ thuật) .v.v...
Tiểu thuyết lãng mạn
Cốt truyện: phát triển theo khát vọng chủ quan của nhà văn.
Hoàn cảnh truyện: ngẫu nhiên, cá biệt, cảnh ngộ siêu phàm, nhân vật có tính cách phi thường.
Khai thác nội tâm nhân vật, tình yêu thơ mộng say sưa.
Biện pháp tương phản (bóng tối và ánh sáng, thiện và ác, cao cả và thấp hèn...) khoa trương, lí tưởng hóa (lòng nhân ái của cụ giám mục Myriel, Valjean, Gavroche...), cảnh vật tương phản "cống ngầm Paris đen tối dơ bẩn" và "tấm lòng sáng ngời của Valjean", cuộc sống khốn khổ và tính cách Gavroche... tương phản giữa anh gù Quazimodo và phó linh mục...
CNLM say sưa đề cao cái cao cả trác tuyệt ngay trong con người bình thường ("Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật" là tuyên ngôn của họ)
2. THI PHÁP CHỦ NGHIÃ HIỆN THỰC
Phân biệt mấy khái niệm
trước khi nghiên cứu thi pháp chủ nghĩa hiện thực
Cũng như tính lãng mạn, phản ánh hiện thực là một thuộc tính tất yếu của văn học dù nhà văn có ý thức nghiêm túc hay không. Trong những quan niệm cổ, văn dĩ tải đạo, văn ngôn chí, từ văn cổ điển đến văn siêu thực...đều có yếu tố hiện thực, ít nhiều đều phản ánh nội dung của đời sống hiện thực.
Nguyên tắc cơ bản của CNHT là tôn trọng sự thật khách quan.
Những cuộc bút chiến nổ ra giữa các phương pháp trong sáng tác, chúng vừaảnh hưởng lẫn nhau lại vừa đấu tranh có khi rất gay gắt.
Kiểu văn hiện thực: là khái niệm chỉ cách xây dựng hình tượng theo nguyên tắc tái tạo cuộc sống. Văn chương ra đời khi hình thức "bắt chước" cuộc sống cũng ra đời
Giá trị hiện thực: để chỉ phẩm chất chân thực của hiện tượng văn học, sự phản ánh đúng đắn, sâu sắc tâm tư khát vọng của con người. Nói cách khác, giá trị hiện thực là phản ánh đúng đắn bản chất cuộc sống và con người trong một hoán cảnh lịch sử cụ thể.
Chủ nghĩa hiện thực: là một trào lưu văn học hình thành rõ rệt ở châu Âu giữa thế kỉ XIX. Thực ra CNHT đã nảy sinh từ thời Phục hưng (gọi là CNHT Phục hưng). Thế kỉ XIX, CNHT lên tới đỉnh cao với bộ "Tấn trò đời" của Balzac.
Mấy yếu tố thi pháp của chủ nghĩa hiện thực
Cái nhìn hiện thực
Triết học và mĩ học duy vật là nền tảng tư tưởng phương pháp luận nhận thức chính. Sernysevski "Cái đẹp là cuộc sống. Thực tế đẹp là thực tế trong đó ta nhìn thấy cuộc sống đúng như quan niệm của chúng ta. Một đối tượng đẹp là đối tượng trong đó cuộc sống được thể hiện, hay là nó nhắc ta nghĩ đến cuộc sống ".
Tolstoi "Nhân vật mà tôi yêu quí nhất ấy là sự thật"
Balzac "Lịch sử nước Pháp là một pho sử, còn tôi chỉ là thư ký trung thành của pho sử ấy".
Stendale "Sự thật, sự thật chua chát" (Đỏ và đen)
Maupassant "Sự thật hèn mọn" (Một cuộc đời)
Cái nhìn "phê phán" được gắn thêm, nhấn mạnh sự phủ định (trái với CNHT xã hội chủ nghĩa có cảm hứng chính là ca ngợi)
Cái nhìn nhân đạo, yêu thương những con người đau khổ...
Cảm hứng bi kịch in dấu đậm trong hầu hết tác phẩm HTCN.
Miêu tả "chi tiết chính xác cao" nhưng là "cái giống thật" chứ không phải "cái thật" (Tránh khuynh hướng xã hội học "dung tục" đòi hỏi nội dung tiểu thuyết phải là "cái thật trần trụi").
Trước đây có khuynh hướng lí luận phê bình CNHT vướng cái nhìn "bi quan". Họ đã hiểu sai chữ "bi quan", thực ra về mặt tinh thần, nhân vật thất bại nhưng vẫn lạc quan với ý thức vươn lên ...
Phương pháp điển hình hóa là xác định mối quan hệ giữa hoàn cảnh và tính cách
Yêu cầu tạo ra "những tính cách chính xác"
Không gian- thời gian xác định, cụ thể.
Chi tiết chân thực, bình thường (phổ biến)
Engels yêu cầu có cả hai "điển hình và cụ thể sinh động".
Chủ nghĩa hiện thực nhấn mạnh vai trò của hoàn cảnh. Hoàn cảnh là cơ hội để cho tính cách bộc lộ, có thể làm biến đổi, phát triển tính cách, tạo ra hoàn cảnh mới. Môi trường hiện thực là môi trường tha hóa, rất nhiều tính cách là nạn nhân của môi trường (Charles, Grandet, Rastignac, Lucien, Julien...).
Dưới sự tác động của hoàn cảnh, nhân vật được xây dựng với sự tôn trọng logic khách quan, logic bên trong của tính cách. Nhân vật nhờ đó có sự vận động tự thân, không chịu tuân theo sự "ép buộc" của tác giả (Eugenie của Balzac, nhân vật Anna "nổi loạn" của L.Tolstoi).
Tuy nhiên CNHT cũng không bỏ qua các biện pháp cường điệu, ước lệ và cả thủ pháp lãng mạn, đôi khi dùng cả huyền thoại, hoang đường...
CNHT cũng dùng cả bút pháp trào phúng hài hước nhuốm màu bi-hài kịch.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro