VB cuối
c. Nhớ Việt Bắc kháng chiến (22 dòng tiếp)
Nhớ Việt Bắc không chỉ nhớ cuộc sống đồng cam cộng khổ, nhớ vẻ đẹp cuả hoa và người Việt Bắc mà quan trọng nhất là nhớ Việt Bắc với cuộc kháng chiến lịch sử của dân tộc.
Nhớ về Việt Bắc kháng chiến người ra đi đã nhớ về một nét đặc trưng riêng: thiên nhiên và con người “cùng đánh giặc”:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”
Trong kháng chiến sức mạnh của dân tộc là sức mạnh tổng hợp. Và “ta” chính là sức mạnh tổng hợp, chính là sự hoà hợp, gắn bó trong tình đoàn kết giữa người dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng . Đặc biệt mối tình quân dân ấy được kết hợp với sức mạnh của thiên nhiên: “rừng cây núi đá”, đó chính là sức mạnh của cuộc kháng chiến vì có chung mục đích, con đường, lí tưởng “đánh Tây” để giành lại độc lập cho dân tộc.
Biện pháp nghệ thuật nhân hoá đã giúp nhà thơ thổi hồn vào thiên nhiên để thiên nhiên có hành động, có khát vọng, tâm tình như con người, và kết hợp với biện pháp nghệ thuật ẩn dụ thiên nhiên Việt Bắc cũng chính là con người Việt Bắc .
Những động từ xuất hiện liên tiếp “giăng”, “vây”, “che” để thể hiện khí thế tiến công của thiên nhiên, của con người và Tố Hữu đã cảm nhận được để khẳng định thiên nhiên chính là một lực lượng, một sức mạnh góp phần tạo nên chiến thắng. Khẳng định như vậy hẳn người ra đi đã khắc ghi sự gắn bó mật thiết giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc. Nếu không có thiên nhiên và con người Việt Bắc sẽ không có sự thành công của cách mạng. Việt Bắc chính là cách mạng, là chính mình. Từ đó có thể khẳng định quên Việt Bắc là quên chính mình. Đằng sau lời khẳng định này là sự tri ân, biết ơn sâu nặng của người ra đi đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc .
Cách diễn đạt tăng tiến: “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây” đã khẳng định sức mạnh đoàn kết, gắn bó keo sơncủa thiên nhiên và con người trong cuộc kháng chiến để làm nên chiến thắng chung. Đây là một đống góp của Tố Hữu trong cảm nhận về quê hương đất nước.
- Nhớ Việt Bắc kháng chiến cũng là nhớ những chiến thắng lãy lừng (4 dòng)
Tác giả sử dụng hình thức liệt kê: Phủ Thông, đèo Giàng, Sông Lô, phố Ràng, Cao_Lạng, Nhị Hà ... đó là hình thức có chọn lọc và mỗi một chiến công đi kèm từ “nhớ”. Điệp từ “nhớ” đã thể hiện nỗi nhớ vừa sâu sắc, vừa da diết, sâu lắng kết hợp với nhịp thơ mạnh, khoẻ diễn tả niềm vui hân hoan trước thành quả của cách mạng, thành quả ấy là là kết quả của sức mạnh đoàn kết dân tộc, sức mạnh của thiên nhiên và con người Việt Bắc :
“Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao_Lạng, nhớ sang Nhị Hà...”
Tất cả hiện lên trong hồi tưởng của người ra đi thật sống động trong niềm tự hào, trong niềm vui sướng khi khắc hoạ hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hào quyện trong chiến đấu.
Nhớ Việt Bắc là nhớ những ngày ra quân lịch sử (8 dòng thơ)
“Những đường Việt Bắc của ta Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Đêm đêm rầm rập như là dất rung. Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Quân đi diệp điệp trùng trùng Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Tám dòng thơ ghi lại hình ảnh Việt Bắc ra quân qua con đường trong đêm kháng chiến. Đây là cuộc kháng chiến toàn quân, toàn dân, toàn diện.
+ Hai câu đầu: khái quát sức mạnh của đoàn quân
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là dất rung.”
Sử dụng từ láy gợi tả “đêm đêm” để khẳng định sự bền bĩ của dân tộc trong những năm trường kì kháng chiến. Sử dụng từ láy tượng hình, tượng thanh “rầm rập” ... để hoạ hào khí mạnh mẽ, khoẻ khoắn, khung cảnh kì vĩ, hoành tráng và sức mạnh của đoàn quân ra trận như rung chuyển cả trời đất. Đó là sức mạnh của tình đoàn kết dân tộc, là khát vọng hoà bình, sức mạnh của nỗi đau và lòng căm thù giặc ...Đó chính là sức mạnh, là tầm vóc của dân tộc trong những ngày ra trận.
+ Hai câu thơ tiếp khắc hoạ cụ thể hình ảnh đoàn quân:
“Quân đi diệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”
“Điệp điệp”, “trùng trùng” khắc hoạ vẻ đẹp hào hùng trong khí thế ngất trời, tư thế hiên ngang và tinh thần lạc quan, tình yêu hoà bình , khát vọng bảo vệ tự do. Đó là vẻ đẹp của đoàn quân những con người giản dị mà oai hùng.
+ Hai câu tiếp là hình ảnh đoàn dân công:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.”
Nghệ thuật đảo từ “đỏ đuốc” khiến toàn cảnh của toàn dân công ra trận sôi nỗi, mạnh mẽ và tràn trề hứng khởi, ra quân vui như ngày hội. Sử dụng hình thức cường điệu, thậm xưng để thể hiện khí thế tiến công, ý chí quyết tâm sắc đá sẽ tạo nên một sức mạnh vượt qua mọi gian khổ.
+ Hai câu thơ tiếp là hình ảnh đoàn xe ra trận:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Vừa tả thực khung cảnh của những đoàn xe ầm ầm ra trận xé tan màn đêm, hướng về phía trước bằng một niềm tin tới ngày mai nhưng đồng thời cũng tượng trưng cho hình ảnh ra quân của dân tộc, vượt qua những khó khăn, thử thách “thăm thẳm sương dày”, hướng về phía trước bằng một niềm tin lạc quan mãnh liệt vào con đường kháng chiến của cách mạng “như ngày mai lên”
.
_ Nhớ Việt Bắc là nhớ những niềm vui chiến thắng
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Hình thức liệt kê kết hợp với điệp từ “vui từ” thể hiện niềm vui suớng, tự hào về những chiến công, oai hùng trong lịch sử. Đằng sau mỗi một lời thơ ta nhận ra sự tri ân, tấm lòng biết ơn hướng về Việt Bắc những ngày gian khổ mà hào hùng của kháng chiến.
Đoạn trích là những dòng hồi tưởng về những ngày Việt Bắc ra quân kháng chiến trong nỗi nhớ da diết, sâu lắng. Nhưng Tố Hữu không miêu tả những sự kiện như một nhà sử học mà tái hiện khí thế và sức mạnh của dân tộc trong một thời kì lịch sử, qua những dòng thơ giàu chất sử thi và cảm hứng lãng mạn . Vì thế đoạn trích chính là khúc ca hùng tráng ngợi ca cuộc kháng chiến của thiên nhiên và con người trên quê hương Việt Bắc . Đây cũng là lời khẳng định mạnh mẽ nỗi nhớ không thể nào quên của người ra đi , qua đó bày tỏ tình cảm sắc son, thuỷ cung của người cán bộ cách mạng với nhân dân Việt Bắc . Đồng thời là lời tự nhủ của Tố Hữu: không thể quên Việt Bắc, bởi Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là “quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà”.
_ Nhớ Việt Bắc là nhớ căn cứ địa cách mạng gắn liền với lãnh tụ Hồ Chí Minh
+ Tám dòng thơ khẳng định Việt Bắc có một vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử, đây cũng là căn cứ địa cách mạng , là địa bàn đóng quân của cơ quan đầu não TW Đảng. Là nơi đề ra chiến lược,chiến thuật, tìm con đường đưa dân tộc đi đến thắng lợi.
+ Tám dòng thơ cuối của đoạn trích khẳng định niềm tin yêu và lòng kính trọng đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh. Đồng thời khẳng định mười lăm năm gắn bó với Việt Bắc là nỗi nhớ sâu sắc những địa danh lịch sử: Tân Trào, Hòng Thái ... đã làm nên cuộc kháng chiến của dân tộc.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro