Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

vanmau

NGUYỄN TRÃI

1.

Người ta tìm đến Nguyễn Trãi không chỉ bởi những áng văn bất hủ ông để lại cho đất nước mà còn để cảm phục 1 tư tưởng lớn, nhân cách lớn của dân tộc. Nguyễn Trãi! 1 nhà quân sự tài ba, nhà chính trị lỗi lạc, tài năng hiếm có của văn học Việt năm , là niềm tự hào của những người con đất Việt.

Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380 tại tỉnh Hải Dương trong 1 gia đình thuộc dòng dõi quý tộc. Thân phụ ông là Nguyễn Phi Khanh từng đỗ Thái học Sinh và làm quan cho nhà Hồ. Ông ngoại là Đại tư đồ Trần Nguyên Đán, 1 cái tên làm nên nhiều chiến tích trong lịch sử Việt NAm. Có lẽ được sinh ra và lớn len trong 1 gia đình giàu truyền thống yêu nc nên trong tư tưởng của NTsớm có những quan niệm nhân sinh tích cực.

Nguyễn tãi sống trong thời kì loạn lạc, tuy đc sinh ra trong một gia đình quý tộc thế nhưng ông lại phải chịu khá nhìu long đọng lận đận trong cuộc đời . Năm mới lên 5 tuổi, ông mồ côi mẹ, cái tuổi mà không thể thiếu đi hơi ấm tình thương của mẹ của tình mẫu tử thiêng liêng.Song với nỗ lực phấn đấu riêng cảu bản thân, và dưới sự dạy dỗ nghiêm khắc của ông ngoại và cha. Năm1400 ông đỗ Thái học sinh và làm quan cho nhà Hồ. Trưởng rằng sau khi đỗ đạt công danh, NT có thể an tâm để thực hiện ao ước cống hiến cho dân cho nc của mình vậy mà do sự hạn chế của nhà nc pk nàh Hồ, nhân dân đã nổi dậy, nhân cơ hội đó giặc minh sang xâm lược nc ta vào năm 1407, Nhà hồ đại bại quân Minh áp giải cha con hồ quý li về nc tr đó có NPK. Vì muốn làm tròn đạo hiếu, NT đã đi theo để phụng đưỡng cha. Nhưng người cha làm lên lịch sử đã không can tâm để cho con mình cúi đầu theo giặc mà khuyên con trở về báo thù. Có thể xem đây là cột mốc quan trọng đánh dấu bc thưởng thành của NT. Khi ông về nc thì bị bắt giữa ở Đông quan( Hà nội ngày nay) sau đó ông bở chốn tìm theo lê lợi. Mang trong mình nỗi thống khổ của một ng dân mất nc, một vị quan thua trận, một trí sĩ yêu nc căm ghét giặc ngoại xâm, Nt đã dâng lên Lê Lợi " Bình ngô sách"(Kế sách đánh đuổi giặc minh) và trở thành quân sư số một của Lê Lợi. Không bao lâu sau, nghĩa quân thắng lợi. Lê Lợi lên làm vua, Nt luôn đc tin dùng. Nhưng ngao ngán thay cho c/đời NT , ngỡ tưởng rằng từ đây ông có thể thực hiện hoài bão cuả mình, nào ngờ đâu, tướng Trần nguyễn Hãn bị nghi ngờ mưu phản, vua sai abwst tội phải nhảy sông tự vẫn, mặc cho những chiến công lớn lao cho triều Lê trc đó. NT không thể tránh khỏi bị vạ lây do quan hệ vói vị tướng này. Rồi từ đó trong suốt 10 năm( 1429-1439) ông chỉ đc giữ chức nhằn quan không có thực quyền. Quá chán cảnh khồn đc sử dụng hết tằinngo, ông cáo quan về ở ẩn tại côn sơn. Sống hào mình vào thiên nhiên đất trời. Bôn ba khắp thiên hạ trải qua nhìu chuyện thăng trần, ông đã sớm nhận ra rằng nàh Trần mất nước là do chỉ biết sung sướng mà quên đy q/hệ thần dân vốn có, nhà Hồ mất nc là do đánh mất lòng dân 

" Nhân họ Hồ chính sự phiền hà 

Để trong nc lòng dân oán hận"

Cáo quan chưa đc bao lâu thì năm 1440. vua Lê Thái Tông lại vời ông ra việc nc vì trọng dụng nhân tài. Niềm vui vì đc giúp dân giúp nc một lần nữa chưa kịp thực hiện thì vụ án oan Lệ Chi Viên lại đổ ập xuống khiến gia đình ông bị khép vào tội tru di tam tộc, vụ án đã trở thành tấn bi kịch lắn nhất trong cuộc đời NT khiến cho ông không còn thực hiện đc hoài bão của mình. Chuyện kể lại rằng, đương khi ấy, Vua lê tahsi tông nghỉ tại nàh NT một đêm thì đột ngột qua đời, đục nc béo cò, nhân cơ hội đó, bọn gian thần vu oan cho NT tội giết vua.Đây là án oan hiếm có trong lịch sử Việt Nam cho mãi đến năm 146,tức là hơn mấy chục năm sau, vua Lê Thánh Tông mới có thể giải oan cho ông

“Nguyễn Trãi là 1 tài năng lỗi lạc hiếm có” ( trích SGK 10 năng cao tập 2). Đúng như lời nhận xét này, ông là một con người vĩ đại đã đc sinh ra trên mảnh đất hình chữ S xinh đẹp và hiền hòa này. Vua Lê Thánh Tông đã từng nói về Nguyễn Trãi:” Lòng Ức Trai tỏa rạng văn chương” Quả thật, dường như văn chương đã trở thành dòng máu vô hình nuôi dưỡng tâm hồn của Ức Trai. Trong ông, văn chương là sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa yêu nước, quyện thêm chút tươi trẻ, giàu sức sống của thiên nhiên. Và tất cả những điều ấy được thể hiện qua một bài cáo rất nổi tiếng mà đã đc coi như là bản tuyên ngôn độc lập của Đại Việt ta. Đó chính là “Bình Ngô Đại Cáo”

2. Tác phẩm “ Bình Ngô Đại Cáo”

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là ánh văn bất hủ trong lịch sử dân tộc Việt Nam . Đề yêu cầu phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ nhận định là một “thiên cổ hùng văn” , tức là yêu cầu một sự phân tích theo hướng , không phải là sự phân tích chung chung .Vì vậy, cần làm rõ về hoàn cảnh sáng tác , bố cục , thể loại , chủ đề của tác phẩm khi phân tích.

1. Hoàn cảnh sáng tác:

Sau 10 năm kháng chiến gian khổ và quyết liệt , thang 1 năm 1428 , nhân dân ta dưới ngọn cờ của Lê Lợi , đã đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước .Sau chiến thắng ,Lê Lợi tổ chức phong thưởng cho tướng lĩnh và chính thức lên ngôi hoàng đế .Nguyễn Trãi thay mặt nhà vua viết Bình Ngô đại cáo (Đại cáo bình Ngô) để tuyên bố cho toàn dân biết rõ công cuộc cứu nước , trải qua nhiều nguy nan đã thắng lợi , từ đây dân tộc bước vào một kỷ nguyên mới , kỷ nguyên hoà bình , thông nhất.

2. Tựa đề:

Tác phẩm của Nguyễn Trãi có tên là Đại cáo binh Ngô , nghĩa là tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên giặc Ngô .Tên Bình Ngô đại cáo là cách đảo lại tựa đề ho ngắn gọn , chứ chưa hẳn là dịch .Chữ Ngô ở đây là cách gọi của người Việt xưa đối với thế lực phong kiến phương bắc ,với sắc thái coi khinh .Trong tác phẩm , quân Ngô chính là giặc Minh.

3. Thể loại:

- Bài văn được viết theo thể cáo , thể văn biền ngãu , thường ra đời nhằm công bố sự kiện trọng đại của quốc gia hoặc sau một cuộc kháng chiến lâu dài . Đây là văn kiện chính luận , không phải lúc nào ngưòi ta cũng dùng.

- kiểu câu trong văn biển ngẫu : Tứ tự , bát tự , song quan , cách cú , gối hạc.

4. Bố cục:

- Phần 1 ( từ đầu đến chứng cớ còn ghi ) : nêu chính nghĩa của cuộc kháng chiến.

- Phần 2 ( Vừa rồi … chịu được ) : Tố cáo tội ác của giặc Minh

- Phần 3 :thuật lại quá trình kháng chiến bao gồm hai đoạn nhỏ:

+Tiểu đoạn 1 ( Ta đây … lấy ít địch nhiều ): Lược thuật những chiến thắng vang dội của nghĩa quân Lam Sơn.

- Phần 4 ( Xã tắc …Ai nấy đều hay ): Tuyên bố kết thúc chiến tranh mở ra kỷ nguyên hoà bình , khẳng định địa vị,tư thế của đất nước.

5. Phân tích:

5.1. Nêu lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến:

- Tư tưởng nhân nghĩa:

Việc nhân dân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Đập lại luận điệu của quân Minh

Cuộc chiến của ta vì dân -> nội dung khác , cụ thể hơn ( liên hệ ) 

Giải thích -> chiến đấu vì trừ bạo -> quân Minh , bọn tay sai.

=>Quan niệm nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là quan niệm đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội phải chăm lo cho dân được sống có hạnh phúc , yên bình .

- Từ cách độc lập của dân tộc.

+Biểu hiện :tên đất nước ,nền văn hoá riêng ,bờ cõi , phong tục , nền chính trị , nhân tài.

=>Khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia ( so với các tác phẩm trước Nam quốc sơn hà ,Hịch tướng sĩ ).

+Giọng văn : Sảng khoái , tự hào.

+Cách viết :câu văn biền ngẫu “Từ Triệu , Đình , Lý , Trần ... Cùng Hán, Đường ,Tống ,Nguyên ..” -> Bình đẳng , ngang hàng (đế).

=>Cuộc chiến đấu của ta là chính nghĩa.

5.2.Tố cáo tội ác của giặc Minh:

- Liệt kê hàng loạt:

Khủng bố ( thui sống , chôn sống ) ,bóc lột ( thuế mà : nặng thuế khoá; phu phen :những nỗi phu phen nay xây ma đập đất ...;dâng nạp : dòng lưng mò ngọc , đãi cát tìm vang , bắt dò chim trả , bắt bẫy hươu đen...; diệt sản cuất : tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ ; diệt sự sống: Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng...

- Tội ác man rợ nhất của giặc Minh được miêu tả trong câu : 

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ. 

Đây là hình ảnh vừa cụ thể , lại vừa khái quát như một lời cáo trạng , lời buộc tội.

=>Lột tả tội ác tày trời của giặc , làm rõ sự bất nhân phi nghĩa của bọn chúng. Đó cũng là lý do vì sao nhân dân ta phải kháng chiến.

5.3 Lược thuật cuộc kháng chiến:

5.3.1 Buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa.

- Hình tượng trung tâm là anh hùng Lê Lợi ( Ta đây ).

+Tập trung miêu tả về nội tâm : ngẫm , đau lòng nhức óc , nếm mật nằm gai , giận , suy xét ,đắn đo , trằn trọc , băn khoăn.

=>Chân dung tâm trạng Lê Lợi :lòng yêu nước , căm thù giặc , quyết tâm cao ,nung nấu nghiền ngẫm chí lớn , là người nhìn xa trông rộng.

+Hình tượng Lê Lợi có sự gởi gắm tâm trạng của Nguyễn Trãi , của toàn dân -> chân thực , xúc động.

- Khó khăn trong buổi đầu kháng chiến:

+Chênh lệch về lực lượng :ta yếu , địch mạnh.

+Thiếu thốn về vật chất .

+Hiếm nhân tài.

- Vì sao vượt qua được?

+Ý chí , tấm lòng cầu hiền.

+Có chiến lược , chiến thuật đúng đắn , đánh bất ngờ , đánh nhanh.

+Dựa vào sức mạnh nhân dân .

+Lấy nhân nghĩa làm cơ sở.

- Giọng điệu :trầm lắng , suy tư.

5.3.2.Lược thuật chiến thắng: 

- Diễn tả của trận đánh qua 3 bước 

+Phản công :

Bô Đằng – Trà Lân -> bất ngờ ; câu văn ngắn , chắc , hình ảnh bất ngờ : Sấm vang chớp giật ,Trúc chẻ tro bay. 

Giặc: sợ hãi.

+Tiến công :

Tây Kinh , Đông Đô -> nơi đầu lão của giặc .

Trận chiến ác liệt -> hình ảnh máu chẩy thành sông , thây chất đầy nội, giặc thất bại thảm hại.

Mưu phạt tâm công dùng ngọn cờ chính nghĩa , dùng mưu trí và thu phục lòng người .

+Đánh quân cầu viện:

Giặc tiến sang rầm rộ ( câu văn dài ) 2 mũi tiến công từ Khâu Ôn và Vân Nam .

Ta : đánh bất ngờ , dứt khoát :chặt , tuyệt. 

Nhịp văn ngắt bất ngờ.

Liệt kê -> chiến thắng dồn dập.

Hình ảnh đối lập giữa ta và giặc .

=>Khắc hoạ sự thất bại thảm hại của kẻ thù và sức mạnh , khí thế của quân ta.

Giọng điệu : sảng khoái , hào hùng khi khắc hoạ tư thế của người chiến thắng.

- Thái độ nhân nghĩa yêu chuộng hoà bình :

Giọng văn chẫm rãi , khoan thai.

Tha chết cho kẻ thù , cấp ngựa và thuyền dẻ về nước.

Muốn nhân dân nghỉ sức.

Tính kế lâu dài.

5.4 Tuyên bố hoà bình: 

- Giọng văn hả hê , vui mừng tin tưởng vào hoà bình lâu dài ( Giang sơn từ đây đổi mới ... Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu ).

- Một loạt các từ tả vũ trụ -> cảm hứng độc lập dân tộc được nâng lên gắn liền với cảm hứng vũ trụ bao la vĩnh hằng .Mặt khác thể hiện ý thức về sự thiêng liêng tôn kính lịch sử.

6. Chủ đề:

Bình Ngô đại cáo là bản tổng kết về cuộc kháng chiến vĩ đại , nêu cao lòng tự hào , niềm hân hoan vô hạn trước thắng lợi của chính nghĩa , ca ngợi tài năng lãnh đạo cà khí phách hào hùng của dân tộc.

7. Kết luận:

- Bình Ngô đại cáo tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có nên được mãi mãi là thiên cổ hùng văn.

- Bài cáo thể hiện năng lực cấu trúc tác phẩm nghệ thuật đạt dến trình độ hoàn chỉnh năng lực duy hình tượng sắc sảo , biến hoá , hấp dẫn phù hợp với cảm hứng chủ đạo của tác phẩm.

II.

Nguyễn Trãi, ngôi sao Khuê của văn hóa Việt Nam

Nguyễn Trãi , hiệu là Ức Trai , 1380–1442, là đại thần nhà Hậu Lê, một nhà văn chữ Nôm. Ông được xem là một anh hùng dân tộc của Việt Nam, một danh nhân văn hóa thế giới.

Nguyễn Trãi, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn ứng Long, hiệu ức Trai (tức là Nguyễn Phi Khanh). Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán.

Quê gốc Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nhưng sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại là quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh (trước đây có tên là Nguyễn Ứng Long), vốn là học trò nghèo thi đỗ thái học sinh và bà Trần Thị Thái - con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý tộc nhà Trần.

Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê.

Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế.

Cũng năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.

Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc.

Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù.

Nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi:

- Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?

Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước.

Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc.

Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan (tức Thăng Long), Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách.

Trong bài tựa ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết: Bình Ngô sách "hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người".

Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh.

Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề (Gia Lâm). Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Hai nhân vật luôn luôn trao đổi ý kiến với nhau.

Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết: "Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo".

Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều mà vua phải làm trước hết là chăn nuôi nhân dân:

- Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc.

Do luôn luôn "lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ", Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp nhà tranh (góc thành Nam lều một gian). Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn "bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi" (thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi).

Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một "thiên cổ hùng văn". Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc.

Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành.

Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam.

Năm 1442, cả gia đình ông bị hãm hại (tru di tam tộc) khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc.

Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại.

Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng "Ưc Trai tâm thượng quang Khuê Tảo".

III.

Nguyễn Trãi không những được người người khâm phục ở tài năng quân sự mà còn khâm phục ông là một con người tận trung ái quốc , yêu mến quê hương đất nước thiết tha.Văn võ song toàn ,cống hiến suốt đời và đóng góp to lớn cho sự nghiệp cứu và dựng nước , đáng là bậc anh hùng nước ta.Với những chiến lược quân sự tài ba , lời lẽ chau chuốt của một nhà ngoại giao chính trị , lời văn mượt mà tha thiết của một nhà văn hóa , Nguyễn Trãi đáng là một đại văn hào của dân tộc.Song ông cũng chịu nhiều bất hạnh oan uổng nhất trong lịch sử phong kiến nước ta.

Nguyễn Trãi hiệu Ức Trai,sinh năm 1380 và mất năm 1442 , quê ở Nhị Kê ( Hà Tây ) , phụ thân là Nguyễn Phi Khánh, phụ mẫu là Trần Nguyên Đán , xuất thân từ dòng dõi quý tộc.Vốn là học trò nghèo , hiếu học , năm 1400 ông đỗ Thái học sinh. Nguyễn trải sống vào thời đại nước nhà đang có nhiều biến động dữ dội , lên 6 tuổi mẹ qua đời , ông đỗ Thái học sinh vào năm 20 tuổi. Hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ .Năm 1407 , giặc Minh tràn sang cướp nước ta , Nguyễn Phi khánh bị bắt sang Trung Quốc , Nguyễn Trãi đi theo chăm sóc cha . Nghe lời cha khuyên, ông trở về và tìm theo Lê Lợi góp công lớn vào đại thắng dân tộc sau hơn 10 năm chiến đấu.

Sau khi đất nước sạch bóng quân thù, người dân nhà nhà đoàn tụ , buồn vì bị nghi kỵ , không được tin cây như trước nữa, Nguyễn Trãi đã cáo quan xin về Côn Sơn.

Đến năm 1440 Lê Thái Tông mời ông ra giao việc lớn ,ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ án Trái Vãi ( Lệ Chi Viên - Bắc Ninh ) nhà vua chết đột ngột, bọn gian thần vu cho ngô âm mưu giết vua , khép tội chu vi tam tộc ( 1442 ) và hơn 20 năm sau ( 1464 ) Lê Thánh Tông mới giải tỏa nỗi oan này cho Nguyễn Trãi.Nhà vua cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai còn sống sót của Nguyễn Trãi phục hồi chức quan.

Nguyễn Trãi là một nhà tài năng lỗi lạc, ông không những là một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao mà còn là một đại thi hào của nền văn học Việt Nam ta.Tác phẩm của ông cũng đồng số phận , cuộc đời , gian nan mà ông từng trải.Sau khi ông mất , nhiều tác phẩm từng bị ra lệnh tiêu hủy.Sau 20 năm , Lê Thánh Tông truyền lệnh sưu tầm tác phẩm của ông , nhưng rồi lại bị thất tán.Mãi đến đầu thế kỉ XIX mới tìm lại được và nửa cuối thế kỉ XIX mới được khắc in . Ông đã để lại cho kho tàng văn học nhiều tác phẩm có giá trị : về quân sự và chính trị , Nguyễn Trãi có " Quân trung từ mệnh tập" 

gồm những thư từ và giấy tờ giao thiệp với giặc Minh và triều đình nhà Lê.

"Bình ngô đại cáo " là áng " thiên cổ hùng văn " trong lịch sử , tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỉ nguyên mới cho nước nhà ... Về lịch sử có " Lam Sơn thực lục " là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và " Dư địa chí " viết về địa lý nước ta lúc bấy giờ.Về văn học, Nguyễn Trải có " Ức trai thi tập , Quốc Âm thi tập , " . " Quốc Âm thi tập " được viết bằng chữ nôm, đánh dấu sự hình thành của nền thơ ca Tiếng Việt.Ông là người đứng đầu trong sự nghiệp khởi nghĩa dòng thơ Nôm trong hàng nghìn , vạn văn chương chữ Hán dày đặc đương thời.

Ngoài ra thơ văn của ông còn thấm nhuần tư tưởng nhân nghịa , triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên , nổi bật trong thơ văn Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước , thương dân.Yêu nước gắn với thương dân, việc nhân nghĩa nhằm làm cho nhân dân được sống yên ổn - đó là tư tưởng chủ đạo suốt đời của Nguyễn Trãi.Thơ Nguyễn Trãi thể hiện những triết lí thế sự sâu sắc mà giản dị ,những trải nghiệm đau đớn về cuộc đời. Và trong thơ của ông còn tràn đầy tình yêu thiên nhiên , đối với ông thiên nhiên là bầu bạn , là gia đình ruột thịt.

Thơ văn Nguyễn Trãi là đỉnh cao chói lọi trong nền văn học dân tộc , ông là nhà văn có nhiều cống hiến to lớn cho văn học đất nước, cùng với các bài chiếu ,biểu , lục , ông đã xây đắp nền móng văn hóa tư tưởng cho dân tộc. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là một thế giới thẩm mĩ phong phú , vừa trữ tình , trí tuệ, vừa hào hùng , lãng mạn . Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người tiên phong , để lại tập thơ xưa nhất và nhiều bài nhất .Đó là những bài thơ giàu trì tuệ , sâu sắc , thấm dẫm trỉ nghiệm về cuộc đời , được việt bằng ngôn ngữ tinh luyện trong sáng , đăng đối một cách cổ điển. Nguyễn Trãi là nhà thơ đã sớm đưa tục ngữ vào tác phẩm , ông cũng là người đã sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một hình thức khác với Đường Luật.Có thể nói Nguyễn Trãi là một nhân vật tài đức có đủ , trí dũng song toàn trong lịch sự Việt Nam thời phong kiến.

Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa lỗi lac và cũng là người có số phận bi thương nhất trong lịch sử VN. ông chẳng những góp phần viết nên các trang hào hùng trong lịch sử giữ nước mà còn góp phần xây đắp nền móng vững chãi cho văn học dân tộc. Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân , gắn bó thiết tha với cảnh vật thiên nhiên đất nước, thể hiện tình yêu ngôn từ Việt nồng thắm.Năm 1980,Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục , Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới 

IV.

Trong suốt 4000 năm chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, sử sách ta đã ghi dấu rất nhiều vị anh hùng dân tộc có cống hiến to lớn cho nền phồn thịnh của nước nhà,và một trong những ngôi sao sáng rực rỡ trên bầu trời văn hóa của những người con đất Việt chính là nhà quân sự,chiến lược gia đại tài,đại văn hào Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi không những được người người khâm phục ở tài năng quân sự mà còn vì ông là một con người tận trung ái quốc , yêu mến quê hương đất nước thiết tha.Văn võ song toàn ,cống hiến suốt đời và đóng góp to lớn cho sự nghiệp cứu và dựng nước , đáng là bậc anh hùng của nước nhà.Với những chiến lược quân sự tài ba , lời lẽ chau chuốt của một nhà ngoại giao chính trị , lời văn mượt mà tha thiết của một nhà văn hóa , Nguyễn Trãi đáng là một đại văn hào của dân tộc.Tuy nhiên,cũng giống như bao bậc hiền triết nổi tiếng khác của nhân loại,số mệnh của ông cũng phải gắn liền với hai câu thơ bất hủ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du:

“Có tài mà cậy chi tài

Chữ tài liền với chữ tai một vần”

Nguyễn Trãi tên hiệu là Ức Trai,sinh năm 1380 và mất năm 1442 , quê ở Nhị Kê ( Hà Tây ) , song thân là Nguyễn Phi Khánh và Trần Nguyên Đán thuộc dòng dõi quý tộc.Nguyễn trải sống vào thời đại nước nhà đang có nhiều biến động dữ dội nên cuộc đời của ông cũng gặp phải lắm gian truân ,khi ông lên 5 tuổi thì mẹ qua đời , 10 tuổi thì mất ông ngoại. Ông đỗ Thái học sinh vào năm 20 tuổi,làm quan chưa được bao lâu thì đất nước gặp phải cảnh binh đao loạn lạc.Năm 1407 , giặc Minh tràn sang cướp nước ta, phụ thân ông là Nguyễn Phi khánh bị bắt sang Trung Quốc.Lúc đầu Nguyễn Trãi kiên quyết một mực đi theo chăm sóc cha cho trọn vẹn chữ “Hiếu” nhưng về sau khi được cha ông nhiều lần khyên nhủ, Nguyễn Trải đành nén đau thương từ biệt cha già trở về quê hương và tìm theo phò tá Lê Lợi, góp đại công vào chiến thắng hiển hách của dân tộc sau hơn 10 năm chiến đấu.

Sau khi đất nước sạch bóng quân thù, khắp nơi thiên hạ thái bình thịnh trị , Nguyễn Trãi trở thành một trong những vị Khai Quốc Công Thần đầu tiên giúp nhà vua dựng nước, nhưng về sau ông đã gặp phải một biến cố khiến cho lòng tin của Lê Thái Tổ đối với ông bị giảm sút, không muốn nghe những lời đàm tiếu không hay về mình, ông đành cáo lão về Côn Sơn ở ẩn nhưng trong lòng không lúc nào là không lo cho sự yên ấm của trăm họ

Đến năm 1440 Lê Thái Tông mời ông ra giao việc lớn ,ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ án oan Trái Vãi ( Lệ Chi Viên - Bắc Ninh ) vụ án oan nổi tiếng nhất trong suốt lịch sử của dân tộc ta.Năm đó nhà vua nhân dịp vi hành đã tá túc tại nhà của Nguyễn Trãi thì không may bị chết đột ngột, bọn gian thần vu oan cho ông âm mưu giết vua , khép tội chu vi tam tộc ( 1442 ) và hơn 20 năm sau ( 1464 ) Lê Thánh Tông mới giải tỏa nỗi oan này cho Nguyễn Trãi.Nhà vua cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai còn sống sót của Nguyễn Trãi phục hồi chức quan.

Nguyễn Trãi là một tài năng lỗi lạc, ông không những là một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao mà còn là một đại thi hào của nền văn học Việt Nam ta.Tác phẩm của ông cũng đồng số phận , cuộc đời , gian nan mà ông từng trải.Sau khi ông mất , nhiều tác phẩm từng bị ra lệnh tiêu hủy.Sau 20 năm , Lê Thánh Tông truyền lệnh sưu tầm tác phẩm của ông , nhưng rồi lại bị thất tán.Mãi đến đầu thế kỉ XIX mới tìm lại được và nửa cuối thế kỉ XIX mới được khắc in . Ông đã để lại cho kho tàng văn học nhiều tác phẩm có giá trị : về quân sự và chính trị , Nguyễn Trãi có " Quân trung từ mệnh tập"gồm những thư từ và giấy tờ giao thiệp với giặc Minh và triều đình nhà Lê.Ngoài ra còn phải kể đến tác phẩm"Bình ngô đại cáo " là án thiên cổ hùng văn " trong lịch sử , tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỉ nguyên mới cho nước nhà ... Về lục sử có " Lam Sơn thực lục " là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và " Dư địa chí " viết về địa lý nước ta lúc bấy giờ.Về văn học, Nguyễn Trải có " Ức trai thi tập , Quốc Âm thi tập , " . " Quốc Âm thi tập " được viết bằng chữ nôm, đánh dấu sự hình thành của nền thơ ca Tiếng Việt.Ông là người đứng đầu trong sự nghiệp khởi nghĩa dòng thơ Nôm trong hàng nghìn , vạn văn chương chữ Hán dày đặc đương thời.

Thơ văn của ông thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa , triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên , nổi bật trong thơ văn Nguyễn Trãi là tư tưởng mang nội dung yêu nước , thương dân.Yêu nước gắn với thương dân, việc nhân nghĩa nhằm làm cho nhân dân được sống yên ổn - đó là tư tưởng suốt một đời của Nguyễn Trãi.Thơ Nguyễn Trãi thể hiện những triết lí thế sự sâu sắc mà giản dị ,những trải nghiệm đau đớn về cuộc đời. Và trong thơ ca của ông còn tràn đầy tình yêu thiên nhiên , đối với ông thiên nhiên là tri kỹ, là gia đình ruột thịt.

Thơ văn Nguyễn Trãi đạt mốc đỉnh cao chói lọi trong nền văn học dân tộc , ông là nhà văn có nhiều cống hiến to lớn cho văn học đất nước, cùng với các bài chiếu ,biểu , lục , ông đã xây đắp nền móng văn hóa tư tưởng cho dân tộc. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là một thế giới thẩm mĩ phong phú , vừa trữ tình , trí tuệ, vừa hào hùng , lãng mạn . Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người tiên phong , để lại tập thơ xưa nhất và nhiều bài nhất .Đó là những bài thơ giàu trì tuệ , sâu sắc , thấm dẫm trỉ nghiệm về cuộc đời , được việt bằng ngôn ngữ tinh luyện trong sáng , đăng đối một cách cổ điển. Nguyễn Trãi là nhà thơ đã sớm đưa tục ngữ vào tác phẩm , ông cũng là người đã sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một hình thức khác với Đường Luật.Có thể nói Nguyễn Trãi là một nhân vật tài đức có đủ , trí dũng song toàn trong lịch sự Việt Nam thời phong kiến.

Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa lỗi lac và cũng là người có số phận bi thương trong lịch sử Việt Nam. ông chẳng những góp phần viết nên các trang hào hùng trong lịch sử giữ nước và dựng nước mà còn chính là người tiên phong trong việc đặt những viên gạch đầu tiên cho nền móng vững chãi của văn học nước nhà.Suốt cuộc đời mình Nguyễn Trãi luôn nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân , gắn bó thiết tha với cảnh vật thiên nhiên đất nước, thể hiện tình yêu ngôn từ Việt nồng thắm.Năm 1980,Nguyễn Trãi chính thức được tổ chức Giáo dục , Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.

NGUYỄN DU

I.

Nguyễn Du

 sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tức ngày 3/1/1866 ở kinh thành Thăng Long trong một gia đình quý tộc lớn. Thân sinh ông là Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), làm quan đến tham tụng (tể tướng) tước Xuân quận công triều Lê. Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, quê Kinh Bắc, đẹp nổi tiếng. 13 tuổi lại mồ côi mẹ, ông phải ở với người anh là Nguyễn Khản. Đời sống của người anh tài hoa phong nhã, lớn hơn ông 31 tuổi này rất có ảnh hưởng tới nhà thơ. 

Nguyễn Du là nhà thơ sống hết mình, tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể hiện rõ nhất qua áng văn chương tuyệt vời là Truyện Kiều

Sự thăng tiến trên đường làm quan của Nguyễn Du khá thành đạt. Nhưng ông không màng để tâm đến công danh. Trái tim ông đau xót, buồn thương, phẫn nộ trước “những điều trông thấy” khi sống lưu lạc, gần gũi với tầng lớp dân đen và ngay cả khi sống giữa quan trường. Ông dốc cả máu xương mình vào văn chương, thi ca. Thơ ông là tiếng nói trong trái tim mình. Đấy là tình cảm sâu sắc của ông đối với một kiếp người lầm lũi cơ hàn, là thái độ bất bình rõ ràng của ông đối với các số phận con người. Xuất thân trong gia đình quý tộc, sống trong không khí văn chương bác học, nhưng ông có cách nói riêng, bình dân, giản dị, dễ hiểu, thấm đượm chất dân ca xứ Nghệ.

Về văn thơ nôm, các sáng tác của ông có thể chia thành 3 giai đoạn. Thời gian sống ở Tiên Điền – Nghi Xuân đến 1802, ông viết “Thác lời trai phường nón Văn tế sống 2 cô gái Trường Lưu”. Đây là 2 bản tình ca thể hiện rất rõ tâm tính của ông, sự hoà biểu tâm hồn tác giả với thiên nhiên, với con người. Ba tập thơ chữ Hán thì "Thanh hiên thi tập" gồm 78 bài, viết lúc ở Quỳnh Côi và những năm mới về Tiên Điền, là lời trăn trở chốn long đong, là tâm sự, là thái độ của nhà thơ trước cảnh đời loạn lạc. Sau 1809, những sáng tác thơ của ông tập hợp trong tập “Nam Trung Tạp Ngâm” gồm 40 bài đầy cảm hứng, của tâm sự, nỗi niềm u uất. 

Truyện Kiều được Nguyễn Du chuyển dịch, sáng tạo từ cuốn tiểu thuyết “Truyện Kim Vân Kiều" của Thanh Tâm Tài Nhân, tên thật là Tử Văn Trường, quê ở huyện Sơn Am, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Truyện Kiều đã được nhân dân ta đón nhận một cách say sưa, có nhiều lúc đã trở thành vấn đề xã hội, tiêu biểu là cuộc tranh luận xung quanh luận đề "Chánh học và tà thuyết" giữa cụ Nghè Ngô Đức Kế và ông Phạm Quỳnh thu hút rất nhiều người của 2 phía cùng luận chiến. Không chỉ ảnh hưởng sâu sắc trong tầng lớp thị dân, Truyện Kiều còn được tầng lớp trên say mê đọc, luận. Vua Minh Mạng là người đầu tiên đứng ra chủ trì mở văn đàn ngâm vịnh truyện Kiều và sai các quan ở Hàn Lâm Viện chép lại cho đời sau. Đến đời Tự Đức, nhà vua thường triệu tập các vị khoa bảng trong triều đến viết và vịnh Truyện Kiều ở văn đàn, ở Khu Văn Lâu.

Truyện kiều của nguyễn du là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện nôm trong văn học trung đại VN.

ND là kon người có trái tim giàu lòng yêu thương. chính nhà thơ đã từng viết trong Truyện Kiều: "chữ tâm kia mới= 3 chữ tài". Mộng Liên Đường, chủ nhân trong lời tựa Truyện Kiều cũng đề cao tấm lòng của ND:"nếu không có con mắt trông thấy cả 6 cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy".

ND dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh tâm tài nhân (TQ), có bố cục theo 3 phần truyền thống của tác phẩm cổ điển:

p1:Gặp gỡ & đính ước

p2: Gia biến & lưu lạc

p3:Đoàn tụ.

Nhân vật chính là người kon gái tài sắc Thúy Kiều. nhưng phần sáng tạo của ND là rất lớn. Điều này làm nên giá trị của kiệt tác truyện kiều.

về nội dung 

, truyện kiều có 2 giá trị lớn là hiện thực &nhân đạo. tác phẩm đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị & số phận những kon ngừ bị áp bức đau khổ, đặc biệc là số phận bi kịc của ngừ phụ nữ.

TK mang giá trị nhân đạo với những nội dung cơ bản: niềm thương cảm sâu sắc trc những đau khổ của kon ngừ, sự lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo, sự trân trọng, đề cao kon ngừ từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, khát vọng chân chính.

về nghệ thuật 

, TK có những thành tựu lớn về nhìu mặt, nôit bật là ngôn ngữ & thể loại. đến TK, tiếng việt đã đạt đến trình độ đỉnh cao ngôn ngữ nghệ thuật bỉu đạt, biểu cảm& thẩm mĩ, kết hợp giữa ngôn ngữ dân tộc& ngôn ngữ bác học. nghệ thuật tự sự, miêu tả trong tác phẩm thật đa dạng.

Ngày nay, Truyện Kiều vẫn đang được các nhà xuất bản in với số lượng lớn, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh giá cao Truyện Kiều.Kiệt tác TK có sức chinh phục lớn đối với nhìu thế hệ độc giả.

tác phẩm đã đc dịch ra nhiều thứ tiếng & đc giới thịu nhìu nc trên thế giới Dịch giả người Pháp Rơ-Ne-Crir-Sắc khi dịch Truyện Kiều đã viết bài nghiên cứu dài 96 trang, có đoạn viết: "Kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào”. Ông so sánh với văn học Pháp: “Trong tất cả các nền văn chương Pháp không một tác phẩm nào được phổ thông, được toàn dân sùng kính và yêu chuộng bằng quyển truyện này ở Việt Nam". Và ông kết luận: "Sung sướng thay bậc thi sĩ với một tác phẩm độc nhất vô nhị đã làm rung động và ca vang tất cả tâm hồn của một dân tộc". Năm 1965 được Hội đồng Hoà bình thế giới chọn làm năm kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du.

Nguyễn Du là nhà thơ sống hết mình, tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể hiện rõ nhất qua áng văn chương tuyệt vời là Truyện Kiều. Đọc Truyện Kiều ta thấy xã hội, thấy đồng tiền và thấy một Nguyễn Du hàm ẩn trong từng chữ, từng ý. Một Nguyễn Du thâm thuý, trải đời, một Nguyễn Du chan chứa nhân ái, hiểu mình, hiểu đời, một Nguyễn Du nóng bỏng khát khao cuộc sống bình yên cho dân tộc, cho nhân dân.

II.

Hiệu là Tố Như, Thanh Hiên, con Nguyễn Nghiễm, làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (Nghệ Tĩnh) văn chương vượt hẳn bạn bè, nhưng học vị chỉ là tam trường (tú tài). Nguyễn Du gặp nhiều khó khăn hồi con thanh niên. Mười một tuổi mồ côi cha, mười ba tuổi mất mẹ, suốt đời trai trẻ ăn nhờ ở đâu: hoặc ở nhà anh ruột (Nguyễn Khản), nhà anh vợ (Đoàn Nguyễn Tuấn), có lúc làm con nuôi một võ quan họ Hà, và nhận chức nhỏ: chánh thủ hiệu uý. Do tình hình đất nước biến động, chính quyền Lê Trình sụp đổ, Tây Sơn quét sạch giặc Thanh, họ Nguyễn Tiên Điền cũng sa sút tiêu điều: 

"Hồng Linh vô gia, huynh đệ tán".

 Nguyễn Du trải qua 10 năm gió bụi. Năm 1802, ra làm quan với triều Nguyễn được thăng thưởng rất nhanh, từ tri huyện lên đến tham tri (1815), có được cử làm chánh sứ sang Tàu (1813). Ông mất vì bệnh thời khí (dịch tả), không trối trăng gì, đúng vào lúc sắp sửa làm chánh sứ sang nhà Thanh lần thứ hai. 

Nguyễn Du có nhiều tác phẩm. Thơ chữ Hán như 

Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. 

Cả ba tập này, nay mới góp được 249 bài nhờ công sức sưu tầm của nhiều người. Lời thơ điêu luyện, nhiều bài phản ánh hiện thực bất công trong xã hội, biểu lộ tình thương xót đối với các nạn nhân, phê phán các nhân vật chính diện và phản diện trong lịch sử Trung Quốc, một cách sắc sảo. Một số bài như 

Phản chiêu hồn, Thái Bình mại ca giả, Long thành cầm giả ca

 đã thể hiện rõ rệt lòng ưu ái trước vận mệnh con người. Những bài viết về Thăng Long, về quê hương và cảnh vật ở những nơi Nguyễn Du đã đi qua đều toát lên nỗi ngậm ngùi dâu bể. Nguyễn Du cũng có gắn bó với cuộc sống nông thôn, khi với phường săn thì tự xưng là Hồng Sơn liệp hộ, khi với phường chài thì tự xưng là Nam Hải điếu đồ. Ông có những bài ca dân ca như 

Thác lời con trai phường nón, 

bài văn tế như 

Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu,

 chứng tỏ ông đã tham gia sinh hoạt văn nghệ dân gian với các phường vải, phường thủ công ở Nghệ Tĩnh.

Tác phẩm tiêu biểu cho thiên tài Nguyễn Du là 

Đoạn trường tân thanh

 và 

Văn tế thập loại chúng sinh,

 đều viết bằng quốc âm. 

Đoạn trường tân thanh 

được gọi phổ biến là 

Truyện Kiều

, là một truyện thơ lục bát. Cả hai tác phẩm đều xuất sắc, tràn trề tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, phản ánh sinh động xã hội bất công, cuộc đời dâu bể. Tác phẩm cũng cho thấy một trình độ nghệ thuật bậc thầy.

Truyện Kiều 

đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hoá Việt Nam. Nhiều nhân vật trong 

Truyện Kiều

 trở thành điển hình cho những mẫu người trong xã hội cũ, mang những tính cách tiêu biểu Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải, và đều đi vào thành ngữ Việt Nam. Khả năng khái quát của nhiều cảnh tình, ngôn ngữ, trong tác phẩm khiến cho quần chúng tìm đến 

Truyện Kiều

, như tìm một điều dự báo. Bói 

Kiều

 rất phổ biến trong quần chúng ngày xưa. Ca nhạc dân gian có dạng 

Lẩy Kiều.

 Sân khấu dân gian có 

trò Kiều.

 Hội họa có nhiều tranh 

Kiều

. Thơ vịnh 

Kiều

 nhiều không kể xiết. Giai thoại xung quanh

i

 cũng rất phong phú. Tuồng Kiều, cải lương 

Kiều

, phim 

Kiều

 cũng ra đời. Nhiều câu, nhiều ngữ trong 

Truyện Kiều

 đã lẫn vào kho tàng ca dao, tục ngữ. Từ xưa đến nay, 

Truyện Kiều 

đã là đầu đề cho nhiều công trình nghiên cứu, bình luận và những cuộc bút chiến. Ngay khi 

Truyện Kiều

 được công bố (đầu thế kỷ XIX) ở nhiều trường học của các nho sĩ, nhiều văn đàn, thi xã đã có trao đổi về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Đầu thế kỷ XX, cuộc tranh luận về 

Truyện Kiều

 càng sôi nổi, quan trọng nhất là cuộc phê phán của các nhà chí sĩ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng phản đối phong trào cổ xuý Truyện Kiều do Phạm Quỳnh đề xướng (1924).

Năm 1965, Nguyễn Du chính thức được nhà nước làm lễ kỷ niệm, Hội đồng hoà bình thế giới ghi tên ông trong danh sách những nhà văn hoá thế giới. Nhà lưu niệm Nguyễn Du được xây dựng ở làng quê ông xã Tiên Điền. Trường viết văn để đào tạo những cây bút mới mang tên ông.

III.

1. Yêu cầu của đề bài

Về nội dung: 

Đề bài yêu cầu thuyết minh về một tác gia và một tác phẩm nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam – Nguyễn Du và “Truyện Kiều”. Trước hết, chúng ta cần nêu được những nét tiêu biểu về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Du. Sau đó, chúng ta thuyết minh kiệt tác “Truyện Kiều” trên các phương diện: nguồn gốc, thể loại, tóm tắt, giá trị tư tưởng và nghệ thuật,…

Về cách thức làm bài:

 Chúng ta vận dụng kết hợp các phương pháp thuyết minh như: phương pháp định nghĩa, phương pháp phân loại, phương pháp so sánh,… Về kết cấu, bài văn nên được kết cấu theo trình tự logic: lần lượt thuyết minh về nhân thế và sự nghiệp của Nguyễn Du, nguồn gốc , thể loại, tóm tắt, giá trị nội dung và nghệ thuật của “Truyện Kiều”. Chúng ta nên kết hợp thuyết minh và biểu cảm để bài văn thêm sinh động.

2. Gợi ý lập dàn bài

Mở bài

Giới thiệu tác gia Nguyễn Du: là đại thi hào dân tộc , là danh nhân văn hóa thế giới.

Giới thiệu về “Truyện Kiều”: là kiệt tác của Nguyễn Du, là tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.

Thân bài

a. Giới thiệu về tác gia Nguyễn Du:

Cuộc đời:

+ Tên, hiệu, năm sinh năm mất: tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765), mất năm Canh Thìn (1820).

+ Quê hương: quê cha ở Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà TĨnh; quê mẹ ở Bắc Ninh, nhưng ông lại được sinh ra ở Thăng Long. Nhờ đó, Nguyễn Du dễ dàng tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn hóa.

+ Gia đình: đại quý tộc, nhiều đời làm quan to, có truyền thống làm thơ văn và say mê ca kĩ.

+ Thời đại: sinh ra và lớn lên trong thời kì lịch sử đầy biến động dữ dội của xã hội phong kiến.

+ Cuộc đời: đầy bi kịch, Nguyễn Du sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải ở với anh trai là Nguyễn Khản. Gia đình tan tác, bản thân ông cũng đã từng lưu lạc “mười năm gió bụi” ở quê vợ Thái Bình. Nhưng chính những cơ cực, vất vả đó đã hun đúc cho ông vốn sống quý giá, và sự am hiểu sâu sắc vốn văn hóa dân gian.

+ Nguyễn Du làm quan dưới hai triều Lê và Nguyễn. Ông là vị quan thanh liêm, được nhân dân tin yêu, quý trọng.

Sự nghiệp văn học đồ sộ với những kiệt tác ở nhiều thể loại:

+ Các tác phẩm văn học của Nguyễn Du: thơ chữ Hán, Nguyễn Du có 3 tập thơ (Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục). Thơ chữ Nôm, Nguyễn Du có hai kiệt tác “Truyện Kiều” và “Văn tế thập loại chúng sinh”.

+ Nội dung:

Thơ văn Nguyễn Du có giá trị hiện thực sâu sắc, phản ánh chân thực cuộc đời cơ cực của ông nói riêng, và xã hội đen tối, bất công nói chung.

Tác phẩm của Nguyễn Du chứa chan tinh thần nhân đạo – một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, luôn hướng tới đồng cảm, bênh vực, ngợi ca và đòi quyền sống cho con người, đặc biệt là người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh.

+ Nghệ thuật:

Về thể loại: Nguyễn Du đã đưa hai thể thơ của truyền thống dân tộc đạt đến trình độ điêu luyện và mẫu mực cổ điển. Nguyễn Du đã tiểu thuyết hóa thể loại truyện Nôm, với điểm nhìn trần thuật từ bên trong nhân vật, và nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế, sâu sắc.

Về ngôn ngữ: Nguyễn Du đã có đóng góp to lớn, làm cho ngôn ngữ Tiếng Việt trở nên trong sáng, tinh tế và giàu có.

Nguyễn Du đã có những đóng góp to lớn, thúc đẩy tiến trình phát triển của văn học Việt Nam.

b. Giới thiệu về “Truyện Kiều”

Tên gọi: Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới đứt ruột).

Dung lượng: 3254 câu thơ lục bát.

Nguồn gốc: “Truyện Kiều” được sáng tác dựa theo cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” – tiểu thuyết chương hồi của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Nguyễn Du đã “hoán cốt đoạt thai” tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, và đem lại cho “Truyện Kiều” những sáng tạo mới mẻ cả về nội dung và nghệ thuật.

Thể loại: truyện Nôm bác học.

Tóm tắt:

Giá trị tư tưởng:

+ Thể hiện khát vọng về tình yêu tự do và ước mơ công lí.

+ Là tiếng kêu thương đến đứt ruột cho thân phận con người, đặc biệt là người phụ nữ tài sắc trong xã hội phong kiến.

+ Là bản cáo trạng đanh thép tội ác của các thế lực đen tối trong xã hội cũ. Nguyễn Du phê phán mạnh mẽ sự “lên ngôi” của thế lực đồng tiền.

+ Là bức chân dung tinh thần tự họa của Nguyễn Du, với “con người mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”, trái tim chan chứa tình yêu thương con người.

Giá trị nghệ thuật:

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật

+ Nghệ thuật tự sự mới mẻ

+ Thể loại

+ Ngôn ngữ trong sáng, điêu luyện, giàu sức gợi tả gợi cảm; ẩn dụ, điển cố,…

+ Giọng điệu cảm thương rất phù hợp với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết của Nguyễn Du.

Kết bài 

Khẳng định tấm lòng tài năng của Nguyễn Du và sức sống bất diệt của “Truyện Kiều”

II. Bài tham khảo

Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tức ngày 3/1/1866 ở kinh thành Thăng Long trong một gia đình quý tộc lớn. Thân sinh ông là Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), làm quan đến tham tụng (tể tướng) tước Xuân quận công triều Lê. Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, quê Kinh Bắc, đẹp nổi tiếng. 13 tuổi lại mồ côi mẹ, ông phải ở với người anh là Nguyễn Khản. Đời sống của người anh tài hoa phong nhã, lớn hơn ông 31 tuổi này rất có ảnh hưởng tới nhà thơ. 

Nguyễn Du là nhà thơ sống hết mình, tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể hiện rõ nhất qua áng văn chương tuyệt vời là Truyện Kiều

Sự thăng tiến trên đường làm quan của Nguyễn Du khá thành đạt. Nhưng ông không màng để tâm đến công danh. Trái tim ông đau xót, buồn thương, phẫn nộ trước “những điều trông thấy” khi sống lưu lạc, gần gũi với tầng lớp dân đen và ngay cả khi sống giữa quan trường. Ông dốc cả máu xương mình vào văn chương, thi ca. Thơ ông là tiếng nói trong trái tim mình. Đấy là tình cảm sâu sắc của ông đối với một kiếp người lầm lũi cơ hàn, là thái độ bất bình rõ ràng của ông đối với các số phận con người. Xuất thân trong gia đình quý tộc, sống trong không khí văn chương bác học, nhưng ông có cách nói riêng, bình dân, giản dị, dễ hiểu, thấm đượm chất dân ca xứ Nghệ.

Về văn thơ nôm, các sáng tác của ông có thể chia thành 3 giai đoạn. Thời gian sống ở Tiên Điền – Nghi Xuân đến 1802, ông viết “Thác lời trai phường nón Văn tế sống 2 cô gái Trường Lưu”. Đây là 2 bản tình ca thể hiện rất rõ tâm tính của ông, sự hoà biểu tâm hồn tác giả với thiên nhiên, với con người. Ba tập thơ chữ Hán thì "Thanh hiên thi tập" gồm 78 bài, viết lúc ở Quỳnh Côi và những năm mới về Tiên Điền, là lời trăn trở chốn long đong, là tâm sự, là thái độ của nhà thơ trước cảnh đời loạn lạc. Sau 1809, những sáng tác thơ của ông tập hợp trong tập “Nam Trung Tạp Ngâm” gồm 40 bài đầy cảm hứng, của tâm sự, nỗi niềm u uất. 

Truyện Kiều được Nguyễn Du chuyển dịch, sáng tạo từ cuốn tiểu thuyết “Truyện Kim Vân Kiều" của Thanh Tâm Tài Nhân, tên thật là Tử Văn Trường, quê ở huyện Sơn Am, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Truyện Kiều đã được nhân dân ta đón nhận một cách say sưa, có nhiều lúc đã trở thành vấn đề xã hội, tiêu biểu là cuộc tranh luận xung quanh luận đề "Chánh học và tà thuyết" giữa cụ Nghè Ngô Đức Kế và ông Phạm Quỳnh thu hút rất nhiều người của 2 phía cùng luận chiến. Không chỉ ảnh hưởng sâu sắc trong tầng lớp thị dân, Truyện Kiều còn được tầng lớp trên say mê đọc, luận. Vua Minh Mạng là người đầu tiên đứng ra chủ trì mở văn đàn ngâm vịnh truyện Kiều và sai các quan ở Hàn Lâm Viện chép lại cho đời sau. Đến đời Tự Đức, nhà vua thường triệu tập các vị khoa bảng trong triều đến viết và vịnh Truyện Kiều ở văn đàn, ở Khu Văn Lâu.

Truyện kiều của nguyễn du là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện nôm trong văn học trung đại VN.

ND là con người có trái tim giàu lòng yêu thương. chính nhà thơ đã từng viết trong Truyện Kiều: "chữ tâm kia mới bằng 3 chữ tài". Mộng Liên Đường, chủ nhân trong lời tựa Truyện Kiều cũng đề cao tấm lòng của ND:"nếu không có con mắt trông thấy cả 6 cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy".

ND dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh tâm tài nhân (TQ), có bố cục theo 3 phần truyền thống của tác phẩm cổ điển:

P1: Gặp gỡ & đính ước

P2: Gia biến & lưu lạc

P3: Đoàn tụ.

Nhân vật chính là người kon gái tài sắc Thúy Kiều. nhưng phần sáng tạo của ND là rất lớn. Điều này làm nên giá trị của kiệt tác truyện kiều.

Về nội dung, truyện kiều có 2 giá trị lớn là hiện thực và nhân đạo. tác phẩm đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận những con ngừơi bị áp bức đau khổ, đặc biệc là số phận bi kịch của người phụ nữ.

Truyện Kiều mang giá trị nhân đạo với những nội dung cơ bản: niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người , sự lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo, sự trân trọng, đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, khát vọng chân chính.

Về nghệ thuật, TK có những thành tựu lớn về nhiều mặt, nổi bật là ngôn ngữ & thể loại. Đến TK, tiếng việt đã đạt đến trình độ đỉnh cao ngôn ngữ nghệ thuật biểu đạt, biểu cảm& thẩm mĩ, kết hợp giữa ngôn ngữ dân tộc& ngôn ngữ bác học. nghệ thuật tự sự, miêu tả trong tác phẩm thật đa dạng.

Ngày nay, Truyện Kiều vẫn đang được các nhà xuất bản in với số lượng lớn, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh giá cao Truyện Kiều.Kiệt tác TK có sức chinh phục lớn đối với nhiều thế hệ độc giả.

tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng & được giới thịệu nhiều nước trên thế giới Dịch giả người Pháp Rơ-Ne-Crir-Sắc khi dịch Truyện Kiều đã viết bài nghiên cứu dài 96 trang, có đoạn viết: "Kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào”. Ông so sánh với văn học Pháp: “Trong tất cả các nền văn chương Pháp không một tác phẩm nào được phổ thông, được toàn dân sùng kính và yêu chuộng bằng quyển truyện này ở Việt Nam". Và ông kết luận: "Sung sướng thay bậc thi sĩ với một tác phẩm độc nhất vô nhị đã làm rung động và ca vang tất cả tâm hồn của một dân tộc". Năm 1965 được Hội đồng Hoà bình thế giới chọn làm năm kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du.

Nguyễn Du là nhà thơ sống hết mình, tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể hiện rõ nhất qua áng văn chương tuyệt vời là Truyện Kiều. Đọc Truyện Kiều ta thấy xã hội, thấy đồng tiền và thấy một Nguyễn Du hàm ẩn trong từng chữ, từng ý. Một Nguyễn Du thâm thuý, trải đời, một Nguyễn Du chan chứa nhân ái, hiểu mình, hiểu đời, một Nguyễn Du nóng bỏng khát khao cuộc sống bình yên cho dân tộc, cho nhân dân.

TRƯƠNG HÁN SIÊU

Trương Hán Siêu không chỉ là một bậc danh sĩ đời Trần mà còn người tài cao, học rộng.Hiện ông còn để lại 4 bài thơ và 3 bài văn, nổi tiếng nhất là "Bạch Đằng giang phú“-1 tác phầm mang đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại VN.

Trong thơ văn cổ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng như:“Bạch Đằng giang”-Trần Minh Tông,“Bạch Đằng giang”-Nguyễn Sưởng, “Bạch Đằng hải khẩu”-Nguyễn Trãi… nhưng”Bạch Đằng giang phú”cũa Trương Hán Siêu được xếp vào hạng kiệt tác và được viết vào khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên thắng lợi.Bài phú này mang những đặc trưng cơ bản của thể phú,vì thế nó gồm có 4 phần: phần mở,phần giải thích,phần bình luận và phần kết.

Mở đầu bài phú,tg bày tỏ ước muốn được đi đây, đi đó để thưởng ngoạn và ngắm vẻ đẹp của quê hương, đất nước.

“Khách có kẻ

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.”

Tg đã liệt kê 1 loạt những địa danh nổi tiếng,những nơi có vẻ đẹp được nhiều người biết đến ở Trung Quốc như:Vũ Huyệt,Cửu Giang,Ngũ Hồ, Tam Ngô,Bách Việt... Đây là cách nói ước lệ tượng trưng tác giả bày tỏ niềm khao khát mãnh liệt được đi du ngoạn nhiều nơi để ngắm cảnh, để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước ta.

Ở phần tiếp theo,ta lại thấy cảnh sông Bạch Đằng qua lời miêu tả của nhân vật khách một bức tranh sinh động,giản dị:

“Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu

Nước trời một sắc

Phong cảnh ba thu.”

Thông qua 1 loạt những từ láy gợi hình,kết hợp với việc nhắc đến những địa danh gắn liền với sông Bạch Đằng.Tg đã gợi cho người đọc vẻ đẹp hùng vĩ,bát ngát mênh mông của sông Bạch Đằng. Đồng thời tg cũng bày tỏ được cảm xúc của mình khi đứng trước 1 nhân chứng ls khi nhớ về quá khứ oanh liệt.

“Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”

Hơn thế nữa,ta còn thấy được hào khí của quân ta trong trận chiến Bạch Đằng thông qua lời kể của các bô lão thật hào hùng và lớn mạnh qua phần bình:

“Thuyền bè muôn đội,tinh kỳ phấp phới,

Hùng hổ sáu quân,giáo gươm sáng chói.”

“Khác nào như khi xưa:

Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”

Qua đó,ta thấy được những chiến công vĩ đại ấy được kể bằng giọng văn gấp gáp,khẩn trương, tái hiện được khí thế hào hùng,mang âm hưởng của bản anh hùng ca tràn đầy niềm tự hào. Lời kể của các bô lão đã nhấn mạnh được chiến thắng vẻ vang của quân dân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thù.

Từ đó,tg còn bàn về nguyên nhân của cuộc thắng lợi:

“Quả là:Trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.”

Theo các bô lão,thì nhân dân ta chiến thắng không chỉ nhờ địa thế hiểm trở mà còn có nhiều người tài.1 trong những nhân tài kiệt xuất thời bấy giờ là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

Cuối cùng,tg kết thúc bài phú bằng 2 lời ca. Đầu tiên là lời của các bô lão :

“Sông Đằng 1 dải dài ghê,

Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông.

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.”

Những lời ca của bô lão cũng khẳng định được 1 triết lý vững chắc:người bất nghĩa sẽ bị diệt vong,còn anh hùng thì sẽ được lưu danh muôn thuở

Không những thế, đến đây,khách cũng nối tiếp mà ca ngợi rằng:

“Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thăng bình.

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.”

Tg đã ca ngợi sự anh minh của vua Trần-là người có đức cao,luôn đặt quyền lợi của quốc gia lên trên quyền lợi của cá nhân.Như vậy,ta có thể thấy được nguyên nhân thắng lợi của quân ta phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố,trong đó vẫn không thể thiếu được những nhân tài và người lãnh đạo có đức cao luôn biết lo cho dân,cho nước…

Qua những hoài niệm về quá khứ, “Bạch Đằng giang phú” đã thể hiện lòng yêu nước,niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất,truyền thống đạo lý nhân nghĩa ngàn đời của dân tộc Việt Nam.Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai trò,vị trí của con người trong lịch sử.

Nhìn trở lại toàn bộ bài phú,ta thấy “Bạch Đằng giang phú”là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.Tác giả đã kể,miêu tả về cảnh sông Bạch Đằng,thiên nhiên 1 cách sinh động,chân thật,có tính trữ tình cao,xen lẫn với lời kể là những cảm xúc,những hoài niệm về quá khứ oanh liệt. Bài phú mang đậm chất sử thi hoành tráng sử dụng nhiều điển tích, điển cố chọn lọc,giàu sức gợi,những câu văn ngắn dài,phần cuối xen vào những câu thơ làm nên âm điệu hào hùng và rất trữ tình cho tác phẩm.Với nghệ thuật sắp xếp ngôn từ gây âm hưởng đa dạng, vừa khoan thai thoắt đã trở nên gấp gáp, rồi lại trở lại khoan thai, và cả bằng sự sinh động của nhịp điệu... mấy trăm năm qua bài phú đã chiếm lĩnh trọn vẹn tâm hồn người đọc.

Đây là tác phẩm không chỉ nổi tiếng thời Trần mà còn là 1 trong những bài phú viết bằng chữ Hán hay vào bậc nhất nước ta thời trung đại.Bài phú chứa chan lòng tự hào dt,vừa đọng 1 nỗi đau hoài cổ và có tư tưởng triết lý sâu sắc. Sau khi đọc xong tác phẩm,ta có thể khẳng định rằng “Phú sông Bạch Đằng” là đình cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại VN

II.

Trương Hán Siêu

 là một nhân vật lớn đời Trần. Ông tên chữ Lăng Phủ, quê ở làng Phúc Am, huyện An Khánh, Ninh Bình. Trương Hán Siêu lúc trẻ làm môn khách của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, tham gia cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba. Ông làm quan trải qua bốn triều vua Trần (Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông). Trương Hán Siêu là một người học vấn uyên bác, thông hiểu sâu sắc đạo Nho, đạo Phật, lại giàu lòng yêu nước và có nhiều công lao đối với triều Trần, vì vậy ông được các vua Trần tôn kính, xem như bậc thầy. 

Năm 1308, vua Trần Anh Tông phong ông làm Hàn Lâm học sĩ. Đời Minh Tông ông giữ chức Hành khiển. Đời Trần Dụ Tông, năm 1339, ông làm Hữu ti Lang trung ở Môn hạ. Đời Trần Dụ Tông đổi sang Tả Tư Lang kiêm chức Kinh Lược sứ ở Lạng Giang, năm 1345 ông được thăng chức Gián nghị Đại phu tham chính sự. Ông được vua Dụ Tông sai cùng với Nguyễn Trung Ngạn hợp soạn bộ "Hoàng Triều Đại Điển" và bộ "Hình Luật Thư". Năm 1351, ông được phong Tham tri Chính sự.

Năm 1353, ông lãnh chiếu chỉ ra trấn nhậm Hoá Châu (Huế), sai người xây thành đắp luỹ, lập kế chống quân Chiêm. Năm 1354, ông cáo bệnh xin nghỉ nhưng trên đường về Bắc chưa kịp đến nhà thì mất, sau được truy tặng Thái phó và cho phối thờ ở Văn Miếu, Thăng Long.

Sau khi mất, Trương Hán Siêu được truy tặng chức Thái phó và được đưa vào thờ tại Văn Miếu ngang với các bậc hiền triết xưa. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam vào giai đoạn nửa sau thế kỷ XIV nảy sinh cuộc tranh giành vị trí, ảnh hưởng giữa Nho giáo và Phật giáo mà Trương Hán Siêu được coi là người đầu tiên lên tiếng phê phán đạo Phật, mở đường cho Nho giáo tiến lên. Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài văn “Dục Thuý sơn khắc thạch”,”Linh TẾ Tháp ký”,”Khai Nghiêm tự bi”,”Bạch Đằng giang phú”,…Trong thơ văn cổ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng nhưng”Bạch Đằng giang phú” được xếp vào hạng kiệt tác. Chưa rõ Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang phú”vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá-Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể đoán định được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng 1301-1354.

“Bạch Đằng Giang phú” là một kiệt tác trong văn chương cổ Việt Nam. Về mặt nghệ thuật, đây là tác phẩm thể hiện đỉnh cao của tài hoa viết phú. Về nội dung tư tưởng, Bạch Đằng Giang phú là áng văn tràn đầy lòng yêu nước, tráng chí chất ngất, cùng tinh thần tự hào dân tộc và hàm chứa một triết lý lịch sử sâu sắc khi nhìn nhận nguyên nhân thành công của dân tộc trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước.

“Bạch Đằng giang phú” được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên… đã dịch khá thành công áng văn này. 

Ở Trương Hán Siêu, hành vi ứng xử nổi bật nhất, in đậm vào sử sách, là thái độ gần gũi thiên nhiên, cách ông nhìn ngắm thiên nhiên tạo vật. Về điều này, nếu nói Trương Hán Siêu gắn bó với cảnh trí của đất nước thì không có gì sai nhưng hình như vẫn chưa đủ. Nhà thơ nhà văn Việt Nam xưa nay rất ít người thờ ơ trước vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc: “Nước biếc non xanh thuyền gối bãi/Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu” (Nguyễn Trãi). Trương Hán Siêu cũng thế thôi. Nhưng với ông, trong tình yêu thiên nhiên hình như còn có một điều gì khác hơn, một khao khát thường trực muốn chiếm lĩnh thế giới tự nhiên, nhận biết cho hết mọi tri thức lịch sử - xã hội ẩn ngầm trong ngoại giới. Như chính ông phô bày trong vai một “người khách “ ở bài Bạch Đằng giang phú, hầu như cả một đời, ông đã coi lẽ sống của mình là ngược xuôi tìm đến mọi danh lam thắng cảnh:

“Khách có kẻ, 

Giương buồm giong gió khơi vơi; 

Lướt bể chơi trăng mải miết. 

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương, 

Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt; 

Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt 

Nơi có người qua đâu mà chẳng biết. 

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ đã nhiều 

Mà tráng chí tứ phương vẫn còn tha thiết...”

Cũng có thể nghĩ đấy mới chỉ là những lời tâm niệm của Trương Hán Siêu bởi các địa danh nói trên đều là điển cố trong văn liệu, ông được đọc qua sách vở, hay là thông qua sách vở mà tìm đến chúng chứ chưa chắc đã một lần ghé thăm. Song cũng vì vậy, thiên nhiên như cái đích tìm kiếm của ông dường như có mang một hàm nghĩa thâm thúy: đây là nơi tập kết mọi trải nghiệm văn hóa của con người, và cũng là chứng tích để con người nhìn xa vào lịch sử. Vẫn trong bài phú về sông Bạch Đằng, tiếp theo mấy câu vừa dẫn, ông liền bày tỏ ý nguyện bắt chước “thú tiêu dao” của Tử Trường tức Tư Mã Thiên - nhà viết sử nổi tiếng của Trung Quốc, trước khi bắt tay cầm bút đã đi khắp mọi nơi đầu sông cuối bể nhằm nuôi dưỡng tình cảm và thu nhận kiến thức. 

Ta để ý nếu ở phần trên, các địa danh thực ra đều là ảo - địa danh trong điển tích, không phải trong thực tế - thì đến đây mới là địa danh thực. Nhà thơ đưa ra một cái tên Bạch Đằng chưa hề có trong các pho sách kinh điển nhưng lại hiển hiện trước mắt với tất cả sức thuyết phục của những chiến công vang dội của nó. 

Bạch Đằng giang phú ú là một bài phú lưu thủy, người viết cốt biểu đạt ý tưởng một cách phóng khoáng, tuôn chảy, không quá chú trọng gò gẫm bằng trắc đối xứng và hiệp vần. Nhưng cấu trúc bài phú cũng là cả một dụng công. Bằng sự phân vai khéo léo giữa “khách” và “bô lão” trong nghệ thuật biểu hiện để tạo nên sự đồng hiện về thời gian, bằng cách chuyển đoạn thần tình trong tâm trạng người trần thuật từ bâng khuâng hoài cổ sang cảm xúc bồng bột của người đang chứng kiến sự việc tiếp diễn, bằng nghệ thuật sắp xếp ngôn từ gây âm hưởng đa dạng, vừa khoan thai thoắt đã trở nên gấp gáp, rồi lại trở lại khoan thai, và cả bằng sự sinh động của nhịp điệu... mấy trăm năm qua bài phú đã chiếm lĩnh trọn vẹn tâm hồn người đọc. Đặc biệt, không ít những bậc tự xem là tri âm tri kỷ có thiên hướng muốn đón nhận toàn bộ hình tượng nghệ thuật của bài phú như những đường nét khắc họa chân thực quang cảnh chiến trận Bạch Đằng. 

Nếu để ý ta sẽ thấy bức tranh đằng đằng sát khí của trận Bạch Đằng còn là một đối cực nữa của một bức tranh thủy mạc lặng tĩnh mà tác giả vẽ lên, như đã dẫn ở một phần trước: 

Thiệp Đại Than khẩu / tố Đông Triều đầu, 

Để Bạch Đằng giang / thị phiếm thị phù. 

Tiếp kình ba ư vô tế; 

Trám diêu vĩ chi tương mâu. 

Thủy thiên nhất sắc / phong cảnh tam thu 

Chử địch ngạn lô / sắt sắt sâu sâu 

Chiết kích trầm giang / khô cốt doanh khâu 

Thảm nhiên bất lạc / trữ lập ngưng mâu 

(Qua cửa Đại Than / ngược bến Đông Triều, 

Đến sông Bạch Đằng / nổi trôi mặc chèo. 

Bát ngát sóng kình muôn dặm/ 

Xanh xanh đuôi trĩ một màu. 

Nước trời một sắc / phong cảnh ba thu 

Sông chìm giáo gãy / gò đầy xương khô 

Buồn vì cảnh thảm / đứng lặng giờ lâu

Đây lại là đối cực động-tĩnh giữa hiện tại và quá khứ. Đối cực này đã khiến người đọc như rơi vào trạng thái mơ màng, bâng khuâng, trong khi đuổi theo cái cố gắng “đi tìm thời gian đã mất” của tác giả. Ta chợt tự hỏi: Không hiểu giữa hiện hữu thứ nhất (thực tại tĩnh lặng trước mắt mà cũng là một hụt hẫng trong tâm trạng) và hiện hữu thứ hai (thực tại sống động trong tiềm thức mà cũng là một miên viễn của tưởng tượng) thì hiện hữu nào mới là có thật? Sự vấn vương ở đây có chút gì đó làm lòng ta nặng trĩu khi nghĩ đến dòng chảy của thời gian và thói vô tình dễ quên của người đời. Nói cách khác, những âm hưởng trữ tình đối lập ở trong tác phẩm đã tạo nên một ngân vang sâu thẳm và ngân vang này chính là triết lý: sự sống là một tiếp biến không ngừng không nghỉ, cái đang diễn ra và cái đã đi vào vĩnh cửu cứ đan quyện lấy nhau, mà cái nhân tố có khả năng kết nối làm nên sự đan quyện ấy, khiến cho sợi dây chuyền vô hình nghiệt ngã của thời gian có lúc tưởng như bị đảo ngược: hiện tại không hẳn đã trôi về quá khứ tất cả, mà có phần nào đó còn trôi theo chiều ngược lại, còn có “dấu vết lưu lại” với hậu thế - cái nhân tố ấy là con người, được quyết định bởi con người: 

- Trời đất đặt ra nơi hiểm trở, 

Bậc anh tài tính cuộc tồn an 

- Giặc tan muôn thuở thăng bình, 

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao

Nhìn trở lại toàn bộ bài phú, nghệ thuật phối trí thời gian và không gian của Trương Hán Siêu đã đạt đến chỗ thần tình. Nhà thơ đưa không gian Bạch Đằng từ một viễn cảnh trải rộng và hết sức bao la đến với cận cảnh của một trận thủy chiến dữ dội, và cuối cùng dồn vào một tiêu điểm là chỗ đứng nội tâm của nhà chỉ huy quân sự quyết định sự thắng bại của chiến cuộc, đồng thời cũng chính là đang từ một không gian hiện thực ông quay trở về với không gian hồi cố, không gian tâm tưởng, cùng theo đó, thời gian nghệ thuật cũng đi lùi từ hiện tại về quá vãng. Vậy mà cảm hứng của người đọc lại không bị đẩy lùi bởi dòng hoài niệm, trái lại tiếp nhận nó như chính cái đang diễn ra trước mắt mình. Thủ pháp mờ chồng giữa hai thời đoạn cách quãng trên quang cảnh một con sông, thủ pháp hoán đổi điểm nhìn linh hoạt của tác giả... đã góp phần hóa giải tâm trạng hoài cổ của bài phú, tạo nên một tâm lý cân bằng và gây hứng thú sâu sắc trong cảm xúc thẩm mỹ. 

Tóm lại, bằng lượng thông tin đa nghĩa, những ẩn ngữ phong phú đọng lại phía sau ngôn từ, Bạch Đằng giang phú đã gợi lên được nhiều tiếng nói cùng một lúc trong cảm nhận nhiều chiều của người đọc. Sự dồn nén nghệ thuật của bút pháp Trương Hán Siêu quả đã đến một trình độ bậc thầy. 

Trương Hán Siêu là một danh nhân nổi tiếng của mảnh đất Trường Yên - Ninh Bình, một chứng nhân rõ rệt cho truyền thống văn hóa lâu đời của vùng đất văn vật này. Nhưng ông lại cũng là một nhân vật có tầm thước cả nước, một người con ưu tú của văn hóa Thăng Long dưới triều đại Trần. Ông xứng đáng được xếp vào hàng danh nhân tôn vinh ở Văn miếu Quốc tử giám như nhà Trần đã từng “liệt hạng” xưa kia, mặc dù ông không hề có mảnh bằng nào thông qua thi cử. Điều đó cũng nói lên rằng triều đại Trần có sức năng động lớn vì nó biết chuộng thực học, biết lựa chọn tài năng theo những tiêu chí thực tiễn. Bỏ qua mọi thứ phù danh, với những người như Trương Hán Siêu, nhà Trần đã biết cách làm cho mình trở thành bất tử.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: