Văn hoá Việt Nam có những nét bản sắc nào và ảnh hưởng của chúng đến giao tiếp quốc tế của người Việ
1. Văn hoá Việt Nam có những nét bản sắc nào và ảnh hưởng của chúng đến giao tiếp quốc tế của người Việt Nam?
Truyền thống văn hoá chung của khu vực Đông Á chính là các yếu tố ra đời từ nền văn hoá Trung Hoa cổ điển, trong đó hạt nhân là văn hoá Nho giáo (hay văn hoá Nho gia), một nền văn hoá kỳ vĩ độc đáo được truyền bá rộng rãi ra toàn khu vực Đông Á. Những đặc điểm bản sắc khu vực này vừa là tiền đề tích cực, vừa là cản trở cho quá trình hội nhập và phát triển, nếu như chúng không được nhận thức và phát huy đúng đắn. Mặt tích cực thể hiện đặc biệt rõ ở các quốc gia tiên tiến Đông Á, cụ thể là:
(1) Trong quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, người có truyền thống Nho giáo thường gắn bó mình với tập thể, coi mình là một thành tố (được qui định theo tôn ty!) trong tập thể gia đình, nhà trường và trong các hiệp hội nghề nghiệp. Nhiều khi biết hy sinh quyền lợi của bản thân cho tập thể hay để bảo vệ cộng đồng.
(2) Về thiết chế xã hội, do coi trọng luân lý đạo đức và danh dự, nên người ta thường tôn trọng người ở ngôi vị cao, người lãnh đạo và người chủ gia đình. Ai cũng có thái độ khiêm cung trước những đối tượng trên. Do đó người ta thường túc mệnh, quí trọng tình cảm, tình thân. Sự tin cậy và quí trọng về tình cảm riêng tư này khiến người ta dễ tiếp xúc và cộng tác làm ăn với nhau., thậm chí đôi khi còn không tính đến cả cả thiệt về mình.
(3) Về quan niệm giá trị cốt yếu là ở tập thể, ở cộng đồng, cho nên người ta tôn trọng lợi ích và các thói quen của tập thể, giữ mối quan hệ ràng buộc với tập thể, không muốn mình bị tập thể xa rời vì những hành động và ý kiến riêng. Tóm lại là không thích khác ngươì. Đặc biệt là những người cùng một tập thể không thích tranh luận gay gắt đối lập nhau, lại càng không thích chỉ trích phê bình công khai.
(4) Vì coi trọng tình cảm, người ta không chỉ cộng tác làm ăn với nhau vì lợi, mà còn vì hợp tính tình của nhau, không nỡ cạn tàu ráo máng với nhau. Một người lãnh đạo cũng có thể ra được những quyết định tốt vì thấy quyết định đó giúp cho được một số người nào đó đáng thương hay gặp khó khăn. Trong những khâu dễ vướng mắc nhất của kinh tế thị trường, người ta sẽ vượt qua được nếu biết cách nhẫn nại tiếp cận và có tình cảm với những người có khả năng quyết định. Đặc điểm văn hoá đồng nhất này giải thích vì sao các doanh nghiệp Hàn Quốc hay Singapore, Đài Loan dễ tìm được cơ hội đầu tư và làm ăn ở Việt Nam so với các doanh nghiệp Đức hay nhiều nước châu Âu khác.
Trong lịch sử nghìn năm của dân tộc, đặc biệt là quá trình đổi mới, phất triển kinh tế và hội nhập từ hai mươi năm qua, yếu tố văn hoá truyền thống, tố chất con người Việt Nam đã đóng một vai trò rất quan trọng, xét cả về mặt tích cực và tiêu cực. So với các dân tộc Đông Á khác, tính tích cực thể hiện ở những điểm sau đây:
i. Tính năng động và sáng tạo cá nhân rất cao,
ii. Sự cởi mở, thân thiện và mềm dẻo trong quan hệ con người và quan hệ đối ngoại,
iii. Sự, tinh tế, khéo léo và uyển chuyển của tư duy cũng như của đôi tay ở trình độ hiếm có trên thế giới, thể hiện ở các sản phẩm độc đáo, nhất là về thủ công mỹ nghệ, ở khả năng thương lượng và linh hoạt về giá cả sản phẩm v.v...
iv. Khả năng tiếp thu và "bắt chước" rất nhanh,
v. Tính cộng đồng hay chủ nghĩa tập thể cao, thể hiện ở việc hình thành các "làng nghề", các "phố nghề" - theo cả nghĩa tích cực và tiêu cực...
*Khái niệm về bản sắc dân tộc
Con người sinh ra ở đời, ai cũng có nhu cầu về ăn, mặc, ở ; nhu cầu giao tiếp với cộng đồng; nhu cầu thể hiện tình cảm, suy nghĩ , hành động của mình ttrước thiên nhiên và xã hội.
Do khác nhau về hoàn cảnh lịch sử, địa lý, nòi giống ... nên nhu cầu của con người ở mỗi vùng, mỗi quốc gia có sự khác nhau.
Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Xét về bản chất, lịch sử dân tộc ta ngay từ thời dựng nước là lịch sử không ngừng đấu tranh chống ngoại xâm để dành và giữ nền độc lập, tạo nên phẩm chất cao cả và thiêng liêng nhất của bản sắc văn hoá dân tộc, đó là tinh thần yêu nước thương nòi. Chủ nghĩa yêu nước của văn hoá dân tộc ta không chỉ biểu lộ ở lòng dũng cảm, đức hy sinh mà còn ở tinh thần đoàn kết, nhân ái, yêu thương con người, ý thức bảo vệ nhân phẩm, giữ gìn đạo lý.
Bản sắc văn hoá dân tộc không phải là cái ngưng đọng, bất biến mà luôn phát triển một cách biện chứng theo xu hướng tích lũ, thu nạp những điều tốt đẹp, tiến bộ, sa thải cái xấu, cái lạc hậu không phù hợp với thời đại. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử văn hoá Việt Nam đã vượt qua thế bị động để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm giàu thêm bản sắc của mình.
1.2 Tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của sự phát triển, là linh hồn, sức sống của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong quá ttrình dựng nước và giữ nước, văn học Việt Nam là một thực thể , đồng thời cũng hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam. Nhờ vậy nền văn hoá giàu bản sắc của nước ta đã không bị mai một, đồng hoá.
Hơn 100 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bản sắc văn hoá Việt Nam thật sự là vũ khí tinh thần sắc bén để giác ngộ, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân tập hợp dưới ngọn cờ đại nghĩa. Ngay từ năm 1943 khi chiến tranh thế giơí lần thứ 2 đang diễn ra ác liệt trên khắp thế giới, Đảng ta đã đưa ra đề cương văn hoá với nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng. Không phải ngẫu nhiên mà nguyên tắc dân tộc được đặt lên hàng đầu. Trong hoàn cảnh thời bấy gìơ , dân tộc hoá là vũ khí mầu nhiệm chống lại văn hoá nô dịch để bảo tồn và phát huy ngôn ngữ dân tộc. Lối sống Mỹ, sức mạnh của đồng Đôla đã không thể làm biến dạng tư tưởng, tình cảm của người dân ở các đô thị, nông thôn vùng bị tạm chiếm , bởi " Danh dự sức mạnh độc lập tự do, sức mạnh văn hoá của một nước không thể đo bằng cây số vuông ".
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng mặt trận văn hoá mà cốt lõi của nó là bản sắc văn hoá dân tộc. Hơn 70 năm qua định hướng dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt những văn kiện của Đảng về văn hoá, văn nghệ. Nghị quyết 5 của Ban chấp TW khoá VIII đã đánh dấu bước phát triển mới về đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng. Với phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là " ... xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người "...Có thể nói Nghị quyết 5 là cuốn cảm nâng tinh thần của nhân dân ta bước vào thế kỷ 21 nhằm làm cho văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước.
Trong đời sống quốc tế hiện nay, toàn cầu hoá sản sinh ra các giá trị hiện đại, tạo cho sự phát triển của nền văn hoá, mặt khác nó cũng là thách thức đối với bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc. Nhận diện cho được những phức tạp của toàn cầu hoá trong những biểu hiện của nó thật không đơn giản. Nhà bình luận Friedman thừa nhận " ... trong thời toàn cầu hoá, người ta không biết ai hiện nay là bạn, mai đã nhanh chóng thành kẻ thù. Những cái bắt tay, những nụ cười sảng khoái, những vụ chia tiền hào phóng có thể bất cứ vào lúc nào cũng dễ dàng biến thành sự mỉa mai..". Chính vì vậy nhận thức đúng tình hình, chúng ta sẽ càng tự tin hơn trong các hoạt động sáng tạo, cổ vũ và quảng bá cho các sản phẩm tinh thần chân chính, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
1.3 Bản sắc văn hoá dân tộc trong văn học nghệ thuật
Văn học nghệ thuật là bộ phận cấu thành và rất quan trọng của văn hoá. Thực tiễn cuộc sống và nền văn hoá dân tộc là mảnh đất màu mở làm nảy sinh và nuôi dưỡng văn học nghệ thuật, đến lượt mình văn học nghệ thuật làm phong phú sâu đậm thêm bản sắc dân tộc của văn hoá.
Đối tượng trung tâm của văn học nghệ thuật là con người. Con người bao giờ cũng mang trong mình những phẩm chất văn hoá dân tộc và thời đại đã sản sinh ra nó. Thông qua các tác phẩm văn nghệ chân chính, chúng ta có thể nhận ra tư tưởng, đạo đức, lối sống, tập quán, cách ứng xử, giao tiếp của cộng đồng. Tác phẩm văn nghệ chân chính cũng thể hiện lý tưởng nhân văn tiến bộ: đó là lòng yêu quê hương, đất nước, con người, thiên nhiên, lên án cái xấu, cái ác.
Lịch sử văn nghệ Việt Nam gắn liền với sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước . Nội dung yêu nước trong các tác phẩm văn nghệ gắn liền với quê hương, hồn nước được nuôi dưỡng bằng tình làng, văn hoá làng. Không phải ngẫu nhiên mà người ta đã so sánh tình làng là những dấu son làm nên ngọn cờ đại nghĩa trong " Hịch tướng sĩ", " Cáo Bình Ngô". Dù nhìn nhận như thế nào, người ta cũng không thể quên được chất nhân văn bền vững của văn chương nghệ thuật, xuất phát từ lòng yêu con người , tình cảm gắn bó với thiên nhiên, cộng đồng. Suốt cả ngàn năm binh đao, đối diện với máu lữa, chết chóc, vậy mà các thế hệ Việt Nam vẫn đóng góp cho kho tàng văn hoá dân tộc những áng văn thơ bất hũ. Mối liên hệ biện chứng giữa cuộc sống và sự sáng tạo văn chương góp phần to lớn tạo nên bản sắc văn hoá, truyền thống văn hiến của dân tộc. Tinh thần yêu nước, yêu con người, yêu thiên nhiên in đậm dấu ấn trong tôn giáo. Sống trong cõi tâm linh, coi trọng các tín điều của tôn giáo, nhưng thơ của họ lại chứa chan niềm vui sống.
Theo đà phát triển của xã hội và tư duy con người cùng với sự giao lưu văn hoá, các ngành nghệ thuật của chúng ta cũng phát triển phong phú và mang đậm bản sắc dân tộc. Về văn học, thể loại truyền thống là thơ ca mà tiêu biểu là thể thơ lục bát. Nhiều tác giả cổ điển Việt Nam bằng tài năng nghệ thuật vô song đã sáng tạo nên những tác tác phẩm thi ca bất hủ. Cũng với tinh thần ấy, trong lĩnh vực sân khấu là sự ra đời và phát triển của thể loại tuồng, chèo, cải lương và đặc biệt là nghệ thuật rối nước vô cùng độc đáo. Nghệ thuật múa với đặc trưng là ngôn ngữ hình dáng chuyển động trong không gian và âm nhạc và vì thế thể hiện rất rõ bản sắc dân tộc theo từng vùng miền. Bản sắc dân tộc trong kiến trúc Việt Nam thể hiện rõ nét trong di sản kiến trúc qua các thời đại bao gồm làng cổ, đô thị cổ, kiến trúc đền chùa, lăng tẩm ...Về mỹ thuật bản sắc dân tộc sâu đậm được thể hiện đậm nét trong tramh Đông Hồ.
Bản sắc dân tộc trong các loại hình văn học nghệ thuật không phải nhất thành, bất biến. Ảnh hưởng nhiều của nền các nền văn hoá Trung Quốc, Ấn Độ, sau này lại tiếp xúc cả trăm năm với văn hoá Pháp, nền văn hoá của Việt nam có điều kiện trau dồi, bổ sung làm giàu thêm truyền thống của mình bằng tinh hoa văn hoá nhân loại.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro