Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 120-123

Chương 120. Tình oan nghiệt (1)
Giáo úy Lập Châu dẫn binh trở lại bắt Trương Tông Lâm, trước khi trời sáng cuối cùng cũng truy được y, đưa đến trước mặt Tống Á Hiên phụng mệnh.

Lúc đó Tống Á Hiên một thân khôi giáp, ngồi trên tuấn mã, chuẩn bị đến các thành trì xung quanh huy động viện binh.

Trương Tông Lâm mắt thấy không còn đường sống, thất hồn lạc phách ngã trên đất.

Tống Á Hiên nhìn Trương Tông Lâm, nói: "Trương Tông Lâm, Bản hầu đã biết người sau lưng sai sử ngươi là ai, cũng chẳng có gì cần tra hỏi. Ta chỉ muốn biết, năm đó phụ thân ta đề bạc ngươi, ngươi đã hứa với ông ấy cái gì?"

Trương Tông Lâm ngây người, cười khổ.

Tống Á Hiên nói tiếp: "Năm đó ngươi chỉ là võ quan cửu phẩm, nhưng cũng là một kẻ có chí, ngươi nói với phụ thân ta một thân tài cán, một lòng nhiệt huyết lại chẳng có cơ hội phục vụ quân thượng, phục vụ bách tính."-

"Hiện tại ta chỉ biết, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, thiên hạ đại loạn, không bảo vệ được kẻ khác nhưng ít nhất cũng phải bảo vệ mình." Trương Tông Lâm lạnh mặt nhìn Tống Á Hiên, ánh mắt còn mang theo khinh miệt: "Chẳng phải ai cũng có xuất thân cao quý như tiểu Hầu gia, cả đời vinh hoa phú quý, vẫn luôn giữ được bộ dáng ngây thơ của trẻ con."

Tống Á Hiên nhớ tới Hạ Nhuận, lại nhìn Trương Tông Lâm trước mắt, hai người này đều là do Tống Gia đề bạc, ban đầu phụ thân y Bùi Thừa Cảnh quen biết những người này đều là anh hùng hảo hán, đến nay đều đã thay đổi hoàn toàn.

"Ngươi nói ta ngây thơ, cứ cho là vậy đi." Tống Á Hiên không nhiều lời nữa, dặn dò Giáo úy Lập Châu: "Canh giữ hắn cẩn thận, không được để lộ tin tức."

"Tuân lệnh." Giáo úy Lập Châu ôm quyền nhận lệnh.

Tống Á Hiên nhìn sắc xanh trước lúc bình minh, giơ tay vung roi ngựa, dẫn theo Vạn Thái rời khỏi thành Lập Châu.

...

Kinh đô, đích trưởng tử của Tiêu Vương tổ chức sinh thần.

Ai ai cũng biết, phu thê Tiêu Vương rất yêu thương đứa con này, sinh thần Tạ Tri Quân đã đến, vì muốn cầu phúc cho hắn, Tiêu Vương đã tổ chức phát cháo cho người nghèo kinh thành, lại lệnh cho nô bộc treo lụa đỏ lên các cửa hàng, nội trong ba ngày không được gỡ xuống.

Gánh mì nhỏ của lão Lục cũng được tặng một đoạn lụa đỏ, nhưng ông không treo lên mà chỉ cất trong tủ.

Quan sai phụ trách đi tuần quanh kinh thành muốn nịnh nọt Tiêu Vương phủ, ngày nào cũng nhắc nhở thương nhân treo lụa đỏ. Hôm nay đến con hẻm này, thấy lão Lục không treo liền hung hãn đến hỏi: "Ta nói chứ lão đầu, ai cũng treo hết rồi, tại sao ông không treo?"

Lão Lục giải thích: "Thê tử ta qua đời lúc còn trẻ, nay vừa đúng là ngày giỗ của nàng."

Quan sai liền chau mày: "Chuyện này quan trọng hơn hỉ sự của Tiêu Vương phủ? Đừng có không biết tốt xấu, mau treo lên!"
Nghe lời lẽ quan sai hung hăng ngang ngược, sắc mặt lão Lục liền xám xanh.

Quan sai thấy ông không bằng lòng, bèn ưỡn ngực, nhấc thanh đao sáng lóa bên eo lên.

Con trai lão ôm lấy phụ thân, lại vội mỉm cười làm hòa với quan sai: "Bây giờ sẽ treo ngay, treo ngay đây."

Quan sai nhìn bọn họ treo lụa đỏ lên, mới gật đầu rời khỏi.

Lão Lục nhổ một bãi nước bọt theo hướng bọn chúng rời đi: "Chó cậy thế chủ!"

Ông nhìn tấm lụa đỏ chói trên sạp mà phiền lòng, lại thấy sắc trời âm u, lẩm bẩm than thở: "Xui xẻo quá, con trai, dọn sạp, hôm nay không bán nữa."

Gần đây kinh thành biến động không ngừng, con trai lão cũng sợ gặp phải rắc rối, cũng nhanh tay nhanh chân dọn sạp.

Lão Lục cẩn thận lau sạch cái bàn cuối cùng, đột nhiên lại thấy một nam nhân đội đấu lạp ngồi xuống trước mặt. Lão còn nghĩ là khách đến, liền giải thích: "Xin lỗi, hôm nay chúng ta dọn hàng rồi."

"Sớm thế sao?"

Giọng nói dưới đấu lạp trong trẻo quen thuộc, lão Lục ngẩn người nhìn nam nhân gỡ đấu lạp xuống, để lộ khuôn mặt anh tuấn. Lưu Diệu Văn mỉm cười nhìn ông: "Lục thúc."

Lão Lục chẳng biết nên nói gì, chỉ đứng yên nhìn hắn.

Ngày sinh thần Tạ Tri Quân, Tiêu Vương phủ mời hết các thế gia tử đệ, còn có không ít quan viên trên triều cùng đến tham gia yến hội, chủ nhân có hỉ sự, hạ nhân trong phủ cũng được thưởng không ít, ai nấy mặt mày rạng rỡ, không khí vui vẻ vô cùng.

Đến giữa trưa, ngựa xe hướng về Tiêu Vương phủ vẫn liên miên không dứt.

Loại tiệc tùng náo nhiệt thế này dĩ nhiên không thể vắng Từ Thế Xương, y đến rất sớm, đang ở tiền viện chơi phi tiêu cùng mấy vị hồ bằng cẩu hữu thân thuộc.

Y lấy chiếc đai ngọc mã não đỏ của mình ra đặt cược, vừa thua là những công tử kia liền gỡ đai lưng y xuống trước mặt đám đông, Từ Thế Xương giành không được, bị bọn họ hùa nhau bắt nạt.

Y vừa tức vừa buồn cười, nói: "Hừ, các ngươi cứ đợi đó cho ta, ngày sau còn dài. Ta không trị được các ngươi, đợi Hiên Hiên và Lãm Minh hồi kinh thì đừng hòng chạy thoát, không khiến các ngươi thua sạch sẽ tiểu gia không mang họ Từ!"

Những công tử kia liền đáp: "Tiểu Thái tuế nhà ngươi chỉ biết cầu viện binh, thật là mất hứng, có bản lĩnh thì tự mình thắng."

Từ Thế Xương cười hai tiếng, ưỡn ngực đắc ý: "Mời được viện binh cũng là một loại bản lĩnh đó biết không. Các ngươi ai mà chẳng muốn mời, mà mời được hay không thì không biết."

"Đúng là không cần mặt mũi." Bọn họ chậc chậc lắc đầu.

Từ Thế Xương bị mắng cũng không giận, cười nói muốn đến hậu viện thay y phục, thuận đường bái kiến thọ tinh một chút.

Khác với tiền viện, hậu viện của Tiêu Vương phủ rất yên lặng.

Từ Thế Xương bước qua hành lang còn nhìn thấy một đội thị vệ mang đao tuần tra. Tiệc tùng náo nhiệt thế này sắp xếp người bảo vệ an toàn cũng là hợp lý, Từ Thế Xương không nghĩ nhiều, bước theo hạ nhân đến chỗ Tạ Tri Quân.

Viện của Tạ Tri Quân trồng rất nhiều hoa ngọc lan, nhưng mùa hoa rất ngắn, vừa qua một trận mưa, hoa đã rời cành gần hết, phủ trắng cả đất, báo hiệu chuyển mùa.

Thế mà hoa ngọc lan trong Thương Lan Uyển nhờ địa thế cao nên vẫn còn đang nở rộ.

Mỗi một lễ vật trong sinh thần của hắn đều là trân bảo giá trị liên thành, nhưng lòng Tạ Tri Quân vẫn tâm tâm niệm niệm cây quạt năm ấy Tống Á Hiên tặng hắn.

Trên quạt còn vương mùi hương hoa ngọc lan, vấn vít theo tâm hồn của hắn đã nhiều năm.

Lúc đó Tống Á Hiên còn hứa với hắn – bọn họ mãi mãi là bằng hữu, mãi không lìa xa.

Nhớ đến ánh mắt của y, Tạ Tri Quân cảm thấy hoan hỉ, nhưng chỉ cần nghĩ đến khung cảnh Tống Á Hiên ôm chặt Lưu Diệu Văn dưới ánh trăng nơi biên ải, hắn lại cảm thấy ghê tởm đến tột độ, cảm giác hoan hỉ ban đầu bị lửa giận đốt thành tro bụi.

Phản bội! Phản bội!

Từng đường kiếm của Tạ Tri Quân mang theo phẫn nộ và thù hận, chém những gốc ngọc lan toàn thân là thương tích.

Từ Thế Xương thấy hắn múa kiếm dưới tàn cây, chỉ mặc bộ áo ngắn đen tuyền, tôn lên nước da trắng tuyết, đôi mắt phượng trầm xuống, đẹp đẽ biết nhường nào.

Có điều vị gia này một khi nổi giận, có đẹp đến đâu cũng chịu không nổi.

Từ Thế Xương tội nghiệp mấy gốc hoa, bèn từ xa cất giọng: "Thế tử gia, ngày tốt thế này ai lại chọc huynh giận thế? Sao lại trút giận lên những thứ vô tri này?"
Tạ Trí Quân nhìn thấy Từ Thế Xương, ánh mắt càng lạnh, thu kiếm về, đáp: "Không liên quan đến ngươi."

Từ Thế Xương thấy hắn lạnh lùng như thế cũng lười hỏi tiếp, chỉ nói: "Sao không đến tiền viện chơi cùng bọn ta? Hôm nay không thể thiếu mặt huynh đâu đấy."
Chương 121. Tình oan nghiệt (2)
Tạ Trí Quân nhìn Từ Thế Xương mỉm cười, đáp: "Ngươi nói đúng, hôm nay không thể thiếu ta được."

Từ Thế Xương cứ cảm thấy hắn còn ý khác, nhưng cũng mặc kệ, Tạ Trí Quân không nói rõ y cũng lười tìm hiểu.

Từ Thế Xương chuyển đề tài: "Hiên Hiên ca ca vẫn còn ở cửa Tuyết Hải chưa thể quay về, ta thay huynh ấy chúc mừng huynh. Mấy hôm trước đệ đệ vừa tìm được một tấm bình phong phỉ thúy, mùa hạ mà để trong phòng là mát mẻ vô cùng, là thứ quý hiếm, Hiên Hiên nói huynh sợ nóng nên ta mới tặng cho huynh, ngày mai người của phủ Thái sư sẽ đưa lễ vật tới."

Tạ Tri Chương ném kiếm sang bên cạnh, quan sát Từ Thế Xương: "Y bảo ngươi chúc mừng ta?"

Từ Thế Xương cười hì hì: "Dĩ nhiên, dĩ nhiên."

"Bớt ngon ngọt đi, Á Hiên là loại người gì ta còn không rõ hay sao?" Tạ Tri Quân nói: "Nếu y thật sự có lòng, cho dù là thiên sơn vạn thủy cũng có thể trở về kịp."

Từ Thế Xương nghe hắn bất mãn với Tống Á Hiên trong lòng ít nhiều cũng khó chịu, y nói: "Văn Thương, huynh cứ phải ép người quá đáng như thế mãi sao? Hiên Hiên nhớ rõ huynh sợ nóng là sự thật, nếu không ta cũng không đặc biệt đi tìm tấm bình phong đó cho huynh làm gì. Chúng ta dù sao cũng từng là bạn học, sao huynh nói chuyện lại khó nghe thế? Nếu Hiên Hiên thật sự tệ bạc như lời huynh nói thì huynh ấy đối tốt với ta làm gì? Từ Cẩm Lân ta làm sao có thể làm bạn với huynh ấy?"

Tạ Tri Quân mỉm cười mỉa mai. Á Hiên quả thật moi tim móc phổi của mình ra đối xử với tên này, từ trước đến giờ đều như thế, đều làm người ta đố kỵ, ghen ghét.

Tạ Tri Quân đáp: "Ta cũng không thể hiểu nổi, phủ Thái sư và Hầu phủ như nước với lửa, tại sao Á Hiên vẫn coi ngươi là bảo bối?"

"Bớt nói nhảm, cái gì mà như nước với lửa? Cha ta và Hiên Hiên tuy rằng chính kiến bất đồng, nhưng hai người đều vì muốn tốt cho con dân Đại Lương, Hiên Hiên là người công tư phân minh nên mới không để ý mà làm bạn với ta."

Nụ cười của Tạ Tri Quân càng diễm lệ: "Từ Cẩm Lân, ngươi không thấy mình ngây thơ quá hay sao, thật sự cho rằng Thái sư và Á Hiên chỉ là chính kiến bất đồng?"

Từ Thế Xương mím môi, lại im lặng một hồi lâu, thật sự có chuyện y còn chưa hiểu hay sao? Không chỉ là chính kiến, mà cả lợi ích thế lực quan hệ, cả hai bên đều không ngừng đối đầu, nhưng trước giờ Từ Thế Xương không thích xen vào chính sự nên chẳng biết gì hết.

Lòng y bắt đầu rối bời, cũng không muốn nói chuyện với tên tổ tông này nữa, đập mạnh cây quạt, mất kiên nhẫn nói: "Thôi dẹp đi, coi như ta lo chuyện bao đồng. Đợi đến lúc Hiên Hiên trở về, chúng ta cùng đi uống rượu, có chuyện gì khuất mắt thì cứ nói ra, sao phải ôm hận trong lòng như thế."

Lúc Từ Thế Xương vừa định trở lại yến tiệc uống rượu, đột nhiên nhìn thấy một đội binh sĩ từ hậu viện Tiêu Vương phủ bước ra, kẻ nào cũng mặc áo giáp sắt, hùng hổ hướng về phía tiền viện.

Xem tình hình này, có vẻ đã xảy ra chuyện lớn.

Từ Thế Xương kinh hãi, vội nói: "Chuyện gì thế? Phía trước có kẻ làm loạn sao?"

Tạ Tri Quân chỉ mỉm cười, sắc mặt bình thản.

Từ Thế Xương liền biết chuyện không ổn, vội vàng nhìn quanh rồi cất bước chạy đến tiền viện.

Từ Thế Xương nghe tiếng cãi vã, mới biết hóa ra là Viên gia tam công tử định ra về giữa chừng, lúc chuẩn bị ra khỏi cửa thì bị một thị vệ ngăn lại, khuyên hắn đợi khi tàn tiệc hẵng ra về.

Tính tình Viên Tam không tốt, liền đẩy thị vệ ra, mắng lớn: "Ngươi là thứ gì mà dám ngăn ta?"

Ai ngờ thị vệ cũng không khách sáo, đứng dậy vặn tay Viên Tam áp giải hắn trở lại tiệc, Viên Tam đau đớn la oai oái, đám người thấy thị vệ Tiêu Vương phủ đối xử với khách khứa như thế, lập tức gây gỗ, tạo thành cục diện như bây giờ.

Từ Thế Xương ôm nghi hoặc trong lòng, nỗ lực chen vào sảnh chính, chẳng thấy Tiêu Vương gia đâu, chỉ có đại công tử Tạ Tri Chương tọa trấn.

Khách đến tham dự yến tiệc lần này chen chúc nhau trong sảnh, đội binh vừa nãy dàn trận xung quanh, đao kiếm rời vỏ, một con ruồi cũng không được phép rời khỏi chốn này.

Trong tình cảnh này, khách khứa có người dị nghị, có kẻ nghi hoặc, cũng có kẻ phẫn nộ hay sợ hãi, hỗn loạn muôn phần, chỉ có Tạ Tri Chương bình tĩnh ngồi ở trung gian, nhàn nhã nâng chén trà trong tay.

Có một kẻ lên tiếng: "Tạ Tri Chương, ngươi rốt cuộc muốn làm gì? Bọn ta đều là khách tới chứ không phải phạm nhân, tại sao không được rời phủ? Đám binh lính này lại là sao? Chẳng lẽ ngươi định nhốt bọn ta lại hay sao?"

Tạ Tri Chương cười nhạt: "Các vị đừng nóng nảy, cũng không cần lo lắng, ngoài kia có chút sóng gió, ta sợ các vị gặp nguy hiểm nên mới giữ các vị ở lại phủ, tạm thời không thể ra ngoài. Đợi sóng yên biển lặng, tự nhiên ta sẽ thả các vị an toàn trở về."

"Sóng gió? Ngươi mau giải thích rõ ràng cho ta."

Tạ Tri Chương chỉ qua loa đáp: "Phủ Doãn đại nhân vẫn còn đang điều tra."

"Ngươi đừng kiếm cớ! Chỉ là một đứa thứ tử lại có gan ngồi chủ vị, còn dám ngông cuồng như thế, ngay cả Tiêu Vương gia cũng không dám sỉ nhục Viên gia như thế!"

Viên Tam bị vặn tay, làm sao nuốt được cục tức này, to tiếng la hét: "Ta phải ra ngoài, ta muốn ra ngoài, xem ngươi có thể làm gì được ta!"

Một binh sĩ đứng trước mặt hắn, mạnh tay đẩy hắn ngã rạp xuống đất.

Viên Tam lửa giận bừng bừng: "Tạ Tri Chương, tiện nhân, còn không mau bảo bọn chúng cút đi!"

Nghe hắn mắng chửi như thế, Tạ Tri Chương vẫn bình thản như không, hắn đặt chén trà trong tay xuống, mỉm cười nhìn Viên Tam, nhẹ nhàng nâng ngón tay.

Binh sĩ nhận lệnh, rút đao ra tới, chẳng đợi đám đông kịp phản ứng, ánh đao sáng lòa, chiếu vào mắt Từ Thế Xương làm y bất giác nhắm chặt mắt.

Ánh sáng rời khỏi kéo theo một làn máu tươi, ngay sau đó, cánh tay trái của Viên Tam rơi trên đất.

Viên Tam lúc đầu còn chưa kịp định hình, đến khi nhìn thấy cánh tay, chạm vào vết thương vẫn không ngừng phun máu, hắn mới điên cuồng la hét trong đau đớn.

Viên Tam lăn tròn trong vũng máu, đau đớn làm toàn thân hắn run rẩy, cổ họng gào thét như muốn nứt ra.

Tình cảnh thê thảm trước mắt làm đám đông kinh hãi.

Lúc nãy bọn họ vẫn còn nghĩ, cho dù có tranh chấp lớn tới đâu thì cùng lắm chỉ là xô xát một chút, ai ngờ đám người này lại dám động đao động kiếm.

Tạ Tri Chương vẫn ôn hòa mỉm cười, tựa như trăng thanh gió mát, nhẹ giọng nói: "Xem ra các vị không còn ai muốn ra ngoài nữa."

Từ Thế Xương sợ hãi đến trắng mặt, lúc này Tạ Trí Quân cũng đã chậm rãi nhập tiệc.

Từ Thế Xương nhìn thấy hắn, vội nắm tay áo hắn, giọng nói vẫn còn run rẩy: "Các ngươi muốn làm gì thế? Có phải các người điên rồi không?"

Tạ Tri Quân bình tĩnh đáp: "Đợi một lát ngươi sẽ rõ."

Nhìn thấy Từ Thế Xương vẫn còn không chịu buông Tạ Tri Quân, Tạ Tri Chương mới nhớ tới một chuyện vẫn còn chưa kịp xử lý, hắn phất tay gọi một binh sĩ đến.

"Người của Chính Tắc Hầu phủ còn chưa đến." Tạ Tri Chương phân phó: "Ngươi đem một đội binh đến Hầu phủ, mời hai người tẩu tẩu và đứa cháu trai nhỏ tuổi của Á Hiên sang đây đề phòng vạn nhất."

Từ Thế Xương nghe thấy lời này, đoán rằng hắn muốn bắt Nguyên Thiệu làm con tin, nhất thời phát hỏa: "Các ngươi dám! Tạ Tri Chương, ngươi dám động vào người của Chính Tắc Hầu phủ? Ngươi có tin ta liều mạng với ngươi hay không? Ngươi dám chặt tay Viên Tam thì cứ tới đây động vào một ngón tay của ta thử xem cha ta có tha có ngươi không!"

Tạ Tri Chương mỉm cười: "Cẩm Lân, đệ nói gì thế? Ta có thể ngồi ở đây là phụng lệnh của Thái sư, ông ấy dặn dò ta phải trông nom đệ cho cẩn thận, làm sao có thể động thủ với đệ?"

Từ Thế Xương nghi hoặc: "Cha ta? Ông ấy ra lệnh cho ngươi? Tại sao?"

Đến khi dứt lời, Từ Thế Xương như đã hiểu ra: "Ông ấy đang ở đâu?"

Tạ Tri Chương thần bí nói: "Giờ này, ông ấy hẳn vẫn đang ôn lại chuyện cũ trong cung?"

Từ Thế Xương lắc đầu, trên trán toàn là mồ hôi lạnh: "Không thể nào..."

Vẫn như mọi ngày bình thường khác, sắc trời âm u, chẳng bao lâu sau mưa rơi ngợp hoàng thành.

Bởi vì trận mưa này, cung cấm trở nên im lặng, im lặng tới kỳ quái.

Từ Thủ Chước vào cung, tay cầm một chiếc ô bước trên con đường lót đá ngọc, ông ta đi rất chậm, tựa như dùng thời gian cả một đời để cất bước, từng bước từng bước nặng nề, mất thời gian để một ấm trà nguội lạnh mới đến được Minh Huy điện.

Từ Thủ Chước lấy lý do muốn báo cáo chính sự tham kiến Hoàng thượng.

Sùng Thiệu Đế đứng sau thư án, bởi vì bệnh còn chưa khỏi nên không vận hoàng bào, thường phục trên thân màu xanh khói, mang mấy phần thoát tục.

Người đang nâng bút vẽ tranh thủy mặc, trong tranh là một thần nữ đang lột bỏ kiếp người phi thăng thành tiên, tư thái sống động, tựa như muốn bay ra khỏi tranh, lại chẳng vẽ lên mi mục, mất đi cái thần thái của khuôn mặt.

Trịnh Quan đứng bên cạnh mài mực. Sùng Thiệu Đế không dừng tay, chỉ mời Từ Thủ Chước ngồi xuống nói chuyện.

Từ Thủ Chước nhàn nhã ngồi xuống ghế, bắt đầu nói: "Thái y viện đã có phương pháp trị liệu ôn dịch, trận dịch bệnh ở phương nam lần này xem như đã ổn định, theo lệ cũ, triều đình sẽ miễn cho bách tính ở những nơi chịu thiệt hại nửa năm tô thuế. Cũng may là cảng khẩu do Thương hội Dương Châu và cục Vận tải Dương Châu xây dựng đã hoàn thành, năm sau có thể thông thương, là cơ hội để bổ sung quốc khố hao hụt."

"Tốt lắm! Nghe nói việc chuẩn bị xây dựng cảng khẩu lần này Lưu Diệu Văn cũng có góp sức, đợi nó trở về trẫm sẽ phong thưởng cho nó thật to!" Sùng Thiệu Đế đại hỉ, đặt bút xuống, nhìn Từ Thủ Chước nói: "Tất cả đều nhọc công Thái sư."

Từ Thủ Chước mỉm cười, có chút quái dị, có chút sâu xa.

Trầm mặc một chút, Từ Thủ Chước nói: "Hoàng thượng, đây không phải công lao của thần. Người có biết, biện pháp trị thủy trừ dịch lần này là do ai tạo ra, việc trù bị cảng khẩu Dương Châu khai thông thương đạo là do ai sắp đặt?"

Sùng Thiệu Đến cười hỏi: "Sao thế, dưới tay Thái sư lại có thêm người tài nào mà trẫm chưa biết sao?"

Từ Thủ Chước lắc đầu: "Có lẽ Hoàng thượng đã quên mất cái tên của người đó, hoặc là không muốn nhớ tới cái tên ấy nữa."

Sùng Thiệu Đế chau mày, thần sắc nghiêm nghị trở lại.

Trịnh Quan ở bên cạnh phát giác mầm họa, bèn cất lời nói khéo: "Lời này của Thái sư, người tài của Đại Lương bao la, tất cả đều vì Hoàng thượng mà liều mạng, Hoàng thượng không nhớ rõ một trong số họ chẳng phải là chuyện bình thường hay sao?"

Sùng Thiệu Đế xoay bút, ra hiệu cho Trịnh Quan đừng nhiều lời, trầm giọng hỏi: "Thái sư, rốt cuộc khanh muốn nói gì?"

Từ Thủ Chước ung dung mỉm cười: "Lão thần chỉ là nhớ nhung người xưa, muốn ôn lại chuyện cũ cùng Hoàng thượng."

Ông ta không nhìn Sùng Thiệu Đế mà ngẩng mắt trông về phía xa xăm: "Nếu Quan Triều có thể sống được tới ngày hôm nay, có lẽ đệ ấy sẽ mang tước vị cao lắm."

Ông ta cúi đầu, nắm chặt tay vịn, nặng nề nói tiếp: "Vị trí của lão thần lẽ ra là của đệ ấy."

Quan Triều, Tống Quan Triều, từng là công thần dưới trướng tiên đế, vì trúng phải độc tiễn mà bỏ mạng, truy phong "Văn Chính Công".

Là trượng phu của Mạnh Nguyên Nương, là phụ thân của Lưu Diệu Văn.

Phụ thân trên danh nghĩa.

Chuyện này năm đó có rất nhiều người biết, nhưng lại chẳng ai biết, Tống Quan Triều sinh tiền cùng Từ Thủ Chước là huynh đệ kết nghĩa.

Hai người đều xuất thân bần hàn, lúc đó ở Dương Châu, Tống Quan Triều mồ côi lưu lạc, Từ Thủ Chước phụ mẫu mất sớm, lại phải nuôi nấng một tiểu muội vì ốm đói mà vàng vọt.

Ba người dựa vào màn thầu do người cúng viếng miếu Thành Hoàng tiếp tế mà miễn cưỡng sống qua ngày, nương tựa lẫn nhau mà lớn lên.

Từ Thủ Chước lớn hơn Tống Quan Triều nhiều tuổi, nhưng từ nhỏ Tống Quan Triều thiên tư thông minh, lanh lẹ mẫn tiếp. Trong khi những kẻ bần cùng khác vật vã vì miếng cơm thì Tống Quan Triều lại thích đọc sách phối thuốc, lại gặp được cơ duyên, bái một vị cử nhân ở Dương Châu làm thầy, từ nhỏ đã có tài thi từ ca phú.

Sau đó, Tống Quan Triều viết một bài thơ trào phúng thời cục bị quan phủ bắt vào ngục. Từ Thủ Chước thân là nghĩa huynh, nhìn thấy Tống Quan Triều gặp nạn, liền gấp gáp cầu trợ bốn phương.

Nhưng lúc đó ông ta chỉ là dân thường, người có quyền thế nhất mà ông ta từng gặp qua chỉ có thổ hào địa phương, bọn họ đều không dám vì cứu Tống Quan Triều mà chọc giận quan phủ.

Có lẽ trời sinh cho Từ Thủ Chước một đôi mắt biết nhìn người, ông ta biết sau này Tống Quan Triều nhất định sẽ đỉnh thiên lập địa, cũng nhìn ra được người có thể cứu y chính là Hiền Vương, cũng chính là Tiên đế, đang được phong đất Dương Châu.

Từ Thủ Chước mang theo nguy cơ bị Hiền Vương chém đầu, chắn ngang kiệu của Hiền Vương. Cái chết đã đến trước mắt, Hiền Vương ngăn cản thị vệ, kiên nhẫn hỏi ông ta có gì oan khuất.

Từ Thủ Chước dâng thi tập của Tống Quan Triều cho Hiền Vương, Hiền Vương ngồi trong kiệu đọc một tác phẩm của Tống Quan Triều thì bật cười: "Quả là khẩu khí cuồng vọng, nhưng cũng không thể phủ nhận đây là một bài thơ hay."

Sau đó, Hiền Vương xuống kiệu, thường phục cũng không che được khí chất cao quý của ông, thần dân trên phố cúi người hành lễ.

Hiền Vương nhìn Từ Thủ Chước đang quỳ trên đất, cất giọng hỏi: "Ngươi tên gì? Bài thơ này là ngươi viết sao?"

"Bẩm Vương gia, thảo dân Từ Thủ Chước." Ông ta đã đáp như thế: "Bài thơ này là do nghĩa đệ của thảo dân Tống Quan Triều viết, bởi vì viết bài thơ này nên đệ ấy bị quan phủ bắt đi rồi."

Hiền Vương không biết nói gì, một lát sau mới quay đầu nhìn tri phủ Dương Châu đi theo kiệu, nhẹ nhàng nói: "Đứa nhóc mới lớn mà lại có thể nhìn xa trông rộng thấu hiểu lẽ đời như thế, Bản vương thấy là điều tốt mà."

Tri phủ Dương Châu nghe ra ý muốn vấn tội, trán rớm mồ hôi, liên tục gật đầu: "Vâng, vâng, hạ quan liền thả người, thả người."

Hiền Vương nói: "Người viết thơ hay Bản vương gặp qua không ít, nhưng người có thể viết ra được ý tứ thế này thì chẳng có bao nhiêu. Bản vương phải gặp thử Tống Quan Triều này mới được."

Cử động này của Từ Thủ Chước, không chỉ tìm đường sống cho Tống Quan Triều, mà còn dọn sẵn đường làm quan sau này cho hai người.

"Lúc đó ai ai cũng biết hai người Tống, Bùi là hai cánh tay đắc lực của Tiên đế, không bao giờ nhắc đến tên của thần, thật ra nếu so với Quan Triều, lão thần cũng chỉ là một kẻ tầm thường. Quan Triều là người tài giỏi, cách trị ôn dịch sau lũ lụt ở phương Nam đệ ấy nghĩ ra đến nay vẫn còn dùng được, so với đệ ấy, lão thần hổ thẹn mình không bằng."

Người có thể làm Từ Thủ Chước thua khâm phục khẩu phục, vui vẻ thoải mái hạ mình như thế, cũng chỉ có Tống Quan Triều mà thôi.

"Nhưng Quan Triều mang chí tứ phương, Tiên đế sợ rằng thiên địa nơi Hiền Vương phủ không thể giữ con hồng hạc là đệ ấy, mới nghĩ ra cách gả trưởng nữ Mạnh gia Mạnh Nguyên Nương cho đệ ấy."

Tay Sùng Thiệu Đế khựng lại, mực chu sa trên đầu bút rơi xuống, thấm đỏ khuôn mặt thần nữ trong tranh.

Đáng tiếc cho bức tranh này, chỉ vì một sai lầm nhỏ mà hủy hoại tất cả.
Chương 122. Tình oan nghiệt (3)
Lúc Tống Quan Triều cưới vợ, Từ Thủ Chước đã can ngăn đủ điều.

Tuy là cả hai đều làm việc cho Hiền Vương, nhưng lý tưởng và phong cách làm quan của họ khác nhau một trời một vực.

Từ Thủ Chước từng trải qua những ngày tháng khốn khó, nếu chỉ là một mình chịu khổ, ông ta cũng chẳng day dứt như thế, nhưng người muội muội ông ta yêu thương nhất là Từ Niệm Thanh đi theo ông ta phải chịu quá nhiều oan uổng.

Từ Thủ Chước không bao giờ quên, mùa đông ở Dương Châu giá rét ẩm thấp. Từ Thủ Chước bẻ cái màn thầu khô cằn làm hai nửa, một nửa cho chính mình, một nửa nhét vào tay Từ Niệm Thanh.

Từ Niệm Thanh cùng huynh trưởng ngồi trong góc khuất gió bắc không thổi tới trên ngõ nhỏ, cắn từng miếng màn thầu.

Lúc đó bọn họ nhìn thấy một tiểu thiếu gia ngồi bên ô cửa sổ, tay cầm bánh nướng hành nhân thịt lừa, bàn tay và khóe miệng của tiểu thiếu gia bóng nhẫy dầu mỡ. Từ Niệm Thanh nhìn nó không chớp mắt.

Từ Thủ Chước nhẹ giọng hỏi: "Muội muốn ăn à? Ca ca cướp một cái cho muội nhé."

Lúc đó, trong lòng ông ta bất giác sinh ra dục vọng.

Từ Niệm Thanh mỉm cười, cắn một miếng màn thầu, thân thể gầy gò cuộn tròn lại tựa vào Từ Thủ Chước, đáp lời: "Không muốn đâu, muội chỉ muốn ở cạnh ca ca mãi mãi."

Từ Thủ Chước trước nay chưa bao giờ hay biết, hóa ra một nụ cười lại có thể làm cõi lòng tan nát như thế.

Ông ta không muốn Từ Niệm Thanh phải trải qua những ngày tháng cơ cực như thế, một lòng muốn làm nên chuyện, hận không thể dùng tất cả trân bảo trên thế gian bù đắp cho những ngày tháng khổ sở của muội muội.

Những năm đầu đi theo Tiên đế, Từ Thủ Chước vì muốn thể hiện bản thân mà không ngừng lập mưu bày kế, dùng hết thủ đoạn.

Tống Quan Triều chứng kiến hết thảy, cũng hiểu cho tấm lòng của nghĩa huynh, nhưng cũng không tán đồng cách làm việc cực đoan của ông ta.

Sau đó Bùi Thừa Cảnh gia nhập, Tống Quan Triều cùng y vô cùng hợp cạ, một lòng vì dân chúng quốc gia, không màng quyền thế, lâu ngày, hai người Tống Bùi càng thân thiết hơn.

Tiên đế vì muốn làm mai cho Tống Quan Triều và Mạnh Nguyên Nương nên lập một hội thơ.

Tống Quan Triều hiểu ý Tiên đế, không muốn chuyện chung thân của mình bị cuốn vào quyền mưu, từ sớm đã không muốn cưới vợ, liền muốn từ chối.

Nhưng Bùi Thừa Cảnh lại xem đây là một mối nhân duyên tốt, khuyên Tống Quan Triều đến gặp gỡ Mạnh tiểu thư.

Bùi Thừa Cảnh nói: "Nếu gặp rồi mà không thích thì cũng có lý do tốt để từ chối, cứ trốn tránh thế này chẳng khác nào nói Mạnh Nguyên Nương kia là hồng thủy mãnh thú, khiến Quan Triều huynh chưa gặp đã sợ bỏ chạy."

Tống Quan Triều nghe Bùi Thừa Cảnh nói thế, nghĩ thầm, cứ gặp thử một lần cũng được, mặc kệ nàng ta là thiên tiên, cho dù y không thích, cho dù Đại La thần tiên hạ phàm trói y đến thành thân y cũng có cách chạy trốn.

Ai ngờ sau khi gặp gỡ, Tống Quan Triều mới biết cái gì gọi là 'anh hùng khó qua ải mỹ nhân'.

Mạnh Nguyên Nương vốn cũng chẳng phải mỹ nhân khuynh quốc khuynh thành, nhưng đêm đó đứng dưới ánh trăng và hoa rơi, quạt phù dung che khuất nửa sườn mặt, chỉ để lộ một đôi mắt hạnh lấp lánh, câu mất một Tống Quan Triều. Nàng mím môi, nhỏ giọng nói với tì nữ bên cạnh: "Nhìn đẹp thì có ích gì? Quả là đồ mọt sách ngu ngốc."

Tống Quan Triều lập tức hồi thần.

Bùi Thừa Cảnh ở bên cạnh thấy bộ dạng như mất hồn của y, huých Tống Quan Triều một cái, nhịn cười nói: "Quan Triều huynh, đây là hồng thủy mãnh thú đó, bây giờ chạy còn kịp."

Vành tai Tống Quan Triều đỏ hồng, vội cúi đầu chỉnh lại y quan, lúng túng hỏi: "Hôm nay, ta trông cũng được chứ nhỉ?"

Bùi Thừa Cảnh bật cười.

Tình chàng ý thiếp, tài tử giai nhân, một mối duyên lành như thế, không ai không vui mừng.

Nhưng cũng không ai biết, trên hội thơ người nhìn Mạnh Nguyên Nương đến xuất thần không chỉ có mình Tống Quan Triều, mà còn có cả Sùng Thiệu Đế, lúc đó vẫn còn là Hiền Vương Thế tử Tạ Dịch.

Nhưng khác với Tống Quan Triều, Tạ Dịch không phải nhất kiến chung tình với Mạnh Nguyên Nương, mà là tình sâu không dứt.

Mạnh gia là thế gia nổi danh, Tiên đế lại mang vương tước cao quý, thế nên Hiền Vương phủ và Mạnh gia đã có qua lại từ lâu, Tạ Dịch cũng đã sớm quen biết Mạnh Nguyên Nương. Tạ Dịch mến nàng đoan trang lại tinh nghịch, dịu dàng lại hoạt bát.

Nhưng Mạnh Nguyên Nương bản tính cao ngạo, chỉ chịu gả cho người làm chính thế, mà Tạ Dịch thân là Hiền Vương Thế tử, chuyện hôn nhân không đến lượt hắn làm chủ.

Tạ Dịch vẫn luôn không dứt được mối tình trong lòng, vẫn luôn ôm chí lập được công lao, đợi phụ vương phong thưởng sẽ đề nghị ra chỉ nạp phi, cưới Mạnh Nguyên Nương làm vợ.

Năm đó Tạ Dịch chủ trì xây dựng mười ba kênh đào ở Dương Châu, ngày đêm không ăn không ngủ mới hoàn thành công trình to lớn, được nhân gian tán tụng. Về đến Vương phủ, Tạ Dịch vừa muốn thỉnh cầu phụ vương đưa sính lễ tới Mạnh gia, nào ngờ Hiền Vương lại muốn làm mai Mạnh Nguyên Nương cho Tống Quan Triều.

Tạ Dịch vốn còn ôm hy vọng trong lòng, dù sao Tống Quan Triều đã sớm lập chí không cưới thê, ai cũng không nghĩ tới, sau khi y gặp được Mạnh Nguyên Nương lại thay đổi chủ ý.

Chỉ thiếu một bước, một bước duy nhất, khiến Tạ Dịch ôm nuối tiếc đến cả đời.

Tống Quan Triều và Mạnh Nguyên Nương tình đầu ý hợp, là thần tiên quyến lữ, mà Tạ Dịch đường đường là Thế tử Hiền Vương, phải theo sắp xếp của phụ thân cưới muội muội của Từ Thủ Chước là Từ Niệm Thanh làm trắc phi.

Ngày nạp phi, Từ Thủ Chước, Bùi Thừa Cảnh, Tống Quan Triều đều đến chúc mừng, Tạ Dịch miễn cưỡng mỉm cười, không ngừng chuốc rượu tìm say.

Đêm động phòng hoa chúc, người mặc áo cưới đội mũ phượng chẳng phải người trong lòng Tạ Dịch. Từ Niệm Thanh ngoan ngoãn hiểu chuyện, tuy không biết nói ngon nói ngọt, nhưng ánh mắt nhìn Tạ Dịch chứa đầy ái mộ và sùng bái.

Tạ Dịch biết đây là một người con gái tốt, nhưng hắn lại không thể thích nàng.

Hắn ôm lấy Từ Niệm Thanh, vuốt ve nàng, hôn nàng, lại không cảm nhận được một chút hoan hỉ, trong lòng tràn ngập ủy khuất và phẫn hận, thế nên hắn buông Từ Niệm Thanh, cất bước rời khỏi hỉ phòng.

Đêm đó, Mạnh Nguyên Nương vẫn còn chong đèn đợi Tống Quan Triều về nhà.

Tống Quan Triều giản dị cần kiệm, chỗ mà đôi phu thê đang ở chỉ là một tòa trúc viện nho nhỏ đơn giản, trừ nô tì cùng Mạnh Nguyên Nương bồi giá cũng chẳng còn nô bộc nào.

Nửa đêm có người gõ cửa, Mạnh Nguyên Nương nghĩ rằng là Tống Quan Triều về, bèn tự mình ra mở cửa. Người đó ngã vào lòng nàng, Mạnh Nguyên Nương chưa kịp nhìn rõ, chỉ ngửi thấy mùi rượu nồng nặc.

Nàng chau mày, nhéo vành tai nam nhân, cằn nhằn: "Tống Quan Triều, ai cho chàng cái gan uống rượu thế?"

"Nguyên Nương..."

Người đó ôm chầm lấy nàng, không màng tất cả hôn nàng, lúc này Mạnh Nguyên Nương mới nhìn rõ khuôn mặt nam nhân, mặt nàng liền trắng bệch.

Người đến không phải Tống Quan Triều mà là Tạ Dịch.

Đêm đó, hắn lăng nhục thần tử của hắn, huynh đệ của hắn.

Trong mơ màng, Tạ Dịch nhìn thấy đôi mắt hạnh đẫm lệ, men say áp chế lý trí vốn thanh tỉnh, nhưng hắn thà rằng đây là một giấc mơ, một giấc mơ ngọt ngào.

Hắn ôm chặt lấy thân thể lạnh lẽo đang run rẩy ấy, say mê hôn lên từng tấc da trắng ngần. Tạ Dịch biết hắn đã phạm tội tài trời, nhưng tâm hồn bị giam cầm quá lâu, luôn phải cẩn thận từng li từng tí, thế nên cho dù hắn biết hắn có lỗi, nhưng chỉ càng làm hắn thêm hưng phấn càn rỡ chứ chẳng có chút ăn năn nào.

Đến khi hắn hoàn toàn tỉnh táo, trong ánh ban mai nhỏ giọt, hắn thấy Mạnh Nguyên Nương cầm một cây kéo, chĩa mũi kéo bén nhọn trên ngực hắn.

Nàng nắm chặt tay, khớp xương trắng bệch, cổ tay run rẩy.

Tạ Dịch nghĩ, nếu hắn được chết dưới tay nàng, cũng xem như là hoàn thành mộng chung thân.

Nhưng Mạnh Nguyên Nương nghĩ đến Tống Quan Triều, nghĩ đến tiền đồ tự cẩm của y, nước mắt lăn dài bên má, nàng buông kéo xuống, gào khóc: "Cút! Cút đi!"

Đến trưa ngày hôm đó Tống Quan Triều mới về tới nhà, vừa vào cửa đã nhào vào lòng thê tử làm nũng, nói là mùi rượu trên thân vẫn chưa tan hết, nên không dám về nhà, mong Nguyên Nương tha thứ.

Lòng Mạnh Nguyên Nương chỉ có bi ai cùng nhục nhã, gục mặt trong ngực Tống Quan Triều khóc lớn một hồi lâu, cuối cùng cũng chẳng nói một lời.

Hai tháng sau, Mạnh Nguyên Nương có hỉ mạch, vốn là chuyện mừng lớn, nhưng trong lòng nàng biết rõ đây là huyết mạch của ai.

Tống Quan Triều hay tin thì vui mừng khôn xiết, càng thêm yêu thương Mạnh Nguyên Nương, nhưng tình yêu này lại biến thành hình phạt không ngừng dày vò nàng.

Tinh thần của Mạnh Nguyên Nương càng ngày càng sa sút, tính tình cũng theo đó mà thay đổi thất thường, lại đúng thời điểm Hiền Vương khởi binh đoạt ngôi, tâm tư của Tống Quan Triều đều dồn vào chuyện phò trợ Hiền Vương lên ngôi, ít có thời gian bồi bạn với Mạnh Nguyên Nương.

Mạnh Nguyên Nương nhiều lần muốn bỏ đi nghiệp chủng này, ba lần bảy lượt đều thất bại. Đôi khi nàng vỗ về làn da trên bụng, thầm nghĩ, có khi đứa trẻ huyết mạch tương liên với nàng là một quái vật đến đòi mạng.

Tạ Dịch theo Hiền Vương xuất chinh, bởi vì cánh tay bị thương cần tĩnh dưỡng nên từng trở về Dương Châu một thời gian.

Hắn tới thăm Mạnh Nguyên Nương, thấy nàng sắc mặt tiều tụy, không còn nét sáng lán xinh đẹp như ngày nào, lại không ngừng hành hạ bản thân, bèn nghiến răng uy hiếp: "Trước mắt cục thế đã rõ, phụ vương đăng cơ là chuyện sớm muộn, rồi cũng sẽ tới ngày ta ngồi lên Hoàng vị. Nguyên Nương, nếu nàng dám làm hại bản thân và đứa trẻ trong bụng nàng, ta nhất định sẽ giết Tống Quan Triều!"

Mạnh Nguyên Nương nghe hắn nói vậy, khuôn mặt trắng bệch nặn ra một nụ cười: "Ta dùng nhiều cách lắm đấy, nhưng mạng đứa trẻ này quá dai dẳng. Nó là nghiệp chướng, là yêu quái! Tạ Dịch, ngươi cứ chống mắt lên chờ xem, ta sẽ sinh nó ra, nó đến đòi mạng ta, cũng có thể đến đòi mạng ngươi! Sớm muộn gì nó cũng biết thân thế của mình, biết hết những chuyện nhục nhã mà ngươi làm ra, nếu nó là nữ nhi thì cũng chịu, nhưng nếu nó là nam nhi, sát phụ đoạt ngôi cũng không phải là không thể!"

Nàng cười lớn, ánh mắt điên cuồng, lệ dài bên má.

Tạ Dịch sững người trước nụ cười vặn vẹo lại thê lương của nàng, nhiều năm sau đó, hắn nhìn thấy Lưu Diệu Văn sẽ nhớ tới câu nói ấy.

Nếu nó là nam nhi, sát phụ đoạt ngôi cũng không phải là không thể.
Chương 123. Tình oan nghiệt (4)
Mạnh Nguyên Nương mang thai mười tháng như bước một chân vào quỷ môn quan, chịu muôn vàn cực khổ mới sinh ra được đứa trẻ này.

Người đời đều nói một khi nữ nhân trở thành mẫu thân sẽ theo bản năng mặc kệ tất cả bảo vệ đứa con. Nhưng Mạnh Nguyên Nương chẳng mấy vui mừng, nàng vừa nghe thấy tiếng khóc của đứa trẻ liền bắt đầu điên dại, có lúc trân trân nhìn nó, chỉ muốn giơ tay bóp chết đứa trẻ.

Nhưng đứa trẻ ấy không chỉ biết khóc mà còn biết cười, khuôn mặt non nớt vừa động vào là đỏ hồng, miệng lắp bắp gì đó, nhưng tuổi còn quá nhỏ, chỉ có thể thổi ra bóng nước.

Mạnh Nguyên Nương vốn là một cô nương ngay cả gà vịt cũng không dám giết, đừng nói là một đứa trẻ, tuy rằng nàng thù ghét nó, nhưng cũng không nhẫn tâm giết hại, chỉ đành giao cho tì nữ và nhũ mẫu chăm sóc.

Không lâu sau, cục thế đã dần an ổn, Tống Quan Triều theo Hiền Vương trở lại Dương Châu, trở về ngôi nhà trúc nhỏ của y và Mạnh Nguyên Nương.

Tống Quan Triều nhìn thấy con trai thì vui mừng khôn xiết, cưng như trứng hứng như hoa, ôm vào lòng nâng niu chiều chuộng.

Y hỏi Mạnh Nguyên Nương: "Nàng đã đặt tên cho nhi tử hay chưa?"

Mạnh Nguyên Nương vừa nhìn là đã ghét nó thì làm sao còn nghĩ đến việc đặt tên? Nhưng trước mặt Tống Quan Triều, nàng chỉ đành miễn cưỡng nở nụ cười: "Đợi chàng đặt."

"Vương gia nghe nói nàng mẹ tròn con vuông, muốn ban tên cho đứa trẻ, không bằng cứ để ngài làm chủ." Tống Quan Triều ngẫm nghĩ một lát lại nói: "Người sống trên đời, phải có lòng trinh bạch, chí hướng mẫn tiệp. Chữ 'Mẫn' rất hay, nhũ danh cứ gọi là Mẫn Lang đi."

"Mẫn Lang con cha." Y làm mặt quỷ, chọc cho đứa nhỏ nằm trong nôi cười khanh khách.

Tống Quan Triều càng yêu thương đứa trẻ này bao nhiêu, Mạnh Nguyên Nương lại càng dằn vặt bấy nhiêu. Nhiều lúc nàng nghĩ, Tạ Dịch bề ngoài lỗi lạc, trong lòng lại âm hiểm, làm sao cho phép huyết mạch của bản thân lưu lạc bên ngoài nhận người khác làm cha? Ngày sau nếu hắn muốn nhận lại đứa con này, nhất định sẽ ra tay với Tống Quan Triều.

Mạnh Nguyên Nương sợ hãi, lại ân hận, chẳng biết ngày mai sẽ ra sao.

Hôm đó Tống Quan Triều bế Mẫn Lang đến Hiền Vương phủ dự tiệc, sẵn tiện thương nghị chuyện vào kinh đoạt ngôi.

Trên tiệc còn có đám người Bùi Thừa Cảnh, Từ Thủ Chước, nhìn thấy đứa trẻ đáng yêu lanh lợi nên ai cũng muốn bế thử. Tống Quan Triều hếch mũi lên trời, muốn cho đám đông nhìn thấy con trai mình đáng yêu thế nào, chuyền tay cho bọn họ bế thử.

Hào kiệt trên tiệc, trên tay ai chẳng nhuốm qua máu, chỉ có lúc bế Mẫn Lang sẽ để lộ chút dịu dàng hiếm thấy.

Đến cuối cùng, đứa trẻ đưa đến tay Tạ Dịch, hắn không biết bế trẻ con, căng thẳng đến nỗi tay chân cứng nhắc, nhưng từ lúc bế được Mẫn Lang là không buông tay nữa.

Tiệc tàn, Tống Quan Triều về nhà, kể chuyện trên tiệc cho Mạnh Nguyên Nương nghe, còn nói đùa: "Vừa lúc để Thế tử gia tập luyện trước, sau này Niệm Thanh có con, y sẽ không căng thẳng nữa."

Chẳng ngờ câu này lại động vào chỗ yếu ớt của Mạnh Nguyên Nương, cắt đứt cọng dây cứu mạng cuối cùng của nàng. Nàng giằng lấy Mẫn Lang, thô bạo ném vào nôi, Mẫn Lang chẳng biết va vào đâu, đau đớn òa khóc.

Tống Quan Triều thấy nàng phát điên, không thương tiếc đứa con này, vừa tức vừa gấp: "Nguyên Nương, nàng làm gì thế?"

Mạnh Nguyên Nương gần như sụp đổ mà hét lên: "Có lòng trinh bạch, chí hướng mẫn tiệp gì chứ, thứ nghiệt chủng này không xứng! Tống Quan Triều, nó không phải con của chàng! Nó không phải con của chàng! Chàng mau giết nó đi, cũng giết thiếp luôn! Chàng phải giết Tạ Dịch!"

Tống Quan Triều sững sờ, sắc mặt trắng bệch, một lúc lâu cũng chưa hồi thần, chỉ lặng người nhìn Mạnh Nguyên Nương lệ rơi đầy mặt, tựa như phát tiết mà kể lại chuyện đêm đó.

Tống Quan Triều nghe như có một trận gió bắc quét qua thân, đầu óc trống rỗng, đến khi hoàn hồn, trong tay đã cầm kiếm đi đến Hiền Vương phủ.

Thị vệ trong phủ Hiền Vương không biết tại sao Tống Quan Triều vẫn luôn trung thành lại dám cầm kiếm xông vào Vương phủ, chạy đến bao vây y, lại không dám ra tay thật.

Tống Quan Triều đứng giữa đình viện, sắc mặt bình tĩnh: "Bảo Tạ Dịch ra đây gặp ta."

Thị vệ khuyên ngăn: "Tống đại nhân, ngài muốn làm gì?"

Tống Quan Triều cầm chặt kiếm, áp chế cơn thịnh nộ, lại nói: "Bảo Tạ Dịch ra đây gặp ta!"

Nghe hạ nhân nói Tống Quan Triều cầm kiếm đến, Tạ Dịch liền biết y muốn giết mình, nhưng hắn cũng chẳng sợ hãi, đem kiếm ra đình gặp Tống Quan Triều.

"Tại sao?"

Tống Quan Triều chĩa kiếm về phía Tạ Dịch, đôi mắt ngấn lệ chứa đầy phẫn nộ, trực tiếp chất vấn: "Ta cúc cung tận tụy, hết lòng giúp đỡ Tạ gia các người! Tại sao, tại sao ngươi dám làm thế?"

Tạ Dịch rút kiếm, lạnh giọng đáp: "Tống Quan Triều, thiên mệnh trêu người, ta không còn gì để nói."

"Tốt! Tốt lắm!" Tống Quân Triều bật cười: "Tạ Dịch! Ngươi đi chết đi!"

Đường kiếm của Tống Quan Triều như gió cắt, trực tiếp chém vào động mạch cổ Tạ Dịch, không chút lưu tình.

Tạ Dịch thân là Hiền Vương Thế tử, thị vệ trong Vương phủ làm sao có thể giương mắt nhìn, bọn họ định ra tay ngăn cản, Tạ Dịch liền hét: "Đây là chuyện riêng của ta và Tống Quan Triều, kẻ nào cũng không được phép xen vào! Mau cút hết cho ta! Kẻ nào dám bước tới nghe được một chữ thì chém!"

Cho dù bọn thị vệ lo lắng nhưng cũng không dám trái lệnh Tạ Dịch, bèn cúi đầu rời khỏi đình. Lúc đó Hiền Vương không có mặt trong phủ, mọi chuyện đều do Tạ Dịch làm chủ, chẳng ai dám xen vào chuyện của hắn.

Cũng may Bùi Thừa Cảnh vừa khéo đến nghị sự cùng Tạ Dịch, chứng kiến Tống Quan Triều tựa như phát điên, lại dám ra tay giết người trong Vương phủ, mà người y muốn giết lại còn là Hiền Vương Thế tử, cho dù thành hay bại đều là tội chém đầu.

Bùi Thừa Cảnh vội vàng rút đao ra ngăn chặn thế công của hai người.

Tống Quan Triều vốn không phải đối thủ của Bùi Thừa Cảnh, tấn công thất bại, lửa giận càng hực: "Thừa Cảnh, huynh đừng cản ta!"

"Đế nghiệp sắp thành, đang là lúc then chốt, huynh muốn làm gì?" Bùi Thừa Cảnh cao giọng.

Tống Quan Triều lòng đau như cắt, chỉ vào mặt Tạ Dịch lớn tiếng mắng: "Quân đoạt thần thê, hắn vô đức vô nghĩa! Ta huynh cung kính phò tá, lẽ nào là vì giao giang sơn vào tay một Tạ gia như thế?"

Bùi Thừa Cảnh chấn kinh, ngoảnh đầu nhìn Tạ Dịch, nhưng hắn vẫn luôn im lặng từ đầu đến cuối, chẳng có ý muốn biện giải. Bùi Thừa Cảnh hiểu ra, chau mày, thở hắt ra một hơi.

"Đại chiến trước mắt, lại vì chuyện này làm lòng quân dao động, đem tâm huyết nhiều năm của ta và huynh đổ sông đổ biển, giang sơn này lại phải bấp bênh bao năm nữa, bách tính phải chịu khổ bao năm nữa?" Bùi Thừa Cảnh cất đao, lấy một thanh dao găm từ trong tay áo ra, vén áo quỳ trước mặt Tống Quan Triều: "Quan Triều huynh muốn báo thù là chuyện đương nhiên, nhưng kẻ ngu này chỉ cầu xin huynh lấy đại cục làm trọng, đợi sau khi mọi chuyện bình định hẳn giải quyết chuyện này, ta xin nhận phạt thay Thế tử trước."

Nói xong, Bùi Thừa Cảnh liền đâm ba nhát lên cánh tay mình, thủ pháp nhanh nhẹn dứt khoát, trong chớp mắt, máu đã đẫm vai.

Tạ Dịch thấy Bùi Thừa Cảnh làm thế, theo bản năng lui về phía sau, kinh hồn táng đảm.

Sắc mặt Tống Quan Triều chỉ còn lại đau thương, y thì thầm: "Ta huynh là huynh đệ, Thừa Cảnh, tình nghĩa bao năm của chúng ta bày ra trước mắt, thế mà huynh lại che đậy cho hắn?"

Cơn đau làm mặt Bùi Thừa Cảnh trắng bệch, vẫn run rẩy quỳ trước mặt y: "Quan Triều, huynh hiểu rõ hơn bất cứ ai, thứ ta che đậy không phải là Hiền Vương Thế tử."

Lúc đó Tống Quan Triều vẫn còn trẻ, nhưng đã chỉ huy nhiều trận thắng lớn, uy vọng trong quân không nhỏ. Nếu chuyện này bại lộ, những binh sĩ bất bình vì Tống Quan Triều nhất định sẽ làm tan vỡ lòng quân, thử hỏi một đội quân đã chia năm sẻ bảy thì làm sao hộ tống Hiền Vương vào kinh kế vị được?

Đạo lý đơn giản như thế, lẽ nào Tống Quan Triều không hiểu?

Đến cuối cùng, y cũng không giết Tạ Dịch, cũng chẳng còn mặt mũi đối mặt với Mạnh Nguyên Nương, không dám trở về nhà của cả hai, chỉ đành sống qua ngày trong tửu điếm, ngày đêm mượn rượu giải sầu.

Mạnh Nguyên Nương không đợi được Tống Quan Triều, chỉ nghĩ là y không cần mình nữa, đáng tiếc cho nữ nhi trâm anh thế phiệt, vốn mang trái tim khéo léo lanh lợi lại rực rỡ sống động, cuối cùng dần héo mòn thành tro.

Sau đó Tứ Vương gia nhân lúc bọn họ sơ hở bắt Mạnh Nguyên Nương làm con tin, ép Tống Quan Triều giao ra cách hành quân bố trận của Hiền Vương.

Lúc Tống Quan Triều đến cứu Mạnh Nguyên Nương, nàng nói: "Quan Triều, thiếp sợ chàng đến cứu thiếp, nhưng chàng đến đây, thiếp rất vui mừng, thế là đủ rồi. Đời này thiếp và chàng kết duyên phu phụ, tình sâu duyên mỏng, thiếp không muốn liên lụy chàng nữa, thiếp biết chàng mang chí hồng hạc cao vời, đừng vì thiếp mà tâm sinh loạn, thiếp Mạnh Nguyên Nương nguyện lòng thành toàn cho đại nghĩa của chàng!"

Ngày cả Tứ Vương gia cũng không ngờ Mạnh Nguyên Nương đã quyết tâm muốn chết, nàng vùng vẫy khỏi giam cầm, kề đao lên cổ, tự vẫn trước mặt Tống Quan Triều.

Tống Quan Triều không bao giờ quên được cảnh thê tử nằm trong vũng máu, tuy rằng Tứ Vương gia cuối cùng cũng đã đền mạng, nhưng Tống Quan Triều cũng dần sa sút, đôi khi lại điên điên dại dại.

Đến buổi chiều trước khi Hiền Vương nhập kinh đăng cơ, Tống Quan Triều vì hộ giá mà trúng tiễn độc.

Bùi Thừa Cảnh mời An Bá đến trị liệu cho y, An Bá nói tuy rằng độc tính nguy hiểm nhưng có thể dễ dàng thanh lọc.

Nhưng lúc đó Tống Quan Triều đã héo hon mòn mỏi, chỉ một lòng muốn chết, nói với Bùi Thừa Cảnh: "Tha cho ta đi tìm Nguyên Nương đi, coi như là ân xá cho ta, ân xá cho ta..."

Lúc chất độc dần ăn mòn sinh mạng Tống Quan Triều, con trai nhỏ Mẫn Lang vẫn ngây ngốc ngồi gần đó. Nó đã biết đi rồi, cũng biết gọi cha gọi nương, nhưng vẫn chưa biết chuyện gì đang diễn ra trước mắt, chỉ có thể rơi lệ, lại không khóc thành tiếng.

Tống Quan Triều nhìn Mẫn Lang, trong lòng không tránh khỏi căm hận, nhưng đôi khi, y lại thấy đứa trẻ này quá đáng thương.

Đến lúc trút hơi thở cuối cùng, Tống Quan Triều nắm chặt tay Hiền Vương, khẩn cầu: "Trẻ con vô tội, xin Hiền Vương chăm sóc Mẫn Lang, đừng để nó chịu khổ."

Hiền Vương biết những chuyện khốn nạn mà Tạ Dịch đã làm, trong lòng áy náy, bế Mẫn Lang trong lòng, trịnh trọng gật đầu: "Bản vương hứa với ngươi."

Tống Quan Triều thở dài một hơi, ánh mắt mờ dần, tay phải nâng giữa không trung, dường như muốn nắm lấy gì đó, nhẹ giọng nói: "Nguyên Nương, Nguyên Nương, nàng còn đợi ta đúng không? Nàng đừng trách ta, đợi ta một chút, đợi ta một chút, ta sắp đoàn tụ với nàng rồi..."

Mạnh Nguyên Nương, Tống Quan Triều qua đời, chỉ để lại một đứa trẻ.

Thân phận của đứa trẻ này liên quan đến vinh dự của cả Hoàng tộc, không thể để lộ ra ngoài, chỉ đành lấy danh cô nhi của công thần, được giữ lại trong cung nuôi dưỡng, ban họ Tạ, tên Diệu Văn.

Trừ những thần tử thân cận với Hiền Vương phủ, không ai biết thân phận thực sự của Lưu Diệu Văn, lại thêm Hoàng tộc cố ý che giấu, bọn họ cũng không dám rêu rao bên ngoài.

Nhưng Từ Thủ Chước chứng kiến hết thảy.

Ai cũng cho rằng Từ Thủ Chước và Tống Quan Triều trước nay bất đồng, người luôn bị Tống Quan Triều chèn ép là Từ Thủ Chước nay có cơ hội được tiên đế trọng dụng, Từ Thủ Chước nên vui mừng nhất trước cái chết của Tống Quan Triều mới phải.

Nhưng từ khi Tiên đế băng hà, Tạ Dịch kế vị, trên thế gian này đã chẳng còn bao nhiêu người từng biết người cùng nhau lớn lên, cùng nhau nếm trải cay đắng ngọt bùi với Tống Quan Triều là Từ Thủ Chước, người cùng Tống Quan Triều kết bái là Từ Thủ Chước, người không màng tính mạng cứu Tống Quan Triều khỏi ngục cũng là Từ Thủ Chước.

Từ Thủ Chước không dám nhận mình sống một đời lỗi lạc, nhưng đối với muội muội Từ Niệm Thanh và nghĩa đệ Tống Quan Triều mà ông ta yêu thương nhất trên đời, trước nay chưa từng nỡ để hai người chịu khổ.

Mầm mống thù hận gieo trong lòng ông ta từ cái chết của Tống Quan Triều, đến khi Từ Niệm Thanh vô duyên vô cớ bỏ mạng nơi cung cấm, điên cuồng phát triển trong lòng ông ta.

Ông ta không thể không hận Tiên đế, không hận Tạ Dịch, không hận Bùi Thừa Cảnh. Ông ta hận tất cả những kẻ có lỗi với Tống Quan Triều, có lỗi với Từ Niệm Thanh.

Mưu đồ đã lâu, chỉ đợi ngày này.

Từ Thủ Chước nay tuy đã già, nhưng đôi mắt vẫn âm trầm sắc bén như xưa.

Có lẽ thù hận đã chất chồng quá lâu, lâu đến nỗi ông ta có thể bình tĩnh kể lại.

"Hoàng thượng, người có hiểu không? Tống Quan Triều lòng ôm chí lớn, tuy thần cùng đệ ấy bất đồng chí hướng, nhưng đứng trước mặt đệ ấy cũng sẽ nhượng bộ mấy phần, tự nhận mình không bằng. Thần còn nghĩ rằng, sau này trên sách công danh, cái tên Từ Thủ Chước này bất quá chỉ là một vệt bụi mờ, chỉ có danh tự của đệ ấy mới có thể lưu danh thiên cổ, để lại tiếng thơm cho đời. Người như thế cuối cùng lại bị Bùi Thừa Cảnh và Tiên đế dùng cái danh đại nghĩa dồn vào chỗ chết, vừa nực cười lại vừa đáng thương."

Sùng Thiệu Đế lạnh giọng: "Thế nên hôm nay Thái sư muốn đến hỏi tội trẫm?"

"Hỏi tội? Nếu hỏi tội thật sự có ích, Quan Triều đã không chết... Thần sớm đã hiểu đạo lý này." Từ Thủ Chước chậm rãi nhắm mắt, ngữ khí nhẹ nhàng: "Lão thần nghĩ, nếu Bùi Thừa Cảnh đã thích làm anh hùng như thế, quan tâm quốc gia đại nghĩa như thế, vậy thì chỉ có chết vì đại nghĩa mới thỏa mãn được hắn, thế là lão thần liền giúp hắn một tay, để trên dưới Tống Gia anh linh mãi vùi thây nơi Tẩu Mã Xuyên."

Sùng Thiệu Đế chau mày, kinh hãi: "Ngươi nói cái gì?"

Từ Thủ Chước trào phúng mỉm cười, từng đường nét trên khuôn mặt ấy đều làm người ta sợ hãi.

Ông ta nói: "Ba tấm lụa vạch kế được gửi đến lều của Bảo Nhan Chử Tô Lặc, mượn tay Bắc Khương Thương Lang chủ giết chết ba mạng người Tống Gia."

Một viết: Bùi Hành nóng nảy, giả vờ bại trận dụ vào lòng địch.

Hai viết: Bùi Văn trọng tình, tàn sát Bùi Hành thị uy, lòng quân tất rã.

Ba viết: Nếu huynh trưởng thân vong, nhược tử Á Hiên có lẽ sẽ ra trận, trẻ người non dạ, không đáng nhắc tới.

Ba tấm lụa, gần như đưa tang cả nhà họ Bùi, nếu Chử Tô Lặc có thể toàn thắng, làm chủ Bắc Khương là có thể trở thành cánh tay đắc lực trên con đường báo thù của Từ Thủ Chước.

Đáng tiếc ông ta trăm mưu ngàn kế, lại chẳng ngờ tính sai một chuyện, Á Hiên không thể xuất chinh, đổi thành Lưu Diệu Văn thay người ra trận.

Đứa trẻ này bài binh bố trận quỷ dị, có thể khắc chế kinh nghiệm dày dặn của Bảo Nhan Chử Tô Lặc. Phụ tử Bảo Nhan bại trận liên miên, nếu không có Hạ Nhuận ra tay giúp bọn họ bắt được Lưu Diệu Văn, Tống Gia quân nhất định thắng trận khải hoàn.

Sùng Thiệu Đế chẳng ngờ trận Tẩu Mã Xuyên năm đó lại có nội tình như thế, trước giờ người gặp nguy không loạn, nhưng nhìn thấy nụ cười của Từ Thủ Chước vẫn theo bản năng toát mồ hôi lạnh.

Nếu đã dám đường đường chính chính nói ra, Từ Thủ Chước đã không sợ thiên tử giáng tội.

Sùng Thiệu Đế trấn định lại, chất vấn: "Thái sư định giết vua làm phản sao?"

"Kẻ muốn giết vua tạo phản là Tiêu Vương, chẳng bao lâu nữa hắn sẽ dẫn binh vào cung, ngồi lên vị trí của người." Từ Thủ Chước trầm giọng nói: "Hôm nay thần đến đây chỉ muốn hỏi Hoàng thượng một chuyện, cái chết của Niệm Thanh năm đó rốt cuộc là thế nào?"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: