Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Vận dộng quay quanh Mặt Trời của Trái ðất

2.2.2. Vận ñộng quay quanh Mặt Trời của Trái ðất

2.2.2.1. ðặc ñiểm vận ñộng

Trong khi chuyển ñộng quanh trục, ñồng thời Trái ðất cũng chuyển ñộng quanh

Mặt Trời. Mặt Trời ñã tạo ra một lực hấp dẫn ñể giữ cho các thiên thể trong Hệ Mặt

Trời chuyển ñộng xung quanh nó, trong ñó có Trái ðất. Tuy nhiên, Trái ðất không bị

rơi vào Mặt Trời vì Trái ðất vận ñộng quanh Mặt Trời theo quỹ ñạo elíp gần tròn với

vận tốc rất lớn (trung bình là 29,8 km/s). Vận tốc này sinh ra lực ly tâm, lực ly tâm của

Trái ðất vừa ñủ ñể triệt tiêu lực hấp dẫn của Mặt Trời ñối với Trái ðất nên Trái ðất

không bị rơi vào Mặt Trời.

Trái ðất vận ñộng quanh Mặt Trời theo quỹ ñạo elíp gần tròn, elíp này có hai

tiêu ñiểm cách nhau khoảng 5 triệu km, trong ñó Mặt Trời là một tiêu ñiểm. Quỹ ñạo

elíp chuyển ñộng của Trái ðất quanh Mặt Trời có ñộ dài khoảng 943.040.000 km.

Quỹ ñạo elíp

Tiêu ñiểm

3-5/7

Viễn nhật                                             Cận nhật

1-3/1

152,171 triệukm       5 triệu km       147,166 tr km

Hình 2.19. Quỹ ñạo chuyển ñộng của Trái ðất quanh Mặt Trời

Do chuyển ñộng trên quỹ ñạo elíp, nên trong khi chuyển ñộng có lúc Trái ðất

ñến gần Mặt Trời nhất gọi là ñiểm cận nhật, cách Mặt Trời 147.166.480 km (vào ngày

1-3 tháng 1); lúc ở xa Mặt Trời nhất là ñiểm viễn nhật, cách Mặt Trời 152.171.500 km

49

(vào ngày 3-5 tháng 7); khoảng cách trung bình 149.597.887,5 km. Vì vậy, khi ñứng trên Trái ðất quan sát ta sẽ thấy khung Mặt Trời lớn nhất vào ñầu tháng 1 và nhỏ nhất những ngày ñầu tháng 7. Vận tốc chuyển ñộng trên quỹ ñạo thay ñổi, khi ở ñiểm cận nhật lực hút của Mặt Trời lớn, nên vận tốc tăng lên lớn nhất, bằng 30,3 km/s; còn ở viễn nhật ñiểm, vận tốc giảm xuống nhỏ nhất, bằng 29,3 km/s. Vận tốc trung bình 29,783 km/shay 107.218 km/h.

Mặt phẳng chứa quỹ ñạo chuyển ñộng của Trái ðất gọi là mặt phẳng Hoàng

ñạo. Mặt phẳng Hoàng ñạo cắt thiên cầu theo một ñường tròn lớn gọi là Hoàng ñạo.

Thiên cầu

Hoàng ñạo

Quỹ ñạo

Tráiðất

Mặt phẳng Hoàng ñạo

Hình 2.20. Quỹ ñạo Trái ðất, mặt phẳng Hoàng ñạo, Hoàng ñạo, thiên cầu.

Trái ðất chuyển ñộng quanh Mặt Trời có chiều từ Tây sang ðông, cùng chiều tự quay quanh trục nếu nhìn từ Bắc thiên cực xuống mặt phẳng quỹ ñạo. Thời gian Trái ðất chuyển ñộng ñược một vòng trên quỹ ñạo hết 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây (365,2422 ngày), thời gian này gọi là năm Thiên văn.

Mặt phẳng xích ñạo

66o33’

Mặt phẳng Hoàng ñạo

23o27’

Hình 2.21. ðộ nghiêng của trục Trái ðất với mặt phẳng Hoàng ñạo

50

Trong khi chuyển ñộng, mặt phẳng xích ñạo Trái ðất nghiêng với mặt phẳng

Hoàng ñạo một góc 23o 27'. Vì thế, trong khi chuyển ñộng trên quỹ ñạo trục Trái ðất

luôn nghiêng với mặt phẳng Hoàng ñạo góc 66o33' và luôn giữ nguyên phương, không

ñổi hướng (trục Trái ðất luôn giữ phương song song với chính nó) trong quá trình

chuyển ñộng trên quỹ ñạo (thực ra nếu quan sát trong một thời gian dài thì vẫn có sự

thay ñổi do hiện tượng tiến ñộng với chu kỳ 26.000 năm, hiện nay thiên cực Bắc nằm

rất gần sao Bắc cực, sau 13.000 năm nữa sao Chức Nữ sẽ là sao Bắc cực). Chuyển

ñộng ñó gọi là chuyển ñộng tịnh tiến của Trái ðất quanh Mặt Trời.

2.2.2.2. Hệ quả của vận ñộng

- Chuyển ñộng biểu kiến của Mặt Trời giữa hai chí tuyến

Trong khi chuyển ñộng quanh Mặt Trời trục nghiêng của Trái ðất luôn hướng về phía ngôi sao Bắc cực. Vì vậy, có lúc nửa bán cầu Bắc ngả về phía Mặt Trời (22/3 -

22/9), có lúc nửa bán cầu Nam ngả về phía Mặt Trời (24/9 - 20/3).

Hàng năm vào ngày 21/3 (ngày Xuân phân), ánh sáng Mặt Trời chiếu thẳng góc

vào xích ñạo, lúc ñó ñứng ở xích ñạo ta thấy Mặt Trời nằm ngay trên ñỉnh ñầu vào

ñúng 12 giờ trưa (thiên ñỉnh). Sau ñó (22/3) Mặt Trời chuyển ñộng dần lên phía Bắc,

ñến 22/6 (ngày Hạ chí) Mặt Trời chiếu thẳng góc lên vĩ ñộ 23o27’ Bắc (chí tuyến Bắc).

Từ chí tuyến Bắc, Mặt Trời lại chuyển ñộng quay về xích ñạo, ñến 23/9 (ngày Thu

phân) chiếu thẳng góc lên xích ñạo (0o). Từ 24/9 Mặt Trời chuyển ñộng xuống Nam

bán cầu và chiếu thẳng góc lên vĩ ñộ 23o27’ Nam (chí tuyến Nam) vào ngày 22/12

(ngày ðông chí), sau ñó Mặt Trời chuyển ñộng quay trở lại xích ñạo vào ngày 21/3.

Quỹ ñạo elíp

Tiêu ñiểm

3-5/7

Viễn nhật                                           Cận nhật

1-3/1

152,171 triệukm       5 triệu km       147,166 tr km

Hình 2.19. Quỹ ñạo chuyển ñộng của Trái ðất quanh Mặt Trời

Sự chuyển ñộng ảo giác của Mặt Trời trong một năm giữa khu vực nội chí

tuyến gọi là chuyển ñộng biểu kiến của Mặt Trời (chuyển ñộng nhìn thấy nhưng không có thực).

Như vậy, trong một năm ta thấy từ 22/3 ñến 22/9 Bắc bán cầu ngả về phía Mặt

Trời, từ 24/9 ñến 20/3 Nam bán cầu ngả về phía Mặt Trời. Ngày 21/3 và 23/9 trục Trái

51

ðất ñứng thẳng nên không quay bán cầu nào về phía Mặt Trời, ngày 22/6 trục Trái ðất

ở Bắc bán cầu nghiêng mạnh nhất về phía Mặt Trời; ngày 22/12 trục Trái ðất ở Nam

bán cầu lại nghiêng mạnh nhất về phía Mặt Trời.

Với ñặc ñiểm chuyể                                                                                                                  hn ñộng này, ánh sáng Mặt Trời chỉ chiếu thẳng góc xuống

khu vực nội chí tuyến mỗi năm 2 lần, trên chí tuyến mỗi năm một lần, từ chí tuyến Bắc

và Nam trở về cực không                                                                                                                           ncó hiện tượng chiếu thẳng góc và ở vùng ngoài chí tuyến

Bắc về cực Bắc suốt năm chỉ thấy Mặt Trời ở phương Nam, còn vùng                                                                   ngoài chí tuyến

Nam về cực Nam suốt năm                            lại thấy Mặt Trời ở phương Bắc. Chuyển                                          ñộng biểu kiến

còn là nguyên nhân gây ra                             sự thay ñổi nhiệt ñộ trên bề mặt Trái ðất                                              trong năm (Hà

Nội hai lần Mặt Trời chiếu t                                                                                                                        hhẳng góc khoảng 25-26 tháng 5 và 18-19 tháng 7).

- Sự thay ñổi các thời kỳ nóng - lạnh trong năm

Nhiệt của bề mặt ñất phụ thuộc vào góc nhập xạ và thời gian                                                                  chiếu sáng của

Mặt Trời. Do trục của Trái                                                                                                                          nðất nghiêng trên mặt phẳng Hoàng ñạo nên khi chuyển

ñộng tịnh tiến quanh Mặt T                                                                                                                        rrời có lúc nửa cầu Bắc ngả về phía Mặt Trời, lúc nửa cầu

Nam ngả về phía Mặt Trời                           tạo nên sự luân phiên các thời kỳ nóng, lạnh ở hai nửa cầu

Bắc, Nam.

Từ 22/3 ñến 22/9, nửa cầu Bắc ngả về phía Mặt Trời nên có góc                                                              nhập xạ lớn và

thời gian chiếu sáng dài (do                             Mặt Trời chuyển ñộng biểu kiến từ xích ñạo về chí tuyến

Bắc rồi lại về xích ñạo nên                                                                                                                          ưnửa cầu Bắc thấy Mặt Trời nằm cao trên ñường chân trời),

ñây là thời kỳ nóng của bán                           cầu Bắc. Còn nửa cầu Nam thời kỳ này không có Mặt Trời

lên thiên ñỉnh, góc nhập xạ                                                                                                                          tnhỏ (Mặt Trời nằm thấp trên ñường chân trời) nên ñây là

thời kỳ lạnh. Từ 24/9 ñến 20/3 diễn ra ngược lại, bán cầu Nam là thời kỳ nóng còn bán

cầu Bắc là thời kỳ lạnh. Riêng ở khu vực xích ñạo góc tới của Mặt Trời                                                                     thay ñổi không

ñáng kể, nên sự phân biệt thời kỳ nóng lạnh không rõ ràng.

Hình 2.23. Vận ñộng của Trái ðất và các mùa trong năm

Trên quỹ ñạo của Trái ðất có 2 vị trí xuân phân (21/3) và thu           phân (23/9) là

mốc ñánh dấu thời kỳ nóng  lạnh trong năm.

ðể tính góc nhập xạ   Mặt Trời trong năm, người ta sử dụng công  thức:

52

Trường hợp vĩ ñộ φ cần tính góc nhập xạ Mặt Trời lớn hơn xích vĩ của Mặt Trời

(δ), φ ≥ δ:

hA = 90o -  φA + δ (tại bán cầu mùa hạ)

hB = 90o -  φA - δ (tại bán cầu mùa ñông)

Trường hợp vĩ ñộ φ cần tính góc nhập xạ Mặt Trời nhỏ hơn xích vĩ của Mặt Trời (δ), φ ≤ δ:

hA = 90o +  φA - δ (tại bán cầu mùa hạ)

hB = 90o -  φA - δ (tại bán cầu mùa ñông)

- Hiện tượng ngày ñêm dài ngắn khác nhau

Trong khi chuyển ñộng quanh Mặt Trời, nếu trục Trái ðất thẳng ñứng thì ta sẽ có ñường vòng tròn phân chia sáng tối ñi qua ñịa trục, ñiều này sẽ làm cho thời gian ngày và ñêm trên Trái ðất ở bất cứ ñâu (trừ ñiểm cực) có thời gian ngày và ñêm bằng nhau (12 tiếng ngày và 12 tiếng ñêm).

Tuy nhiên, vì ñịa trục Trái ðất nghiêng trong khi chuyển ñộng quanh Mặt Trời

nên vòng tròn phân chia sáng tối luôn thay ñổi. Từ 22/3 - 22/9 bán cầu Bắc ngả về phía

Mặt Trời, trục Trái ðất ở Bắc bán cầu nghiêng hẳn về phía Mặt Trời. Vòng tròn phân

chia sáng tối không trùng với ñịa trục, nằm sau ñịa trục Bắc nhưng lại nằm trước ñịa

trục Nam, ngày ở bán cầu Bắc dài hơn ngày ở bán cầu Nam. ðây là thời gian bán cầu

Bắc nghiêng về phía Mặt Trời, nên vị trí của Mặt Trời trên ñường chân trời cao ñã làm

cho thời gian lặn của Mặt Trời muộn, nhưng lại mọc sớm hơn (kéo dài thời gian chiếu

sáng), hiện tượng ñó làm cho thời gian ngày dài hơn thời gian ñêm. Thời gian ngày

càng kéo dài khi càng ñi về cực.

22/3 - 22/9                                                                                                 24/9 - 20/3

Hình 2.24. Diện tích chiếu sáng theo thời kỳ trong năm

Từ 24/9 - 20/3 diễn ra ngược lại ở nửa cầu Nam. Khi bán cầu Nam ngả về phía Mặt Trời, nên bán cầu Nam có ngày dài hơn bán cầu Bắc. Thời gian ngày của bán cầu Nam cũng dài hơn ñêm, càng ñi về cực Nam ngày càng dài.

Vào thời ñiểm ngày hạ chí 22/6, Mặt Trời lên thiên ñỉnh tại chí tuyến Bắc lúc

12 giờ trưa. Trong ngày này, tất cả mọi ñiểm ở bán cầu Bắc ñều có ngày dài nhất trong năm, còn vào ngày ñông chí 22/12 thì ngược lại ở bán cầu Nam.

53

Ở khu vực xích ñạo, ngày - ñêm luôn luôn bằng nhau, từ vòng cực Bắc

(66o33’B) về cực Bắc trong thời gian từ 22/3 ñến 22/9 là khu vực nằm trước vòng

phân chia sáng tối (mặt Trời luôn nằm cao trên ñường chân trời, phần cực dẹt này ngả

hẳn về phía Mặt Trời) nên suốt thời gian này chỉ có ngày không có ñêm (gọi là ngày

ñịa cực), thời gian ngày kéo dài 186 ngày. Trong thời gian ñó, từ 66o33’N về cực Nam

do nằm hoàn toàn sau vòng sáng tối nên trong suốt thời gian này chỉ có ñêm (gọi là

ñêm ñịa cực). Thành phố Xanh Pêtecbua của Nga ở khoảng 60oB, vào ngày 22/6 Mặt

Trời lặn lúc 21 giờ 14 phút nhưng mới 2 giờ 44 phút ñã mọc, thời gian hoàng hôn lại

kéo dài nên ñúng nửa ñêm vẫn sáng trời ñủ ñể viết mà không cần ñèn, người Nga gọi

là “ðêm trắng”.

Còn Nam bán cầu ngược lại, từ 24/9 ñến 20/3 vòng phân chia sáng tối nằm trước ñịa trục nên trong thời gian này từ 66o33’ về cực Nam chỉ có ngày, thời gian ngày kéo dài 179 ngày (số ngày ở bán cầu Bắc nhiều tới 186 ngày là do thời gian từ 22/3 - 22/9 Trái ðất chuyển ñộng trên quỹ ñạo ở khu vực gần ñiểm viễn nhật, sức hút Mặt Trời giảm nên vận tốc chuyển ñộng giảm làm kéo dài số ngày. Còn ở bán cầu Nam chỉ có 179 ngày, là vì thời gian từ 24/9 - 20/3 Trái ðất chuyển ñộng trên quỹ ñạo ở khu vực gần ñiểm cận nhật, sức hút Mặt Trời lớn làm cho vận tốc tăng lên nên chỉ chuyển ñộng trong từng ñó ngày). Trong lúc này, từ vòng cực Bắc trở về cực bắc do nằm sau vòng phân chia sáng tối nên chỉ có ñêm.

Ngày 21/3                       Ngày 22/6            Ngày 23/9                  Ngày 22/12

Hình 2.25. Diện tích ñược chiếu sáng vào các ngày phân và ngày chí

Bảng 2.5. Thời gian ngày dài nhất trong năm trên các vĩ ñộ ở nửa cầu Bắc và

Nam vào ngày 22/6.

Vĩ ñộ

66o33’

   65o

60o

50o

40o

30o

20o

10o

0o

Thời gian ngày dài nhất ở

           nửa cầu Bắc

24h 0 phút

21h 09 phút

18h 30 phút

16h 08 phút

14h 51 phút

13h 56phút

13h 13 phút

12h 35 phút

12h 0 phút

Thời gian ngày dài nhất

       Ở nửa cầu Nam

0h 0 phút

2h 51 phút

5h 30 phút

7h 42 phút

9h 09 phút

10h 04 phút

10h 47 phút

11h 25 phút

12h 0 phút

54

Bảng 2.6. Số ngày hoặc ñêm dài 24 giờ ở các vĩ ñộ từ vòng cực trở lên

Nửa cầu Bắc                90o                         85o                           80o                           75o                           70o                     Nửa cầu Nam

Số ngày có 24 giờ           186                161                 134                 103                  65               Số ngày có 24

toàn ngày                                                                                                                                     giờ toàn ñêm

Số ngày có 24 giờ           179                153                 127                  97                   60               Số ngày có 24

toàn ñêm                                                                                                                                     giờ toàn ngày

Cách tính ngày ñêm như trên là tính về phương diện thiên văn, nghĩa là xem

ban ngày là thời gian Mặt Trời ở trên ñường chân trời, còn ban ñêm là thời gian Mặt

Trời ở dưới ñường chân trời. Trong thực tế có sự biến ñộng. Vì bao quanh mặt ñất là

các lớp khí quyển song song, nó có tác dụng khúc xạ ánh sáng Mặt Trời, nên Mặt Trời

trước khi mọc và sau khi lặn một thời gian vẫn khúc xạ ánh sáng ñến mặt ñất, làm cho

mặt ñất sáng trước khi Mặt Trời mọc và chưa tối ngay sau khi Mặt Trời lặn. Vì vậy, so

với ngày theo thiên văn thì ngày thực tế thường dài hơn và ñêm ngắn hơn. Chẳng hạn,

tại xích ñạo ngày theo thiên văn là 12 giờ nhưng ngày thực tế dài gần 12 giờ 5 phút;

ñêm gần 11 giờ 55 phút. Vị trí có ngày ñịa cực và ñêm ñịa cực trong thực tế cũng có

thay ñổi so với lý thuyết và thuần túy thiên văn, ngày ñịa cực bắt ñầu từ vĩ tuyến

65o59’; ñêm ñịa cực bắt ñầu từ vĩ tuyến 67o7’. Thời gian ñêm ñịa cực cũng không phải

là tối hết mấy tháng liền, mà cứ 24 giờ lại có ánh bình minh và hoàng hôn liên tiếp

nhau một thời gian ngắn, càng gần cực thì thời gian ngày càng ngắn lại và ánh sáng

càng yếu. Từ vĩ ñộ 85o sẽ không còn hiện tượng ñó nữa, chỉ còn lại ñêm tối suốt 24

giờ.

- Các vành ñai nhiệt trên Trái ðất

Do trục Trái ðất nghiêng trên mặt phẳng quỹ ñạo (66o 33'), nên quanh năm Mặt

Trời chỉ chiếu thẳng góc xuống khu vực nội chí tuyến (23o27’B - 23o27’N) làm cho

khu vực này nhận ñược năng lượng Mặt Trời lớn nhất, nóng quanh năm gọi là ñới

nóng hay nhiệt ñới; khu vực ngoại chí tuyến ñến vòng cực (23o27’- 66o33’) của mỗi

bán cầu không có hiện tượng Mặt Trời chiếu thẳng góc, góc chiếu chếch nên nhận

ñược lượng nhiệt trung bình, khí hậu mát mẻ, ôn hòa gọi là ñới ôn hòa hay ôn ñới;

vùng từ vòng cực Bắc và Nam ñến cực Bắc và Nam (66o33’- 90o), nhận ñược lượng

nhiệt của Mặt Trời nhỏ nhất nên lạnh giá quanh năm gọi là vành ñai hàn ñới hay ñới

lạnh. Sự phân chia này chỉ căn cứ vào một nhân tố là sự phân bố bức xạ Mặt Trời, nên

chỉ có giá trị về mặt lý thuyết. Dựa vào ñường ñẳng nhiệt hàng năm ñể phân chia có:

Vµnh ®ai l¹nh100C

Vanh ñai on hoaø

Vòng ñai lạnh                                                     200C

Vòng ñai                        Vanh ñai nong

ôn hòa

Vòng ñai nóng                                            200C

Vanh ñai on hoaø

600B

300B

300N

600N

a                                 b                Vµnh ®ai l¹nh100C

Hình 2.26. Vành ñai nhiệt theo vĩ ñộ (a) và theo ñường ñẳng nhiệt (b)

55

+ Vành ñai nóng: giới hạn bởi ñường ñẳng nhiệt hàng năm + 20o ở mỗi bán cầu + Vành ñai ôn hòa: nằm giữa ñường ñẳng nhiệt hàng năm + 20o và + 10o.

+ Vành ñai lạnh nằm giữa ñường ñẳng nhiệt +10o và 0o

+ Vành ñai băng giá vĩnh viễn, nhiệt ñộ trung bình 0o.

- Cách tính lịch và các loại lịch

ðể tính toán thời gian, con người Cổ ñại ñã dựa vào thiên văn ñể làm lịch, ñến nay biết ñược 3 loại lịch: âm lịch, dương lịch và âm - dương lịch.

• Âm lịch: Là loại lịch cổ của người Xume, tiền thân của người Babilon. Họ căn

cứ vào vận ñộng của Mặt Trăng quanh Trái ðất ñể tính năm, tháng. Vì mỗi chu kỳ

trăng chỉ có 29,5 ngày, nên họ quy ước mỗi năm có 12 tháng: tháng lẻ (1,3,5,7,9,11)

có 30 ngày, tháng chẵn (2,4,6,8,10,12) có 29 ngày, như vậy một năm có 354 ngày.

Loại lịch này ñược làm ra bởi những người làm nghề chăn nuôi, ít phụ thuộc vào thời

tiết nên lịch này ñã không phù hợp với hiện tượng thời tiết của tự nhiên.

• Dương lịch: ðược người Ai Cập sử dụng từ thời cổ ñại, dương lịch căn cứ chủ yếu vào sự vận ñộng của Trái ðất quanh Mặt Trời ñể tính năm, tháng.

Trái ðất vận ñộng quanh Mặt Trời một vòng mất 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, thời gian này là năm thật gọi là năm thiên văn. Nhưng ñể tiện cho việc làm lịch, người ta chỉ lấy chẵn 365 ngày, gọi là năm lịch. ðó là dương lịch.

Nếu lấy tròn 365 ngày làm một năm lịch thì năm lịch sẽ ngắn hơn năm thiên

văn khoảng 1/4 ngày, cứ 4 năm mất gần 1 ngày. Như vậy, sau một số năm lịch sẽ

không ñúng với biểu hiện của thời tiết và khí hậu. Năm 45 sau Công nguyên, Hoàng

ñế La Mã là Giun Xêda (Jules César) ñã giao cho Sossigène sửa lại dương lịch cũ ở La

Mã, bằng cách cứ sau 3 năm (ñến năm thứ tư) lại có một năm nhuận có thêm 1 ngày,

năm nhuận có 366 ngày. Năm ñó gọi là năm nhuận. Năm nhuận ñược quy ñịnh là năm

mà con số của năm chia hết cho 4 (ví dụ: 2004, 2008, 2012). Xêda cũng quy ñịnh mỗi

năm có 12 tháng, tháng lẻ (1,3,5,7,9,11) có 31, tháng chẵn 30 ngày, tháng 2 có 29 ngày

(do Xêda cắt bớt 1 ngày cho vào tháng 7 là tháng sinh của ông). Lịch ñó gọi là lịch

Juli. Sau Xêda, hoàng ñế Ôgust (Augustus) lại cắt một ngày của tháng 2 thêm vào

tháng sinh của mình là tháng 8. Sở dĩ rút bớt các ngày của tháng 2 là vì ñây là tháng xử

tội nhân tử hình. ðồng thời sửa các tháng 9 và 11 từ 31 ngày chỉ còn 30 ngày, thay cho

các tháng 10 và 12 từ 30 ngày lên 31 ngày. Năm nhuận tháng 2 có 29 ngày. Với cách

tính này thì mỗi năm thật chậm hơn năm lịch là 11 phút 14 giây, sau 384 năm lịch

chậm mất 3 ngày.

Năm 325 lịch này ñược sửa lại, nhưng ñến 1582 lịch này ñã chậm mất 10 ngày,

Giáo hoàng Grêgoa XIII (Grégoire) lúc ấy ñã quyết ñịnh bỏ 10 ngày sai (ñổi ngày

5/10/1582 lên 15/10/1852) kể từ năm 325 sau công nguyên cho phù hợp với lễ phục

sinh vào ngày 21/3 và từ ñó cứ 100 lần nhuận trong 400 năm lại bỏ ñi 3 ngày. Những

năm nhuận bị bỏ là những năm cuối thế kỷ mà con số hàng trăm không chia chẵn cho

4 như: 1700, 1800, 1900...(17, 18, 19 không chia chẵn cho 4).

56

Năm nhuận ñược quy ñịnh là năm mà con số của năm chia hết cho 4, những năm chứa số nguyên thế kỷ thì phải chia hết cho 400. (Ví dụ: các năm 1700,1800,1900 không có nhuận vì không chia chẵn cho 400, những năm nhuận là 1600, 2000, 2400). Lịch này gọi là lịch Grêgoa hiện thế giới vẫn sử dụng. Với cách tính này, lịch chúng ta ñang sử dụng sẽ còn ñúng trong một thời gian dài nữa.

Bảng 2.7. Các tháng, ngày của dương lịch

Tháng       1       2        3       4       5        6       7       8       9      10     11      12

Ngày        31     28      31      30     31      30      31     31     30     31     30      31

• Âm - dương lịch: ðược xây dựng trên cơ sở cả 2 vận ñộng của Mặt Trăng

quanh Trái ðất và Trái ðất quanh Mặt Trời. Một năm âm dương lịch cũng có 12

tháng, mỗi tháng có 29 hoặc 30 ngày theo chu kỳ vận ñộng của Mặt Trăng quanh Trái

ðất là 29,5 ngày. Cho nên mỗi năm Âm dương lịch chỉ có 354 hoặc 355 ngày ngắn

hơn dương lịch 10 ngày. ðể ñảm bảo sự hài hòa phù hợp giữa ñộ dài của âm lịch và

dương lịch, cũng như sự phù hợp của thời tiết và khí hậu, người ta ñã ñặt ra lịch nhuận.

Cứ khoảng 3 năm lại có một năm nhuận 13 tháng, năm nhuận ñược tính là lấy năm

dương lịch chia cho 19, nếu số dư là một trong các số 0, 3, 6, 9, 11, 14, 17 thì ñó là

năm nhuận.

Vì âm - dương lịch ñược tính toán dựa vào chu kỳ vận ñộng của Mặt Trăng

quanh Trái ðất ñể phân chia các tháng, nên nó sai với chu kỳ chuyển ñộng của Trái

ðất quanh Mặt Trời mỗi năm khoảng 10 ngày. Mặc dù cứ 3 năm ñã có 1 tháng nhuận,

nhưng có năm lịch vẫn sai với chu kỳ chuyển ñộng của Trái ðất tới 20 ngày. Do ñó

các mùa của thời tiết không tuần hoàn như dương lịch, nếu căn cứ vào vào âm - dương

lịch ñể làm nông nghiệp sẽ không phù hợp, nên cần sử dụng dương lịch.

Hiện nay bên cạnh dương lịch, nước ta vẫn sử dụng âm - dương lịch (quen gọi

là âm lịch) vì âm - dương lịch gắn liền với nhiều phong tục tập quán của nhân dân ta.

- Cách tính mùa và các mùa trong năm

Do Mặt Trời chuyển ñộng biểu kiến trên Trái ðất trong khu vực nội chí tuyến, nên có sự phân bố và hấp thụ năng lượng Mặt Trời khác nhau trong một năm, ñặc ñiểm ñó ñã sinh ra mùa.

Ở nửa bán cầu Bắc:

• Mùa xuân từ 21- 3 ñến 22 - 6, lúc này Mặt Trời bắt ñầu chuyển ñộng biểu kiến

từ xích ñạo lên chí tuyến Bắc. Lượng nhiệt Mặt Trời bắt ñầu tăng lên, thời gian chiếu

sáng dài ra, nhưng do vừa trải qua mùa ñông nên bị tỏa nhiệt mạnh, mặt ñất còn lạnh,

nên lượng nhiệt bức xạ của Mặt Trời làm cho nhiệt ñộ chưa tăng cao, thời tiết ấm áp,

ôn hòa.

• Mùa hạ từ 22 - 6 ñến 23 - 9, lúc này Mặt Trời chuyển ñộng biểu kiến từ chí tuyến Bắc về xích ñạo. Mặt ñất và cả trong không khí ñã tích lũy ñược nhiệt lớn trong mùa xuân, nhưng lại ñược nhận thêm bức xạ lớn, nhiệt ñộ mặt ñất và không khí tăng cao nên thời tiết nóng nực.

57

• Mùa thu từ 23 - 9 ñến 22 - 12, lúc này Mặt Trời chuyển ñộng biểu kiến xuống chí tuyến Nam, tuy không nhận ñược bức xạ Mặt Trời lớn nhưng lượng nhiệt tích trữ trong mùa hạ còn cao. Vì vậy, lượng nhiệt giảm dần, thời tiết mát mẻ.

• Mùa ñông từ 22 - 12 ñến 21- 3, Mặt Trời tiếp tục chuyển ñộng biểu kiến ở Nam bán cầu, bề mặt ñất và khí quyển ñã bị giảm nhiệt trong mùa thu nay tiếp tục mất nhiệt, nên nhiệt ñộ ở Bắc bán cầu xuống thấp nhất thời tiết lạnh giá.

Ở nửa bán cầu Nam, biểu hiện mùa hoàn toàn ngược lại. Lúc bán cầu Bắc là

mùa xuân - bán cầu nam là mùa thu, bán cầu Bắc mùa hạ - bán cầu Nam mùa ñông,

bán cầu Bắc mùa thu - bán cầu Nam mùa xuân, bán cầu Bắc mùa ñông - bán cầu Nam

mùa hạ.

Sự biểu hiện mùa chỉ rõ rệt ở vùng ôn ñới, những nước nằm trong khu vực nội chí tuyến và ngoài vòng cực Bắc và Nam biểu hiện mùa không hoàn toàn rõ rệt.

Nước ta nằm trong khu vực nội chí tuyến nên biểu hiện mùa không rõ rệt.

Cách tính mùa này chỉ phù hợp với vùng có khí hậu ôn ñới, các nước ở vùng ôn ñới sự phân hóa khí hậu ra 4 mùa rõ rệt và

phù hợp theo dương lịch.

* Theo lịch phương ðông, khu vực

nằm trong nội chí tuyến cách tính mùa có

khác. Khi 4 ngày chính (xuân phân, hạ chí,

thu phân, ñông chí) ñó là ngày giữa mùa của

4 mùa. Còn cách tính mùa là:

+ Mùa xuân: từ 5/2 lập xuân ñến 6/5

+ Mùa hạ: từ 6/5 lập hạ ñến 8/8

Hình 2.27. Phân chia mùa theo dương lich

+ Mùa thu: từ 8/8 lập thu ñến 8/11                        và âm dương lịch ở bán cầu Bắc

+ Mùa ñông: từ 8/11 lập ñông ñến 5/2.

* Trong thực tế người ta còn chia ra các mùa: mùa khí hậu (mùa nóng, mùa lạnh, mùa mưa, mùa khô), mùa thủy văn (mùa lũ, mùa cạn), mùa nông nghiệp (theo thời vụ: vụ chiêm, vụ mùa)... 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro