Van de max 3
VẤN ĐỀ 3
QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ: NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC
1. Nguồn gốc của ý thức
Vấn đề nguồn gốc, bản chất của ý thức là một vấn đề hết sức phức tạp của triết học, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học. Trên cơ sở của những thành tựu triết học duy vật, của khoa học, của thực tiễn xã hội triết học Mác-Lênin đã cho chúng ta nhận thức rõ được về nguồn gốc và bản chất của ý thức.
* Quan điển triết học ngoài mácxít về ý thức
- Quan điểm duy tâm khách quan: tìm nguồn gốc của ý thức từ một lực lượng siêu tự nhiên (ý niệm, Brahman, Thượng đế, Trời, v.v.).
- Quan điểm duy tâm chủ quan: ý thức là cái vốn có của con người, không do thần thánh ban cho, cũng không phải là sự phản ánh thế giới bên ngoài.
- Quan điểm duy vật tầm thường: ý thức là một dạng vật chất; “óc tiết ra ý thức cũng như gan tiết ra mật”.
* Quan điểm duy vật biện chứng về ý thức
Ý thức ra đời là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên và xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: ý thức là thuộc tính (thuộc tính phản ánh) của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người.
Bộ óc là cơ quan vật chất của ý thức. Nhưng tại sao bộ óc con người lại có thể sinh ra ý thức, là mối liên hệ vật chất với thế giới khách quan. Chính mối liên hệ vật chất này đã hình thành nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào bộ óc con người.
+ Phản ánh là thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác động và vật nhận tác động, và vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động.
+ Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
ü Hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh là phản ánh vật lý, hoá học. Các hình thức này có tính chất thụ động, chưa có sự định hướng, chưa có sự lựa chọn.
ü Hình thức phản ánh sinh học đặc trưng cho cho giới tự nhiên sống, là sự phát triển mới về chất trong hình thức phản ánh của vật chất.
ü Hình thức phản ánh của cá thể sống đơn giản nhất là tính kích thích, là sự trả lời của cơ thể đối với những tác động của môi trường.
ü Hình thức phản ánh tiếp theo của các động vật chưa có hệ thần kinh, là tính cảm ứng, tính nhạy cảm đối với sự thay đổi của môi trường.
ü Hình thức phản ánh của các động vật có hệ thần kinh là các phản xạ
ü Hình thức phản ánh ở động vật bậc cao khi có hệ thần kinh trung ương xuất hiện là tâm lý. Tâm lý động vật chưa phải là ý thức, nó mới chỉ là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối.
º Ý thức chỉ nảy sinh ở trong giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuất hiện con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người.
º Nội dung của ý thức là thông tin về thế giới bên ngoài ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người.
º Bộ óc của con người là cơ quan phản ánh, nhưng chỉ với riêng bộ óc thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên giác quan và qua đó lên bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội:
Để cho ý thức ra đời, nguông gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, nhưng chưa đủ, điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, đó chính là lao động và ngôn ngữ.
- Lao động:
Các nhà nghiên cứu đã viết: “Lịch sử bắt đầu từ sản xuất, con người bắt đầu từ lao động”.
Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại, là hoạt động mang tính đặc thù của con người, làm cho con người khác với các động vật khác.
+ Trong lao động con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử dụng các công cụ đó để cải tạo của cải vật chất.
+ Lao động là hoạt động có tính mục đích, tác động vào thế giới khách quan nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách tích cực, chủ động và sáng tạo. Như vậy, không phải ngẫu nhiên mà thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người để con người có ý thức, mà trái lại con người có ý thức chính là con người chủ động tác động vào thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới. Hay nói cách khác, lao động giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình. Thông qua quá trình lao động, bộ óc của con người phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển.
+ Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hôi lại với nhau, làm nảy sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển cùng với lao động.
- Ngôn ngữ.
Ph.Ăngghen đã viết: “Đem so sánh con người với loài vật, người ta sẽ thấy rõ ràng ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải thích duy nhất đúng về ngôn ngữ”.
+ Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C.Mác, nó chính là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ con người không thể có ý thức.
+ Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, vừa là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ ngôn ngữ mà con người có thể tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, truyền lại những tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ý thức không phải là một hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó, không có phương tiện trao đổi về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ.
Như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người”
2. Bản chất và kết cấu của ý thức
* Bản chất của ý thức
- Do chịu ảnh hưởng của quan điểm siêu hình nên nhiều nhà duy vật trước Mác đã coi ý thức là sự phản ánh thụ động, giản đơn, máy móc, mà không thấy được tính năng động, sáng tạo của ý thức, tính biện chứng của quá trình phản ánh.
- Trái lại, các nhà duy tâm lại cường điệu tính năng động, sáng tạo của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải sự phản ánh của vật chất.
- Khác với những quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên quan điểm lý luận phản ánh, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động và sáng tạo.
+ Thứ nhất, để hiểu được bản chất của ý thức chúng ta phải thừa nhận cả vật chất và ý thức đều tồn tại, nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang tính đối lập:
Vật chất là cái được phản ánh, tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với cái phản ánh tức là ý thức.
Cái phản ánh là ý thức, là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan, bị sự vật khách quan quy định. Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời cái được phản ánh (vật chất) với cái phản ánh (ý thức).
+ Thứ hai, khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan thì đó không phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật. Ý thức là của con người, ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn xã hội.
Theo C.Mác, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
+ Thứ ba, tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú và đó là sự thống nhất của ba mặt:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện thực hoá tư tưởng thông qua hoạt động thực tiễn.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần.
+ Thứ tư, ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện tượng xã hội. Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của con người. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ, mà là hoạt động xã hội, do đó, ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro