Tây Tiến
I. Kiến thức trọng tâm
1. Khái quát về cuộc đời
- Quang Dũng Tên thật là Bùi Đình Diệm (1921 - 1988), quê quán Phượng Trì, Đan Phương, Hà Tây. Là một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Từng gia nhập quân đội, làm thơ, viết văn, biên tập viên nhà xuất bản
- Là một nghệ sĩ đa tài "cầm, kì, thi, hoạ", nhưng trước hết là một nhà thơ.
- Thành công khi viết về người lính.
- Hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, hào hoa.
2. Khái quát phong cách nghệ thuật tác giả Quang Dũng
- Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, thông thạo cầm, kì, thi, họa nên trong thơ ông luôn có sự hòa trộn, đan xen giữa các yếu tố nhạc - họa và thơ ca.
- Quang Dũng cũng là một người lính nên ông rất thành công khi viết về đề tài này. Người lính hiện lên trong thơ ông với vẻ đẹp hào hoa, nghệ sĩ và bị tráng.
- Ông được mệnh danh là nhà thơ của "Xứ Đoài mây trắng", thơ Quang Dũng kết tinh lấp lánh vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ, một phong cách thơ hồn nhiên, hồn hậu, phóng khoáng nhưng cũng chân thật như cá tính của ông.
- Thơ ông đậm chất sử thi và có khuynh hướng lãng mạn, một đặc điểm của văn học cách mạng, nhưng vẫn có đặc điểm riêng, đó là cảm hứng bi tráng khi viết về người lính.
- Quang Dũng đi nhiều viết nhiều, từ cuộc sống riêng đến tác phẩm của ông đã biểu hiện một cá tính, một phong cách nghệ sĩ độc đáo của mình.
- Thơ ông có giọng điệu ngang tàng, phóng túng đậm chất lính sử dụng bút pháp lãng mạn.
- Ngôn ngữ thơ sử dụng nhiều động từ và tính từ, những từ ngữ làm lên nội lực của hồn thơ ông.
3. Tác phẩm "Tây Tiến"
a. Hoàn cảnh sáng tác và vị trí tác phẩm
* Về đoàn binh Tây Tiến
- Tây Tiến là một đơn vị bộ đội trong kháng chiến chống Pháp, thành lập năm 1947; Quang Dũng làm đại đội trưởng.
- Thành phần: Đa phần là thanh niên Hà Nội hào hoa, lãng mạn, địa bàn đóng quân và hoạt động khá rộng (Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, miền Tây Thanh Hoá và cả Sầm Nưa của Lào để làm nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao lực lượng Pháp.
- Trung đoàn Tây Tiến chiến đấu trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống lạc quan và chiến đấu anh dũng.
- Phần đông người lính Tây Tiến xuất thân từ Hà Nội, họ là học sinh, sinh viên, "xếp bút nghiên" theo tiếng gọi của tổ quốc lên đường đi chiến đấu.
* Hoàn cảnh sáng tác và vị trí
- Khi Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác ở Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ đơn vị cũ ông sáng tác bài thơ "Nhớ Tây Tiến" vào cuối năm (1948). Bài thơ ra đời trong nỗi nhớ trung đoàn Tây Tiến và núi rừng Tây Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp.
- Ban đầu có tên "Nhớ Tây Tiến" và sau đổi thành "Tây Tiến" và in trong tập "Mây đầu ô" (1986).
b. Bố cục tác phẩm
- 14 câu thơ đầu: Qua nỗi nhớ Quang Dũng tái hiện thiên nhiên rừng núi Tây Bắc; những con đường hành quân; nhớ những người đồng đội cùng với kỉ niệm ấm áp tình quân dân.
+ 4 câu đầu: Nhớ về những địa danh, những tên đất, tên làng.
+4 câu tiếp: Nhớ về những chặng đường hành quân.
+6 câu còn lại: Nhớ người đồng đội và kỉ niệm ấm áp tình quân dân.
- 8 câu tiếp: Nhớ về đêm liên hoan văn nghệ và cảnh sông nước miền Tây.
+4 câu đầu: Nhớ về đêm liên hoan văn nghệ ấm áp tình quân dân
+4 câu tiếp: Nhớ cảnh sông nước miền Tây
- 8 câu tiếp: Khắc tạc chân dung người lính Tây Tiến
+ 2 câu đầu: Vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng qua dáng vẻ bên ngoài và cuộc sống người lính Tây Tiến
+ 2 câu tiếp: Vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng qua đời sống tâm hồn
+2 câu tiếp: Vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng thể hiện qua tư thế lên đường vì lí tưởng
+2 câu tiếp: Vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng qua sự hi sinh cao đẹp
- 4 câu cuối: Lời thề gắn bó sâu sắc với Tây Tiến
II. Phân tích cụ thể
1. Qua nỗi nhớ Quang Dũng tái hiện lại thiên nhiên rừng núi Tây Bắc; những con đường hành quân; nhớ những người đồng đội cùng với kỉ niệm ấm áp tình quân dân. (Khổ 1)
a. 4 câu thơ đầu: Nhớ về những địa danh, những tên đất, tên làng
→ Tây Tiến là 1 mốc son chói lọi của đời thơ Quang Dũng viết về đề tài người lính. Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948, khi Quang Dũng đã chuyển sang đơn vị khác. Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả.
→ Cảm hứng chủ đạo trong suốt bài thơ là cảm hứng về nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến. Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở thành người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để ghi nhớ lại, tác giả phải bật lên.
- Câu thơ đầu tiên: "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!"
+ Câu thơ có 7 chữ thì có đến 4 từ là tên riêng ("Sông Mã" và "Tây Tiến"). "Sông Mã" là điểm khởi đầu, điểm về, điểm đến của nỗi nhớ này.
+ Câu thơ như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc. bằng thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. "Sông Mã" không đơn thuần là một con sông mà nó đã trở thành một hình ảnh hiện hữu, một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn, được mất.
+ "Tây Tiến" không chỉ để gọi tên một đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn "tri âm, tri kỉ" để nhà thơ giãi bày tâm sự.
- Câu thơ thứ 2: "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi":
+Câu thơ thứ 2 với điệp từ "nhớ" được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang và vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ "chơi vơi" kết hợp với từ "nhớ" đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ và nỗi nhớ đó như một cơn thác lũ tràn vào tâm trí nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.
+ Câu thơ này láy vần "ơi" với chữ cuối cùng của câu thơ trước diễn tả nỗi nhớ vừa sâu lắng, mênh mang, chênh chao giữa hai bờ hư thực, nỗi nhớ không nổi hình, nổi khối, khi cụ thể, khi chìm khuất đi trong hư ảo, chơi vơi.
+ Trong ca dao chúng ta cũng đã bắt gặp nỗi nhớ "chơi vơi" như "Ra về nhớ bạn chơi vơi" hay "Tương tư nâng lòng lên chơi vơi".
- Hai câu thơ tiếp:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
+ Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: "Sài Khao", "Mường Lát", "Pha Luông"... Đó là địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua và dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc, là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậy khắc nghiệt. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, không nhìn rõ mặt nhau. "Đoàn quân mỏi" nhưng tinh thần không "mỏi". Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh "sương" vào đây để khắc hoạ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về "sương", Chế Lan Viên cũng đã viết trong "Tiếng hát con tàu":
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn
Hay:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
("Đồng chí - Chính Hữu)
+ Trong câu thơ của Quang Dũng hiện thực của cảnh vật thiên nhiên rừng núi khắc nghiệt đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn bằng cách dùng từ và nhịp câu thơ:
- Quang Dũng dùng từ "sương lấp" để miêu tả đoàn quân dãi dầu, mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương nhưng không hề bị chìm lấp hẳn. "Hoa về" nhẹ nhàng, tinh tế chữ không còn là hoa nở; đêm sương trở thành "đêm hơi" bồng bềnh; những ngọn đuốc soi đường di chuyển dọc theo con đường chiến sĩ hành quân được nhìn thành những đóa "hoa" chập chờn, lung linh, huyền ảo...
- Nhịp câu thơ 4/3 cùng với những thanh bằng nhẹ bỗng trong câu thơ càng làm đậm thêm sự hư ảo của màn sương rừng. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận một cách thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
b. 4 câu tiếp: Nhớ về những chặng đường hành quân gian khổ trên nền thiên nhiên TB hùng vĩ, dữ dội nhưng đồng thời cũng thơ mộng, huyền ảo: Đây là 4 câu thơ tuyệt
bút của bài thơ.
→ Hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp đã được nhiều nhà thơ nói đến với tất cả những nét đẹp đẽ và đáng mến phục. Đọc "Tây Tiến" của Quang Dũng, ta lại bắt gặp hình ảnh người lính dũng cảm, oai hùng trong gian khổ vất vả và thêm vào đó là nét thơ mộng mơ rất bay bổng, lãng mạn làm cho ta nhớ mãi. Những gian khổ, nguy hiểm của người lính mà Quang Dũng ghi lại trong "Tây Tiến" rất thực, thực đến nghiệt ngã. Có lẽ chính vì thế mà khi bài thơ ra đời đã phải chịu một số phận khá éo le. Nhưng rồi cuối cùng bài thơ cũng được người đọc tiếp nhận với những gì mà nó vốn có. Có lẽ chính nhờ cái hiện thực nghiệt ngã đó mà hình ảnh người lính càng đẹp hơn và thắng lợi của dân tộc càng được đưa lên tầm cao hơn, vĩ đại hơn.
* Hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội nhưng đồng thời cũng thơ mộng, huyền ảo:
- Sử dụng các từ láy tượng hình: "khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút", đây là những từ láy toàn vần trắc nên diễn tả một cách đắc địa sự hiểm trở của núi rừng, những chặng đường hành quân mà người lính Tây Tiến phải đi qua thì hiểm nguy luôn rình rập.
+ "khúc khuỷu": Đường đi hiểm trở, nhiều gấp khúc
+ "thăm thẳm": Từ chỉ độ sâu được dùng để chỉ độ cao, cao đến rợn người. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ "thăm thăm" mà không dùng từ "chót vót" bởi nói "chót vót" người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng "thăm thẳm" thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào.
+ "heo hút": Câu thơ chỉ độ cao rất độc đáo vì nó là từ chỉ độ sâu như cái "sâu chót vót" trong câu thơ của Huy Cận. Ở đây núi cao tưởng chừng chạm mây nên nổi thành cồn heo hút.
- Sử dụng phép đối trong câu thơ: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống", đối "lên cao" với "thước xuống", dấu phẩy đã bẻ gãy nhịp câu thơ một cách đột ngột và tạo thành 2 vế đối lập nhau. Thế núi bây giờ cao và nguy hiểm đến khủng khiếp, dốc vút lên cao rồi đổ xuống ngay lập tức gần như thẳng đứng, nhìn lên thì cao vút còn nhìn xuống thì sâu thăm thẳm. Một độ cao đến chóng mặt và nguy hiểm.
- Thanh điệu (bằng trắc):
+ "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm": Câu thơ 7 chữ thì có tới 5 thanh trắc, gợi nên cảm giác con đường hành quân của người lính Tây Tiến quanh co, gập ghềnh, trắc trở, hiểm nguy. Ta nghe như có tiếng thở mệt nhọc của người lính khi vượt qua đèo dốc, vực
sâu.
+"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi": Câu thơ được gieo toàn vần bằng, gợi cảm giác mênh mang, bâng khuâng. Người lính Tây Tiến như phóng tầm mắt ra xa để cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của núi rừng. Trong làn mưa giăng giăng của núi rừng Tây Bắc thì những ngôi nhà ẩn hiện trong làn mưa ấy cứ bồng bềnh, bồng bềnh như là 1 biển mưa. Nhìn từ góc độ hội họa thì nó giống như 1 bức tranh thủy mặc có những cái tả sắc nét, cận cảnh nhưng cũng có những khoảng trống, khoảng lặng huyền ảo. Nếu như câu thơ đầu sử dụng toàn thanh trắc là những nét vẽ gân guốc, chắc khỏe thì câu cuối lại toàn thanh bằng là nét vẽ mềm mại, dịu mát cả bức tranh.
→ Bài thơ "Tây Tiến" dưới ngòi bút của lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành 1 kiệt tác của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó là cảm hứng về nỗi nhớ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đó bằng ngòi bút tài tình giàu chất nhạc, chất hoạ và đậm chất thơ. Bài thơ là 1 khúc nhạc của tâm hồn của cuộc sống. Bởi thế, Xuân Diệu thật chính xác khi cho rằng đọc bài thơ "Tây Tiến" như đang ngậm âm nhạc trong miệng. Bài thơ hay bởi lẽ nó được viết nên từ ngòi bút hào hoa, lãng mạn và của 1 người lính Tây Tiến nên nó có 1 cái rất riêng và đẹp. Mang chất lính nên Quang Dũng mới có thể viết nên những vần thơ hay như thế.
* Người lính Tây Tiến toát lên vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn
- Câu thơ "Heo hút cồn mây súng ngửi trời":
+ Quang Dũng đã viết "súng ngửi trời" chứ không phải là "súng chạm trời", nếu "chạm" hay "đụng" thì ý của câu thơ sẽ yếu hẳn đi. Đây là cách viết tự nhiên, đậm chất lính, một cách viết "bạo" vì từ "ngửi" bản thân nó thô rất ít dùng trong thơ, khi Quang Dũng dùng "ngửi" thì đã là nhân hóa, đã thành thơ.
+ Đây là cách viết gợi hình, gợi cảm: Khi người lính Tây Tiến hành quân qua các đỉnh núi cao, mũi súng như chạm đỉnh trời đó là hiện thực nhưng qua cách nói này tôn thêm vẻ đẹp khí phách của người lính. Đồng thời đây cũng là cách nói rất lính, giây phút đùa vui tếu táo, tinh nghịch của những đồng đội trẻ với nhau.
+ Cách viết này cũng thể hiện độ cao chóng mặt khi kết hợp với hình ảnh mây trời "heo hút". Cách viết còn thể hiện niềm lạc quan, ý chí "Đèo cao thì mặc đèo cao/Trèo lên đến đỉnh ta cao hơn đèo" của các chiến sĩ Tây Tiến.
- Đây là cách nói, cách nghĩ của những người lính trẻ lạc quan, yêu đời, hồn nhiên và trong sáng. Tầm vóc của họ thật lớn lao, họ mang hào khí vinh quang của người dũng sĩ Bình Nguyên đời nhà Trần (Hào khí Đông A).
- Thời đại đã đem đến cho Quang Dũng không chỉ một liên tưởng lạ lùng, kỳ thú mà còn là hình tượng thơ hết sức kỳ vĩ. Khẩu súng cùng với người lính như đang đứng ở đỉnh cao của thời đại gợi ta nhớ tới hình ảnh người tráng sĩ vệ quốc cầm ngang ngọn giáo đứng giữa non sông trong câu thơ của Phạm Ngũ Lão: "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu" hay hình tượng người lính vệ quốc trong câu thơ của Tố Hữu.
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
("Lên Tây Bắc")
Song ở câu thơ của Quang Dũng, người lính thật hồn nhiên và lãng mạn, vừa thật, vừa khái quát, vừa giàu ý nghĩa tượng trưng.
c. 6 câu còn lại: Nhớ người đồng đội và kỉ niệm ấm áp tình quân dân
→ Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng. Người lính Tây Tiến trai trẻ, hào hoa thì khó khăn, gian khổ phải chăng để thử lòng, thử sức, thử độ bền gan của người họ mà thôi.
* Hai câu thơ:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
-
"Không bước nữa": Phải chăng gian khổ đã quá sức chịu đựng nên trên đường hành quân, nhiều người người lính Tây Tiến đã nằm lại mảnh đất nơi xa lạ mà không bao giờ tỉnh dậy.
- "Gục lên súng mữ": Đây là 1 hình ảnh rất đắt, "gục" là 1 động từ có tính tạo hình, biểu cảm. Quang Dũng đã tránh dùng từ hi sinh (chết) nhưng vẫn giữ được thực tế trần trụi, nghiệt ngã của cuộc chiến tranh. Câu thơ làm ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:
Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Dáng đứng của anh giải phóng quân đi mãi vào lòng những người dân trong kháng chiến chống Mĩ thì dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. "Gục lên súng mũ" cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.
- "Bỏ quên đời": Người lính không chịu nổi gian khổ đã hi sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế chết của người chiến sĩ. "Bỏ quên đời" chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính từ trần. Cái chết bây giờ trở nên không đáng kể, chỉ là chuyện nhỏ. Cách nói giảm này đã giảm phần thê lương mà tăng thêm cái tính chất cao cả, sự hi sinh thầm lặng của những người lính Tây Tiến.
"Bỏ quên đời": Đôi khi đó cũng là giấc ngủ tạm thời, vội vàng của người lính trên chặng đường hành quân của mình cho đỡ mệt mỏi, tiếp thêm năng lượng cho những chặng tiếp theo. Với người lính Tây Tiến thì cái chết đã có trong tiềm thức của họ từ lâu, họ sẵn sàng đối mặt nên cái chết với họ cũng "nhẹ tựa lông hồng".
* Hai câu thơ tiếp:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Quang Dũng đã chọn ra 2 mốc thời gian là "Chiều chiều" và "đêm đêm" đây là thời điểm mà chốn rừng núi bộc lộ rõ nhất sự rùng rợn, hiểm nguy. Những âm thanh ấy, "thác gầm thét", "cọp trêu người", luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng nước độc.
- Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ "Mường Hịch" của Quang Dũng. Địa danh xa xôi này đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần.
- Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình. Quang Dũng rất thành công khi sử dụng từ "trêu" trong câu thơ "Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người", vì trêu là trêu đùa nên thành ra cọp, thú dữ chỉ là trêu đùa để thử thách sự dan dạ, bền gan của người lính Tây Tiến mà thôi.
* Hai câu thơ tiếp:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khỏi
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Lần thứ 2 trong bài thơ nhà thơ gọi tên đơn vị Tây Tiến của mình là "Nhớ ôi Tây Tiến", phải chăng nhớ quá những gian khổ, những kỉ niệm gắn bó với các đồng đội của mình nên Quang Dũng mới thốt lên như vậy. "Nhớ ôi!" từ cảm thán mang tình cảm dạt
dào.
- Hình ảnh "cơm lên khói": Phải chăng sau chặng đường dài hành quân mỏi mệt, các chiến sĩ có dịp dừng chân lại ở một bản làng có tên gọi rất đỗi yêu thương - Mai Châu thì các thiếu nữ dân tộc trẻ trung, xinh xắn mang cơm nếp thơm đến cho người lính Tây Tiến.
- "Mai Châu mùa em thơm nếp xôi": Là khung cảnh đậm đà tình quân dân. Sau một thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào tiếp đón bằng "cơm lên khói" cùng mùi hương "thơm nếp xôi" thật là ấm bụng. Nỗi nhớ cứ thế dịu dàng, chờn vờn trong tâm trí người lính Tây Tiến. Quang Dũng đã dùng từ "mùa em" để thể hiện sự gần gũi, thân thương và nó gắn bó như "tình em. Người lính Tây Tiến nhớ những vụ mùa, nhớ "cơm nếp thơm" và nhớ cả những bóng hồng sơn
cước.
Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về "mùa em" và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài "Tiếng hát con tàu".
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.
"Nhớ mùi hương", nhớ "cơm lên khói", nhớ "thơm nếp xôi" là nhớ hương vị núi rừng
Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
d. Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Sử dụng nhiều từ láy tạo hình, cách sử dụng thanh trắc, điệp từ, nhân hóa, đối lập...tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị.
→ Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài "Tây Tiến", một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong chiến năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...". Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng vẫn giữ được giá trị của mình. Xin được mượn bốn câu thơ của Giang Nam thay cho lời kết:
Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông.
2. Nhớ về đêm liên hoan văn nghệ và cảnh sông nước miền Tây. (Khổ 2)
→"Tây Tiến" là bài hát của tình thương mến, là khúc ca chiến trận của anh Vệ quốc quân năm xưa, những anh hùng buổi đầu kháng chiến "áo vải chân không đi lùng giặc đánh" ("Nhớ" - Hồng Nguyên), những tráng sĩ ra trận với lời thề "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Quang Dũng viết bài thơ "Tây Tiến" vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh bên bờ sông Đáy thương yêu: "Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc/Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng". ("Mắt người Sơn Tây" - 1949).
- Trong miền kí ức của Quang Dũng không chỉ có những ngày tháng gian khổ với đèo cao, mưa rừng, thú dữ, sương phủ mà còn có cả ánh sáng hội hè của những đêm liên hoan tưng bừng và những buổi chiều êm ả, mông lung.
a. Cảnh đêm liên hoan văn nghệ: 4 câu thơ đầu
- Ở đoạn thơ này, tác giả làm xuất hiện 1 thế giới khác của Tây Bắc, thiên nhiên Tây Bắc không còn khốc liệt, dữ dội nữa mà thiên nhiên hiện ra với những nét vẽ đẹp, thơ mộng và trữ tình. Ngòi bút của Quang Dũng có sự thay đổi, có những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tinh tế nhưng có nét vẽ mạnh mẽ, khỏe khoắn. Tất cả đã làm cho bức tranh thiên nhiên và con người miền Tây hiện lên rất rõ.
→ Mở đầu phần hai là sự nối tiếp cái hương vị "thơm nếp xôi" ấy. "Hội đuốc hoa" đã trở thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, và đã trở thành hành trang trong tâm hồn các chiến binh Tây Tiến.
- Câu thơ: "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa".
+ Đêm liên hoan văn nghệ được tổ chức ngay ở doanh trại bộ đội đây là hiện thực. Không gian ở 4 câu thơ này không còn rộng lớn như đoạn thơ đầu, mà là không gian được thu hẹp lại thành không gian "doanh trại - 1 không gian bình yên, được coi là mái nhà của người lính. Ở đây, những người lính không phải gồng lên để chiến thắng những khó khăn, vất vả mà tâm hồn họ thực sự được thư giãn.
+ "Đuốc hoa" là cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngữ được dùng trong văn học cũ: "Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa" ("Truyện Kiều"). Quang Dũng đã có một sự nhào nặn lại: Hội đuốc hoa - đêm lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại đoàn binh Tây Tiến. Cách nói này để làm đẹp thêm cho đêm liên hoan văn nghệ thêm phần lãng mạn và làm chúng ta liên tưởng tới lễ cưới.
+ Đêm liên hoan văn nghệ có đồng bào tới góp vui, có những thiếu nữ vùng sơn cước và đôi khi người lính Tây Tiến tự đóng giả gái trong những đêm liên hoan văn nghệ.
+"Bừng" chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã.
- "Kìa em xiêm áo tự bao giờ":
+"Kìa em": Đây là sự ngắm nghía, đồng thời đây là lời thốt lên bất ngờ vì vẻ đẹp lộng lẫy, kiêu sa của các cô thiếu nữ. Đằng sau từ "kìa" là thấy cả ánh mắt, nụ cười hết sức yêu đời, tinh nghịch, phong độ và tài hoa.
+ Sự xuất hiện của "em" làm cho hội đuốc hoa mãi mãi là kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến. Chữ "kìa" là đại từ để trỏ, đứng đầu câu "Kìa em xiêm áo tự bao giờ" như một tiếng trầm trồ, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi gian khổ, mọi thử thách,...như đã bị đẩy lùi và tiêu tan.
- "Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ":
+ Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái xinh đẹp, duyên dáng "e ấp", xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn "man điệu" đã "xây hồn thơ trong lòng các chàng lính trẻ.
+Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với người lính Tây Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ "man điệu" mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc.
+ Ta chú ý tác giả sử dụng từ: Ban đầu là "em" tiếp đến là "nàng" rồi sau lại là "em". Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.
b. Cảnh sông nước miền Tây lãng mạn, huyền ảo. (4 câu cuối)
→ So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương... Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hoá. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng.
- "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy": Người ra đi chắc hẳn là người lính Tây Tiến. Ngòi bút của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây không phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy". Nó gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. Đại từ "ấy" làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng
- "Có thấy hồn lau nẻo bến bờ":
+Chữ "ấy" bắt vần với chữ "thấy", một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống như một nốt nhấn, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng. Nữ sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ "hồn thu thảo", nay Quang Dũng nhớ là nhớ "hồn lau", nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời.
+ Nỗi buồn, tâm trạng của người đi dường như cũng đã khuếch tán vào cảnh vật, những bông lau sậy chập chờn đôi bờ cũng có hồn của nhà thơ. Ta nhớ thơ Chế Lan Viên:
Ai lên biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau trắng chỉ có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời với gió giao tranh
- Hai câu cuối:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
+ Những hình ảnh "chiều sương ấy", "hồn lau", "bến bờ", "hoa đong đưa" kết hợp với cách hỏi "có thấy", "có nhớ" mở ra một khung cảnh buổi chiều sương trong kí ức. Sương mờ giăng mắc khắp không gian, bến bờ lặng lẽ hoang dại như 1 bờ tiền sử, trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại, uyển chuyển nhưng cũng hết sức vững chãi của người đi trên chiếc thuyền độc mộc, những bông hoa rừng đong đưa làm duyên trong dòng nước.
+ Điệp ngữ "có thấy - có nhớ" luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn, dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông, vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhoà
+ Câu thơ "Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa" được tác giả dung từ rất tinh tế, Quang Dũng đã dùng từ láy hoa "đong đưa" chứ không phải hoa "đung đưa". Hoa "đung đưa" là gợi đến một sự chuyển động về cơ học, còn hoa "đong đưa" thể hiện sự chuyển động duyên dáng, tình tứ, bông hoa trở thành những sinh thể có hồn đang làm duyên, làm dáng trên sông nước chòng chềnh, sóng sánh. Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc.
+ Cảnh như có hồn, có sự thiêng liêng của núi rừng, đậm màu sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên, ta như thấy trước mắt mình một bức tranh sơn thuỷ hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến, gắn bó với mảnh đất miền tây tâm hồn Quang Dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ Tây Tiến trước cái đẹp.
→ Tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ.
3. Trực tiếp khắc tạc chân dung người lính Tây Tiến: (Khổ 3)
→ Trong những bài thơ về người lính, ta bắt gặp những hình ảnh người lính "áo vải" xuất thân từ nông dân. Đó là người chiến sĩ "Ôm đất nước những người áo vải" trong đất nước của Nguyễn Đình Thi, là những người lính có: "Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
("Đồng chí" - Chính Hữu)
N
hưng ở đây, trong bài Tây Tiến này, ta lại bắt gặp những người lính - trí thức. Đó là những người lính lên đường ra trận với lòng lạc quan, niềm tin vào thắng lợi nhưng vẫn còn thoáng chút mơ mộng thường tình của trí thức Thủ đô. Những người lính - trí thức đó tưởng như chỉ biết đến đèn sách, vậy mà bước chân họ vẫn vượt qua bao chông gai, đèo núi, khuôn mặt họ vẫn sẵn sàng đón lấy nắng, gió, sương, mưa thì quả là một diều kì diệu. Vẻ oai hùng, mạnh mẽ đó của họ đã tạo nên cho bài thơ một nhịp điệu rất hùng tráng, nhưng vẫn mềm mại, ngân nga.
a. 2 câu đầu: Vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng qua dáng vẻ bên ngoài và cuộc sống người lính Tây Tiến
- Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp, nói đến gian khổ, hi sinh và địa bàn hoạt động thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh. Ở đây, ta tưởng như gặp một mô - típ như thế:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Nhà thơ Quang Dũng gọi tên hay miêu tả chân dung một đồng đội nào mà gọi tên, khắc tạc chân dung cả binh đoàn-một tập thể đồng đội của mình - những con người anh hùng bằng tên gọi khá thú vị "Đoàn binh không mọc tóc". Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực thiếu thốn khắc nghiệt "Tiểu đội xe không kính", qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan và chất lính dí dỏm hài hước.
- Nhưng, trước hết, đây là những câu thơ tả thực, thực một cách trần trụi: Chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, ma thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. - Câu thơ cũng mang đến một nét nghĩa nữa là người lính Tây Tiến họ tự cạo trọc đều để trở thành những anh "Vệ trọc" để giữ vệ sinh trong cuộc kháng chiến thiếu thốn trăm bề và cũng dễ thuận lợi trong việc đánh giáp la cà.
- Câu thơ thứ hai tạo ra hai vế đối lập: "Quân xanh màu lá" với "dữ oai hùm", một bên là cái thiếu thốn khó khăn gian khổ, một bên là khí phách anh hùng của những người lính Tây Tiến. Ba tiếng "dữ oai hùm" tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn quân ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh tô đậm nét hùng dũng.
- "Quân xanh màu lá" ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở "xếp bút nghiêng lên đường chinh chiến" của các chàng trai Hà Nội kiêu hùng hào hoa.
- Quang Dũng đã dùng từ "dữ oai hùm" trong câu "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" một cách rất sáng tạo. Người lính Tây Tiến bên ngoài có vẻ ốm yếu, tiều tụy vì thiếu máu do bệnh sốt rét rừng hành hạ nhưng từ "dữ" được đặt ở trước thì bên trong là một tinh thần thép, người lính Tây Tiến trở thành những người lính hùng dũng, oai phong, lẫm liệt như mãnh thú chốn rừng xanh.
- Những người lính Tây Tiến mang một ngoại hình rất kì lạ: Đầu không mọc tóc, da xanh như màu lá. Trên thực tế, lính Tây Tiến là nạn nhân bi thảm của hoàn cảnh. Căn bệnh sốt rét rừng đã hoành hành dữ dội khiến cho người chiến sĩ "chết trận thì ít, chết vì bệnh tật thì nhiều hơn" (Theo Trần Lê Văn). Thơ ca kháng chiến đã từng ghi lại những hình ảnh thật cảm động về sự tiều tụy của người chiến sĩ vì sự hoành hành của bệnh sốt
rét:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Hay:
Giọt mồi hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế
("Cả nước" - Tố Hữu)
Nhưng dưới ngòi bút lãng mạng của Quang Dũng, các chiến sĩ Tây Tiến không còn là nạn nhân mà trở nên thật chủ động, ngạo nghễ: Đầu không mọc tóc, da xanh xao để thích nghi với hoàn cảnh chiến đấu. Nhà thơ Vũ Quần Phương có nhận xét: Quang Dũng miêu tả lính Tây Tiến ốm mà không yếu. Đầu không mọc tóc không phải là hình ảnh gây cười, hay nói chính xác hơn là cười mà xót xa, mà không cầm được nước mắt, bởi răng với tóc là gốc con người, ai cũng muốn chăm sóc cho vẻ đẹp ngoại hình của mình. Từ việc Hà thành ra đi chiến đấu khi mái tóc hãy còn xanh, da còn hồng hào. Vậy mà giờ đây, họ đã chấp nhận hi sinh mái tóc xanh, tuổi thanh xuân của mình để góp phần làm nên mùa xuân vĩnh viễn của Tổ quốc.
b. 2 câu tiếp: Vẻ đẹp lãng mạn, bị tráng qua đời sống tâm hồn
- Khó khăn, gian khố là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi, với đi những tình cảm lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
"Mộng" và "mơ" của người lính được gửi về hai phương trời: Biên cương, nơi còn đầy bóng giặc, mộng giết giặc lập công và Hà Nội, quê hương yêu dấu, mơ những bóng dáng thân yêu. "Dáng kiều thơm", ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức, "tố cáo" nét đa tình của người lính khi nhớ về những thiếu nữ Hà Thành với vẻ đẹp "sắc nước hương trời". Nhưng với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng hành binh vất vả, chứ không phải để thối chí nản lòng. Vậy mà một thời, câu thơ "đẹp một cách lãng mạn" này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ phải "trải bao gió dập, sóng dồi". Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long.
- Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa. Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
- Những câu thơ này có thời đã từng bị phê phán nặng nề, bị gán cho màu sắc tiểu tư sản, không có lợi cho cách mạng, điều này có lẽ quá bất công với Quang Dũng. Tại sao lại cấm những người chiến sĩ xuất thân từ thành thị sống với những tâm tình riêng của mình, trong khi những người lính xuất thân từ nông thôn thì được phép nhớ giếng nước, nhớ gốc đa, nhớ người thân. Vấn đề là nỗi nhớ ấy có ảnh hưởng đến ý chí và tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ hay không, hay họ vẫn đang hiên ngang chấp tay súng tiêu diệt kẻ
thù.
- Nỗi nhớ của người lính họ đang tuổi hoa mộng nên rất đẹp và đáng trọng, nó khác với nỗi nhớ của người lính xuất thân từ nông dân trong bài "Đồng chí" của Chính Hữu là nhớ "nước mặn, đồng chua, cây đa, giếng nước, sân đình.." hay nhớ về người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya trong bài "Nhớ" - Nguyên Hồng. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng thể hiện nỗi nhớ ấy trong bài thơ "Đất nước".
Những đêm dài hành quân nung náu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Trong những năm khói lửa của cuộc chiến tranh ác liệt, người chiến sĩ thời ấy cũng có những sợi tơ lòng dễ rung, mong manh trước chỉ một làn gió nhẹ và không giấu những nỗi nhớ, nỗi buồn. Đó là nỗi nhớ của tình yêu gắn chặt, hòa quyện với lí tưởng của tình yêu tổ quốc thiêng liêng, cao quý làm nên một sức mạnh để chiến thắng kẻ thù.
Đêm Hà Nội buốt tê
Phổ dài nghe sấu rụng
(Chính Hữu)
Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia
Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy
Không che được nước mắt cô đã chảy
Những giọt long lanh, nóng bỏng, sáng ngời Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi.
(Nguyễn Mỹ)
Người chiến sĩ mang theo lòng yêu nước, mang theo tình yêu mà ra trận. Để rồi trên đường hành quân đi đánh giặc, những người lính luôn nghĩ về hòa bình, về nụ mầm sự sống với sự lạc quan và lòng yêu đời:
Thoảng mùi hoa thiên lý của nhà ai
Một tiếng chim khuya gọi mùi vải đỏ
Nghe đất thở luống cày hồn hậu lạ
Ta muốn thành hạt cốm uống hương đêm
(
Lưu Quang Vũ)
c. 2 câu tiếp: Vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng thể hiện qua tư thế lên đường vì lí tưởng
Quang Dũng không né tránh hiện thực, né tránh những đau thương mất mát mà nhìn thẳng vào bi thương để viết nên những vần thơ của mình. Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, Quang Dũng lại dùng phép đảo và đưa từ láy "rải rác" lên đầu câu để nhấn mạnh sự ít ỏi, thưa thớt, gợi sự hoang lạnh của những nấm mồ người lính Tây Tiến. Thật sự quá cô đơn, côi cút khi những người lính họ ngã xuống trên đường hành quân hay trong những trận đánh lại được yên nghỉ đâu đó trên những chặng đường hành quân, ở đỉnh đèo, góc núi, dưới tầng sâu đất lạnh. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Hay trong "Chinh phụ ngâm":
Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phụ trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn.
- Yếu tố bi tráng, hào hùng được nâng lên, yếu tố bi lụy, đau thương được giảm bớt khi Quang Dũng lại dùng các từ Hán Việt "biên cương", "viễn xứ" thì những nấm mồ hoang nơi biên giới, không ai biết đến và hương khói lại trở thành những mộ chí tôn nghiêm, vĩnh hằng. Hồi bấy giờ, viết về chiến tranh ít ai viết bạo tay như Quang Dũng và đưa những hình ảnh ảm đạm, thê lương, chết chóc vào thơ ca nhưng nhà thơ đã làm được điều đó và tạo nên nét riêng cho thơ của mình.
- Người lính Tây Tiến ngã xuống vô danh nơi dưới tầng sâu đất lạnh âm thầm làm ta nhớ đến hình ảnh của những người lính dành trọn thanh xuân đẹp nhất cho Tổ quốc của mình:
Tên tuổi chúng tôi rải rác khắp rừng cây
Rải rác dòng tên nơi đèo cao, vực thẳm
Tên tuổi chúng tôi trụi trần như quả đạn
Tên tuổi chúng tôi lỗ chỗ vết đạn bay trên nền đỏ lá cờ
Người hy sinh và người còn sống
Cùng đứng trong đội ngũ Sư đoàn
("Khúc tâm tình" - Nguyễn Đức Mậu)
- Câu thơ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh": Câu thơ lại nhẹ nhàng như không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ viễn xứ. Câu thơ trước tạo nên cái "bi", câu thơ sau tạo nên nét "tráng". Cái không khí bi quan biên mất, chỉ còn lại nét ngang tàng, chút thanh thản của người lính Tây Tiến. Bảo "chẳng tiếc đời xanh" là cách nói của người thanh niên tri thức Hà Nội nhưng cũng mang cả quan niệm về lí tưởng chiến đấu. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ. Không phải "tuổi trẻ là mùa xuân" đó sao. Nhưng cao hơn cả tuổi trẻ họ còn có tự do, quê hương. Còn người hậu phương gởi gắm cả nỗi lòng cho họ. Đó là lí do tại sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh.
- Cụm từ "chẳng tiếc" là một cách nói hết sức ngang tàng, khí phách của những người lính Tây Tiến, đây là thái độ tự nguyện, không gượng ép mình, họ ra đi với tâm trạng thanh thản. "Chẳng tiếc" là cụm từ phủ định nhưng lại mang ý nghĩa khẳng định rằng "đời xanh", tuổi trẻ, tuổi thanh xuân nhiều hi vọng, hoa mộng sẽ vô nghĩa nên không xông pha nơi trận mạc, hiến dâng để bảo vệ tổ quốc. Người lính Tây Tiến coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, là lí tưởng quên mình chói sáng "Chết vinh còn hơn sống nhục" mà xưa nay chúng ta đã biết.
- Người lính Tây Tiến mang dáng vẻ của những người anh hùng kiểu Kinh Kha sang Tần mưu sát Tần Thủy Hoàng nhưng bất thành, người chinh phu thời xưa một đi không trở về, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng: "Gió hiu hiu hề!
Nước sông Dịch lạnh tê
Tráng sĩ ra đi, không trở về"
Hay lí tưởng của người đi trong bài "Tống biệt hành" của Thâm Tâm:
Li khách, li khách con đường nhỏ
Chi lớn chưa về bàn tay không?
Và:
Họ đã sống và chết
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm nên Đất Nước.
("Đất Nước" - Nguyễn Khoa Điềm)
Mãi sau này, nhà thơ Thanh Thảo cũng đã từng viết:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không biết?
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi
d. 2 câu tiếp: Vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng qua sự hi sinh cao đẹp
- Câu thơ "Áo bào thay chiếu anh về đất", là cách nói để tráng lệ hoá hình ảnh sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Lần thứ 3 trong tác phẩm Quang Dũng nói đến cái chết nhưng toàn nói giảm, nói tránh để giảm bớt sự mất mát, bi thương. "Áo bào thay chiếu", cách nói này vừa ước lệ, vừa tả thực để làm mờ hóa đi cái sự thiếu thốn, gian khổ mà người lính Tây Tiến phải chịu đựng.
+Cách nói "Áo bào thay chiếu" có thể hiểu là chiếu không có nhưng có áo bào vì theo ý kiến của Quang Dũng: Tôi muốn nói thêm cái phần gian khổ, thiếu thốn của miền Tây. Khi nằm xuống, người chiến sĩ không có manh chiếu để liệm. Nói "Áo bào thay chiếu" là cách nói của người lính chúng tôi, cách ước lệ để an ủi đồng chí của mình đã nằm xuống.
+ Cách nói "Áo bào thay chiếu" có thể hiểu là theo Trần Lê Văn (Nhà thơ, nhà văn) thực ra thì đồng bào thấy chiến sĩ Tây Tiến rét đã cho chiếu để đắp và khi chết dùng để chôn
luôn.
+"Áo bào" là một từ Hán Việt (chỉ áo mặc bên ngoài của vua chúa, các vị tướng), thực ra đó là tấm áo choàng bên ngoài của lính Tây Tiến qua cái nhìn lãng mạn của nhà thơ, dù nó đã bạc, sờn hay rách vì bom đạn của giặc nhưng nó vẫn trở thành những chiếc áo bào sang trọng tiễn đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
- Cách dùng từ "áo bào" làm câu thơ trở nên cổ kính hơn, làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ "áo bào" lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai "thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây".
- Nhà thơ Hoàng Lộc trong bài thơ "Viếng bạn" cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế:
Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán
Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bị thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông.
- Chữ "về" nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết. "Anh về đất" là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình.
- "Anh về đất" là cách nói giảm để vơi bớt đau thương. Quang Dũng muốn vĩnh viễn hóa sự hi sinh cao đẹp. Với những người lính Tây Tiến thì chết không phải là hết mà là về với đất mẹ, được đất mẹ ôm vào lòng, để hóa thân cho dáng hình xứ sở, để còn mãi với núi sông này. Dù hôm nay chưa có bảng vàng, bia đá để ghi tạc công ơn nhưng trong tình cảm của người ở lại, các anh được tôn vinh như những người anh hùng dân tộc, được xứng đáng tiễn đưa trang trọng nhất. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bị thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca.
- Anh ra đi mãi mãi nhưng anh ra đi là cho lẽ sống của mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ nhàng như "về đất". Hơn thế, có chăng Quang Dũng có lí khi dùng từ "về đất" ngoài ý giảm nhẹ sự đau thương? Quang Dũng không muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng thì chết cũng phải như vậy. Trong bài "Sao chiến thắng" - Chế Lan Viên:
Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ, như cha, như vợ, như chồng
Ôi tổ quốc nếu ta cần chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông...
Hay
Ôi! Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
("Đất Nước" - Nguyễn Khoa Điềm)
Người lính Tây Tiến mãi kiêu hùng và sau này Lê Anh Xuân cũng đã khắc họa vào lịch sử một dáng đứng anh Giải phóng quân thành "Dáng đứng Việt Nam" thật phi thường:
Chợt thấy anh giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn
Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tấn công.
- Câu thơ: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành":
+ Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Sông Mã là thiên nhiên rừng núi Tây Bắc, là quê hương đất nước là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ Tây Tiến.
+ Sông Mã "gầm" lên khúc độc hành bị phẫn, đau thương làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng. Sông Mã "gầm lên" đây là âm vang của sông núi, là điệu khèn vĩnh quyết, là khúc ca bị tráng của thiên nhiên miền Tây và quê hương đất nước đang quặn lòng, nghiêng mình tiễn đưa anh về nơi yên nghỉ cuối cùng.
+ Sông Mã oai hùng qua biện pháp nhân hóa đã trở thành một sinh thể biết đớn đau, như thay cho cả dân tộc kịp tấu lên những âm thanh bị tráng, để tiễn đưa những anh hùng dân tộc. Không hề có tiếng khóc của giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông, đất mẹ chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hòa vào núi sông, hòa vào đất mẹ. Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ phai trong tâm trí con người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm mãi trong lòng Quang Dũng và mỗi chúng ta.
Những người lính Tây Tiến anh hùng đã viết tiếp trang sử hào hùng của dân tộc, để có dáng đứng, hình hài cho đất nước hôm nay họ đã trả giá bằng máu và sinh mạng của chính mình như người chiến sĩ anh hùng trong những câu thơ của Lê Bá Dương đã từng ngã xuống:
Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm.
→ Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.
4. Lời thề gắn bó sâu sắc với Tây Tiến: (4 câu cuối)
a. Hai câu đầu: "Tây Tiến người đi...chia phôi"
-
Người chiến sĩ ra đi với quyết tâm sắt đá, có chí lớn, quyết lập được chiến công như người chiến sĩ trong bài thơ "Tống biệt hành" của Thâm Tâm:
Li khách! Li Khách con đường nhỏ
Chi nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
- "Không hẹn ước", rồi lại "thăm thẳm một chia phôi", Quang Dũng khẳng định cái ý niệm "Nhất khứ bất phục hoàn" trong hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến cũng là cái ý niệm của chung cả một thời kì, một thế hệ con người. Đã nói nhiều đến Tây Tiến, đã nhắc lại nhiều kỉ niệm Tây Tiến, nhưng cuối cùng cái đọng lại sâu sắc nhất bền vững nhất về Tây Tiến vẫn là cái tinh thần ấy, giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn nhưng ý thơ thì vẫn hào hùng.
b. Câu 3: "Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy"
- "Mùa xuân ấy":
+ Thời điểm thành lập đòan quân Tây Tiến năm (1947).
+ Mùa xuân của đất nước.
+ Mùa xuân (của tuổi trẻ) đời của các chiến sĩ đã trở thành cái thời điểm một đi không trở lại của lịch sử nước nhà. Sẽ không bao giờ còn có lại cái thuở và thiếu thốn đến dường ấy nhưng cũng lãng mạn và hào hùng đến dường ấy.
c. Câu 4: "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"
- "Chẳng về xuôi" nghĩa là bỏ mình trên đường hành quân.
- "Hồn về Sầm Nứa" chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân dân Lào chống Pháp, họ quyết tâm thực hiện lí tưởng ấy đến cùng. Cho nên, dù ngã xuống trên đường hành quân, nhưng hương hồn (anh linh) vẫn đi cùng đồng đội, sống trong lòng đồng đội. Tứ thơ này nâng chất sử thi của bài thơ.
5. Thành công về nghệ thuật
- Ngôn từ giàu hình ảnh, cảm xúc; nhiều từ ngữ Hán Việt; từ ngữ chỉ địa danh.
- Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như nhân hóa, đối lập, điệp,..
- Hình ảnh đặc sắc, đậm chất thơ chất nhạc.
- Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng thể hiện sự tài hoa trong phong cách của Quang Dũng
6. Ý nghĩa văn bản
- Tây Tiến là một trong những bài thơ đặc sắc của thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp, góp phần khắc họa bức tượng đài bi tráng của người vệ quốc quân vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đoạn thơ thể hiện rõ nét độc đáo, đặc sắc của phong cách thơ Quang Dũng: Tài hoa,
lãng mạng, đầy sáng tạo trong ngôn ngữ. Năm tháng qua đi, chiến tranh đã lùi xa nhưng "Tây Tiến" vẫn còn mãi đó để gợi nhắc về một thời lịch sử chiến đấu đầy khổ nhục mà vĩ đại về những năm tháng không thể nào quên-không được phép quên.
Đọc "Tây Tiến", cái ta cảm nhận được không chỉ là vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, sự hi sinh bi tráng mà còn là vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ, nên họa của Tây Bắc mĩ lệ. Tất cả hiện lên thật rõ nét trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình, nỗi nhớ thương chưa bao giờ nguôi dứt. Có thể nói, với Tây Tiến, Quang Dũng đã xây dựng bức tượng đài bất hủ về người lính trong kháng chiến chống Pháp. Khói lửa chiến tranh đã qua đi, lịch sử dân tộc cũng đã bước sang trang mới, nhiều người thuộc đoàn binh Tây Tiến năm ấy đã trở thành thiên cổ, trong đó có cả nhà thơ Quang Dũng hào hoa... Đúng như những vần thơ Giang Nam đã từng viết:
Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro