Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Tràng Giang

Tràng Giang

                Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

                Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ.

                                Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài

                 "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

                Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

                Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

                Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

                              "Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp,
                               Con thuyền xuôi mái nước song song,
                               Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
                                Củi một cành khô lạc mấy dòng."

          Dòng sông, con thuyền, cành củi khô quen thuộc trong cổ thi lại hiện về nhưng không thấy những ước lệ sóng đôi về con thuyền- bến nước,... như xưa. Thay vào đó là sự hiện hữu rời rạc của cảnh vật. Những con sóng không buồn nhấp nhô, hòa mình vào sông lớn mà cứ chậm rãi từng gợn nhẹ, từng gợn nhẹ, rồi biến mất trong dòng chảy mênh mông. Nhịp điệu buồn tẻ ấy cứ lặp đi lặp lại, "điệp điệp" , làm nỗi sầu như kéo dài thêm, triền miên, vô tận. Con thuyền cũng không buồn lái, để mặc xuôi theo dòng nước lặng lờ. Ngay cả dòng nước trong bản thân con sông cũng không thiết đến nhau, cứ âm thầm mà chảy ':song song", vờ không quen biết nhau trong đời. Từ những hiện tượng tưởng như vô tri vô giác đó, Huy Cận đã khiến người đọc hình dung ra một thế giới có thật của sông nước với tình cảm dửng dưng như con người.Đến một lúc nào đó, trên cuộc hành trình của mình, chỉ còn nước mải miết trong cô độc.

Vốn lòng sông đã rộng thênh thang, nay lại thêm dài ra, rộng ra bởi nỗi "sầu trăm ngả" của dòng nước.Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.  Trơ trọi lại càng thêm trơ trọi , rời rạc lại nối tiếp rời rạc, cành củi khô một mình lạc lõng giữa dòng chảy, không biết đi đâu về đâu gợi nỗi chua xót thân phận xiết bao! Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

               Không phải là một "bông hoa tím biếc" "mọc giữa dòng sông xanh"(Thanh Hải) mà là nhành củi khô ráo hoảnh sự sống, một nhành củi rỗng ruột, vô vọng. Nó thay lời tác giả với cuộc đời, như khúc ru buồn vẫn tiếp tục điệu nhạc réo rắt, thê lương của nó:

                             "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
                             Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
                             Nắng xuống, trời lên sâu chót vót.
                             Sông dài, trời rộng bến cô liêu."                   
        
          Trên cồn đất nhỏ, xung quanh không có một sự trỗi dậy nào to lớn hơn. Bốn bề không gian bát ngát với núi non hùng vĩ, sự tồn tại của gò đất càng thêm cô độc, lẻ loi . Sở dĩ ta có thể nhìn được toàn cảnh vậy là vì Huy Cận đã phát huy hết mọi giác quan của mình để đặc tả "cồn đất",từ đó gợi lên sự rợn ngợp của không gian. Nhà thơ có lần bộc bạch rằng chữ "đìu hiu" là học được từ Chinh phụ ngâm: "Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò". Đến Huy Cận, nó phảng phất nét cổ điển nhưng cũng mang cảm giác hắt hiu, đơn côi của cái tôi thi sĩ trước thời cuộc. Trạng thái "lơ thơ" cho thấy vẻ tiêu điều, xơ xác đã phủ trùm lên cảnh vật và chiếm lĩnh thế giới nội tâm nhà thơ. Ta thấy rất rõ cảm quan về không gian vũ trụ vô tận của tác giả, mà trong đó sự sống bé nhỏ càng thêm đơn độc hơn, như bị bỏ rơi giữa cuộc đời. Điều đó cắt nghĩa rằng, trong thế giới của riêng mình, Huy Cận không phải đã xóa sạch những dấu ấn của thơ xưa, mà vẫn giữ lại những nét đẹp, những nét thi vị để giãi bày tâm tư. Đặc biệt là thủ pháp "lấy động tả tĩnh" được thi sĩ đan cài khéo léo vào thơ mình, tạo cho cảnh vật nét gần gũi và đượm tình hơn . Ấy là "tiếng làng xa" vọng về, thứ âm thanh mơ hồ của một phiên chợ đã vãn theo gió lan xa mãi. Nhưng ở nơi "đâu" thì tác giả không xác định được. Những âm vang yếu ớt ấy rồi cũng chìm và cảnh chiều hư vô, càng gợi thêm sự vắng vẻ, hiu quạnh nơi đây...

            Không gian trở nên tịch mịch, u uất . Nó trái hẳn với tiếng "lao xao" thuở nào Nguyễn Trãi ẩn dật nơi thôn quê lắng nghe được. Nó mồ côi, trống vắng. Để lại trong lòng người đọc cảm giác rờn rợn khó hiểu. Có người cho rằng Huy Cận dễ buồn quá, lại đứng trong cảnh chiều buồn nên mới sinh ra những câu thơ âu sầu vậy. Nhưng tôi tin là tự trong lòng người đã chất chứa đầy nỗi buồn nên nó thấm vào cả từng cảnh vật, lan ra bao phủ khắp không gian. Mọi sự cũng buồn theo. Bởi vậy mà trong những hình hài tưởng như rất mới mẻ, vui tươi, người lại thấy nỗi buồn: " Nắng xuống, trời lên sâu chót vót". Thật vậy, nắng không ủ rũ, trời không ủ dột nhưng chính sự vận động của chúng tạo nên một khoảng cách không thể nào lấp đầy. Bình thường, đáng lẽ là chiều cao, cao vời vợi nhưng nhà thơ đã tài tình biến nó thành chiều sâu, sâu chót vót để chứa đựng nỗi sầu não vô biên của mình. Người lại thấy bến đợi của một mình mình, mất hút giữa cái rộng lớn khôn cùng của trời đất, mang tên cô liêu. Người cho ta đi mãi, đi mãi để rồi lại gặp người cô quạnh, và người tự bắt gặp mình... Nơi đó cảnh thật đẹp, nhưng buồn và lạnh lẽo quá, nên càng gặp mình thi sĩ lại càng run sợ và ớn lạnh hơn. Cuộc nói chuyện với lòng mình trong hoàn cảnh cô đơn chẳng khác nào dày vò tâm hồn thêm đau đớn.

             Chỉ có những nét vẽ quanh co của tạo hóa, với gió, với mưa và bầu trời ăm ắp mây hòa quyện trong một bức tranh hữu tình. Nhưng cảnh đẹp chỉ để gió và thời gian bào mòn mà không có người thưởng thức thì liệu có còn ý nghĩa gì nữa? Phải chăng, Huy Cận đã mượn những nỗi buồn vẩn vơ đó để gửi tâm sự gì kín đáo sâu bên trong, mà một tâm hồn đầy phức tạp như ông không thể nào diễn tả hết bằng lời?

              Nhưng chưa dừng lại ở đó, cái tôi của thi sĩ còn đi sâu hơn nữa vào ngọn nguồn của sự cô đơn:

                                     " Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
                                        Mênh mông không một chuyến đò ngang.
                                        Không cầu gợi chút niềm thân mật,
                                        Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

               Những cánh bèo nối nhau trôi lênh đênh trên dòng chảy vô định. Không phải vô lí khi cho rằng nhà thơ có chút tủi hờn, oán trách số mệnh. Cũng như bèo kia, thân phận của những con người sinh ra phải chịu chung kiếp nô lệ của dân tộc mình, đất nước mình chẳng mong một tiền đồ tươi sáng. Đau khổ, nhục nhã nhưng bất lực trước thời cuộc rối ren, người trẻ tuổi dễ cảm thương những kiếp sống như mình, "bèo dạt mây trôi". Huy Cận còn thấy sâu trong đó, cái toàn cảnh của cuộc đời: tất cả mối dây liên lạc đều bị cắt đứt, mọi sự liên hệ chỉ còn là ảo ảnh, quá khứ. Dòng sông rộng vô cùng nhưng không có lấy một con đò, một chiếc cầu để nối liền giữa hai bờ. Cho đến đây, bài thơ đã lần lượt dẫn dắt người đọc đến những khung cảnh đẹp nhưng càng về sau càng buồn, càng trống trải.

                Khổ cuối cũng chính là khổ thơ hé mở cho người đọc biết điều gì thật sự ẩn sau trái tim đa sầu đa cảm ấy của nhà thơ:

                                        ' Lớp lớp mây cao đùn núi bạc'
                                        Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
                                        Lòng quê dợn dợn vời con nước,
                                        Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

                Có thể nói cảnh vật hiện lên ở khổ cuối là cảnh vật cô đọng nhất nhưng cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa nhất. Tầng tầng lớp lớp những áng mây chồng chất lên nhau như chất chứa cả nỗi niềm ẩn khuất của nhà thơ. Động từ "đùn" diễn tả trạng thái hoạt động tràn đầy sức sống, ánh sáng chiếu vào lấp lánh như màu bạc. Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc.Cả bài thơ chỉ có mỗi dòng này le lói sự sống tươi mới, rực rỡ. Nhưng ngay câu thơ sau lại lên cảnh khác trái ngược hẳn: bóng chiều buông xuống đè nặng lên cánh chim bé nhỏ, lạc lõng giữa bầu trời rộng thênh thang. Dường như có nét gì tương đồng với những lớp mây dày trên kia, cánh chim có thể hiểu như hình tượng ám chỉ những thân phận chơ vơ giữ dòng xoáy cuộc đời, mà nhà thơ là một trong số đó. Trách nhiệm, bổn phận và những nỗi lo âu như bóng chiều của ngày tàn khiến cho cánh chim mỏng mảnh như chao nghiêng vì sức mạnh. Dầu là những dựu cảm mù mịt về tương lai nhưng ít ra nó cũng gợi cho nhà thơ mối liên hệ với cuộc đời dường như chỉ chứa đựng toàn mâu thuẫn kia. Cũng vì vậy, nó cho ta chiếc chìa khóa khám phá sự thật đang diễn ra trong lòng nhà thơ: tấm lòng yêu nước kín đáo. Chẳng vậy, dầu đang đứng ngay trên mảnh đất quê hương mình, mà tác giả vẫn nhớ thương quê nhà, có lẽ là một khung cảnh bình yên trong quá khứ. Vì chưng giờ đây dấu chân giặc đã giày xéo trên mồ mả cha ông, tấm lòng nào còn trọn vẹn thủy chung thì chỉ còn biết giữ cho mình một nỗi nhớ thương. "Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước. Cái nỗi niềm " dợn dợn" ấy của thi sĩ mới thật tinh nhạy và đáng quý biết bao. Kết thúc bài thơ nhưng dư âm cứ mở ra mãi bởi làn "khói hoàng hôn" không có thật, mà trong lòng người lại thấy hiện lên thật cái cảm giác đau buồn, nhung nhớ. Câu trả lời đến đây mới sáng rõ, cái tôi tưởng như muốn xa lánh cuộc đời ấy lại là một cái tôi khao khát gắn bó với đời biết bao nhiêu. Huy Cận thi sĩ thật khéo léo khi cất giấu cái tình tràn đầy của mình vào nỗi sầu câm lặng, triền miên vô bến.

                Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.

                  Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.

                   Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro