Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
Người nông dân Việt Nam yêu nước chống ngoại xâm đã xuất hiện từ rất lâu, ít nhất cũng trên mười thế kỉ nay. Nhưng trong văn học, hình ảnh người nông dân ấy chỉ thực sự xuất hiện vào nửa cuối thế kỉ XIX với bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyền Đình Chiểu. Có thể nói, với bài văn tế này Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật đầu tiên về người nông dân nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là một hình tượng rất đẹp, rất chân thực đầy tính bi tráng - bi thương mà hào hùng - đúng như cuộc chiến đấu mà nhân dân Việt Nam đã tiến hành suốt nửa sau thế kỉ XIX, vì cuộc sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ quốc mình.
B. NỘI DUNG:
I/ Giới thiệu chung:
1/ Tác giả:
Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) là một nhà thơ, nhà văn hóa cận đại của Việt Nam, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai. Cha ông tên Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định.
Tuổi niên thiếu, Nguyễn Đình Chiểu từng chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội lúc bấy giờ, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc nổi dậy này đã khiến cha ông bỏ trốn ra Huế rồi bị cách chức. Năm 1833 cha ông trở vào Nam, đem ông ra gửi cho một người bạn ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 12 đến 19 tuổi.
Năm 1843 ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định, đúng vào năm 21 tuổi. Khi ấy, có một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông.
Năm 1847 ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỷ Dậu 1849. Nhưng chưa kịp thi thì được tin mẹ mất tại Sài Gòn (1849). Trên đường trở về chịu tang mẹ, vì thời tiết thất thường, vất vả và khóc thương nhiều nên ông bị bệnh rồi mù cả đôi mắt. Trong thời gian nghỉ lại Quảng Nam chữa bệnh, tuy bệnh không hết, nhưng ông đã được vị danh y truyền dạy nghề thuốc. Đui mù, mất mẹ, hôn thê bội ước, cảnh nhà sa sút... ông đóng cửa chịu tang cho đến năm 1851, ông mới mở trường dạy học và làm thuốc. Ngoài đôi việc trên ông còn sáng tác truyện thơ Lục Vân Tiên và Dương Từ - Hà Mậu, để gửi gắm tình ý cùng hoài bão của mình.
Khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, không chịu sống trong vùng bị chiếm đóng, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình xuôi thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Tại đây, ông tiếp tục dạy học, bốc thuốc, đồng thời vẫn giữ mối liên hệ với những sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và các lực lượng kháng chiến; từ chối trước mọi cám dỗ của đối phương. Thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác nhiều thơ văn bi tráng nhất, tiếc thương những đồng bào, bạn bè, nghĩa sĩ đã mất.
2/ Phong cách viết:
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa, tuy mang tật mù tối, và gặp lúc biến loạn mà vẫn giữ được phẩm cách thanh cao. Ông không chỉ là người con có hiếu, người thầy mẫu mực, mà còn là một nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị.
Ông là nhà thơ có quan niệm văn chương nhất quán. Ông chủ trương dùng văn chương biểu hiện đạo lý và chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để "chở đạo, sửa đời và dạy người". Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bằng, rạch ròi, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân, yêu nước của ông. Sự nghiệp văn chương của ông, có thể chia thành hai thời kỳ sáng tác: trước khi giặc Pháp xâm lược và sau khi giặc Pháp xâm lược.
Với niềm tin vào sức mạnh muôn đời của Tổ quốc, tin ở lòng yêu nước của những người dân ; dân lân bình dị và thiết tha, nhà thơ luôn luôn hướng về một tương lai tốt đẹp. Đó là một niềm tin cảm động và mạnh mẽ. Có lẽ trước Nguyền Đình Chiểu, chưa có một nhà thơ nào sáng tác với một ý thức rõ rệt như ông. Cái đạo của ông không là gì khác ngoài đạo yêu nước thương dân. Đó là nguồn gốc khiến thơ văn ông có sức rung cảm lớn, nguồn gốc đưa tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu đứng vào vị trí vẻ vang trong nền văn học nước nhà.
3/ Sự nghiệp sáng tác:
Giai đoạn đầu (những năm 50 của thế kỷ 19): Trong giai đoạn này, ông viết "Lục Vân Tiên" và "Dương Từ-Hà Mậu". Có thể xem đây là thời kỳ khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước yêu dân của ông.
Giai đoạn sau bắt đầu từ ngày quân Pháp đến chiếm lấy Gia Định (1859) cho đến khi ông qua đời (1888): Ngòi bút của ông ở giai đoạn này gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân mất nước. Trong nhiều tác phẩm như "Chạy Giặc", "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", "Lục tỉnh sĩ dân trận vong", v.v,... Ông đã lên án mạnh mẽ quân Pháp xâm lược, phê phán triều đình nhu nhược, đồng thời ca ngợi tinh thần nghĩa khí và những tấm gương chiến đấu anh dũng của nhân dân. Đây là giai đoạn phát triển cao và rực rỡ của sự nghiệp văn chương Nguyễn Đình Chiểu.
Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mang lý tưởng đạo đức, nhân nghĩa và lòng thương dân. Ông là nhà văn đầu tiên đưa hình tượng người nông dân lên vũ đài văn học làm hình tượng nghệ thuật trung tâm.
II. NỘI DUNG:
1. Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc:
a) Xuất thân:
Nguyễn Đình Chiểu đã mở đầu miêu tả hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc bằng bối cảnh thời đại và ý nghĩa cái chết của những người nghĩa quân. Bối cảnh thời đại diễn ra hết sức căng thẳng và ác liệt thể hiện tình hình nguy nan của dân tộc: "Súng giặc đất rền". Câu này đã mở ra không khí của thời đại, của những ngày thực dân Pháp đánh chiếm, như chính tác giả đã miêu tả:
"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây" (Chạy giặc)
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa "súng giặc" là thế lực xâm lược và "lòng dân" là sự yêu nước, lòng căm thù giặc tỏ rõ. Hình ảnh đối lập đã nhấn mạnh tính chất của một cuộc chiến không cân sức. Tác giả còn đề cao ý thức trách nhiệm, lòng yêu nước của nhân dân một cách tự giác và cái chết của những người chiến sĩ là cái chết bất tử, lưu lại tiếng thơm muôn đời: "Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ."
Đi vào nguồn gốc xuất thân của những người nghĩa sĩ, Nguyễn Đình Chiểu đã vận dụng liên tục biện pháp so sánh đối lập.
"Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó."
Bao nhiêu lượng thông tin chứa đựng trong tám tiếng ngắn ngủi ấy đã nói với chúng ta rất đầy đủ về tình cảnh của người nông dân cần Giuộc. Họ cặm cụi, lầm lũi, lặng lẽ làm việc, cam chịu bao nhiêu gánh nặng của cuộc sống, sự khắc nghiệt và những tai họa từ thiên nhiên, từ xã hội. "Cui cút" là từ ngữ gợi lên hình ảnh những người nhỏ bé có số phận đáng thương, tội nghiệp. Họ thui thủi với công việc làm ăn lam lũ, nhọc nhằn để mưu sinh. Chừng ấy lo toan vất vả cũng đã quá đủ đối với họ, chẳng còn có thể nghĩ gì thêm, lo toan gì thêm ngoài những "toan lo nghèo khó" vốn đã quá lớn lao ấy.
b) Thái độ đánh giặc:
Ở hai câu tiếp theo, hai vế đối của câu văn biền ngẫu tạo ra ấn tượng về xuất thân của những người nghĩa sĩ:
"Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó."
Họ là những người nông dân cần cù lao động, vất vả, cuộc sống gắn liền với đồng ruộng. Họ hoàn toàn xa lạ với những vũ khí như khiên, súng, mác.... Từ ngữ nhấn mạnh nguồn gốc nông dân của những người nghĩa sĩ thể hiện sự cảm thông, thương xót, chia sẻ với người nông dân. Họ chỉ thành thục việc đồng áng, sống quanh quẩn với "ruộng trâu", chưa biết gì ở ngoài "làng bộ". Họ là những người dân nghèo khổ, hoàn toàn thất thế trước kẻ thù. Nhưng ẩn chứa trong những con người bé nhỏ đó là vẻ đẹp của những tâm hồn yêu nước. Đây cũng là điều mà Nguyễn Đình Chiểu muốn nhấn mạnh.
Xuất phát từ lòng yêu nước và căm thù giặc, không có việc nào lớn hơn việc cứu nước, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, đã đến tận xóm làng, đã đến tận ngôi nhà của họ, họ đã tự nguyện đứng lên. Tiếng rao truyền cứu nước đã được phát đi từ chính trái tim của những người nông dân Cần Giuộc. Nó chính là lòng căm thù giặc sục sôi vì hành động cướp nước:
"Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ."
Qua biểu hiện sự quan tâm đến tình cảnh của đất nước: "Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng", người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã có những chuyển biến tình cảm, nhận thức và hành động. Họ "Trông tin quan" cũng như trông chờ động thái của triều đình nhà Nguyễn "như trời hạn trông mưa". Hình ảnh so sánh này thể hiện rõ sự bặt vô âm tín của triều Nguyễn khiến người dân chờ đợi mỏi mòn, thất vọng.
Nhìn thấy "mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm", "bòng bong che trắng lốp", "ống khói chạy đen sì", người dân đều căm thù bọn giặc cướp nước "ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ", "muốn tới ăn gan", "muốn ra cắn cổ". Nghệ thuật so sánh ví hình thức thể hiện được bản chất của người nông dân và sự căm ghét của họ. Từ đây họ cũng đã có những chuyển biến về nhận thức và hành động.
Hai hình ảnh "Một mối xa thư đồ sộ" và "Hai vầng nhật nguyệt chói lòa" là những hình ảnh ước lệ về cơ đồ to lớn của đất nước mà những người nông dân "há để ai chém rắn đuổi hươu", "đâu dung lũ treo dê bán chó". Người nông dân quyết không để cho bất kỳ ai xâm chiếm đất nước, nhận thức được trách nhiệm bảo vệ cơ đồ này. Hình ảnh này cũng vạch trần tội ác của giặc, lũ bán nước cầu vinh "treo dê bán chó", thể hiện thái độ không dung tha kẻ lừa dối, bịp bợm.
"Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ."
Câu văn đậm chất khẩu ngữ, giọng điệu khảng khái, mạnh mẽ đã thể hiện được tinh thần tự nguyện tham gia đánh giặc, tự nguyện xả thân. Sự chuyển hóa phi thường của người chiến sĩ nghĩa quân Cần Giuộc: từ những người nông dân áo vải bình thường trở thành những người chiến sĩ vì có tấm lòng yêu nước.
c) Điều kiện chiến đấu:
Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là những người "dân ấp dân lân", "mến nghĩa làm quân chiêu mộ". Họ vì nghĩa mà tình nguyện đánh giặc, dù họ không hề có chút kiến thức quân sự nào.
"Ngoài cật có một manh áo vải nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ."
Quân trang của họ chỉ có "manh áo vải", quân dụng cũng chỉ là "ngọn tầm vông", "lưỡi dao phay", "rơm con cúi" mà thôi. Những món đồ ấy đều là những dụng cụ gắn bó với người nông dân quê mùa lam lũ. Nó là những món đồ thô sơ và đơn giản, nào có thể sánh với những vũ khí hiện đại như "tàu sắt tàu đồng súng nổ", rồi "đạn nhỏ đạn to" của quân giặc. Quân giặc có được trang bị tối tân, hiện đại, có một lực lượng lớn mạnh với sự chuẩn bị kỹ càng. Những người nghĩa sĩ hoàn toàn thất thế trước kẻ thù, bởi họ chỉ là những người nông dân "mến nghĩa làm quân chiêu mộ".
Song lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiên họ vượt qua mọi trở ngại yếu thế đó để kiên quyết đứng lên. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ. Họ là những người anh hùng, thất thế nhưng hiên ngang:
"Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố."
Họ không quan tâm đến sự thất thế của mình, không chờ đợi lâu hơn nữa, quyết định một phen sống mái với kẻ thù. Mặc dù "mười tám ban võ nghệ", "nào đợi tập rèn", "chín chục trận binh thư, không chờ bày bố", họ vẫn hiên ngang quyết chiến.
d) Vẻ đẹp lúc xung trận:
"Chi nhọc quan quản trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ."
Tiết tấu câu văn nhanh, mạnh, dồn dập, kết hợp với động từ mạnh và những từ ngữ "coi giặc cũng như không", "liều mình như chẳng có". Tác giả đã rất thành công miêu tả vẻ đẹp người nghĩa sĩ. Họ không hề phân vân, do dự, không hề run sợ trước kẻ thù. Bằng ngôn từ nghệ thuật, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa rõ ràng những khoảnh khắc đẹp nhất của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Họ "đạp rào lướt tới", "coi giặc cũng như không", "kẻ đâm ngang, người chém dọc", "bọn hè trước, lũ ó sau", xông pha nơi chiến trận, tung hoành ngang dọc.
Với những trang bị thô sơ, những người nghĩa sĩ nào sẽ thắng được quân giặc. Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấm bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lường, chênh lệch với kẻ thù, để họ có thể tạo nên những chiến công: "đốt nhà dạy đạo kia", "chém rớt đầu quan hai nọ", "làm cho mã tà ma ní hồn kinh".
2/ Nghệ thuật:
Với bút pháp hiện thực kết hợp chất trữ tình sâu lắng, tác giả đã dựng nên một bức tượng đài bi tráng về người nông nghĩa sĩ đánh Pháp buổi đầu. Bài tế là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, ngôn ngữ bình dị, trong sáng và sinh động.
Giá trị nghệ thuật hết sức đặc sắc, làm cho bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trở thành bất tử là lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng được bức tượng đài về những người nông dân yêu nước, những người anh hùng vô danh "sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc". Bức tượng được đắp xây băng nghệ thuật ngôn từ này có những đường nét về ngoại hình rất nổi, rất đặc thù của người nông dân nghèo mà đầy nghĩa khí không trộn lẫn vào ai khác. "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" sâu sắc và toàn diện cả về nội dung lẫn nghê thuật, để từ đó thấy được giá trị cốt lõi mà tác phẩm mang lại. Đó chính là giá trị của tác phẩm và giá trị thơ văn của Đồ Chiểu.
C. KẾT LUẬN:
Tóm lại có thể nói, dù đã ngã xuống, nhưng hình ảnh người nông dân giết giặc vẫn mãi ngời sáng. Đó chính là những trái tim ngời sáng trong cát, đế lại tiếng thơm muôn đời.Về phần bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được xem là một áng văn chương xuất sắc không phải chỉ của riêng Nguyễn Đình Chiểu mà còn là của văn học Việt Nam thời Trung đại. Bằng một bút pháp trữ tình kết hợp nhuần nhuyễn với bút pháp hiện thực, bằng ngôn ngữ bình dị mà gợi cảm, bài văn đã tái hiện chân thực sâu sắc và đầy xúc động cả một thời đau thương nhưng anh dũng của dân tộc, đồng thời xây dựng nên một tượng đài có một không hai trong lịch sử văn học thời trung đại về người nông dân nghĩa quân chống giặc ngoại xâm.
Đứa nào gõ please đừng nhầm họ tên t nữa tội lỗi chết.
T yêu cái họ của t có được không? T.T
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro