Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

6. Câu chuyện của người trực đêm khách sạn

Con chó Shalma

Mãi đến giữa mùa đông năm sau tôi mới biết câu chuyện xảy ra thế nào. Sau ngày giáng sinh con chó nhà tôi chết. Cha tôi bỏ nó ngoài sân sau. Qua một đêm, nó đông cứng. Tôi nhìn nó từ cửa sổ nhà bếp. Nó cứ nằm như vậy suốt năm ngày, mà cha tôi vẫn không làm gì. Tôi sợ cha tôi chờ đến thứ hai, là ngày có xe đi lấy rác, sẽ bỏ nó, nên chủ nhật tôi lấy cuốc ra đào đất để chôn. Nhưng đất cứng quá, tôi đào hoài không được.

Cha tôi ở trong bếp. Ông mang giày bốt vào, lấy cái bao rác lớn, một bó giây và một cái búa mang ra chỗ tôi, bảo tôi phụ bỏ con chó vào bao. Ông vác bao lên vai, bảo tôi đi vào nhà. Nhưng tôi không vào. Tôi sợ ông đem con chó ra chỗ thùng rác. Nhưng ông vác Shalma đi ngã khác, xuống dốc núi. Phía sau nhà tôi có một đường mòn hẹp và dốc dẫn xuống hồ, chỉ có chúng tôi biết. Nó không dẫn xuống vùng hồ rộng, mà xuống một cái ngách khuất của hồ, xuống đến dưới mới biết có cái ngách này. Ở trên cao, nó khuất sau các sườn núi.

Tôi đi theo ông đi xuống đó.

Đến nơi cha tôi tìm một cục đá lớn bỏ thêm vào bao, rồi mới dùng giây cột nhiều vòng quanh người con chó lẫn cục đá ở bên trong cái bao. Nước trên hồ đã đóng băng hết. Cha tôi vác con chó đi một đoạn trên mặt hồ rồi dừng lại, dùng búa đập một một cái lỗ và ném nó xuống nước.

Tôi hiểu hết mọi chuyện. Mẹ tôi không bỏ tôi đi vào năm trước. Mẹ đã chết. Vì xác mẹ nằm ở dưới hồ, cho nên không có đám ma.

Sophie

Tôi quyết định không nói chuyện này với cha xứ. Một buổi chiều chủ nhật, tôi đến nhà cô Sophie. Tôi đi đường tắt, băng qua những cánh đồng trắng. Tuyết rơi nhiều quá, tôi đi mải nhìn xuống mặt đất tìm chỗ đặt chân, bỏ mất một cái ngã rẽ. Tôi đi lạc, đến gần tối mới đến nhà cô Sophie. Tay chân tôi tím ngắt. Cô Sophie quấn tôi trong một cái chăn dầy. Cô cởi giầy tôi ra, gác hai chân tôi lên người cô để xoa. Hai bàn tay cô mềm mại và ấm. Cô để nhạc Schumann, hâm sữa ca cao và lấy cho tôi bánh nướng nhân trái cây khô còn lại từ lễ Giáng sinh. Sau đó tôi ngủ quên, lúc thức dậy tôi nằm khóc vì lâu lắm không ai đắp chăn cho tôi như cô Sophie. Mãi đến tối tôi mới nói chuyện với cô được. Tôi nói tôi biết mẹ tôi chết rồi, chết như thế nào. Tôi còn biết cha tôi giấu xác mẹ tôi ở đâu. Đêm đó tôi nghe tiếng cha mẹ tôi cãi nhau, tiếng đồ đạc rơi vỡ, tiếng mẹ tôi kêu lên và tắt đi vì bị cha tôi bóp cổ.

Cô Sophie nói tôi nói sai hết cả. Mẹ tôi thấy ở đây buồn nên bỏ đi, vậy thôi. Tôi nói chỉ vì tôi còn bé mà không tin tôi sao. Tôi chạy ra cửa, giây giày còn chưa cột hết. Cô Sophie giữ tôi lại, bắt tôi hứa không được kể chuyện này cho ai nghe. Người ta sẽ không tin tôi, sẽ đưa tôi vào nhà thương ở chung với người điên.

“Còn nếu người ta tin em?”

“Nếu người ta tin em thì cha em sẽ đi ở tù, còn em thì bị đưa vào sống ở viện mồ côi, cũng buồn thảm như ở tù vậy.”

Không phải tôi sợ viện mồ côi, tôi chỉ sợ vào đó thì tôi không đi tìm em Marcus được.

Cô Sophie lấy xe đưa tôi về. Đến nơi, tôi nói:

“Em nghĩ cha giết mẹ để cưới cô.”

Không hiểu sao tôi lại nói như vậy. Có lẽ vì tôi thấy thân thể cô êm ái, hơi thở có mùi thơm, ai cũng muốn ở gần. Cô Sophie nhìn tôi nghiêm nghị nói tôi đã mất trí. Cô không bao giờ còn muốn thấy mặt tôi nữa. Dù chỉ một lần.

Ở cửa, cha tôi hỏi: "Nó đến nhà cô có việc gì không?" Cô Sophie trả lời: "Không có gì đáng kể, chỉ có mấy chuyện ở trường." Cha tôi mời nhưng cô không vào nhà.

Lünberg

Cô Sophie là người đầu tiên và cuối cùng tôi nói câu chuyện này. Nhưng hôm ở nhà cô Sophie, tôi không nói một lời nào về em Marcus. Mùa đông năm trước đó, em tôi được năm tuổi. Vào buổi tối cha mẹ tôi cãi nhau, em tôi thức giấc, đi vào phòng cha mẹ. Em nhìn thấy cha giết mẹ. Em sợ quá, bỏ chạy ra ngoài. Rồi em không bao giờ dám về nữa. Em đi mãi, hết những cánh đồng trắng, là khu rừng Adernwald. Em đi vào đó trong đêm khuya. Tôi không nhìn thấy em đi, nhưng tôi biết như vậy.

Tôi đã đi tìm trong tất cả khu rừng trong ba năm. Tôi không thấy xác của em. Tôi cũng vào nhà mọi căn nhà tôi gặp, hỏi người ta có thấy một đứa con trai tóc vàng, mắt nâu chứ không xanh, tên là Marcus không. Không ai đã thấy em, nhưng không hiểu sao tôi biết là em Marcus còn sống. Tiếc rằng con chó Shalma đã chết, nên tôi không dắt nó đi tim Marcus được. Em rất yêu Shalma.

Một buổi tối tôi nằm mơ thấy mẹ, tưởng như mẹ vẫn còn ở nhà. Sáng dậy nhớ ra mẹ chết rồi, tôi buồn quá, vào rừng lang thang mãi không muốn về nhà, chẳng muốn ăn uống gì cả. Chiều gần tối, tôi chợt thấy Marcus đang đứng chờ một người nào đó. Em mặc một cái áo màu xám và quần mầu ô liu. Cả hai đều cũ và giống như quần áo của người lớn cắt khâu lại cho vừa với em. Marcus không nhận ra tôi, vì anh em tôi xa nhau đã ba năm. Em lớn hơn, tóc dài không ai cắt và không vàng như trước, nhưng em không khác lúc xưa. Chỉ đẹp hơn và đôi mắt buồn ghê gớm. Chắc tôi thay đổi nhiều trong ba năm nên em không nhận ra.

Có một người làm việc ở nhà ga Lünberg tìm được em và nuôi em. Ông ấy nghèo lắm. Em không muốn ông ấy thấy tôi, chúng tôi trốn vào một chỗ bí mật trong hốc núi để nói chuyện. Tôi nghĩ ông ấy là người tốt.

Marcus nói, ban đêm trong rừng cây cối đi lại được và nói chuyện với nhau bằng một thứ tiếng riêng nghe ầm ầm kinh người. Lúc đầu em sợ rừng lắm nhưng bây giờ thì quen rồi. Buổi tối cây cối vẫn nói chuyện với nhau và cả với em, cây trông thế mà hiền thôi, hiền hơn con người. Em hỏi về con chó Shalma. Tôi nói nó chết rồi. Em buồn lắm. Tôi bảo em đừng khóc, chỉ là một con chó thôi mà.

Từ nhà tôi tới rừng Lünberg rất xa, đi nửa ngày mới tới, nên mỗi tuần chúng tôi chỉ hẹn gặp nhau một lần vào ngày chủ nhật. Mỗi chủ nhật tôi đi từ lúc tinh mơ. Nếu người lớn bắt được anh em tôi gặp nhau, họ sẽ chia cắt anh em chúng tôi. Người đang nuôi em sẽ nộp em cho Sở thanh thiếu niên vì sợ tội giữ em bất hợp pháp. Nếu về với cha, cha sẽ giết em vì em đã trông thấy cha giết mẹ. Chúng tôi phải giữ bí mật tuyệt đối.

Tôi luôn luôn nghĩ tới Marcus. Có gì đẹp tôi cũng để dành cho Marcus. Em tôi thật tội nghiệp, thật can đảm. Marcus là một thiên thần.

Carmina

Người ta chỉ tồn tại được trong cuộc sống là nhờ biết sắp đặt. Sắp đặt xong thì làm đúng như vậy, không suy nghĩ thế này hay thế nọ, thì việc gì cũng làm xong. Đi học về tôi đi làm trong xóm: dọn chuồng bò, chẻ củi, khuân vác, làm việc ở đồng... 6 tiếng một ngày và chỉ ăn bánh mì đen cắt lát. Tôi làm được. Tôi cần tiền để lo cho em Marcus. Tôi mua bánh mì, xúc xích, kẹo sô cô la, kẹo dẻo, dặn em dấu thật kín để dành ăn.

Nhưng sau tám tháng tôi vẫn chưa để dành được nhiều. Không đủ để anh em tôi trốn đi.

Tôi không thể chờ đến năm học hết trung học. Tôi phải bỏ nhà bỏ trường ra đi, về tỉnh tìm việc làm, có chỗ ở và tiền để sống rồi sẽ quay lại Lünberg để đón Marcus. Trước khi đi xa, tôi dặn dò em rất cẩn thận. Tôi sẽ không đến thăm em được trong một thời gian dài, và chúng tôi không thể gọi điện thoại hay thư từ được.

Ra đi, tôi nhớ em và lo lắm, nhưng vẫn phải đi.

Ở Halde ban đầu tôi chỉ làm được nghề khuân vác tính lương giờ, vì không có giấy tờ. Mấy đứa da đen dẫn tôi về chỗ bọn nó ngủ. Tháng thứ sáu tôi khuân vác cho một người Thổ bán trái cây. Ông ta hỏi chuyện tôi, biết tôi trốn nhà đi, chưa đủ 18 tuổi và không có giấy tờ. Giáng sinh ông quà cho tôi mấy cái bằng cấp của ai đó tên là Michael Salascher, không biết là giả hay thật.

Tôi xin được việc làm gác dan trong khách sạn Carmina. Tôi mặc đồng phục thật sạch, đi đứng thẳng và nói tiếng Đức của người có học khi có ai hỏi đến. Nhờ vậy mà bốn tháng sau tôi được vào phụ tá trong quầy tiếp tân. Tôi có lương để thuê một căn hộ nhỏ, tôi để dành cho Marcus căn phòng đẹp nhất trong đó, có cửa sổ nhìn xuống một cái sân nhỏ có trồng hoa hồng tường vi và các bụi cây vào mùa đông lá vẫn xanh. Tôi đi làm thật gương mẫu. Đến tháng mười tôi mới dám xin nghỉ một tuần để về Lünburg đón em Marcus. Trước khi đi tôi đã mua sẵn cho em quần áo, khăn lông và chăn gối bông mềm mại.

Maibuchen

Tôi đến Lünberg vào chiều thứ bảy, lấy phòng trong cái khách sạn nhỏ duy nhất gần sân ga. Tôi vào rừng, cột một sợi dây bằng vải tím trên một cành cây để hẹn gặp em vào chiều chủ nhật như những chiều cuối tuần hơn một năm trước. Sáng chủ nhật tôi dậy thật sớm lên rừng lang thang mãi. Suốt buổi chiều em không đến. Tôi đi quanh tìm mãi không thấy em hay căn nhà nơi em ở. Tôi chưa hề thấy căn nhà đó lần nào vì em không dám cho tôi biết, sợ người đàn ông nuôi em thấy tôi. Tôi tìm mãi đến tối.

Tối tôi về khách sạn ngủ, sáng lại lên rừng tìm căn nhà nơi Marcus ở. Ngày nào cũng vậy. Đến ngày thứ tư tôi đến một cái góc lõm vào ở chân núi, chung quanh có cây che nên đến gần cũng không thấy, đứng trên sườn núi ngay gần phía trên đó cũng không thấy. Trong cái góc ấy có một chỗ đất nện cứng và bằng như là một cái nền nhà. Có người đã làm một cái nhà bằng gỗ nơi đây và đã dỡ cái nhà đó đi rồi. Gần đó, nơi có một giòng nước trong từ vách núi chảy ra, tôi thấy những hòn đá lớn được sắp thành một chỗ tắm giặt.

Tôi tìm mãi, không còn một một dấu vết gì của người đã ở căn nhà đó. Trên thân một cây giẻ phía trước, có ai đã lấy dao khắc chữ Maibuchen. Tôi không biết đó là tên người, hay tên của những cây giẻ đó.

Tôi ra nhà ga Lünberg tìm tên Maibuchen trong niên giám điện thoại. Không có ai tên đó.

Tôi khóc suốt đêm. Tôi chờ ba ngày ở các cổng trường tiểu học, cuối cùng tôi vào hỏi, không trường nào có học sinh tên Maibuchen hay K (tôi không biết em mang họ gì). Những ngày còn lại của tuần đó tôi đi khắp nơi, gõ cửa hầu hết mọi căn nhà ở Lünberg, nhưng không ai biết gì về Marcus. Ở nhà ga, họ nói từ mười năm nay, không có nhân viên nào tên Maibuchen.

Tôi vật vã hàng đêm. Sáng thứ bảy cuối cùng tôi bình tĩnh hơn. Tôi biết mình cần nhiều thời gian và kiên trì để đi tìm Marcus. Tôi không thể buông mình trong tuyệt vọng rồi mất cả em trai lẫn việc làm. Tôi quyết định trở lại khách sạn C. Tôi phải đi làm thật gương mẫu, để có thể xin nghỉ không lương mà không bị mất việc. Tôi cần phải sắp đặt một chương trình đi tìm em tôi. Trên đời, mọi mục đích đều có thể đạt được, nếu biết sắp đặt cái chương trình đi đến đó và làm đúng không sai.

Tôi thấy rối bời, không đọc tiếp được nữa. Tại sao cuốn sổ này rơi vào tay tôi, và tôi lại đọc những trang này đúng vào hôm tôi muốn tìm sự thanh bình của một đám sương mù, lúc tôi muốn phá vỡ cái đường viền quanh tôi, đường viền không ôm ấp gì trong nó ngoài một nỗi cô đơn tuyệt đối? Tôi cố nhớ lại gương mặt của người trực đêm trẻ ở khách sạn. Tôi không còn nhớ những đường nét, chỉ nhớ đôi mắt anh nghiêm nghị nhưng bất an, mịt mùng trong đó nỗi buồn của loài thú đi lạc. Anh giao cuốn sổ cho tôi để nói với tôi điều gì? Tại sao lại là tôi? Không, chính tôi đã đi tìm nó mà. Tôi đã tìm cuốn sổ như người ở giữa sông chơi vơi tìm một mảnh ván, đã ngồi trên xe taxi với một người lái xe xa lạ đi khắp các xa lộ quanh vùng một cách vô vọng, và cuối cùng bước vào chỗ anh làm việc, cư xử như một khách hàng kiêu ngạo lạnh lùng quen bắt người ta làm theo ý mình, để buộc anh trao cho tôi cuốn sổ quí giá của anh. Quí giá? Tôi vừa định ném nó ra ngoài kia, xuống cánh đồng mù mờ ảm đạm, vì có ai cần nó đâu. Lúc đó tôi chưa biết anh có viết trong đây, bây giờ biết rồi, tôi còn ném nó đi được hay chăng? Tôi không biết.

Cái đường viền quanh tôi đang như vỡ ra, nhưng không phải để hòa vào một vùng sương mù êm ái. Một người đàn ông trẻ không quen với cặp mắt của loài thú đi lạc và với một câu chuyện lạ lùng đã chen lấn vào khoảng riêng tư, chen lấn vào nỗi cô đơn của tôi. Với những đoạn viết ngắn, những câu đơn giản và hầu như không có tính từ, anh nói về gánh nặng anh mang. So với anh, tôi nào biết thế nào là gánh nặng. So với anh, điều đánh dấu cuộc đời tôi không phải là nỗi buồn, mà là một khoảng trống không.

Tôi về phòng, gọi bồi mang đến một chai rượu vang đỏ. Nếu tỉnh táo, tôi sẽ không ngừng được giòng suy nghĩ, và tôi không biết những suy nghĩ sẽ đưa tôi tới đâu. Tôi muốn rượu làm cho tôi mơ màng và ngủ quên, ngủ quên để hoãn lại mọi thứ, kể cả những viên thuốc an thần đang nằm ngăn nắp trong chiếc túi da.

Sáng hôm sau tôi đổi tầu để đi tiếp. Buổi trưa, trong toa nhà hàng, tôi hỏi người soát vé:

“Bác ở mãi trên tầu có chán không?”

“Quen rồi. Ai làm việc gì thì quen việc nấy thôi.”

Ông ấy chúc tôi một ngày tốt đẹp rồi đi tiếp. Đi đến cuối con tàu xong, ông quay lại, đi ngang thì tôi vẫn còn ngồi đó. Ông mỉm cười, như thể chúng tôi đã biết nhau. Cũng chỉ là thói quen. Nhưng tôi thấy quí nụ cười ấy. Hôm nay tôi không muốn bị loài người bỏ rơi một mình với câu chuyện của người trực đêm trẻ không quen. Tôi hỏi bâng quơ:

“Tàu mình đi đến đâu rồi nhỉ?”

“Cô sống ở đây lâu chưa?”

“Cháu lớn lên ở đây mà.”

“Thật sao?”

“Không hẳn vậy. Cháu qua đây lúc bảy tuổi. Trẻ mồ côi vì chiến tranh. Cháu bị thương, người ta đem lên tàu bệnh viện Đức để chữa bệnh. Gia đình cháu chết hết, không ai đến nhận cháu về, người ta đưa cháu qua đây luôn.”

Ông vừa lật nhìn vào quyển sách ghi thời khoá biểu các chuyến xe vừa nói:

“Chiến tranh. Tôi biết chiến tranh là gì rồi. Tôi chẳng biết người ta nghĩ ra nó để làm gì. Tan nát, tan nát hết, chúng tôi vẫn còn nhớ mà... À, đây phải gần tới Koblenz rồi. Dù sao thì... Thôi chúc cô may mắn.”

Ông vừa bước đi, vừa nhìn đồng hồ và ghi chép gì đó vào cuốn sổ công tác mang theo bên mình. Trong 180 giây, ông vừa đi một chuyến từ chiến tranh nước tôi, ngược về chiến tranh nước ông, rồi trở lại với công việc bình yên hàng ngày của ông trên tàu. Có lẽ nề nếp là tất cả những gì con người cần.

Câu chuyện trong cuốn sổ của người trực đêm chỉ còn một lại đoạn ngắn.

Trả thù

Đã ba tháng rồi tôi vẫn chưa tìm được con đường nào để tìm Marcus. Tôi không biết em sống hay chết. Đêm qua tôi nằm mơ thấy em đứng trong một ngôi đền có ánh sáng vàng rực, người em cũng tỏa sáng và trong suốt. Gương mặt em hiền và nghiêm nghị, chỉ thoảng một chút buồn. Tôi không gọi em được.

Tôi vẫn đi làm đều đặn. Tôi biết giữ quần áo sạch sẽ và luôn được là ủi cẩn thận. Tôi đi đứng thẳng lưng, mắt luôn nhìn ra phía trước. Nhưng bên trong tôi ruỗng mục, chỉ chực đổ vỡ. Có thể cha tôi có việc gì đi ngang qua Lünberg, tình cờ gặp em Marcus và đã bắt và giết em rồi. Tôi sẽ không bao giờ biết, sẽ mãi mãi đi tìm em, vì nếu không tìm em, thì tôi sống để làm gì.

Tôi đã nghĩ nhiều rồi. Tôi không có cách nào biết em sống hay là chết. Tôi không sắp đặt được tôi phải làm việc gì, rồi sau đó thì việc gì, để mỗi ngày đến gần mục đích hơn một chút, nếu đời còn có mục đích. Tôi không thể sống không có sự sắp đặt nào. Mà tôi đã kiệt sức, không thể tính toán gì được nữa.

Tôi chỉ còn một sắp đặt cuối cùng. Tôi sẽ về Lünberg một lần nữa. Chỉ còn một nơi tôi chưa đi tìm tên K hoặc Maibuchen. Đó là nghĩa trang thị xã. Tôi không nghĩ là sẽ tìm thấy gì, nhưng tôi vẫn sẽ đến đó, để biết rằng mình đã tìm khắp mọi nơi. Nếu cha tôi giết em rồi, thì đâu có ai làm cho em một nấm mồ.

Sau khi đã mua cây súng, tôi sẽ còn tiền để mua vé xe lửa và ăn trong hai tuần. Tôi đi đến nơi nào chuyến xe lửa kế đưa tôi đến. Không có Chúa chỉ đường, tôi chắc không thể nào lần mò được dấu vết gì của Marcus, dù em sống hay chết.

Vào ngày cuối, tôi sẽ về nhà cha tôi. Cha tôi không bao giờ trả lời ai điều gì, nhưng tôi vẫn sẽ dẫn ông xuống cái hồ đóng băng và hỏi về mẹ và em. Sau đó tôi sẽ bắn ông. Sẽ có một cái lỗ trên mặt hồ, nơi tôi đẩy xác ông xuống. Sau đó tôi không còn việc gì có thể làm được nữa trên khắp mặt đất rộng này. Tôi sẽ cột đá vào người trước, tự bắn và ngã xuống nước. Tôi không muốn ai tìm thấy tôi cũng như họ đã chưa bao giờ tìm thấy mẹ tôi.

Nếu cô Sophie không cấm tôi tới nhà, tôi đã kể tất cả những câu chuyện này cho cô và đã không có những giòng chữ trong quyển sổ này. Tôi cần một người, một người duy nhất thôi, biết câu chuyện của tôi thì tôi mới chết được. Tôi không tìm được ai để kể. Vì vậy tôi phải chép câu chuyện này vào quyển sổ này, cho một người lạ đọc. Chắc chắn phải là một người lạ rồi, vì trên mặt đất này tôi không có người quen. Tất cả mọi thứ trong đây đều là chuyện có thật.

Tôi quyết định xuống ở ga kế tiếp, lấy vé quay về Halde, gặp người trực đêm khách sạn và trả cho anh quyển sổ. Tôi từ chối làm cái người duy nhất gánh vác câu chuyện của anh, gánh vác bất cứ sự thật hay điều hoang tưởng nào trong quyển sổ này. Anh muốn biến mất khỏi mặt đất này mà không phải một mình mang đi những bí mật và nỗi cô đơn của mình. Không. Tôi từ chối.

Tôi muốn trả cho anh quyển sổ thật nhanh, không nói một câu nào, rồi trở về ga, trở về xe lửa, tiếp tục hay là chấm dứt cuộc hành trình của riêng tôi.

Lúc một mình đứng ở thềm ga Hamburg với mớ hành lý, tôi thấy lòng rối bời và nao nao. Tôi cảm thấy buồn. Điều đó có nghĩa là tôi gần sự sống hơn cái chết. Tôi gửi hành lý rồi lang thang trong sân ga rộng. Đi ngang hàng bán hoa, tôi nhớ ngày còn nhỏ, mỗi lần được ra phố tôi hay đi vơ vẩn, cô trông nom ở viện mồ côi dặn nếu lạc đàn thì đến hàng hoa ở nhà ga chờ nhau. Ga nào cũng có một hàng hoa. Tôi tự hỏi nhà ga ở Lünberg có một hàng hoa hay không? Marcus có đến đó chờ anh mình không?

Tại sao tôi lại nghĩ đến câu chuyện của người trực đêm? Tôi đã quyết định từ chối câu chuyện ấy, sao tôi còn nghĩ đến Marcus?

Tôi bước ra ngoài, trời lất phất nửa mưa nửa tuyết. Tôi chui vào một chiếc taxi nhưng không có nơi nào để đến.

Tôi đến khách sạn Bốn Mùa, vì đó là cái tên duy nhất ở Hamburg mà tôi nhớ. Tôi lấy phòng, tắm, gọi một bình trà, nhờ họ đặt khay trà và đĩa bánh nhỏ lên chiếc bàn nơi cửa sổ. Tôi ngồi đó nhìn ra bầu trời xám. Tuyết đã hết rơi nhưng trời bây giờ còn lặng lẽ hơn. Và buồn. Một đứa con trai nhỏ có thể tiếp tục một mình sống với cha, sau khi biết người cha ấy đã giết mẹ mình không? Không. Không thể được. Cô Sophie nào đó nói cậu bé nói sai hết. Người mẹ chỉ thấy buồn và bỏ đi, có vậy thôi. Có người mẹ nào có thể bỏ đứa con trai của mình, đi và không bao giờ gửi thư, không bao giờ gọi điện thoại về không? Nếu tôi có mẹ, tôi sẽ biết. Nhưng tôi không có mẹ.

Bóng đêm buông rất chậm. Không gian trong căn phòng mờ tối dần. Tôi bật một ngọn đèn ở góc phòng. Vùng ánh sáng nhỏ loang ra một chút hơi ấm, một chút êm ả. Tôi thấy buồn. Cảm xúc này là của tôi đây sao?

Nửa đêm thức giấc, tôi lại nhớ đến câu chuyện của người trực đêm. Tại sao anh không có một lời nào nói về người cha, và người mẹ?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro