4. Nửa trang giấy
Tôi nói với người trực toa nằm rằng tôi sẽ không ăn sáng. Tôi ngủ chập chờn sáu tiếng sau đó. Trưa tôi đổi tàu ở Liège. Cất đồ đạc xong, tôi đi ra toa nhà hàng với cái túi có quyển sổ trong đó.
Tôi đặt quyển sổ lên bàn, tôi tìm một cây bút trong túi và đặt nó lên trên quyển sổ vẫn còn đóng.
Tôi uống cà phê thật chậm. Tôi nhìn ra bên ngoài cửa kính.
Dù có ít trang tôi cũng phải viết. Không có giấy nháp. Không một chuyện gì có thể làm lại được. Phải viết dù không có nơi nào để bắt đầu.
Tôi còn rất ít của cải riêng tư. Có quyển sổ là một thay đổi lớn. Có nó, tôi sống một mình dễ dàng hơn. Tôi không còn nói chuyện với những người đi chung tàu. Nó làm tôi yên tâm, mặc dù tôi chưa biết sẽ viết gì lên những trang giấy trắng. Nó không phải là một cuốn nhật ký, không để tôi ghi lại những ý nghĩ mỗi ngày. Tôi chỉ muốn nhờ nó nhớ lại mình là ai. Quyển sổ là chuyến tàu đi ngược về những năm tháng tôi đã xóa đi rồi.
Nhưng đã một tuần rồi mà quyển sổ vẫn còn trắng.
Buổi tối, tôi đọc vài trang trong quyển Tử kinh Tây Tạng. Cuốn sách chỉ lối cho người chết trong tầng trời trung gian giữa thế giới này và những thế giới khác. Nơi đó tôi sẽ không còn trí thông minh, không còn cảm xúc, không còn ý chí. Chỉ còn là một cái hồn không biết mình bắt đầu và chấm dứt nơi đâu, lang thang trong mờ mịt. Quyển sách là cẩm nang đi đường cho những linh hồn chờ tàu trong ga chuyển tiếp. Có những chuyến tàu xuống âm cung, có những chuyến lên cõi Phật, có những chuyến lại vòng về chốn cũ. Sách dạy tôi đọc các bảng hiệu để tìm ra lối đi trong trăm nghìn ngả rẽ. Ở một nơi không còn ý nghĩ, các bảng hiệu không được viết bằng chữ, không thể được hiểu bằng lý lẽ, mà được nhận ra bằng màu sắc. Mầu sắc của cõi chết là mầu sắc của chiêm bao, chập chờn, thăm thẳm. Những mầu sắc không còn móc nối nào với cuộc đời hữu hình. Ký ức của người chết không còn ánh sáng, không còn bóng tối, nhập nhòa nhận ra sắc vàng, sắc tím, sắc xanh của những đường tàu đi vào những thế giới không còn là thế giới. Sách dạy tôi phân biệt mầu sắc của mê muội, của giác ngộ, của đau khổ, của hạnh phúc. Tôi đọc và không hiểu gì cả. Người ta bảo tôi nhắm mắt lại mà hiểu rằng màu tím là màu của quỷ và màu hồng là màu của phật (hay là ngược lại, chỉ một phút sau là tôi đã không còn nhớ rõ).
Tôi gấp quyển sách lại. Quyển sách đã được lưu truyền bao nhiêu thế kỷ để hôm nay nó rơi vào tay tôi, một người không biết cách đọc nó. Tôi đã tìm cách hiểu nó bằng lý trí, bằng trực giác, bằng lòng thành, nhưng đều không được. Nhưng từ mấy trang trong cuốn sách đó tôi hiểu một điều có lẽ người ta không bao giờ có ý định muốn nói: rằng hạnh phúc và đau khổ chỉ khác nhau như màu hồng và màu tím. Đứng ở xa nhìn lại, tôi sẽ không còn phân biệt được giữa hai màu, chỉ nhớ lại rằng cả hai đều là một thứ đam mê. Nhiều lần nghe một bài nhạc tôi đã không biết mình đang thực sự chìm sâu trong đau khổ hay là trong hạnh phúc. Khi đau thương xảy đến trong đời thật, người ta biết cái buốt của vết cắt trên da thịt, sự choáng váng ở bờ vực, màu đen mù lòa của sự suy sụp. Nhưng rồi với năm tháng, bóng tối không trở thành ánh sáng, mà nó loang vào trong màu thời gian. Thương đau biến thành nỗi buồn, và nỗi buồn gần với cái đẹp, cũng như hạnh phúc gần với cái đẹp. Từ lâu rồi người Hy Lạp đã xếp bi kịch vào một ngành mỹ thuật.
Trong bất hạnh cũng có cái đẹp.
Tôi viết câu trên vào quyển sổ, và trước khi viết xong câu, tôi biết rằng tôi không bao giờ muốn đã viết ra nó. Bởi vì nó vừa là sự thật, vừa trái ngược với sự thật. Bất hạnh đã tước đi tất cả ước ao được sống của tôi. Tôi không còn muốn biết, không còn sức lực để biết rằng nếu sống, mình có còn một ngày mai nào không. Và nếu chết, sau đó có chăng một sân ga với những chuyến tàu xuôi ngược về một thiên đường hay địa ngục nào. Có lẽ cái chết không có màu hồng hay màu tím phôi pha nhạt nhòa của một giấc chiêm bao, mà là màu đen tuyệt đối của sự vùi lấp tuyệt đối. Hoặc là nó có màu trắng tuyệt đối của sự mất mát tuyệt đối.
Tôi sẽ nghĩ như vậy vào một đêm nào rất xa. Hôm nay, với tôi, cái chết mang màu đỏ thắm nao lòng của giòng máu đang chảy ra khỏi thân thể. Chảy và không thể ngừng được nữa. Thời gian đã ngừng chứ không phải giòng máu.
Trên mặt kệ nhỏ là quyển sổ mở ra và cây bút. Tôi chỉ mới viết có hai câu.
Có người là họa sĩ nhưng không vẽ núi, không vẽ nhà, chỉ ngày đêm mài mực để một hôm phác lên giấy một vệt cong. Họ nhìn đường đi của bút trong cái khoảnh khắc thật ngắn khi nó được phóng ra, nhìn chỗ bút hết mực, nét khô đi, vỡ thành nhiều đường, rồi tắt đi trên giấy. Họ nhìn thấy cái đẹp, sức mạnh và sự già dặn ung dung của mình nơi cái biên giới tuyệt mỹ giữa mực đen và giấy trắng. Tôi cũng muốn làm như họ: không vẽ núi, không vẽ nhà, chỉ có những nét. Nhưng thế giới của tôi không nguyên vẹn để tôi có thể vẽ nên một nét nguyên vẹn. Họ vẽ sự thanh bình, mầu đen của họ là khoảng không sâu thẳm, còn tôi vẽ cuộc chiến bại, màu đen của tôi là một thứ bóng tối phủ lên trăm nghìn mảnh vỡ. Họ vẽ cuộc đời của họ, cuộc đời mà họ hiểu, còn tôi vẽ cuộc đời của tôi, cuộc đời mà tôi không biết. Nhưng tôi chỉ mới nghĩ về bức tranh buồn thảm của mình. Trang giấy vẫn còn trắng.
Tôi lấy bút chì bắt đầu lại trên một trang giấy mới:
Tôi là một đứa trẻ mồ côi.
Câu thứ hai:
Tôi đến từ một đất nước có chiến tranh.
Tôi để trống nửa trang sau đó. Rồi tôi viết tiếp:
Ở Hildesheim, tôi hát trong ban đồng ca nhà thờ. Tôi không nhớ gì về ngôi nhà thờ ấy, ngoại trừ đá và hơi lạnh từ đá.
Tôi đọc lại hai câu đầu. Tôi thấy chúng không thêm hay bớt gì vào câu chuyện của tôi ngoại trừ một thứ ai oán không cần thiết và đã quá nhàm. Tôi đã gặp bao nhiêu người lúc nhỏ mồ côi vì chiến tranh, điều đó chẳng làm họ khác những người khác một chút nào.
Tôi nghiêng cây bút chì, vẽ những đường sọc phủ lên hai câu đầu tôi đã viết.
Tôi nhìn lại cả trang: Nếu tôi kết thúc những điều tôi viết về tôi ngay trang này hay viết tiếp ba trăm trang thì có khác gì đâu. Trước mặt tôi là một cuốn tự truyện gồm những câu bị những đường kẽ lấp đi, nửa trang giấy trắng không có gì đổ đầy, hơi lạnh của đá trong nhà thờ, rồi đến nửa trang giấy trắng có hơi lạnh đó đổ đầy.
Tại sao tôi tìm mọi cách để có quyển sổ vào lúc nửa đêm rồi khi có nó rồi, tôi không có gì để viết?
Đã ba tuần từ ngày có quyển sổ, hai tháng từ ngày sống trên xe lửa, tôi vẫn chưa viết được gì. Có lẽ vì tôi không có nơi để bắt đầu. Có lẽ vì tôi chỉ có cuốn sổ này thôi, không có giấy nháp để cân nhắc những điều đáng nói và những điều không đáng nói của một đời người. Hay là đời tôi viết xuống giấy chỉ được nửa trang giấy. Khi nó còn như bóng ma mông lung bên ngoài cửa, thì tôi tưởng nó có đó. Nhưng khi thật sự nhìn mặt, thì nó không có gương mặt nào.
Nhưng biết đâu chuyện đời của hầu hết mọi người đều như vậy. Biết đâu trong đời không có sự thật nào hết ngoài những sự thật được cố ý làm ra. Những câu chuyện trong tiểu thuyết bao giờ cũng mạch lạc và ý nghĩa hơn cuộc đời. Chúng có thật còn những câu chuyện ở đâu đây, những câu chuyện của tôi, không được kể, thì không có thật.
Một cuốn tiểu thuyết giống như một chiếc áo lụa nhuộm vàng hay nhuộm tím. Khi cầm tấm lụa trên tay, khi mặc nó vào người, mấy ai biết gì về những con tằm đã nhả hết tơ và chết đi, không bao giờ thành bướm. Tằm không chết đi thì không có tơ dệt áo. Chỉ có thể có lụa hoặc có bướm, chứ không thể có cả hai. Những cánh bướm chập chờn vào những ngày khô ráo và bất động vào những ngày mưa, sống không ai trông thấy và chết không ai hay biết. Chúng có hay không? Những con bướm thuộc về chính chúng nó, về sự im lặng và sự tàn tạ sớm chiều. Còn những tấm lụa thì bền chắc hơn, ngọt ngào hơn, chúng có thật. Nhưng sự thật thuộc về lũ bướm hay về người mặc áo?
Tôi không biết. Tôi không còn thì giờ để biết. Không còn thì giờ để nuôi nấng những câu hỏi, rồi sống để tìm câu trả lời cho những câu hỏi ấy.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro