3. Quyển sổ
Tôi cần một quyển sổ. Tôi mở va li tìm mặc dù tôi biết không có quyển sổ nào trong ấy. Không phải là một mẩu giấy xin của người soát vé hay người bán nước, mà là một quyển sổ hẳn hoi với nhiều trang giấy trắng, và trang nào cũng là của tôi. Tôi không thể không có nó được. Không ai có thể sống mà không có nó được. Nhưng tôi nhớ lại là tôi không sống. Tôi đã đốt hết tất cả những quyển sổ trong đời tôi. Điều đó đâu phải tình cờ. Tôi đã quyết định không bao giờ viết một câu nào nữa, không còn nhật ký, không còn thư từ, không còn ghi chép trên lịch những thứ phải làm, phải nghĩ, phải chờ đợi xảy đến.
Tối nay thì khác. Dù chỉ còn sống một năm hay một giờ thì tôi cũng phải có một quyển sổ. Và thời giờ của tôi càng ít, thì tôi càng cần nó. Tôi không thể chờ đợi thêm một khoảnh khắc nào nữa, tôi phải có nó.
Tôi xuống ga gần nhất, lúc ấy đã qua 1 giờ khuya. Trên sân, vài người vừa cùng xuống bước vội khỏi ga. Vài người chờ tàu, trông họ họ buồn buồn, ảm đạm. Tôi tìm chỗ bỏ va li trong một ngăn tủ sắt lớn, rút chìa khóa rồi nhìn quanh: không còn một cửa hàng nào mở cửa.
Tôi bước ra, phố xá tối im lìm. Chỉ còn vài ba tài xế taxi là còn thức một nửa. Tôi bước lên xe. Tôi muốn mua một quyển sổ, ông có biết mua ở đâu không? Sổ để viết? Vâng, sổ để viết chứ không để làm gì khác. Vì tài xế là người ngoại quốc, nên ông ta không hỏi tại sao tôi cần nó lúc nửa đêm. Người Đức tin vào quyền lực tuyệt đối của chiếc đồng hồ, và nửa đêm không phải là giờ người ta đi cần một quyển sổ. Họ luôn luôn hỏi: Cô có biết đã mấy giờ rồi không?
Tài xế suy nghĩ rồi nói với tôi rằng chỉ có các siêu thị mini ở các trạm xăng trên xa lộ là còn mở cửa vào nửa khuya. Chúng tôi đi ra xa lộ.
Chúng tôi đi gần suốt đêm, đến những cửa hàng bán tạp hóa cho những người đi đường xa, không bao giờ đóng cửa. Họ bán trăm nghìn món hàng, có món lạ lùng như cái chuông reo lên báo động khi người đeo nó ngủ gật. Nhưng không có ai bán một quyển sổ nào.
Chúng tôi quay về nhà ga. Trên đường đi, tài xế hỏi tôi quê cô ở đâu. Tôi nói tôi không biết. Nhưng cô không phải là người Đức mà. Vâng, tôi không phải là người Đức.
Tôi đến ga lúc gần bốn giờ sáng. Lúc 5 giờ 20 có một chuyền tàu đi Liège. Tôi không muốn bước lên tàu không có quyển sổ. Còn hơn năm tiếng nữa những cửa hàng đầu tiên mới mở cửa. Tôi đi bộ xuống phố. Trời có lẽ âm 2 độ, dăm ba bông tuyết nhỏ bay trong không khí.
Tôi đi bộ trong khu trung tâm. Có vài ba người ngủ ngoài đường, vài ba chai bia không trên mặt đường lát đá, và ánh đèn hắt ra từ những khung cửa kính của những cửa hàng đóng cửa. Một người ngủ không được, ngồi trong góc hỏi vọng ra xin tiền tôi; một người khác hỏi tôi có muốn ngủ với ông ấy không. Tôi không trả lời, đi bộ về hướng sông.
Ở gần sông có một cái khách sạn lớn, tầng trệt đèn vẫn sáng. Tôi đi về hướng ấy.
Tôi bước vào sảnh chính. Một khách sạn sang trọng là một nơi thoáng và sạch, không thể xấu, không thể đẹp. Nó không có cá tính, và người ta thấy dễ chịu chính vì nó cho phép người ta vô cảm, đến không có gì để ánh mắt phải dừng lại, đi không có gì để nhớ. Tôi đi ngang một dãy những gian bán quần áo, hàng lưu niệm, hàng xa xỉ. Tất cả đều đóng cửa nhưng vẫn để đèn đủ sáng để nhìn thấy hàng chưng bày. Có một hàng bán đồng hồ và bút máy đắt tiền. Trong một tủ kính tôi thấy họ để một cây bút máy gác ngang bên trên một quyển sổ để mở. Quyển sổ có bìa da đen, không dầy lắm, giấy có kẻ hàng ngang và dọc, quyển sổ ấy đẹp. Tôi đi đến quầy tiếp tân. Chỉ có một người đàn ông trẻ đứng phía sau quầy. Người này quá trẻ, tôi nghĩ.
“Đàng kia có một quyển sổ. Tôi muốn mua nó.”
“Tôi sợ là không được, thưa bà. Các gian hàng đều đang đóng cửa.”
“Vậy thì phiền ông đi lấy chìa khóa mở cửa. Khách sạn này nói rằng không có một ý muốn nào của khách hàng các ông không làm hết sức mình để chiều. 24 giờ trong một ngày. Huống chi đây chỉ là một chuyện rất nhỏ.”
“Tôi không nghĩ là tôi được phép làm như vậy, thưa bà. Xin bà quay lại sau chín giờ ba mươi.”
“Tôi không chờ được, tàu của tôi rời thành phố này lúc năm giờ hai mươi. Tôi chỉ còn 25 phút nữa.”
“Vậy thì bà chờ đến nơi hẵng mua sổ vậy.”
“Tôi cần có quyển sổ trên tàu. Nếu không giải quyết được ông cho tôi nói chuyện với cấp trên.”
“Tôi có thể đưa bà tạm ít giấy trắng để ghi chép trên đường đi.”
“Tất cả ghi chép trên giấy rời đều sẽ bị mất hết, vậy còn ghi chép làm gì? Mà ai nói với ông rằng tôi cần ghi chép?”
Tôi đặt lên quầy thẻ tín dụng và nói:
“Xin ông tính tiền quyển sổ vào đây.”
Tôi đặt tiếp lên quầy tờ giấy một trăm quan Thụy Sĩ và nói tiếp:
“Còn cái này là của ông.”
Trong sảnh khách sạn lúc ấy chỉ có tôi và anh trực đêm quá trẻ này. Anh chăm chăm nhìn bàn tay tôi đặt trên thẻ và tiền. Tôi rút tay về.
“Một quyển sổ quan trọng với bà đến vậy sao?”
“Xin đừng làm tôi trễ tàu. Xin đừng hỏi những câu không liên quan gì đến ông.”
Người trực tiếp tân suy nghĩ một lúc lâu. Một trăm quan đủ làm cho anh ta thẫn thờ vì sắp làm một việc khác với các nguyên tắc ngu xuẩn anh ta được dạy.
Anh ta đi về phía cuối quầy, mở một cánh cửa và bước ra khỏi tầm nhìn của tôi. Chắc là anh ta đi lấy chìa khóa. Chỉ còn mình tôi trong sảnh khách sạn rộng lớn. Tôi nhìn đồng hồ trên tường, nhẩm tính thời gian cần để đi bộ về lại ga, mua vé, lấy hành lý và đi ra sân ga. Tôi đứng chờ lâu hơn tôi nghĩ. Cuối cùng người đàn ông trẻ trở lại với một quyển sổ. Anh ấy đưa cho tôi không nói gì. Quyển sổ giống quyển sổ trong tủ kính, rất đẹp. Bìa da mềm mại. Tôi mở ra trang đầu, bên trong giấy mịn màng, không trắng quá, và có kẽ hàng xám rất nhạt.
Thấy người đàn ông trẻ chưa lấy tiền, tôi đưa tay đẩy thẻ tín dụng và tiền về phía anh. Anh lại nhìn tay tôi. Anh đợi tôi rút tay về rồi mới cầm thẻ lên trả ngay cho tôi chứ không mang đi tính tiền. Anh cầm tờ tiền giấy trong tay.
Tôi bỏ quyển sổ vào túi, cám ơn và quay người bước đi. Người đàn ông trẻ bước vội ra khỏi quầy để đưa tôi ra cửa. Tôi thấy anh có một cử chỉ lịch sự quá đáng, mỗi lần nhận một ít tiền người ta lại hèn đi một chút vậy sao. Tôi bước nhanh hơn. Anh ta chạy kịp đến cửa. Tôi dửng dưng chờ anh mở cửa cho tôi.
Nhưng người đàn ông trẻ không mở cửa. Anh ta đưa lại cho tôi tờ giấy bạc.
Tôi ngạc nhiên nhìn anh ta. Anh mặc một bộ vest ủi thẳng nếp, cà vạt ngay ngắn. Tóc cắt gọn gàng, gương mặt hơi xanh. Anh có một cặp mắt đẹp hơn cần thiết cho cái nghề anh đã chọn.
“Nhưng ít ra tôi cũng phải trả tiền cho quyển sổ chứ.”
Người trực tiếp tân chỉ lắc đầu chứ không nói gì. Từ đó về sau anh không nói một câu nào nữa cả.
Tôi cầm lại tiền, muốn nói một câu cám ơn dịu dàng nhưng sự xấu hổ làm tôi không nói được lời nào. Tôi bước đi thật nhanh.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro