2. Tình yêu đã chìm sâu hơn đáy của nỗi buồn
Người lạ ngồi trước mặt tôi trong toa xe, quay lưng về hướng đi của tầu. Hình như anh có mời tôi một điếu thuốc. Bên ngoài mặt trời cuối đông để vương trong không gian một chút sắc vàng tái, buồn và lạnh.
Anh nói chuyện thời tiết, rồi đến tin tức đêm qua trên truyền hình, những hình ảnh về nạn đói ở Eritrea. Tôi nói tôi không có máy truyền hình. Không lẽ tôi không xem báo? Anh ngạc nhiên hỏi.
“Không. Tôi có chuyện buồn riêng, nên tôi tránh tất cả những chuyện buồn lớn hơn của nhân loại.”
Người đàn ông nhìn tôi với một câu hỏi trong mắt. Tôi trả lời câu hỏi không nói ra đó:
“Tôi chỉ còn ba tháng để sống. Dài lắm thì nửa năm.”
Tôi không nói tại sao chỉ còn ba tháng, anh sẽ nghĩ tôi bị ung thư. Nét mặt anh trang nghiêm.
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi không thích cái không khí khi người ta bày tỏ niềm kính trọng trước sự bất hạnh. Tôi không biết làm sao dừng câu chuyện lại.
“Tôi là bác sĩ làm việc ở phòng hồi cứu, tôi tiếp xúc với cái chết hầu như hàng ngày. Nhưng chính vì vậy mà tôi biết rằng không có cái chết. Người ta chết rồi vẫn tiếp tục sống. Có một thế giới bên kia.”
“Anh tin là người ta chết vẫn còn đi lại được?”
“Vâng. Hãy biết như vậy, cô sẽ thấy bớt đau buồn từ giã thế giới này.”
“Thế giới này không có gì khó chia tay. Nhưng tôi vẫn ước gì lòng tôi bình an hơn vào hôm tôi phải đi. Có cách nào không?”
“Cô chỉ cần giữ trong lòng cái niềm tin giản dị và tuyệt đối rằng không có một thứ gì làm cho linh hồn con người tan biến đi được. Nó tồn tại. Có sự liên tục, điều mà tôn giáo gọi là sự vĩnh hằng. Cô có thể có được niềm tin đó bằng chiêm nghiệm. Hoặc bằng lời cầu nguyện. Sự thật đó không ở ngoài tầm tay của bất cứ ai.”
Người đàn ông còn muốn nói nhiều hơn về sự tồn tại của linh hồn, để an ủi một người sắp phải chết. Nhưng đã đến trạm anh phải xuống tầu. Anh đưa tôi địa chỉ, số điện thoại và nói tôi nên gọi cho anh. Tôi từ chối và nói:
“Cám ơn anh. Đến bây giờ tôi mới đi tìm lòng tin thì không còn kịp nữa đâu. Tôi không biết có linh hồn hay không. Nhưng tôi cũng không ước ao được biết.”
Tôi ao ước được an tâm khi tôi ra đi. Làm sao có được nó? Tôi hiểu rằng người ta chết được yên lành vì đã sống xong phần đời dành cho mình, chứ không vì chết rồi thì linh hồn tiếp tục sống. Nhưng cái phần đời của tôi, làm sao tôi hiểu nó là gì để có thể sống cho hết kiếp, trong ba tháng?
Tôi không ngủ sâu. Không ai ngủ sâu bao giờ trên một chuyến tàu. Vào một đêm, khi còn nửa chìm trong một giấc mơ, ý thức tôi chập chờn, mơ hồ và buồn bã. Tôi nằm đó và nhớ tới cây dương cầm mầu đen trong phòng khách nhà tôi. Cây đàn thật lớn, thật nặng, được làm thật công phu, như một viên đá chận giấy giữ cho đời người ta, đời này qua đời khác, đừng bị gió cuốn đi. Tôi có cây đàn ấy. Vậy mà đời tôi vẫn bị gió cuốn đi.
Một hôm chiều tối tàu đi chậm lại ở khu ngoại ô một thành phố, chờ đến lượt vào ga chính. Tôi nhìn ra ngoài, thấy một căn nhà bên kia đường. Có một cái cửa thấp bằng gỗ mở vào sân. Trong sân có mấy bụi cây mùa đông, lá mang một mầu xanh ảm đạm. Đèn trong nhà đã mở màu vàng ấm. Ở thành cửa sổ tôi thấy vài chậu hoa, mấy con thú bằng vải, đôi ba cuốn sách. Từ căn nhà ấy một nỗi dịu dàng khẽ khàng loang ra, khi sự dễ chịu ấy chạm đến tôi nó làm tim tôi buốt đi trong vài nhịp.
Tôi không biết những người sống trong căn nhà đó có hạnh phúc không. Nhưng hạnh phúc của họ không hề quan trọng, chỉ có hình ảnh của sự hạnh phúc là quan trọng. Thế giới không phải là thế giới mà chỉ là cảm nhận của chúng ta về nó mà thôi.
Rồi tàu đến và rời thành phố, đi qua những cánh đồng nối tiếp nhau, có khi bằng phẳng, có lúc lên núi xuống đồi. Có những lối đi băng qua những cánh đồng đó, mất hút về phía xa. Rồi xe đi qua một cánh rừng, một khu phố lưa thưa nhà cửa, loáng thoáng ánh đèn, đường xe đi lên đi xuống. Quê hương của loài người bây giờ lại lùi xa bên ngoài khung cửa kính, lúc nào cũng chỉ lướt qua, nhạt nhòa và không tiếng động.
Một người đàn ông đi toa hạng nhất nói với tôi rằng ông ta muốn chết. Tôi không hề hỏi tại sao, nhưng ông vẫn cứ kể câu chuyện người giàu cô đơn của ông. Vợ ông yêu ông vì tiền, rồi bỏ ông vì nhiều tiền hơn. Cô con gái khinh thường ông. Ông nói:
“Tôi đã muốn chết cho rồi, nhưng không làm được.”
“Vì sao?”
“Nếu tôi biết được chết rồi mình sẽ đi đâu, gặp những chuyện gì, thì tôi đã chết từ lâu. Nhưng tôi không biết, vậy là cứ tiếp tục sống.”
“Ông ở lại đây chỉ vì không biết phía bên kia như thế nào?”
“Ừ, vì biết đâu bên kia còn khổ hơn bên này.”
Lúc đó xe chạy ngang qua một giòng sông. Tôi nói:
“Dưới gầm cầu này có mấy người vô cư ngủ, ông có muốn là họ không?”
“Không bao giờ.”
“Vì sao?”
“Họ không có tiền.”
“Ma còn ít tiền hơn họ.”
Ông nhà giàu muốn có những chọn lựa, cái chết là một. Nhưng ông không có đủ thông tin về nơi đến, nên không bắt đầu chuyến đi. Dù chán đời, ông ta đâu bao giờ muốn chết, ông chỉ nghĩ tới một chọn lựa nữa thêm vào những chọn lựa ông có trên đời. Chọn lựa nào cũng bất trắc và ít tiền hơn cái ông đang có, nên ông tiếp tục sống như thế, xem giá biểu cổ phiếu vào buổi sáng và ti vi vào buổi tối, và tiếp tục chán đời.
Tôi đã quen với tiếng xe lửa trên đường ray, nó đã trở thành một phần của trái đất và của tôi. Vậy mà một đêm, nó làm cho tôi hoảng loạn. Có thể vì lúc đó xe đi lên dốc một đoạn dài. Có thể vì tôi đang hơi sốt. Tôi thấy lao đao cả người, bị ma quỉ đuổi đến đuối sức, sắp ngã vào một hốc núi tối tăm. Hai tay tôi giữ lấy thành giường nằm, và tiếng sầm sập đều đặn, cấp bách và vô tận như tiếng đánh trống dục nô lệ chèo thuyền thuở xưa. Tôi nghe tiếng trống ấy mà tay chân rã rượi không chịu chèo. Bọn chủ sẽ trói tôi lại để đánh. Giây phút chờ đợi chuyện đó xảy ra còn ghê gớm hơn chính những ngọn roi quất xuống.
Tôi ngủ thiếp đi. Buổi sáng thức giấc tôi bình tĩnh trở lại. Tôi đến toa nhà hàng, ăn một bữa sáng lớn, gọi champagne trong cái chai một phần tư lít. Rượu và rất nhiều cà phê làm cho tôi vừa tỉnh táo vừa nao nao lạ lùng. Tôi nhìn ra cửa sổ, nhìn cánh đồng, nhà cửa và bầu trời chạy lui, chạy lui mãi, tôi biết mình sắp ra đi. Thời gian còn lại rất ngắn. Hàng ngày mặt trời màu vàng tái lên xuống âm thầm bên kia thành phố, bên kia những ngọn núi hay những đám mây, im lìm, nhưng nó vẫn đến vẫn đi bên trên mọi tiếng động của thế giới. Thời gian đang trôi, năm sắp tàn. Tôi sẽ chết trước khi mùa xuân đến.
Tôi nhớ có lần nghe kể là phụ nữ xứ tôi chồng chết thì để tang ba năm. Trong ba năm đó họ không trang điểm, mặc quần áo sổ gấu và không tiếp khách. Tôi nghĩ họ không chết theo chồng được, nên phải sống gần với cái chết, nếu không thành tro than được ít nhất cũng phải héo hắt đi như những bông hoa đứng cạnh lửa.
Tôi ngồi một mình trong gian xe lửa. Một người đàn ông bước vào. Anh ta hơi cúi xuống vì quá cao. Anh ta cao bằng chồng tôi. Chỉ có vậy thôi mà trong giây đầu tiên tôi tưởng chồng mình sống lại. Người tôi bừng lên vì hoảng loạn. Khi nhận ra anh ta là một người khách lạ, tôi muốn òa ra khóc. Tôi muốn vỡ ra như mây thành nước buông mình xuống đất, khi mưa hết rồi thì không còn tôi nữa.
Chồng tôi chết, tôi không khóc. Nếu hôm đó tôi khóc thì mọi chuyện đã khác. Nước mắt xác nhận rằng chồng tôi chết và tôi sống; rằng tôi ôm lấy sự chia ly và sẽ sống với nỗi buồn. Còn tôi, tôi có nỗi buồn nhưng không có sự sống, trong khi người ta phải sống đã, rồi mới có buồn vui. Nên tôi không biết buồn. Tôi chưa bao giờ khóc, chưa bao giờ giã từ với chồng tôi.
Vậy mà hôm đó tôi sắp khóc òa trước một người không quen. Chỉ vì người đàn ông đó cao chừng bằng chồng tôi. Tôi sợ quá, cứ nhìn mãi ra ngoài cửa, cố nén không run rẩy, không vỡ ra, không nhìn thấy người lạ ấy.
Thế giới ở ngoài xa lướt thướt trôi qua khung cửa kính của chuyến tàu. Tôi nhìn mãi, nhìn mãi những cây cối, những cánh đồng, những con đường đi lên đi xuống. Rồi tôi chợt nghe bàn tay của người đàn ông đặt trên vai tôi, nơi cổ nối vào thân mình. Tôi không ngước lên, không biết mình phải nói gì, làm gì…
Không một lời hỏi han nào từ miệng anh ấy hay từ tôi. Chúng tôi chạm lấy nhau.
Người đàn ông lạ kéo những màn cửa của gian tàu lại. Và chuyện ấy sắp xảy ra trong tiếng rầm rập của chuyến tàu đang lướt qua một cánh đồng trong vô số cánh đồng tôi đã đi qua.
Trong sự kề cận của da người, tôi nghe loáng thoáng làn hơi âm u của cái chết. Nó dâng càng lúc càng đầy, lẫn vào trong hơi thở, lẫn vào những chuyển động của thân thể đang sửa soạn cho ân ái. Mùi hương ở bên tôi. Mùi hương ở trong tôi. Mùi hương của cõi âm.
Trong một khoảnh khắc, tôi tưởng như chồng tôi vừa bước vào toa xe. Rồi tôi nhận ra người đàn ông không phải là chồng tôi. Rồi tôi buông mình để cho chuyện ái ân sắp xảy ra với một người lạ. Có thể tôi muốn tìm lại cái cảm giác tôi đã có bên chồng, có thể là tôi muốn thở lại những hơi thở bừng bừng hỗn loạn của chính mình. Dù thế nào, trong một đôi giây phút, tôi tưởng tôi đã quay lại với sự sống, làm cái việc nồng nàn nhất của thế giới những người sống. Nhưng ngay trong khoảnh khắc sự quay về đó sắp xảy ra, tôi thấy tôi ở gần cái chết hơn bao giờ hết. Tôi nghĩ tới chồng tôi. Tôi nghĩ tới tình yêu. Tình yêu chìm xuống sâu hơn sự sống, sâu hơn cái đáy của nỗi buồn, đã lắng vào cõi chết.
Tôi nói:
“Tôi khát nước.”
Người đàn ông để lơi vòng tay. Tôi quay đi, tự rót cho mình một ly nước đầy rồi cầm ly nước bước ra khỏi gian tầu.
Cuộc ái ân không thành với một người đàn ông làm cho tôi thấy rõ khoảng cách giữa mình với cuộc đời. Không có một con đường nào, một người nào đưa tôi trở về với thế giới của những người đang sống.
Tôi vẫn nhớ những thời khi tình yêu vẫn còn đó. Khi tôi nghe tiếng chim gọi nhau những chiều tối, hay tiếng còi của những con tàu chở than trên sông Rhein đi ngang qua thành phố, tôi tìm được chút ý nghĩa trong những âm thanh quen thuộc buồn buồn của một ngày. Hoặc khi tôi đi làm về nhà vào một chiều thu, bước vào một căn phòng chưa thắp đèn, nhìn thấy chút nắng cuối ngày hắt qua cửa sổ và rọi qua cái ly nước bằng thủy tinh uống dở còn để trên bàn, tôi tìm được cái đẹp trong cái ánh sáng mong manh đó. Những đồ vật và những khoảnh khắc của cuộc đời được gắn lại với nhau bằng một thứ keo, nối lại với nhau bằng chút ý nghĩa, một chút tình yêu, khẽ khàng và ít đam mê, nhưng bàng bạc đủ để cho cuộc đời được nguyên vẹn.
Nhưng vào ngày chồng tôi chết, tôi biết một cuộc đời nguyên vẹn không những cần một thứ keo gắn những đồ vật và những khoảnh khắc của cuộc đời với nhau, mà còn cần một thứ keo để gắn tôi vào vào cuộc đời. Thứ keo này đã mất rồi. Buổi tối tôi nằm nhìn lên cái khoảng trắng mờ mờ trên trần nhà, nghĩ về những hình ảnh và những âm thanh ở những nơi khác của một thế giới càng ngày càng trôi đi xa.
Tôi vẫn mơ hồ cảm thấy mình không thể chấm dứt một thứ mà không biết nó là gì. Người ta chỉ giết được người chứ không giết được ma. Như một loài ma trơi, tôi đã sống ở bên ngoài cuộc đời, vừa sống vừa xóa đi ngày tháng và ký ức. Tôi bập bềnh trong không khí, lo sợ sức hút của trái đất làm cho tôi đau đớn. Đến khi chọn lựa cái chết, tôi vẫn không hiểu nó, không tìm cho nó được một ý nghĩa nào dù rất nhỏ.
Tôi phải đi tìm tôi, ghi chép mình ra trên giấy. Tôi phải nhìn thấy mình, đọc được mình. Tôi phải có thật để cái chết của tôi có thật.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro