Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

13. Em, anh và cha

Em

Tôi đến gặp ban giám đốc nhà nuôi trẻ tâm thần để hỏi về Marcus. Họ cho tôi biết nhà trẻ thành lập năm nào, trực thuộc tổ chức nào, trong năm nào có bao nhiêu đứa trẻ được nuôi, vân vân, nhưng họ không cho tôi biết bất cứ điều gì về bất cứ đứa trẻ nào. Chúng được bảo vệ trong sự an toàn của im lặng và của khoảng không. Không tuổi thơ, không quá khứ.

Tôi nghĩ ra một cái tựa cho một bài báo tưởng tượng. "Tại sao em ở đây? - Những câu chuyện của các em sống ở nhà nuôi trẻ bệnh tâm thần". Tôi năn nỉ ông Bauer tìm cho tôi một tờ tạp chí chịu đăng bài ấy và viết cho tôi một bức thư giới thiệu để tôi phỏng vấn ban giám đốc nhà nuôi trẻ.

Tôi được cho biết nhà nuôi trẻ có 122 em. Nhóm I gồm 97 em phát triển bị rối loạn do bẩm sinh (chứng Down, chứng tự kỷ). Nhóm II gồm 25 em do trải qua khủng hoảng tâm lý nặng nề hoặc do nguyên nhân không được biết. Mức độ rối loạn nặng nhẹ và hy vọng hội nhập vào cuộc sống bình thường khác nhau ở mỗi em. Một khi có khả năng hội nhập vào cuộc sống bình thường, các em có hy vọng trở về sống với gia đình hoặc tìm được cha mẹ nuôi.

Nhưng những con số chỉ là những con số, chúng không nói được gì về những mảnh đời có thật. Tôi nói với ban giám đốc tôi muốn có một bài báo trong đó có những con người, không phải những con số. Tôi hứa sẽ không ghi tên thật các em. Họ đồng ý cho tôi xem hồ sơ về trường hợp nhập viện của một em nào đó nếu tôi yêu cầu.

Marcus ở nhóm II, rối loạn do trải qua khủng hoảng lớn hơn sức chịu đựng. Trường hợp của em được chắp nối lại từ nhiều mảnh thông tin thiếu sót và từ những lời kể lại ít ỏi và mơ hồ của em. Nhiều suy diễn và ước đoán đã cần thiết để có được một câu chuyện tương đối tin được về em.

Marcus được một người giữ rừng tên là Malbuchen - chứ không phải Maibuchen, như Michael ghi lại - tìm thấy trong rừng, vào mùa đông, một thời gian ngắn trước khi ông ấy nghỉ hưu. Vào tháng giêng, nhiệt độ trung bình ở miền trung du này âm 8 độ vào ban đêm và âm 2 độ vào ban ngày. Có thể tin là em hôn mê và thân thể giá lạnh trầm trọng. Có thể tin là em bị mất trí nhớ từ lúc ấy. Em vào độ 5 tuổi. Có lẽ vì cô đơn, người giữ rừng không báo và giao em cho công an hoặc sở thanh thiếu niên, mà giữ lại để nuôi. Ông Malbuchen nuôi em cách biệt với xã hội trong một căn nhà tự cất ở trong rừng. Ông ấy có một căn nhà ở thị xã, hầu như bỏ hoang, và có xe hơi. Dĩ nhiên là em không được đi học.

Khủng hoảng tâm lý lần thứ nhất của em vẫn nằm trong bóng tối. Khủng hoảng lần thứ hai đến vào bốn năm sau, khi ông Malbuchen qua đời do trụy tim. Người ta tìm thấy em ở trên rừng, suy nhược trầm trọng vì đói, một mình trong căn nhà với một người đàn ông đã chết được hai mươi ngày.

Cảnh sát xem lại hồ sơ trẻ con thất lạc ở Đức và các nước Tây châu Âu trong vòng mười năm cho đến hôm đó nhưng không tìm được báo cáo thất lạc của cha mẹ em.

Trí nhớ của em cho đến năm 6 tuổi không còn. Trí nhớ của em từ 6 đến 10 tuổi có lẽ không mất hẳn, nhưng em từ chối bất cứ ai muốn biết những kinh nghiệm của em.

Em không xem ti vi, trị liệu tâm lý với chuyện tranh và chuyện kể đều bị từ chối. Phát triển ngôn ngữ kém. Phát triển ở các lãnh vực khác như toán và khoa học tốt. Thông thường Marcus là đứa trẻ can đảm, nhưng hay có những cơn khiếp sợ bất ngờ vào ban đêm, có lẽ do chiêm bao. Em không bao giờ kể về chúng.

Anh

Tôi trở lại Treuwasser. Ở nhà số 10 đường Talweg, Sophie mở cửa cho tôi. Tôi nói:

“Em muốn gặp Michael.”

“Michael không có nhà.”

Chị nhìn tôi rất lâu không nói gì.

“Em đi vừa đi đường xa tới đây. Đường rất xa. Chị không cho em vào nhà chờ Michael được sao?”

Sophie nắm tay tôi kéo sát về phía người chị để chị hôn phía bên trái của tóc tôi. Chị mời tôi vào nhà và đi pha trà.

Trên bàn có một bình hoa. Căn phòng vẫn có mùi thơm êm đềm của trầm và oải hương như hôm nào. Chị mang ra bình trà và hai cái chén màu ngọc rất đẹp.

“Em vừa từ ở đâu đến đây?”

“Em đến từ một nơi xa.”

“Em có chuyện gì kể cho chị nghe không?”

“Không. Không có chuyện gì khác những chuyện chị đã biết rồi.”

“Em có chuyện gì muốn hỏi không?”

“Chị đã trả lời cho em hết cả rồi.”

“Em muốn gặp Michael có chuyện gì?”

“Chuyện riêng của Michael.”

“Chị đưa em về khách sạn chờ, bao giờ Michael về chị sẽ gọi.”

“Em đi thẳng từ nhà ga đến đây. Em không có phòng ở khách sạn.”

‘Vậy thì bây giờ lấy phòng.”

“Em không định lấy phòng. Em gặp Michael rồi sẽ đi khỏi Treuwasser ngay.”

“Chị bận xem bài của lũ trẻ, và sửa soạn bài cho ngày mai.”

“Chị cứ làm việc. Em ngồi đây chờ.”

“Chị sợ em phải chờ quá lâu.”

“Bao lâu em cũng chờ. Em chỉ gặp Michael một lần. Sẽ không có một lần nào khác nữa.”

Sophie đứng dậy, chị nắm tay tôi và mỉm cười ân cần, nhưng tôi không hiểu nụ cười của chị.

Chị đi mở nhạc. Một cái dĩa nhạc để ngồi thiền, để tịnh tâm mượt mà như những tấm lụa giăng từ trời. Hôm nay tôi không thấy thích thứ nhạc chỉ buông vào trong không gian và không có dấu ngắt đó, nó làm tôi thấy khó thở.

Sophie đi về bàn làm việc của chị.

Tôi bỏ ra đứng nơi cửa sổ nhìn ra hướng có suối. Tôi không nhìn thấy giòng nước, không nghe tiếng suổi chảy. Chỉ biết rằng giòng suối ở đó, điều đó làm tôi thấy an tâm hơn. Tôi đứng chờ rất lâu, gần như bất động.

Tôi nghe tiếng xe chạy vào sân, rồi tiếng Michael mở cửa bước vào nhà. Sophie bước đến nói:

“Michael, đây là An Mi, người đã đọc câu chuyện hoang đường Michael viết trong quyển sổ lúc mới đi làm ở khách sạn.”

“Vâng, tôi nhận ra chị. Mời chị ngồi.”

Michael và Sophie ngồi xuống cạnh nhau trên chiếc ghế dài. Tôi đến ngồi trên chiếc ghế đối diện họ. Michael hỏi:

“Tôi được phép cho biết điều gì đưa bà đến đây?”

Tôi thấy ngỡ ngàng. Tôi chỉ gặp Michael trong mấy phút hôm anh trực đêm ở khách sạn. Nhưng từ lâu nay anh là một phần của đời tôi. Anh và tôi đã kể lại câu chuyện duy nhất của mỗi đời người trong cùng một quyển sổ. Chúng tôi đã viết chữ, có lẽ bằng máu, và bằng nỗi chơi vơi vô tận của mỗi người.

Sự lịch sự và xa lạ của anh làm tôi hơi bàng hoàng.

“Tôi muốn nói chuyện với anh. Giữa anh và tôi thôi, đây là một câu chuyện riêng. Xin chị Sophie thứ lỗi cho em.”

Michael quàng tay qua người Sophie ôm cô sát vào mình. Anh nói:

“Bất cứ chuyện gì của tôi Sophie đều nghe được. Chúng tôi có hai tên, nhưng chỉ là một người.”

Họ mỉm cười đầm ấm, dụi người vào nhau.

Nỗi thất vọng chợt đến, và càng lúc càng tràn ra, dù tôi chưa kịp biết vì sao. Người tôi cứng lại. Có một bàn tay của ai đó chận ngang cổ họng tôi. Tôi không nói được.

Michael nhắc:

“Bà mở đầu đi, cả hai chúng tôi đều đang lắng tai đây.”

Tôi mở túi tìm trang giấy tôi đã ghi chép về Marcus đưa cho Michael. Sophie đọc nó trước, rồi đưa qua cho Michael.

Họ không nói gì. Sophie xin phép đi làm cơm và đứng dậy. Tôi tưởng có thể nói chuyện riêng với Michael nhưng anh ấy cũng đi ra nhà bếp để phụ Sophie sửa soạn bữa chiều.

Tôi ngồi lại một mình. Căn phòng vẫn thoảng hương trầm, tiếng nhạc vẫn buông như lụa là, và tôi biết giòng suối bên ngoài cửa sổ vẫn trôi êm đềm. Nhưng tôi thấy mình chơi vơi quá. Tôi cố ngồi yên và bình tâm lại, cố không nghe thấy tiếng nhạc và ngửi thấy mùi hương. Nhưng tôi chỉ thấy đang rơi trong một bầu trời đầy những đám mây lạ mầu xám.

Tôi nghe tiếng chén dĩa, tiếng Michael và Sophie nói cười. Rồi Michael bày bàn ăn.
Tôi nhìn thấy Michael chỉ đặt lên bàn có hai bộ dĩa ăn đối diện nhau. Anh nói với tôi:
“Tôi có việc phải chạy ra bưu điện. Tiện xe tôi đưa bà ra ga nhé.”

Tôi gật đầu. Lúc ôm hôn tôi ở cửa để giã từ, Sophie nói:

“Chị thực sự mong em tìm được an lạc cho tâm linh. Michael đã tìm được điều đó rồi. Mẹ và em Marcus hiện ở Canada, Michael vừa nhận được thư của hai người.”

Cha

“Vợ tôi muốn ra đi. Lúc đó không có cách nào khác giữ cô ấy lại được. Tôi nghĩ là nhìn thấy con dao Anita sẽ sợ. Nhưng đêm đó cô không màng thứ gì nữa cả, dù là cái gia đình này hay mạng sống của mình. Cô ấy chết vào lúc nửa đêm, lúc đó hai đứa con trai ngủ yên trên lầu. Sáng sớm tụi nó tự làm đồ ăn sáng rồi đi xe đạp đến trường. Tôi định chúng đi học về sẽ nói là mẹ bỏ đi rồi. Chúng sẽ tin, vì đã nhiều lần mẹ nói muốn bỏ đi chứ không chết già ở Treuwasser. Marcus tan học trước. Nhưng 12 giờ Marcus không về. Tôi thấy cái xe đạp của nó ở nhà, tôi nghĩ anh nó chở nó đi. Đến 2 giờ Michael về, không có em nó. Nó hỏi Marcus ốm hay sao, sáng gọi cửa phòng Marcus không dậy, nó đi học có một mình. Tôi phải nói mẹ dắt em Marcus bỏ nhà đi rồi. Nó hỏi đi bao giờ về. Tôi nói không bao giờ về nữa. Nó nghe vậy vội chạy đi tìm cái đàn hồ cầm của mẹ, nó biết nếu còn cây đàn ở nhà, thì mẹ sẽ về. Mẹ không thể đi đâu, sống ở đâu mà không có cây đàn. Nó không tìm thấy cây đàn.

Tôi đến nhà cô giáo của Marcus xem nó có qua nhà cô không. Tôi không nhớ tôi nói gì với cô giáo Sophie. Tôi thấy lạnh buốt và quị xuống. Cô đỡ tôi lên ghế nệm, quấn chăn, ôm tôi cho tôi đừng run. Cô hâm rượu ấm cho tôi uống. Tôi ngủ đi một lúc.”

“Ông nói sai thứ tự thời gian rồi. Ông đến nhà Sophie vào buổi sáng, chứ không phải buổi trưa sau khi Marcus không về nhà.”

“Sophie dạy cho tôi khi hoảng loạn thì ngồi như Phật ngồi, nhắm mắt lại, thở sâu. Hít khoảng không vào bên trong mình và để cho nó lắng xuống, lắng xuống mãi. Mọi việc đều yên lành. Tất cả đau khổ đều tại tâm, và muốn diệt khổ thì diệt từ trong, không thể diệt từ ngoài. Sophie đốt hương trầm cho tôi an định lại.”

“Sophie có biết ông giết Anita không?”

“Tôi không nhớ trước khi tôi quị xuống tôi đã nói những gì.”

“Sau đó Sophie không bao giờ hỏi sao?”

“Không. Chính Sophie là người giúp tôi tìm lại sự an lành. Giúp tôi tiếp tục sống và tìm hạnh phúc. Cô ấy luôn luôn nói rằng Anita ra đi không phải là lỗi của tôi. Mỗi người đi theo con đường thiên mệnh của mình. Nếu hai người có mệnh nghiệp khắc nhau xa nhau, đó là một giải thoát. Tôi không có tội. Không cần phải tự trừng phạt mình.”

“Buổi sáng đó Sophie giúp ông kéo xác Anita xuống hồ có phải không?”

Ông Kempf không trả lời tôi.

“Ông giết vợ để được gần Sophie? Hay Sophie muốn vợ ông chết bằng tay của ông? Hay Sophie là một thiên thần chỉ đến cứu ông sau khi ông đã phạm tội một mình?”

“Tôi xin gặp lại cô để nói lời xưng tội của riêng tôi. Tôi không thể nói gì về Sophie.”

“Tại sao ông không để cho vợ ông ra đi?”

“Anita không có quyền bỏ rơi gia đình của mình. Vả lại, cô không có ai khác trên đời. Cô ấy không phải người xứ này. Máu Do Thái chảy trong người cô ấy. Quê hương cô ấy ở Nga. Cô ấy yếu đuối, cô ấy sa ngã, ra đi chết ngoài đường sẽ còn buồn thảm hơn.”

“Ông không đi tìm Marcus sao?”

“Tôi đi tìm mãi trong nhiều ngày.”

“Ông tìm thế nào thì gọi là tìm? Ông có nhìn tất cả mỗi gốc cây trong rừng, gõ cửa tất cả mỗi căn nhà trên nước Đức không?”

“Cô hiểu là tôi không thể để cho mọi người chú ý đến tôi. Tôi nói với tất cả mọi người là Anita đã dẫn Marcus đi.”

“Vì ông giết mẹ rồi thì phải giết luôn con mình phải không?”

“Marcus chưa chắc là con tôi. Càng nghĩ tôi càng tin rằng nó là con rơi của người khác. Cha ruột nó bỏ rơi nó trước cả tôi. Sophie nói ơn phúc của nó được tôi lo cho từng ấy năm là hết. Phần số nó được bấy nhiêu. Tôi không có tội, không phải tự dằn vặt mình. Tất cả đau khổ đều tự trong tâm mình mà ra. U mê làm cho người ta đau khổ. Nhầm lẫn làm cho người ta đau khổ. Sophie giúp cho tôi diệt khổ từ bên trong. Từ ngày gặp cô ấy tôi sống hài hòa và an bình.”

“Ông có thể an bình được khi một đứa trẻ ông đã nuôi đến năm 5 tuổi đi vào rừng một mình lúc trời lạnh âm 10 độ và ông không biết nó ở đâu?”

“Marcus đã chết ngay vào đêm hôm ấy. Trong cái lạnh đó, chỉ cần quỵ xuống ngủ là máu sẽ đông lại.”

Không hiểu sao tôi không muốn nói với ông Kempf rằng Marcus còn sống. Khi nói chuyện với ông, người ta chỉ muốn nói những câu chấm dứt chứ không muốn nói những câu thuộc về một câu chuyện còn để mở.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro