11. Người cha
Câu chuyện của người trực đêm khách sạn đã thực sự chấm dứt. Tôi còn đến nhà Sophie làm gì. Michael đã trở về quê, tìm được tình yêu cho đời mình, hay ít nhất cũng là một đôi bàn tay êm ấm cho vết thương của anh. Tôi nghĩ tới những dây leo mùa hè sẽ nở hoa tím trước nhà chị Sophie, tới cửa sổ trên lầu nhìn ra giòng suối. Tôi nghĩ tới giọng nói và bàn tay êm đềm của chị. Có những con người sinh ra để ôm ấp người khác khi họ lạnh và khi họ chơi vơi. Tôi tưởng tượng ngày người trực đêm trở về nhà với một khẩu súng. Anh ấy rủ cha đi dạo ở ven hồ. Cha anh mặc vào áo khoác của ông ấy, anh cũng mặc vào chiếc áo của anh, chiếc áo anh đã để sẵn khẩu súng trong túi. Khi chạm tới nó tim anh run và tay anh run. Anh xin lỗi cha, bỏ chạy ra đường. Anh chạy mãi, chạy mãi cho đến khi anh thấy mình đứng trước căn nhà trong sân có tuyết phủ trên những gốc hồng mùa đông. Chị Sophie cầm lấy bàn tay anh lạnh, hà hơi ấm của mình vào đó. Chị hâm cho anh một bình rượu vang nóng có đinh hương và quế.
Hãy ngồi xuống đây và thở sâu. Ở đây mọi thứ đều yên lành. Thế giới bên ngoài cũng yên lành, tất cả khổ đau đều tại tâm mình. Hãy thở sâu và nhắm mắt lại, tất cả mọi chuyện đều là một giấc mộng dữ. Chị đốt hương trầm cho anh buông rơi mọi muộn phiền vào hương khói.
Người trực đêm sẽ khóc hết một buổi; sẽ kể cho chị nghe về tuổi thơ cô quạnh và u mê, về cơn ác mộng thấy cha bóp cổ mẹ chết và dìm xác dưới hồ. Kể xong anh sẽ ngủ thiếp đi vì kiệt sức. Khi thức dậy anh thấy mình ở một nơi ấm và có mùi thơm.
Mẹ cậu bé bỏ cậu đi, cuộc đời cậu vỡ ra thành nhiều mảnh. Cậu cần cơn ác mộng ấy để gắn những mảnh vỡ lại và tiếp tục sống. Bây giờ cậu đã lớn, cậu đã có Sophie, cậu không cần nó nữa.
Tôi không còn việc gì để làm ở Treuwasser. Tôi phải đi, và trở về với những chuyến hành trình không nơi đến của riêng mình.
Đêm cuối cùng ở khách sạn, tôi lấy giấy viết thư cho ông Kempf. Cho người cha. Tôi nhớ tôi đã đi tìm người trực đêm ở khách sạn nơi anh đã làm để trả lại câu chuyện của anh ấy. Tôi đến quá muộn, anh không còn đó để nhận lại quyển sổ. Tôi lang thang tìm nơi vứt nó đi, rồi vì không có can đảm ném câu chuyện của một đời người vào giỏ rác bên đường, tôi đã lặn lội hai năm đi tìm những bóng ma trong câu chuyện ấy. Người trực đêm bây giờ đang sống cuộc đời êm đẹp trong một căn nhà quanh năm có hương thơm. Anh từ chối câu chuyện chính anh đã kể trong quyển sổ.
Chỉ còn lại mình tôi với câu chuyện dang dở và buồn bã ấy. Chỉ còn mình tôi ở bên ngoài cánh cửa, với đôi mắt tổn thương và vừa ngỡ ngàng vừa buốt lạnh của Marcus. Tại sao lại là tôi? Và tôi làm gì với câu chuyện này đây?
Đêm cuối cùng ở khách sạn, tôi lấy giấy ra để viết cho ông Kempf, người cha, một bức thư dài. Ông là người tôi sẽ mang trả lại câu chuyện của con ông, sẽ kể thêm cho ông những ngày tôi lặn lội tìm những bóng ma của gia đình ông, và câu chuyện của Sophie. Để ông là người kết luận nó, không phải tôi.
Tôi viết suốt đêm. Nhưng khi đọc lại bức thư lúc năm giờ sáng, tôi thấy rằng không có chữ nghĩa nào nói được nỗi buồn và sự phi lý tôi mang. Tôi lấy một tờ giấy khác, bắt đầu một bức thư khác. Hoàn toàn khác.
Cô y tá ngồi ở bàn tiếp nhận người thăm bệnh hỏi tôi:
“Tôi sẽ báo với ông Kempf người đến thăm là ai đây?”
“Wienandski.”
Một cái tên hoàn toàn xa lạ với ông Kempf. Tôi phải nói mình là ai để ông chịu gặp tôi?
“Tôi là bạn của con trai ông ấy, Michael Kempf.”
Rồi tôi sửa lại:
“Xin cô nói với ông ấy rằng tôi là bạn của vợ ông ấy.”
Người ta đệm gối cho ông Kempf nửa nằm nửa ngồi trên giường. Tâm trí ông bình thường, nhưng thân thể ông bất động, chỉ cử động được từ cổ trở lên. Tôi biết ông bị tai biến mạch máu, nhưng không nghĩ là ông bị nặng như thế. Nếu biết, có lẽ bức thư tôi viết đã khác.
Tôi không đoán được tuổi của ông. Thời gian đã lấy đi các góc cạnh trên gương mặt. Mí mắt ông dầy lên, làm cho đôi mắt nhỏ lại và hơi lồi ra, nhưng tôi vẫn còn nhận ra nét giống đôi mắt của con ông.
“Tôi tên là Wienandski. Tôi là bạn của vợ ông. Tôi ở Canada về đây. Tôi có mang cho ông một bức thư của bà Kempf.”
Tôi đưa cho ông phong bì, trong đó có thư và ảnh. Nhưng ông không cầm lấy được. Ông nói:
“Phiền cô đọc giùm thư viết gì.”
“Lunenburg, Nova Scotia, ngày
Anh Herman,
Sau bao nhiêu năm em ra đi không gửi về nhà một lời nào, em chắc anh tin là em đã chết.”
Ông Kempf ngắt lời tôi.
“Cô nhầm rồi. Bức thư này không phải gửi cho tôi.”
“Trên bao thư là tên của ông, Herman Kempf.”
“Tôi không phải là người duy nhất có tên ấy.”
“Ông không muốn nghe tôi đọc thư? Tôi còn những bức ảnh chụp vợ ông nơi bà ở bây giờ, ông không muốn xem sao?”
Tôi lấy cặp mắt kính để trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường gắn vào mắt ông, rồi cầm những bức ảnh đưa lên trước mắt ông. Đó là những bức ảnh tôi chụp mặt hồ dưới chân đồi nhà ông. Mặt hồ đóng băng, với một cái lỗ vừa đủ để đẩy một xác người xuống.
Ông Kempf im lặng. Đáng lẽ tôi phải chăm chú nhìn gương mặt ông để nhìn thấy những ý nghĩ bên trong, nhưng tôi lại đến đứng nơi cửa sổ nhìn ra ngoài.
“Cô là ai, cô muốn gì?”
“Tôi không là ai cả. Tôi muốn biết sự thật.”
“Nếu cô có được sự thật, cô làm gì với nó?”
Tôi không có câu trả lời.
“Cô muốn kết tội tôi giết vợ chăng? Bỏ tù tôi chăng? Tôi nằm như một khúc cây, nằm ở đây hay ở trong tù thì có khác gì? Cô làm việc cho ai?”
“Tôi không làm việc cho ai hết. Ban đầu thì tôi nghĩ tôi làm việc cho con ông. Nhưng đó là lúc ban đầu. Bây giờ thì không phải vậy.”
“Tôi không có tội gì để nhận. Và cô không có sự thật nào để biết.”
“Vợ ông lang chạ. Vợ ông nghiện rượu. Ông nghĩ bà ấy không xứng đáng được sống. Ông nghĩ ông là công lý, đúng không?”
“Ai nói với cô vợ tôi lang chạ và nghiện rượu?”
“Sophie.”
Ông nói buồn rầu:
“Vợ tôi không phải là người xấu.”
“Nhưng giữa vợ ông và cô Sophie thì ông chọn cô Sophie. Tôi có thể hiểu được. Cô ấy thật hoàn hảo.”
“Trên đời này ít có ai bằng vợ tôi. Không ai hiểu. Chính tôi cũng không hiểu hết điều đó.”
Tôi ngạc nhiên.
“Nhưng có một việc vợ tôi không bằng Sophie. Anita không biết làm cho ấm một ngôi nhà.”
Chúng tôi yên lặng một lúc lâu. Cuối cùng ông nói:
“Tôi cần những điều thật bình thường. Vợ tôi không hiểu bất cứ điều gì bình thường.”
Một lúc sau, tôi nghe ngoài hành lang có tiếng xe đẩy những cái khay đựng thức ăn buổi chiều.
Tôi đến bên giường, nắm cánh tay ông để giã từ, nhưng ông không còn cảm giác gì ở phần thân thể đó. Ông khóc, và ông không nhấc tay lên để chùi giọt nước mắt đi được. Tôi tự hỏi tại sao trên một thân thể chín mươi phần trăm bất động, cái tuyến nước mắt vẫn làm việc, để làm gì? Tôi tìm một chiếc khăn để lau giọt nước mắt cho ông, nhưng không có khăn, tôi rút cặp mắt kính ra cho ông rồi tôi quệt nước mắt cho ông bằng lưng bàn tay của mình.
Tôi nói:
“Tôi xin lỗi ông vì tôi đã đến ngày hôm nay. Tôi thực sự xin lỗi.”
Tôi nhặt bức thư và những tấm ảnh trên người ông, bên trên lớp chăn. Tôi xé chúng đi và bỏ những mảnh vụn vào giỏ rác ở góc phòng. Tôi vẫn chưa được nghe chính cho tôi biết là ông có giết vợ không. Nhưng giờ này tôi không còn cần biết nữa.
“Tôi sẽ không bao giờ làm phiền ông nữa. Tôi xin hứa.”
Khi đi đến cửa, tôi nghe tiếng ông gọi:
“Cô ơi, cô...”
Tôi quay lại.
“Tôi không biết tôi sẽ chết một năm nữa, hay là trong tuần này. Nếu may thì tôi chết trong tuần này.
Tôi không đi nhà thờ, không xưng tội. Tôi cũng không biết cách dùng lời nói... Tôi biết tôi chết thì linh hồn không còn, nhưng tôi vẫn không muốn mang chuyện này xuống mồ.”
“Ông hãy kể câu chuyện của ông với bất cứ ai trong nhà thương này. Hãy tìm một vị bác sĩ hay một cô y tá nào hiểu đời và nhân hậu. Hãy kể cho họ chứ đừng kể cho tôi. Họ biết làm gì với sự thật: họ tha thứ. Còn tôi, nếu biết được sự thật, tôi làm gì với nó? Tôi không biết làm gì với nó hết.”
“Tôi không tìm sự tha thứ. Tôi chỉ thấy quạnh quẽ quá... Có lẽ cả đời tôi chưa bao giờ biết nói một câu nào.”
Thật lạ, những người không quen muốn kể cho tôi câu chuyện của họ vì tôi không có câu chuyện nào của riêng mình.
“Tôi sẽ trở lại.”
“Cô mở hộc tủ cạnh giường tôi. Phía trong có một chùm chìa khoá. Đó là chìa khóa nhà tôi. Cô vào nhà, xuống tầng hầm. Có một cái phòng nằm phía sau bồn đựng dầu sưởi, cửa lúc nào cũng khoá. Chìa khoá giấu trong chậu hoa địa liên trong phòng ngủ. Nó nằm lẫn trong rễ. Cô phải đổ đất ra mới lấy được. Tôi giữ các lưu vật của vợ tôi trong đó. Nhờ cô chở chúng đi xa, đi đâu cũng được. Tôi không muốn Michael sau này trông thấy chúng. Nó không biết việc tôi đã làm.”
“Tôi không có xe. Sao ông không nhờ Sophie?”
“Nếu Sophie chạm đến những thứ ấy... Tôi nghĩ là.. Tôi có cảm giác như vợ tôi bị xúc phạm.”
Tôi bỏ chùm chìa khoá vào túi và bước ra. Tôi nói với cô y tá gặp ngoài hành lang:
“Phiền cô vào chùi mặt cho ông Kempf. Ông ấy khóc, mà tôi không có khăn.”
Tôi đến nhà ông Kempf, tìm thấy chậu hoa địa liên đã chết khô, đất trong chậu cứng lại. Tôi nhổ cây hoa và đập đất để lấy chìa khóa một căn phòng dưới tầng hầm. Cánh cửa đã lâu không ai mở. Cái phòng nhỏ chứa mấy món kềm búa để sửa chữa máy đốt lò sưởi và những cái thùng carton không. Một trong những cái thùng đó có một ít sách vở của bà Kempf được bó lại, vài cái đĩa nhạc. Tôi đã sợ phải nhìn thấy những thứ riêng tư nhiều nước mắt như chiếc áo mặc vào ngày cưới, một cái khăn kashmir mềm, một cái khung hình với bức ảnh của hai đứa con trai, gương lược và vòng đeo tay. Nhưng không có những thứ ấy. Tôi nhấc lên từng chiếc thùng giấy, nhìn lên mọi nơi trên mặt kệ. Không còn gì.
Nhưng ở góc phòng, khuất sau những tấm ván kệ gắn vào tường và cánh cửa mở ra để bước vào phòng, có một chiếc hộp đen lớn cao bằng vai người. Tôi nhận ra nó ngay và tim tôi lạc mất một nhịp. Nó đựng một cây đàn hồ cầm.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro