Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

10. Người cha nuôi

Buổi sáng tôi sẽ quay lại Moosweg hỏi thăm về ông Kempf. Dù không cần thiết. Dù không quen. Nhưng tôi đã lặn lội hơn hai năm để tìm ra căn nhà của ông. Và sẽ không bao giờ quay lại đây nữa. Tôi muốn nhìn thấy ông một lần.

Buổi trưa tôi sẽ đến nhà Sophie để từ giã. Sau đó thì tôi không còn việc gì để làm ở làng này nữa. Không còn việc gì ở làng này và hay bất cứ nơi nào trên trái đất.

Nhà ông Kempf vẫn hoang vắng. Tôi đi bộ về phía đầu đường và nhấn chuông ngôi nhà ở ngã rẽ vào đường Moosweg. Một người đàn ông mở cổng cho tôi.

“Thưa tôi cần tìm ông Kempf ở cuối đường này, nhà số 17. Hình như ông ấy đi vắng đã lâu, không có ai mở cửa.”

“Ông ấy bị tai biến mạch máu não, nằm ở nhà thương Treuwasser.”

Tiếng người vợ từ phía trong:

“Không, người ta chuyển ông Kempf qua Trung tâm hồi phục rồi.”

“Còn người con, ông Michael Kempf, ông ấy có về nhà không?”

Tiếng người đàn bà:

“Vậy ra cô tìm ông Kempf con hả? Nó cưới tình nhân của ông già rồi, nó ở nhà vợ nó.”

“Vợ anh ấy ở đâu?”

Tiếng người vợ:

“Cô quen anh Michael Kempf à? Cô tìm anh ấy có việc gì không?”

Người chồng nhìn tôi và tiếp tục hỏi:

“Cô là y tá phải không? Chắc cô là người Philippines? Cô từ bệnh viện phải không?”

“Dạ tôi muốn tìm Michael Kempf thì tìm ở đâu?”

Người vợ bước ra và mời tôi vào nhà. Trong phòng khách, họ có một cái bàn trải khăn và bày dĩa tách cho buổi uống cà phê lúc xế chiều. Họ mời tôi ngồi vào bàn, rót cà phê và sẻ bánh cho tôi. Tôi thấy ngại vì tôi là khách không mời.

Người chồng nói:

“Cô đừng ngại. Có cô đến cùng uống cà phê chúng tôi thấy vui hơn. Con gái tôi – chắc trẻ hơn cô ba bốn tuổi – nó làm thư ký ở thị xã, hẹn chủ nhật về chơi với cha mẹ mà lại không về được. Bánh này do vợ tôi làm đấy.”

Người vợ nói:

“Nếu ông già nhờ cô đi tìm thằng con thì cô khỏi tìm. Nó chỉ mong ông già mau chết để nó khỏi bán cái nhà trả tiền cho người ta nuôi cha nó.”

Người chồng:

“Chẳng phải việc của mình. Cô đi đến nhà cô giáo Sophie Kirch ở Talweg, con đường dọc theo suối. Tôi không biết số nhà, cô xuống đó hỏi.

Dù sao cô giáo Sophie cũng là người tốt. Ông Kempf ngã bệnh, cô ấy là người duy nhất thăm nuôi ông ấy đều đặn.”

“Cô ta là người không tốt.”

Tôi hỏi:

“Tại sao?”

Người vợ hướng mắt sang người chồng, chờ đợi sự đồng tình cho bà nói xấu người trong làng với một khách lạ. Người chồng giả vờ lơ đãng một cách rộng lượng.

Người vợ trả lời tôi.

“Cô ấy là một cô giáo. Cô ấy ăn ở với cha của một đứa học trò, một người đàn ông bị vợ bỏ. Rồi khi ông ta bị bệnh nặng, cô ấy đón con trai ông ta về nhà mình.”

Không hiểu sao tôi cảm thấy tôi không muốn biết điều đó. Tôi lặng yên. Tôi cám ơn sự hiếu khách của họ và xin về. Bỗng dưng người chồng nói.

“Sophie Kirch là một người tốt. Chỉ có trời mới biết điều đó. Những người đàn bà khác không biết.”

Người vợ nhìn ông ngạc nhiên, cơn giận chợt dâng lên.

“Tốt? Một người tốt? Tôi ở với ông ba mươi năm, đến hôm nay mới biết đấy chính là loại đàn bà mà ông thích. Cô ta có cái gì chứ?”

“Em đừng hiểu lầm anh. Cô ấy có một tấm lòng làm anh cảm phục. Không có nghĩa là anh thích cô ta.”

“Anh cảm phục một người đàn bà vừa đưa người cha vào viện xong thì quay về đón thằng con về ngủ chung?”

“Em không hiểu sự tuyệt vọng của hai cha con ông Kempf sau khi người vợ dắt thằng con trai nhỏ bỏ đi.”

“Tiếc gì thứ đàn bà ấy. Chỉ mê rượu. Lũ đàn ông trong quán, chỉ mua cho nó một ly thì nó vén váy lên. Thứ đó đi thì may cho cha con ông Kempf chứ, tuyệt vọng gì. Chỉ khổ thân thằng con nhỏ, chẳng biết bà mẹ nghiện ngập dắt đi lênh đênh ở đâu rồi.”

“Dù cô ấy thế nào thì khi cô đi rồi, ông Kempf và Michael cũng phải buồn chứ. Buồn lắm.”

“Thế là cô giáo Sophie Kirch nhảy vào an ủi, bằng cách ngủ với họ. Cha và con.”

“Ừ, thì cô ấy ngủ với họ. Nhưng đó không phải là chuyện chính.”

“Giữa đàn ông và đàn bà chỉ có một chuyện đó thôi. Đó là chuyện chính, không có chuyện gì khác hết.”

Tôi nhìn tấm khăn trải bàn bằng vải lanh dầy màu vàng nhạt, bộ tách cà phê bằng sứ dành cho ngày chủ nhật, đĩa bánh nướng với một lớp mận chín tím thẫm trên mặt, đứa con gái đi làm ở thị xã hẹn nhưng không đến. Cái nề nếp êm dịu và buồn tẻ này mới là chuyện chính. Cuộc đời chúng ta cuối cùng rồi cũng chỉ nương nhờ vào những thứ ấy để tiếp tục: những người thân vắng mặt hoặc đến ngồi chung quanh chiếc bàn quen, có tiếng ấm reo lúc nước chế cà phê vừa mới sôi, tiếng người nói với nhau những mẩu chuyện thuộc về những ngày tháng trên một quả đất có sức hút vừa phải.

Tôi chào đôi vợ chồng không quen và bước ra đường. Tôi không còn tìm đâu được lực hút của trái đất cho mình. Đã có một lần nào tôi biết nó chưa?

Có lần tôi đã biết tình yêu. Lần thứ nhất từ năm tôi lên 7 đến năm tôi 13 tuổi. Tôi có một người cha nuôi, một người yêu tôi như con gái thật. Cha tôi chơi nhạc thánh ca ở nhà thờ. Ông đón tôi ở trường, mua giầy cho tôi và dạy tôi hát. Những chiều thứ ba ông đưa tôi dạo chơi trên con đường ven sông, trong những cách rừng, vào mùa đông và vào mùa hạ. Năm tôi mười ba tuổi ông tự bắn chết trong nhà thờ, tự bắn mà không nói cho tôi một câu nào, không dặn dò tôi phải tiếp tục sống ra sao khi ông không còn ở đó nữa. Nếu tôi là con ruột của ông, tôi có đủ là cái lực hút của trái đất để ông không làm chuyện đó không? Nếu tôi là con ruột, chắc chắn mọi việc đã khác. Không một người cha nào có thể bỏ con gái thật của mình như vậy, bằng một tiếng nổ duy nhất và một sự im lặng duy nhất không bao giờ dứt. Thời gian xóa đi mọi ký ức và nỗi đau, nhưng nó không xóa niềm im lặng. Im lặng biến thành thời gian và nó không rời bỏ tôi nữa. Tôi nhớ tình yêu, nhớ sự mất mát, nhưng lạ lùng thay, tôi không giữ được ký ức về người cha. Tôi không nhớ gương mặt, dáng người. Tôi biết ông có vuốt tóc tôi, nhưng tôi không nhớ bàn tay ông như thế nào. Tôi biết ông có dạy nhạc cho tôi, tên những nốt nhạc thì tôi nhớ, nhưng giọng nói của ông đã mất.

Tôi nhớ giòng sông và những cánh rừng ông dẫn tôi đi qua, mùa đông và mùa hạ, nhưng tôi không nhớ lúc ông nắm tay. Trí nhớ là gì mà phản trắc như vậy? Hay vì tôi không phải là con ruột của ông nên tôi không mang ông trong người, để ông tiếp tục sống trong tôi khi tôi tiếp tục đi mãi trong đời? Hay là năm đó tôi đã quyết định quên ông, vứt đi cái sức nặng đã trì kéo tôi xuống cái hố sâu mịt mùng của buồn đau? Nỗi buồn xóa đi, hoặc là không bao giờ đến, cùng với nó, trái đất và mặt đất cũng mờ nhạt đi, mờ như một ảo giác, một cuốn phim mà tôi không hiểu nhưng vẫn phải ở trong đó cho đến khi nó hết. Người ta sống trong những thế giới của giác quan, hoặc của ý nghĩ, hoặc của tình cảm. Người ta sống trong ngày hôm nay, hoặc ngày mai, hoặc ngày hôm qua. Người ta tự nuôi mình bằng ao ước, hay là hạnh phúc, hay là hoài niệm. Tôi không tin giác quan, không tin ý nghĩ, không biết tình cảm. Tôi không có ao ước, không có hạnh phúc. Chỉ còn hoài niệm. Hoài niệm của tôi nghiệt ngã, nó chỉ là một tiếng vang dội ngắn ngủi của một phát súng trong nhà thờ. Trước và sau tiếng nổ ấy, mọi thứ mờ ảo. Tôi bước đi qua cuộc đời không cảm nhận được mặt đất dưới chân mình.

Mẹ nuôi nói rằng tôi đã làm cho cha nuôi tôi chết. Trước khi có tôi, ông là một người yêu kính Chúa. Chiến tranh qua rồi, ông trở về tiếp tục học xong chương trình ở trường nhạc. Ông tìm được việc làm ở giáo phận nhà mẹ tôi. Vào cuối những mùa đông ông chôn xuống đất những giò thủy tiên, ông tỉa cành cho những cây táo, cây mận trong vườn. Mùa hạ ông ngồi đọc sách cạnh chiếc bàn nhỏ trong sân, dưới bóng đám lá cây thưa, ăn bánh kẹp với táo nấu với đường và quế. Mỗi tuần ông tập hát cho ban đồng ca nhà thờ ba buổi. Thỉnh thoảng ông đi dạo với cha xứ, cuối buổi dạo, cha thường mời ông một ly rượu mạnh cất từ trái lê, ướp thật lạnh. Nhưng rồi Chúa yêu cha nuôi tôi và muốn thử thách ông. Chúa khiến cho mẹ tôi rước về nhà một đứa con gái mồ côi bảy tuổi.

Mẹ nuôi đã đặt tất cả những gì mình có vào cuộc sống với cha nuôi tôi. Bà luôn cố gắng làm một người toàn diện. Điều Chúa không ban cho bà, và vì thế bà không thể ban cho chồng bà – một đứa con – bà bù đắp bằng cách mở trái tim và cánh cửa nhà ra cho một đứa con nuôi đến từ một vùng đất đau thương của trái đất. Bà nuôi con người khác, yêu thương như con của chính mình.

Nhưng đứa con gái nhỏ không nhỏ hoài, nó lớn dần lên và trông rất đáng yêu. Mẹ tôi không nhớ chuyện xảy ra năm nào, nhưng nó đã xảy ra. Cha tôi đổi khác. Cha tôi quên châm nước cho chim uống. Những con vẹt nhỏ màu vàng chanh và màu xanh lục chết khát trong lồng. Lúc đó ông mới nhớ là từ mấy hôm rồi chúng im lìm không tiếng hót. Ông vứt những chiếc lồng ngoài góc sân. Ông không bao giờ nhớ tới những con chim, cũng như ông đã không bao giờ nhớ lại chiến tranh. Ông không có lời nói nào dành cho những chuyện đã qua. Ông hay nhìn tôi, và ông không ngủ nữa. Ông hay quên những buổi tập hát với ban đồng ca ở nhà thờ. Một hôm, cây thánh giá treo trên tường, phía trên giường ngủ của cha mẹ nuôi tôi bị sút ốc, rơi xuống. Mẹ tôi đem cất trong hộc tủ, chờ cha tôi về khoan một cái lỗ mới treo nó lên lại. Nhưng khi mẹ tôi mở hộc tủ tìm, nó không còn đó. Mẹ tôi hỏi, ông không biết. Vài hôm sau mẹ tôi tìm thấy cây thánh giá nơi những chiếc lồng chim ở góc sân ẩm ướt. Mẹ tôi hỏi có phải ông đem nó vứt ngoài ấy, ông cũng không biết, không nhớ gì. Ông không có lời nói nào dành cho những chuyện đã qua. Trên bức tường bên trái chỗ ông ngồi đánh đàn trong nhà thờ, có treo một bức tranh nhỏ vẽ Beethoven. Chính ông đã treo bức tranh ấy ngày ông vào nhận việc, nó đã ở đấy suốt mười bảy năm, ở một mảng tường ít ánh sáng, hầu như không ai còn để ý tới nó. Một hôm ông hỏi người quét dọn nhà thờ người trong tranh là ai. Người quét dọn không biết, không phải vì ông già không nhận ra Beethoven, mà vì mắt ông ấy kém. Cha tôi hỏi sao ai lại treo hình một người lạ lên tường.

Mẹ nuôi tôi nói ông chỉ còn biết nhìn tôi. Ban ngày, lúc tôi ăn cơm, nói chuyện, và ban đêm, lúc tôi ngủ. Mùa đông, lúc tôi ngồi trên ghế nệm, rúc trong mấy lần áo len, và mùa hè, lúc tôi chạy trên con đường dọc bờ sông, vai để trần và tóc cột đuôi ngựa.

Mẹ nuôi tôi nói tôi có tội, tôi làm cho cha tôi chết. Tôi có tội vì có một thân thể. Tôi không mãi mãi là đứa nhỏ 7 tuổi xác xơ mà bà rước về nuôi. Tóc tôi dày và mượt ra, thân thể chớm kéo các đường nét báo trước nhiều phập phồng và truân chiên. Tôi bắt cha tôi yêu tôi. Cha tôi không cưỡng lại được, nên ông hóa điên và tự bắn chết. Bà buộc tội tôi và bắt tôi nhận nó, khốc liệt như thể nếu tội lỗi được phân định rõ ràng xong, được xóa đi bằng sự trừng phạt hay sám hối thì cái hệ quả của tội lỗi cũng sẽ không còn. Nếu tôi xóa được tội lỗi của tôi bằng cách này hay cách khác, thì Chúa sẽ quay ngược đoạn phim, và cho cha tôi sống lại. Không những sống lại, ông còn trở lại là người chồng nguyên lành của mẹ nuôi tôi mà Chúa ban tặng theo lời cầu nguyện của bà. Mẹ tôi nói việc đầu tiên là tôi phải nhận tội. Tôi đầy sợ hãi. Lúc đầu tôi phản kháng mãnh liệt, rồi tuyệt vọng, rồi tôi không phản kháng nữa. Tôi tin mẹ nuôi tôi. Mẹ tôi nói tôi làm cho cha nuôi tôi ham muốn tôi, hai chữ đó sẽ còn làm cho tôi hoang mang gần hết cuộc đời. Ban đầu khi nhớ lại những khi cha nuôi tôi nhìn tôi, tôi không thấy ánh mắt ông chứa đầy ham muốn, như mẹ nuôi tôi nói. Nhưng tôi nào biết ham muốn thế nào để nhận ra nó. Mẹ tôi chỉ ra cho tôi, bằng cách nào tôi không nhớ, nhưng rất hiển nhiên. Thân thể mười ba tuổi của tôi chưa được sửa soạn để bị xâm chiếm, để có thai và đẻ con. Nếu để chuyện đó xảy ra, thân thể ấy sẽ bị xé nát. Con gái chưa dậy thì tự bảo vệ mình bằng sự kinh sợ sự mời mọc tình dục đến quá sớm. Mẹ tôi kêu gọi, đánh thức nỗi kinh sợ bản năng của tôi. Tiếng kêu của bà là tiếng kêu của một con thú bị thương, của một đời đàn bà bị lừa dối và không hề hiểu sự lừa dối đó. Từ đó, mỗi lần nhớ lại ánh mắt của cha tôi tôi thấy sợ hãi. Nỗi sợ hãi không cần được nuôi bằng kinh nghiệm có thật, nó tự nuôi nó lớn nhanh lạ thường, mọc lông mọc cánh che khuất những ngôi sao trong sáng thời thơ ấu. Tôi sợ cả thân thể và tâm trí mình, mong ước xóa được cả hai dưới những ngọn roi trừ tà đuổi quỷ của một ông giáo sĩ nào đó. Cha xứ không đuổi quỷ cho tôi. Ông chỉ nói tôi nên cầu nguyện và đọc kinh sám hối.

Tôi quỳ trên nền đá nhà thờ, hay trên những bậc thềm dẫn xuống hầm nhà tôi, gần như không ăn uống. Tôi sám hối, nhưng không xóa được tội lỗi, chỉ xóa đi trí nhớ của tôi về những ngày tháng trước khi tiếng súng của cha tôi nổ vang trong nhà thờ. Một lúc nào đó mẹ nuôi tôi và tôi biết rằng cha tôi đem chôn rồi thì không sống lại nữa. Chúng ta chỉ hiểu những thứ được ý nghĩa rọi sáng. Cái chết của cha tôi không có ý nghĩa nào rọi sáng, chúng tôi không hiểu. Nhưng ba tháng sau thì vẫn phải chấp nhận nó hoàn toàn. Đó là lúc sự sám hối của tôi trở nên vô nghĩa. Cả mẹ nuôi tôi và tôi đều không quan tâm tôi có được tha thứ hay không. Tôi đứng dậy trên hai đầu gối đầy những vết chai và những vết thương còn mới. Sau ngày ấy, tất cả kinh nghiệm thật đều bị xóa. Mọi kỷ niệm êm đềm đã chết. Sự thật đã mất. Chỉ có lại cái cách hiểu về nó. Còn lại những ý nghĩ trừu tượng mà sau nhiều năm, người ta lầm với ký ức.

Nhiều năm sau, tôi cố hiểu cái chết của cha nuôi tôi. Cuộc đời không đầy những bí ẩn, nhưng sự thật về cuộc đời luôn ở một nơi nào xa hơn tầm với của con người. Bởi vì con người chỉ chấp nhận sự thật khi nó đi kèm với ý nghĩa, ý nghĩa hiếm hoi, nên hiểu biết của con người cũng nhỏ nhoi. Ý nghĩa chủ quan, nên chỉ có sự thật của mẹ nuôi tôi và sự thật của tôi, chứ không có sự thật đứng riêng một mình nó. Nếu đứng riêng một mình, nó đứng trong bóng tối. Khi được nhìn thấy, nghĩa là nó đã đứng trong ánh sáng của tôi hoặc là của mẹ nuôi tôi. Ánh sáng có thể nhiều dối trá. Bóng tối thành thật, nhưng nó đồng nghĩa với im lặng.

Có một lần cha tôi nói với tôi rằng âm nhạc không nằm ở những nốt nhạc mà ở cái khoảng không ở giữa những nốt nhạc. Giữa những nốt nhạc là âm nhạc. Giữa những con người là tình yêu. Những nốt nhạc và những con người không có ý nghĩa. Ý nghĩa nằm ở giữa chúng, ở giữa họ. Tôi mười ba tuổi. Tôi hiểu, như cách một cô gái mười ba tuổi hiểu, rằng cha nuôi tôi yêu âm nhạc và yêu tình yêu, rằng con người không thể đứng một mình. Nhưng sống với cha mẹ nuôi, tôi cũng hiểu như một cô gái mười ba tuổi hiểu rằng ông là một người cô đơn ghê gớm. Ông ẩn náu trong nỗi cô đơn mịt mùng. Ông là âm nhạc không có âm thanh.

Ông chết rồi, tôi cố hiểu nỗi buồn của ông. Khi ông còn sống, vào mùa hạ vợ ông nấu anh đào với đường để dành cho mùa đông. Bà biết làm rượu với trái mận vàng. Mùa thu bà đan cho cả nhà những chiếc áo len dầy ấm. Bà biết giữ cái lạnh ở bên ngoài những khung cửa sổ. Những bình cà phê luôn luôn được chế đúng lúc, những chiếc vớ luôn luôn đủ đôi trong tủ. Bà luôn biết ông cần gì trước khi ông biết. Dù bà không hiểu Bach, ông vẫn là một người đàn ông may mắn nhất. Chính sự may mắn ấy đã nuốt đi mọi can đảm ông cần có để đi tìm chính mình ở một nơi nào khác, ở một quê hương không có tên và không có bàn tay của người vợ ở mọi thứ ông chạm đến.

Cha tôi làm việc ở nhà thờ Công giáo, ở đó có một cha xứ không tốt bụng nhưng cũng không khó tính và không biết nhạc, có số người đi lễ đủ chiếm gần nửa số ghế vào ngày chủ nhật, những người ít xưng tội và ít đặt câu hỏi, vì họ chỉ có vừa đủ lòng tin để đi lễ, chứ không còn đủ lòng tin để tin rằng nhà thờ là nơi giải quyết tất cả những vấn đề dù tâm linh hay không của cuộc đời bên ngoài nó. Ban đồng ca do cha nuôi tôi phụ trách may mắn lắm là hát được những nốt nhạc không sai độ cao thấp được ghi, họ thấy hài lòng vì mình hiểu được lời nhạc, ý nghĩa của chúng họ biết là sâu xa, và vì hát chúng họ thấy họ tham dự vào một truyền thống nào đó đáng quí hơn là xem ti vi cho hết những buổi chiều không đi làm. Lương cha nuôi tôi không cao, nhưng nhà thờ cấp cho chúng tôi một căn nhà có vườn, và trả tất cả các khoản bảo hiểm, nhà tôi không bao giờ cần nhiều tiền hơn số tiền cha tôi có.

Gia đình tôi có một đời sống yên ấm, bảo đảm, và khi tôi bước vào nhà thờ, nghe nhạc của Bach vang rền và cao vút từ những ống sáo ngất trời của cây đàn organ của cha tôi, tôi thấy một chút gì như là vinh dự nữa.

Cha tôi đáng lẽ đã có thể sống như vậy cho đến năm 65, về hưu, và hai mươi năm sau nữa thì chết. Thêm hai năm nữa thì vợ ông theo ông. Chuyện rất có thể đã như vậy và không ai thấy rằng họ làm lỡ dở cuộc đời duy nhất của nhau, phản bội nhau sâu đậm hơn những kẻ ngoại tình và những kẻ lãng du. Họ đáng lẽ đã có thể chết già, được chôn bên cạnh nhau, được nhớ tới như đôi vợ chồng chung thủy.

Nhưng một hôm cha tôi không ngủ nữa. Ông tự bắn chết trong nhà thờ không một lời báo trước. Chấm dứt một thiên đường yên ấm và buồn tẻ.

Ông yêu Bach và Beethoven, âm nhạc ông yêu nó mong manh, hùng vĩ và u buồn, nhưng ông lại sống bằng thứ âm nhạc được đóng khung trong những ngày chủ nhật vô cảm, những bình trà nửa ấm nửa nguội chỉ vừa mang lại một chút ý nghĩa trung bình, một chút tâm linh trung bình cho đám giáo dân ơ hờ, đời sống luôn cân bằng vì không có trọng lực ở bên đúng cũng như bên sai. Nếu là người can đảm, ông đã không dùng âm nhạc để kiếm cơm; đã từ chối căn nhà có vườn và tất cả các loại bảo hiểm do nhà thờ cấp, chỉ để tình yêu dành cho Bach được bình thường và trong sáng. Đáng lẽ ông đi làm thợ đóng giày, hay làm sổ sách cho hãng buôn, chắt góp lắm mới mua được cây đàn piano, rồi hiếm có thì giờ động tới nó, giữ âm nhạc ở một khoảng cách nếu với thêm một chút thì tới, chứ không ở bên dưới tài sức và tình yêu của mình. Và lấy một người vợ biết buồn, may mắn hơn một chút, người vợ ấy hiểu Brahms.

Nhưng ông chọn một căn nhà có vườn, giả mạo một tình yêu Chúa và ca ngợi nó bằng một thứ nhạc ê a, mỗi năm mỗi lạc giọng thêm một chút, giống như trái tim càng ngày càng nghèo đói trong lồng ngực.

Tôi nhớ đến ông như tình yêu quan trọng nhất đời tôi. Năm tôi nhỏ, tình yêu ấy hiển nhiên và toàn vẹn. Bây giờ nhớ lại tôi không biết tình yêu ấy có thật, hay nó có vì tôi mồ côi và cần nó một cách tuyệt vọng. Tôi muốn tìm vết tích của tình yêu để hiểu nó, nhưng tôi đã mất những dấu chân trên cát. Chỉ còn lại ý niệm trừu tượng về một tình yêu, chứ không còn tình yêu, vì tôi không còn nhớ ông là ai, gương mặt, giọng nói, bàn tay ông thế nào và ông ước ao những gì. Tôi nhớ, không phải tôi nhớ mà là tôi tin, rằng tôi, một đứa bé mười ba tuổi, là người duy nhất ông đủ yêu và tin để nói về cái điều mong manh ở giữa những nốt nhạc và ở giữa những con người. Giữa ông và mẹ nuôi tôi không có điều mong manh đó. Giữa cha mẹ tôi có cái nền tảng kiên cố của một cuộc hôn nhân được nhà thờ Công giáo và nghề nghiệp của ông bảo hộ. Giữa họ là sự cần thiết, là thói quen. Và lưng chừng giữa bổn phận và sự lệ thuộc có một sự thuần phục dịu dàng rất giống như tình yêu. Không có gì phân chia được cái nền tảng đó, ngoại trừ cái chết. Mùa xuân năm đó, cha tôi quyết định đó là điều duy nhất ông còn phải sắp đặt cho nó xảy ra. Sau đó thì không còn gì nữa.

Mẹ nuôi tôi cho rằng cha tôi chết vì ham muốn, vì không chịu được sự giằng xé. Mẹ tôi đã lầm. Tôi cho rằng cha tôi chết vì sống quá lâu cuộc đời của một người khác, không phải của mình. Vào năm đó, nỗi buồn đến. Ông không hiểu nó và không biết chứa nó ở đâu.

Nhưng biết đâu tôi cũng lầm?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro