Bên kia rặng núi
Cả đời này Barry đã theo đuổi một ước mơ xa vời, một ước mơ mà đến lúc ông có đủ sức lực và thời gian để thực hiện nó, thì ông lại không có người đồng hành nào nữa.
Cuộc đời của Barry gắn chặt với miền quê Evechester, nơi khi anh còn ấu thơ mênh mông đồng cỏ xanh mượt và những ngôi nhà tập trung lại thành từng cụm nhỏ, với ống khói lúc nào cũng hoạt động. Evechester cách trung tâm hạt Lavassa 37 dặm về phía Tây, tương đương với hai giờ lái xe. Đó là nơi người dân mang những nông sản nuôi trồng được đi bán và mua thực phẩm. Cuộc sống ở đây biệt lập với một thời đại phát triển bận rộn ở chốn đô thị. Người ta sống hầu hết bằng nghề nông, với những mảnh vườn trù phú chỉ cách nhà vài bước chân, những ngọn đồi thong thả của buổi bình minh nơi những đàn dê được thả chạy thỏa thích.
Phía Đông của Evechester được che chắn bởi một rặng núi cao và dài, cách thị trấn khoảng 3 giờ đi bộ và hàng sáng, mặt trời nhô lên từ đỉnh của ngọn núi cao nhất. Hiếm có ai trong làng từng vượt rặng núi ấy để qua phía bên kia, bởi quãng đường đi đến tuy dễ dàng nhưng lên núi mới là khó khăn. Hơn thế nữa, vài người từng qua phía bên kia, không ai trở lại cả. Có người đồn rằng bên đó là địa phận của bọn ăn thịt người hay thú hoang. Người khác lại nói rằng bên kia rặng núi là một miền đất Hứa mới, với những cảnh sắc chẳng ai có thể tưởng tượng được, và những người đã đi mà không về, họ đã ở hẳn nơi đó rồi.
Barry lớn lên với câu chuyện của mẹ về một lâu đài nguy nga, tráng lệ ở phía bên kia rặng núi, nơi ánh mặt trời đầu tiên sẽ chạm đến, nơi được trị vì bởi một vị vua anh minh và sáng suốt. Lâu đài ấy sẽ luôn ngập tràn niềm vui và những tiếng cười hạnh phúc, và người ta sẽ sống vô lo vô nghĩ, sẽ nhảy mua hát ca khắp ngày đêm. Thế giới cổ tích kia không có kết thúc buồn, bởi ai cũng có thể sống bất tử. Nhất là chàng hoàng tử đẹp trai với mái tóc nâu quăn và đôi mắt xanh biển thăm thẳm. Chàng sẽ cưới cô công chúa trong váy áo lộng lẫy, mái tóc vàng và đôi mắt mơ mộng của nàng sẽ mãi thuộc về chàng, và chỉ chàng mà thôi. Barry luôn cười khúc khích khi mẹ kể cho cậu bé nghe câu chuyện ấy. Bởi cậu có một đôi mắt xanh và một mái tóc xoăn tít.
Đến khi lớn hơn, Barry cũng tự ý thức được rằng lâu đài hạnh phúc kia không hề có thật. Nhưng cậu cũng chẳng bao giờ thôi mơ tưởng về một mảnh đất phía bên kia rặng núi, nơi cậu có thể sống một cuộc sống bình yên, cưới một cô gái xinh đẹp và đảm đang, tạo dựng nên một gia đình ấm cúng. Ước mơ này lại càng cháy bỏng hơn khi mẹ cậu qua đời, để lại Barry cùng người cha luôn đi biền biệt vào trung tâm hạt. Đến lúc này, Evechester đã thay đổi. Nó không còn là vùng quê đẹp và yên bình nữa. Một đường ray xe lửa vắt ngang qua rìa thị trấn, với những chuyến tàu ồn ã đêm ngày, dội về tiếng động cơ hơi nước chạy một cách giận dữ, đi vào giấc ngủ của anh. Đi quanh thị trấn lúc nào cũng nghe thấy được những tiếng nói rè rè phát ra từ những chiếc "radio", thứ máy móc mới mà những người giao hàng mang về từ thành phố.
Trong những ngày không có cha ở nhà, Barry bầu bạn với với cô bé hàng xóm, Joan. Joan có khuôn mặt đầy tàn nhang tạo thành một vùng kéo từ má bên này sang má bên kia, vậy nên mặt nó lúc nào cũng hơi ưng ửng đỏ. Điều này khá hợp rơ với mái tóc đỏ quạch của nó, rối bời và cắt ngắn như con trai. Joan không mặc váy như những đứa con gái khác cùng tuổi với nó. Nó lúc nào cũng mặc áo sơ mi xắn tay nhàu nhĩ với quần yếm, và đi một đôi giày cũ sờn. Nhưng Joan cũng khá nữ tính, chỉ là nó không thích chải chuốt. Nó bí mật có một con búp bê của cha nó tặng cho trước khi ra chiến trường, con búp bê to ngang đứa trẻ con, khi đặt nằm xuống là mắt nó sẽ nhắm lại. Joan có vẻ không thích ai ngoài Barry biết về con búp bê của nó, nhất là bọn con gái khác.
Joan kém Barry hai tuổi. Có nghĩa là khi mẹ Barry mất thì Joan lên 10. Đám tang của mẹ cậu bé cũng là lúc hai đứa lần đầu tiên gặp gỡ, bởi gia đình Joan mới chuyển đến Evechester chưa đầy hai tháng. Con bé đã chầm chậm tiến đến Barry và vỗ vỗ lên vai cậu bé, thì thầm vào tai cậu những lời an ủi như một người bạn thân tình. Nếu không vì sự cởi mở kỳ lạ của Joan với Barry, hai đứa có lẽ còn chẳng bao giờ quen nhau, vì gia đình con bé khá khép kín và ít giao lưu với hàng xóm.
Trong những ngày mẹ Barry mới ra đi, Joan đã động viên cậu bé kể cho cô những câu chuyện khác, để cậu quên đi nỗi buồn kia. Và thế là Barry kể về nơi ở phía bên kia rặng núi, bến bờ hạnh phúc của cậu. Joan nghiêng đầu chăm chú nghe Barry kể suốt cả buổi chiều hôm ấy, kiên nhẫn ngồi đến tận lúc mặt trời đã sắp lặn để nghe cậu bé nói về những dự định cậu sẽ làm khi qua được bên ấy. Khi hai đứa chuẩn bị về nhà, Joan đã bắt cậu hứa rằng, cậu phải dẫn con bé đi cùng, và như một lời cam đoan, Barry đã viết một tờ giấy chứng nhận hẳn hoi bằng những chiếc bút sáp màu của mình, và chúng ký vào đó, như một hiệp ước to lớn vô cùng.
Thời gian chẳng mấy chốc thấm thoát trôi qua. Cậu bé Barry ngày nào đã trở thành một chàng thanh niên làm việc trong một xưởng cơ khí. Cô bé Joan đã trở thành một người cô gái xinh đẹp. Mái tóc đỏ ngắn và lung tung của Joan đã dài ngang lưng, tết lại thành bím, ở đuôi buộc một chiếc chun đen nhỏ có mặt nhựa hình con bướm. Barry thích nhìn bím tóc ấy đung đưa qua lại khi cô làm việc.
Trong cái thị trấn nhỏ ấy, chuyện tình cảm xảy ra dễ như không. Mà cảm xúc của lòng người thì ai mà định đoán được.
Nửa năm sau đám cưới, Nội chiến nổ ra, Barry phải nhập ngũ phục vụ quân đội. Anh đành để lại người vợ trẻ mới cưới ở nhà. Ngày anh đi, Joan mang bầu được hơn một tháng.
Trước tới giờ anh chỉ biết đến cuộc sống ngoài Evechester qua những chuyến viếng thăm ngắn ngủi theo bố đến trung tâm hạt Lavassa, những lần thiếu người đưa nguyên vật liệu về xưởng. Thế giới ngoài kia làm anh choáng ngợp. Đáng buồn thay, không theo nghĩa tích cực. Đến lúc này anh mới biết không phải ai cũng tốt bụng và hào phóng như những người dân của Evechester. Họ cũng lừa lọc, trộm cắp, giết người như cơm bữa, và đó chỉ là những công dân bình thường. Đó không phải là những tên lính vô nhân đạo, những cỗ máy giết người tham gia vào cuộc chiến vô nghĩa này chỉ vì muốn thỏa mãn thú giết người vô nhân tính. Cái gì đến cũng phải đến, Barry phải học cách kết liễu một sinh mạng. Rồi hai. Rồi ba. Rồi hàng chục, hàng trăm.
Sau bảy năm phục vụ trong quân ngũ, giờ đây việc chiến đấu cũng chỉ là lấy lệ. Chiến trường chính trị đã ngã ngũ. Phe ta chỉ còn cầm cự yếu ớt. Phe bên kia bắt đầu đi chiếm đất, chiếm làng. Chẳng sớm thì muộn, rồi bọn chúng cũng càn quét đến Evechester. Ngày ấy, Barry mất cánh tay của mình do trúng đạn. Anh lén đào ngũ để trở về quê hương và bị phát hiện khi đang nấp sau một pháo đài cũ. Đau đớn nhất là không biết phát đạn ấy từ khẩu súng của địch hay của chính những người đồng đội của mình.
Giờ là người tàn tật, không còn công dụng nữa. Barry cũng bị đào thải. Anh khoác trên vai túi đồ, một mình trở về quê hương bằng chính đôi chân với đôi giày đã mòn gót và một trái tim rỉ máu.
Không ngoài dự định của anh, Evechester giờ cũng đã đổi thay. Trước kia vùng đất này không có người lãnh đạo nhất định, giờ đây nhà nước mới đã bổ nhiệm một gã khá "to" ở trển để điều khiển mọi công việc trong thị trấn. Nếu như khi anh còn ở đó chỉ có một đường ray xe lửa chạy qua thì lúc này đã có tới bốn, những chiếc tàu lửa bận bịu chở sản phẩm vào thành phố.
Anh vội vã trở về ngôi nhà của mình và thấy Joan, với những nếp nhăn đã hằn trên gương mặt quá già so với tuổi 28 của cô. Joan chạy ra ôm chầm lấy anh, và khóc, hôn lên gương mặt của anh, hôn lên cả cánh tay cụt của anh.
Hóa ra trong bảy năm ấy, khi quân địch tiến đến Evechester, chúng đã tàn phá rất nhiều đất của nhân dân khi xây dựng những công trình mới. Nhiều gia đình có thể khai phá đất mới ngay vì diện tích đất của họ rộng. Nhưng những gia đình khác, như gia đình anh, với những phần đất hiếm hoi đã bị phá bươm, hoàn toàn không có khả năng trồng trọt lại ở đất khác, bởi nếu tiến đến gần rặng núi thì đất đai khô cằn, còn tiến về phía trung tâm thì tất cả đã biến thành đường đi. Huống hồ Joan còn là phụ nữ, cô chẳng thể nào làm những công việc nặng nhọc để đổi lấy đất. Cô bắt buộc phải làm vú em cho một thằng bé con nhà giàu mới chuyển đến trong thị trấn. Còn đứa con trai mới bảy tuổi, Will, biến thành thằng bé mục đồng gầy nhẳng chăn súc vật trên ngọn đồi thoai thoải, thi thoảng kiêm luôn cả chân sai vặt cho những cư dân trong thị trấn.
Barry rồi cũng phải hòa vào một cuộc sống mới, một cuộc sống mà anh không thuộc về. Anh chỉ có thể là người quét dọn, đánh bóng cho những đường ray tàu hỏa, nơi mà người đi tàu cứ tự do thả rác rưởi xuống, thậm chí là tự do phóng uế. Người ta đàm tiếu về anh. Người ta chê cười anh. Anh nhận ra rằng chẳng còn ai nhớ về một Barry khác từng sống ở đây. Họ chỉ biết về một lão Barry bẩn thỉu cụt tay, người đi dọn phân và rác ở những đường ray.
Điều duy nhất giúp Barry cố gắng làm việc chính là mong ước được đi qua rặng núi ấy. Phải rồi, vẫn cái ước mơ đau đáu từ tuổi ấu thơ. Chẳng hiểu sao, anh luôn có cảm giác rằng hạnh phúc của mình nằm ở bên đó, và anh chẳng thể nào có một kết thúc có hậu cho đến khi anh đặt chân được lên mảnh đất ấy.
Dịch bệnh theo sau chiến tranh như một con quạ mang lại điểm gở bóng tối đầy bầu trời vốn đã không trong trẻo gì. Dịch tả hoành hành cả đất nước, giết chết hàng triệu người. Joan, sau những giờ tiếp xúc với thức ăn và nước uống của gia đình nhà giàu, những con người hay đi ra thành phố và quay về, đã nhiễm tả. Bệnh này cần sự chăm sóc cẩn thận của người thân và bác sĩ, nhưng Joan sao có thể phụ thuộc vào một ông chồng tàn tật và một thằng con trai mới vỏn vẹn bảy tuổi cơ chứ ?
Ngày Joan ra đi, nhà tang lễ vắng người. Hay đúng hơn là không có người. Người thân và gia đình của họ đều đã ra đi. Barry ngồi bên cạnh quan tài của người vợ quá cố, chạm những ngón tay đã chai sạn của anh vào làn da đã lạnh cóng của cô, vuốt ve bờ má từng đã nóng ấm. Anh lặng lẽ xé đôi tờ giấy ghi lời hứa năm xưa, luôn một mảnh vào trong bàn tay cô, và bỏ một mảnh vào trong túi mình.
Khi Will bằng cái tuổi mà Barry lấy vợ và nhập ngũ thì ông cũng đã gần 50. Nhờ đào được một mỏ dầu khá lớn ở dưới mặt đất mà Barry nhanh chóng giàu lên. Người ta giờ đây gọi ông là ông Barry tốt-số-đến-kỳ-lạ. Trong suốt thời gian ấy, ông vẫn ấp ủ kế hoạch leo qua rặng núi kia.
Will gặp và yêu một cô gái thị thành. Sau khi làm đám cưới, nó chuyển luôn vào trung tâm hạt Lavassa sống. Ông không trách gì nó, bởi Will cũng chẳng có gì để lưu luyến tại Evechester này. Ông thì khác.
Một ngày sau đám cưới, cho rằng thời cơ đã chín muồi, ông sắp xếp đủ tư trang và vật dụng cần thiết, rời đi trong đêm. Barry không muốn ai biết về kế hoạch của mình, nhưng thực ra những lời đồn về phía bên kia ngọn núi cũng đã bị lãng quên. Chỉ còn mỗi ông nhớ mãi về chúng mà thôi.
Sau ba ngày đường, ông cuối cùng cũng đến được tới đỉnh cao nhất của rặng núi. Hít sâu một hơi dài, Barry bắt đầu chuyến đi cuối cùng của mình xuống núi. Giờ thì ông cũng đã hiểu ra tại sao những người đã đi không thể nào quay lại. Sườn bên này núi quá hiểm trở. Những bước chân đã nhuốm màu thời gian của ông dần rã rời ra theo từng nhịp, nhưng những gì đang chờ đợi Barry ở dưới khiến ông không thể không phấn khích.
Nhưng khi xuống đến chân núi, Barry thấy ở trước mắt mình hiện ra một thị trấn nhỏ hơn Evechester một chút thôi, mang những nét giông giống như vậy, cũng với những tòa nhà mới xây và những đường ray xe lửa chạy dọc chiều dài thị trấn. Có một trạm gác nhỏ trên con đường hướng về thị trấn nhỏ kia.
Quá bất ngờ vì những gì mình thấy được, Barry tất tả chạy đến trạm gác kia. Một người đàn ông trạc tuổi Barry ngồi vắt vẻo trên ghế, trên miệng là điếu thuốc cháy dở. Ông ta để ý đến sự xuất hiện của Barry, "Ông có phải là người từ bên kia sang không?"
"Có... Xin lỗi ngài, nơi đây là ..."
"Ôi Chúa ơi, xin ngài hãy đi ngay về phía thị trấn ở đằng kia, đã lâu rồi chúng tôi không được đón tiếp những người như ngài."
Và rồi ông ta ra khỏi trạm gác, khăng khăng bắt Barry ngồi lên cái xe ô tô có thùng ở đằng sau của mình và nhất quyết không giải thích lấy một lời. Có lẽ ông ta quá háo hức. Háo hức vì cái gì thì Barry vẫn chưa biết.
Chiếc xe vừa đi đến cổng thị trấn, tên Whitebridge, thì người đàn ông ở trạm gác đã nói lớn, "Chúng ta có một người từ bên kia sang !"
Chỉ vài giây sau, dường như tất cả mọi người đều bỏ mọi việc họ đang làm mà chạy đến nơi phát ra âm thanh ấy. Barry bị vây bởi một đống người, già có, trẻ có, tất cả đều đang háo hức muốn hỏi ông điều gì đó. Rồi một người đàn ông bệ vệ, nghiêm trang bước ra, khẽ nâng mũ chào Barry và mở lời, "Xin cho hỏi, có đúng là ngài từ vùng đất phía bên kia sang hay không?"
"Vâng, thưa ông."
"Ồ, thật may quá! Chưa có ai qua đây từ phải đến hơn sáu mươi năm rồi! Chúng tôi luôn muốn tìm hiểu xem vùng đất bên kia rặng núi có gì, và những người từ bên đó sang đã quá già hay đã mất. Hãy nói cho tôi và tất cả mọi người ở đây biết, có phải bên đó bốn mùa đều là mùa xuân và con người sống không cần máy móc hiện đại hay không?"
Barry cảm thấy như vừa bị vật gì đó đập mạnh vào đầu. Chờ đã, ông không hiểu. Tại sao bên này... bình thường quá! Thậm chí còn kém hơn cả Evechester một chút. Ông không hiểu. Bên này phải là một miền đất Hứa cơ chứ. Bên này... Bên này phải... khác chứ !
"Thưa ông..."
"Barry."
"Thưa ông Barry," người đàn ông to lớn kia tiếp lời, "Xin ông hãy trả lời chúng tôi! Chúng tôi đều muốn biết về vùng đất bên kia rặng núi. Nói thật với ông, tất cả chúng tôi ở đây, đều coi nơi ông đến là một miền đất Hứa!"
Barry nhìn trân trân vào mặt từng con người đang hồi hộp chờ đợi câu trả lời của ông, rồi từ từ rút ra một nửa mảnh giấy trong túi. Ông vò vụn nó lại bằng một tay, cho vào mồm nhai rồi khoan thai nuốt.
Barry cắn thật mạnh vào lưỡi mình, cảm nhận sự sống đang từ từ rời khỏi thân xác ông. Ông ngã gục xuống, vài người đứng gần nhanh chóng đỡ lấy. Số còn lại nhìn ông một cách hiếu kỳ.
Gần lúc ra đi, Barry bỗng nhìn thấy mình ở trên đỉnh núi, nhìn xuống một căn nhà nhỏ với mái gạch và ống khói. Một người vợ đang phơi đồ trên những cái dây phơi căng tạm giữa hai chiếc cột. Người chồng đang làm việc trong mảnh vườn trước nhà. Một đứa con trai thả diều gần đó trên ngọn đồi xanh mượt.
Barry đã lỡ mất cơ hội cuối cùng của đời mình rồi.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro