Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Tuyển truyện ngắn-Lenghiabk05

LAI RAI BA SỢI - BUỒN TÌNH NẢN GHÊ

 

Ông già Khản có tật uống là phải uống cho đã.  Nhậu khan, nhậu có mồi, nhậu mình ên hay nhậu với bạn, những lúc đó đừng có ai xía vô chọc ghẹo mà mang họa.  Khi ngồi vô bàn rồi, cầm cái hũ chìm, ổng tưởng mình đã cầm ấn soái trong tay.  Ổng hét rân vợ con chạy có cờ, hối mua thêm nước, hối lấy món cay, giọng nhão nhợt, mặt đỏ lòm như gà chọi.

Đố ai mà dám trái lệnh ổng, một hai phải làm theo lời ổng ngay.  Muốn kêu nài, khiếu nại gì chờ ổng tỉnh hãy hay.  Xớ rớ lần chần, là ổng rượt có cờ.  Lâu ngày chày tháng, bà vợ biết tánh ổng nên nín nhịn cho qua, cương với ba tên say chẳng khác ngồi nói với đầu gối.  Lũ nhóc nhà ổng còn đặc biệt hơn nữa, thấy mẹ muốn sửng cồ, tụi nó áp vô can : thôi mà má, tía còn thú vui gì khác nữa đâu mà má cằn nhằn hoài.

Bà già lại nạt ngang : chả đã ngang như cua, bây lại còn bắc thang cho chả leo nữa.  Rồi bà bặm trợn : tao hết tiền rồi, uống nữa biểu chả móc túi ra mua.  Bọn nhỏ lẳng lặng rút đi, một lát dìa xách be khác, đầy ắp, mới tinh.  Chúng có tài ba gì đâu chớ, chẳng qua chạy ra chú Xồi năn nỉ mua cho tía chúng vui.

Chú Xồi là ông già tàu sang đây lúc đầu đi mua ve chai.  Ngày ngày gánh hai giỏ đi cùng làng khắp xóm, cất giọng ê a : de chai pán hôn.  Nghe đồn, một lần ổng mua trúng cái bình phích rẻ rề, ai dè bên trong vỏ có dấu vàng lá.  Chú bỏ nghề ve chai, mở quán chạp phô cái rột, ai hỏi chú nói “ pà con pên tào cho ngộ tìn “.  Chẳng ai hơi đâu dò la xem chiện này thiệt giả tới đâu.

Chú mở cái quán xập xệ bán đủ thứ, từ củ hành, mớ rau, dầu lửa, nước mắm, thậm chí đến nhựt trình cũ, bánh bẻng, xi rô, nước đá.  Người trong xóm, ai mua thiếu mua chịu, chú bán hết.  Được cái bà con kẹt thì thiếu, chừng kiếm được chút nào là trả bớt, chớ ít ai chịu quịt luôn.  Chú có bà vợ mập thu lu, bà con gặp khen “ nị, hủ leng “ thiếm mừng lắm, cười rỏn rẻng.

Đứa con gái chú cũng vào hạng có sắc, người nào ưa thì lăng xăng trêu ghẹo, người nào không có ý tình thì giỡn chơi “ ngộ ái nị, tắc hầm tắc “ bị con nhỏ liếc cái nào cái nấy thiếu điều muốn lọt mương.  Khách vô mua hàng, nghe gia đình chú nói chuyện với nhau cứ ngỡ là đám cãi nhau, có người hỏi, chú hề hề cười “ người tào tui dị, hổn phải oánh lộn đâu “.

Cái xóm khi không lọt một nhà người Tàu vô líu la líu lô nghe cũng vui.  Thét rồi coi nhau như cùng một gốc.  Đối với gia đình ông già Khản, chú Xồi có nương nhẹ hơn.  Biết ổng hay nát rươu, bà vợ cằn nhằn, nên bọn nhỏ ra mua chú bán liền, chỉ qua bữa sau là bà già hết giận chính bả lại tới hỏi : bữa hôm xấp nhỏ mua thiếu nhiêu, tui trả.

Ông già nhậu quắc cần câu mà còn nói mẽ : tao nhậu cho đỡ buồn, rồi mai mốt bây coi.  Chả biết bây coi là cái thứ gì, nhưng năm này tháng nọ ổng vẫn tàng tàng như vậy, hổng tấn hổng thối gì hết.  Ổng ngồi nhậu một mình thì thôi, còn hễ thoáng thấy ai đi ngang là hét : vô làm một ly rồi đi tụi.  Có lần ổng líu lưỡi nói ngược trật lất, “ làm một ly “ thì ổng biểu là “ lì một lam “.  Thây kệ ổng, dân chòm xóm ai cũng hiểu hết.  Có điều ai ưng đến với ông và tham gia vô bàn tiệc với ổng hay chăng, mới là điều đáng nói..

Khứa Tiên ở liền sau nhà ổng.  Tội nghiệp khứa trẻ người non dạ nên sợ ông bằng chết.  Hễ bị ổng sên là bắt uống tới bò lê bò càng.  Uống đến xoay mòng mòng, cái đầu cà ngúc cà ngắc mà ổng hổng tha.  Một hai ổng dọa đòi úp ly ăn vạ.  Trò đời mấy cha tự nhận “ là con Ngọc Hoàng “ rất kỵ chiện úp ly.  Vì úp cái ly xuống là coi như dứt tình dứt nghĩa, dứt nợ dứt nần.  Nữa sau nhà ai có cháy, vợ ai có bịnh, con ai có nguy, cũng kệ muốn xử ra sao thì làm.  Ổng hổng khi nào còn bước tới hỏi thăm hay đỡ đần nữa.

Phương chi khứa Tiên lại ngấp nghé cô Xỏn, con gái ổng.  Điều này chính ổng khơi mào với khứa do một lần chộp được bắt nhậu.  Ổng nói đứa nào muốn làm rể tao phải uống cỡ cha vợ, tao mới nghe.  Còn không (ổng xua tay rào rào) đi chơi chỗ khác.  Khứa Tiên lúng túng, trai nào muốn vợ mà chẳng phải o bế ông già tía.  Huống chi cô Xỏn cũng đã ỏn ẻn thưa với anh : tía em say nói ồm oàm vậy thôi, chớ ổng tận tình tận nghĩa lắm.  Đây rồi anh dìa ở rể mới thấy ổng lo lắng hết mình.

Có lần khứa Tiên sang chơi, ông già bận đi đám, bà già gom lời vô : nè mày đừng mau mắn xề vô ổng mà hư thân mất nết đó nghe.  Ổng quá đát rồi, buồn thỉu buồn thiu vì tình đời, thế sự nên làm nư mượn ba sợi cho quên.  Mày con trẻ, đừng bắt chước mà mang đọa.  Tao lỡ rồi, ở với ổng chừng này mặt con, sắp rủ nhau xuống lỗ hết trơn , hổng lẽ bỏ nhau cái rụp mà đi.  Chớ nhiều lúc tao chịu đời hết thấu.  Chẳng qua tại tao nợ chả nhiều đời nhiều kiếp, trả hoài hổng hết, bây ơi.  Chả nắm áo tao trèo trẹo, hồi tao đau nằm một chỗ mong chết phứt cho rồi, chả cứ bò vô năn nỉ : tui hối hận rồi, bà đừng bỏ tui nhen.  Tao bắt ổng hứa đừng lai rai ba sợi nữa, ổng sợ tao chết, ổng gật ào ào. Chừng tao mạnh mạnh, chả quên trớt.  Thì bởi số tao nợ chả mà.

Cô Xỏn nghe má kể tội tía cản ngăn : chèn ơi, má sao kỳ.  Anh Tiên qua chơi mà má đi khai hết tật xấu của tía.  Ảnh sợ rồi hổng dám xin cưới con sao má.  Cổ nói gọn bâng, như người ta ăn cơm rồi chiêu ngụm nước.  Khứa Tiên không có ý đồ đó, cổ biết chắc vậy, nên nói cho vui miệng làm quà.

Có kỳ ông già Khản nhậu điếc điếc rồi, chợt nhớ tới anh con rể tương lai, kêu xổng cô Xỏn đi kiếm bắt khứa về.  Con gái cũng ba chưn bốn cẳng dọt, nhưng tìm được Tiên rồi thì xúi anh đi biệt vô rừng đi, chờ tối hãy dìa.  Bữa đó, khứa đi mỏi cẳng, buồn tay buồn tình hổng biết để đâu, trời tối mò lết bết về, phải đi vòng lối sau để ông già vợ khỏi thấy.

Cô Xỏn cũng nhóng chờ nên gặp anh ra dấu là ổng say ngủ rồi và nhỏn nhoẻn cười làm duyên với anh.  Khứa đi cái rột vô nhà mà còn len lén liếc cô Xỏn lâu lâu một chút.  Bất ngờ khứa sụp cái hố, loạng choạng muốn té, cô Xỏn cười rũ rượi, mặt khứa đỏ bừng vì thẹn.

Hồi trước, ông già Khản đâu có bết bát vậy.  Chẳng qua, làng buộc ổng ra nhận chức xã trưởng, ổng từ chối hoài hổng được, nên đi đâu cũng xách củ triện theo.  Bạ đâu ổng cũng sẵn sàng ghi lời phê và đóng dấu cái cụp, không hạnh nẹ, hay làm khó làm dễ ai bao giờ.  Dân thường khen ổng chịu chơi.  Đến thời đổi thay, người ta bắt ổng đi cải tạo, vô trại người ta bắt làm tờ khai lý lịch.  Ổng làm tới làm lui mà vẫn bị chê chưa đạt yêu cầu, người ta đòi ông phải khai lý do vì sao nhận làm Xã.  Ổng nói hết ý mà họ hổng tin, bất nhân là có cái thằng hồi xưa xin ông chứng nhận là nó đậu bằng gì đó, ổng đòi xem bản chánh, nó hổng có, ổng không ký, thời thế chuyển dời nó tố ông lung tung.

Ông ở tù lâu bằng chết.  Được thả ra, ông ngơ ngơ ngáo ngáo.  Ở tù ổng bị người ta hành, về nhà ông hành vợ con trả thù.  Sanh tật lai rai ba sợi từ đó.  Tay khu vực lâu lâu tạt ngang hỏi sương sương : nghe nói chú Ba dìa o ép thím quá xá, coi chừng người ta kiểm điểm đưa vô trại lại nghen chú.  Ông nghe lỏn tỏn cười ruồi, nói năm điều ba chuyện cho tay “ cá “ bỏ đi.  Sau đó ông hăm he vợ con : đứa nào bép xép tâng công tao đập bể mỏ.

Ổng mượn ba sợi để lắng nỗi buồn, thét rồi trở thành người điếc hết sợ súng.  Các tay khu vực đổi thay nhau thét cũng lơ là cho qua, mục đích họ còn lo ba chuyện kiếm ăn trọng đại hơn, hơi đâu chấp nê ông già say vì thời cuộc.

Hồi có tin được chấp thuận cho ra đi, ông già Khản nôn lắm.  Bàn bạc với vợ thì bà kêu lấy tiền đâu lo lót mà tính chuyện trên trời.  Ông càng thất chí dữ hơn, càng đắm chìm vào cái be cho quên, quên hết.  Lần lần thời buổi cũng dễ dãi và nhạt đi, các giới chức đổ xô vào những nơi có tiền để hoạch họe, chớ còn gia đình ông còn gì đâu mà họ để mắt tới.

Ông già Khản không làm vương làm tướng ngoài xã hội thì về làm láo ở gia đình.  Ông nẹt vợ, nẹt con, thậm chí khứa Tiên chưa là rể mà ổng cũng nạt ngang để lấy uy.  Cô Xỏn có khuyên can thì ổng la rầm lên : chưa chi mày đã binh chằm chằm nó, ờ phải mà, chồng mới lo chớ cần lo gì tới tao.  Cô Xỏn một hai thưa : tía à, tía say rồi.  Ông già Khản càng la lớn hơn : ờ tao say còn biết gì, chỉ có thằng Tiên là tỉnh, hèn gì mày coi nó trọng hơn tao mà.

Cô Xỏn lắc đầu quầy quậy, chịu thua nước buộc tội của tía.  Cô lảng lảng bỏ đi, ông già Khản mất đối tượng cũng rỏn rẻn êm cho rồi.  Ông loạng quạng định lết ra quán chú Xồi, nhưng chưn ông bết bát quá, đi không vững nên cà ịch cà đụi chun tuốt vô đánh một giấc cho xong.  Bà vợ thấy ông xìa xìa cũng tránh né để ổng khỏi câu mâu với bà nữa.

Chỉ một loáng nghe ông ngáy như sấm.  Hơi thở ông phì phì như bễ lò rèn.  Ông ngủ mê mà miệng vẫn rền rền : tao hổng say, tao hổng say.  Bấy giờ, bà vợ và sắp nhỏ mới bắt đầu đi dọn dẹp chén, chai của ông.  Trăm lần như một, không hề kêu ca, cằn nhằn.  Cô Xỏn rắp tâm binh vực tía nên nói nịnh má : con thấy chưa ai có phước như tía.  Ổng nhậu tới bến mà má hổng rên, trái lại còn lo cho tía hết mực.

Bà má nghe con gái khen cũng hãnh diện, nhưng còn làm ra vẻ e lệ : chớ hổng lo, ổng có chịu để yên cho má con mình đâu.  Chả thua thịệt ngoài đời nên thua me gỡ bài cào với má con mình.  Và để lấp liếm cho qua, bà hối mấy nhỏ : tụi bay lo làm tới đi, còn đi nghỉ một chút.  Chiều chả dậy lại hét dọn bàn cho chả bây giờ.

Gia đình ông già Khản như vậy đó.  Ông nhậu như trâu uống nước, say lặc lè mà vắng rượu là nhớ.  Nhậu rồi cũng bày đặt xổ thơ, ông cất giọng ngâm nhừa nhựa : sự đời một cục rối tinh, lai rai ba sợi buồn tình nản ghê.  Nặn mãi mới được một câu có vần có nhịp, ông tỏ vẻ hài lòng.  Đi đâu, hay nhậu với ai ông cũng đem ra khoe.  Riết rồi ai cũng thuộc, ổng vừa cất lên gần hết câu thì cả bọn nhập vô đồng thanh như hát điệp khúc cuối buồn tình nản ghê, tiếng người cao kẻ thấp, ồ ề, chộn rộn hết nói.  Vậy mà vui.

Ma đói

Note: Viết theo lời kể của một sỹ quan chiến tranh chính trị(CTCT) thuộc sư đoàn 23BB, đồn trú tại thị xã BMT tỉnh Đắc Lắc . Bài này cũng được gợi hứng do lời reply của Tha Hương về bọn ma đói về quấy phá một trại cải tạo tại Bầu Lâm, Xuân lộc!

Tam Tang

Tôi tốt nghiệp trường Sỹ Quan CTCT Đà Lạt vào đầu mùa Thu 73 với cấp bậc Thiếu Úy! Được cử về đại đội 23 CTCT thuộc sư đoàn 23 BB. Trang trại của đại đội nằm sau lưng Tiểu Khu Đắc Lắc và kế bên một nghĩa trang Quân Đội! Bên kia đường, đối diện với nghĩa trang là một xóm nhà dân thuộc khu Trần Hưng Đạo! Trại tôi gồm có 3 dãy nhà dài dùng làm văn phòng và kho chứa các tài liệu! Chúng tạo hình chữ U với đáy dựa về hướng nghĩa trang! Ở dãy nhà này có một gian được ngăn làm hai buồng cho các sỹ quan độc thân ở hoặc sỹ quan trực ngủ qua đêm! Cuối dãy là một nhà bếp nhỏ dùng để phục vụ cho các sỹ quan và hạ sỹ quan độc thân của đại đội!

Tôi là sỹ quan độc thân duy nhất trong đơn vị nên chiếm một căn phòng cho mình. Cơm nước đã có nhà bếp lo; quần áo thì cuối tuần đưa ra tiệm giặt ủi thế là xong! Cuối tuần tôi hay lang thang ra phố uống cà fê, rồi ghé vào rạp Thăng Long xem chiếu bóng! Thành phố Ban Mê Thuột (BMT) nhỏ lắm, đi vòng vòng chừng nửa tiếng là lại về chổ khởi hành rồi! Có năm rạp hát cả thảy, nhưng tôi thích xem ở rạp Thăng Long vì ở đó chiếu phim của Mỹ hay Pháp, còn các rạp khác chỉ toàn phim kiếm hiệp Hồng Kông mà tôi chúa ghét! Thỉnh thoảng có ngày nghỉ, tôi thường đến ngồi dầm tại quán cà fê "Mây Hồng" bên hông trường trung học Tổng Hợp BMT để ngắm các tà áo dài xanh của các cô nữ sinh sau giờ tan trường!

Tuy BMT và Pleiku cách xa nhau hơn trăm cây số, nhưng hai thành phố gần giống như nhau, cũng bé như nhau, có sương mù, có gió lành lạnh! Tôi thấy bài hát của Phạm Duy về em gái Pleiku má đỏ môi hồng cũng có thể áp dụng cho cái xứ "Buồn Muôn Thủa" này!

Mấy ngày đầu mới về đơn vị, tôi phải lo các thủ tục giấy tờ, lo dọn dẹp chổ ăn chổ ngủ, rồi lại phải nhậu mấy chầu với các sỹ quan đàn anh trong đơn vị ! Tôi mệt nhoài người nên đêm về ngủ như chết! Tuần sau mọi việc đã đâu vào đấy rồi thì những sự việc lạ bắt đầu xảy ra, gây cho tôi sự chú ý! Vào nửa đêm 30, trời tối đen! Gió thổi thì thào mang theo cái lạnh cao nguyên xuyên qua các kẻ hở của vách ván vào tận trong phòng! Tôi co rúm người trong chiếc chăn nhà binh! Bổng tai tôi nghe tiếng reo hò, tiếng đánh nhau hòa lẫn cùng với tiếng gió phía sau dãy nhà! Tôi tự nghĩ sao ai lại đánh chửi nhau vào giờ này kìa! Tôi hiếu kỳ mở cửa bước ra xem! Ngoài trời vắng lặng, chỉ có tiếng côn trùng rả rích và ánh sáng của mấy con đom đóm lập lòe đó đây! Tôi bước tới vọng gác trước cổng hỏi người lính canh:

_ Anh có nghe thấy gì không?

_ Không! Không có gì xảy ra cả !

Tôi trở về phòng tự trấn an, có lẽ mình tưởng tượng ra mà thôi! Rồi như các chàng thanh niên trẻ khác tôi lăn ra ngủ say cho tới tiếng kẻng báo thức nổi lên với lăn xuống giường chuẩn bị cho một ngày làm việc mới! Đêm sau, tiếng con cú mèo (có nơi gọi là chim heo) kêu éc éc trong nghĩa trang sau nhà làm tôi thức giấc! Và tôi lại nghe tiếng hò hét, tiếng chửi nhau, rồi tiếng đánh nhau vang dội sau nhà ! Tôi lần xuống giường, ghé mắt vào kẻ hở trên vách nhìn về hướng nghĩa địa, chẳng có ai cả ! Tiếng động cũng im bặt ! Chỉ có một con cú mèo đậu trên đỉnh của cái tháp "Tổ Quốc Ghi Ơn", và mấy con đom đóm bay vờn vờn trên các ngọn cỏ bông lau mọc ven rào của nghĩa trang!

Tôi không nghĩ là mình nghe lầm hay tưởng tượng ra! Lần này là lần thứ hai tôi nghe mà! Tôi đợi một lát nhưng chẳng có gì xảy ra nữa!

Trở về giường tôi trằn trọc nghĩ về điều này và tự nhủ là nhất định phải tìm hiểu sự việc này!

Sáng hôm sau tôi hỏi một sỹ quan trong đại đội về việc này, anh ta hơi biến sắc nhưng cố đổi giọng nói:

_ Làm gì có chuyện đó!

Xong anh ta quay qua chuyện khác! Điều đó chỉ làm cho tôi thêm nghi ngờ mà thôi! Tôi hỏi một vài người lính họ cũng ởm ờ và lảng qua chuyện khác!

Hình như mọi người cố tránh nói về sự kiện này! Không thỏa mãn với bạn đồng ngũ, tôi quyết mang chuyện này đi hỏi những người dân quanh đây!

Cuối tuần đó khi mang quần áo bỏ giặt ủi, tôi bắt chuyện với bà chủ tiệm. Bà ta chừng khoảng 40, người Quảng nên giọng nói hơi khó nghe, nhưng tôi hiểu hết các điều bà nói! Khi nghe tôi hỏi về sự việc tôi trải qua hai đêm liền, bà ta trầm giọng trả lời:

_ Ông mới vềnên không biết thôi, chứ ở đây ai cũng rành về mấy con ma ở chổ trại ông ở hết trơn! Mấy ông lính cũng biết rành hết chứ! Có lẽ mấy ổng không muốn ông hoang mang hay sợ nên họ giấu ông đó!!

_ Xin thím kể cho tôi nghe đi! Tôi không sợ đâu!

_ Được rồi nếu ông không sợ thì tui kể đầu đuôi cho ông nghe!

"Chuyện này bắt nguồn từ năm 68 lận! Đêm 30 Tết năm đó VC đánh vào thị xã BMT, chúng tổng tấn công vào

hầu hết các căn cứ quân sự và hành chánh trong thị xã! Từ phi trường Phụng Dực đến bộ chỉ huy trung đoàn 45 tại cây số 5, cả đến bộ chỉ huy sư đoàn 23, luôn cả tiểu khu Đắc Lắc lẫn Tòa Hành Chánh tỉnh, và cả kho đạn Mai Hắc Đế nữa! Tuy hầu hết lính đã đi phép Tết, những người còn lại vẫn chiến đấu rất dũng cảm! Họ đẩy lùi mọi cuộc xung phong của VC vào các căn cứ của họ! Vài tuần sau khi tàn cuộc chiến, bọn VC để lại mấy ngàn xác chết quanh vòng rào các căn cứ quân sự! Xác chết sình thúi rất ghê tởm! Lính công binh phải dùng xe ủi để đào các hố lớn làm mồ chôn tập thể cho các xác chết này! Tui biết vài chổ như một ở Trung Tâm Tình Thương, một ở trại Mai Hắc Đế, và một chổ ở cạnh bên nghĩa trang quân đội! Tui không biết mấy ông lớn nghĩ sao mà lại cho cất trại lính ngay trên cái mồ tập thể đó! Tui nói cái trại của ông đó, ông Thiếu Úy à!

Từ khi có ngôi mộ tập thể đó dân chúng sống dọc theo nghĩa địa bắt đầu bị quấy phá! Lúc đầu thì họ chưa biết gì hết! Thỉnh thoảng đêm đến có vài người ăn mặc rách rưới gỏ cửa xin cơm ăn, nhưng riết rồi người ta nghi ngờ vì toàn là người lạ mặt nói đặc tiếng Bắc không thôi! Họ nghi là ma nên không mở cửa cho ăn nữa! Nhưng rồi bọn ma đói đó làm tới! Không cho thì chúng quậy! Nhà nào còn cơm nước thừa qua đêm đều bị quậy thiu vữa hết! Bà con sợ mấy con ma này nên kẻ thì xin bùa về treo trước cửa, người thì lấy nước phép về rẩy khắp nhà trước khi đi ngủ! Bọn ma càng ngày càng lộng hành! Chúng kéo nhau nhát những người đi chơi khuya về! Riết rồi chẳng ai dám đi ngang nghĩa địa vào ban đêm nữa! Bà con mời thày cúng về nhờ mấy người lính chôn trong nghĩa trang quân đội gíup họ xua đi bọn ma đói kia! Từ đó bà con không còn bị phá nữa, nhưng những người nhẹ vía sống gần đó vẫn thường nghe tiếng la hét đánh nhau vào những đêm tối trời! Có lẽ hồn của các anh lính chận đánh bọn ma đói mò đi kiếm ăn! Một vài người trong trại ông cũng nghe tiếng la ó đó mà! Đó là lý do mà không có ai chịu ở trong trại của ông hết, họ sợ nên mướn nhà riêng để ở hết trơn!"

Tôi về trại đem chuyện này nói lại với anh nhà bếp, anh ta ngập ngừng một chút rồi nói:

_ Chuyện này có thiệt đó Thiếu Úy ạ ! Ông mới về nên chúng tôi không dám nói sợ Ông hoang mang!

Ngay cuối tuần đó tôi đi mướn một căn nhà nhỏ ở sau Ty Ngân Khố thuộc khu Trần Hưng Đạo, nhà cũng gần trại của tôi! Từ đó tôi chỉ ở lại trại

vào những đêm trực mà thôi! Tuy thế âm thanh của những tiếng reo hò đó vẫn ám ảnh tôi cho đến ngày nay!!!!

Tiếng cười của hắn vô tình như tiếp thêm cho quyết định của nàng. Nàng vùng dậy. Đúng lúc thằng đàn ông nhồng nhỗng bước vào phòng, nàng lao ra. Bất ngờ, không kịp tránh, nàng đẩy mạnh và băng qua mặt hắn. Hơi sững lại, mới đầu hắn tưởng cô vợ đùa, nhưng thấy nàng giật cửa vọt ra ngoài. Sự việc diễn ra quá nhanh làm hắn đứng ớ ra độ mươi giây, rồi như là bản năng, gã vọt theo vợ. Trong đầu hắn sùng sục ý nghĩ: Cô có biết, đám cưới này nhà tôi chi hết bao nhiêu không?./.

Cậu ông trời say

Quê gốc tôi ở Hà Nam, nhưng sinh ra, lớn lên bên bờ sông Luộc, địa phận đất Hải Dương, nên coi nơi đây là quê hương của mình.

Kỷ niệm của tôi về dòng sông, vào mùa nước đông ken, vờ vờ chơi vơi bay trên mặt sông. Sau đợt rét đậm, sẽ có ngày thời tiết ấm ấp. Vào những hôm như vậy, buổi sáng sương mù giăng trên sông. Đi bên sông cảm giác như ta bồng bênh trong mây.

Không trung trên mặt nước những con vờ vờ bay lượn. Vờ vờ to bằng độ con châu chấu, trắng muốt. Thấy bảo, có người bắt vờ vờ về ăn - món vờ vờ rang. Chắc chẳng ngon nghẻ gì. Thế nên, vùng quê tôi có thành ngữ: xác như vờ vờ.

Vào những hôm sương mù, bọn trẻ phố tôi đi học, chúng cứ men theo mép nước đến trường. Đường xa hơn đấy, lũ trẻ vẫn chọn con đường đó. Bởi chúng còn nghịch ngợm và xem vờ vờ bay.

Trên sông, sáng sớm, vờ vờ khoẻ, dập dờn lượn. Sau bay lượn mệt, chúng sà thấp dần, chao đảo, có con rớt xuống nước, rồi vùng vẫy, cố cất mình lên. Dưới sông, đàn cá mương hau háu đớp bóng, quẫy đạp, chờ đợi… Mặt trời cao dần, ánh nắng chiếu rọi, cũng là lúc vờ vờ đuối sức, rớt xuống mặt nước, mà không cất mình lên nổi. Đám cá mương chầu chực, lúc này xúm lại.

Nhìn những con vờ vờ xấu số, bị lũ cá mương đớp rỉa, thân mình tả tơi, để cuối cùng mất dạng dưới làn nước mùa đông lạnh giá. Nghĩ mà thương!

Mặt trời cao dần, không còn con vờ vờ nào nữa. Mặt nước sông chỉ còn những cánh trắng mỏng mang, dập dờn trôi. Đàn cá mương cũng kết thúc cuộc săn mồi, lặn mất tăm.

Dòng sông mùa đông ken, nước lững lờ. Nếu không có những cánh vờ vờ mỏng mang, lơ vơ, ai mà biết được, trên sông vừa xảy ra cái quy luật khắc nghiệt của tạo hoá… Con vờ vờ yếu đuối là một mắt xích của chuỗi sống tự nhiên và để lại trên thế gian bụi vết sinh tồn.

Nhà tôi ở bên bến đò Ảnh. Bến đò nằm ở ranh giới mấy tỉnh con gà gáy nghe tiếng. Ngã sông được tạo ra trước năm 1284. Cuộc chống quân Nguyên Mông lần thứ hai, Trần Hưng Đạo đóng quân dọc lưu vực sông Hoá. Trong cuộc hành binh, có câu chuyện cảm động. Khi vượt sông, con voi chiến chở Trần Hưng Đạo bị sa lầy, mãi mà không cứu được. Nước sông dâng cao dần, voi rống lên, nước mắt ròng ròng, vẫy vòi vái chủ. Sau này bên bờ sông, dân lập đền thờ Ông Voi.

Sông Hoá nối vào sông Luộc. Lúc ấy hệ thống sông Luộc, sông Hoá tách biệt với sông Thái Bình. Trần Hưng Đạo thấy thuyền từ sông Luộc phải qua sông Hoá, rồi ra gần biển, mới vào được sông Thái Bình, quyết định đào nối hai hệ thống sông trên. Vậy nên nay sông Luộc mới nối được với sông Thái Bình.

Đối diện quê tôi, bên kia sông là Vĩnh Bảo, một vùng quê có đặc sản nổi tiếng một thời, thuốc lào. Mấy ông nghiện thuốc, ai chẳng hay câu:

Nhớ ai như nhớ thuốc lào

Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.

Cây thuốc lào cao cỡ hơn mét. Lá to bằng cánh cái quạt trần. Phải so sánh vậy cho nhiều người dễ hình dung. Thuốc lào mỗi vùng có sự khác nhau. Thuốc lào vùng núi thường mỏng, sợi nhỏ và màu vàng nhạt. Riêng thuốc lào anh Vĩnh Bảo, sợi dày, màu đậm.

Dân vùng thuốc, phụ nữ hút là chuyện thường, chồng hút, vợ hút, bố hút, con hút, nam thanh nữ tú cùng hút, cứ điềm nhiên rít, điềm nhiên nhả khói và ngả ngốn say. Sự say thuốc lào đến buồn cười, lại thường diễn ra vào độ sáng sớm. Mở mắt ra, chưa súc mồm súc miệng, dân nghiền đã lôi cái điếu, điếu cày hay điếu bát, nhồi mồi thuốc to cỡ hạt lạc, châm lửa, làm một rít. Thế là say. Say lăn đùng ra đất. Say vật ngửa ra ghế. Người say dãi rớt trào ra miệng, mặt mũi tái đi. Nhưng chẳng sao, một lúc là tỉnh. Nhìn điệu bộ lờ đờ của kẻ say thuốc, trông đến buồn cười. Say như vậy, mà chẳng ai chừa, lại hút, lại say, lại hút…

Nhìn kẻ say thuốc lào đã buồn cười, nhìn con cóc say thuốc lào còn buồn cười hơn. Đám trẻ bắt cóc, vạch miệng ra, tống thuốc lào qua, tống xuống tận tù và. Một lúc sau, con cóc say. Nó đứ đừ, đi không được, đứng không xong, cứ lạng chạng, lắc lư. Chưa kể nó ho, ban đêm, người yếu bóng vía nghe, sợ phát khiếp con cóc say thuốc lào.

Người ta bảo, tang thuốc ngon hút phải đậm, êm,... Mấy bà buôn thuốc, đấu thuốc ngọn với thuốc gốc, thuốc mới với thuốc cũ. Lúc đấu, họ rải từng lớp, rồi chân đất đạp, giẫm, thỉnh thoảng còn phì phì phun nước chè đặc vào thuốc. Dân ăn trầu, lại chả đánh răng, thế mà các ông cứ khen, tang thuốc này ngon, êm và đậm.

Để có anh tang thuốc ngon, êm và đậm, không thể thiếu giống phân bắc. Phân bắc, tức là cứt người. Kinh nghiệm truyền đời của dân vùng thuốc Vĩnh Bảo là vậy, nên họ quý phân bắc lắm. Thời tôi biết, phân bắc được quản hẳn hoi, không có chuyện luân chuyển, lưu thông tự do. Vùng nào quản chặt vùng đó, chính sách rõ ràng. Dưới thời bao cấp, mọi thứ hàng hoá đều được quản lý hết.

Thị trấn hơn năm ngàn khẩu, một phần tư là dân nông nghiệp, sống bằng cây lúa, còn lại ba phần tư dân ăn gạo sổ, hay gọi là gạo bông. Dân ăn gạo bông chẳng cần gì đến phân, nên địa phương tôi, phân bắc dồi dào.

Xin lan man thêm về ăn gạo sổ. Gạo sổ còn có tên là gạo bông. Gọi như vậy có lẽ xuất xứ từ thóc xay ra, gạo để quá lâu đến mục đi, nấu lên nở bung và mùi rất hôi. Thứ gạo này dân làm bún thích lắm, vì bún trắng và làm rất dôi. Ở nước ta cái tên gạo bông có từ thời đói năm Bốn Lăm. Lúc đó chính quyền Pháp - Nhật áp dụng chế độ tem phiếu bán gạo cho dân nội thành Hà Nội.

Sau này vào quãng đầu những năm 1960, thì ta lại áp dụng sổ gạo. Tem phiếu cho đối tượng là dân thành thị, cán bộ công nhân viên, giáo viên, học sinh chuyên nghiệp, công an và bộ đội. Tuỳ theo đối tượng, thấp nhất là các ông bà giáo viên, mỗi người mười ba cân, diện lao động ít tốn sức lực; cao nhất là bộ đội, hai mươi bốn cân, ăn khoẻ thật, ngày tám lạng gạo. Thời đỉnh điểm cả nhà tôi, gồm năm nhân khẩu, được mua năm mươi tư cân, vừa đầy cai chậu sành.

Diện ăn gạo bông mỗi nhà có một quyển sổ, gọi là sổ gạo. Hằng tháng các nhà đến cửa hàng mậu dịch xếp hàng mua gạo. Ai mất sổ gạo là một tai hoạ. Có thành ngữ như mất sổ gạo. Gọi là sổ gạo, nhưng không chỉ có bán gạo, mà còn độn thêm nhiều loại lương thực khác và cỡ từ năm 1965 áp dụng chế độ bán độn. Tuỳ theo vùng, miền, mà độn khác nhau, như ngô, khoai, sắn, mỳ, bo bo. Về mỳ có mì bột, mỳ sợi, đây là lương thực độn nhiều nhất, do ta nhận được viện trợ từ Trung Quốc và Liên Xô.

Ngoài tem phiếu, sổ gạo, thì còn có tem phiếu và sổ mua bán cho các đồ dùng, vật dụng: than, dầu, vải, thịt, đậu, nước mắm, mì chính, đường, xà phòng, rượu, khăn rửa mặt, thuốc đánh răng, nan hoa xe đạp, bi, săm lốp, bát đĩa,… Tuỳ theo cấp bậc, lương bổng, mà chế độ tem phiếu khác nhau, như phiếu vải, thì dân thường bốn mét một năm, còn cán bộ năm mét một năm. Có thời ở một số nơi, khi đăng ký kết hôn, đôi uyên ương được mua chiếc giường và cái màn, còn nếu ai chết, có giấy chứng tử của ông uỷ ban xác nhận, thì đến cửa hàng được mua một cỗ gỗ.

Riêng quê tôi do có nhà máy xay to nhất Đông Dương, nên thêm loại phiếu trấu, tức thóc xay ra, thành gạo và vỏ trấu. Mỗi nhà một tháng được phân phối mười bao trấu. Thôi, tem phiếu rất phức tạp, để các nhà tem phiếu học trình bày.

Quay về việc quản phân quê tôi. Giữa một địa bàn dồi dào phân như vậy, hơn ba ngàn nhân khẩu ăn gạo bông, nhà nhà có hố xí, thì dân quanh vùng sẽ xúm vào cái mỏ đó. Mấy anh trồng lúa đất Thái Bình bên kia sông và mấy xã xung quanh, nhòm ngó cũng vừa vừa thôi. Riêng anh thuốc lào, họ quan tâm nhất. Khổ nỗi, đất Vĩnh Bảo cách sông, cách đò, lại vướng khâu quản lý chặt chẽ, nên việc vận chuyển khó. Mấy anh không cách sông, cách đò, cứ gánh ào qua địa giới là xong. Đêm ngày, sáng tối, lấy cán bộ đâu ra quản cho đủ.

Dù việc quản lý ngặt nghèo, con đường vận chuyển khó khăn, phân bắc vẫn lén lút bị chuyển từ quê tôi sang Vĩnh Bảo. Cửa ngõ tiếp tay cho hành động phi pháp kia là cai bến đò Ảnh. Vì bến đò trước nhà tôi, nên bao lần, tôi mục kích, không chỉ thấy, mà cả xóm còn phải ngửi thứ mùi phân thum thủm. Vào mùa cao điểm, tức là lúc thuốc lào cần phân, dân vận chuyển lậu tập trung thu gom và vận chuyển.

Cũng lạ, quản lý chặt chẽ, khít khao vậy, mà họ vẫn thu gom, vẫn vận chuyển được. Bảo cái kim, sợi chỉ, giấu trong túi quần, túi áo, thì bí mật được. Đằng này, nó chình ình ra đấy, vận chuyển phải bằng gánh, bằng sọt, rồi sức người quần quật, nhất là cái mùi thối hoăng lên của nó, thế mà họ vẫn giấu được. Thật tài tình! Cứ mỗi người một gánh, khối lượng không dưới năm mươi cân, tập kết về bến đò Ảnh.

Khoảng bảy, tám giờ tối, nơi bến đò tập kết, mỗi chuyến khoảng hai chục gánh. Tại sao phải tập kết đông vậy? Không thể một gánh, mấy ông nhà đò chở sang luôn. Phải đông mới bõ chuyến, đủ phí trả ông đò. Điều nữa là ông đò không sức đâu chuyển ngay thứ hàng lậu, hàng phi pháp kia, họ cứ để đó ngâm, cho cánh vận chuyển đủ lo sợ, sợ như cậu ông trời, lúc thu tiền, đỡ kèo nheo.

Ông nhà đò nhiều khi làm phách, lại làm phách quá đáng, dẫn đến cảnh khó coi. Đó là những hôm khách hàng tập kết đông đủ, nhà đò vẫn chưa chịu sang. Đôi co lời qua tiếng lại, ông đò nổi xung, cứ gánh, sọt hất tung. Thật kinh khủng, phân tro bừa bãi. Của đau con xót, mấy người mất của phải thu gom lại, thu bằng tay. Dù xót xa đến mấy, cũng chả ai gom hết được. Những lần như vậy, dân xóm bến đò được cả đêm ngửi, rồi ngày hôm sau, khách qua đò chịu trận. Họ lại đem lũ chuyển phân lậu đêm qua ra chửi.

Quê tôi có một bà, tôi tránh gọi tên tục của bà này ra, chỉ tạm đặt cái tên là N. Bà N làm công việc thu gom phân bắc. Cứ như bây giờ ta gọi là chủ gom hàng. Làm cái nghề này, bà ta biết hết hộ nào, cơ quan nào trong thị trấn có nhà vệ sinh. Dân phố thị cơ bản sống bằng buôn bán, nên thứ phân bắc kia, chả nhà ai dùng.

Bước sang thời kỳ làm ăn tập thể, khi người ta quản, sẵn cầu mà hiếm cung, hàng hoá thành có giá. Giá của phân, một gánh là ba đồng, tương đương hai cân gạo. Vậy là nhà ai cũng giữ. Trong bối cảnh vậy, muốn có hàng, bà N phải tìm đủ cách. Về thu gom, bà N có hai cách chính:

Thứ nhất là mua của từng nhà, mua rẻ, bán đắt, hoặc làm phân giả. Bảo bây giờ mới có hàng giả, chứ thực ra không đúng. Manh nha làm đồ giả có từ lâu rồi, đến cái bà N quê tôi, hồi còn bao cấp đã làm hàng giả. Bà hoà nước, rồi độn đất sét, cứ hai gánh chộn thành ba, phân vẫn thối, vẫn đặc và màu vàng tươi, ai thẩm định nổi, giả thật.

Cách thứ hai là bà thuổng.

Đồ nghề của bà N là đôi quang sọt và hai rẻ xương sườn trâu, nó dùng để múc. Lắm lúc vội, bà vốc thẳng bằng tay. Một lần bà thuổng, bị chủ nhân bắt được. Lần đó vào khoảng đầu năm 1964, bà mò vào trường cấp hai, ngôi trường ở giáp sau nhà tôi. Trong lúc bà đang thuổng, thì ông giáo tên là Long bắt được.

Trộm cắp bị bắt quả tang, tưởng hết đường chối cãi, vậy mà bà N vẫn lý sự:

- Ông giáo ạ! Cứt này ... bỉ ban ra quyết định rồi. Các ông, bà giáo diện ăn gạo bông, gạo do Nhà nước cấp, nên cái này thuộc về Nhà nước quản.

Lý như vậy đúng quá, ai cãi được. Mà cãi thì lên ông uỷ ban mà cãi. Có mấy bãi phân, các ông giáo, bà giáo rỗi hơi lên cửa quan, đành cho qua. Đám phân ăn trộm được thoát hiểm.

Trường cấp hai có khu vườn cây khá rộng, trong đó trồng nhiều chuối. Lũ trẻ con quanh trường thường trèo sang chặt trộm chuối, rồi giấm ngay trong vườn trường. Chúng đào hố, vùi chuối xuống.

Một lần tôi và thằng em họ mò sang. Chúng tôi khôn lỏi, không chịu chặt, dấm chuối, thỉnh thoảng nẫng tay trên của đám kia. Thằng em tôi nhanh mắt, phát hiện ra cái hố, dù được xoá dấu vết cẩn thận. Nó hăm hở móc tay, luồn sâu xuống. Bất ngờ, thấy nó rút vội lên. Eo ơi, bàn tay nhoe nhét và thối. Hoá ra nó móc phải hố phân giấu trộm của bà N, bà thuổng từ nhà vệ sinh của trường.

Vạ lây cái hồn ma

    Nước Việt ta sao lắm chiến tranh. Dân Việt hiếu chiến ư? Quân Mông Cổ đòi mượn đất Việt sang đánh Chiêm Thành; đế quốc Mỹ hạm đội giăng khắp bốn biển, năm châu, bảo ta dùng cái tàu ọp ẹp ra gây sự với chúng; còn Nhật, Pháp nữa,... toàn cái lý cùn của kẻ mạnh. Có năm châu, thì đế quốc ba châu, từng sang giày xéo nước ta, lính; thì đủ sắc tộc: Á, Âu, Phi, Mỹ, Úc kéo sang đánh hôi.

Riêng một huyện như quê tôi, từ kháng chiến chống Pháp tới nay đã hy sinh tới 3.999 liệt sỹ. Nếu cả nước, chỉ cần tính trên năm trăm quận, huyện thôi, thì riêng binh sỹ một phía, thiệt mạng tính toán tới hai triệu người, chưa kể dân thường và binh sỹ phía bên kia và hàng triệu nạn nhân trong trận đói bốn lăm. Số người chết là bao nhiêu triệu người?

Thời kỳ đầu cuộc ném bom của không quân Mỹ, gia đình tôi sơ tán đến làng Rùa, làng nửa lương, nửa giáo, thuộc huyện Tứ Kỳ. Nhà có mẹ và ba chị em tôi sơ tán, còn cha tôi là dân quân, nên ở lại nhà. Chủ gia đình tôi sơ tán tên là vịnh, vợ chồng rất tốt tính, họ dành cho mẹ con tôi hẳn ba gian nhà ngang.

Vợ chồng ông bà chủ có hai người con. Tôi nhớ: chị Gái và thằng Ghẻ. Chị Gái hơn tôi ba, bốn tuổi, còn thằng Ghẻ xấp xỉ tuổi tôi. Nó được gọi tên ấy vì người ghẻ kềnh càng. Một điều nữa ở nó là mũi lúc nào cũng thò lò xanh lẹt. Ngày ấy trẻ nhỏ thường mũi xanh thò lò.

Bà chủ nhà rất quan tâm đến gia đình tôi. Nhà có món tươi nào, như con cua, mớ cá bắt được trong buổi làm đồng, bà đều san sẻ cho, không chí ít, thì bà gắp đĩa rau muống sang. Mẹ tôi nhiều lần từ chối, mà không được.

Trong đám tài sản sơ tán của nhà tôi có chiếc tủ đứng và chiếc đồng hồ côn là quý giá nhất. Sợ va đập, bố tôi lấy gỗ đóng kín, che tấm gương chiếc tủ lại, còn chiếc đồng hồ, treo ở bên trong. Cứ mười lăm phút một lần, đồng hồ gióng giả bính boong. Mỗi lần gõ chuông, thằng Ghẻ sán lại, áp tai vào cánh tủ, nghe. Như dạng chiếc đồng hồ này, hồi ấy cả thị trấn quê tôi có độ mươi chiếc. Trong dịp sơ tán, chị Huyền, chị gái cả tôi, phải đội nó chuyển hết vùng này tới vùng kia. Vì di chuyển nhiều, nhà tôi đành bán cả tủ gương và chiếc đồng hồ đi.

Ông chủ nhà là cán bộ hợp tác xã nông nghiệp, hình như là phó, hay chủ nhiệm. Sau này ông bị cách chức. Mãi khi lớn tôi mới hay. Có lẽ ông vướng vào công quỹ, hoặc do mâu thuẫn nội bộ, nên bị cách chức. Trước kia ông từng tham gia đội Việt Hùng, một tổ chức thành lập ở vùng tề để thủ tiêu việt gian.

Khi cuộc ném bom của không quân Mỹ chấm dứt, ông bà chủ nhà nơi gia đình tôi sơ tán, thỉnh thoảng đi chợ thị trấn, có ghé vào nhà tôi chơi. Bẵng đi một thời gian, quan hệ hai nhà thưa thớt dần. Chiến tranh qua đi nhiều năm, sự biết ơn, ân huệ phai nhạt.

Quãng sau năm bảy lăm, dân trong vùng nhao nhao tin về vụ đắm đò, chết mấy chục người ở ngôi làng lương giáo kia. Vụ đó lại liên quan đến chủ nhà mà gia đình tôi sơ tán. Sự việc bắt đầu từ chuyện chị Gái đi lấy chồng. Nhà gái và nhà trai cách nhau con sông. Đưa dâu xong, khách nhà gái trên đường trở về, đò qua được nửa sông, bất ngờ xảy ra tai nạn. Đại diện, họ hàng nhà gái bị chết tới mười bảy người, xác vớt lên, đưa về sân kho Hợp tác. Cảnh thật rùng rợn. Trên sân kho, xác người xếp thành dãy.

Trong vụ đắm đò, người day dứt nhất là gia đình ông bà Vịnh. Vì đám cưới con gái, mà họ hàng, dân làng nhiều người thiệt mạng. Ông bà còn day dứt hơn, nhà mình không ai bị gì. Giá như nhà họ cũng có, thì đỡ dằn vặt hơn. Trong tang tóc, có nhà trong làng không kìm nổi, khóc đay nghiến ông bà. Người ta lôi ra cả chuyện ngày xưa, ông từng làm Việt Hùng, hồn ma trả thù, họ bị vạ lây.

Tưởng số phận ông bà Vịnh hẩm hiu đến thế là cùng, đến quãng năm tám mươi, tai hoạ lại ập xuống. Người con dâu - là vợ thằng Ghẻ, một hôm cả nhà đi vắng, nó lôi cậu em chồng, cùng thằng con trai vào buồng, rồi dùng chày giã cua, đập đến chết hai đứa bé. Lúc này dân làng càng xúm vào đàm tiếu. Cô con dâu kia bị những hồn ma, do ông bố chồng giết trước đây, nhập vào, đập chết hai thằng bé. Tang tóc kinh hoàng và trước cả những lời xầm xì tai ác, ông bà sống sao nổi ở quê. Tuổi ngoài năm mươi, họ đành dắt díu nhau rời làng. Nghe nói, ông bà đi kinh tế mới tít tận Sơn La.

Chuyện oán thù, hồn ma với gia đình ông bà chủ nhà tôi sơ tán chẳng rõ thực hư thế nào, nhưng câu chuyện sau đây thật khó hiểu. Ông ta tên là An, Trưởng bến đò Ảnh. Thấy bảo trước từng là đội viên đội Việt Hùng. Bọn trẻ con ở xóm bến đò rất sợ ông bến trưởng. Muốn doạ trẻ, người lớn thường mang ông An ra hù doạ.

Trưởng bến đò An đã có vợ. Vợ chồng đứng tuổi, qua mấy đận sinh, không đậu đứa con nào. Họ là cặp vợ chồng hữu sinh vô dưỡng. Người ta bảo hồn ma lộn vào đấy. Dân xóm bến đò rỉ tai nhau câu chuyện về ông An. Sau nhiều lần mất con, đến lần đó, để nó không lộn được nữa, ông An đem mổ bụng, móc ruột gan xác đứa con do vợ vừa sinh ra. Ông còn lật sấp đứa trẻ, trước khi nhập quan cho nó. Sau lần ấy, vợ ông không sinh nở nữa. Chắc hồn ma không lộn được. Khi tôi lớn, ông An đã nghỉ hưu, thỉnh thoảng còn thấy ông. Ông đi buôn cáy từ Vĩnh Bảo về quê, bán cho dân làm mắm. Cái dáng ông cao lòng còng, hom hem, gò lưng đạp xe cáy, trông cứ tồi tội.

Ước gì cho đến tháng mười

Quê tôi nhiều đặc sản, lại toàn ngon và bổ. Chứ không như nhiều nơi, dọc đường, treo toàn biển phô tinh lợn ngoại, với nhảy lợn giống linh tinh. Có lần tôi đùa, hỏi mấy anh bạn, quê mình nổi tiếng nhất là đặc sản và nghề gì? Ai cũng nhao nhao, bánh gai. Bánh gai thì quá rõ, chả phải nói. Bánh gai quê tôi nổi tiếng cả nước.

Bánh gai được làm từ bột gạo nếp và lá gai. Lá gai khô, ninh nhừ, giã nhuyễn, nhào vào bột gạo nếp ướt, bọc nhân là đỗ xanh luộc chín, giã kỹ, cùng mỡ tươi xắt hình hạnh nhân đã tẩm đường, rồi gói lại bằng lá chuối khô, hấp chín. Thành phần và công đoạn như vậy, nhưng làm bánh gai ngon phải có bí truyền. Hồi Pháp thuộc, bánh gai ngon có tiếng là của các nhà Ngọc Chân, Bếp Bái, Hương Tụ.

Thấy các bạn bình bầu bánh gai, tôi cười: Còn nữa! Mãi mà chẳng ai chỉ ra được. Sau rồi có người tiến cử thêm nhà máy xay quê tôi, vì nó to nhất Đông Dương, mỗi ngày xay được 270 tấn thóc, cung cấp cho dân gạo sổ cả thành phố Hà Nội. Tôi bác: Không đúng. Đã bảo là đặc sản, hoặc nghề cơ. Anh bạn kia vớt vát: Thế cám nhà máy xay, không là đặc sản à? Phố thị trấn lúc nào cũng ngào ngạt mùi cám. Mỗi tháng, công nhân nhà máy ai chẳng sung sướng được phân phối tạ cám, nuôi cả nhà.

- Cám thì quý đấy! Nuôi sống cả nhà. Nhưng ông không sợ, người ta bảo, thị trấn mình là dân cám hấp?

Anh chàng kia tắc tị. Tôi bảo:

- Thế còn đặc sản rươi thì sao?

- Ừ nhỉ!

Quê tôi có câu ca:

Ước gì cho đến tháng mười

Bát cơm thì trắng, bát rươi thì đầy.

Mỗi độ heo may, không hiểu sao tôi lại hay nhớ về quê nhà, về tuổi thơ và thường nghĩ tới câu ca, nhắc đến thứ đặc sản rươi quê mình. Chẳng rõ tôi thuộc câu ca đó tự bao giờ, quê tôi mọi người đều biết. Rươi là đặc sản trong vùng, có nhiều nhất ở các huyện: Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, đất Hải Phòng, cùng Thanh Hà, Tứ Kỳ và quê tôi, xứ Hải Dương. Nơi đây còn câu tục ngữ về lịch rươi: Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm, có nghĩa là, cứ vào hai mươi tháng chín và mùng năm tháng mười âm lịch, quanh ngày đó sẽ có rất nhiều rươi.

Sau ngày đất nước thống nhất năm Bảy lăm, người em ruột của bà nội tôi vào Nam sinh sống từ trước năm bốn mươi, liên hệ với anh em, họ hàng ngoài Bắc, ông nhắn ra, xin món quà - hũ mắm rươi. Chiều ông em sau mấy chục năm viễn xứ, bà chị gái nhân vào chơi đã lịch kịch mang hũ mắm trên quãng đường ngót nghét hai nghìn cây số, giữa cảnh tàu xe chen lấn hồi ấy. Bao năm xa cách, kỷ niệm về quê hương của ông họ tôi, có thứ đặc sản rươi.

Hồi tôi học cấp một, cấp hai, lúc đó kinh tế đất nước còn khó khăn. Chuyện bữa ăn có chất tươi, như thịt con gà, mua miếng thịt lợn là rất hãn hữu. Mỗi dịp như vậy, nó ngang ngày hội của bọn tí nhau. Tất nhiên, ngày rươi cũng là ngày hội đáng nhớ của trẻ vùng quê tôi. Giống rươi thường có rộ trong hai, ba ngày. Vào những ngày rươi, hầu như các nhà đều mua một, hai bát. Quê tôi mua bán rươi không dùng cân, mà bằng bát ăn cơm, đong. Đi ngoài đường, vào tầm mọi nhà nổi lửa, mùi chả rươi, rươi nấu, rươi kho thơm lừng.

Nhớ lại, trưa ấy đi học về, bụng đói meo, cộng thêm trên đường mùi các loại rươi như giục tôi rảo cẳng hơn. Tôi chắc mẩm trong bụng, trưa nay nhà mình có các món rươi tuyệt ngon. Về đến nhà, sục vội mâm cơm, trời... tôi ngó, chỉ thấy đĩa rau muống, bát nước trong veo và bát muối vừng. Mắt tôi hoa lên. Không hiểu mặt mũi rúm ró đến mức nào, mẹ phải dỗ mãi, tôi mới nuốt trôi bát cơm. Ngay chiều ấy mẹ mua đền thằng cún, bát rươi, kỳ cạch nấu nướng. Câu chuyện gần bốn mươi năm rồi, sao tôi không quên?

Vùng quê tôi, độ hai, ba chục năm trước, nếu đào sâu xuống đất ruộng, hay đất ngập nước ven sông, khoảng hơn mét là gặp những con rươi rất dài, sặc sỡ màu xanh đỏ. "Ngày rươi" chính là kỳ sinh nở của chúng.

Vào cuối tháng chín, đầu tháng mười, gặp thời tiết phù hợp, tức có gió Đông Nam, trời âm u và mưa bóng mây, quê tôi gọi là mưa rươi, rươi sẽ nổi lên rất nhiều. Thời tiết vậy thì có rươi, nhưng rất độc, người già thấy khó chịu, mình mẩy ê ẩm, khớp xương đau nhức. Vài ngày trước đó, các cụ thường chép miệng về cái thời tiết rươi và dự báo, sắp có rươi. Song nếu trời lạnh, gió Đông Bắc, hoặc gặp trận mưa rào, gọi là mưa lấp lỗ rươi, "ngày rươi" sẽ mất.

Người ta dùng chiếc lờ chặn dòng nước trong đồng, rươi trôi qua, bị giữ lại. Cách bắt này lẫn cả rơm rạ, cặn vẩn. Một kiểu bắt khác là dùng vợt, hớt từng con. Tuy được ít và mất nhiều công, nhưng toàn thứ rươi mập, tươi và sạch. Rươi được đựng trong chiếc thúng, muốn tươi lâu, người bán chim chim nắm cơm nhỏ, cho vào thúng rươi, hãm chúng.

Chế biến rươi là cả một nghệ thuật với những món khác nhau, như chả rươi, rươi kho, rươi nấu, mắm rươi. Gia vị không thể thiếu là lá lốt. Chả rươi là món đầu bảng. Những món khác như nấu, kho, mắm, thì thêm vỏ quít, lát gừng.

Rươi mua về, dùng đũa gắp tạp vẩn, sau lấy đũa đánh cho nhuyễn, tiếp đó đập quả trứng và thịt nạc băm cùng lá lốt, tí vỏ quýt, hành rồi đánh đều. Khi chảo mỡ nóng già, dùng muôi múc, thả và dàn đều rươi thành lớp mỏng. Nếu để dày, rươi khó chín, ngoài thì cháy, trong lại sống. Ngọn lửa rán chả rươi để lom dom.

Chả rươi ăn nóng, là món nhắm cực ngon, ăn với rau cải cúc, thứ nước chấm chanh ớt pha dịu, thêm tí gừng. Trẻ con, phụ nữ thích ăn chả rươi với xôi. Nên nhớ ăn ở mức vừa phải, bởi đông y xếp rươi vào món ăn có vị hàn - lạnh và nó lại giàu chất đạm, khó tiêu. Chỉ một lần ăn món chả rươi, khó mà quên được.

Đến bây giờ, tuy sống xa quê, nhưng cứ đến mùa rươi, nghe tiếng rao ời ợi ngoài phố, tôi lại bảo vợ mua về, rán chả. Vợ chồng, con cái ăn, ăn vì nỗi hoài niệm quê hương và các con tôi biết về một miền đất nơi cha chúng từng sinh ra.

Không biết có phải thiên vị thứ đặc sản vùng quê mình, theo tôi, mắm rươi là thứ mắm ngon nhất. Rươi được muối trong hũ, cho ít thính gạo nếp rang, giã mịn và chút rượu, đậy nút lá chuối kín, để góc bếp độ một, hai tháng. Khoảng vào Tết là mắm rươi vừa ngấu, đạt đỉnh ngon nhất.

Mắm ngon có sắc đỏ sẫm, sánh quyện. Có nhà khi mắm ngấu, múc ra làm đồ chấm luôn. Còn nếu ai yếu bụng, không dùng được tươi, thì cho tý gừng cùng chút vỏ quýt chưng lên. Vào Tết, hũ mắm rươi vừa độ ngấu, cũng đúng dịp thịt thà nhiều. Bữa cơm có đĩa thịt ba chỉ, hay đĩa thịt chân giò luộc, ăn kèm rau sống, như xà lách, rau diếp, cùng hành muối, khế, chuối xanh thái lát và nhánh hành hoa và không thể thiếu món chấm mắm rươi.

Cửa hàng đĩ

Lại tiếp chuyện tranh luận đặc sản quê hương, anh bạn sau khi đồng ý thêm đặc sản rươi, quay ra tấn công:

- Thế theo ông, đâu là thứ nổi tiếng nữa của quê mình? Trừ cái anh bánh gai và rươi vừa kể ?

- Lói ngọng. Nờ thành lờ, lờ thành nờ. Có bà chửi kẻ kia. Bà ta bẩu, tức bảo nó ăn cái món ấy của bà. Cho ăn mãi, mà nó cứ trơ trơ ra cười. Bởi nó cứ tưởng bà ta mời nó món nộm.

- Bậy! Còn gì nữa?

Tôi thản nhiên:

- Nghề đánh đĩ!

Hát ca trù có từ xa xưa lắm.

Các văn nhân, như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,… từng mê nghe hát và đặt lời cho ca trù. Sau này khi người Pháp sang, vào đầu thế kỷ XX, một số kẻ đem ca trù ra kinh doanh. Họ mở hàng hát cô đầu. Nhà hát cô đầu có đào hát, đào rượu. Nhiều khách tới chơi không chỉ nghe đàn, mà còn nhả nhớt và qua đêm với đào rượu. Phủ lỵ quê tôi chắc xuất hiện quán cô đầu từ dịp người Pháp mới sang. Vậy nghề này đáng gọi là nghề truyền thống của quê lắm chứ, nó có tới cả trăm năm.

Phủ lỵ quê tôi có nhiều phố, tên phố Tây do người Pháp đặt, Rue des Radeaux, Rua des Chanteuses, rue des Objets Vottfs,… nhưng người ta quen gọi với các tên ta: phố Bờ Sông, phố Giữa, phố Cửa Đền, phố Cổng Phủ, phố To, phố Nhỏ, phố To, .... Phố thị còn có hẳn một con phố mang tên Cô Đầu. Chắc cả xứ Bắc kỳ, duy nhất phủ lỵ ở đây có phố là thế. Phố Cô Đầu phục vụ các ông lý, phó lên phủ hầu quan. Trong lúc chờ đợi, họ nghe hát, uống rượu và trốn bà lý, bà phó, với đào rượu qua đêm.

Ngày bé tôi biết một bà cụ tên là Tín, tuổi ngoài bảy mươi. Mẹ tôi bảo, bà này trước kia là cô đầu. Bà ta không phải đào hát, mà là đào rượu, tức là kẻ hầu rượu và hầu cả đàn ông cái khoản kia. Sau khi có lưng vốn, bà lấy chồng, họ chẳng có con cái. Đã làm nghề này, lại làm đến khi có lưng vốn, thì đẻ đái sao được nữa! Mẹ tôi còn kể ra tên khối người, trước cũng hành nghề, mà hành nghề tợn hơn các cô đào rượu, mẹ tôi gọi là bán hàng trắng, tức cái nghề ca ve, như bây giờ chúng ta gọi. Ở phố thị có nhà làm đến hai, ba đời, mẹ làm, con làm, cháu làm.

Chính tôi từng phải lòng một cô bé, gia đình làm nghề đó, truyền thống những ba đời. Hồi ấy dịp hè, tôi sinh viên về nghỉ. Chợt một chiều nhìn qua cửa sổ, tôi sững sờ thấy cô bé chừng mười sáu, mười bảy, đứng như chờ khách người nhà từ bến đò lên. Bé xinh quá!

Từ lúc nhìn thấy em, tôi thẩn thơ như người đang mơ, suốt ngày tơ tưởng em. Em tên là gì, nhà ở phố nào, Bố mẹ là ai? Chiều đó, tôi được mẹ sai mang mấy cân đường xuống giao cho một hàng nước. Phi xe đi phục vụ khách, đến nơi, tôi sững sờ! Đúng cửa hàng nhà bé. Tim tôi rộn ràng đập, về đến nhà còn thùm thụp. Gặp mẹ, tôi loay hoay tìm cách khai thác về cô bé. Đang lòng vòng gợi chuyện, bà thẳng tưng: Mẹ con nhà nó bây giờ cả hai đều bán hàng trắng. Đến nó là đời thứ ba. Nghe mẹ nói, tôi tá hoả, buồn đến cả tuần.

Nghĩ lại cũng may, suýt thì yêu phải em gái làm nghề bán hàng trắng. Các cụ nói, nhiều khi cũng sai. Xem mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo, cỗ lòng mới ngon, có đúng đâu!

Hồi học lớp ba, tôi ngồi cùng bàn với hai cô bé. Gọi là bé, chứ họ hơn tôi một, hai tuổi. Chúng tôi ngày ấy thường học muộn, học trò trong lớp tuổi lỡ cỡ lắm. Tôi tuổi mười hai, còn hai cô kia, mười ba, mười bốn. Tuổi đó con gái đã biết nhiều chuyện, nhất là chuyện ấy. Hai đứa đó quen với một người đàn bà. Chồng chị ta là tài xế xe khách. Hồi đó nghề lái xe ai cũng ao ước. Anh tài bao vợ, chị nàng chỉ ở nhà ăn chơi và phục vụ chồng. Chị này tính khá lẳng.

Lẳng lơ là việc riêng của chị ta. Ác nỗi, chuyện vợ chồng ân ái, chị ta đem tả hết cho hai cô bé nọ. Kể chưa đủ, chị ta còn bố trí cho chúng xem cảnh vợ chồng chị ta hành sự, như bây giờ ta xem phim sex, nhưng đây là sex tươi. Hai cô bé kia xem xong, thích quá, đến mức không thể giấu được để thưởng thức trong lòng, đem ra bô bô kể ở lớp. Tôi con trai, tuổi mười hai, còn quá tồ, nghe chả thấy thích.

Nọc độc của chuyện ấy, hai cô nàng kia hưởng trọn. Một hai năm sau, họ bỏ học, đi làm. Nghe nói cả hai đều sống bằng nghề làm vợ khắp người ta. Họ không làm ở quê, mà hành nghề ở vùng nhà máy điện Phả Lại. Sau một cô chết, không rõ có phải do hành nghề ấy mà chết?

Về chị vợ anh tài xế, do lẳng quá, chồng bỏ. Ngay khi bị chồng bỏ, chị ta bước luôn vào nghề bán hàng trắng. Làm ở Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, đến thời tàn tạ, chị ta về làm ở quê. Chuyện chị này cũng lạ và một thời ầm tiếng khắp quê. Khi còn hành nghề nơi thiên hạ, có bận về quê chơi, bất chợt nhìn thấy một cậu bé, cậu trai này sáng sủa, chị nàng đem lòng yêu luôn và tuyên bố ra mồm, sau sẽ lấy cậu ta làm chồng.

Lúc đó cậu ta còn nhỏ, chừng mười lăm, mười sáu. Dăm, ba năm sau, khi phải dạt về quê hành nghề, chị nàng lấy được cậu kia. Cả nhà cậu này sốc. Gia đình họ vào hàng danh giá tại phố thị, con trai lấy điếm già, tai tiếng quá. Dù phản đối gay gắt, họ cũng không ngăn cản nổi, bởi cậu chàng được bà cô bao ăn và cả khoản cơm đen.

Giờ quê tôi, tuy không đến mức treo biển hành nghề công khai, nhưng khách vãng lai, truyền tai nhau về hai cửa hàng đĩ. Một dịp dư luận ầm lên, vì cạnh tranh, hai cửa hàng kia tố nhau. Đã tố thì phải xử, còn xử lý đến mức nào, thì dân không rõ. Dân kháo nhau, mỗi bên mất toi đến dăm mươi triệu. Lạ rằng, sau vụ ấy, chẳng anh cửa hàng nào chết, hai cai quán vẫn mở cửa, vẫn đón khách. Chắc là từ đó, cạch, chẳng ai dại gì sa vào vòng kiện tụng.

Cái nghề đó chẳng hay hớm gì. Thời đại, chế độ nào cũng khinh. Xã hội và dư luận luôn dè bỉu. Lạ sao nó cứ tồn tại và chiều hướng ngày một gia tăng. Người quê tôi bảo, tại quê mình có cái vườn hoa méo. Phải đập nó đi, hoặc sửa ra thành vuông, thì mới đỡ. Chả rõ có đúng không, đã ai thử thành vuông đâu mà rõ.

Phế truất chức trưởng ngõ

Tôi bây giờ là dân Hà Nội, ở Hà Nội gần ba mươi năm, thế đủ là chuẩn giới thiệu mình dân Hà Nội và con cái khai quê Hà Nội.

Năm 1980 tôi bắt đầu học đại học ở Hà Nội. Hằng tuần, cứ chiều muộn thứ Bảy từ trường sang nhà chị gái. Hồi đó nhà anh chị tôi ở số 17 phố Phạm Đình Hổ. Ngày đó sinh viên đói lắm, thăm anh chị và các cháu thì phần ít, phần nhiều là kiếm bữa no. Ông anh rể rất chiều cậu em vợ, những quán ngon như phở Thìn, hay mấy quán cà phê, anh đều dẫn cậu em vợ tới. Tôi biết hương vị cà phê và thuốc thơm là do anh rể dắt đi quán, cho thưởng thức.

Những lúc đói san sẻ cho nhau mới quý. Nó ngon và quý hơn thời bây giờ no đủ, rất nhiều. Anh chị tôi làm người nhà nước, tháng ba cọc ba đồng, hai con nhỏ, vẫn bao bọc cậu em. Chủ nhật tôi ăn cơm trưa xong, bà chị gái nhồi mấy cân mì sợi, chai nước mắm, ít mì chính vào chiếc ba lộn cho thằng em. Đầu những năm tám mươi, mốt của sinh viên là cậu nào cũng cố kiếm cái ba lô bộ đội, xéo hết túi phụ ngoài và lộn ra, đeo lủng lẳng trên vai, đó mới là sinh viên. Quãng một giờ trưa anh rể đèo tôi ra bến Nứa. Trên đường ra bến, bao giờ anh cũng tạt vào quán, chiêu đãi thằng em thêm trầu nữa, khi cốc cà phê, lúc cốc bột đậu xanh và anh em nhâm nhi điều thuốc lá thơm. Quãng hai rưỡi tôi lên xe buýt về trường.

Từ Hà Nội sang trường có chục cây số, hai rưỡi lên xe, mà có khi năm giờ mới sang tới nơi. Chen nhau lên xe, đợi khoảng hơn tiếng, nó mới bắt đầu rời bến, rồi lề rề bò qua cầu Long Biên. Có hôm tắc cầu, cả tiếng đồng hồ xe chưa qua nổi. Khốn nạn nhất là quãng thời gian trên xe chen nhau để chờ nó chạy. Tôi phải đi sớm cốt kiếm chỗ ngồi, còn nếu phải đứng, đành chọn nơi sát thành xe. Đứng ở đây, áp mặt và hai tay giơ ra, chống lên thành xe. Có thế đứng vậy mới chịu nổi làn sóng chen nhau, gồng tay lên mà chống.

Đói, về nhà anh chị được bữa cơm, nên ăn cố. Ăn từ trưa, hai rưỡi chiều mới lên xe, bụng vẫn no anh ách. Khi no, chen nhau mới khổ. Đúng là chen ợ mì ra và ngửi, thì đủ mùi hôi người. Nam giới còn đỡ, nữ giới chen xe, cơ cực khổ. Lợi dụng cảnh chen nhau, đám nam sinh cứ quây lấy chị em, tỵ cọ vào người ta. Nghe lại cảnh chen xe, vợ tôi bảo, một chị học ở trường sự phạm Xuân Hoà kể, có bận lên trường bị đám nam sinh chà sát, ướt cả quần, áo, lúc tới trường phải thay.

Hồi mới ra trường, dịp đang hợp đồng, tôi ở nhà chú thím. Chú tôi công tác cả tuần, chỉ về nhà ngày chủ nhật. Ở nhà có ba mẹ con và thêm thằng cháu. Ít bà thím nào tốt vậy. Lại chuyện đói và san sẻ. Sáng tôi đi làm, bà thím chuẩn bị cạp lồng cơm cho thằng cháu. Thức ăn gồm rau luộc, mấy miếng đậu và cơm. Bao giờ cạp lồng suất trưa của tôi, bà cũng đơm nhiều hơn cạp lồng cơm của bà. Suất ăn của bà chỉ có rau, còn cạp lồng của tôi thêm đôi ba miếng đậu kho.

Nhà tôi giờ ở ngã tư Vọng. Ngã tư nổi tiếng. Trước đây thời Pháp thuộc, nó là vùng ngoại ô, người ta bảo, xuống mãi cống Vọng cơ mà, gần đó là nhà thương Bạch Mai, rồi mấy nhà hát cô đầu. Coi đây là quê mới, tôi làm báo, nên từng tìm hiểu và viết vùng ngã tư này.

Phố vọng gần trại đói Giáp Bát năm đói Ất Dậu. Nhiều người Hà Nội gốc, nếu giờ qua đây, khó biết đâu là phố Làng Tám xưa. Nay nó là con đường Giải Phóng mở qua, hai bên nhà cửa san sát. Đã biết trước địa điểm ấy khó tìm, nên tôi gặp một cụ già gần tám mươi tuổi, dân gốc ở đây, nghe hỏi về trại cứu tế, cụ bảo, có biết trại ấy, nhưng bây giờ, không còn rõ.

Theo biển đề đường Giáp Bát, tôi rẽ vào làng Tám. Giờ làng Tám thành phố rồi. Dừng trước nhà thờ làng Tám, tôi tạt vào một quán nước. Trong lúc uống nước, trò chuyện, biết bà chủ và mấy nhà xung quanh đều dân mới ở đây. Vừa hay lúc đó có ông già chừng bảy mươi đi qua, bà chủ nhanh nhảu giới thiệu ông cụ là dân gốc và mời vào. Hỏi ông về cái trại cứu tế Giáp Bát, địa điểm ấy nay ở đâu, ông ớ ra, rồi lắc đầu, bảo không biết. Vâng, điều xảy ra cách nay hơn 60 năm rồi. Có thể lúc đó ông còn nhỏ, không nhớ nổi, hoặc nhà cũng trong cảnh chạy ăn từng bữa, hơi sức đâu để ý đến cái trại tế bần kia.

Ngày đó tức đầu năm 1945, khi nạn đói xảy ra, Tổng hội Cứu tế lập trại Giáp Bát để cứu người đói. Trại nằm trên khu đất rộng khoảng 25 mẫu, gồm vài dãy nhà, tổng số 32 gian. Tất cả những người đói các địa phương vào thành phố xin ăn, được gom về đây. Tổng hội kêu gọi lòng từ thiện để tổ chức nấu cháo bố thí. Vào tháng tư năm 1945 số người trong trại khoảng 5.000 người.

Về trận đói, dân nội thành ít bị ảnh hưởng hơn so với dân quê. Dù sao chính quyền Pháp - Nhật hồi đó cần bộ mặt thành phố đỡ ảm đạm, nên dân được mua gạo theo chế độ tem phiếu, lúc đó dân ta quen gọi là gạo bông. Tuy ít bị ảnh hưởng hơn, nhưng cảnh đói của kẻ quê, thì dân nội thành rất rõ. Hàng ngày dòng người đói lũ lượt kéo đi xin ăn khắp ngõ và xác người chết rải rác trên phố.

Chuyển xác đói, người ta dùng xe ba gác và xe móc. Lúc đó trên nhiều tờ báo đưa tin quyên góp thừng, chiếu, bao cói của các nhà hảo tâm để bọc xác đói. Hay xem mẩu tin trên báo Bình Minh, ra ngày 2/5/1945: "Ai thấy xác đói tại phố nào, thì thông báo cho Hội Hợp thiện ở 125 đường Henri d’ Orleans…"

Để thành phố quang quẻ, không còn người đói, chính quyền thành phố xua họ ra ngoại ô và tập trung vào hai trại, một tại Giáp Bát, một tại Cầu Giấy. Mặc dù trong trại có cứu tế, nhưng vẫn xảy ra cảnh chết đói. Thật thảm thương, xe chở gạo vào trại, lúc ra lại đưa xác đói đi chôn. Xác đói ở trại Giáp Bát và nhặt nhạnh tại phía Đông, phía Nam thành phố, gom xuống chôn ở nghĩa địa Hợp thiện, làng Mai Động. Xác bó chiếu, bao cói, có xác để trần, tất cả đổ xuống chôn chung hố.

Muốn hình dung về mức độ ghê rợn của trận đói năm 1945, hãy tham khảo công trình nghiên cứu của Tiểu ban hợp tác Việt - Nhật về nạn đói 1945 ở Việt Nam, do giáo sư Văn Tạo và giáo sư Furuta Motoo làm chủ đề tài, nghiên cứu từ năm 1991-1995. Công trình này ngoài tư liệu lưu trữ trong nước, quốc tế, các văn bản chính quyền hồi đó và báo chí, nó còn điều tra trên thực địa tại 23 địa điểm, thuộc 21 tỉnh thành, từ Quảng Trị đến Quảng Ninh.

Nhiều nhân chứng kể lại, có gia đình và dòng họ bị chết hết, nhiều xóm, làng bị xoá sổ. Một vài con số thông kê số người chết đói: Thái bình chết 28 vạn, Nam định chết 21 vạn,...

Thật là vô tình nếu sự kiện bi thương của dân tộc và bao số phận đớn đau bị lãng quên. Một tượng đài đói năm Ất Dậu rất cần phải dựng lên. Dựng để nhớ, dựng để không bao giờ dân tộc Việt này xảy ra thảm cảnh ấy nữa.

Ở vùng ngã tư Vọng, cũng cần kể thêm vài câu chuyện nữa, để nhớ về một thời nghèo khổ, lúc nào cũng đói và cái gì cũng chung.

Khu tập thể của tôi Mỹ ném nhiều bom đạn. Sau chiến tranh, năm 1973 cán bộ từ các nơi sơ tán lục tục kéo nhau về. Dân Hải Dương còn kéo lên ủng hộ, dựng mấy dãy nhà tranh. Trong khu còn đám nhà xây lỗ mỗ, cái biệt thự thời Pháp xây, cái thời ta xây.

Công trình ta xây, mang dấu ấn là mấy khu vệ sinh tập thể, dạng tự hoại. Bình thường, nếu các ống khí thông thoáng, thì chả làm sao. Đằng này nó lại tắc và có chuyện kinh hồn xảy ra. Vào một buối sớm, quãng sau năm tám mươi, chắc là tờ mờ sớm, vì ông kia phải bật diêm dò đường. Cả khu tập thể đang trong giấc nồng, choàng tỉnh giấc. Tiếng nổ long trời lở đất, dân túa ra xem, nháo nhác hỏi nhau. Bom đạn gì chăng. Hoà bình rồi sao còn bom đạn nhỉ.

Những rồi họ được giải đáp. Đó là tiếng nổ hố ga. Nơi nhà vệ sinh quang cảnh thật hãi hùng, mái tốc, phân nước vung vãi. Có cả máu.

Sau vụ này câu phát ngôn hài hước của ông nhạc sỹ Nguyên Lương được truyền khẩu nhau. Sáng ra, khi ông nhạc sỹ kia đến, thấy quang cảnh hỗn độn, buột miệng than:

- Ôi thôi! Một ngàn cái đít lại bơ vơ rồi!

Cái ông bật diêm mò mẫm, bị ga nổ toác mặt. Tai nạn nặng đến mức, sau nhiều tháng điều trị, khi xuất viện, còn hằn trên mặt ông ta toàn sẹo, dáng đi thì lệch lệch. Bị nặng vậy, mà sống khá dai, ông còn sống tiếp đến khoảng năm 2000 mới mất. Lúc sống thì độc thân, một mình thui thủi, lúc chết cũng kèn thờ, trống tế, vợ con khóc và người đến chia buồn tha thiết. Thấy bảo gian nhà của ông để lại, giá đến hai chục cây vàng!

Ngõ nhà tôi trông ra khu nhà vệ sinh này. Sau đó nó thành bãi rác của khu tập thể. Mấy nhà quanh đó suốt ngày ngửi mùi hôi thối. Ông Chu Nguyễn bạn tôi, bảo: Mỗi lần ra đổ rác, tôi thấy ngượng quá, bằng đem đổ thối vào nhà ông. Thế nên, cứ rình lúc nào ông vắng nhà, tôi mới đem ra đổ. Con tay nhà báo Lê Quốc, có mặt tôi, vẫn đổ thẳng tay.

Một Tết vào lúc trước giao thừa, có bà bày mâm cỗ gà xôi ra ngõ cúng trời đất. Thắp hương khấn khứa xong, bà này vào nhà, tàn tuần hương, định ra tạ và hạ lễ, thì không thấy cỗ đâu. Bà này im thin thít. Thành tâm cúng trời đất, các ngài hưởng rồi, ai lại chửi.

Có bà già từ quê ra chơi, mang con gà và túi quà, gồm ổi và chuối. Bà gõ cửa và hỏi nhà. Trong ngõ người lớn đi làm vắng cả, các nhà chỉ còn đám trẻ con. Bà kia hỏi đám trẻ tên chủ nhà, đám trẻ bảo đúng là tên bố mẹ chúng, chúng mở cửa cho bà vào. Bà nọ ra Hà Nội khám bệnh, định vào nhà cô cháu họ nghỉ nhờ. Bà chỉ biết mặt bố mẹ chúng, không tường đám trẻ; còn đám trẻ thấy bà nhà quê, xưng là bà họ mình, lại có túi quà to, sướng quá, xúm vào ăn. Túi ổi, chuối nhiều như thế, chúng xơi gần hết. Mấy đứa trẻ nhà hàng xóm giáp bên cứ đứng chầu mồm, chúng không cho một quả. Đến tầm tan ca chiều, bà già và vợ chồng nhà kia ngỡ ngàng nhìn nhau, vì họ không có họ hàng, không quen biết. Hoá ra bà già kia có họ với nhà hàng xóm trùng tên ở giáp bên. Quà bà mang ra đám trẻ ăn tiệt rồi, may có con gà, lũ trẻ bé qúa, chưa mang ra giết thịt. Mấy đứa cháu họ của bà nhà quê chầu mồm lúc trước, chỉ còn quà con gà, đành ăn thịt vậy.

Nhà tôi tổng diện diện tích có chín mét vuông mặt đất. Tôi mua lại, vì diện tôi không được cơ quan phân nhà. Đó là gian nhà kho cấp bốn, cưa đôi. Chín mét vuông, bố trí bếp, nơi tắm rửa và chỗ ngủ cho bốn nhân khẩu, gồm mẹ già, hai vợ chồng và con gái, lúc đó tôi chưa sinh cháu thứ hai. Trước cửa lại là bãi rác tập thể, nên lúc nào nhà cũng đóng cửa im ỉm chống mùi hôi. Sống thật ngang súc vật. Tôi nghĩ, kiểu gì cũng phải phá nhà ra ra xây lại, chỉ mỗi tội chưa có tiền.

Hồi đó dân trong ngõ tín nhiệm bầu tôi là trưởng ngõ. Tôi phân vân nhận hay không, cuối cùng quyết định nhận. Trưởng ngõ quản lý khoảng năm mươi hộ dân. Nói quản lý cho oai, chứ thực ra chỉ có hai việc. Thứ nhất là đi đến các gia đình thu đủ các loại tiền, bao gồm: tiền lao động công ích, tức tiền đắp đê, tiền ủng hộ thiệt hại bão lụt, tiền quyên góp cho người nghèo, tiền thương binh liệt sỹ, tiến góp để công an chống trộm, tiền cho các cháu thiếu nhi dịp hè,… nhiều khoản lắm. Thứ hai là hàng quý ra văn phòng uỷ ban phường họp, nghe chế độ chính sách mới, rồi tình hình chính trị, an ninh phường, quận, thành phố và cả nước. Những buổi họp đó tôi thường ra ngủ gật, vì mình suốt ngày nghe và tuyên truyền chính sách trên đài, nên nắm quá kỹ.

May đến thời tôi là trưởng ngõ, không còn phong trào vợ chồng cãi nhau, hay nhà mất cái bơm xe đạp, cái nồi cơm điện, cũng đến trình ông trưởng ngõ giải quyết. Chồng họ ngoại tình theo gái, vợ chồng đánh chửi nhau, ông trưởng ngõ hàn gắn vết thương làm sao được. Chẳng nhẽ ông trưởng ngõ đến bù đắp tình cảm cho bà vợ đang bơ vơ chăng?

Một bận các bà hội phụ nữ mời ông trưởng ngõ tôi đi dự họp, nội dung là kế hoạch hoá gia đình. Vợ tôi áp dụng rồi, nay các bà định sử dụng tôi đến từng nhà vận chị em và phát bao cao su, mình có làm được không, sợ nhất, họ vận động ông luôn ông trưởng ngõ làm gương, mang xẻo cái quý của mình đi, chỉ nghĩ tôi phát hoảng, vội vàng từ chối ngay.

Về phụ cấp, mỗi tháng trưởng ngõ tôi được hưởng sáu mươi ngàn đồng.

Tôi nhận trưởng ngõ không phải vì định cống hiến chung cho dân ngõ, mà mục đích là nhỡ ra sau này phá nhà mình ra xây, thì dân đỡ kiện. Cái mục đích đơn giản ấy cũng không xong. Ông trưởng ngõ vừa dỡ nhà, dân nửa ngõ đã xúm vào kiện, không có giấy phép xây, mà giám tự tiện phá nhà. Tôi xin, thi xin ở đâu ra bây giờ, ra đường xin ư? Lúc cần phá thì không được, lúc xây lên khang trang lại cứ đòi phá. Cũng may nhà tôi xây xong không bị dỡ, dù dân trong ngõ dân kiện hăng lắm. Tôi phải mất công, mất của lên trình bày hết lượt với ông phường, ông quận. Dân mình rất buồn cười, chỉ thích cùng khổ chung thôi, nghĩa là ai ai cũng khổn mới vui, mới hoà mình và có tính sống cộng đồng cao.

Sau khi tôi phá nhà mình, dân trong ngõ không tín nhiệm tôi nữa, họ họp lại, đồng thanh phế chức trưởng ngõ của tôi. Tôi chả tiếc, vì mục đích không kiện đã không xong. Thôi thì ai muốn kiện cứ kiện, gọi là tôi thành anh chí rồi.

Nay nhà tôi xây bốn tầng, cao chót vót, như cái tháp áp - phen chống giời. Tôi cứ đùa rằng, nó động đất cỡ ba, bốn độ rích te, đổ là cái chắc. Giờ thì cả ngõ, cả khu, cả thành phố đồng thanh dỡ nhà ra xây, chẳng ai còn thời gian kiện cáo nhau nữa, ai cũng dỡ nhà, ai cũng xây, thành phố đâm khang trang. Song nghĩ, hơn mười năm trước, tôi là tốp người tiên phong, đang lý phải được ghi công chứ!

Trâu cười

"Dân Thanh Hoá ăn rau má phá đường tàu". Mới đầu tôi cứ tưởng chỉ mỗi Thanh Hoá nhà ta mới ăn rau má, sau này vào Nam, thấy hàng giải khát bày bán nước sinh tố rau má, tôi cứ ngạc nhiên.

Năm học thứ tư chúng tôi về thực tập ở một huyện đầu tỉnh Hải Hưng, giáp ngay Hà Nội, huyện Mỹ Văn bây giờ, hình như tên xã đó có nghĩa là con đường vui. Tôi không nhớ tên ông chủ nhà lũ sinh viên chúng tôi trọ.

Nhà có ông, bà chủ và bà mẹ già, họ đều cao tuổi. Bà mẹ khoảng gần tám mươi, cụ bị ốm đau gì đó, suốt ngày nằm trong buồng. Trọ, song sinh viên chỉ ngủ, còn ăn uống, thì hợp tác lo, làm thôn nào, ăn cơm thôn đó. Khoảng trưa, hay chiều tối, chúng tôi mới về nhà trọ.

Những lúc về nhà trọ, tôi đều thấy ông chủ lóc cóc băm đám rau. Ông ta băm kỹ càng lắm và cũng chỉ có một nhúm rau thôi. Tiếng băm canh cách, đều đặn. Tôi dân ăo gạo sổ, nhà không chăn nuôi lợn bao giờ, nhưng nay học nghề liên quan đến lợn gà, nên nay cũng biết chút kiến thức dinh dưỡng cho gia súc. Thấy cảnh ông già cần mẫn băm rau lợn, ngạc nhiên, tôi hỏi anh bạn lớp trưởng Ký, người cùng nhóm thực tập:

- Ông này, tôi thấy lạ, trưa, chiều nào ông chủ cũng chí chát băm rau lợn. Rau lợn gì phải băm kỹ thế, lại chỉ có một nhúm?

- Lợn đâu mà lợn! Băm cho người ăn đấy! Băm rau má để ghế vào cơm.

- Ăn rau má? Độn rau má?

- Chứ còn gì nữa! Không biết à? Ngày nào ông ta chẳng băm. Để độn rau má, người ta phải băm kỹ. Cơm sắp cạn, thì ghế vào. Đói, dân ở đây đói lắm!

Đến lúc này tôi mới ngẫm ra. Làng quê hiu hắt, gia đình chúng tôi trọ còn hiu hắt hơn, như nhà hoang. Tôi cứ tưởng tượng, căn nhà này như ngôi nhà trong một truyện ngắn Quái dị của Nam Cao. Trừ lúc lũ sinh viên có mặt, thì có tiếng người, còn tịnh không nghe thấy một âm thanh nào, ngoại trừ tiếng húng hắng ho của bà già ốm trong buồng vọng ra và tiếng lách cách băm rau má độn cơm của ông chủ. Đến tiếng chó sủa, mèo kêu cũng không.

Trong khi dân đói, thì cơm tiếp sinh viên bữa nào cũng thịt cá ê hề. Chúng tôi về thực tập ở đây theo hợp đồng của nhà trường với các hợp tác xã trong huyện để chăm sóc sức khoẻ đàn trâu bò tập thể. Hợp đồng là dạng manh nha kế hoạch ba, làm ăn kinh tế, đổi mới sau này. Công việc gồm hai phần: Trước hết là tiếp nước đường cho trâu và sau khi vực sức khoẻ chúng lên, sẽ tiến hành thẩm mỹ - tức vá mũi. Con trâu hai ba tạ, tiếp mấy chục gam đường glucô, khoẻ mạnh lên thế nào được, ngang bằng voi uống thuốc gió! Đám trâu bò còn bị lũ sinh viên chưa quen tay tìm ven, dùng xơ ranh đâm chọc cho, máu vãi ra hàng bát.

Ngay buổi đầu tiên, kiểm tra số lượng trâu bò của hợp tác xã cấp cao toàn xã, chủ nhiệm thông báo: bảy thôn còn tất cả mười lăm con trâu. Bao năm quản lý chặt chẽ, muốn giết trâu, phải đơn từ trình lên tận chủ tịch huyện, vậy mà trâu bò cả xã còn mười lăm con. Đói, rét và vất vả cày kéo ruộng đất tập thể, chúng chết hết mất rồi. Sinh viên hỏi, thế thì lấy sức kéo ở đâu, ông chủ nhiệm thở dài, thiếu đấy, thôi thì lấy sức người ra cày cuốc ba trăm ha ruộng đất của hợp tác.

Sau khi bàn bạc, nhóm sinh viên đưa ra phương án, với số lượng trâu bò trên, chỉ tập trung làm độ dăm hôm là xong. Xong việc, tất cả về thăm nhà. Tâm lý sinh viên, ai chẳng thích tranh thủ biến về quê vài hôm. Vừa nghe vậy, ông chủ nhiệm giãy nảy: Sao chỉ dăm hôm. Lên kế hoạch rồi, phải đủ mười hôm. Nói xong, ông ta đọc luôn, chi tiết từng ngày, từng thôn và giơ bản kế hoạch có chữ ký cùng dấu đóng đỏ chót, nhấn mạnh, Uỷ ban xã duyệt rồi đây này.

Con trâu là đầu cơ nghiệp, bao đời nay có câu ca vậy. Chỉ đến khi bước vào thời kỳ làm ăn tập thể, con trâu chẳng còn là đầu cơ nghiệp của riêng nhà nông nào nữa. Nó là cơ nghiệp chung, toàn dân cùng giữ. Sau biết bao lý luận và giáo dục về tinh thần làm chủ tập thể, nó sinh ra cái thứ tinh thần làm chủ: tôi nghĩ anh giữ, anh nghĩ chị giữ, chị lại nghĩ ông thôn bên giữ, ông thôn bên nghĩ bà xã bên giữ, để cuối cùng, ai cũng nghĩ ai giữ.

Trâu cười, chắc chỉ có trong truyện tiếu lâm. Thế mà dưới thời hợp tác, lũ trâu toàn toe toét cười. Của chung, nên ai cũng thẳng tay giật kéo. Cái mũi bằng thịt, không chịu nổi, toác ra thành cười.

Vụ con trâu ở thôn đầu tiên chúng tôi chăm sóc, ông chủ dắt ra. Con trâu đã gầy, ông chủ còn khẳng khiu hơn. Ông này tính vui nhộn, vừa dắt trâu ra, vừa oang oang nói với nó, nói với trâu mà như nói với người:

- Sung sướng nhé! Chuyến này mày được xã hội quan tâm, chăm sóc sức khoẻ đấy! Được tiếp cả nước đường nữa. Đến như vợ tao là người, ốm đận phải khênh lên nhà thương huyện, mới được tiếp chai nước đường. Báo cho mày biết, các cô chú sinh viên còn đem mũi mày ra đẽo, cho mày đẹp. Lúc ấy, không còn kiểu khinh mạn, cười nhạo chúng tao nữa!

Rồi ông tiếp:

- Sao mày cứ nghểnh mặt lên cười? Mày có biết kế hoạch tiếp khách không? Còn cười nữa, ông đề nghị cho mày vào kế hoạch tiếp khách, thì rồi đời con ạ!

Ông ta nói, còn lũ sinh viên cười rinh rích. Mới đầu nghe ông nông dân doạ dẫm con trâu về kế hoạch tiếp khách, tôi không rõ ông ta nói gì, sau đó mới hay kế hoạch đó là gì.

Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, thì phát hiện ra lửa, ra chữ viết, rồi dùng tiền thanh toán là văn minh của nhân loại. Các phát kiến này, đôi lúc người ta lại bỏ đi, không dùng nữa. Như cái xã tôi đến thực tập, họ sáng tạo ra vật trung gian thanh toán là chó, gà, lợn, thóc.

Một cân lợn hơi bằng sáu cân thóc, một cân gà hơi bằng ba cân lợn hơi, một cân chó hơi bằng ba cân lợn hơi, một cân chó hơi bằng mười tám cân thóc. Đấy là công thức hợp tác xã áp dụng tính cho xã viên. Khi nộp sản phẩm chó, gà, lợn, dùng cho các bữa tiếp khách, xã viên ứng trước, không ưng cũng phải nộp. Nếu cần, cán bộ cứ nhảy vào chuồng, vào sân nhà xã viên mà bắt. Đến vụ, hợp tác quy ra thóc, trả. Tất cả tính vào công điểm, chia đều, xã viên cùng đóng góp. Công bằng, dân chủ, phát huy được tính quần chúng, mà lại công khai.

Anh làm chủ nhiệm đã ba năm

Ba năm vật lộn với khó khăn

Cái nhà ông chủ nhiệm, nơi chúng tôi đến thực tập, khác với anh chủ nhiệm của nhà thơ Hoàng Trung Thông miêu tả. Ông chủ nhiệm này chỉ bận rộn với kế hoạch bắt chó, giết lợn, bố trí nhà xã viên nấu ăn để tiếp khách. Thảo nào nhà ông chủ tôi trọ, không có tiếng chó sủa, gà kêu.

Hợp tác xã lên kế hoạch tiếp chúng tôi rất chi tiết: từng ngày, từng thôn, từng nhà, từng bữa, tiếp bằng lợn, hay chó, bao người ăn, đặc biệt cái vùng này có khoản tiết canh chó, tiết đỏ lòm, ăn mát và bổ! Có tất cả năm khách sinh viên, mà hằng ngày hợp tác xã bố trí tới ba mươi cán bộ tiếp đón. Thành phần chủ nhà gồm: đại diện đảng uỷ, uỷ ban, xã đội, an ninh, hội phụ nữ, mặt trận, thanh niên, y tế, người cao tuổi,....

Riêng ông chủ tịch xã tiếp khách từ tờ mờ sớm. Ông này rất ưa khoản tiết canh và đôi bầu dục chần tái. Khi sáng con lợn vừa được ngả ra, trước khi ra trực Ủy ban nhân dân, ông chủ tịch tạt vào, xơi trước bát tiết canh và đôi bầu dục chần, cùng dăm chén rượu nhạt.

Sáng đó chúng tôi chăm sóc sức khoẻ cho một con trâu. Con này yếu qúa, anh em tiếp nước lại nhanh, nên nó xốc. Sinh viên phải hồi sức cấp cứu mãi, tiêm mấy xơ ranh ca-phê-in, nó mới tinh tỉnh. Mãi mười một rưỡi mới xong việc, chúng tôi kéo tới nhà một xã viên, hợp tác bố trí nấu nướng tiếp đoàn bữa trưa.

Khi tới nơi, chỉ còn mâm cơm phần sinh viên bày ở chiếc chiếu góc nhà. Đợi khách lâu quá, các mâm khác, chủ nhà đành tiếp trước hết rồi. Nhìn thấy mâm bát còn vương vãi, lũ trẻ ba, bốn đứa con nhà chủ đang mút mát xương và húp canh dở các mâm. Mò mề xương xẩu đồ thừa xong, lũ trẻ quay ra ngắm nghía đám sinh viên ăn. Nhìn lũ trẻ xanh xao, đứa thò lò mũi, đứa bụng ỏng chăm chắm nhìn, tôi không nuốt nổi. Chả ai bảo ai, lũ sinh viên vội ăn cho nhanh và bỏ lại gần nửa mâm, để đám trẻ còn có cái hôi tát.

Ăn xong, chủ nhà mời khách xuống nhà ngang. Bước vào nhà, thấy đủ văn võ bá quan đoàn thể, họ đang quây quần quanh mấy chiếu bạc. Mặt mũi ông nào ông ấy đỏ gay vì bữa rượu, họ mới tiếp khách sinh viên. Dịp ấy là vào khoảng giữa năm 1984.

Kiếp họ nhà trư

Tôi tốt nghiệp đại học vào cuối năm 1985, năm đầu tiên Nhà nước áp dụng chế độ sinh viên tự xin việc. Thế là thoải mái quá. Ngay từ khi bước chân vào trường, sinh viên ao ước, ngày ra trường, được tự đi liên hệ. Tôi được mấy đồng hương khoá cuối quân sư cho, cứ nhận chân cán bộ lớp, nghiễm nhiên khi ra trường, được suất liên hệ. Nghe theo lời quân sư, trong buổi bình bầu, sắp xếp cán bộ, tôi hăng hái đề cử mình và được luôn chân lớp phó phụ trách quỹ.

Một cái lớp vỏn vẹn hai mươi tám sinh viên, có tới năm cán bộ, gồm: lớp trưởng phụ trách chung – Ký; lớp phó phụ trách học tập –Tùng; lớp phó phụ trách đời sống - Huệ; lớp phó phụ trách lao động - Toại; lớp phó phụ trách quỹ là tôi, chưa kể mấy vị công tác Đoàn. Bộ máy như vậy cồng kềnh quá. Có lẽ vì ảnh hưởng từ trứng nước, nên các cơ quan nhà nước của ta, bộ máy mới cồng kềnh chăng?

Năm năm làm cán bộ tôi mất khá nhiều công sức họp và giữ tiền của lớp, quỹ toàn những giấy và chữ ký. Đùng một cái, lúc ra trường, hoà cả làng, ai cũng được tự do liên hệ công việc. Nhà nước đã tháo khoán sinh viên, muốn liên hệ ở đâu, thì liên hệ. Lúc này, có thể do các cơ quan, doanh nghiệp thừa mứa trí thức rồi.

Sau vài tháng liên hệ, tôi xin được chân hợp đồng, lại làm đúng nghề mình học và ngay giữa thành phố. Đó là lò mổ lợn, cơ sở giết mổ tập trung phục vụ thịt cho cả thành phố. Tôi bác sỹ thú y, giờ làm chân kiểm dịch, hợp quá. Công việc hơi nhàn, sáng tám giờ đến cơ quan, ngồi ngay cửa sau lò mổ nhập lợn, kiểm dịch bằng mắt, chấn đoán xem con nào ốm, con nào khoẻ.

Công việc thì nhàn, chỉ tội lương hơi ít. Chi cục trả mười cân gạo một tháng. Tôi chưa phải chân biên chế, mà hợp đồng, hợp đồng miệng. Điều vất vả và độc hại là suốt ngày phải ngửi phân và tiếng eng éc lợn kêu. Trong đội trực trước cửa lò nhập lợn có ba bộ phận, tôi thuộc Chi cục Thú ý thành phố cử xuống, một ông Bộ Nội thương, ông này chuyên kiểm tra, ghi chép cân đo, đếm số đầu lợn và một ông bên lò mổ, cũng cân đo, đong đếm.

Có làm mới biết, kiểu quản lý bao cấp, dân không đói mới lạ, cha chung chả ai khóc. Nhập lợn thì giờ hành chính. Lợn thu mua từ các tỉnh xa về, bị nhốt chen chúc mấy chục con trên một xe, lại nóng bức, lợn khoẻ cũng thành ốm.

Cái kiếp họ nhà Trư đã khổ rồi, kiếp họ Trư dưới thời bao cấp, còn khốn khổ hơn. Sinh ra, lớn lên, thì đói khát, chỉ toàn cơm thừa canh cặn, đến khi xuất chuồng đến chỗ chết, bị nhồi nhét mấy chục con một xe và rồng rắn hàng trăm cây số mới đến được nơi chết.

Chúng đã thoát đâu, cả một đời đói khát, trước khi về chầu trời, các ông bà chủ lại tống tiễn bằng bữa ăn lòi kèn tổng nhĩ. Họ chẳng ưu ái, thương xót lợn đâu, mà chỉ cốt nhồi cho thật no, khi cân, tăng thêm được dăm, bảy cân hơi. Thế nên đám lợn trên xe, cả đực lẫn cái, con nào con nấy trông như lợn chửa. Vẫn chưa hết. Về đến lò mổ chúng chưa được giết ngay đâu, còn phải đợi, phải chết theo kế hoạch tiêu thụ thịt của thành phố. Theo kế hoạch thịt, lũ lợn thường phải đợi hai, ba ngày, có khi cả tuần. Trong những ngày đợi chết, người ta chẳng có kế hoạch lương thực cho chúng ăn.

Đói, lũ nhà Trư kêu la suốt ngày. Kêu do đói một phần, phần khác chúng kêu gào bởi những vết thương trên mình hành hạ. Khi xe chở chúng áp đít vào bệ cân, để xua chúng xuống, người ta dùng gậy. Đấy là với những con nhát. Vớ phải con gan lỳ tướng quân, đánh đuổi không xuống, thì dùng móc sắt lôi xuống.

Thanh sắt dài chừng hơn hai mét, một đầu nhọn, uốn cong. Thanh sắt móc kia sẽ thẳng cánh bổ xuống con lợn, đâm sâu, móc chặt da thịt chúng. Có con lỳ lợm, phải hai người nhất loạt bổ, nhất loạt lôi, mới kéo xuống được. Giống lợn khoẻ thật, vết thương sâu là vậy, lại bị nhốt đói nhiều ngày, vẫn dai dẳng sống. Nhiều con vết thương quá sâu, nhốt cả tuần, thân mình lở lói, giết ra, xẻo đến một phần ba con lợn. Để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, dù là đói, đám thịt thối này vẫn phải đem đi chôn.

Dịp gần cuối năm, ba cơ quan ngồi lại với nhau. Trước số tiền kiểm dịch ông Chi cục thú y định thu, ông nội thương liền lý luận: Lợn xuống nhanh, nhiều như vậy, chúng tôi mấy người kiểm tra, chỉ việc đếm còn không xong. Bên các ông, có mỗi cậu thú ý mới ra ràng, bằng cách nào mà kiểm dịch nổi. Mấy ông Chi cục đuối lý, chẳng thu được đồng nào. Gần năm trời trả công cho tôi hơn tạ gạo, thành ra công cốc. Ngay sau đó, cái hợp đồng bằng miệng với tôi, bị huỷ.

Chuyện say

Rượu là một phát minh của nhân loại! Thế nên, trong các buổi tiệc tùng, chiêu đãi, bao giờ người ta cũng dùng rượu.

Triết lý của dân rượu: Uống mà không say, thì uống để làm gì? Phí rượu!

Lại triết lý nữa: Uống mà không say uống là không phải uống.

Uống để ta tỉnh người say.

Uống say mà ta vẫn tỉnh.

Uống.......

Nghe đồn ông Chu Ân Lai là bậc cao thủ. Chả biết có thật không, vì đã uống với ông ta bao giờ.

Nhà thơ Lâm Huy Nhuận, con trai nhà thơ Yến Lan, có thơ say:

Có một lần say khóc

Nỗi buồn thả dây cương

Tỉnh lại ân hận mãi

Có vương ai trên đường

Sếp Hoàng, tôi và Hùng Béo đôi chiều uống với nhau. Quán góc ngã tư Khâm Thiên là điểm chúng tôi ưa ngồi. Chúng tôi uống có lúc tỉnh, lúc say, có lúc khi say mà tỉnh, có lúc khi tỉnh mà say. Nhưng say như cụ Lý Bạch, thì chửa bao giờ có.

Nói về say rượu, thì ngày bé tôi có một bữa uống vụng rượu, bị say chí chết. Không ngờ, lớn, lại làm đúng nghề phải say. Ngay khi về Đài, có buổi liên hoan phòng, tôi lính mới, vì biết nấu ăn, liền lao vào bếp.

Hôm ấy, ngoài anh em trong phòng, còn có bác Đặng Tình. Bác vốn trước chỉ đạo mảng nội dung của phòng Dân tộc. Nhà văn Đặng Tình giành hai giải nhất truyện ngắn báo Văn nghệ và giải ba truyện ngắn tạp chí Văn nghệ quân đội. Bác từng là Trưởng ban Đồng Bào. Cái tên ông Thào mà nhiều người đùa gọi bác là nhân vật trong truyện ngắn bác viết. Một dịp tôi định ngo ngoe viết chuyện miền núi, sau khi đọc truyện của bác Đặng Tình, nghe văn chương và thấy một người quá am hiểu phong tục, tập quán, ngôn ngữ của đồng bào, chuyển tải được cái thần của đồng bào dân tộc sang ngôn ngữ Việt, tôi không dám viết nữa. Văn thế mới là viết!

Bữa liên hoan, nấu nướng ngay tại phòng. Củi lửa là gỗ gỡ ra từ mấy thứ lung lay khắp các bàn, ghế, còn tủ thì tấm nào mọt mọt, cho vào nổi lửa luôn. Thiếu, dùng thêm giấy báo.

Lúc tôi ngồi chặt thịt gà, anh Đinh Sơn ngắm lính mới, buông câu: Thằng Mới! Và anh cười hề hề. Tôi cú quá. Ông này dân ngôn ngữ, văn chương nhiều, tưởng tôi anh chàng học hoạn lợn, nên gọi xỏ mình là thằng Mới. Thế có cú không cơ chứ.Tôi nhớ và thù mãi. Bữa liên hoan đó tôi được trận say chí chết. Nghĩ lại, mình mới về cơ quan, sao không biết giữ gìn, cứ thục mạng, hết mình uống.

Trận say nhớ đời là chuyến đi công tác Lạng Sơn. Tối đó Ban Định cư tỉnh đãi khách. Trừ sếp Phán Lương không uống, còn chủ, khách say khướt. Say đến mức, mấy ông trong Ban định canh túm vào đánh nhau, còn khách chúng tôi hô hố cười, vỗ tay tiếp sức. Vui nhất là một ông cán bộ định canh chồm chỗm ngồi lên bài nhặt xương ăn tiếp.

Sáng hôm sau sếp Lương vào phòng, thấy anh Nhung nằm thiêm thiếp, hỏi, như thế này nó say đến bao giờ. Anh Thuận, phải mấy ngày nữa. Sếp hoảng. Đúng lúc ấy anh Đinh Sơn nhỏm lên, tỉnh như sáo.

Tôi còn nhớ chuyện đợt ấy chúng tôi tranh luận với ông lãnh đạo Sở Tài chính Lạng Sơn. Ông này nói rất hay và có lý của ông ta. Khi tôi hỏi về ngân sách tỉnh dành cho công tác nghiên cứu khoa học, ông say sưa trình bày, say sưa tới mức, coi chúng tôi như kẻ đi xin kinh phí.

- Nghiên… nghiên cứu cái gì. Các ông cứ dài ra đòi kinh phí. Tôi hỏi, xưa nay nông dân Lạng Sơn nghiên cứu cây thuốc lá bao giờ. Vậy mà thuốc vẫn ngon, khói vẫn đậm. Còn các ông vòi tiền, tỉnh đầu tư không biết bao nhiêu rồi. Cây thuốc lá chưa nghiên cứu, thì cao tới cả mét mới có hoa, lá to bằng tàu lá chuối. Còn các ông nghiên cứu, thuốc mới cao bằng cấy lúa, đã trổ hoa, lá thì to bằng cái lá hẹ. Đấy, nghiên cứu đấy! Tôi mà có quyền ấy à, cứ đuổi ráo đám khoa học nghiên cứu ấy đi.

Không biết đuổi được những ai, chỉ biết rằng, chính ông này suýt bị đuổi. Hình như ông dính vào tham nhũng. May thay, tự dưng ông lăn đùng ra bán thân bất toại, nên không phải hầu toà. Sau này mỗi khi gặp anh Thuận, tôi thường đùa, chào anh: Nghiên cứu, nghiên cứu cái gì...

Với anh Thuận có nhiều chuyến công tác Tây Bắc và vùng cao. Ông này là cái kho tiếu lâm phóng tác và thu nhặt lắm thứ chuyện ở Đài. Thường người miền núi rất hồn nhiên, hay hỏi đi nhờ xe, anh Thuận gọi đùa các chàng trai trẻ Mông là anh cu Tỉn. Một lần chúng tôi đến huyện lỵ Bắc Hà, vùng quê rượu ngô của người Mông ngon có tiếng, nghỉ tại nhà khách huyện, là khu dinh thự của viên quan người Mông Hoàng A Tưởng, xây năm 1919.

Hôm đó chúng tôi đến đúng vào dịp có cuộc họp cán bộ các xã. Đường từ xã, bản lên huyện, nhiều nơi mất cả buổi xe ôm, nên cán bộ xã thường lên ngủ đêm trước ở huyện, hôm sau họp. Buổi sáng tôi và anh Thuận ra đánh răng, rửa mặt.

Tôi múc chậu nước, vắt khăn lên thành chậu và ngồi đánh răng. Mải đánh răng, khi quay lại, tôi thấy một anh cán bộ người Mông hồn nhiên dùng khăn và chậu nước tôi múc sẵn, rửa mặt. Tôi ngạc nhiên, nhưng nín lặng. Chờ cho anh ta rửa mặt xong, tôi tráng và múc lại chậu nước khác, dùng tay mà rửa. Rửa mặt xong, quay sang, thì lại thấy cả bản chải và ca đang được anh ta sử dụng tiếp. Còn đang ngây ra nhìn, thì ông cán bộ kia, sau khi đánh răng, rửa mặt xong, hồn nhiên trả lại bàn chải và khăn mặt cho tôi. Còn anh Thuận lúc này sằng sặc cười:

- Thế nào, biết anh cu Tỉn chưa?

Trở lại buổi sáng, sau bữa say rượu đêm trước ở Ban định canh Lạng Sơn, chúng tôi tới làm việc với đồn biên phòng Tân Thanh. Thôi rồi, lại sa vào ổ say. Bia đổ như nước, cả đoàn được trận say tiếp. Say, mà ngay sau đó, chúng tôi vẫn lên xe. Liều thật.

Xe theo đường số 4 đi Bắc Sơn. Đường núi vắng hoe. Nhìn bên đường ngăn ngắt đá vôi cao xanh thẳm. Ban Lương sợ lạc, mấy lần bảo dừng xe hỏi đường, nhưng sợ trấn lột, lại thôi.

Tới một quán nước, xe dừng, gặp được ông khách. Ông này giới thiệu là chánh văn phòng Tràng Định và còn hỏi đi nhờ nữa. May quá, chúng tôi rước vội ông ta lên xe. Trên xe, thấy ông này líu lo nói. Thôi chết rồi, vớ phải một ông say. Xe bốn người, thì ba ông say, kiếm được tay dẫn đường, lại phải ông say nốt. Được cái trên xe toàn kẻ say, nên câu chuyện rôm rả. Có lúc anh Thuận vừa điều khiển xe, vừa ngó sang bên đường:

- Lãng phí quá! Sao lại xây những hai cái nghĩa trang liền nhau.

Ban Lương đã sẵn sợ ông lái say, vẫn không nhịn được, phá lên cười:

- Có mày say, một, nhìn thành hai.

Sau chuyến đi này, say thế mà anh Đinh Sơn viết được cái ký thật hay.

Đài có hai vị cùng họ, cùng đệm, nhưng không phải anh em, họ hàng, là nhạc sỹ Dương Nhật, Trưởng phòng Tham quan Minh Nhật. Tôi và họ có mấy bận say.

Minh Nhật tâm huyết với nghề và cũng là một tay viết cứng. Còn trẻ mà cũng say ra phết. Một bận tôi và Minh đi uống. Lúc về say, tôi đèo Minh phóng như bay. Qua quãng Cửa Nam, có anh béo cảnh sát giao thông đứng chỉ đường. Lúc đó đường đông, xe chạy chầm chậm. Tôi phải tạt sát vào anh cảnh sát. Minh ngồi sau, giơ tay, đập một nhát vào cái mông béo của anh ta, miệng quát to:

- Ơ, cái đít!

Anh cảnh sát giao thông bất thình lình bị đập đít, ngớ ra nhìn. Thấy kẻ say, đành chỉ biết cười nhìn theo.

Còn một bận tôi đi uống với Dương Nhật nhạc sỹ, tôi say và Dương Nhật tỉnh. Lúc về, anh bạn lại dại dột trèo lên xe tôi. Tôi say lướt xe vù vù. Vừa phi, tôi vừa quay lại chửi bạn. Chửi rất hăng. Kẻ say nó chửi, thì không sao, kệ xác nó. Đằng này nó lại cầm tay lái, mình ngồi sau và nó chẳng nhìn đường, cứ ngó ngang mà chửi. Anh chàng Dương Nhật sợ, xuống không được, ngồi không xong, chỉ còn cách xuống nước, mặc cả với kẻ say:

- Thôi, ông cứ chửi đi! Nhưng thẳng mặt lên mà chửi.

Nghe bạn bảo vậy, nghĩ, tôi càng tức, nó khinh mình. Chửi mà không nhìn vào mặt nhau, thì chửi cái nỗi gì. Tôi liền quay hẳn lại chửi. May chả xô vào ai.

Hôm sau Dương Nhật hỏi tôi:

- Hôm qua ông chửi gì thế?

- Chửi ai, chửi cái gì?

- Ông chẳng chửi hăng lắm cơ mà!

- À, tao thấy mấy thằng đi đường, phi xe nhanh quá. Bảo chúng từ từ thôi, kẻo không, tai nạn giao thông, chết bỏ mẹ cả lũ!

Tôi làm quen và chơi với Dương Nhật cũng vì quá hâm mộ nhạc sỹ. Sau chơi rồi, thấy anh chàng này rất sát giải, cứ dự thi là trúng, mà trúng toàn giải to, đâm nể. Nhưng khoản nghe nhạc của Nhật, tôi hãi, toàn thính phòng, giao hưởng, ngang bằng đêm nghe buổi nhạc đãi của cậu em Trường Doãn.

Tôi phải kể thêm trận say ở Khu bảo tồn Pù Mát, Nghệ An. Chuyến ấy tôi vào Pù Mát để phản ánh dự án rừng do anh bạn trẻ Đậu Phi Tú theo dõi. Tú nhà ở ngay thành Vinh, nay phụ trách một dự án liên doanh vơi Đài Loang, tới hai mươi triệu đô. Một anh chàng năng động và dễ mến. Bữa trưa, các thày cô trường trung học phổ thông Con Cuông mời cơm nhà báo. Các thày cô nhiệt tình quá, tôi lu bù được chuốc rượu. Kể ra mình hơi tham, nếu khéo từ chối, chả say thế. Lúc về, nhà trường cử một ông thày đỡ say, đèo tôi. Đưa đến cổng trụ sở Khu bảo tồn, thày giáo lảo đảo quay xe luôn.

Tôi loạng choạng bước vào nhà bảo vệ, nằm vật ra chiếc võng mắc sẵn ở đây. Tưởng người lạ, anh bảo vệ vừa thay ca, bước lại phía tôi. Anh ta nói nhiều lắm, mà tôi chẳng rõ anh ta nói gì. Thấy anh ta nói mãi, tôi đành ngóc đầu lên, phun cho một bãi. Anh chàng hoảng hồn, may còn né kịp, không thì hưởng trọn bãi nôn tôi tặng. Chiều ấy ông Giám đốc Khu bảo tồn có bữa chiêu đãi. Đến lúc này anh bảo vệ kia mới nhận ra khách. Cầm ly rượu, anh chàng tiến về phía tôi, bẽn lẽn xin lỗi khách. Giám đốc không hiểu anh chàng dưới quyền xin lỗi khách cái gì, hỏi, tôi liền gạt phắt:

- Nôn say ấy mà!

Thằng bé trong quán cơm

  

     Cuối mỗi ngày, thằng bé đã có thể đổ tất tật bát thức ăn thừa nó đã gom lại vào chiếc chảo to sâu lòng còn vương mỡ, đảo qua đảo lại. Thế là nó đã có túi thức ăn đem về cho bọn nhóc cùng trọ.

- Bà chủ, cho một bia Hà Nội!

- Cho hai đĩa xào nhé. Thêm tý nước chấm vào.

    Chiếc bếp than cứ rực lửa, rồi mùi thức ăn dậy lên với đủ thứ gia vị tỏi, hành, nước mắm quyện vào nhau, vương vấn trong khắp gian không. Khách ăn lần lượt kéo vào, gian phòng bỗng chốc như thu hẹp vì người ngồi kín các bàn ăn cùng những âm thanh ồn ào. Những chồng bát đĩa liên tiếp được bê ra, để lộn xộn, bừa bộn ngay cạnh thằng bé. Và nó không ngừng đôi tay, cứ liên tục khoắng tròn những chiếc bát, đĩa trong thau ngầu bọt nước rửa bát. Nó tinh ý và nhanh nhẹn nên làm đâu gọn đấy, rất sạch sẽ, cộng thêm đức tính cần mẫn, chăm chỉ vì vậy bà chủ rất hài lòng. Một lần trước khi nó về, bà chủ đưa cho một túi nilông nhỏ đựng đầy thức ăn thừa với lời nói ban ơn:

- Thưởng cho mày vì làm việc chăm chỉ !

    Nó định không lấy nhưng khuôn mặt bà chủ đang phơn phởn, hỉ hả thế kia. Nó không cần sự bố thí, nó chỉ cần những đồng tiền làm ra bằng sự lao động chân chính và hai bữa cơm no bụng đủ để cho nó làm việc suốt một ngày. Nó trở về căn phòng trọ tồi tàn. Sao tối om thế này? Bọn nhóc chửa đứa nào về cả. Có tiếng rên ở đâu vậy? Nó dò dẫm tìm công tắc điện.

- Em mệt và đau đầu quá nên chiều nay về sớm. Anh ra quán bà Năm mua hộ em bát cháo, em đói quá. Nó chợt nhớ ra túi thức ăn và xăng xái hẳn lên:

- Chú mày ăn tạm cái này rồi khắc có cháo.

Thằng Tính chẳng chê bai, khách sáo gì, đánh vèo một cái gần hết túi thức ăn.

- Ngon quá, đã lâu lắm rồi em chẳng được ăn ngon thế này.

    Câu nói của thằng Tính làm nó thấy thương cảm và chợt nẩy ra một ý định nhưng nó chưa cần nói ngay. Một lúc sau đã nghe tiếng thả gầu ùm ùm trong giếng cùng tiếng xối nước ào ào và giọng huýt sáo vui vẻ của thằng Tính.

     Bà chủ để ý thấy thằng bé lựa những miếng thức ăn thừa có vẻ ngon cho riêng vào một bát to. Nó làm việc đó một cách chậm rãi. Số còn lại nó đổ vào thùng nước gạo váng mỡ nổi lềnh phềnh những ruột bí, cọng rau... Bà chủ hỏi nó:

- Mày nhặt riêng ra thế để làm gì? Cứ đổ tất vào thùng nước vo, ngày nào chẳng có người đến lấy, thành tiền cả đấy.

Nó biết bà chủ đang giáo huấn và như có vẻ “ngăn chặn” một ý định nào đó mới nẩy sinh trong đầu nó.

- Cháu muốn mua lại thức ăn thừa này.

Bà chủ ra vẻ hào phóng và nhân từ:

- Ôi dào, đáng bao nhiêu. Mày muốn lấy thì cứ lấy.

Nhưng bà chủ chẳng cho không ai cái gì bao giờ:

- Lúc nào vãn việc mày bưng bê, dọn dẹp thêm giúp cô được không.

     Được cái bà chủ phốp pháp này tính tình xuê xoa nhiều khi hơi đồng bóng nên thằng bé cũng chưa muốn rời đi đâu. Vả lại nó nghĩ làm công việc này là cách tốt nhất để nó có thể tìm được bố. Có lần bà chủ cũng đã nói sẽ để ý giúp nó chuyện này.

     Cuối mỗi ngày, thằng bé đã có thể đổ tất tật bát thức ăn thừa nó đã gom lại vào chiếc chảo to sâu lòng còn vương mỡ, đảo qua đảo lại. Thế là nó đã có túi thức ăn đem về cho bọn nhóc cùng trọ. Thằng Tính nhanh nhẩu vừa gặm miếng thịt gà vừa nói:

- Từ ngày anh cả đem thức ăn về, em thấy ít mệt hơn lại không chóng đói như dạo xưa.

   Trong căn phòng trọ chật hẹp, ngột ngạt này, nó được 5 đứa trẻ tôn là anh cả. Cũng bởi vì nó nhiều tuổi nhất là biết tổ chức cuộc sống chung, dù rằng những đứa trẻ mỗi đứa một quê, một tính và làm nhiều nghề khác nhau. Cuộc sống lang thang, xa nhà đã dạy cho bọn trẻ cách thích nghi rất nhanh với mọi hoàn cảnh và biết đùm bọc nhau trong cuộc sống. Có như vậy chúng mới tồn tại được với cuộc sống nghiệt ngã, đầy cạm bẫy này. Buổi tuối sau khi tắm giặt xong xuôi, chúng thường kể cho nhau nghe về công việc trong ngày, về những điều mắt thấy tai nghe. Đứa nọ bổ sung cho đứa kia những “kiến thức”, những “tin tức cập nhật” mà những đứa trẻ như chúng cần biết. Chẳng hạn khu vực nào dễ bán bánh mỳ, đánh được nhiều giầy...

     Cuối cùng sau những câu chuyện tào lao vui vẻ, chúng vô tư lăn ra ngủ.

     Mới sáng ra mặt trời đã chói chang, đài báo nhiệt độ lên đến 37oC. Thằng bé thấy người uể oải và nóng ruột rất lạ. Nắng tắt, một người làng đến báo tin mẹ nó ốm nặng, nhắn nó về. Bọn trẻ cùng nhau gom được 100.000 đồng, thằng Tính đặt vào tay nó tờ 50.000 đồng phẳng phiu:

- Đây là tiền tiết kiệm của em, anh cầm đỡ tiền tàu xe, mua thuốc cho bác. Khi nào bác khỏe anh lại ra với chúng em nhé.

     Chiếc xe khách kín chỗ cứ ì ạch leo qua những con dốc. Từng hàng cây quen thuộc hiện ra trước mắt thằng bé. Thế mà nó cũng xa nhà gần một năm rồi. Chắc ở nhà mẹ và các em nó mong lắm. Nhưng việc mà trước khi đi mẹ nó dặn đi dặn lại rằng phải cố gắng mọi cách tìm ra manh mối của bố nó thì nó vẫn chưa làm được. Bố nó bỏ nhà đi đã vài năm nay và lên thành phố cặp với một người đàn bà làm nghề bán cơm bình dân.

     Hai tháng sau nó quay lại phòng trọ, không phải để tiếp tục thuê trọ mà là dọn đồ đạc về hẳn quê. Nó thông báo tin mừng rằng mẹ nó đã khỏi ốm, quan trọng hơn là bố nó đã trở về nhà. Rồi nó dõng dạc tuyên bố hôm nay sẽ khao cả bọn một bữa cơm ngon lành gọi là bữa cơm chia tay với thức ăn nóng sốt, tươi nguyên, không hề có chút gì thừa. Thằng Tính tò mò:

- Anh làm thế nào tìm được bố ?

Mắt nó hàm chứa sự biết ơn khi nhìn về phía bà chủ.

- Nhờ cô ấy đấy.

Thằng Tính ranh mảnh:

- Không trừ một tháng lương rửa bát nào để trả công chứ. Ô, mà đúng thật, lần đầu tiên nó thấy bà chủ giúp nó mà không hề có một điều kiện, một giao kèo gì. Và kia, bà chủ đang vui vẻ gắp vào bát bọn trẻ những miếng thịt kho tàu thật ngon.

Điệp khúc mì tôm

   Mỗi buổi sáng thức dậy, có ai ngờ, điều kinh hãi nhất, ám ảnh nhất đối với em lại là một bát mì tôm. Chẳng ai bắt em phải ăn nó . Em có thể nhịn, em có thể chỉ uống một ly nước lọc rồi bỏ qua khâu tập thể dục và xuống bể nước với bàn chân nhón khẽ để đỡ tiêu hao năng lượng. Nhưng, cuối cùng, thì em, vẫn phải ăn mì.

Vì em không có tiền để ăn món ăn khác. Và vì em gầy quá.

Hồi mới nhập trường, em còn có thể được gọi là mảnh mai, còn có thể vênh mặt mà kiêu hãnh khi đi qua hoặc đứng cạnh những cô nàng béo tốt mà cánh sinh viên nam vẫn gọi họ là xe lu ấy. Nhưng bây giờ thay vì mảnh mai, em trở thành cây sậy, bộ xương khô…hay gì gì đó. Em đọc được sự xót xa trong đôi mắt những người đối diện mình. Thủa ban đầu em cực kỳ hãi sợ, nhưng về sau em cũng chai đi. Có ai hiểu, chỉ một mình Hân - đứa bạn cùng phòng hiểu và có thể còn một nhân vật nữa…

Những sợi mì dài loằng ngoằng, xoăn tít , váng mỡ nổi lềnh bềnh những cọng hành khô. Ti vi quảng cáo rầm trời mì tôm thơm ngon bổ dưỡng, nhưng sao em thấy mình vô cảm khi nuốt nó. ẩm thực là một cái thú khi người ta ăn bất kỳ một món ăn gì, người ta cảm thấy vô cùng hạnh phúc ngay từ khi đầu lưỡi mới chạm vào. Còn em thì ngược lại, em liên tưởng đến những con bò khi nhai rơm, chắc nó cũng như em , nhai, nuốt, chứ không phải là ăn. Người ta gọi là gì nhỉ? Ăn cho đỡ đói.

Ngày còn ở nhà, mẹ vẫn hay luộc khoai cho em ăn. Mẹ bảo: ”Ăn cho đỡ đói “. Nhưng mà sao em thấy nó ngọt ngào đến thế. Những củ khoai căng mẩy tứa mật ngoài lớp vỏ, cắn một miếng khoai mềm và thơm nức, thấy ấm cả lòng. Mà thôi nhỉ, nghĩ đến khoai rồi thì sẽ lại nghĩ đến bún ốc, bún chả, miến ngan, xôi thịt , bánh mì patê… người Hà Nội ăn ngon lắm. Trước đây, em cũng tập làm người Hà Nội, chính xác hơn là người ấy rất hay dắt em đi sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm để thưởng thức những món ăn ngon mà một con bé nhà quê như em chưa bao giờ được biết. Cho đến khi, em đã gần như có cảm giác thèm thuồng thì người ấy lại thôi. Vì sinh viên xa nhà, chỉ có thể là bạn đồng hành với túng thiếu, nỡ nần. Em thì chỉ túng thiếu, chứ không nợ nần. Còn người ấy thì em không thể nào biết được. Bởi vì…

Em không thể không nhớ như in ngày ấy, một ngày chớm đông se lạnh, em mặc áo len hồng qua phòng người ấy. Em muốn đi chơi vườn bách thú. Mỗi lần em than em nhớ con mèo nhà em quá thì người ấy lại bảo với em rằng: “Mèo chỉ là tiểu hổ, rồi anh sẽ dắt em đi xem hổ thực sự”. “ Nhưng em đâu thể bế hổ được, vuốt ve hổ được”. Em cong môi cãi. Người ấy cười nhăn nhở khoe mấy chiếc răng sún đến là duyên.

Rồi em cũng toại nguyện và no con mắt. Chúng em ăn kem, dạo bước trên thảm cỏ xanh mướt. Xung quanh em, trên đầu em, toàn lá là lá thôi, lãng mạn không tả xiết. Em thích thú ngắm nhìn tất cả những con vật nằm ngồi trong cũi. Dĩ nhiên ấn tượng nhất là con hổ. Đường về em hát líu lo vì ngây ngất. Người ấy hăng hái đạp xe chở em , huýt sáo vang trời. Người ta vẫn hỏi nhau hạnh phúc là gì, hạnh phúc của em chính là như thế này đây. Chứ không phải điều gì cao sa cả.

Về đến ký túc xá, người ấy và em đứng bên nhau ngoài hành lang tầng ba. Trời sẩm tối nhưng đã thấp thoáng những vì sao xanh lung linh hiện lên giữa màn trời nhung sâu thăm thẳm. ”Anh ơi, anh có thấy giống một bức tranh thủy mặc không?”. Em chỉ tay về phía trước thốt lên . Người ấy ừ hử. Em hân hoan , tay trong tay với người con trai em vô cùng yêu mến. Trái tim em rung lên nhịp đập bồi hồi của luồng xúc cảm ngây thơ non trẻ nhưng đầy ắp khát khao .

“Minh này.”. Người ấy ngập ngừng. Em vẫn mải mê với trời đất trăng sao nên không để ý lắm lời người ấy đang thầm thì bên tai. Đến khi người ấy giằng tay em ra, bực bội:” Em có nghe anh nói không? Hay là anh đi về cho em thoải mái một mình ngắm trăng sao?”thì em mới giật mình hãi sợ: “ Có, em có nghe !”. Người ấy rất ít khi cáu với em. Tình hình trở nên nghiêm trọng mất rồi. Nhưng rất may là người ấy đã dịu dàng trở lại: ”Em à, anh không biết phải nói sao, tháng này mẹ anh chưa kịp gửi tiền, mà anh thì đang cần mua một số tài liệu…”.” Anh cần tiền à?”. Em vào đề luôn. Em không phải là người thích vòng vo. “à, ừ”. Tiền ư? Từ bé đến lớn em chưa biết cho ai tiền bao giờ, trừ phi thi thoảng đi chợ thừa mấy trăm đồng em dành cho những người hành khất . Có lẽ trông gương mặt em khi ấy có vẻ đăm chiêu lắm nên người ấy đưa tay lên miệng em, suỵt: ”Anh tâm sự với em vậy thôi, còn em giúp được anh hay không, điều đó không quan trọng, cái chính là tình cảm của chúng mình”. “Vâng”. Em đưa tay vào túi, rút ví ra, cái ví hồng thêu những bông mai vàng yểu điệu :”Đây, mẹ mới gửi cho em, anh cầm một nửa mà mua sách”. ”Cảm ơn em, em thật tốt! Nhất định khi bố gửi lên anh sẽ hoàn trả lại cho em”.

Em sung sướng khi người ấy hạnh phúc, em soi mình trong đáy mắt long lanh của người ấy. Chúng em âu yếm nhìn nhau . Khoảnh khắc này, người ấy có muốn cả trời, cả đất em cũng dâng tặng, sá chi mấy trăm nghìn.

Em vẫn sống khá yên ổn trong hai tuần kế tiếp. Em không có nhu cầu may sắm nhiều, mỗi tháng mẹ cho em một số dư nhỏ ngoài tiền ăn để em có thể mua những vật dụng cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày. Với em, thế là toại nguyện. Nhưng đến tuần thứ ba, em đã bắt đầu cảm thấy sợ. Một nỗi sợ mơ hồ.

Em gần như đã hết tiền. Nếu tính toán một cách kỹ lưỡng thì em chỉ còn sống được năm ngày nữa. Em âm thầm chịu đựng, không nói với ai, kể cả người ấy. Hân bắt đầu dò xét, khi có nhiều trưa em ngủ luôn , không ăn cơm. Nó đi ra đi vào, nhìn em :”Mày làm sao thế, định thành con mắm đấy à? Hay là tao phải cõng mày xuống căng tin?”. Sự quan tâm của Hân khiến em chột dạ, em nhắm nghiền mắt . Mặc kệ. Đến khi nó hậm hực đóng sầm cánh cửa phòng vì phải đi ăn một mình, em mới lồm cồm bò dậy tu nước lọc. Nước lọc cũng làm cho õng bụng, cũng làm em no .Một cái no giả tạo. Nhưng có hôm, huyết áp tụt, hoa mắt, chóng mặt gần như muốn xỉu , em đã nghĩ đến chuyện đi vay tiền, nhưng nếu có vay được tiền thì em biết lấy đâu ra mà trả lại? Hơn nữa, điều làm em hãi nhất đó là mấy đứa bạn cùng quê mỗi lần có dịp gặp em lại than nghèo than khổ, trong khi những lời than ấy lại tỉ lệ nghịch với bộ quần áo trên người chúng. ở thành phố rộng lớn này, sẽ chẳng có ai đâu, giúp được em. Chỉ có người ấy là thân thiết nhất, nhưng người ấy cũng đang gặp khó khăn. Tối thứ bảy hàng tuần , chúng em ngồi uống trà đá bên quán nước ven đường khoảng mười lăm phút rồi sau đó lên tầng ba hành lang ký túc xá hóng gió đếm sao trời. Tình yêu sinh viên lãng mạn vô cùng. Sự lãng mạn ấy khiến em quên đi bao toan tính đời thường, để trở về đúng với con người thật của mình, một cô gái quê ngây thơ và trong sáng.

Cuối cùng thì em cũng vượt qua được hai tuần thiếu thốn ấy, cho đến khi nhận được tiền mẹ gửi cho tháng sau. Thôi thế giã từ những ngày nhịn ăn nhé. Em kêu người ấy chở em ra bưu điện lĩnh tiền. Chúng em đi ăn miến ngan, người ấy đi cùng em nhưng mặt buồn rười rượi. Là người nhạy cảm nên em nhận ra ngay. Em gặng hỏi nhưng người ấy không nói, đến khi về đến cổng kí túc , người ấy nắm lấy tay em, dịu dàng:” Ngày mai, anh về quê, ông ngoại anh bệnh nặng …Ông là người quý và thương anh nhất, lỡ ông có mệnh hệ gì anh làm sao sống được”. “ Vậy sao?”. Em thảng thốt kêu lên. Người ấy đang gặp chuyện buồn, và người ấy đang cần sự sẻ chia .” Vậy anh về quê ngay đi!”. “ Nhưng…”. “ Nhưng sao anh?”.” Anh hết tiền rồi…”.” Trời ơi!” Em kêu lên, nhưng em không thắc mắc . Em hiểu người ấy đang cần gì, yêu nhau là phải hiểu nhau. Ai đó đã nói thế. Em không biết mình đang làm gì , nhưng em thấy tay mình lại đang đút sâu vào túi , những ngón tay lần khẽ vào xấp tiền mỏng em vừa lĩnh mà chưa kịp cất vào ví .” Đây, anh cầm lấy mai mà về quê…”. Người ấy nhìn em, mắt rưng rưng vì quá xúc động. Có lẽ thế. Chúng em chia tay nhau sớm hơn dự tính vì người ấy phải về sửa soạn đồ đạc. Em cảm thấy mệt, vừa về đến phòng em đã ngã ra giường. “Mình không tiếc đấy chứ?”. Em tự vấn mình. Như thế thì nhỏ mọn và hẹp hòi quá. Mình yêu anh thực sự , và mình sẵn sàng hy sinh vì tình yêu ấy”. Em hạ quyết tâm, cố gắng xóa đi cái ám ảnh đói khát đang chờ trực ở phía trước.

Hân đi siêu thị, em nhờ nó mua cho em ba chục gói mì tôm. Nó trợn mắt nhìn em . Em làm ra vẻ bình thản:” Tao lười đi lắm, ăn mì cho thuận tiện”. Hân kéo tay em lôi sềnh sệch ra khỏi phòng:” Mày không bị điên đấy chứ?”” Không”. Em quay đi tránh ánh mắt sắc lém của Hân khi nhìn thẳng vào mắt em:” Mày nói đi, sự thật là thế nào? Trước đây mày không như thế này…”. Em nhìn Hân bủn rủn. Và em đã không thể giấu nó. Em kể hết. Hân vừa nghe vừa nghiến răng kèn kẹt. Nhưng nó không phản ứng gì hơn. Một lúc sau, nó đi ra ngoài, lúc về nó bảo em: ” Chàng của mày hôm nay về quê à?”.”ừ”.” Sao tao thấy hắn đang ngồi dưới căng tin với lũ bạn hắn”.” Mày có nhìn nhầm không?”. “Không tin xuống đó mà xem”. Giọng Hân tưng tửng. Không lẽ người ấy dối em? Em chạy xuống căng tin, sửng sốt khi nhìn thấy người ấy đang ngồi giữa đám đông , bên cạnh những người bạn của người ấy. Họ đang ăn sáng và nói cười vui vẻ. Người ấy không nhìn thấy em . Mà em cũng không muốn điều đó xảy ra. Sẽ chẳng làm gì cả.

Em lủi thủi về phòng.

Hân liếc bộ mặt buồn như đưa đám của em và không bình luận gì. Có lẽ , nó muốn khơi dậy sự tự ý thức trong em. Em muốn ngủ. Em nằm nghiêng, mắt nhìn lên bức tường xanh , em nhìn lên những vết nứt. Không hiểu tình yêu của em và người ấy có những vết nứt như thế hay không? Em không giận hờn, trách cứ, tuyệt nhiên không có chút gì cảm giác đó. Mà em chỉ thấy mình đang đau khổ.

Những chuỗi ngày tiếp theo em bắt cái dạ dày tội nghiệp của em chiến đấu với mì tôm. Quen đi chứ, cái gì lặp đi lặp lại nhiều lần mà chả trở thành thói quen. Bữa sáng. Mì tôm. Bữa trưa. Mì tôm. Bữa tối. Em mới được ăn cơm. Tối thứ bảy, người ấy cử một anh bạn vàng sang phòng em thẽ thọt:” Quân nó nhờ anh nhắn với em là nó đang bận ôn thi, không qua em được”. “ Vâng ạ”. Em cúi đầu. Xong nhiệm vụ, người bạn thân của người ấy hỏi dăm ba câu nhạt thếch rồi lủi nhanh sau cánh cửa gỗ màu xanh. Em những muốn lao đầu theo, nhưng chân em tê cứng lại. Em ngồi chênh vênh, ngơ ngác không biết mình đang nghĩ gì.

“Mày xem thế nào đi chứ? Thật xấu hổ khi tao lại có đứa bạn hèn hạ và đáng thương như mày”.” Hân dường như quá bức xúc, bắt đầu sỉ vả em . “Thế tao phải làm gì?”. Em chống chế: “Tao không biết giận ai cả”.” Tao không cần mày giận, nhưng phải làm một cái gì đó. Mày không thể nhịn ăn như thế mãi được”.” Vậy tao phải làm thế nào đây?”.”Mày phải qua gặp hắn, nói với hắn là mày hết tiền, hắn cần phải lo cho mày”.” Tao không làm thế được”. Em gần như hét lên. ” Tại sao lại không khi hắn làm được điều đó với mày”.

Ừ nhỉ! Người ấy nói được, tại sao em lại không thể nói ra , rằng em cần tiền lắm, em không thể sống khổ sống sở mãi thế này được. Trong một giây phút hăng máu, em thay đồ qua khu kí túc xá nam.

Đây là một căn phòng bé nhỏ và quen thuộc. Em vẫn lui đi lui lại nhiều lần. Vẫn cánh cửa gỗ nâu sờn mỗi lần cơn gió thốc ngang qua là va đập liên hồi tạo nên những thanh âm hoảng hốt. Chưa bao giờ, căn phòng này lại gây cho em một cảm giác hoang mang hãi sợ thế này.

“ Minh uống nước đi…”. “ Cảm ơn anh”. Em đón cốc nước lọc từ tay người ấy. Hôm nay người ấy mặc quần tây áo sơ mi trắng là thẳng nếp, có lẽ người ấy vừa đi đâu chơi về .” Em biết đấy, dạo này anh bận bịu quá.”. ”Dạ”.” Em dạo này thế nào”.” Em bình thường. ” Tốt” . Mấy anh chàng ở chung phòng người ấy nhấm nháy nhau cười rồi leo tót lên giường trùm chăn kín mít. Em uống hết ly nước lọc , xoay xoay miệng cốc. Người ấy với tay lấy tập giáo trình , lật đi lật lại từng trang.

Tất cả diễn biến đều không theo ý em, không một chút nào. Đáng lẽ, khi người ấy hỏi em sống ra sao thì em phải nói là em thiếu thốn và mỏi mệt đến nỗi sức khỏe em sa sút lắm rồi, nhưng em lại nói là em bình thường. Trời ơi. Thế mà là bình thường hay sao?

“ Em đợi anh một chút!”. Người ấy đi ra khỏi phòng. Em ngước lên tường . Đồng hồ chỉ mười giờ đêm. Giờ này, chắc Hân đã đi ngủ. Em và Hân nếu không phải kỳ thi thì thường đi ngủ vào giờ này. Nhưng em lại ngồi đây, chơ vơ, như một vị khách bất đắc dĩ. Dường như em đọc được sự miễn cưỡng trong đáy mắt của người ấy khi tiếp em. Nhưng chỉ là dường như thôi, vì cho dù có nhạy cảm đến đâu em cũng không dám tin đó lại là sự thật.

“ Ngoài trời lạnh quá!”. Người ấy bước vào xuýt xoa, trên người chỉ còn độc một chiếc quần đùi. Người ấy vắt chiếc khăn mặt lên vai. Em vừa tính rủ người ấy ra hành lang đứng thì xem ra, người ấy đã không hề muốn . Tình thế, đã đến lúc không thể xoay chuyển nữa rồi.

“Lâu rồi em có gọi điện về cho bố mẹ không?”. Em im lặng, so vai, ủ rũ. Có lẽ nhìn em lúc này chẳng khác gì một con mèo hen tội nghiệp. Nhưng người ấy không nhìn em mà hướng cặp mắt đẹp lên tường, đến lượt người ấy xem đồng hồ. Tự nhiên, em thèm nghe lại cái câu nói đáng ghét mà ngày mới quen người ấy mỗi lần bên em vẫn nói:” Sao em gầy thế?”.

Nhưng người ấy không nói gì cả. Em cũng không còn gì để nói. Chiếc cốc thủy tinh trên tay suýt vỡ vì em bóp chặt. May mà người ấy đã đón lấy và rót thêm nước cho em. Em bao quát xung quanh để xem có thể hướng ánh mắt của mình vào một điểm nào đó cho đỡ chênh vênh hay không? Nhưng chẳng có gì, ngoài bức tranh vẽ một đôi trai gái đang hôn nhau. Em cảm thấy xấu hổ.

“ Minh uống nước đi!”. Nước. Ngày nào chả uống nước. ôi, tự nhiên em chán quá, chán đến mềm người. Em dằn cốc nước xuống bàn. Tiếng động khẽ vang lên làm cho mấy cái đầu bù rù trên giường thò ra khỏi chăn. “ấy chết!”. Người ấy kêu lên , cúi đầu nhặt chiếc giẻ lau đi lau lại những giọt nước bắn tung ra mặt bàn. Em nhìn bàn tay người ấy, những ngón tay trắng trẻo và mềm mại như tay con gái . Những ngón tay ấy đã từng nắm tay em, từng lùa vào tóc em. Xúc cảm trong em tự nhiên lại dâng tràn. Dù em vừa qua cơn giận dữ . Đã bao lần em không thể kiểm soát được chính mình? Như ngày hôm nay …Đã bao lần rồi nhỉ? Đầu óc em quay mòng mòng những suy tư hỗn độn. ” Mày phải qua gặp hắn, nói với hắn là mày hết tiền, hắn cần phải lo cho mày”. Lời Hân nói bất chợt vang lên rồi tan biến, tan biến và chìm nghỉm như bọt biển.

“ Anh biết không?”. “ Gì hả em?”. Người ấy bắt đầu ngáp vặt.” Không có gì đâu ạ?”. “ à , ừ…”.Em thở dài , thất vọng với chính mình kinh khủng.Vì em cảm thấy mình vô duyên. Khi em không thể tạo ra được một tình huống khả dĩ nào. Và thế là em chỉ còn cách là đứng dậy.

Người ấy líu ríu theo em. Người ấy không mặc thêm đồ, điều đó có nghĩa là người ấy không tiễn em về. “ Thi xong , anh sẽ qua em ngay”. Người ấy chạm khẽ vào vai em. Em đếm những bước chân của mình trên từng bậc cầu thang hẹp. Thực sự là em đã muốn nói một cách không hề băn khoăn rằng:” Anh biết không? Em nhớ anh nhiều lắm”. Nhưng ngay cả câu nói này, em cũng không thể . Rốt cuộc em không thể làm được gì cả, ngoài tình yêu mà em đã có.

Tự nhiên, em muốn khóc.Vì sương mùa đông giăng kín thấm đẫm cô đơn làm cho em lạnh quá. Vì em nhận ra cuộc sống không chỉ đẹp và đơn giản như những giấc mơ. Chứ không phải vì sáng mai, sáng ngày kia và những ngày kế tiếp, em phải ăn mì tôm. Dù nó đã ăn sâu vào tâm trí em như một nỗi ám ảnh khôn nguôi và không bao giờ dứt.

 

 

Dưa Cà Mắm Muối

Ông bà đi một tháng thăm mấy cậu dì học xa. Kinh nghiệm những lần trước nhà thiếu bà như quân thiếu tướng, bừa bãi chồng lên nhau một tí, bẩn quệt lên nhau một tí, không lâu trong nhà ngoài vườn thừa điều kiện đón bà về bằng nỗi bàng hoàng. Lần này bà dặn vợ chàng, "Mẹ đi cuối tuần chị chịu khó ghé xem trong ngoài hộ mẹ." Cậu em cười, Chưa chi mẹ lo cái vườn đấy." Bà gắt, "Liệu mà lo cơm nước cho bà cố." Chàng bảo vợ, "Dưới vòm trời đâu có mẹ có vườn đó có chút quê hương." Mấy đứa cháu nhỏ bà gom về hết. "Các anh các chị bận đi làm," bà bảo, "hè cứ đem hết về đây cho bà trị." Thằng út chàng nằm trong số gom quân. Dì út nghiễm nhiên xử lý thường vụ chức tư lệnh. Bảng phân công gắn trên tủ lạnh. Lính tráng tuân lệnh răm rắp. Cuối tuần ghé, nó cầm vòi tưới, khoe, "Con phải làm thôi. Thằng Khôi to con lo cắt cỏ. Cái Vân tưới dối, chết cây bà." Chàng hỏi, "Thế tưới sao mới thật?" Nó bảo, "Thọc hết ngón tay xuống vẫn ướt mới đủ." Vợ chàng nói, "Bà bảo không sai. Thằng này tóc quăn, sau lại khổ." Chàng nói, "Cỡ bố nó là cùng." Vợ chàng cười, "Tóc anh hết quăn rồi." Chàng thở ra, "Hói còn quăn vào đâu!"

Tưới đều thế mà mấy gốc dưa gang, nhất là mấy luống cà bát cà pháo chưa ra hoa. Bà cố ra vườn bảo, "Năm nay dám mất mùa cà. Giờ chưa ra hoa mát trời sợ hỏng." Chàng nói, "Chắc do thời khí, hai năm trước cũng vậy đó bà." Bà cố hỏi, "Thế hai năm trước cũng mất mùa à? Bà chẳng nhớ đâu đấy." Chàng chỉ con, cười, "Quên gì bà hỏi thằng này. Nó nhớ dai lắm. Mê món cà bung nó nhớ hết." Bà cố quay vào, lẩm bẩm, "Té ra ở Mỹ đáng quên là con gà đáng nhớ là quả cà, lạ đấy nhỉ!"

Chàng nói với cậu em sắp lấy vợ đang ngồi sang lại mớ băng chuột mèo, "Nhớ lấy, mai mốt bảo mợ ấy trồng cà." Cậu em cười tít mắt dúi mũi vào máy. Chàng nghĩ cậu này sẽ không nhớ chuyện cà nhưng rồi cũng khổ. Cậu đang cố lưu giữ loại hoạt hoạ nay không còn trình chiếu phổ thông, ý để cho lũ con tương lai hưởng được tiếng cười thời các cháu cậu đã hưởng. Vợ chàng cự nự, "Cậu ấm ớ." Chàng không can thiệp nhưng nghĩ đàn bà không hiểu với đàn ông dĩ vãng chẳng riêng đẹp còn cần. Cậu em đang sốt sắng giữ một dĩ vãng gần. Thế hệ chàng nôn nả với dĩ vãng xa.

&

Xưa còn sống mẹ chàng hay ăn cơm với trám muối, nhất là dưa muối xổi. Cha chàng lại thích cà. Quanh năm nhà có những vại cà nén. Mỗi khi gắp miếng cà lên cụ thường bảo, "Trong như miếng hổ phách thế này mới ngon." Trải bao loạn lạc, bồng bế nhau vào Nam, ê răng, cụ thôi ăn cà nén xoay sang ăn cà pháo ngâm tương. Cụ thường muối lấy, ngâm lấy; và khi gắp quả cà lên vẫn lời xưa ý cũ: "Trong như miếng hổ phách thế này mới ngon." Mấy chú mấy cô sau lập gia đình ở riêng, thấy cũng muối cũng ngâm cà kiểu ấy, nói câu ấy.

Ở Mỹ có đủ thứ nhưng đâu phải nhất nhất tìm ra miếng hổ phách để giải thích cho lũ trẻ miếng cà ngon phải như thế nào. Vả giải thích ích gì khi chúng nhai dưa chuột muối rau ráu, chép miệng chơi cũng hết lọ ô-liu, có khuyến khích nhai thử quả cà chỉ ngao ngán đưa nhận xét "vừa dai vừa chẳng mùi vị gì bố ạ." Chàng kiên nhẫn bảo, "Cà Thái đóng lọ nó thế. Phải trong như..." Mới đây vợ chàng bật cười cắt ngang, "Cuối tuần này chắc khỏi về bà." Chàng hỏi, "Sao thế?" Nàng đáp, "Kẹt chị Kim hẹn đem nhẫn lên cho xem. Năm ly thôi. Em phải lo trước. Cứ để cậu ấy loay hoay phút cuối thiếu nhẫn cô dâu thì chết." Chàng nhớ đến bà bạn già vui tính. "Từ San Diego lên à?" Chàng hỏi. "Dặn chị ấy đi xa đừng mang nhiều món, cướp bóc như rươi." Như chưa thoát khỏi từ trường mấy chiếc nhẫn, vợ chàng kể, "Kỳ trước em xuống chị ấy cho xem toàn hột nước trắng, dầu hoả thích hơn." Chàng cười, "Cứ nước này nước nọ, chẳng hiểu gì." Vợ chàng dấm dẳng, "Đàn ông!" Đứa lớn như từ lâu đợi bố lọt ổ phục kích, cười chen, "Kim cương với bố như cà với con, cứ hổ phách hổ phách con cũng chẳng hiểu gì."

&

Khi không chàng buồn hụt hẫng.

&

Đầu tháng chín ông bà về tới. Mấy đứa bé như có chỗ trút một gánh nặng. TV thoải mái, game thoải mái. Dì út tíu tít khoe thành quả tề gia nội trợ. Cậu em tạm rời giàn máy hát, nằm võng sau nhà nghiền ngẫm quyển "Yêu Con Như Một Người Cha Lớn" của một tác giả Á châu nào đó. Bà cố vẫn thủng thẳng ra vào, độc thoại, "Ở thì nhớ mồ mả, về thì nhớ cháu con, chẳng biết định sao nữa." Ông thì trở lại với những giáo trình soạn dở. Chỉ bà xắn tay lao tiếp vào những công việc quen thuộc mà giá có thọ trăm tuổi tưởng vẫn thiếu thì giờ hoàn tất. Thấy vợ chồng chàng lên, bà hỏi, "Sao dạo này anh gầy thế?" Chàng tính đáp "con mất ngủ quá" nhưng vợ chàng đã nhanh nhẩu đáp, "Có chịu ăn đâu mẹ. Gàn lắm. Cứ bảo gốc nông dân, toàn mơ cua đồng mồng tơi rau đay mướp hương và cà... và phải trong như miếng hổ phách cơ!" Bà nhìn vườn cười bảo, "Thoại được việc, hy vọng có ít quả ăn ghém."

Rồi cả nhà rộ lên chuyện cô dâu chú rể trong mâm cơm rôm rả tiếng cười. Chàng ăn xong ra vườn đứng hút thuốc. Gió như bước chân mùa thu khẽ tới. Hoa lá co cụm lời thủ thỉ vĩnh biệt nhau. Chàng không biết chia với ai mối lo xương thịt. Mấy ngày trước điện thoại về Việt Nam chàng hay tin cụ vào bệnh viện. Chú em trấn an, "Cậu vẫn gắt, nói nhạt miệng thèm cơm cà, vậy vẫn khoẻ anh cứ yên tâm." Chàng tính nhắc "quả cà bằng ba chén thuốc" nhưng lan man chuyện khác, quên mất. Nhớ tuần trước nữa được nói chuyện với cụ, chàng nói sẽ về thăm, cụ lặng giây lâu, giọng thều thào, "Nghe nói lại phải xin xỏ, cam kết, quỵ luỵ..." Cụ ngừng, còn chàng thì bâng khuâng mãi. Phải đó là thứ sau cùng ở mỗi người cha mà thời gian không thể làm tiều tuỵ?

Trời trùng hẳn. Gió thổi mây xoắn xít. Và lòng chàng cũng xoắn xít một nỗi thương nhớ lộn màu thấm thía lo âu.

Nhớ hôm ấy chàng về tới nhà đã chạng vạng. Mấy đứa lớn hết hè trở lại các trường phương xa từ tuần trước. Vợ chàng và thằng út nán lại nhà ông bà bàn thêm chuyện cưới hỏi.

Chàng đứng ngoài ban-công nghe tiếng quạ kêu trên mấy ngọn cọ, bất ổn. Mai mình sẽ hỏi một hãng du lịch xem sao, mua vé về tưới chuyện gì hậu xét. Tưới cho mấy chậu ớt ít nước chàng mới mở cửa. Đang khi loay hoay xỏ chìa khoá chàng thấy trên cửa gắn miếng giấy nhỏ. Miếng giấy mang chữ ký người anh họ viết vội: "Gọi mãi không ai bắt phone. Anh chị đến cũng không gặp. Báo chú biết cậu mất rồi."

Khi không chàng không biết mình đang đứng bên mặt nào của cánh cửa; hồn tênh hênh, nhẹ hẫng, trong như miếng hổ phách. Cũng khá lâu chàng thấy bầu trời nhá nhem thoắt đổi thành màu hoa cà mênh mang, rười rượi, trễ tràng. Chàng bấm ba lần mới gọi trúng số nhà cha mẹ vợ.

Chín giờ sáng hôm sau chàng mới choàng dậy, ngửi thấy mùi hương nến phòng ngoài, lòng hoang mang không hiểu sao lại có thứ giấc ngủ bất nhân. Tối qua quên chàng đâu uống thuốc. Nắng lách màn gió đặt một dải tang trên bàn.

Con chàng khẽ mở cửa, mắt bối rối, một lát nói nhỏ:

"Mẹ đi mua hoa. Ông bà gọi lúc bố còn ngủ. Tối qua bà bảo bói mãi mới được mấy quả, đem hết về cho bố. Bói là gì bố?"

Chàng cay mắt nhìn con, bất giác thấy có gì xông lên mũi, hăng hăng, mặn mòi, tựa mùi dưa cà mắm muối.

Một ngày ở quê

Truyện ngắn của Trọng Bảo

          Một ngày ở quê. Đang đi lang thang trên con đường mới mở ven đồi, tôi chạm trán lão Vụ đang cố đạp cần khởi động chiếc xe máy Trung Quốc cũ kỹ. Vừa nhìn thấy tôi, lão Vụ liền reo lên mừng rỡ:

          - May quá! Anh xem giúp cái xe… Tự dưng nó giở chứng không chịu đi nữa!

          - Bố kiểm tra lại xem hay là hết xăng?

          Tôi nhắc lão. Lão càu nhàu:

          - Hết là hết thế nào! Vừa đổ xăng lúc sáng, mất mẹ nó cả chục lít rượu sắn đấy!

          Tôi đặt khóm cây dương xỉ vừa nhổ được xuống vệ đường để giúp lão Vụ. Tôi đạp liền mấy cái. Chiếc xe máy cũ kỹ chỉ hừ hự rú lên rồi lại im bặt. Tôi mở nắp bình xăng. Đúng là bình xăng còn đầy ắp. Tôi rút bu-ri ra lau kỹ rồi lắp vào. Đạp cần khới động. Chiếc xe vẫn không chịu nổ máy. Tôi lại xem xét chiếc xe rồi kêu lên:

          - Bố khoá đường dẫn xăng lại thế này có mà đạp đến Tết nó chả nổ!

          Tôi mở khoá xăng rồi nhún nhẹ cần khởi động mấy cái chiếc xe đã rú lên bành bạch. Lão Vụ nghiến răng ken két:

          - Mả bố anh em nhà thằng Ngan, Ngỗng. Lúc nãy hai anh em nó xúm xít vào khen lấy, khen để chiếc xe này còn mới, máy còn ngon rồi lén khoá lại đấy. Chúng nó định chơi xỏ tao phải dắt bộ về nhà. Tý nữa mà gặp tao sẽ tẩn cho hai thằng trời đánh ấy một trận…

          Lão Vụ lại càu nhàu nói rồi bảo tôi:

          - Mới về thăm quê à! Lên đây tao đèo về luôn…

          Thấy tôi ngần ngừ vì muốn kiếm mấy cái cây dại ven rừng. Lão giục:

          - Vứt mẹ nó mấy thứ cây vớ vẩn này đi. Về nhà tao leo lên cây de già mà gỡ lấy mấy khóm phong lan. Có một khóm đang nở hoa đẹp lắm.

          Nghe lão nói vậy tôi thích quá. Tôi vội leo lên ngồi sau lão. Lão loạng choạng phóng xe đi. Chợt tôi hốt hoảng:

          - Không có mũ xe máy công an tóm được phạt chết.

          - Công an nào thèm vào con đường rừng này mà sợ! Đứng trong đường rừng để họ ăn cháo à?

          - Nhưng bố có biết đi xe máy không đấy, sao cứ loạng choạng thế?

          - Hề… hề… biết hết! Cả làng này ai mà chẳng biết đi xe máy. Tháng nào làng ta chả có thằng chết, thằng vỡ đầu, thằng gãy chân, què tay vì ngã xe máy… Ngày mới tập đi xe máy mấy lần tao phải phóng vào cây rơm ở cổng mới dừng lại được đấy! Hôm qua, bà Mía còn lao tõm luôn cả xe lẫn người xuống ao, uống no nước suýt chết, phải nhờ người buộc dây thừng khiêng xe lên bờ đấy!

           Nghe lão nói tôi phát hoảng. Tôi bảo lão để cho mình cầm lái cho nhưng lão nói: “Không cần, sắp về đến nhà rồi”.

           Nhà lão Vụ ở cuối xóm Trại. Ngày xưa khi tôi còn bé. Tôi nhớ chỗ này là một khu rừng già, cây cối um tùm, có nhiều loại gỗ quý. Bây giờ chỉ còn sót lại hai cây lim to, vài cây bứa già, mấy cây ngát, cây de, cây thành ngạnh ở một góc đồi rộng độ hai mẫu. Đấy là công lao của lão Vụ. Lão đã bảo vệ được góc đồi cây nguyên sinh cạnh nhà khi xung quanh người ta đã chặt phá hết để làm nương trồng sắn, trỉa ngô.

           Tuy không phải lao vào cây rơm để dừng xe nhưng lão Vụ cũng loạng choạng suýt ngã vì chiếc xe máy chở nặng leo lên dốc. Để xe máy ở sân, lão Vụ kéo tôi ra khu rừng nguyên sinh nhỏ bé của mình. Lão leo lên cây de sù sì định nhổ một khóm địa lan to. Tôi vội ngăn:

           - Bố chỉ tách cho tôi vài nhánh thôi nhé! Để yên ở trên cây nó mới tốt!

           - Hừ… để tao lấy cho đem về mà trồng. Bọn thằng Ngan, thằng Ngỗng mấy lần nhòm ngó định nhổ trộm rồi đấy!

           Lão Vụ leo cây như con sóc. Một loáng lão đã tụt xuống đưa tôi một bụi lan kiếm, một nắm giả hành lan lọng và bốn nhánh thuỷ tiên. Tôi bảo lão thôi đừng lấy nữa để trên cây cho lan phát triển. Với số phong lan lão đưa tôi ở đường Hoàng Hoa Thám, Hà Nội cũng đến mấy trăm ngàn đồng chứ chẳng phải chơi.

           Lão Vụ kéo tôi vào nhà. Lão lôi chai rượu ra. Từ chối chả được, tôi đành làm một chén nhỏ. Nhăn mặt nuốt ngụm rượu sắn đắng ngắt, tôi vừa bảo:

           - Nông thôn bây giờ khá quá nhỉ,! Nhà nào cũng có xe máy, ti vi, tủ lạnh...

           - Thì... cứ bán đất đi là có tất! Mà phải cám ơn cái anh Tàu khựa. Nó đánh mình vỡ đầu mẻ trán nhưng cũng nhờ nó mà cả làng ta ai cũng có xe máy phóng vù vù. Tao mua lại cái xe này của thằng Lẫm, có năm triệu đồng, chả bằng nửa con trâu, thêm năm trăm ngàn nữa mua lấy cái bằng lái thế là phóng luôn ra đường...

           - Nhưng nông dân bán mất ruộng thì biết làm gì?

           - Mất ruộng thì đi làm thuê! Tiền làm thuê một ngày bằng hơn hai yến thóc, ăn đủ!

           - Thế khu công nghiệp họ không tuyển công nhân à?

           - Có chứ! Nhưng họ dự định tuyển loại U70 như tao vào bộ phận chuyên chế tạo vũ khí hạt nhân thì chúng tao làm thế quái nào được chứ? May mà tao còn một sào ruộng thụt chó trong thung lũng và bãi nương trồng sắn gần nhà nên vẫn đủ gạo ăn và rượu uống ngày ngày…

           Lão Vụ cười phô cả hàm răng đã bị khuyết mất mấy cái. Tôi lại hỏi:

           - Thế bọn thanh niên làng làm gì?

           - Chúng nó là công nhân chính hiệu chứ còn làm gì nữa. Chúng nó còn là những "trí thức" nữa đấy. Anh xem! Chúng nó suốt ngày, suốt đêm ngồi trong quán Internet chơi "gêm" trông có giống những cán bộ đang nghiên cứu khoa học không chứ?

           Tôi ậm ừ và định chào lão để về thì chợt nghe có tiếng kêu khóc ầm ĩ ở giữa xóm. "Giết... nó giết... tôi rồi... ".  Tôi hốt hoảng bảo lão Vụ:

           - Bố phải sang ngay xem có chuyện gì...

           - Tiếng con mụ Hoát đấy!

           - Hình như có đánh nhau to, chúng ta cùng đến xem thế nào?

           - Kệ mẹ mụ ta! Ngày nào chả thế. Ông chồng nã tiền để đi mát-xa, tắm hơi rồi uống rượu về đòi chi thêm để đi tiếp. Mụ ta không chịu nên bị xơi vài cái bạt tai ấy mà… Chỉ tý nữa thôi trúng con đề mụ ấy lại cười xoe xóe cho mà xem! Ngày nào cũng thế mà, nhiều tiền thì sinh chuyện…

           - Nhà bà ấy ngày xưa nghèo nhất xóm cơ mà, lấy đâu ra tiền?

           - Ôi dào… mấy sào ruộng nhà mụ ấy sát đường được đền bù nhiều tiền nhất xóm. Nhận cả bao tải tiền đền bù đấy. Cả nhà ăn chơi thoải mái, hả hê… nhưng cũng chỉ được thời gian thằng con trai duy nhất vướng vào nghiện hút phải đi cai rồi, ông chồng thì sa vào cờ bạc, thích vui vẻ tươi mát, suốt ngày nã tiền vợ…

           Nghe lão Vụ nói kể chuyện xóm làng tôi thấy lòng mình trống chếnh. Rời nhà lão Vụ tôi đi dọc con đường mới mở ven xóm Trại. Vừa đi tôi vừa ngắm nhìn những căn nhà hai bên đường. Nông thôn miền núi đất rộng thế mà hai bên con đường liên xã cũng chia lô, xây nhà ống chen chúc như ở thành phố, cũng có những quán cà phê vách ngăn, những tiệm cắt tóc, gội đầu thư giãn, những nhà nghỉ cửa kính tối màu. Thành phố có gì bây giờ làng quê có nấy. Ra đường trẻ con mẫu giáo cũng “hê-lô”, “gút-bai” ríu rít, bà già cũng điện thoại di động cầm tay vừa gánh phân ra ruộng vừa í ới gọi nhau hẹn đi lên đồng, áp vong, lễ phật…

           Một ngày ở quê để lại trong tôi một sự cảm nhận có những cái đang hình thành và bao điều đang dần dần tàn phai sau lũy tre làng ngàn đời yên ả.

Giông tố hay là chuyện cha từ con

Nhân vật chính trong câu chuyện này là nàng và hai cha con. Người cha đã bước qua ngưỡng tuổi xưa nay hiếm nhưng trông vẫn còn rất hào hoa phong nhã, tóc đen, da mặt chưa có nếp nhăn, tai to, mắt sáng, nụ cười tươi của một người lạc quan yêu đời. Không lạc quan yêu đời sao được khi hoạn lộ của ông là một con đường rộng thênh thang thẳng tắp đã đưa ông lên đến những ngôi vị cao sang với tiền tài và danh vọng. Nói phải tội, sau khi tiễn đưa người bạn đời quê mùa cục mịch về chốn vĩnh hằng gần được một năm nay, nụ cười yêu đời chưa bao giờ tắt trên môi ông. Người con là con trai cả, còn thiếu vài tuổi nữa thì đến ngũ thập nhi tri thiên mệnh, dáng người cũng dong dỏng mình dây như cha, khuôn mặt thừa hưởng những nét của người cha trừ cái cằm hơi lẹm và nhọn nên nhìn không được đầy đặn và sung mãn. Thế còn nàng? Nàng kém người con ba tuổi, sự bừng tỉnh của những xúc cảm tuổi hồi xuân, cái thời kỳ dậy thì lần thứ hai trong đời người phụ nữ khiến nàng nhiều phen nôn nao xao xuyến một cách vô cớ. Da trắng như tuyết, mắt sắc như dao, cổ cao ba ngấn, lông mày đen nhánh, gò má hơi cao, tóc quá ngang vai, môi hồng mọng ướt. Tất cả những cái đó chỉ có tác dụng tạo nên sự hấp dẫn ban đầu nhưng chưa phải là sức mạnh của nàng. Sức mạnh của nàng là khả năng diễn xuất tuyệt vời của một diễn viên siêu hạng. Ban đầu nàng xuất hiện trong ngôi biệt thự hai tầng có khoảng sân rộng trông ra một đường phố chính xây từ thời Pháp thuộc với vai bạn gái thân thiết của người con đồng thời là đối tác trong kinh doanh bất động sản. Nàng ngoan ngoãn và dễ thương lắm nên được người cha nhận làm con nuôi. Rồi sau những lần gặp gỡ riêng tư giữa người cha và con gái nuôi, nàng chuyển vai thành người yêu của người cha và sau đám cưới mới tổ chức gần đây nàng nghiễm nhiên trở thành kế mẫu. Bạn gái, con nuôi, người yêu rồi mẹ kế, ngần ấy vai vai nào nàng cũng diễn thật khéo, không chút va vấp, không chút ngượng ngùngNgười chịu thiệt thòi trong vở diễn là người con. Có phải vì mất người bạn gái thân thiết mà anh ta hận chăng? Không phải! Tuy quan hệ giữa hai người trên mức tình cảm nhưng nàng chỉ là phở và anh ta đã có cơm ăn rồi. Mà là cơm ngon và ăn no, gia đình họ có tiếng líu lo của con trẻ, chỉ khi nào chán cơm mới đi ăn phở đổi gió. Câu chuyện nàng lèo lái để nhẩy phắt một phát từ bạn gái lên mẹ kế tuy có làm người con khó chịu chứ chưa đến mức bức xúc. Vậy thì người con bức xúc nỗi gì? Sự đời đen bạc vì tình và tiền, không bức xúc vì tình thì chỉ còn nỗi hận vì tiền. Hận vì số tiền lớn người con cho nàng vay có khả năng bay theo mây theo gió. Đã thế Công ty cổ phần kinh doanh bất động sản của nàng trên bờ vực phá sản, để cứu vãn tình hình nàng đã dỗ ngon dỗ ngọt người cha thế nào đó để ông đồng ý đưa sổ đỏ ngôi biệt thự ba tầng mới xây trên mảnh đất rộng hơn tám trăm mét vuông nhìn ra mép nước Hồ Tây mang ra ngân hàng thế chấp để vay tiền. Đến khi người con biết thì đã quá muộn không còn cách nào cứu vãn được nữa. Chuyện này như mồi lửa đốt cháy gan ruột người con.

Chiếc Toyota Fortuner 2.7V từ từ đỗ lại trong khoảng sân của ngôi biệt thự hai tầng nhìn ra một đường phố chính của Hà Nội. Chiều hôm nay thời tiết Hà Nội xấu. Sự xung đột giữa vùng áp thấp nóng đến từ phía tây với khối không khí lạnh từ phía bắc tràn xuống gây ra những hiện tượng thời tiết bất thường. Mây đen thấp và vần vũ, gió ào ào chạy trên những tán cây, cuốn theo những chiếc lá bay lả tả rồi rơi xuống mặt đường, quấn theo những vòng bánh xe lăn còn trên mặt đường thỉnh thoảng lại bốc lên những vòng xoáy bụi. Cơn giông ập đến với những hạt mưa to và nặng rơi nghiêng. Người con đẩy cửa bước vào nhà mang theo một luồng gió mạnh thổi thốc vào những tấm màn che sặc sỡ treo ở các cửa sổ. Đề tài chính của câu chuyện được đề cập đến ngay không cần úp mở, câu chữ va đập chan chát:

- Không có sự đồng tình đồng mưu của ông thì đố đứa nào dám mang sổ đỏ ra ngân hàng thế chấp. Giá đất bây giờ ở đó là bao nhiêu ông có biết không? Gần bốn trăm triệu đồng một mét vuông, vị chi giá trị cơ ngơi ở đấy nếu thế chấp ngân hàng có thể vay được ngót ba trăm tỷ đồng. Ba trăm tỷ đồng, ông có nghe rõ không? Lý luận kinh điển bề bề/Thần l…ám ảnh thì mê mẩn hồn. Thời ông còn đương chức đương quyền, về các địa phương đăng đàn diễn thuyết đi đến đâu ông cũng dặn người ta nuôi con gì, trồng cây gì. Bây giờ thì rõ rồi nhé, ông trồng cây si, nuôi con ca ve.

Người cha cắt lời:

- Thằng mất dạy, mày dám bảo kế mẫu của mày là ca ve…

- Còn hơn là ca ve. Ông tưởng là thanh tao cao quý lắm sao? Tuy kém tôi ba tuổi nhưng nàng đã ba đời chồng, đời đầu tiên chê là lạnh như kem, đời thứ hai dang dở không rõ tại ả hay tại anh, đời thứ ba chê là đần. Sau đời thứ ba mới là bạn của tôi, mà ông đừng có tưởng rằng là bạn thanh mai trúc mã nhé. Vợ con đề huề rồi, tôi thiết gì. Chẳng qua cũng chỉ là đổi gió lấp những khoảng trống và lợi dụng nhau vì tiền thôi. Và bây giờ thì tay ông lại vầy vò những chỗ mà tôi đã từng khám phá trên cơ thể của nàng, khứu giác của ông thụ hưởng những mùi hương của nàng mà tôi đã từng thụ hưởng. Ôi! Chó má thay là đời!

Người con nói những lời ấy với một giọng tự tin, bình thản, rõ ràng nhưng mỗi câu mỗi chữ lại như có sức công phá của những viên đạn nóng bỏng bắn thẳng vào tim. Người cha lảo đảo ôm ngực thả người xuống ghế, người rướn lên với cánh tay phải đưa thẳng ngón trỏ chỉ vào mặt đứa con hổn láo:

-Mày!…Mày dám nói với tao như thế a? Giống tôm lộn cứt lên đầu! Vô phúc! Mày là thằng bố láo! Từ nay tao từ mày, kể từ giờ phút này mày sẽ không còn là con của tao nữa.

Không ngờ câu chuyện lại có kết cục như thế, người con thất thần quay người bước ra cửa trước như một kẻ vô hồn. Cánh cửa sập mạnh phía sau lưng như một câu trả lời dứt khoát, người con bước đến bên chiếc Toyota Fortuner 2.7V hất hàm với người lái xe

CỤ LÝ ƠI...! ƠI CỤ LÝ

Mất điện. Bữa nhậu góp cũng đến lúc phải tàn. Mọi người giải tán. Hắn ngật ngưỡng về nhà, vừa đi theo kiểu vặn thừng vừa huýt sáo. Lòng lâng lâng. Vui, vui sao quá sá là vui…Bữa rượu tối nay thế mà vui. Đứa góp rượu, đứa góp nhắm. Hắn góp một cái đầu bò. Chỉ mất cái đầu bò mà lại được đàn em nức nở khen đại ca hào phóng. Ở cái xã này chỉ có đại ca là búa bổ. Này nhá: về nghề nghiệp thì huynh đệ ta đều trong ngành kinh doanh giết mổ. Nhưng đại ca có cơ cấu làm ăn lớn. Đúng. Đúng là lớn vì đại ca kinh doanh giải phẫu đại gia súc (ấy là nói việc hắn chuyên giết mổ trâu bò). Còn bọn chúng em chỉ loanh quanh giải phẫu mấy con ỉn còi với lợn sề thải, vốn liếng lãi lờ chỉ bằng phần mười của đại ca. Về hạnh kiểm thì đại ca là người trượng nghĩa, bọn đệ gặp khó khăn là đại ca vung dao bầu sẵn sàng bảo vệ, cứ như Lục Xuân Tiên… Ngu lại còn hay nói sách! Lục Vân Tiên chứ. À vâng… đúng rồi. Lục Vân Tiên. Còn về đường thê tử thì lại càng nhất. Này nhá: đại tỷ chân dài eo dây như người mẫu chứ chả như bọn nái sề nhà chúng em béo nứt béo trương. Mẫu cái con khỉ! Chỉ được cái nước khéo nịnh, đàn bà nhà tao gầy teo gầy tóp trông như con cá khô. Thằng nào thích, tao cho không. Ấy chết! Đại ca lại khiêm tốn, bọn đệ đâu dám. Để đệ nói tiếp: Quý tử của đại ca lại học giỏi nhất trường, cứ mỗi lần họp phụ huynh nghe các thầy hết lời ngợi ca thằng bé là bọn đệ cũng thơm lây. Cháu là Tấm gương sáng, niềm tự hào của con em trong ngành. Đại ca lại còn là hội trưởng phụ huynh của lớp. Đúng là nhất đấy! Búa bổ đấy!

Hắn nghe mà nở từng khúc ruột. Mặt giãn ra, hai cánh mũi phập phồng. Đúng thật. Búa bổ thật. Thằng con hắn mới học có lớp tám trường làng nhưng bao giờ cũng đứng đầu toàn khối. Đi thi huyện còn đạt giải. Được ông Trưởng phòng tặng giấy khen. Cái giấy đó được hắn lồng khung kính treo trên cùng trong đám giấy khen đỏ rực chiếm đến vài mét vuông của bức tường gian giữa. Để mà tự hào, để mà nở mũi nở mặt. Ai đến nhà hắn cũng khoe. Mà khoe cũng phải. Con hắn thông minh tức là cái gien nhà hắn thông minh. Giống nhà hắn thông minh. Khoái thật…Dưng mà… say quá rồi. Phải về nhà làm một giấc để 3 giờ sáng còn giết bò. Dưng mà… mất điện, nóng thế này thì ngủ thế chó nào được. Cái ngành điện đến là chối tỷ. Cắt điện nhiều là để doạ, là để chuẩn bị tăng giá đây. Lại lý do chi phí đầu vào tăng. Ông đếch sợ! Anh tăng giá điện, tôi tăng giá thịt bò! Cũng lý do chi phí đầu vào tăng. Ông chẳng thiệt. Hay thật! Chẳng có thằng nào chịu thiệt cả… Dưng mà… thằng con phải thắp nến ngồi học. Rồi thì mắt lòi ra. Rồi thì muỗi nó đả cho đến đỏ đít, sưng chân chứ chả chơi. Rõ khốn nạn! Rốt cuộc mình vẫn thiệt. Thiệt đến đời con. Cứ cái kiểu này đến cả đời cháuNhìn cái bóng mình xuyệch xoạc trên đường, hắn chợt nhận ra: trăng sáng quá. Mà hình như trăng đầu tháng. Hắn ngẩng nhìn trời. Đúng thật. Trăng chưa đầy nhưng trời trong lắm. Và hắn chợt nhớ ra hình như con hắn đã thi cuối năm, sắp nghỉ hè… Việc đếch gì phải học nữa. Thôi, yên tâm. Trăng sáng thế này thì cứ thong thả mà về. Tội gì mà phải vội! Vừa đi vừa ngắm trăng cho nó sướng. Vậy là hắn ngửa mặt nhìn trăng, chân bước xiêu vẹo, miệng ngâm nga vui sao quá sá là vui…

Huỵch, hắn ngã chúi về phía trước, hai tay loạng quạng chống xuống đường. Còn may chán. Đầu, mình, tay không hề gì. Chỉ thấy ngón chân đau nhói. Thôi chết! Bị thương chảy máu rồi. Tại say quá, quên cả dép ở chỗ uống rượu. May mà cũng sắp đến nhà. Hắn vừa xuýt xoa vừa co cái chân bị thương nhảy lò cò về nhà. Không khéo long móng thì bỏ mẹ. Còn làm ăn gì được.

Nhà tối om. Hắn quát: “Sao tối như đêm năm mươi thế này”. Vợ hắn lập cập chạy ra thắp nến. Xong rồi thị lại biến mất. Hắn ngồi phệt xuống nền nhà, giơ cái chân đau lên ngang mặt, với tay lên bàn lấy tý thuốc lào rịt vào chỗ đau. Rồi vẫn cái tư thế ấy, hắn gọi:

-Thằng cò đâu! Đi lấy cho tao đôi dép.

Vợ hắn lại hiện ra y như có phép tàng hình:

- Nó đang nằm khóc ở trong nhà…

- Sao mà phải khóc? Tao đã chết đâu mà phải khóc!

Miệng thì quát vậy nhưng trong lòng hắn lại thấy rưng rưng. Đúng là thằng con vừa giỏi giang vừa có hiếu. Mình chỉ bị sơ sơ vậy mà nó đã…

- Không phải- Vợ hắn thẽ thọt- Nó khóc vì thi bị điểm kém.

Hắn nhổm người, quên cái chân đang bị đau:

- Sao lại điểm kém? Loại đàn bà ngu không biết cái gì chỉ nói bừa. Điểm kém là kém thế nào?

Vợ hắn chống chế một cách yếu ớt:

- Thì tôi biết đâu đấy. Đi mà hỏi nó.

Nói rồi vợ hắn lại biến mất. Hắn hạ cái chân đau xuống, tay bấu vào cạnh bàn kéo người ngồi lên ghế. Khi cái mông đã yên vị thì cái chân đau cũng được kéo lên và cái mồm bắt đầu dõng dạc:

- Thằng cò! Ra đây tao hỏi!

Im lặng. Hắn phải ngồi đợi đến vài phút. Chưa thấy quý tử ra trình diện. Thánh chỉ được nhắc lại lần nữa. Vẫn không có hiệu lực. Hắn điên lắm rồi. Mày cậy mày giỏi mày dám kháng chỉ à. Phải cho thằng này một trận. Quên hẳn cái chân còn đau, hắn tìm công cụ để trừng phạt tội khi quân. Tìm khắp trong nhà, ngoài sân không có cái gì khả dĩ có thể làm được việc ấy, hắn hùng hục ra dãy chuồng bò. Trong nhập nhoạng, loạng quạng chân đau, hắn bước phải cái vũng nước ngay cửa chuồng. Nước bắn tung toé. Mùi khai nồng nặc. Bỏ mẹ rồi. Dẫm phải nước đái bò! Giời ơi! Cái ngón chân sao mà buốt thế, xót thế! Cơn tức nhân lên. Giật cái roi mây trên mái chuồng thường ngày vẫn dùng đuổi bò, chân khập khiễng, mặt đằng đằng sát khí, hắn quay vào nhà. Tay nhăm nhăm cái roi, hắn gầm lên vẫn cái mệnh lệnh ấy. Lần này thì mệnh lệnh mới có hiệu lực.

Trong buồng có tiếng thì thào. Lát sau, thấy nhô ra một cái đầu bù xù cùng với khuôn mặt loang lổ bóng tối, hai mắt sưng húp chắc là do khóc nhiều. Quý tử của hắn nem nép ra trình diện. Phải hỏi cho đến đầu đến đũa. Không thể lơ mơ được! Dạy con là phải thế! Hắn ngồi xuống ghế. Roi mây để trên bàn- sau khi đã gạt ấm chén sang một bên.

- Mày đứng đấy! Báo cáo công khai điểm thi?

Thằng bé cúi mặt không trả lời. Hắn nhắc:

- Toán?

- Mười ạ!

- Được!- Hắn phán bằng một giọng vừa tự hào vừa kẻ cả- Lý?

- Chín ạ.

- Sao lại chín? Nhưng cũng tạm được- Cái giọng hắn chùng xuống một tý-Vậy còn Hoá? Hoá được mấy?

- Hoá cũng được chín.

- Chỉ có vậy thôi à! Tao tạm chấp nhận. Có thể còn sai sót tí chút- Hắn lúc lắc cái đầu ra vẻ am hiểu và thông cảm- Lần sau phải nghiêm túc rút kinh nghiệm. Thế còn Văn?

- ……..

Chát! Hắn vung cái roi mây quật xuống mặt bàn. Mặt bàn rung lên bần bật. Cốc chén va vào nhau canh cách.

Cậu quý tử vẫn đứng im, mặt cúi gằm. Nhìn thấy cái dáng như vậy của con, hắn thấy nó hèn hèn. Cơn giận lại trào lên, hắn thẳng cánh với người vụt vào mông thằng bé:

- Tao hỏi, mày dám không trả lời hả? Không có quân trị quân nhậm gì nữa hả? Mày có nói không? Văn được mấy? Nói!

Thằng bé co dúm người lại, hai tay xoa mông. Cái đòn trừng phạt bất ngờ làm cho nó không kịp đỡ. Đành phải nói thôi. Không chừng cái roi…

-Văn được… có… có baHắn tưởng nghe nhầm. Hỏi lại. Nhưng khi đã được khẳng định là tai hắn vẫn còn đủ độ thính cần thiết thì hắn uất lắm. Bọn đệ tử vừa mới khen xong, hắn cũng vừa vênh mặt tự hào với chúng nó xong. Nhục quá! Thế nào ngày mai bọn nó cũng ra vẻ an ủi mình. An ủi đấy nhưng hắn chắc bọn nó đang sướng thầm: vậy ra quý tử của đại ca cũng chẳng hơn gì. Con em trong ngành ta đều thế cả! Dưng mà thằng con hắn có bao giờ bị điểm kém môn văn? Rồi hắn hỏi một câu vô lý mà nếu có bắt hắn trả lời thì hắn cũng chịu: “Tại sao lại chỉ có ba?” Để chữa cái vô lý ấy, hắn hỏi tiếp: “Tại mày không học hay tại thầy giáo chưa dạy?”

- Không phải tại con không học, cũng không phải thầy giáo chưa dạy.

- ? ? ?

- Tại đáp án! Ra đề một đằng, đáp án một đằng!

Hắn hiểu lơ mơ hình như đáp án là cái câu trả lời cho cái đề bài để người ta dựa vào đấy mà chấm bài. Nhưng làm gì có chuyện ấy được. Theo như ông hiệu trưởng nói hôm họp Ban Đại diện phụ huynh thì Phòng Giáo dục ra đề thi cuối năm học…

- Trên Phòng toàn là người đầu óc thông minh sáng láng, đã tốt nghiệp Đại học, trên cả Đại học, học hành tốn kém cơ man cơm gạo… Chả nhẽ người ta lại dốt tới mức cái đề thi của thằng trẻ con mà lại trả lời sai? Láo! Thằng này láo. Học đã không ra gì lại còn bao biện đổ vấy lung tung. Mất dạy này! Mất dạy này! Mất dạy này!...

LỰA CHỌN!

Nhãn: Kể chuyện.

Lão trợn mắt, ngán ngẩm nói với tôi:

- Mẹ khỉ... cái thằng con tôi, nó ngu như con bò. Thi đại học làm cái đ...éo gì. Ở mẹ nhà mà làm cán bộ xã, làm bí thư chủ tịch. Nó không nghe tôi...

Tôi bảo: Cái lão này gàn! Báu gì cái chức cán bộ xã. Mà liệu có ai bầu.

Lão trợn mắt lên: Sao lại không bầu? Thằng con tao trẻ khỏe học hành sáng láng, tài vặt hàng bồ, phong cách đàng hoàng như lãnh tụ..

Mà ông bảo báu gì á. Nó còn là bố cái thằng Đại học... như ông đấy, cũng Đại học, làm đến Hiệu trưởng mà vẫn phải cum cúp kính thưa kính gửi,,,

- Dễ mà được làm cán bộ xã à!

- Thì biết là không dễ nhưng không khó bằng đi thi đại học?

- Sao vậy?

- Ơ cái lão này, ngu thế! Vào được đại học là có phải con anh phải giỏi hơn hàng mấy nghìn thằng tuổi như nó, học hành như nó. Này nhé. Thi Đại học thì trong mười năm nghìn đứa thi một trường người ta chỉ lấy có năm nghìn đứa...

- Vậy là một chọi ba!

- Chỉ có thằng ngu mới nói như thế! Một chọi ba thì khó đếch gì nếu con mình chọi ba thằng què. Vật một phát ba thằng chết thẳng cẳng... Nhưng thực ra không phải là như vậy mà là một chọi mười nghìn. Con mình phải hơn mười nghìn thằng. Để đỗ được vào cái trường mà nó thi ấy nếu nó là thằng đỗ dù là đỗ thứ năm nghìn thì nó cũng phải cao điểm hơn mười nghìn đứa. Tức là nó phải giỏi hơn mười nghìn đứa khác. Mà những đứa này đều thuộc diện học hành cẩn thận. Đúng không nào?

Phải chịu lão này nói đúng!

- Vậy thì tội đếch gì phải thi vào Đại học. Ở mẹ nó ở nhà. Làm thằng bảo vệ, làm cán bộ Đoàn... Trong thời gian những thằng kia vật vờ đói khát nhục như con chó... cắm cổ lòi mắt học hành thì con mình vẫn ăn trắng mặc trơn ở nhà, thỉnh thoảng lại có thể vênh mặt ta đây... thằng kia học xong đại học bơ vơ đang tìm việc làm thì con mình chí ít cũng lên tới phó công an hoặc phó bí thư xã đoàn... Rồi cứ thế mà lên...

- Nhưng mà có phải tất cả những thằng ở nhà đều làm cán bộ xã.

- Đúng! Nhưng những thằng ở nhà thì chủ yếu văn hóa lớp ba kỳ một. Cả xã may ra có vài thằng tốt nghiệp cấp ba còn ở nhà. Đánh đổ được mười nghìn thằng ở cả nước thì việc đánh đổ vài thằng ở xã là chuyện vặt. Đúng không nào? Vậy cho nên tớ ban ra nghị quyết cho thằng con: không đại học đại hiếc gì cả. ở nhà phấn đấu làm cán bộ xã để có ngày tao được làm bố thằng bí thư, làm bố thằng chủ tịch...

Nhưng thằng con lão không nghe lão. Nó thi đỗ và đi học Đại học Bách khoa.

*

* *

Gần chục năm sau lại thấy lão tấp tểnh tay xách nách mang. Hỏi bảo đi đâu. Lão hổn hển thở bảo là đi lên thăm con. Trông bộ dạng lão dạo này hom hem lắm. Mắt đùn dử to bằng hạt gạo, lưỡng quyền nhô lên như sừng trâu nghé, lưng gù gập dáng tôm luộc dở. Giọng phì phào hụt hơi.

- Mẹ nó! Quân ngu như bò. Nói không nghe...

Mình hỏi chửi ai thì lão bảo chửi thằng con. Đúng là lão gàn, con cái học hành thành đạt, công ăn việc làm tử tế ở Thủ đô, con dâu cũng làm nhà nước lại mới có cháu nội... Ối người mơ mà chả được! Thế mà lại còn nên nước. Hỏi thêm tí...

- Thế nó đã mua được nhà ở Hà Nội chưa?

Lão thở dài đánh sượt nghe chừng ngán ngẩm:

- Hai vợ chồng nó lương chưa đầy chục triệu, lại con nhỏ, lại thuê nhà, lại ở Thủ đô đắt đỏ nhất thế giới... thì tiền đâu mà mua nhà. Giá có tích cóp thì phải bắt đầu từ thời nhà Lý cách đây nghìn năm thì bây giờ mới đủ tiền.

- Đầy cán bộ xã bây giờ có nhà ở Hà Nội- Tôi buột miệng. Như chọc đúng cái bầu tâm sự, lão gằn giọng;

-Thì thế mới chửi thằng con ngu lâu.

Ừ thì ra lão cũng nhìn xa ra phết. Cái mộng làm bố Bí thư Chủ tịch cũng là cái cách nói quá để thỏa mãn cái bề nổi danh dự, cũng là để trả thù cho mấy tay lãnh đạo hống hách coi dân bằng con tép. Một kiểu nói của AQ! Nhưng về kinh tế thì nhỡn tiền thằng con lão thua mấy tay cán bộ xã thật!

Tôi trêu: Thôi! Làm lại từ đầu! Lên bắt thằng cháu nội về cho nó đi học ở quê để rồi sau này làm cán bộ xã.

Lão giãy nảy: Nói vậy mà nghe được à. Chả ai phú quý giật lùi, chả ai bế con dốc đầu giở xuống. Thôi thì không được làm bố Bí thư Chủ tịch thì cũng chẳng đứa nào dám chửi bố đám con cháu mình lên là được rồi. Chứ còn làm cán bộ xã thì cả làng cả tổng người ta vẫn ỉ eo moi móc. Mà thực ra thời buổi này làm cán bộ cũng khó. Làm đếch gì có dân chủ thật sự. Mình có tài có năng lực thật nhưng không cơ cấu thì cũng là thằng chân trơn. Mà được cơ cấu rồi lại phải gọi hàng trăm thằng bằng bố. Đếch vào nữa!

Lão chào tôi và vươn cổ, hì hục bước...

CÂM VÀ CUỘI

Dạo này bận nên không viết kịp Blog- Thôi thì để nhà đỡ trống, mình đăng mấy cái truyện ngắn để mọi người đọc cho...đỡ buồn. Nói là truyện ngắn nhưng cũng phải đăng đến dăm lượt mới hết. Bạn bè thông cảm...

Cái cổng trường Trung học Phổ thông Quang Trung của Thị xã bị đổ vào đêm ngày thứ Bảy.

Một thị trấn vắng vẻ ven biển bỗng trở thành thị xã vì nó được coi là nơi phát triển công nghiệp và du lịch. (Công nghiệp ở đây là nghề làm muối, còn du lịch là do có bãi tắm). Nằm ở trung tâm của thị xã mới được thành lập ấy, trường Trung học Quang Trung như là một niềm kiêu hãnh của mọi người. Bởi nó là trường học có cấp cao nhất ở đây. Niềm kiêu hãnh này lại càng được củng cố bởi cái tên Quang Trung, cho dù ngay bên cạnh (không phải là thị xã) cũng đã có trường mang tên Nguyễn Huệ. “Anh Quang Trung to hơn, có chất lượng cao hơn anh Nguyễn Huệ”- Đấy là lời các lãnh đạo thị xã mỗi khi nói về ngôi trường yêu quý của mình.

Và để xứng tầm anh Quang Trung to hơn anh Nguyễn Huệ người ta xây cổng trường cũng to hơn. Trông nó bề thế và uy nghi lắm. Nó đối diện với nhà riêng ba tầng của Chủ tịch thị xã nên phải to, phải cao là lẽ dĩ nhiên.

Cái cổng trường được trang trí rất cầu kì với 4 trụ cổng vuông ốp gạch men màu mận chín. Bốn cái trụ đội một tấm bảng lớn bằng bê tông có dòng chữ Trường Quang Trung. Trên nóc bảng, ở chính giữa người ta thiết kế một con hải âu giang cánh đậu trên quả địa cầu, một bên là quyển sách mở với ngọn đuốc đang rực cháy, bên kia là mẫu nguyên tử hạt nhân biểu tượng khoa học. Do tài năng khiêm tốn của cánh thợ thi công nên quả địa cầu không được tròn lắm. Con chim hải âu có cái bụng quá đầy đặn trông giống một con vịt đang xoè cánh... con hải âu lai vịt ấy như vừa chui ra từ trong quả trứng- địa cầu. Còn bó đuốc thì giống một cái chổi rơm màu đỏ dựng ngược. Cổng được tô màu xanh đỏ sặc sỡ nên bà con thị xã đi làm muối về qua thường khen nức nở. Vì thế cả người thiết kế, người thi công và cả lãnh đạo đều hài lòng với công trình kiến trúc ấy.

Ấy vậy mà bây giờ cái cổng lại sụp xuống. Nó đổ vào ban đêm. Trời mùa đông, mọi nhà đóng cửa kín. Trong giấc ngủ nồng nàn, người ta chỉ mơ màng nghe thấy “ình”, sau đó thì yên ắng, nên cũng chẳng ai trở dạy. Đến sáng ra, mở cửa nhà, tự nhiên thấy một khoảng trống: cái cổng đã đổ rồi. Cái bảng tên trường vỡ tan gần một nửa, chỉ còn hai chữ Trường Quan... các chữ khác bay đâu mất, giơ ra những thanh sắt quăn queo. Mấy cái cột cổng nằm chình ình, thân vặn như bị xoắn, cái nọ chồng ngang lên cái kia trông như khẩu thần công ngếch nòng vuông hướng về nhà Chủ tịch Thị xã. Con hải âu bay mất mỏ, cụt ngủn đôi cánh, chỉ còn cái đầu tròn tròn ngóc lên khỏi đống bê tông vụn. Quả địa cầu thì văng ra xa cách đống đổ nát đến gần hai mét. Tan hoang như cảnh bên I-rắc bị quân Mĩ đánh bom chiếu trong ti vi.

Thông tin cái cổng trường bị đổ lan nhanh như điện toàn thị xã. Mấy nhà bình luận đầu trọc, túi thủng vì dạo này trời rét, nhà nghỉ vắng khách, suốt ngày ngồi xổm trên ghế các quán trà ngoài bãi tắm được dịp bàn tán về cái sự kiện có một không hai này. Y như bên Mỹ người ta bàn luận về cái sự cố ngày mười một tháng chín năm nào. Một ông đeo kính râm bảo tại thi công ăn bớt vật liệu nên mới thế. Tức thì một ông khác cãi lại ngay: nếu thi công bớt vật liệu thì tại sao nó không đổ ngay sau khi làm. Chắc là bị động đất. Có khả năng động đất thật! Bởi hồi đêm người ta thấy giường hơi rung một tí, sau đó là tiếng “ình”. Đấy là những người nhà gần thấy thế chứ còn những người ở xa vài trăm mét chả thấy gì cả. Nếu động đất thì phải đổ nhiều nhà khác chứ sao lại chỉ đổ mỗi cái cổng trường. Vả lại có ai nghe thấy đài báo nói gì về động đất đâu. Lạ nhỉ. Thế thì tại sao?

Sau khi viện mọi lí lẽ để tìm nguyên nhân nhưng không có nguyên nhân nào xác đáng, người ta tập trung vào cái hướng nghe có lí nhất là do mấy ông giáo trong trường không chịu cúng bái, động thổ hạ móng công trình gặp phải đúng ngày địa tặc. “Các ông trí thức hay khinh nhờn cái việc cúng bái nên mới thế”. Nhưng lại có người bảo: “Ông nói vậy là đếch biết gì. Ông hiệu trưởng nhà trường "sòng" lắm. Hôm động thổ xây cổng trường mời thầy cúng tưng bừng cả ngày trời. Hôm ấy học sinh nghỉ học cả, tôi thấy chiêng trống ầm ầm, tưởng nhà trường tập văn nghệ nên ghé vào xem, thấy có ông thầy cúng đang làm lễ. Giấy tiền vàng mã đốt một đống tướng, lửa đùng đùng như cháy nhà! Có cả hình nhân bằng rơm nữa.” Nhiều người xác nhận: Trước khi hội giảng, trước khi thi tốt nghiệp... nhà trường đều mời thầy cúng. Có thờ có thiêng. Làm gì có chuyện khinh nhờn... Lời qua tiếng lại, ai cũng giữ ý kiến phỏng đoán của mình, chẳng ai chịu ai. Thế là cãi nhau. Rồi mọi người cũng chợt thấy cái vô lí của mình khi nghe cô chủ quán lên tiếng: “Rõ vớ vẩn! Nó đổ kệ nó, các ông có đổ đếch đâu mà rỗi hơi cãi nhau. Về mà trông hàng cho vợ con!”. Tự dưng mấy ông nhớ tới nhiệm vụ của mình. Hôm nay là chủ nhật. Thôi thì phải về nom hàng, xem may ra có kéo được vị khách nào dửng mỡ trái mùa muốn tìm của lạ. Dạo này rét mướt, người ra bãi ít quá. Cứ ngồi đây thì thất thực... Vậy là giải tán. Nhưng những cái đầu thì vẫn nghĩ: Tại sao cái cổng của anh Quang Trung bị đổ?

Khi mở cửa, nhìn thấy cái cảnh tan hoang, ông Chủ tịch Thị xã không nói gì mà lẳng lặng vào nhà. Mọi người thấy thế cho rằng ông đang bực lắm. Phen này thì khối anh chết. Mà quả là ông đang bực thật. Ông vừa nhận Huy chương Vì sự nghiệp Giáo dục. Đang gắn vào cái hộp kính treo trên tường sắp hàng cùng với các Huy chương Vì sự nghiệp Văn hoá quần chúng, Huy chương vì Sự nghiệp Khuyến học, Huy chương vì sự nghiệp...có dễ đến gần chục cái Vì sự nghiệp các loại thì bà vợ yêu quý của ông ỏn ẻn: “Toàn là Vì sự nghiệp… ấy mà cấm có thấy đứa nào vì lãnh đạo, chả mấy khi thò mặt đến”. Ấy là bà có ý trách những cái anh chỉ biết lấy lời khen hay thay phong bì. Mấy chú bên kinh tế, đậm đà lắm, tình nghĩa lắm, mà lại kín đáo chứ chả phô trương. Đúng là đàn bà chỉ biết một mà không biết hai: Tiền ông giữ, xây dựng cơ sở vật chất ông nắm, công tác cán bộ ông điều hành trực tiếp; mấy cái anh giáo dục còn gặm được cái gì ngoài việc lo chuyên môn. Có đâu mà phong bì với phong bao. Nó chỉ có cái huy chương là để tri ân đối với ông về sự hết lòng vì nền giáo dục của quê hương. Hương án giữ mặt tiền. Có người lo phía sau phải có người giữ phía trước. Vậy mà bà vợ không biết cho. Thế mới bực!

Đã là lãnh đạo thì phải quan tâm đến tất cả các ngành. Các ngành thì lại muốn được lòng lãnh đạo để được ưu ái hơn nên các loại huy chương vì sự nghiệp... cứ như sao trên giời sa xuống đậu vào ngực ông. Bao giờ người ta cũng nói: “Chỉ có anh là xứng đáng nhất, bởi vì không có anh thì làm sao có phong trào...” Ông biết là họ nịnh. Nhưng ông cũng thấy tự hào. Thầy giáo của ông trên ba mươi năm dạy học cũng chỉ được nhận Huy chương với ông cùng ngày. Mà ông thầy ấy còn phải mấy lần làm hồ sơ xét duyệt lên, xét duyệt xuống mới được. Còn hồ sơ Vì Sự nghiệp của ông thì đã có cánh cán bộ Phòng Giáo dục thị xã làm tất. Họ lại còn phải năn nỉ ông thì ông mới chịu kí vào bản thành tích công lao của chính mình. Bởi vì ông rất khiêm tốn. Mà mấy tay ấy nó sáng tác thành tích cho ông đến là khéo. Nào là ông chỉ đạo phổ cập cấp hai đạt chuẩn sớm nhất trong tỉnh, nào là ông nghiêm túc chỉ đạo cuộc vận động hai không mà chỉ số chất lượng vẫn cao hơn trước khi chưa có hai không. Ở đâu thì không biết chứ còn ở thị xã này dứt khoát là không có chuyện học sinh ngồi nhầm lớp!

Thực ra cái sự chỉ đạo của ông là sự quyền biến từ có thành không và ngược lại. Ông hùng hồn tuyên bố Phổ cập là công việc trọng tâm quyết định việc hoàn thành nhiệm vụ của các nhà trường. Bằng mọi giá phải phổ cập! Hiệu trưởng nào không làm được phổ cập cấp hai thì sẽ bị cách chức! Thế là Hiệu trưởng các trường hoảng tam tinh: Phấn đấu mãi, thậm chí phải chạy chọt mới có cái ghế xoàng xoàng. Chả nhẽ lại để mất vì cái sự không phổ cập. Học sinh bỏ học nhiều, chả có thể cản được. Nhưng vẫn phải phổ cập. Cái khó ló cái khôn. Người ta đã phát minh ra sáng kiến vĩ đại: biến cái số học sinh bỏ học thành số học sinh chuyển trường. Đất nước rộng bao la, cứ bảo chuyển trường đi Tây nguyên, đi miền Nam, đi Quảng ninh, đi… Có giời cũng chẳng kiểm tra được. Vậy là thị xã lập nên kì tích: Từ ngày thành lập đến nay không có học sinh nào bỏ học. Sự phổ cập trở nên chắc chắn. Còn cái việc học sinh ngồi nhầm lớp, ông giải quyết cực kì ngoạn mục. Ông bảo văn phòng thảo công văn chỉ thị cho các nhà trường phải rà soát lại xem có hiện tượng này không. Tay văn phòng làm ngay tắp lự đưa ông duyệt. Lúc đó ông bảo phải thêm vào câu: “Nếu trường nào có học sinh ngồi nhầm lớp thì hiệu trưởng và giáo viên phải chịu trách nhiệm, chịu kỉ luật”. Chẳng ai muốn bị kỉ luật! Và kết quả giáo dục thị xã tuyệt đối lành mạnh. Được đà ông giao kế hoạch cao hơn năm trước. Một số tay hiệu trưởng có ý kiến thì ông bảo: “Các anh báo cáo không có hiện tượng ngồi nhầm lớp. Đúng không nào? Thế thì chỉ tiêu chất lượng không có lí gì lại thấp được. Chẳng ai phú quý giật lùi, bế con dốc đầu trở xuống.” Cái lí trên đời vẫn phải thế. Vậy thì hai không chứ bốn không hay đến mười không cũng thế thôi. Thành tích giáo dục của thị xã vẫn ngời ngời, ông lại vừa lĩnh huy chương… Vậy mà cổng của cái anh Quang Trung lại bị đổ.

Cái sự bực dọc với vợ còn có nguyên nhân khác. Tay em vợ ông làm thiết kế cái cổng, còn thi công do chính em rể vợ ông đứng ra cai thầu. Ở cái thị xã này thì tất cả các công trình đều do ông bật đèn xanh nên các em vợ ông bao thầu trọn gói. Ông cũng yêu cầu phải dân chủ minh bạch trong cái việc này lắm. Các em ông bao giờ cũng thắng thầu. Đó là cái lẽ dĩ nhiên. Các doanh nghiệp khác biết thân phận đành bán sới đi nơi khác làm ăn. Đối với cái công trình này, ông đã bảo: “Thôi! Cái này không bõ bèn gì! Cho thằng khác nó làm. Để được cái tiếng khách quan” Nhưng bà vợ khóc lóc nói rằng ông không biết thương người nhà mình. Hay là ông lại bị con nào xỏ mũi dắt dây... Thế là ông đành... Đã ưu ái như thế mà lũ em vợ ông còn làm ăn như c...! Vua nghe vợ mất nước! Không khéo lại mang tiếng.

Giữa lúc ấy thì ông em vợ đến, mặt tái nhợt ấp úng:

- Thưa anh…

Ông lộn tiết:

- Thưa cái con khỉ. Làm thằng kỹ sư xây dựng mà ngu. Bây giờ nó đổ rồi, trắng mắt ra chưa?

Cán bộ trong thị xã này bị ông Chủ tịch chửi là ngu là chuyện bình thường. Tay kĩ sư định thanh minh nhưng ông bảo ngay:

- Về thiết kế lại! Rồi bảo tay Quang Trung lập dự án sang tôi kí. Khẩn trương làm lại ngay!

Tay kĩ sư em vợ sướng quá. Không ngờ mọi việc lại giải quyết đơn giản đến thế. Không điều tra nguyên nhân, không xác định trách nhiệm, không kỉ luật ai! Nhưng mình cũng đã thiết kế còn trên cả những tiêu chuẩn kĩ thuật theo những điều mình đã học. Công trình lại do chú em rể làm. Nếu nó có ăn bớt đến bốn mươi phần trăm thì cũng vẫn còn đủ tiêu chuẩn kĩ thuật. Thế mà cái cổng vẫn đổ. Tại sao nhỉ?

Vậy mà có người biết rõ nguyên nhân cái cổng trường bị đổ!

Người đó là Quắc câm. Năm nay hắn cũng đến ba chục tuổi nhưng người bé loắt choắt như đứa trẻ mười hai. Có lẽ cái tên kèm phụ danh ấy là do ngày còn bé hắn không nói được. Cũng chẳng phải chữa chạy gì mà đến khoảng năm mười hai tuổi thì tự dưng người ta thấy hắn biết nói. Nhưng hắn không nói bằng tiếng ta mà bằng một thứ ngôn ngữ gần giống tiếng ta. Thành ra hắn nói thì chỉ mình hắn nghe. Và cũng chỉ có một người dịch được cái thứ tiếng ấy. Người đó là anh cán bộ thông tin thị xã. Nếu như không có anh ta thì Quắc vẫn là người câm. Vậy ra cái sự câm của một người là do người ấy nói bằng một thứ ngôn ngữ mà mọi người không hiểu. Do được coi là người câm và lại hơi ngố nên hắn là người thừa của xã hội trong việc học hành, việc ăn việc ở: hắn chẳng có nhà cửa, chẳng đi học, chẳng ai quan tâm rằng hắn sống hay chết. Bố mẹ hắn đã chết cả. Mảnh đất ngày xưa của bố mẹ hắn được người ta giao cho người khác để xây nhà nghỉ từ khi thị trấn lên thành thị xã. Vì vậy hắn phải tự tồn tại một cách vất vưởng. Đêm hắn ngủ ở lều chợ, ngày thì xem nhà ai có việc gì thì đến làm, nếu không có việc thì hắn lang thang ở các cơ quan xung quanh. Được cái hắn chả bao giờ lấy trộm của ai cái gì, lành tính và thích chơi với trẻ con. Hắn rất khoái nghe chuyện cổ tích. Những thằng Bờm, chú Cuội trong các câu chuyện của bọn trẻ con, hắn nghe chăm chú và hình như hắn tưởng thật. Chả biết có phải vậy không, nhưng người ta thấy hắn hềnh hệch cười vô tư lắm. Mọi người cũng vô tư khi thấy hắn. Hắn giết gà rất giỏi và bốc mả, nhập liệm người chết rất cừ. Điều đặc biệt hơn là nhớ rất kỹ ngày chết của những người trong xóm. Thành thử hắn là người không thể thiếu trong các đám cưới: vài ba chục con gà, hắn trổ tài chỉ một loáng là xong. Những đám ma thì lại càng cần hắn hơn bởi vì chả mấy ai dám làm cái việc bó gói người chết… Hắn vừa làm vừa ú ớ nói với người chết theo một thứ ngôn ngữ riêng của hắn. Còn cái việc bốc mả thì hắn độc quyền, vì ở cái thị xã này duy nhất có mình hắn dám thò tay nhặt từng cái xương người... Và hơn nữa, thấy hắn đến ngõ thì người ta nhớ ra: ngày mai nhà mình có một cái giỗ. Còn giỗ ai thì đợi hắn vào nhà. Hắn sẽ bảo mọi người bằng cách chấm tay vào chén nước, viết xuống bàn tên người mất. Mà cũng lạ, không biết hắn biết chữ từ khi nào, học vào lúc nào và ai là người dạy chữ cho hắn? Người ta gọi hắn là người âm phủ. Người âm phủ thì chỉ ma nó mới lấy. Con gái trần gian sợ hắn. Cho nên hắn không có vợ...

Một buổi sáng, người âm phủ đến nhà anh thông tin. Anh này đang ngồi ngáp vì buồn chán bởi thủng túi, mà lại đang cơn thèm rượu. Quắc hềnh hệch cười ngay từ đầu ngõ. Chàng thông tin định đuổi về. Nhưng Quắc câm ú ớ: “Hây hấm… trô hấm…” Tay thông tin lơ đãng: “Cái gì mà hay lắm, to lắm… Về đi! Chỉ dớ dẩn.” Quắc không chịu về và lại tiếp tục cái thứ ngôn ngữ quái dị: “Cổi quầng… trô hấm… trấng hấm…” “Sao mày khốn nạn thế, nhìn trộm đàn bà thay quần lại còn về khoe to lắm, trắng lắm. Xéo ngay! Tao lại cho cái tát bây giờ.” Quắc luống cuống, hắn chấm ngón tay trỏ vào chén nước viết lên mặt bàn hai cái tên và lại bảo: “Cổi quầng… trô hấm…hây hấm” rồi hắn làm cái động tác vừa ưỡn cái bộ phận dưới vừa cong mông lắc lắc như người ta nhảy Lăm-ba- đa, nhịp nhàng cong ưỡn... Tay thông tin sáng mắt: “Đi! Có rượu rồi”.

Chiều hôm ấy, hai tay: một câm, một cán bộ thông tin say nghiêng ngả mà túi vẫn còn nặng. Chả là khi nghe Quắc thông báo, tay thông tin biết ngay sự việc. Hắn đến cả hai đương sự đã cùng nhau thoát y nhảy Lăm- ba- đa tại chỗ ở cơ quan, gặp riêng từng người, ỡm ờ đưa ra cái thông tin và có cả nhân chứng xác nhận bằng cách gật đầu. Cả hai ngớ ra. Lúc họ hành lạc thì có biết Quắc trông thấy nhưng cả hai đều nghĩ: Sợ gì thằng câm! Cứ để nó nhìn cho sướng. Câm thì nói được với ai. Nhưng ai ngờ lại có người hiểu được tiếng của thằng câm. Để đảm bảo an toàn cho cái ghế và mái ấm gia đình, giữ trọn tiết hạnh, nên cả hai (Dĩ nhiên là từng người) đều có thù lao hậu hĩnh cho sự im lặng của bộ đôi câm biết nói.

Tự nhiên bộ đôi này lại có thêm nguồn thu nhập. Vì tay thông tin là người biết giữ lời hứa. Những sự việc tương tự không đến nỗi hiếm. Quắc vẫn ra vào các cơ quan trong giờ nghỉ như thường.. Những khổ chủ bị các hắn tống tiền thì chẳng ai dại gì mà lại nói ra, nên người khác không biết vẫn cứ tưởng Quắc câm. Mà cái sự không biết ấy đồng nghĩa với sự không cảnh giác. Vậy là tay thông tin cứ việc kính thưa các ông đã bị bắt và chuẩn bị kính thưa các ông sắp bị bắt về cái sự hây hấm…

Cái đêm hôm thứ bảy đáng nhớ ấy, Quắc câm đã đi nằm. Từ nửa tháng trước, tay thông tin đi vào miền Nam cưới cháu. Bộ đôi câm biết nói chỉ còn một nửa, mà nửa còn lại là cái nửa câm. Thành thử Quắc bơ vơ. Khốn nạn thế, rõ trông thấy hây hấm mà không làm gì được. Thế mới hay rằng: biết đã là khó, nhưng nói ra cái điều mình biết càng khó hơn. Vậy là không kiếm được gì, thành ra đói. Đói quá khó ngủ. Lều chợ thì trống hoang trống hoác. Trời lại rét. Gió may đập phành phạch trên mái lều. Co quắp hết cỡ với cái chăn chiên mỏng mà vẫn rét nên hắn càng không ngủ được. Thò cổ nhìn ra ngoài: trăng sáng nhờ nhờ. Thành ra thấy thèm chén rượu, thèm có cái chăn ấm. Giá có một người nữa ngủ chung... Tự dưng Quắc câm ta nhớ lại những cảnh hành lạc Lam-ba-đa mà hắn được chứng kiến. Sao mà người ta sướng thế không biết. Đã có rồi mà người ta vẫn thấy còn thiếu, còn phải… Còn Quắc, hắn chẳng có gì. Dẫu câm thì Quắc vẫn là con người. Một người đàn ông hẳn hoi. Đủ bộ phận... ấy thế mà lại thiếu. Đã thiếu thì ắt sinh ra thèm. Vừa thèm cái sự hây hấm vừa thèm ăn! Trăng sáng thế kia thì phải đi. Nghiện cái vai trò thám tử rồi. Không đi thì không chịu được. Chí ít thì cũng có cái để mà hềnh hệch cười một mình. Để mà giải toả. Hắn vùng dậy, cuộn cái chăn nhét lên mái lều.Vậy là đi…

Quắc vật vờ xiêu vẹo đi trong cái đêm trăng lạnh. Hắn xuôi ra bãi biển. Về đêm, bãi vắng tanh. Càng lạnh. Hắn lại ngược về khu phố. Đèn đường tắt từ lúc nào. Có lẽ đã khuya lắm. Mọi ngày đối với Quắc thì khuya hay sớm chả quan trọng. Nhưng hôm nay thì khác. Hắn vừa đi vừa mong cho chóng sáng. Mong cho tay cán bộ thông tin chóng về… Hai tay khoanh trước ngực, mắt ngủ gà gật, hắn đi theo hình chữ chi trên mặt đường nhựa, vậy mà chẳng đụng chạm vào ai bởi đường phố cũng vắng tanh vắng ngắt. Đưa đẩy thế nào mà Quắc lại rẽ sang khu phố có trường Trung học. Ừ phải rồi! Đến cái cổng trường ấy có khi lại kiếm được mấy mẩu thuốc lá cũng nên. Bọn học sinh khi đến đấy thường hay vứt những điếu thuốc đang hút dở vào chân bờ tường gần cổng vì bị cấm hút thuốc lá trong trường. Lạnh thế này mà được hơi thuốc thì còn gì bằng. Thế là hắn xăm xăm đi đến đó.

Đến gần cái cổng thì Quắc bỗng khựng lại. Roạch toạch toạch…Roạch toạch toạch…Cái gì thế nhỉ. Hắn hơi hoảng. Nhưng cái tiếng roạch toạch toạch ấy vẫn đều đều không có vẻ gì là đe doạ. Định thần hắn nhìn quanh: Không thấy có người. Hắn nhìn lên… Ối giời ôi! Giá mà nói được như mọi người thì hắn đã kêu to lên như vậy. Nhưng hắn lại là thằng câm nên chỉ ú ớ không thành tiếng.

Một cái hòn núi biết bay! Thật! Một hòn núi to lù lù đang bay lơ lửng trên lưng chừng giời sát ngay trước nhà ông Chủ tịch Thị xã, trên núi lại có cả một cái cây cổ thụ... Hình như cây đa. Chả nhẽ… Trong cái đầu mụ mị nửa tỉnh nửa mê của Quắc tự dưng lởn vởn chuyện chú Cuội ngồi gốc cây đa. Hắn nhìn lên mặt trăng. Mặt trăng lúc này bị một đám mây mỏng che khuất nên chỉ thấy một quầng sáng lạnh. Vậy thì đúng rồi. Cây đa trên mặt trăng đang bay xuống đất…

Không phải! Hòn núi với cây đa đang bay lên. Hãi quá. Nhỡ mình bị kéo lên mặt trăng theo cây đa như chú Cuội thì sao? Quắc dợm chân định chuồn. Nghĩ đến cái lều chợ trống hoác thì hắn dừng lại. Chả sợ! Lên mặt trăng hắn sẽ đánh bạn với chú Cuội như đánh bạn với ông cán bộ thông tin. Liệu trên mặt trăng có cái hây hấm không nhỉ? Nếu không có thì lại đói. Nếu cứ phải lên thì sao? Chợt nhớ mọi người vẫn bảo hắn là người âm phủ. Mà ai người ta cho người âm phủ lên giời! Vậy là yên tâm.

Có núi, có cây đa. Sao không thấy chú Cuội?

Có núi, có cây đa. Sao không thấy chú Cuội?

Từ tầng ba nhà ông Chủ tịch có một cái đầu thò ra. Tiếp theo là một cánh tay thò ra như vẫy vẫy hòn núi và cây đa. Dưới này Quắc thầm nghĩ: Khôn thế! Thì ra chú Cuội đã đợi sẵn trên tầng ba nhà ông Chủ tịch. Khi cây bay ngang tầm, Cuội ta sẽ leo lên. Quắc nín thở căng mắt chờ xem chú Cuội trèo gốc cây đa như thế nào. Hắn dựa vào bức tường, cố thu mình kẻo chú Cuội trông thấy…

Nhưng tại sao lại cứ roạch toạch toạch…Quắc nhìn sang: Từ cái bảng trên nóc cổng trường Trung học, một sợi dây cáp to tổ bố vắt qua đường trên lưng chừng giời níu ngọn hai cây cột sắt cao ngễu nghện đang chụm đầu choãi chân như hai cái càng vó bè, chúi ngọn sát ngay trước nhà ông Chủ tịch. Sợi cáp thẳng căng giữ cho hai cái cột đứng nghiêng nhưng vững vàng chịu sức nặng của vật thể bay. Roạch toạch toạch… Roạch toạch toạch… cứ mỗi cái roạch toạch toạch thì hòn núi cây đa lại bay lên một tí. Rồi thì hòn núi cùng với cây đa cũng lên đến tầng ba. Lại thấy lố nhố mấy bóng người kéo ngang nó vào phía sân tiền sảnh tầng ba, nơi có giàn bê tông ngang dọc phía trên. Hòn núi cùng cây đa vừa vào yên vị trong một cái bể, dây cáp trên nóc cột vừa được nới lỏng thì nghe tiếng “ình”...

Giật nảy mình. Đoạn tường Quắc đang dựa rung lên... Ngoái sang: cái cổng trường đã đổ vật xuống…

Hoảng quá. Quắc co cẳng chạy. Quên cả đói. Quên cả buồn ngủ! Quên cả thèm!

*

* *

Cái cổng của anh Quang Trung đã xây lại. Vẫn bề thế hơn anh Nguyễn Huệ. Tay cán bộ thông tin đã về. Bộ đôi câm biết nói trở lại hoạt động như xưa. Một lần cùng với tay cán bộ thông tin đi qua trường Trung học, Quắc câm chỉ tay lên trên tầng ba nhà ông Chủ tịch Thị xã, miệng ú ớ: “Cội…Cội…Hây hấm...”rồi lại hềnh hệch cười chỉ tay sang cổng trường. Hắn nói gì nhỉ? Tay thông tin nhìn theo tay chỉ của Quắc, rồi sử dụng hết công suất khả năng dịch tiếng Quắc sang tiếng ta, lờ mờ suy đoán… Chả nhẽ ông Chủ tịch Thị xã mà lại có chuyện ấy ngay tại nhà mình? Nếu vậy ta lại đến Kính thưa... Không thể được! Cái sự hây hấm của lãnh đạo nó khác. Nhưng là cái gì? Mà sao thằng dở người kia lại bảo Cội, Cội...? Thằng này thích chuyện cổ tích. Cội là cái gì nhỉ? Cội...Cuội... Nó bảo ai là Cuội? Mà Cuội với cái cổng trường bị đổ thì có liên quan gì với nhau? Hay là...

Thế rồi sự đoán mò được khẳng định một phần hôm tay thông tin nghe thấy ông Chủ tịch Thị xã mắng ông em kĩ sư xây dựng khi ông này một lần nữa lại định thanh minh về tính hoàn hảo kỹ thuật của cái cổng:

- Sao cậu bảo thủ thế! Chỉ biết tính đến lực ở trên nén xuống. Tưởng vậy là vững. Sao không tính tới khi cái bảng ở trên bị kéo lên, nghiêng đi... thì cả những trụ dưới cũng đổ theo. Làm kĩ sư xây dựng lâu năm thế mà vẫn còn ngu!...

MÙA CUA RẬN

Nhãn: TRUYỆN NGẮN

Chiều chạng vạng. Phía tây chỉ còn một chút màu vàng nhòe nhoẹt trên nền trời. Đã cuối thu. Trời se lạnh. Gió heo may đầu mùa thổi từng hơi đứt quãng. Cứ mỗi lần gió ngừng thổi người ta lại nghe thấy tiếng ầm ì của biển vọng về như những tiếng thở dài. Biển đang phát phiền vì đã qua những ngày hè náo nhiệt. Bây giờ biển chỉ còn lại một mình với sự vắng lặng buồn bã. Mặt trời đã đi về xứ sở của nó để nghỉ ngơi. Dòng sông nhỏ cũng đang cô đơn. Mặt sông tối lại tím sẫm. Bờ đê như một vạch ngang làm ranh giới giữa trời và nước. Trên bờ đê chỉ có một bóng người lầm lũi, vật vờ lòng khòng như một dấu hỏi nguệch ngoạc di chuyển trên cái dòng kẻ - vạch ngang ấy.

Con người đang lầm lũi bước trên đê trong không gian chạng vạng ấy là Trần Xuân Vọp. Anh vừa đi thả đó về. Vừa đi Vọp vừa nghĩ vừa trách cho thân phận của mình. Sao mà kiếp con người lại khổ đến thế. Sao mà cái kiếp mình lại khốn nạn đến thế. Vọp đi bộ đội về, vợ anh như sa mạc gặp mưa rào, cô ta đẻ cho anh liền một chặp năm đứa con: Hà, Ngao, Gion, Sò, Vạng. Vọp đặt tên cho con như vậy vì cả năm đều là con gái và cũng hợp với cái tên của mình. Anh quần quật: ngày làm ruộng, đào gion, đãi hến; đêm thả đó tra lờ… nhưng vẫn không đủ cho bảy miệng ăn. Đã thế chúng lại suốt ngày quàng quạc như một đàn vịt giời. Thì cũng đúng là vịt giời rồi còn gì. Một đàn vịt giời với một con vịt mái và năm con vịt con. Những than thở, bì bục, kêu ca và cả những đay nghiến về cái vô tích sự của người đàn ông duy nhất trong nhà không lo đủ những nhu cầu ngày một gia tăng, làm cho Vọp không chịu nổi. Có những lúc anh muốn phá bỏ tất cả. Nhưng không thể được. Chả nhẽ lại lao đầu xuống sông mà chết. Ông mà chết thì mẹ con lũ chúng mày chỉ có đứng đường!

Bất giác Vọp nhìn xuống sông. Mặt sông đang đen lại. Vọp có cảm giác nước sông đặc như thạch đen. Tự dưng anh thấy nó bí hiểm ghê rợn và chất chứa những chết chóc. Nhìn về cuối nguồn, nơi gần cửa biển, cách chỗ anh không xa có một vật đang trôi. Cái gì thế nhỉ? Anh chạy xuống bãi sông. Trong nhạt nhoà của trời nước, Vọp thấy vật đang trôi giống như là một con cua biển khổng lồ. Cái mu của nó nhô cao trên mặt nước, hai cái bơi chèo vật vờ. Con cua chết. Vọp dụi mắt… Không phải. Đó là chiếc thuyền nan nhỏ có mui. Nó đang trôi. Hình như không có người. Cứ như thế này, vài chục phút nữa nước ròng sẽ đưa nó ra biển. Chắc là thuyền của nhà nào bị tuột dây buộc.

Vọp chạy xuôi theo bờ đê đến ngang con thuyền. Đúng là thuyền không có người. Hay là mình bơi ra đưa nó vào để mai người ta đến chuộc. Biết đâu chẳng kiếm được mấy đồng bạc còm… Nghĩ là làm ngay. Anh cởi quần áo cuộn lại dúi vào một bụi cây sát chân đê. Trên người chỉ còn độc một cái quần đùi, anh chạy xuống sông. Được mấy bước, Vọp dừng lại: Trời tối thế này, có ma nào ở đây mà quần với áo, về lại phải giặt. Mà cái giống vải ngâm nước mặn cứ bở bùng bục, chả mấy hôm là rách. Hơn chả bõ hao. Anh lại chạy ngược lên, cởi luôn cái vật che thân cuối cùng nhét vào chỗ vừa giấu quần áo, rồi tồng ngồng lao xuống nước.

Vọp rùng mình khi chạm vào nước lạnh. Kệ! Làm việc gì mà chả vất vả. Kiếm thêm đồng đâu phải dễ. Anh nhoài người bơi nhanh về phía con thuyền. Vốn là dân sông nước, nên việc bơi đến thuyền là việc không khó đối với Vọp. Anh bám người vào đuôi thuyền ngay cạnh chỗ cái bơi chèo, nhún người định leo lên…

Vọp bỗng khựng lại, thả tay cho người rơi xuống. Hình như trên thuyền có người. Chết thật, không khéo người ta lại cho mình là ăn cắp. Phải chuồn nhanh kẻo bị trông thấy… Nhưng hình như không phải chỉ có một người… Mà họ đang làm gì nhỉ? Vậy là Vọp lại bám vào mạn thuyền, hơi nhô đầu nhìn vào trong khoang. Qua khoảng sáng nhờ nhờ của cửa khoang phía mui, anh thấy hai thân người trắng lốp đang quấn vào nhau. Tai ù đặc, Vọp lắc lắc đầu cho nước trong tai chảy ra. Bây giờ thì anh đã nghe thấy tiếng thở hổn hển, tiếng rừ rừ rên rỉ, thỉnh thoảng lại rít lên như tiếng mèo hen động dục…

Trong khoang thuyền, đôi A-đam, E-va không hề biết có người thứ ba đang chứng kiến. Người đàn bà nhoài lên ngồi trên bụng anh đàn ông. Vọp nhận ra điều này vì anh thấy một cặp vú thỗn thện đong đưa như nhảy nhót cùng với mái tóc xổ tung. Anh cảm thấy người mình nóng ran, căng cứng. Vọp tì sát người vào mạn thuyền và người anh cũng từng nhịp, từng nhịp hưởng ứng dư âm của cuộc tình trong khoang thuyền. Người đàn bà như lên cơn cuồng, hai tay chống, người lao đi, lao lại như thợ mộc đang bào gỗ. Khi mặt người đàn bà quay nghiêng, Vọp bỗng nhận ra người quen: tưởng ai, hoá là con mẹ cuối xóm. Con mẹ này mắt lúc nào cũng ướt rượt, người thì rừng rực... Đúng là cái đồ dửng mỡ…Tự dưng vợ chồng nhà nó kéo nhau ra thuyền mà đú đởn. Nhưng thằng chồng nó đen sì mà thằng này thì... Vọp nín thở. Tự dưng anh bật tiếng ho…

Trong khoang chợt lặng đi. Người đàn ông nằm dưới vùng dậy, lao về phía đuôi thuyền vồ lấy tay chèo. Không phải chồng nó, con mẹ này ngoại tình… Vọp thả người xuống nước choài đi. Nhưng cái mái chèo đã vung lên rồi chém gọn xuống nước. Mái chèo như một lưỡi đao lia sát bụng Vọp dọc theo thân người xuôi xuống và gặp phải chướng ngại vật duy nhất là cái của quý của anh vẫn còn đang cương cứng… Người Vọp tung lên khỏi mặt nước rồi rơi xuống, anh choáng váng và thấy phía dưới bụng lạnh tê, buốt nhói. Cố hết sức bơi về phía bờ, khi chân chạm lớp bùn thì anh thấy đầu mình như rỗng ra. Ngoái lại dòng sông, con thuyền đang lao nhanh, hai mái chèo thoăn thoắt. Con thuyền lại biến thành con cua khổng lồ biến mất trong đặc quánh của dòng sông. Cơn đau chỗ bụng dưới nhói lên, Vọp đưa tay xuống háng. Chết rồi. Trời đất, sông nước quay cuồng nhòa làm một, đặc quánh và đen kịt. Cơn đau lan toả như một mũi xiên từ dưới xuyên qua ruột, xuyên qua tim, qua phổi xiên lên đỉnh đầu. Cái đặc quánh và đen kịt đổ ập vào anh, đổ cứng lên đầu, đổ cứng lên khắp người, chẹn ngang cổ họng... Vọp ngất đi…

*

* *

Đã sang tháng tám âm lịch. Mùa cua rận bắt đầu. Sau cơn bão số bảy khủng khiếp, có lẽ ông trời muốn đền bù cho những người dân khốn khó ở vùng biển này những sự tai ách do ông gây ra, nên cua rận dạt vào nhiều vô kể. Những con cua biển trưởng thành ở cửa sông trong mùa sinh sản đi theo triều nước ròng ra biển. Trong bao la mênh mông của đại dương, những cuộc tình chớp nhoáng giữa những chàng cua biển lực lưỡng và những nàng cua cái đa tình đã diễn ra mặn nồng. Và kết quả là hàng triệu, hàng triệu những chú cua nhỏ như những con rận ra đời. Cua mẹ sinh ra những đứa con, nhiệm vụ vinh quang nhằm duy trì nòi giống đã hoàn thành, chúng không còn trách nhiệm gì với những sinh linh bé nhỏ ấy nữa mà phó mặc cho đại dương. Đại dương là nơi những con cua rận được sinh ra cũng là nơi thử thách nghiệt ngã. Ở đó bọn chúng phải vật vờ trôi dạt và chịu sự vùi lấp của hàng ngàn, hàng ngàn lớp sóng hung dữ. Tạo hoá là một sự thử thách nghiệt ngã giữa cái nhỏ nhoi với cái vô tận. Sự sống còn ấy không chỉ là sự đấu tranh tự sinh tồn mà là sự may mắn. Mỗi khi triều lên, những con cua rận lại bị hàng ngàn con sóng vật vào bãi cát. Những xác cua nhỏ li ti sau khi bị quăng quật đến bầm dập trở thành những hạt nhỏ đen đen táp đầy ngay mép nước. Và bãi biển có những vệt đen trải dài như những vệt máu khô trên mép của một con mãnh thú sau những hả hê ngốn ngấu của bữa tiệc thịt sống. Chỉ một số rất nhỏ, rất nhỏ sống sót là nhờ không bị quăng quật vào cát mà chỉ bị đẩy vào chỗ cũng toàn là nước. Sự may mắn ấy xảy ra ở cửa sông.

Những con cua rận may mắn ấy quý lắm. Đắt lắm. Người ta bắt nó bán cho những trại nuôi cua biển hàng hoá. Ở đấy chúng được nuôi dưỡng một cách cẩn thận để một ngày nào đó nằm chềnh ềnh trên cái đĩa của những bàn tiệc sang trọng. Chúng làm cho bàn tiệc sang trọng hơn bởi màu đỏ rực sau khi bị chọc mù hai mắt và bị luộc chín. Những cặp càng mập mạp chắc khoẻ của chúng kích thích thực khách. Màu đỏ của cua luộc làm cho những bộ mặt người đã đỏ vì rượu bia càng đỏ tía lên hăng hái.

Để bắt những con cua nhỏ tý xíu, người ta phải đi từ chạng vạng tối vào những ngày nước lên. Với công cụ mà người ta gọi là cái rỉu. Đó là một tấm lưới nhẹ và mau như màn tuyn, nó được căng bởi hai cây tre cỡ bằng cổ tay và dài đến hai sải. Gốc hai cây tre buộc vào với nhau, ngọn xoè ra như cái quạt. Độ mở của rỉu cố định bởi một thanh giằng ngang khoảng một mét ở phía gốc. Để tấm lưới có thể chùng xuống, ở vạt trên là những viên chì nặng được đính vào. Phần cuối của tấm lưới bị khâu lại ở phía gốc tre thành một cái túi dài gần ba mét mà người ta gọi là đáy rỉu. Khi nước lên, người ta dầm mình ngập đến cổ, dùng hết sức để ghìm cái rỉu và đẩy nó đi xiên xiên với dòng biển đổ vào sông trong khi cái đáy rỉu lại vật vờ trong nước như đuôi của một con trăn khổng lồ kéo ngửa người đun rỉu về phía sau. Những con cua bị tấm lưới đón lấy. Nước lên cùng với sự chuyển động về phía trước của người đun rỉu làm những chú cua bị đẩy vào trong đáy. Cứ vài giờ người ta lại lên bờ, đổ đáy ra, soi đèn pin buộc trên trán để nhặt từng con cua lẫn trong đám bợn rác. Những con cua nhỏ như con rận, phải tinh mắt lắm mới nhìn thấy. Vì vậy không thể bắt bằng tay. Người ta dùng lông gà tỷ mẩn, khẽ khàng gạt từng con cua vào cái chai đựng sẵn nước biển.

Cả đêm, cứ xuống biển, lên bờ như vậy, nếu hôm nào gặp may có thể bắt được hàng trăm con. Nhiều đêm thì về không. Do cua rận cũng chỉ mới xuất hiện nên không ai nắm được quy luật của giời đất. Những ngày rỉu được nhiều thì cả làng đều hỉ hả nhưng bọn thương lái tinh quái lại hạ giá mua nên thu nhập của người rỉu cua cũng chẳng được nhiều. Ngược lại, nhiều ngày chả được mấy, bù lại những hôm ấy sẽ bán được giá cao. Mỗi đêm cần mẫn chịu lạnh, chịu đói người ta cũng kiếm được khoảng dăm chục ngàn. Trong quy trình bắt cua rận thì khâu nhặt cua là lâu nhất. Lại còn phải phân biệt giữa cua rận với cua ghẹ. Cua rận thì bụng màu xám còn cua ghẹ bụng màu trắng. Bởi vì chúng chỉ là những chấm nhỏ tý xíu, cái đen cái trắng cũng khó rạch ròi. Vậy nên cánh đàn ông tuổi trung niên mắt kém chịu chết không đi rỉu được.

*

* *

Tôi không muốn các con tôi phải sống kiếp cua rận. Bọn chúng đều là gái. Phận gái mười hai bến nước. Mà lại những năm đứa, sáu mươi cái bến vô định. Biết đi đâu, về đâu. Tôi phải cố mà sống. Cố mà chịu đựng. Nhưng cái đêm định mệnh ấy đã đưa cuộc đời tôi, cuộc đời các con tôi sang một ngả rẽ. Đó là một ngả rẽ dường như không có đường đi. Tôi cứ bước mặc cho những chông gai và cả những lời cay nghiệt dành cho mình.

Khi tôi mở mắt thì bầu trời đêm vẫn đen đặc. Vạch ngang mờ mờ của con đê đã giúp tôi xác định được hướng phải tới. Nhưng không thể nào đứng lên được. Sự buốt nhói và bỏng rát như đang bị một cái móc vô hình móc vào hạ bộ kéo ghìm tôi xuống mặt đất. Cố gắng lắm cũng chỉ có thể ngồi lên và bằng chút hơi sức còn lại tôi lết đi như trong bài tập “lăn lê bò toài” ngày còn trong quân ngũ . Cứ mỗi lần chân đẩy lên thì một lần đầu như muốn vỡ tung bởi cái đau buốt từ dưới xiên lên tận màng tai. Lết được mươi mét đã mệt đến rũ người, tôi gục xuống. Bên tai ong ong. Trong cái ong ong đó hình như có tiếng gọi mơ hồ: Vọp ơi! Cố lên! Chả nhẽ lại chết ở đây sao? Đời mày đã qua bao nhiêu lần cận kề cái chết mà vẫn sống được. Phải sống! Hình ảnh năm đứa con nhập nhòe trong đầu. Tôi phải sống!...

Không biết phải đến bao lâu tôi mới lê được đến chân đê. Còn cái vạch ngang mặt đê đang hằn lên trời đêm lại cao đến khủng khiếp. Trên ấy là sự sống. Trên ấy là năm khuôn mặt nhem nhuốc đang ngáo nghến chờ đợi, năm đôi cánh tay gầy guộc của lũ con đang vẫy. Lên được trên ấy biết đâu sẽ có người đi qua trông thấy. Phải lên được cái vạch ngang ấy. Tôi túm từng bụi cây nhỏ để kéo người lên. Những cây cà gai đâm vào tay nhức buốt. Bờ cỏ ướt đẫm sương đêm trơn tuột. Lên được vài mét lại trượt xuống hàng mét. Mệt lắm rồi. Tai đã ù đặc. Thôi nào, cố lên Vọp ơi…

Lên được đến mặt đê thì người nóng ran, rồi lại thấy rét run, hai hàm răng va vào nhau lập cập. Người ướt đẫm. Sương đêm hay mồ hôi? Cơn đau hình như đã hơi dịu đi. Nhưng sao lạnh quá thể. Trên người không có lấy mảnh vải. Cái lạnh ngấm vào tận gan ruột, nó làm cho cái buốt nhói phía dưới trở lại lan toả toàn thân. Không thể chịu được nữa. Đêm vẫn đặc quánh. Cái lạnh như sợi dây siết dần, siết dần… bó chặt chân tay. Nó siết lên thái dương, bóp chặt lấy hai mắt. Nó giật đổ tôi vật xuống…

Trong không gian lặng ngắt ấy, văng vẳng có tiếng chuông nhà thờ. Và rồi hình như có người đến bên tôi. Nhiều người. Họ đi lễ sớm. Ơn Chúa lòng lành…tôi đã gặp được họ.

Trong chập chờn nửa mê nửa tỉnh, thấp thoáng có bóng blu trắng, có tiếng chân bước vội… những tiếng thì thào như bị bịt miệng: “Nát hết rồi. Phải cắt…”, tiếng dao kéo lạch cạch…Và buốt nhói. Giữa mông lung, cảm giác buốt nhói ấy như là định mệnh…

Lúc đối mặt với cái chết thì tôi cố gắng để sống. Nhưng khi đã được cứu sống thì lại muốn chết bởi những tiếng xì xào đàm tiếu, những cái cười nửa miệng của mọi người và sự lạnh nhạt của vợ con. Cái vết thương dẫn đến sự triệt phá bản năng thằng đàn ông trong một tấm thân trần như nhộng giữa một đêm lạnh là nguyên nhân của sự khinh khiến ghẻ lạnh đó. Trong bệnh viện, giữa những kiếp người không hoàn thiện vì bệnh tật, mình như là một quái nhân lạc loài. Cũng là bệnh nhân, người ta rên rỉ, yêu sách với người thân, với bác sĩ; Còn tôi phải cố thu mình như một con vật lạ vừa bị bắt trong một cuộc đi săn còn xung quanh là một bọn người hiếu kỳ đứng xem và bàn tán, chỉ trỏ. Ngày vài lần đứa con gái mang cơm đến với vẻ mặt lạnh lùng và một câu cộc lốc: Bố ăn cơm đi! Vợ tôi chẳng thèm đến viện thăm tôi được lấy một lần.

Tôi căm ghét sự lạnh lùng ấy. Tôi không có tội. Nhưng có ai bảo mình có tội đâu. Họ chỉ cười. Tôi muốn thanh minh. Nhưng thanh minh với ai. Tôi muốn gào to lên: hãy cho tôi được nói. Chẳng ai cần tôi nói. Câu chuyện về tôi được thêu dệt một cách khủng khiếp. Còn khủng khiếp hơn cả chuyện một anh chàng léng phéng với vợ người ta, bị cắt cụt hai tai. Trong mắt họ, anh chàng đó bị cắt tai là đáng đời. Nhưng bị thủ tiêu mất cái công cụ của giống đực như tôi mới là sự trừng phạt đích đáng. Chắc họ đang nghĩ như vậy.

Không thể chịu nổi nữa. Tôi sẽ phải nói ra. Đúng! Chả nhẽ lại để mang tiếng với đời, mang tiếng xấu cho con. Mà chúng nó lại toàn là con gái. Sau này người ta sẽ nghĩ về gia đình mình như thế nào.

Nhưng biết nói thế nào đây. Tôi còn nhớ một bài học đau đời. Đó là những ngày chiến tranh khốc liệt. Tiểu đoàn chúng tôi bị địch bao vây suốt cả tháng trời. Hết gạo, hết muối. Chỉ còn… ớt bột. Chúng tôi sống và chiến đấu bằng năng lượng của củ chuối rừng. Nhưng ăn củ chuối luộc không muối thì thấy nó vừa chát vừa nhạt nhẽo khủng khiếp. Sang đến bữa thứ hai, thứ ba thì không thể nào chịu được nữa. Đưa miếng củ chuối luộc lên miệng là nôn thốc nôn tháo. Vậy là đói. Đói cơm, đói muối đến nỗi người rũ rượi như người nghiện. Anh nào anh ấy trông đều béo ra do phù thũng. Anh nuôi có sáng kiến lấy ớt thay muối. Cái cay thay cái mặn. Vậy mà lại được. Chúng tôi đã có thể tọng được món củ chuối vào bụng để thay cơm. Ai ngờ chỉ vài hôm sau cả đơn vị đều sinh ra táo bón. Ra rừng ngồi hàng tiếng đồng hồ, rặn đỏ cả mặt, hậu môn rát như phải bỏng. Đâm ra có mót quá cũng cố nhịn vì sợ. Sợ mất thời gian và sợ đau…

Một hôm tôi ra rừng chọn chỗ kín ngồi rặn. Có lẽ cũng phải đến gần tiếng đồng hồ mà vẫn không đạt được cái mục đích đại tiện. Hai chân đã tê cứng. Bỗng nghe có tiếng chân bước, tiếng vạch lá. Khéo gặp phải biệt kích. Hoảng quá. Tôi nấp vào một bụi rậm. Không phải biệt kích mà là đồng đội, cấp trên của mình. Đó là Đại đội trưởng. Đến gần chỗ tôi nấp thì anh dừng lại. Chết thật, hay là thủ trưởng tưởng rằng tôi làm điều gì phi pháp, hay là thủ trưởng để ý theo dõi tôi, nghi ngờ tôi liên lạc với gián điệp. Tôi nín thở. Thủ trưởng ngó quanh ngó quất rồi lấy từ trong túi áo ngực ra một gói giấy nhỏ bọc ni lông. Quan sát một lần nữa, chắc chắn là không có người, anh ta mở cái gói. Tôi nghển cổ nhìn: đó là một gói muối. Những hạt muối to gần bằng hạt ngô. Tôi nuốt nước bọt, nước bọt nhạt phèo và tanh tanh. Đại đội trưởng lấy ra một hạt đặt vào đầu lưỡi của mình, mím miệng và nhắm mắt lại chắc là để tận hưởng vị mặn mòi đang lan dần trong cơ thể. Tôi cũng nhắm mắt để tưởng tượng đến cái mặn. Nhưng không được. Cổ họng tôi khô khốc và chợt thấy miệng bỏng rát. Lại nhớ đến thằng bạn cùng tiểu đội vừa mới “đi” hôm kia, nó bị thương nặng quá, mất máu nhiều. Trước khi chết nó còn thều thào xin muối. Lúc đó tôi thấy mọi người đều khóc vì thương nó. Đại đội trưởng cũng khóc… Chao ôi! Thế mà bây giờ…

Tôi kể điều mình chứng kiến với trung đội trưởng. Và ngay tối hôm đó tôi được gọi lên ban chỉ huy đại đội. Trước mọi người tôi tường thuật lại sự việc một cách đầy đủ. Tất cả nghe và im lặng. Cuối cùng sự im lặng cũng bị phá vỡ bởi một câu hỏi rất đột ngột của Đại đội trưởng: “Đồng chí nói tôi như vậy, nhưng đồng chí lấy gì làm bằng chứng?”… Tôi bị ghép cho cái tội vu khống nói xấu làm giảm uy tín của lãnh đạo, tuyên truyền làm giảm sút ý chí chiến đấu của đơn vị. Từ đấy cho đến khi ra quân, mặc dù ra sức phấn đấu, chiến đấu dũng cảm, đã nhiều lần là Dũng sĩ, có huân chương tôi vẫn không được kết nạp vào Đảng…

Giá như tôi có cái mác Đảng viên thì biết đâu khi phục viên về quê chẳng được cất nhắc làm cán bộ. Và nếu như vậy thì việc gì phải đi đêm về hôm để đến nông nỗi này. Đúng là biết đã khó, nói cái điều mình biết càng khó hơn. Còn bây giờ biết nói thế nào đây?Nếu nói sự việc như nó đã từng xảy ra thì liệu có ai tin… Nếu nói ra thì phải nói tên người đàn bà- con người đồi bại trong đêm định mệnh ấy. Chồng nó vẫn sờ sờ, vẫn khoẻ mạnh. Bề ngoài vợ chồng nhà nó vẫn hạnh phúc. Thì ra người ta sẵn sàng lừa dối nhau, phản bội nhau để có được những thoả mãn xác thịt thoáng chốc cho riêng mình. Nếu mình nói ra chắc chắn gia đình đó sẽ tan vỡ. Những đứa con nhà nó sẽ bơ vơ. Thôi hãy khoan.

Nhưng không thể không nói. Và để giữ tiếng cho mình, tôi đã nói. Nhưng không nói cái tên người đàn bà ấy ra. Chẳng ai tin! Thậm chí có người cho rằng trong khi đang nằm viện tôi đã khéo léo bịa ra cái câu chuyện tưởng tượng. Họ cười vào mũi tôi. Họ càng tỏ ra khinh bỉ tôi hơn.

Vẻ lạnh nhạt của vợ con, những người mà tôi hằng yêu quý làm cho tôi nổi điên lên. Từ ngày tôi xuất viện về nhà, vợ tôi thường lảng tránh. Không trò chuyện, không ngủ chung và thậm chí không bao giờ ngồi ăn cơm chung. Cứ đến bữa, mọi người trong nhà đều phải ngồi đợi vợ tôi vào ăn cơm. Mâm cơm nguội ngơ nguội ngắt. Tôi bảo các con mời mẹ thì nàng ráo hoảnh nói trống không: “Cứ hốc đi. Kệ tao!”. Tôi bưng bát cơm mà trào nước mắt. Lũ con vừa ăn vừa nhìn bố rồi lấm lét nhìn mẹ… Cũng chỉ chịu đựng được mươi ngày như vậy. Và cuối cùng tôi phải nói với vợ tên cái người mà tôi đã chứng kiến cảnh hành lạc của họ khi bọn trẻ đi học hết.

Phẩm tiết đoan chính của người đàn bà mà tôi nói tên được khẳng định ngay sau khi tôi thổ lộ với vợ được khoảng hơn một tiếng đồng hồ. Anh chồng cô ta tay cầm một sợi dây thừng hùng hổ sang nhà tôi. Không thèm nói gì, anh ta tròng ngay cái dây thừng vào cổ tôi giật tôi ngã chúi. Thay cho lời chào, hắn giáng vào mặt tôi một cú đấm đến đổ máu mũi. Thì ra bà vợ yêu quý của tôi nghe tôi nói xong liền chạy ngay sang nhà đối tượng để kiểm tra tính chính xác của câu chuyện. Anh chồng ngồi nghe thì tím tái mặt mày, cô vợ nước mắt ròng ròng bù lu bù loa bảo là cái đồ khốn nạn, đồ đểu, nó dám vu khống cho em. Tối hôm đó anh say rượu, em ở nhà với anh, nằm bên cạnh anh chứ có đi đâu đâu. Anh không nhớ à? Vu khống! Thằng khốn nạn nó vu khống. Bằng chứng đâu? Nó muốn đổ tiếng xấu cho người khác. Và để chứng minh sự trong sạch của mình, cô ta lịch bịch chạy xuống bếp lấy dây thừng để chuẩn bị tự tử… anh chồng cảm thấy vợ mình oan ức quá liền giật lấy cái dây thừng oan nghiệt hùng hổ sang trừng phạt kẻ đã dám vu khống phẩm tiết của vợ mình.

Đến bây giờ thì bài học ngày ở chiến trường lại được lặp lại một cách đầy đủ và có phần dữ dội hơn nhiều. Vụ việc ở chiến trường dù có nặng nề về mặt quyền lợi chính trị nhưng tôi vẫn còn là một người lính. Còn bây giờ cái án hủ hoá bị mất giống đã được khẳng định trước mặt vợ tôi. Sự trừng phạt của nàng dành cho tôi còn khủng khiếp hơn nhiều. Nàng khinh bỉ, ghẻ lạnh và coi tôi như một con vật. Tôi cô đơn giữa những người thân của mình. Các con tôi cũng không muốn gần tôi vì cái tiếng bố của chúng hủ hoá nên bị biến thành “công công”.

Nhưng có lẽ còn nhục nhã hơn, tôi- người đàn ông- một anh lính quèn, đã không thể chiến đấu với một khẩu súng đã cụt nòng. Đàn ông hủ hoá thì có nhiều, nhưng bị mang tiếng hủ hoá tới mức bị cắt cụt mất cái công cụ giống má thì có lẽ chỉ có mình tôi mà thôi. Đã có đủ điều kiện để vợ tôi có thể tung tẩy hẹn hò và vui vẻ với những người đàn ông khác bởi vì nàng mới chỉ hơn ba mươi tuổi. Nàng vẫn còn rừng rực như hầu hết những người đàn bà vùng này mang trong người mình cái ào ạt bản năng đến vô tận của biển cả. Đầu tiên nàng còn ngại tôi, ý tứ hơn đối với các cuộc hò hẹn. Nhưng nàng cho rằng xét cho cùng thì tôi đã phản bội. Điều này nàng có quyền trả thù. Còn nữa, nàng lại không thể tha thứ bởi vì sự tha thứ chỉ dành cho cái khả năng có thể hàn gắn hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc không chỉ ngồi mà ngắm nhau rồi nói em yêu anh, anh yêu em, chúng ta yêu nhau… mà phải thể hiện bằng quan hệ xác thịt. Dù có lí tưởng hoá tình yêu đến mức nào thì cái điều ấy vẫn là muôn thuở không thể thiếu. Cái khả năng này mất hẳn ở tôi do tai nạn nọ nhưng nó lại tăng lên gấp nhiều lần ở nàng. Đó là lý do thứ hai mà nàng khẳng định sự tự do tuyệt đối của mình. Các cuộc hò hẹn của nàng công khai và thường xuyên, trước còn ở chỗ kín đáo, sau đưa về tận nhà, ngay trước mũi tôi. Tôi không thể chịu nổi nhưng hoàn toàn bất lực. Nhục nhã quá. Nhiều lúc muốn tự tử.

Nhưng tôi vẫn phải sống. Sống vì những đứa con. Chả lẽ để chúng đói khát, thất học. Vậy là tôi phải cố mà tồn tại. Hơn một năm nay, tôi ra đê, chỗ gần cửa sông, tá túc trong một túp lều chăn vịt. Làm được đồng nào gửi cho con đồng ấy. Còn tôi, tôi chỉ cần sống và đủ sức làm việc. Để khỏi chướng tai gai mắt, để khỏi phải nghe những lời đàm tiếu, để khỏi phải tiếp xúc với mọi người, để không phải nghe thấy tiếng dè bỉu “Vọp công công”.

*

* *

Đứa con gái nhỏ nhất của Vọp ngày nào cũng ra chỗ bến đò. Những người đi rỉu ngâm nước cả đêm, sáng ra họ đến đó để bán những con cua bắt được hồi đêm cho mấy tay thương lái từ Hải Phòng, Quảng Ninh về. Vọp dẫu đã có tuổi nhưng vẫn ngày ngày đi rỉu cua rận. Mắt kém thì dùng kính lão để soi. Con bé Vạng vì không phải đi học buổi sáng nên trên giường lăn xuống đất là lại chạy ngay ra bến đò, ở đấy nó được gặp bố và cầm tiền về cho mẹ. Trong lúc chờ đợi đến lượt mình đếm cua để bán, Vọp ôm chầm lấy con, hít hà cái mái tóc ẩm sương sớm của nó. Anh rơm rớm nước mắt khi con bé hỏi sao bố không về nhà mà ở. Bố phải ở ngoài này để bắt cua rận lấy tiền cho chị em các con ăn học chứ. Sao người ta vẫn ở nhà, vẫn đi bắt được cua. À, họ khác. Anh thường đánh trống lảng bằng cách hỏi thăm về chị em nó. Ngày nào cũng vậy, bán cua được đồng nào anh gom lại cùng với số tiền đào gion, bắt hến làm được ban ngày, chỉ giữ lại vài ngàn đong gạo, còn lại đưa cả cho con mang về cho mẹ nó. Nhờ giời, vụ cua này cũng khá. Vọp tin tưởng con mình sẽ đủ điều kiện để học hành. Tự dưng anh thấy đời đáng sống và mong muốn được nhìn đàn con trưởng thành. Tất cả những tai ách, khốn nạn anh đã phải trải qua chẳng có nghĩa lý gì.

Sáng nay, như mọi ngày, con bé Vạng ra bến đò từ rất sớm. Buổi tối qua nó thấy có một người đàn bà ngồi nói chuyện rất lâu với mẹ nó. Chả biết họ nói gì với nhau. Nó chỉ biết sau khi người ấy đi rồi thì mẹ ôm nó vào lòng rủ rỉ: Mai con ra bảo bố về. Con có thương bố không. Con thương lắm. Thế mẹ có thương bố không. Mẹ nó không trả lời nhưng nó thấy ngấn nước đầy trong mắt mẹ. Vậy là mẹ không còn giận bố nữa. Mừng quá, bé Vạng chỉ mong cho chóng sáng để ra đón bố, bảo bố về nhà với mẹ con nó.

Nhưng nó đã đợi bố cả tiếng đồng hồ mà vẫn không thấy. Khi mọi người đã ra về hết, con bé đứng thui thủi một mình. Hay là bố ốm. Vậy là nó chạy đến cái lều ngoài cửa sông. Căn lều lạnh lẽo chẳng có gì ngoài cái chõng tre với cái chăn bộ đội gấp gọn ghẽ. Vậy bố đi đâu nhỉ. Nó nhìn xuống sông. Và nó chợt thấy dưới sông cách đó không xa, hai cái càng rỉu vật vờ. Một mái tóc ngắn xập xoà trong cơn nước ròng buổi sớm. Có người chết đuối. Con bé vừa chạy vừa hét… Cả làng đổ xô ra cửa sông.

Vọp chết. Vì qua nhiều ngày đi rỉu anh đã tìm ra quy luật, ở cửa sông lui vào trong một tý, cua rận nhiều hơn. Nhưng anh không ngờ lúc nước lên mạnh thì dòng chảy ở đây cũng mạnh hơn, nó đẩy anh vào một hủm cát non do xoáy nước ở đáy sông. Khi chân bước hụt không chạm đất, anh chới với. Cái đáy rỉu như là đuôi con trăn khổng lồ gặp nước xoáy cuốn quanh người anh, bó chặt chân tay. Anh chìm xuống trong tư thế bị trói đứng…

Người ta vớt Vọp lên, gỡ ba bốn vòng lưới của cái rỉu đang cuốn quanh người anh rồi đưa vào đặt trong căn lều nhỏ. Vì chết đuối nên người ta làm đám ma ngay tại chỗ. Mãi đến gần một giờ trưa mới mua được quan tài. Cái quan tài đóng vội còn ướt véc ni màu vàng. Lúc chuẩn bị nhập liệm, người ta cắt tấm lưới của cái rỉu lót vào trong quan tài để sau này khi bốc mộ khỏi sót xương. Cái tấm lưới rỉu rộng trùm cả ra bên ngoài thành áo quan. Tấm lưới còn ướt, véc ni quan tài cũng ướt, khi mọi người vơ tấm lưới cho vào trong quan thì những vết lưới đã in vào hai bên thành. Nhìn cái quan tài như được phủ một tấm lưới đen. Mấy ông ngao ngán nhìn tác phẩm không mong đợi, kết quả của sự vô tình. Một ông bảo: Chả sao, thế nào tý nữa hội Cựu chiến binh cũng phủ vải đỏ che đi, lo gì. Nhưng một người khác thở dài: Khổ, anh ấy có được sinh hoạt với Hội Cựu Chiến binh đâu mà được phủ vải đỏ. Ơ hay! Ngày xưa anh ấy cũng là bộ đội chiến trường cơ mà. Biết rồi! Nhưng mà sau cái vụ tội nợ kia, anh ấy cũng chẳng được mời đi sinh hoạt nữa rồi.

Trong hoàng hôn vàng úa, trên vạch ngang bờ đê, một dòng người cúi mặt lặng lẽ đi vào từ phía cửa sông. Một chiếc quan tài như bập bềnh trôi trên dòng sông người ấy. Giữa âm thanh não nề của kèn trống còn có cả tiếng gầm gào của biển ngoài xa vọng lại. Nước bắt đầu lên. Trời lạnh quá. Mùa cua rận năm nay chắc hết sớm.

Thời bao cấp

Thời bao cấp, mọi chi tiêu trong gia đình chỉ trông chờ vào đồng lương. Do đó, lo 2 bữa hàng ngày là công việc đau đầu nhất của các bà nội trợ.

Họ chỉ thực sự yên tâm khi trong nhà đã đong được thùng gạo đầy, mua được mấy chai nước mắm và 1 lọ mỡ tương đối.

Hàng ngày, chúng tôi phải đảo qua cửa hàng gạo, nếu thấy bán gạo ngon, độn mì sợi trắng thì lập tức về thông báo cho bố mẹ và tự động ra xếp lốt (những hôm như vậy thì rất nhiều nhà đong gạo). Khổ nhất là phải ăn độn bột mì.

Các bà nội trợ phải trổ tài chế biến thành nhiều món để ăn cho đỡ ngán, như bánh bao nhân su hào xào, bánh trôi nhân đường phên mật mía. Nhưng đó cũng vẫn là những món không phải nhà nào cũng có khả năng thực hiện. Đa số vẫn là nặn viên luộc, hoặc dàn đều bột đã nhào kỹ lên nắp nồi gang dày, rồi đặt trên bếp than để nướng, gọi là bánh nắp hầm (vì giống cái nắp hầm tăng-xê).

Buổi sáng, bọn tôi ra đầu phố ngóng xe rau của mậu dịch. Rau mậu dịch tuy già, nhưng 1 hào có thể mua được 4 - 5 mớ. Vừa nhặt vừa vứt cũng vẫn rẻ chán so với mua rau ngoài chợ. Cuống rau thì để nuôi ngan, gà hoặc lợn. Và chỉ những hôm như vậy mới được ăn một bữa rau xào thỏa thích. Mà nghệ thuật xào rau của các bà nội trợ thời bấy giờ cao siêu lắm! Trong lọ mỡ bao giờ cũng có 1 que đũa quấn miếng vải sạch.

Nhúng que đũa vào lọ mỡ, rồi quét 1 lớp mỡ mỏng tang lên đáy chảo. Thế là có thể bắt đầu công việc xào, rán. Có bà còn khoe với nhau: “Hôm rồi tôi xào rau không cần mỡ mà cũng ngon đáo để!”. Các đầu bếp khách sạn 5 sao bây giờ chưa chắc làm được điều đó. Thời đó, thịt là một xa xí phẩm. Phiếu nhân dân chỉ được 3 lạng thịt/tháng, chủ yếu để dành mua mỡ. Cũng may, hồi đó chưa có giống lợn cao nạc nên thịt mỡ nhiều, đủ đáp ứng nguyện vọng của mọi người. Tóp mỡ thì được dùng để kho với chuối xanh, cao cấp hơn thì chấm với nước mắm cũng được một bữa tươi!

Hôm nào mậu dịch bán cá biển ướp muối thì cả xóm sôi nổi như ngày hội, vì đó là tiêu chuẩn bán thêm, cắt ô phiếu phụ. Cá tuy đã được ướp muối, nhưng khi kho vẫn phải cõng thêm nhiều muối nữa, không thì tốn lắm với những cái bụng ăn không biết cảm giác no của lũ trẻ mới lớn chúng tôi.

Những hôm mưa dầm gió bấc, không đi chợ được, thì hành mỡ phi thơm lừng, rồi cho muối vào rang (muối mỏ hạt to như hạt ngô) làm thức ăn, cũng xong một bữa. Bây giờ, nhiều khi ngắm trời mưa lai rai, nhớ lại cảm giác cơm ăn với muối rang mỡ, cũng muốn thực hiện món này nhưng lại sợ mọi người cho là chập mát nên lại thôi.

Những năm trước đổi mới, có nhiều câu chuyện để kể. Và một trong những chuyện thời sự nhất ngày ấy là chuyện đầu tóc, ăn mặc của thanh niên, mà cụ thể là cánh con trai chúng tôi. Đại khái ăn chơi ngày ấy là quần loe, tóc dài. Nhưng ngặt cái, tóc dài là bị cấm. Ở trong trường, thông qua các hoạt động của Đoàn Thanh niên, cậu nào mà tóc dài là bị “cạo” cho trắng gáy trong các cuộc họp phê bình, kiểm điểm.

Quần loe là mốt của thanh niên thời đấy. Loe ít ít thôi thì được. Loe nhiều là chết ngay. Nhiều cậu lần bị cắt cho rách cả ống quần chỉ vì tội loe nhiều quá. Vải vóc thì đã phân phối theo phiếu vải, lỡ mà bị cắt mất cái ống quần thì chỉ còn nước khóc. Tôi còn nhớ, quần của con trai, thông thường là 32 cm ở dưới là dễ chấp nhận. Hơn là dễ toi lắm. Các bạn nữ thì có lẽ dễ được châm chước nên thường thấy các bạn may quần ống loe tầm 38 cm gì đó.

Trời đất, nói đến chuyện này, tôi chợt nhớ hồi ấy con gái Hà Nội mặc quần lụa, ống loe thì đẹp thiên thần. Tôi có một anh bạn, đang học thì phải nhập ngũ. Anh buồn lắm. Từ đơn vị, anh viết thư cho lớp chúng tôi, trong đó có đoạn: “Nhớ các bạn, nhớ lớp mình, nhớ Hà Nội lắm. Ở trên này, cứ nhìn thấy quần lụa loe là nhìn như dán mắt vào cho đỡ nhớ”. Nhưng thôi, chuyện tôi định kể liên quan đến vấn đề tóc tai thôi.

Tóc thì phải cắt ngắn, gọi là tóc 3 phân. Râu ria phải cạo sạch sẽ. Tinh thần là phải luôn luôn quán triệt như vậy. Ra ngoài đường, ông nào ông ấy cứ như là bộ đội cả một lượt (ấy là tôi nói tóc tai thôi đấy nhé). Nhưng phàm đã cấm cái gì, người ta lại rất thích làm ngược lại cái đó. Thanh niên lại chỉ thích để tóc dài. Diễn viên muốn để tóc dài, phải có chứng nhận của cơ quan, nếu không là bị tóm ngay. Dân thường thì trốn được thì thoát, bị tóm là toi.

Cánh thanh niên lại hay so bì tị nạnh. Họ nói ông Các-Mác và ông Ăng-ghen là cha đẻ của Chủ nghĩa xã hội khoa học, tóc tai râu ria dài như rừng rậm ấy, có sao đâu! Ông Lê-nin thì chẳng qua là bị hói nên đầu tóc mới nhẵn thùi lụi như vậy. Ông Mao Trạch Đông thì làm quái gì có sợi râu nào. Không lẽ bắt cả thế giới cắt trụi thùi lủi hay sao? Thế nên mới có thơ dân gian (bộ mới), thực ra là của bác Nguyễn Duy mà chúng tôi vẫn hay gọi là Duy toét, về chuyện này. Thơ hay đáo để!

Các-Mác mà đến Việt Nam

Tóc râu như thế, công an bắt liền

Mác bèn cầu cứu Ăng-ghen

Ăng-ghen cũng bị phạt tiền tóc râu

Truyền cho bốn bể năm châu

Râu ria Mao Trạch, tóc đầu Lê-nin

Ấn tượng của em về cái thời ấy chỉ còn chút xíu - rất mờ nhạt vì em sinh 1980. Đến 1986 là bắt đầu đổi mới rồi - lúc đấy thì nhà em (thực ra lúc ấy có 2 mẹ con - bố đóng quân xa nhà - một năm về được một hai tuần) mới hết đói. Nhưng em nhớ năm 86 cũng là năm miền Bắc mất mùa - đói - có cả người chết vì đói tuy không nhiều. Học sinh cấp III ở trường mẹ em dạy có mấy anh chị đói lả - ngất trên lớp học. Lúc đó em mới 6 tuổi - nhớ lần dậy sớm mang sổ đi ra lương thực đong gạo thay mẹ ốm nằm nhà - được có mấy ký gạo. Về lại bắc bếp lũn cũn nấu cho mẹ - em vẫn không thể quên cái cảnh vo gạo - cho vào gạo đỏ quạch - nổi lềnh bềnh. Nếu đãi ra hết chắc chẳng còn gì để 2 mẹ con ăn. Cơm nấu lên đỏ lòm + mùi gạo ẩm mốc. Rồi những bữa ăn sắn thay cơm - trường chỗ mẹ em dạy đi xin được ở mấy cái HTX chia cho mỗi nhà được vài chục ký, thế là nhà nhà ngồi bóc, sát để nghiền ra lấy bột, xắt nhỏ để phơi khô - dự trữ ăn dần... mấy thứ ấy giờ chắc đổ cho heo nó cũng hổng thèm ăn.

Tết năm 1986 cũng là cái Tết đầu tiên em thấy dù chỉ có 2 mẹ con ăn Tết nhưng bắt đầu có thịt heo - thịt nạc thì làm ruốc - thịt mỡ thì rán lên dự trữ ăn dần. Bố em không được về phép nhưng có bác đồng đội làm cùng mang tiêu chuẩn tăng gia về cho hôm 29 Tết. Rồi sau Tết bố về phép - bắt đầu nghe thấy từ "đổi mới" trong nghị quyết (cái này em nhớ rõ vì hồi bé thiếu thốn - vớ được cái gì là đọc tuốt), rồi đời sống dần khá lên.

Cái thời trước 86 ấy giờ nghĩ lại vẫn còn thấy ghê. Cái trường cấp III Kim Bảng - Nam Hà; trường mẹ em dạy nhiều người vì miếng cơm - manh áo mà sẵn sàng làm những thứ phải nói là cực kỳ tệ với 2 mẹ con em. Nghĩ lại mà giờ nhiều khi em vẫn còn thấy uất ức - sôi hết cả máu lên. Con em gái sinh năm 87 - lúc ấy vẫn khổ - nhưng không lo đói cơm nữa. Thỉnh thoảng kể những chuyện xưa với mẹ - mẹ thì đỏ hoe mắt, còn con em gái mặt cứ tỉnh queo cứ như là anh đang kể chuyện cổ tích thời nay. Nó không tưởng tượng được có lúc bố em về phép phải doạ bắn mấy thằng láng giềng có trình độ văn hoá mà mất dạy. Đúng là bần cùng sinh đạo tặc. Nhiều người giờ vẫn còn đang đứng lớp ở cái trường này. (Mod tha lỗi chứ em mà kể ra thêm chắc khối người tăng xông nếu em kể tên họ + những chuyện họ đã từng làm thời xưa ở đây).

Tuy nhiên cũng phải nói là có rất nhiều người tốt - đa phần là những cô bác có hoàn cảnh giống nhà em lúc ấy, các bác có chồng bộ đội xa nhà thường rất là cưng tụi con nít cùng cảnh ngộ bọn em.

Thú thật em mà kể chắc trong ký ức toàn những chuyện xấu về thời ấy. Chuyện vui thì toàn chuyện con nít ham chơi vô tư.

Mùa hè cũng là mùa nhiều kỷ niệm nhất - được bố cho lên đơn vị chơi - cũng xếp hàng đi ăn ở bếp như các chú lính, được các chú nhường cho bao nhiêu là thứ ngon. Mà có gì đâu: toàn khoai lang; lạc rang - luộc đủ cả... nhưng mà toàn những phần ngon nhất cho mấy đứa con nít. Cái bộ chỉ huy sư đoàn lúc đấy có cỡ gần chục thằng con nít sàn sàn tuổi nhau được nghỉ hè chung cùng bố - bày đủ trò con nít chơi với nhau thân thiết như anh em. Thế là lúc nào cũng mong tới hè để được đi chơi Hà Nội cùng bố (cái này là Hà Nội thời nay chứ lúc đó cách trung tâm Sóc Sơn - núi Đôi cỡ chục cây số, ở giữa mấy quả đồi trọc toàn đá với sỏi).

Giờ trưởng thành mới nghĩ - hồi đó mình khổ một thì bố mẹ khổ mười, chắt chiu từng đồng nuôi 2 anh em ăn học, vượt bao nhiêu là khó khăn. Vậy mà giờ nhiều khi 2 đứa vẫn vô tâm - để bố mẹ trăn trở vì mình.

Đêm giao thừa, trong cái se se lạnh của mùa xuân phía Bắc, ngồi trong lòng mẹ, đón chờ giờ phút đầu tiên của năm mới. Ông anh đi học ở Hà Nội, trước tết là mang về cả hòm pháo mua ở Bình Đà, 1 bánh tết pháo to cho đêm giao thừa, 1 bánh khác để đón khách xông nhà sáng mùng 1... Cái mùi pháo ý, và niềm háo hức được nhận bánh trưng đầu nứoc, có lẽ khó có thể phai nhòa.

- Hồi em tầm 5-6 tuổi, chỗ em thịnh hành loại thuốc gì đó mà có tẩu (như cái nắp bút bi bây giờ), em hay đi nhặt về chơi.

- Chuyện ăn: Em có sở thích là ăn cơm đường. Hồi đó đường đỏ chứ không có đường trắng như bây giờ. Kết quả là mới tý tuổi đầu đã bay hết răng vĩnh viễn. Rồi chuyên ăn cơm trôn với muối, mì chính cũng thường xuyên (vì thích chứ lúc đó cũng không quá khổ thế nữa) Rồi ăn mít xong bao giờ cũng để lại rổ hạt để luộc, ăn kém gì hạt dẻ bây giờ đâu. Ăn trám xong còn chặt đôi lấy nhân, nhai bùi bùi, còn hạt thì đóng xuống nền bếp thành chữ...

Mùa hè, món "sở trường" là nước chanh đá. Hồi đó nhà nào có người nhà đi lao động XK thì mới được gửi về cái tủ lạnh sa-ra-top  3 * (hình như thế em không nhớ chính xác nữa) Cả xóm chắc có 1 cái và hay làm đá bán cho cả xóm. Em chuyên bị đầu sai cầm 200d với 500d đi mua đá (được cục đá bằng 1/3 lon bia hihi) Bây giờ ra Hale club nó cho mình uống cái thức khỉ gió gì đó và lấy 70k VND, đắt hơn cả tây

- Trung thu là cả 1 ngày hội với trẻ con. Hồi đó nhà nào khá lắm mới mua đèn sẵn cho trẻ con. Còn em thì toàn theo các anh lớn làm đèn (giấy bóng kính màu hồi đó hình như là giấy gói oản tiết kiệm) Nến cũng là tự đúc (lấy chỉ tết dây bấc, cho vào ống nứa, rồi đun cục nến-không nhớ ở đâu ra- cho nó chảy ra rồi đổ vào ống như đổ khuân ý. Cả xóm có 1 cái đèn to nhất, 8h tối là trẻ con lông nhông trên đường rồi. Đứa nào mà bị bắn súng cao su (đá, thậm chí là móc sắt - siêu nghịch dại) rách hay cháy đèn thì chỉ có mà khóc tu tu.

- Chuyện chơi: không biết bác nào có chơi phốc không? Đạn là quả sơn hay quả gì đó em không nhớ nữa, nhưng mà nhựa nó dính vào quần áo thì còn lâu mới sạch (hay hồi đó không có OMO) Có thằng sáng tạo còn lấy hộp mực, đẽo gọt buộc dây thế nào đó mà buộc được dốc ngược vào thân cây súng phốc, như hộp tiếp đạn ý. Mình bắn phát một, nó bắn liên thanh, cứ gọi là rát.

Ah, hồi thịnh hành chơi quay, ông cậu em còn buôn quay nhựa đấy. Trên đỉnh quay có rãnh răng cưa, luồn cái dây vào kéo mạnh (như dây cu roa) thì nó văng ra. Nhưng không "bổ" nhau được, cũng không thích bằng quay gỗ nên không bán được.

- Chuyện làm "kinh tế tư nhân". Bao cấp, nhà nào cũng phải làm thêm, không thì đói. Bố em bộ đôi, mẹ bác sĩ, thế mà vẫn nuôi lợn, làm chổi chít...Em bé nhất nhà, còn nhỏ nên không phải làm gì, chứ ông anh, bà chị em thì đi lấy cỏ lạc (về cho lợn), đèo mùn cưa, gánh đất (nhà gần đồi hay bị sụt tả li), hái mon (rau mon cho lợn), thái chuối (cho lợn ăn)... đủ cả. À, bố em làm bác sĩ quân y, thi thoảng đem về 1 đống hộp thuốc kháng sinh rỗng màu trắng, to như hộp sữa bột trẻ con bây giờ nhưng dài hơn, bà chị em đem ra chợ bán, có vậy mà đắt hàng lắm (thời đấy cái hộp cũng giá trị thế)Ai đã từng là sinh viên thời bao cấp đều không thể nào quên cảnh "canh toàn quốc, nước mắm đại dương". Tùy vào mỗi trường Đại học, Trung cấp mà cách ăn uống cũng có khác nhau chút đỉnh, nhưng về cơ bản, tất cả sinh viên đều kham khổ. Sau đây là chuyện bữa ăn tập thể của sinh viên một trường Đại học ở miền Trung.

Trong các món ăn, trước hết phải kể đến cơm, vì đây là thành phần cơ bản của bữa ăn. Đầu thập niên 80, sinh viên phải ăn cơm ghé sắn hoặc hạt bo bo, sau đó, chỉ còn lại cơm nhưng phải ăn loại gạo tồn kho lâu ngày. Loại gạo này bán không ai mua, phát không ai nhận, nên chuyển sang cho giới sinh viên ăn vì đây là loài dễ nuôi nhất trong tất cả các loài. Người ta tưởng ăn loại gạo thiếu chất dinh dưỡng này thì sinh viên sẽ gầy ốm. Nhưng xin thưa, họ đã lầm hoàn toàn. Càng ăn, sinh viên càng..."mập", ấn móng tay vào da thịt không biết đau, mà để lại một chỗ lõm... Họ đã mắc chứng phù thũng.

Thức ăn thứ hai là cá, các bà ở chợ thường gọi là cá heo. Xin đừng tưởng nhầm sinh viên thời đó ăn sang. Thực ra, đây chỉ là loại cá nhỏ tạp nhạp đủ chủng loại, không tên không tuổi, được nhiều gia đình mua về nấu cho heo ăn mau lớn. Các trí thức của loài người cũng ăn loại cá này suốt 4 - 5 năm Đại học. Món này được sinh viên xem là món cao cấp nhất của bữa ăn nên chỉ vài phút là sạch sành sanh.

Tiếp theo là mắm, còn gọi là nước mắm đại dương. Xin đừng hiểu nhầm đây loại loại nước mắm nổi tiếng với thương hiệu "Đại dương". Thực ra đây chỉ là nước muối, người ta cho thêm màu vào (nghe đâu là nước cơm cháy). Cho nên, tuy gọi là mắm cho sang trọng nhưng không phải là mắm.

Món cuối cùng là canh, còn gọi là canh toàn quốc. Xin đừng tưởng lầm là sản phẩm nổi tiếng toàn quốc, mà thực ra là "canh toàn nước", chỉ lèo tèo vài cọng rau. Tất nhiên, là loại rau rẻ tiền hoặc không tốn tiền như rau muống, mồng tơi, lá giang, rau dền (khiến nhiều sinh viên chạnh lòng nhớ lúc còn ở nhà cắp rổ đi hái rau dền cho heo)... Còn về thịt thì có bói cũng không tìm ra miếng nào. Nếu dùng kính hiển vi thì may ra mới phát hiện vài nguyên tố Lipid trôi nổi trong Thái bình dương. Đôi lúc, các sinh viên nhà ta còn bắt gặp trong thau canh những vị khách không mời mà đến như rơm rác, lá tre, cọng tóc, giẻ rách... Thậm chí có khi còn bắt gặp một chú chuột con còn chưa mở mắt. Thôi thì rợn hết chỗ nói...

Thời bao cấp, xung quanh các trường thường không có quán xá gì nên căn tin là nơi ăn uống chính. Hình ảnh của căn tin, mùi của căn tin, âm thanh của căn tin thường chập chờn trong giấc ngủ của sinh viên những đêm đói bụng. Căn tin đã đi vào thơ văn, nhật ký, lưu bút... Và nó cũng ghi dấu ấn không thể phai mờ trong ký ức của những sinh viên đã đi qua thời bao cấp.

Người trẻ bây giờ thật khó hình dung đến thời bao cấp. Ở thế kỷ 20, đó là thời kỳ tệ hại có lẽ chỉ sau nạn đói năm 1945. Đói mọi thứ vậy còn chuyện sex thế nào? Ở ta chuyện sex vẫn khó nói cho nên chẳng có ma nào nghiên cứu trong môn tình dục học cả. Sau đây chỉ là vài ba câu chuyện lẻ tẻ do nghe được cần kiểm tra lại:

1. Hồi bao cấp có CaVe không? Câu trả lời là có nhưng rất ít, cực kì ít thì đúng hơn. Cùng lắm là một số người quá nghèo hoặc từ quê lên đành làm liều sống qua ngày. Do không có tự điểm chứa lẫn công an đi tuần nên đánh quả lẻ hay nấp ở gốc cây thấy người qua là gạ gẫm. Hồi ấy ở công viên Thống Nhất cũng có. Có câu chuyện kì khôi là tay quan bên ngành văn hóa tên là L. thì phải thèm quá ra công viên tìm CV bị công an túm cổ. Nhưng sau không biết bị xử lí thế nào?

Cũng chính vì không có nhiều CaVe nên đàn ông thời đó thủ dâm rất nhiều. Đàn bà chưa chồng, không chồng, chồng chết cũng thèm nhưng ít người chủ động tìm giai như bây giờ nhưng nếu được “gợi ý” lập tức đồng lõa ngay. Có chuyện kì lạ trong cửa hàng thịt những năm 70. Hồi ấy mua thịt hay bất cứ thứ gì đương nhiên phải xếp hàng. Một tay thanh niên đứng sau một bà lớn tuổi hơn. Tay này thèm quá dí chim vào mông bà đứng trước để “tự sướng”. Bà này chắc cũng biết nhưng cứ để tay này tự do “làm việc”. Đến khi sướng quá bắn lung tung mấy người bị dính cái “sữa ông thọ” hỏi um lên: “Cái gì thế nhỉ?”. Bà đứng trước thản nhiên nói: “Mỡ vụn bắn ra ấy mà”.

2. Thanh niên thời ấy có “máu” như bây giờ không? Câu trả lời là có nhưng lén lút và buồn cười hơn bây giờ nhiều.

Con gái một nhà thơ rất nổi tiếng cực kì quậy (bây giờ chắc cũng hơn 40 rồi). Ban đêm mò vào KTX nam đòi các SV nam thò của quý ra để em “BJ” (oh, my god).

Lại có chuyện các chú miền Nam tập kết ra Bắc thèm quá nhưng không biết làm sao. Một anh cưới một cô vợ hờ để 7 anh dùng chung. (giời ơi móa thế không biết?).

Sinh viên thời ấy cũng ghê. Một cô học ĐH ngoại ngữ (bây giờ là ĐH Hà Nội) quãng năm 72 gì đó đến nhà bồ ở Tuệ Tĩnh và “làm việc” chung với hai anh bạn nữa. Khó hiểu ở chỗ thời ấy chẳng có “bao bì” gì cả nhưng có “hậu quả” rất hiếm.

Đó là ở thành thị còn nông thôn rất lắm chuyện. Đàn bà thì nhiều trong khi đàn ông ra trận hết chỉ còn ông già mắt toét hơi sức đâu với chuyện giường chiếu hoặc trẻ con chim bằng quả ớt chẳng khác gì tăm nhoáy trong ống bơ. Đàn ông chỉ còn lại các bác HTX, với cán bộ nhưng hồi ấy người ta hết lòng vì tiền tuyến nên chuyện thậm thụt ít vô cùng. Cùng lắm là anh chủ nhiệm HTX gọi chị X lên hỏi thăm. Vặn cái đèn hoa kì để đủ sáng cái nhà HTX ẩm thấp. Anh chủ nhiệm hỏi đại khái: “Các cháu thế nào?” “Anh có gửi thư về không?”… trong khi đó tay anh đã sờ đến đầu ti của chị X rồi. Hí hí

Thời chiến tranh ở vùng chiến cũng có nhiều gái điếm phục vụ cho cả ta lẫn địch.

Vài chuyện thế đã.

Tóm lại là thời bao cấp khổ đủ điều. Chuyện sex có lẽ khổ nhất vì lúc nào cũng lén lút do thời đó chặt cộng thêm cái bệnh đạo đức giả, lôi thôi coi như xong đời luôn. Nhưng thời ấy người ta yêu lãng mạn và khá trong sáng. Cầm tay là run bắn lên rồi. Thanh niên cấp 3 bạo lắm cũng chỉ hôn nhau rồi thôi. Thiệt thòi đủ thứ nghĩ mà tội

Anh em phóng viên Báo CAND bảo nhau về quán cơm đền Sòng (phố 215) để ăn. Cơm thường có rau luộc nhiều khi còn cả con sâu, cọng cỏ. Mấy bác xích lô biết anh em phải thức khuya, dậy sớm để làm việc nên họ nhường cho cánh phóng viên ăn trước.

Từ năm 1975 đến 1979, Toà soạn Báo Công an nhân dân có trụ sở làm việc tại nhà số 3, ngõ Chiến Thắng, phố Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội. Chuẩn bị đón Tết Nguyên đán 1980, Báo chuyển trụ sở đến số 3, phố 215, đường Tôn Đức Thắng (nay là phố Hồ Giám, quận Đống Đa).

Đội ngũ phóng viên lúc bấy giờ phần lớn được đào tạo chuyên sâu như Đại học Báo chí, Đại học An ninh nhân dân. Đến lúc ấy, Báo Công an nhân dân vẫn là tờ báo lưu hành nội bộ, xếp chữ chì, in ti-pô đen trắng, ngân sách do Bộ Công an cấp.

Phóng viên được trả lương theo cấp bậc, ngầm hiểu với nhau chứ chưa được chính thức có quyết định phong cấp hàm, cấp bậc sĩ quan như bây giờ. Nhuận bút mỗi tin bài được nhận 2, 3 đồng là lớn lắm. Đôi khi cũng có phóng viên viết phóng sự điều tra tường thuật vụ án đăng nhiều kỳ thì số tiền nhuận bút được nhận khoảng 7, 8 đồng là đã "đụng sàn" rồi.

Đời sống dựa hẳn vào chế độ phân phối của Nhà nước. Từ tiêu chuẩn gạo mắm, muối, thịt, cá, đường, xà phòng hàng tháng đều mua bằng tem phiếu, đảm bảo mức tối thiểu cho cuộc sống tồn tại. Anh em phóng viên của Toà báo không có nhà tập thể để ở. Số cán bộ nào có gia đình thì về ăn ở với gia đình. Số phóng viên độc thân thì ngày dùng bàn làm việc, đêm đến kê bàn làm giường để ngủ. Nhưng bàn nào cho đủ làm giường. Phần đông anh em phóng viên phải trải chiếu xuống nền nhà để nằm.

Cái khó của nghỉ ngơi dù sao cũng còn dễ khắc phục được. Cái ăn, thức uống hàng ngày lại là nỗi khổ bám theo từng người dai dẳng. Có thời gian sau giờ làm việc mọi người tụm hai tụm ba để nhóm lửa, vo gạo, nhặt rau, nấu nướng. Phòng làm việc đã chật chội lại càng nghẹt thở đến khó chịu bởi mùi khói bếp, mùi mắm muối. Ai không tự nấu ăn được thì phải đạp xe đến nhà ăn tập thể tại số 10 Nguyễn Quyền. Ngày nắng nóng còn đỡ, ngày mưa gió giá buốt thì khổ hơn nhiều.

Đi lại ăn uống xa quá, ăn cũng ngại. Cuối cùng số anh em ở tập thể như Ngô Mạnh, Văn Phán, Quang Hào, Văn Quyết, Phúc Bồng, Ngọc Khiêm, Đức Đông, Thế Cương, Thành Trung… rủ nhau đến ăn cơm ở Đền Sòng.

Ngôi đền ở đầu phố 215, mấy bà mấy cô đã xin với chính quyền khu phố cơi nới bên đầu hồi ngôi đền để nấu nước sôi bán. Giá một phích nước sôi khoảng 1 hào bạc. Nước đun sôi sục mà chẳng có mấy người mua. Họ xót cho mấy hòn than hồng đỏ lửa hừng hực, nên liền nghĩ ra việc bắc nồi cơm bên cạnh. Rồi lại kê thêm gạch lấy chỗ đặt cái xoong để luộc rau.

Mấy anh đạp xe xích lô cà rịch cà tang kéo đến mua cơm ăn, giá chỉ từ 2 đến 3 hào là đã có bữa ăn gồm cơm, canh và một đĩa đậu phụ (đậu khuôn) luộc chấm nước muối hoặc mắm tôm. Một vài anh em phóng viên đi làm về trễ giờ ăn ở tập thể Nguyễn Quyền (quá giờ quy định nên nhà ăn đóng cửa), họ liền ra đền ăn cơm.

Cơm canh đạm bạc, chỗ ngồi nhếch nhác, bát đũa sứt mẻ… thôi cũng đành nhắm mắt làm ngơ miễn là có cái để đưa vào dạ dày cho qua cơn đói. Cái sướng là tiện đường. Chỉ mấy bước chân từ trụ sở Toà soạn là đã ra đến đầu ngõ, tới chỗ ăn cơm nên ai cũng thích.

Thế là anh em phóng viên bảo nhau về đây ăn cơm hàng ngày. Nói đáng tội, cơm thường có rau luộc nhiều khi còn cả con sâu, cọng cỏ … Đã vậy, nhiều bữa đến trễ cũng không còn có cái gì mà ăn. Ngồi ăn chung bàn với các bác đạp xe xích lô áo quần cả mấy ngày liền không thay giặt, anh em phóng viên thường nhận được sự cảm thông của mọi người. Mấy bác xích lô biết anh em phải thức khuya, dậy sớm  để làm việc nên họ nhường cho cánh phóng viên ăn trước. Hạnh phúc nhiều khi đơn sơ thế đấy.

Ăn uống khổ thế chứ khổ nữa anh em phóng viên cũng chịu được. Chỉ sợ nhất là lúc ốm đau không có gia đình và người thân bên cạnh. Những khi đó mấy bà mấy cô chủ quán cơm lại nấu giúp cho anh em nồi cháo, nồi lá xông. Tình dân càng thêm sâu đậm.

Bây giờ trụ sở làm việc và cuộc sống của anh em phóng viên Báo Công an nhân dân khác xưa một trời một vực. Thỉnh thoảng họ có dịp ghé lại thăm chơi với gia đình bà con lối xóm cũ. Quán cơm, quang cảnh xe xích lô một thời đậu ngổn ngang trước quán cơm cũng không còn. Nhưng bà con ở phố Hồ Giám vẫn còn nhớ đến anh em phóng viên nhà báo Công an thuở nào. Đó là khi họ cầm trên tay tờ Báo Công an nhân dân phát hành mỗi ngày.

Mỗi lúc gặp lại người quen họ như reo lên: "Chú Miên, chú Lân, Phó Tổng biên tập Toà soạn Báo Công an nhân dân đây này". - “Chú Ba, chú Hà Tuấn, chú Phúc Bồng, chú Quang Hào bây giờ là Trưởng, Phó ban của Báo rồi đấy…".

Lại có đôi lúc họ ngậm ngùi khi nhắc đến những người đã mất "chú Mạnh, chú Phán thế mà cũng đã đi xa trên mười năm nay rồi…"

Phận làm dâu thời bao cấp

Sinh ra trong một gia đình công chức, chị được bố mẹ cưng chiều, ngay từ bé cuộc sống thời bao cấp khó khăn nhưng chưa bao giờ bố mẹ chị để chị phải làm bất cứ việc gì.

Thời ấy bọn trẻ con 6,7 tuổi đã biết nấu cơm, mà nấu bằng bếp củi, bếp than, khi đó than mua về là than cám, phải đi vớt bùn lên nhào lẫn vào rồi nắm thành từng nắm, phơi khô, mỗi lần nhóm bếp lại bẻ ra thành từng miếng nhỏ bỏ vào lò, đun đến khi nào vạc rồi lại tiếp đợt than khác. Cho nên công việc cơm nước với bọn trẻ con là khá nặng nhọc. Mẹ chị thương chị gày gò hơn chúng bạn nên mọi việc mẹ và bố làm hết.

Đến khi lên 10 tuổi mới phải tự giặt quần áo, năm 12 tuổi mới phải nấu cơm, nhưng mẹ vẫn làm là chính. Vì được chiều nên chị không quen việc, nhóm cái bếp lò thì lò tắt, nhóm đi nhóm lại mà lửa cứ rụi dần rồi tắt. Làm con cá mẹ sợ con gái đứt tay vì trông cứ lóng nga lóng ngóng, mẹ lại lao vào làm giúp.

Thế rồi chị đến tuổi cặp kê, chị đi lấy chồng. mẹ cứ lo con gái đến nhà người ta làm dâu mà làm việc nhà không thạo thì mẹ chồng lại đánh giá nhà không biết dạy con, mẹ lo và thương chị nhiều lắm. Mẹ cũng mừng vì bà mẹ chồng chị là một phụ nữ hiền lành phúc hậu, là nơi mẹ yên tâm gửi gắm đứa con gái vụng dại của mẹ.

Các cụ ta vẫn nói:" Cờ đến tay ai người ấy phất" câu nói đó chẳng sai tý nào. Khi về nhà chồng làm dâu. Nhà có trên 10 miệng ăn, chị phải dậy từ 6h sáng nấu ăn cho cả nhà, cái nồi cơm to như cái thúng nhỡ, khi chị mang bầu gần ngày đẻ mỗi lần bê cái nồi cơm là bụng cứ vẹo bên này vặn bên kia trông đến tội. Nhưng vẫn phải cố.

Đến bữa ăn, là dâu trưởng chị phải ngồi đầu nồi, không ai bắt chị ngồi như vậy nhưng chị biết phận dâu con nên chị ngồi đầu nồi xới cơm cho cả nhà. Lúc ăn ngon miệng, mỗi người ăn thêm một nửa bát là hôm ấy thiếu cơm, chị lại phải ăn bớt đi nhường phần cơm còn lại cho mọi người. Trong bữa ăn có thiếu đôi đũa hay cái môi xới cơm, thì chị là người đứng lên, hết nước mắm cũng là chị phải đứng lên để lấy, có ai bắt chị đâu, bụng thì to, đứng lên ngồi xuống rất khó, nhưng chị nghĩ mình là dâu con nên chị phải cố.

Nhà hết than, chị lại phải ra ao moi bùn lên để nhào than rồi nắm than để dành dùng dần. Mỗi lần đi chợ, mẹ chồng đưa tiền mua đồ ăn rất hạn chế, nhà thì đông, nếu cứ mua bằng số tiền đó thì đến bữa, người nọ nhìn người kia không ai dám gắp. Vậy là chị lại phải bỏ thêm tiền của chị vào mua cho nó xông sênh.

Đến khi chị sinh con đầu lòng, nhà chồng thì nghèo, mẹ chồng chị mua toàn rau cải bắp về luộc ăn với cơm, thỉnh thoảng mới có bữa thịt, mẹ chị thương con thỉnh thoảng dúi cho lạng giò lụa ăn thêm, nhưng nhà đông như thế lại ăn chung, ngồi cùng mâm, chị ăn một mình sao được? Chị gắp cho mỗi người 1 miếng thế là hết mấy lạng giò rim nước mắm. Chị nghĩ thôi thì phận làm dâu nên chị cố sống sao cho vui vẻ cả nhà.

Khi con chị được hai tuổi bố mẹ chồng cho ăn riêng, lúc đó vẫn chế độ tem phiếu, chị có tiêu chuẩn phiếu khá cao khi đó tem phiếu cho cán bộ làm độc hại là 1,2 kg thịt một tháng, trong khi đó tem phiếu cán bộ hành chính chỉ được 3 lạng.

Ngày đầu tiên ra riêng, chị mua hết số tem phiểu của 1 tháng là 1,2 kg thịt, chị cắt ra một nửa biếu bố mẹ chồng, còn 1 nửa đem kho mặn ăn dần. Chị nghĩ mình là dâu phải có trách nhiệm với nhà chồng, không thể ăn thịt trong lúc bố mẹ và các em chồng ăn rau được, nghĩ sao chị làm vậy. Khi mang miếng thịt lên biếu bố mẹ chồng ông cụ nói rằng để mà ăn, ra riêng rồi không phải lo cho bố mẹ đâu, nhưng chị nhất quyết để lại, ông bố chồng đành nhận.

Thế rồi hết bao cấp, cuộc sống đã thay đổi, không còn tem phiếu nữa, không phải ăn cá ươn, thịt ôi, gạo mốc, gạo mọt nữa, nhưng nếu ai giỏi giang thì kiếm kha khá. Như làm thêm nước ngọt có ga, làm kế hoạch ba, chồng chị làm thêm ở nhà cũng có đống ra đồng vào. Cuộc sống dần dần ổn định hơn Và chị tổng kết được mấy chục năm làm dâu chưa bị mẹ chồng mắng câu nào, thôi thế cũng bõ những ngày gian khó vật lộn với những khó khăn và túng thiếu.

Phận dâu con ngày xưa là thế đấy các bạn ạ, bây giờ cuộc sống dễ chịu hơn, các gia đình sinh ít con hơn nên có làm dâu cũng đỡ khổ.Con dâu bây giờ sướng hơn ngày xưa, cũng là nhờ kinh tế khá hơn, nhà có ô sin giúp việc, có thời gian chăm lo cho công việc và bản thân. Nhưng một số rất ít sống vì tiền mà quên đi cái tình cái nghĩa, dâu con mà sống như thế thì thật không nên, phải không các bạn?

 

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: