Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

tuyen tap ma

Hồn Ma Hiện Lên Từ Đáy Biển

Vì linh hồn người ta tự để cho bị khuấy động bởi nước, cũng giống hệt như nước phải vâng theo mặt trăng và khi những con đường lớn của một đế quốc bị bao quanh bởi nỗi hỉêm nguy muôn thuở, cũng phong phú về những cảnh trí và âm thanh kỳ lạ, người ta phải có một tinh thần khá thâm hậu để giữ được thản nhiên trước những điều ác hại của chúng. Hiện nay nước Anh đang vươn ra rất xa bên ngoài chính quốc, khi mà ba ngàn dặm hải phận của mỗi mạn duyên hải làm thành cương giới mà nó đã đoạt được bởi cái búa, cái khuôn dệt và cái cuốc nhọn hơn là bởi những nghệ thuật của chiến tranh. Quả thật lịch sử đã đoán chắc với chúng ta rằng không một ông vua nào, không một đạo quân nào có thể cản đường của một người chỉ có hai đồng tiền trong két sắt nhưng biết rằng ở nơi nào y sẽ có thể biến hai đồng tiền thành ba đồng, và để hết trí thông minh vào việc đi tới nơi đã định. Và vì cương giới đã mở xa ra, trí thông minh của Anh Quốc cũng được nới rộng và tràn lan ra một cách đầy đủ trên khắp thế giới để cho tất cả mọi người thấy rằng những con đường của hải đảo có tính cách châu lục, giống hệt như những con đường của châu lục đều có tính cách hải đảo.

Nhưng để tới được chỗ đó, người ta đã phải trả một cái giá, và cái giá này cứ tiếp tục tốn kém hơn. Cũng giống như con quái vật thời xưa phải nhận được dưới dạng cống phẩm hàng năm một người trai trẻ, với đế quốc của chúng ta cũng thế, hàng ngày chúng ta phải hy sinh cái tinh hoa của thế hệ thanh niên của chúng ta. Guồng máy thì bao la và dũng mãnh nhưng nhiên liệu duy nhất làm cho nó vận hành là sinh mạng của dân Anh. Đó là lý do tại sao khi ở trong những giáo đường cổ kính màu xám chúng ta nhìn thấy những danh tính xa lạ: những danh tính mà cả những người xây các bức tường này cũng không biết, vì chính ở Peshawar, ở Umbellah, ở Korti, ở Fort Pearson mà những chàng trai trẻ chết, mà chỉ để lại phía sau họ truyền thuyết và một tấm biển. Nếu bên trên mỗi cái xác người Anh có một đài kỷ niệm được dựng lwn thì người ta sẽ không cần vạch ra cương giới, vì một sợi dây thừng của những ngôi mộ sẽ chỉ rõ làn sóng của dân Anh và Celtes đã vờ tới nơi nào.

Cả điều đó nữa, đồng thời với những khối nước nối liền chúng ta với thế giới, đã đóng góp vào những chuyện hoang đường mà chúng ta thấm nhuần. Khi mà bao nhiêu người đàn ông và đàn bà đã có ở phía bên kia đại dương những người mà họ yêu quý và những người này đang tiến lên dưới làn đạn của dân sơn cước hoặc trong những đầm lầy của bệnh sốt rét rừng, thì lúc đó tâm hồn đi vào sự giao cảm với tâm hồn, và những truyện ly kỳ nẩy sinh, những mộng mị, những sự linh cảm, những ảo tưởng trong đó một bà mẹ trông thấy con trai bà đang chết và bà ngất đi trong cơn tuyệt vọng, ngay cả trước khi cái tang của anh ta được loan báo cho bà. Mới gần đây khoa học đã chiếu cố tới vấn đề này và đã ban cho nó một cái nhãn hiệu, nhưng chúng ta đã biêt gì hơn nếu không phải là việc một linh hồn bị hành hạ và tới bước cũng đã có thể phóng qua mặt đất, vào một khoảng cách mươi lăm ngàn cây số, cái hình ảnh của tình cảnh đau buồn của y tới tận tâm trí của người thân cận nhất của y? Tôi không hề phủ nhận cái quyền năng đó, nhưng tôi nghĩ rằng cần phải khôn ngoan trong những vấn đề như vậy, vì ít nhất đã có một lần tôi biết rằng những điều trong khuôn khổ các định luật tự nhiên có thể hoàn toàn nằm ngoài những vấn đề này.

John Vansittart là hội viên thứ nhì của công ty Hudson et Vansittal, công ty xuất khẩu cà phê ở Ceylan ( Tích Lan). Ông vốn là người gốc Hà Lan, nhưng 100% Ăng-Lê trong lòng các phong độ. Đã nhiều năm tôi làm đại diện cho ông ở Luân Đôn. Khi ông tới Anh quốc để nghỉ ngơi ba tháng, ông nói với tôi để có những sự giới thiệu cho phép ông làm quen với đời sống ở thị thành và ở thôn quê. Ông đã rời khỏi các văn phòng của tôi với bảy bức thư trong túi áo. Trong một vài tuân, những bức thư ngắn từ nhiều nơi khác nhau gửi tới báo tin cho tôi biết là ông đã lấy được cảm tình của các bạn tôi. Rồi tôi được tin là ông đã đính hôn vơi Emily Lawson, thuộc ngành thứ của gia đình nhà Hereford Lawson, và gần như ngay sau đó họ đã thành hôn: sự tán tỉnh của một du khách chỉ có thể chóng vánh thôi, và cái ngay ông phải xuống tàu của công ty, một cái tàu buồn một ngàn tấn: đó sẽ là chuyến đi chơi tuần trăng mật của họ.

Thời đó là thời cực kỳ thuận lợi cho các nhà trồng cà phê ở Ceylan, họ đã chưa từng biết cái mùa khủng khiếp mà chỉ trong vài tháng thôi, nhưng đã làm lụi bại tất cả một cộgn đồng này nhờ ở sự dũng cẩm và kiên trì, sẽ lại dành được một thắng lợi thứ hai: quả thực những cánh đồng trà ở Tích Lan là một đại công trình của lòng dũng cảm của dân Anh, giống hệt như con sư tử ở Waterloo. Nhưng trong năm 1872 chưa có một đám mây nào đe doạ ở chân trời. Những hy vọng của các nhà trồng tỉa thật tràn trề, Vansittart trở lại Luân Đôn cùng với cô vợ trẻ đẹp của ông. Ông giới thiệu cô với tôi, chúng tôi cùng ăn bữa tối với nhau, và cuối cùng thì ông đồng ý rằng, vì các công việc củng đòi hỏi sự có mặt của tôi ở Tích Lan, tôi sẽ là bạn đồng hành của họ trên tau Eastern Star, mà sự nhổ neo rời bến đã được định trước vào ngay thứ hai sắp tới.

Tôi gặp lại ông vào buổi tối ngày chủ nhật. Ông đi vào trong nhà tôi với một vẻ băn khoăng và bực bội. Khi tôi bắt tay ông, tôi nhận thấy bàn tay ông nóng và khô.

- Ông Atkinson ạ, ông nói với tôi, tôi muốn ông bảo người nhà pha cho tôi một chút nước chanh và nước lạnh. Nói theo nghĩa đen, tôi đang chết khát đây, và tôi càng uống bao nhiêu thì tôi càng muốn uống nữa.

Tôi bấm chuông và gọi lấy một bình nước và những cái cốc.

- Ông đang bị sốt nóng lạnh, toi nói với ông, ông có vẻ đang khó ở đó.

- Không, tôi không cảm thấy khoẻ mạnh lắm. Tôi bị đau phong thấp ở lưng, và tôi ăn không ngon. Chính cài thành phố Luân Đôn chết tiệt này làm tôi nghẹt thở. Tôi không quen hít thở cái không khí mà bốn triệu buồng phổi cùng khuấy trộn lên cùng một lúc.

Ông vung vẩy hai bàn tay co quắp trước mặt ông: thật sự ông đã cho người ta một ấn tượng của sự ngột ngạt.

- Một khi ông ở trên mặt biển, ông sẽ cảm thấy khoẻ khoắn ngay.

- Đúng. Về điều đó thì tôi đồng ý với ông, Đó là việc cần thiết của tôi. Tôi không cần tới một vị y sĩ khác. Nếu ngày mai tôi không xuống tàu thì tôi sẽ phát ốm…..

Ông uống một hơi hết cốc nước chanh và ông xoa chỗ sống lưng bằng hai bàn tay ông.

- Người ta nói rằng điều đó sẽ tốt cho tôi, ông nói tiếp trong khi nhìn tôi với một con mắt rầu rỉ. Bây giờ tôi cần có sự giúp đỡ của ông, ông Atkinson ạ, vì tôi đang ở trong một hoàn cảnh tế nhị.

- Hoàn cảnh thế nào?

- Đây này, bà mẹ vợ tôi bị ngã bệnh và bà ấy đã đánh điện gọi vợ tôi tới bên giường bệnh của bà ấy. Tôi đã không thể đi theo vợ tôi (ông biết rõ hơn ai hết là tôi đã bị cầm chân lại ở đây ) và vợ tôi đành phải đi một mình. Bây giờ tôi lại vừa nhận được một bức điện khác nói là ngày mai vợ tôi không thể tới được, nhưng nàng sẽ bắt kịp con tàu ở Falmouth vào ngày thứ tư. Ông biết đó, chúng tôi sẽ đạu lại ở đó: nhưng Atkinson ạ, tôi thấy thật là khó cho người ta đòi hỏi một người phải tin vào sự huyền bí, và người ta sẽ nguyền rủa, nếu y không thể tin vào điều đó, người ta sẽ nguyền rủa y, ông hãy hiểu tôi đi!

Ông cúi xuống phía trước và khịt mũi làm như thể ông sắp khóc oà lên.

Lúc đó tôi nghĩ tới việc người ta đã nói rất nhiều với tôi về những tập tục ở hải đảo và về cách thức người ta uống rượu không pha ở đó. Chắc hẳn rượu đã là nguyên nhân của những lời nói khó hiểu này và của những bàn tay đang lên cơn sốt này! Tôi cảm thấy một sự lo sợ mạnh mẽ khi trông thấy một người trai trẻ cao quý như vậy nằm trong tay một con quỉ ghê tởm nhất trong số tất cả những con gái.

- Ông phải đi nằm nghỉ! Tôi nói một cách nghiêm nghị.

Ông dụi mắt như thể ông tìm cách tự làm cho mình tỉnh lại, và ông nhìn tôi với vẻ kinh ngạc.

- Tôi sẽ đi tới đó, ông nói với tôi một cách bình thản, lúc nãy tôi cảm thấy hơi choáng váng, nhưng bây giờ tôi đã hồi phục rôi. Này, tôi đang nói về về việc gì thế? À, dĩ nhiên là về vợ tôi rồi! Nàng sẽ xuống tàu ở Falmouth. Tôi tin rằng sức khoẻ của tôi tuỳ thuộc vào sự đi đường biển. Tôi cần có chút ít không khí trong lành trong phổi tôi để tôi có thể hoàn toàn bình phục. Do đó tôi xin ông hãy làm cho một việc với tư cách bạn bè, ông sẽ đí tới Falmuoth bằng xe lửa, phòng trường hợp mà chúng tôi tới trẻ, và lúc đó ông sẽ trông nom cho vợ tôi. Ông hãy tới khách sạn Royal; tôi sẽ đánh điện cho nàng là ông trú chân ở đó. Em gái của nàng sẽ đi theo nàng tới tận đó, như thế là mọi việc sẽ tốt đẹp.

- Rất vui lòng, tôi trả lời. Thật sự tôi không đòi hỏi gì hơn là được đi tới Falmuoth bằng xe lửa, vì từ đây tới Colombo chúng ta sẽ có nhiều thời gian thưởng thức biển cả. Tôi cũng nghĩ rằng ông có một nhu vầu khẩn thiết về sự thay đổi không khí. Nếu ở địa vị ông tôi sẽ đi nằm nghỉ ngay tức thì.

- Phải. Đêm hôm nay tôi sẽ ngủ trên tàu. Ông thấy đó một thứ sương mù còn lởn vởn trước mắt ông.

-….Mấy đêm nay tôi không ngủ được nhiều, tôi đã gặp mâu thuẫn với các nhà thần học….nghĩa là…..

Trong một sự cố gắng tuyệt vọng, ông kêu lên:

-….Bởi những sự hoài nghi có tính cách thần học…Xì! Tôi tự hỏi tại sao đấng tối cao toàn năng lại tạo ra chúng ta, tại sao. Ngài lại làm cho chúng ta ngu độn và gài những sự đau đớn lặt vặt vào sống lưng của chúng ta. Có lẽ là tối nay tôi sẽ khá hơn!

Ông đứng dậy và bám thấy cái lưng ghế của ông.

- Ông Vansittart! Xin ông hãy nghe tôi! Tôi nói với sự nghiêm trọng. Tối nay tôi sẽ mời ông ở đây với tôi, ông không ở trong tình trạng để đi ra ngoài được. Ông không đi ngay ngắn được. Ông đã uống những thứ pha trộn của rượu…

- Rượu hả?

Ông nhìn thằng vào mắt tôi với một cái nhìn ngớ ngẩn.

- Thường nhật thì ông chịu đựng khá hơn khi uống rượu mà.

- Ông Ankinson này, tôi thề với ông là đã từ hai ngày nay tôi không uống một cốc rượu, tôi không biết là tôi đã uống cái gì. Tôi giả thiết rằng ông nghĩ đó là hiệu ứng của rượu….

Ông nắm lấy bàn tay tôi và đặt nó lên trán ông.

- Lạy chúa tôi! Tôi kêu phải lên.

Ông có làn da mỏng như một dải nhung, dưới lớp da tôi cảm thấy như một lớp chi chít những miêng chỉ lụn vụn.

- Ông chớ lo sợ, ông nói trong lúc cười mỉm. Tôi đã mắc bệnh lở mụn nước rất tệ.

- Nhưng chuyện đó không dính líu gì tới bệnh lở mụn nước mà !

- Không, đó là Luân Đôn. Đó là việc thở hít cái không khí tệ hại đó. Ngày mai tôi sẽ mạnh khoẻ hơn nhiều. Trên tàu có một y sĩ, thế là tôi sẽ được săn sóc chu đáo. Bây giờ tôi sẽ đi đây.

- Không, tôi nói với ông trong khi bắt ông phải ngồi xuống. Việc đó sẽ là đưa sự đùa cợt đi quá xa đấy. Ông sẽ không nhúc nhích khỏi nơi này trước khi gặp một vị y sĩ. Hãy ở yên chỗ ông đang ngồi.

Tôi cầm lấy cái mũ và vội vã đi tới nhà một vị y sĩ ở ngay gần nhà tôi. Tôi đưa ông ấy về nhà tôi ngay lập tức, nhưng phòng khách của tôi trống không và Vansittart đã đi khỏi. Tôi bấm chuông, anh đầy tớ báo với tôi rằng vị quý khách đã sai gọi một cỗ xe. Ông ấy bảo người đánh xe đưa ông ấy đến bến tàu.

- Vị quý khách có vẻ ốm yếu không? Tôi hỏi.

- Ốm yếu à? Anh đầy tớ mỉm cười trả lời. Thưa ông không, ông ấy hát ầm ĩ!

Sự bào tin này đã không làm tôi yên tâm chút nào, nhưng tôi nghĩ rằng ông đi tới tàu Eastem Star, và có một y sĩ ở trên tàu, tôi không thể làm được gì nữa cho ông. Tuy nhiên, khi tôi nhớ tới sự khác nước của ông, nhớ tới hai bầnty nóng bỏng của ông, con mắt nặng chĩu của ông, những lời nói vô ý nghĩa của ông, và cuối cùng là cái trán lở lói bệnh cùi của ông, thì tôi đã mang theo lên giường nằm của tôi một ký ức khó chịu về người khách của tôi và sự tới thăm của ông ấy.

Sáng hôm sau, vào lúc mười một giờ, tôi đi tới bến tàu, nhưng tàu Eastern Star đã bắt đầu chạy xuôi dòng sông và đã fần tới Gravesend. Tôi đi với Gravesend bằng xe lửa, nhưng khi tôi tới nơi thì chỉ còn trông thấy các cột buồm của nó ở một khoảng cách khá xa, được mở đường phía trước bởi một lùm khói của một cái tàu kéo. Thế là tôi không có tin tức nào của ông bạn tôi nữa trước khi tới Falmuoth. Khi tôi trở về văn phòng của tôi, một bức điện tín đã đợi tôi. Bà Vansittart đã tới Falmuoth; buổi tối ngày hôm sau, chúng tôi gặp nhau ở khách sạn Royal, tại đó chúng tôi phải đợi tàu Eastern Star. Mười ngày đã trôi qua, chúng tôi không nhận được tin tức gì của con tàu.

Tôi sẽ không dễ dàng quên được mười ngày đó! Khi tàu Eastern Star rời khoti sông Tamise, một cơn bão lớn phát khởi; nó thổi trong gần cả một tuần lễ không ngừng nghĩ chút nào. Trên bờ biển miền nam, chưa bao giờ người ta thấy một trận bảo dài như thế và cuồng nộ như thế. Từ các cửa sổ khách sạn của chúng tôi, mặt biển hình như bị bao trùm trong sương mù. Gió đè một cách quá nặng nề lên những đợt sóng khiến cho mặt biển không thể vùng lên được: ngọn của từng đợt sóng đã bị ngắt đi ngay tức thì. Những đám mây, gió, mặt biển đều ùn ùn kéo về hướng tây. Ở giữa những thế lực hung hăng này, tôi chờ đợi hết ngày này qua ngày khác với sự bầu bạn duy nhất của một người đàn bà xanh xao và trầm lặng, mà cặp mắt phản ảnh sự kinh hoàng; từ sáng tới chiều, nàng cứ đứng dán mắt vào cửa kính, đăm đăm nhìn vào tấm xịt qua đó một con tàu có thể hiện ra. Nàng không nói gì cả, nhưng nét mặt nàng là một khúc bi ca dài dặc.

Sang tới ngày thứ năm tôi hỏi ý kiến một thủy thủ già. Ý tôi muốn được ngồi một mình với ông ấy, nhưng nàng đã trông thấy tôi mở lời với ông ấy, và nàng tới ngay tức thì, miệng hé mở và đôi mắt khẩn cầu.

- Khởi hành từ Luân Đôn đã bảy ngày rồi à? Ông ấy nói. Vậy là năm ngày trong giông bão. Này, biển Manche đã bị quét sạch bởi cơn gió này! Có ba giả thuyết, trận bão có thể bắt nó phải tìm nơi trú ẩn trong một hải cảng của Pháp. Điều này có thể là đúng.

- Không phải thế đâu! Ông ấy biết rằng chúng tôi đang ở đây. Lẽ ra ông ấy phải đánh điện cho chúng tôi.

- À phải! Vậy thì có thể là nó đã chạy ra khơiđể tránh bão, nếu đúng vậy thì lúc này chắc nó không ở xa Madere. Thưa bà, điều đó hoàn toàn có thể xảy ra; bà có thể tin lời tôi nói !

- Và giả thuyết thứ ba?

- Tôi có nói với bà về một giả thuyết thứ ba à? Không, tôi nghĩ chỉ có hai thôi. Tôi không tin là tôi đã nói tới một giả thuyết thứ ba. Con tàu của bà đang ở một nơi nào đó ở giữa Đại Tây Dương, và chả mấy chốc bà sẽ có tin tức của nó, vì thời tiết săp thay đổi. Thưa bà, bà chớ lo lắng. Hãy đợi tới ngày mai, ngay từ buổi sáng bà sẽ có một bầu trời xanh, đẹp.

Người thủy thủ già đã tiên đoán đúng: ngày hôm sau trời quang đãng ngoại trừ một đám mây thấp bay ở phía tây, và đó là mảnh cuối cùng của cơn cuồng nộ của trận bão tố. Dù trời đã quang đãng chúng tôi cũng vẫn không có một tin tức nào về chiếc tàu thủy. Ba ngày bực bội, lo âu nữa đã trôi qua, rồi một thủy thủ tới trình diện ở khách sạn với một bức thư, tôi thốt lên một tiếng kêu vui mừng. Bức thư tới từ vị thuyền trưởng của tàu Eastern Star. Khi đọc qua mấy dòng đầu tiên, tôi đã muốn giấu nhẹm là thư đi, nhưng nàng đã giật lấy nó từ tay tôi.

- Tôi đã đọc đoạn đầu, nàng nói với một giọng bình thản. Vậy thì tôi có thể đọc chỗ tiếp theo.

Lá thư viết như sau:

” Kính thư ông, ông Vansittart đang ở trên tàu với bệnh đậu mùa, và chúng tôi đã bị đẩy ra quá xa mũi đất của chúng ta nên chúng tôi không biết phải làm sao: ông ấy đã phát cuồng và ông ấy không còn khả năng để ra lệnh cho chúng tôi. Theo những sự tính toán phỏng chừng của tôi thì chúng tôi chỉ còn cách Fanchal chừng bốn trăm hai mươi cây số thôi. Tôi cũng giả thiết là nên đi tới đó, đưa ông Vansittart vào bệnh viện, và đợi ông tới ở trong vịnh. Người ta nói với tôi là trong vài ngày nữa một tàu buồm sẽ từ Falmuoth đi tới Fanchal. Lá thư này sẽ được mang tới ông bằng sự môi giới của thuyền nhỏ Marian ở Falmuoth, phải trả viên thuyền trưởng của nó năm bảng. Kính chào ông. Jno Hines. ”

Nàng thật là tuyệt diệu, cô thiếu nữ vừa mới rời khỏi đại học này! Cũng trầm tĩnh và cương nghị như một bậc nam nhi vậy. Nàng không nói gì cả. Nàng mím chặt môi và đội mũ lên đầu.

- Cô đi ra ngoài à? Tôi hỏi.

- Vâng.

- Tôi có thể giúp gì cho cô không?

- Không, tôi đến nhà vị y sĩ.

- Sao?

- Phải. Để biết cách người ta điều trị bệnh đậu mùa.

Nàng loay hoay bận rộn súôt cả buổi tối. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi xuống tàu đi Madere, trên chiếc tàu Róe ò Shảon. Gió biển thổi mười nút một giờ. Trong năm ngày chúng tôi chạy với tốc độ đều đặn, và chúng tôi đã tới nơi không xa hải đảo. Sang ngày thứ sáu gió nổi lên đột ngột, chúng tôi lâm vào tình trạng không nhúc nhích được như đi trên dầu nhớt.

Lúc mười giờ tối, Emily Vansittart và tôi cùng đứng tựa vào bao lớn bên phải của mạn cuối tàu; mặt trăng sáng rực đằng sau chúng tôi và chiếu xuống chân chúng tôi bóng đen của con tàu và bóng hai cái đầu của chúng tôi trên mặt nước lóng lánh như tấm gương. Từ chỗ bóng tối một con đường của ánh trăng trải dài ta và vừa đi xa, vừa tan rộng cho mãi tới chân trời hiu quạnh. Chúng tôi nói chuyện trong khi cúi thấp đầu xuống, chúng tôi nói dông dài về sự yên tĩnh, về cơ may của một cơn gió thuận lợi, về trạng thái của bầu trời, thì bỗng nhiên có một tiếng bõm trên mặt nước, như thể một con cá hồi vừa nhảy lên, và kìa, dưới ánh sáng trăng vằng vặc John Vansittart nhô lên từ dưới mặt biển và ngẩng đầu lên về phía chúng tôi.

Tôi chưa bao giờ thấy một vật gì rõ rệt hơn thế. Ánh trăng soi sáng ông ấy rõ mồn một, ông ấy ở cách xa chúng tôi tầm độ ba tầm chèo. Ông ấy có bộ mặt phồng lên lớn hơn là lần gặp mặt cuối cùng của chúng tôi, da ông có nhiều chỗ lốm đốm những vẫy đen; mặt và miệng ông mở lớn ra như thể một người vủa gặp một sự kinh ngạc lớn lao. Từ hai vai của ông, một chất trắng đục chảy xuống thành những dãi dài; một bàn tay của ông giơ lên gần tai, bàn tay kia thì gặp lại để ngang ngực ông. Tôi trông thấy ông vọt lên khỏi mặt nước, và trên mặt phẳng yên tĩnh của đại dương, những gợn sóng vẽ thành các vòng tròn cho mãi tới hông tàu. Rồi ông lại chìm xuống, và tôi nghe thấy một tiếng rập gẫy, một tiếng xé rách, như thể trong một đêm băng giá một bó củi khô nổ lép bép trong đống lửa bập bùng. Khi tôi nhìn lại tôi không còn trông thấy một chút dấu vết nào của ông đã xuất hiện. Tôi không thể nói là tôi đã đứng ở đó bao lâu cúi khom người trên các đầu ngón chân, một tay vịn chặt lấy cái lan can và tay kia đỡ lấy người đàn bà bất tỉnh. Tôi đã là một kẻ trái ngược hẳn với người hay nhạy cảm, lần này thì ít nhất tôi đạp chân lên boong tàu để biết chắc tôi vẫn còn làm chủ được các cảm giác của chính tôi, và đây không phải là sự sáng tạo điên khùng của một bộ óc hỗn loạn. Emily Vansittart run lẩy bẩy, mở mắt ra, nàng đứng dậy, hai tay tì vào cái lan can, nhìn ra mặt biển long lanh dưới ánh trăng; mặt nàng đã già đi mười năm trong một đêm hè.

- Ông có nhìn thấy ông ấy không? Nàng thì thào nói.

- Tôi đã nhìn thấy một vật gì.

- Đó là ông ấy! Đó là John! Ông ấy đã chết!….

Tôi ấp úng nói một vài lời có tính cách hoài nghi.

-…Chắc chắn là ông ấy vừa mới chết, nàng nói nhỏ. Ở bệnh viện Madère. Tôi đã đọc qua những truyện vào loại đó. Các yd nghĩ của ông ấy đều nghĩ tới tôi. Thị quan của ông ấy đã tới với tôi. Ôi John, người yêu quý của tôi, người yêu quý đã mất đi mãi mãi của tôi !

Nàng oà lên khóc nức nở: tôi đưa nàng về phòng của nàng và để nàng ở đó với nỗi lo buồn của nàng. Một cơn gió nhỏ bắt đầu thổi trong lúc ban đêm, và buổi tối hôm sau chúng tôi bỏ neo trong vịnh Fanchal. Tàu Eastern Star đang đậu gần đó, lá cờ kiểm dịch được treo cao trên cột buồm lớn và cờ hiệu của nó để rũ xuống.

- Ông trông kìa! Bà Vansittart nói với tôi.

Cặp mắt nàng khô ráo, nàng biết rằng không một giọt lệ nào trả lại được người chồng cho nàng. Trong lúc ban đêm chúng tôi nhận được giấy phép cho lên tàu Eastern Star. Viên thuyền trưởng, ông Hines, đợi chúng tôi trên boong, sẹ lo buồn và bối rối đã hằn lên trên bộ mặt da đồng của ông, và ông tìm những từ để loan báo hung tin: nàng ngắt lời ông.

- Tôi biết rằng chồng tôi đã chết, nàng nói, ông ấy đã chết tối hôm qua, vào lúc mười giờ, ở bệnh viện Madère, có phải vậy không?

Người thủy thủ nhìn nàng, sững sờ.

- Khồn, thưa bà. Ông ấy chết tám ngày rồi, ở trên biển và chúng tôi đã buột lòng phải thủy táng ông ấy ở đó, vì chúng tôi thấy mình đang ở một khu vực yên tĩnh và chúng tôi đã không biết khi nào thì chúng tôi sẽ tới bờ.

Đó là những sự kiện chính yếu liên quan tới cái chết của John Vansittart, cũng như về sự xuất hiện của ông ấy tại một nơi nào đó vào khoảng độ 35 bắc vĩ – tuyến và độ 15 tây kính tuyến. Một hồn mà hiện hình rõ rệt hơn thật ít khi xảy ra, do đó nó đã là đề tài của nhiều cuộc tranh luận, của nhiều bài viết. Nó đã được xác nhận bởi giới bác học và nó đã làm dầy thêm tập hồ sơ mới được mở ra gần đây về sự thần giao cách cảm. Về phần tôi, tôi chủ trương là sự thần giao cách cảm không có gì để nghi ngờ, nhưng tôi muốn rút trường hợp này ra khỏi tập hồ sơ và tôi muốn nói rằng chúng tôi đã không trông thấy sự xuất hiện của hồn ma John Vansittart, mà đúng là John Vansittart bằng xương bằng thịt, vọt lên từ đáy sâu của Đại Tây Dương dưới ánh trăng. Tôi luôn luôn tin rằng một sự ngẫu nhiên phi thường (Một trong các sự ngẫu nhiên rất ít có khả năng xảy ra này, tuy nhiên lại vẫn thường xảy ra ) đã làm cho chúng tôi đứng bất động bên trên chính ngay cái chỗ mà người đàn ông đó đã bị chôn vùi trên biển một tuần lễ trước. Về phần còn lại, vị y sĩ đã nói với tôi là quả tạ bằng chì không được cột chặt, và bảy ngày đã mang tới cho cái xác chết vài sự thay đổi nào đó có thể làm cho nó nổi lên mặt nước. Quả tạ đã làm nó chìm sâu xuống đấy biển. Nếu quả tạ tách rời ra xác chết có thể lại chồi lên mặt nước với sự đột ngột mà chúng tôi đã chứng kiến. Đó là lời giải thích của vị y sĩ. Tới chỗ muốn biết rõ ràng hơn nữa, tôi coi đó là phận sự của tôi, và nếu nhắc lại với bạn về cái tiếng động khô khan của sự rập gẫy, của sự xé rách, cũng như sự xao động trong nước biển. Những con cá mập kiếm ăn trên mặt nước, và chúng đông lúc nhúc trong miền này.

Oan hồn ngõ đá dốc

ảnh minh họa

- Tao đoán oi thế này khéo mai chột giời.

Ý nó không muốn tôi dây đến chuyện thằng Tú, thằng bạn nối khố của hai đứa tôi. Nhưng không dây sao được. Thế nào gọi là bạn bè? Tôi nói tiếp, gay gắt hơn:

- Nó đang mù, phải mở mắt cho nó. Không hay ho gì đâu!

Hào bật cười một tiếng ngắn ngủn.

- Mày nhất định làm bố trẻ nó đấy? Mày có giỏi đi can nó thử xem!

Không rõ từ thuở nào Tú đã mê mẩn bám theo cô bé Thơ mồ côi ở vạn chài này. Chuyện chúng nó, tôi tin có bàn tay của giời nhúng vào. Không vậy, ai lý giải được?

Hai đứa lớn lên cùng ở ngõ đá dốc. Cái Thơ ở với bà ngoại, thằng Tú ở với ông bố ngây ngây ngô ngô từ dạo vợ chết. Hồi Tú còn bé, bà Thạo, bà ngoại cái Thơ thương hại cảnh nhà Tú một bố một con nên thường kéo nó sang nhà chăm nom tiện thể, để hai đứa tha thẩn chơi với nhau đỡ tội. Thơ hơn Tú một tuổi. Ngày bé Tú vẫn nhoen nhoẻn gọi: “Chị Thơ ơi!”. Hai đứa quấn quýt nhau như chị em ruột thịt. Con bé mang hết tình yêu bản năng đàn bà mà chiều Tú. Lên bốn tuổi, con bé đã biết ôm gọn Tú trong lòng, bắt chước người lớn vạch áo cho “em bé bú tí”, ru rín Tú mỗi cơn nó hờn dỗi. Lớn hơn chút nữa, cứ buổi chiều con bé lại nắm tay lôi Tú xềnh xệch ra bãi biển tắm táp. Đôi khi Tú chẳng buồn về nhà, hai ba ngày liền ăn ngủ bên bà Thạo với cái Thơ.

Tôi lại lớn hơn cái Thơ gần hai tuổi. Tôi chưa quên một hôm bắt gặp cái Thơ cho Tú ăn lạc bằng cách đặt những viên lạc luộc giữa đôi môi mím chặt. Thằng bé không được dùng tay, phải há miệng đớp đớp hạt lạc trên môi con Thơ như chú chim con chờ mớm mồi. Mỗi lần con Thơ nguẩy đầu dướn cao cổ lên, Tú lại nhăn nhó nài nỉ:

- Nào, nào, em ăn hết rồi. Cho em đi!

Tôi tình cờ đi tới sau lưng nhưng chúng nó không biết. Tôi thấy ghét quá, lừa tát thật mạnh lên đầu con Thơ để chúng vập mặt vào nhau. Chạy xa rồi tôi còn nghe hai đứa khóc ré phía sau. Con Thơ sưng trán bằng quả nhót, thằng Tú môi vều rớm máu.

Chỉ tới lúc dậy thì, con gái sớm biết xấu hổ, cái Thơ mới bỏ rơi thằng Tú. Vả lại trẻ con xóm chài cứ nhè Tú trêu ghẹo: “Hai vợ chồng là chông vợ hài… ” khiến Tú đỏ mặt tía tai, uỵch nhau chí chết. Không mấy khi mặt mũi chân tay nó không xây xước, bầm tím. Từ ấy trông thấy Thơ ở đâu, thằng Tú lỉnh ngay.

Khi Tú thành một chàng trai lừng lững với những bắp thịt nổi cuộn như chão dưới làn da nâu cháy, tôi chợt phát hiện thằng cù lần đã yêu, mà yêu thật mãnh liệt. Lúc ấy tôi chưa cưới vợ, cũng đang chết điên vì sa vào vạt lưới một cô giáo cấp hai ngoài thị xã. Đêm đến hai đứa tôi hay rủ nhau bỏ nhà ra bãi biển nằm khểnh trên bờ đá, tâm sự vụn. Một lần Tú thú nhận với tôi hay mơ thấy một người con gái ở xóm chài, được ôm ấp cô ta. Nhưng tên tuổi người con gái ấy, Tú không hé lộ.

Đầu năm ngoái, cái Thơ được người bác họ cho đi học lớp trung cấp nấu ăn trên Hải Phòng. Tú bỏ cả chài lưới, thứ bảy chủ nhật nào cũng giấu tôi, tót lên phố, thậm chí chỉ để nhìn cô bé một thoáng cho đỡ nhớ. Còn Thơ, hình như cô sợ sự săn đón ráo riết của Tú, nhiều bận cứ xua đuổi lẩn tránh, không chịu gặp mặt.

Rốt cuộc Tú đành phải thú nhận hết với tôi. Nó đau khổ nhưng quyết không chịu lùi bước. Nó nhờ tôi tác động giúp nó một tay. Tất nhiên tôi phải chiều bạn, tuy băn khoăn không hiểu tại sao Tú chọn lựa kỳ cục thế. Đồng ý cái Thơ có duyên, dễ coi nhưng hơn tuổi Tú, sau này vài con với nhau mới thấy rõ sự chênh lệch. Đàn bà chóng già, ai không biết thế. Vả con gái vạn chài mới lớn, mỡ màng như những con cá lanh tươi, lấy thúng đựng không hết, Tú chỉ cần ới một tiếng, khối cô lăn vào xin chết ngay. Đẹp trai, khỏe mạnh, giỏi cá lưới, nhà cửa đàng hoàng, có mỗi ông bố già lẩm cẩm dễ chiều, mặt hàng này thuộc diện a-còng chứ đùa ?

Một sáng chủ nhật tôi phải đèo nó lên Hải Phòng, tìm tới tận lớp dạy nghề nấu ăn của công ty X., chờ chực, làm thân với thằng cha thường trực mặt mũi đầy mụn, nhăn nhó như người táo bón kinh niên. Tú móc bao thuốc lá ngoại, đưa mời bằng cả hai tay lẫn nụ cười nịnh nọt trên môi.

- Mời anh xơi điếu thuốc với chúng em cho vui…

- Cảm ơn, tôi không hút. Yêu cầu các anh cũng đừng hút ở đây, tôi đang ho…

- Vâng… Sắp hết giờ lên lớp rồi anh nhỉ?

- Làm sao tôi biết được. Nhưng các anh gặp cô Thơ có việc gì ? Tôi đã nhắn hộ vào lớp, có thấy cô ấy ra đâu ?

- Chúng em người cùng xóm với Thơ. Bà cô ấy nhờ gửi lên ít ruốc cá cho cô ấy.

Tú giơ gói ruốc cá lên làm chứng. Món ruốc cá thu này vợ tôi làm cho thằng con mới biết ăn bột. Sáng nay, Tú nằng nặc đòi sẻ một nửa lọ đưa lên làm quà cho Thơ. Vợ tôi không dám từ chối, phải chiều. Thơm rưng rức vậy mà gã thường trực chun mũi làm vẻ khó chịu với mùi ruốc cá, kiểu những ông Tây sợ mùi mắm tôm của dân tộc lạc hậu.

- Dào ôi, gửi gì cứ để ở bàn. Của này không sợ người ta ăn mất đâu.

Rồi gã chỉ vào mặt Tú đánh tiếp một câu xanh rờn:

- Nói thật nhá, tuần nào nhà anh chả tạ sự chầu chực ở đây, tôi lạ chó gì. Nhân tình nhân ngãi cứ nói toạc ra. Sốt ruột ! Khóa trước có một cô xinh nhất lớp, chưa học xong đã bị nó rủ rê lừa bán sang Trung Quốc… Các anh đi sang bên kia cổng mà chờ hộ tôi.

Cái từ nó chung chung của gã thường trực rất thâm. Chẳng khác gã bảo chúng tôi chính là nó ấy. Tôi chỉ muốn đấm vào mặt thằng cha một quả. Nhưng Tú bấm tay tôi ra hiệu chào thua, rồi hai thằng kéo nhau ngoan ngoãn ra bên kia cổng đứng chờ. Nhìn nụ cười lấy lòng cha tắt ở trên miệng Tú, tôi càng sôi máu hơn. Cứ cười đi, từ nay cậu đừng hòng xui tôi giáp mặt thằng cha thường trực phải gió ấy lần nữa nhé! Cầu sao có lần hắn ra chơi Đồ Sơn, tôi sẽ trả nợ đủ.

Nhưng sự tình lại xoay sang hướng khác. Bẵng đi một tháng, tôi cùng Tú vào Quảng Trị tìm mộ anh cả tôi, khi về bỗng nghe tin sét đánh. Nó chưa kịp rủ rê đưa sang Trung Quốc thì cái Thơ đã đi đứt với tay giáo viên dạy nghề ở lớp học. Lằng nhằng với nhau hiện cái Thơ có mang, nhà trường mới biết chuyện. Anh giáo sau khi “truyền thụ sở trường” xong, bị kỷ luật đã trốn mất tăm. Thơ không được học nữa đành vác bụng lại trở về vạn chài ở với bà ngoại.

Thằng Tú sau một hồi chết đứng như Từ Hải, nó lầm lì bảo tôi:

- Thôi cũng được. Tôi nhờ ông thuyết phục cô ấy hộ tôi. Phải cưới nhanh trước khi cái bụng ểnh ra, chướng lắm. Ông đã vợ con đàng hoàng, lời nói có trọng lượng, không chả chớt như thằng Hào, chắc chắn cô ấy nghe ông đấy.

- Nghĩ kỹ chưa ? Nó trót để xảy ra chuyện không hay, bây giờ mày sẵn sàng nhận làm bố đứa trẻ trong bụng nó chứ?

- Con cô ấy cũng như con tôi.

- Ông cụ lẫn cẫn đã đành, nhưng họ hàng nhà mày người ta để yên cho không ?

- Vớ vẩn. Tôi lấy vợ cho tôi chứ lấy cho họ hàng đâu?

Ngừng một lát, Tú nhìn lảng đi nơi khác, nói nhỏ:

- Vả tôi vẫn cay lắm. Cô ấy khéo hành tôi đến chết mất.

Đúng vậy. Dạo này Tú gầy rộc, hai mắt sâu hoắm, nhìn vào chỉ thấy phát ra thứ ánh sáng loang loáng sắc lạnh.

Tôi đi tìm gặp Thơ. Phải lần ra bãi đá từ lúc mặt trời chưa nhô khỏi chân mây tôi mới thấy cái dáng nhỏ nhắn của Thơ, cô đơn, lúi cúi quanh mấy tảng đá nhấp nhô. Thơ đi đánh hàu bán chợ sớm từ hôm thôi học.

Thơ không ngờ tôi đi tìm cô, đôi mắt to rất đẹp cứ chớp chớp bối rối, cái chìa hàu giống cái cuốc chim tí xíu chỉ chực rời khỏi tay.

- Anh tìm em có việc gì?

- Ra xem cô đánh được nhiều hàu chưa. Đưa anh hộ một lúc. Cô có nhớ nghề này chính anh dắt díu cô với thằng Tú theo không ?

- Làm sao em đã quên được. Ngày ấy vui quá anh nhỉ ? Mới hơn chục năm mà sao em thấy lâu thế ?

- Mười sáu năm chứ ít gì. Nhoáng cái sẽ lại đến lượt cu con nhà tôi xách xô ra bãi này.

- Hôm trước chị bế cháu sang thăm bà em, trông cu Tít kháu thật. Giống bố như đúc khuôn ấy thôi.

Tôi cầm lấy cái chìa hàu cùng cái ga-men nhôm méo mó trong tay Thơ. Cô vươn người đứng thẳng lên, xoay mình mấy cái cho đỡ mỏi. Tôi liếc nhanh cái bụng mây mẩy của Thơ, chợt ái ngại.

- Hai bà cháu đã túng, lại sắp thêm một đứa bé, trông cả vào mấy con hàu đủ sống sao được? Có cách tính gì khác không? Anh hỏi thật, đừng giận anh nhé, sao cô không đi quách bệnh viện cho sớm? Cái thằng thầy giáo chết tiệt ấy thực lòng gắn bó với cô đâu mà giữ với gìn ? Nếu vướng mắc, khó khăn không giải quyết được cứ sang bên nhà, bàn với vợ anh một tiếng xem sao. Cô ấy tốt bụng đấy.

Thơ im lặng.

Chúng tôi không ai nói gì thêm. Đã lâu lắm tôi lại cầm chìa nạy miệng những con hàu bám trên đá. Tự nhiên tôi thương Thơ đứt ruột. Những khi lủi thủi lần quanh mấy tảng đá này, liệu có lúc nào Thơ nghĩ đến chuyện gieo mình vào lớp sóng lạnh lùng kia không ? Giá tôi là anh ruột của Thơ, chắc tôi sẽ tìm bằng được để bổ thằng chó ấy vài nhát chìa này vào mặt. Bây giờ biết nó đi xứ nào? Tiếc quá, một đời con gái thơ ngây tội nghiệp!

Lúi húi một lúc, khi tôi ngẩng lên mới biết Thơ đã ngồi lại ở một tảng đá phía sau, đang lấy tay áo lau mắt. Tôi vứt cái ga-men cùng chìa hàu, đi tới ngồi cạnh Thơ. Đây là lúc tôi sẽ phải khuyên cô điều hơn lẽ thiệt. Cứ khóc đi nhưng đừng tuyệt vọng, em ạ! Vẫn còn mọi người chung quanh thương yêu em cơ mà. Hãy đón nhận tấm lòng chân thành của Tú. Hai đứa có cả một tuổi thơ gần gụi quý mến nhau, chắc chắn không ai thông cảm với em hơn nó. Bao lâu nay nó yêu em thế nào, em đã thừa biết. Nó sẵn sàng chấp nhận cả đứa bé trong bụng em, có nghĩa nó bất chấp mọi người, chỉ nghĩ đến em thôi. Vậy em do dự gì nữa?

Nghe tôi giảng giải, Thơ cứ lặng lẽ khóc. Gặng mãi cô mới lau nước mắt, ngập ngừng trả lời:

- Em nhờ anh nói hộ với Tú, em không thể chấp nhận. Em rất biết ơn Tú nhưng sống với nhau phải nghĩ chuyện lâu dài. Em hơn tuổi Tú cơ mà… Mệ em cũng vì hơn tuổi bố em mà bị ông bỏ rơi sau khi sinh em. Do đau khổ quá, bà bỏ đi biệt tăm bao nhiêu năm. Làng nước không ai biết cho, cứ trách mẹ em vô tình. Tới lúc chết, mẹ em mới gửi thư về xin bà ngoại tha tội. Không đời nào em lặp lại nỗi đau khổ của mẹ. Giờ em lại trót dở dang, Tú càng không nên theo đuổi nữa. Như vậy cả hai đứa mới đỡ khổ. Cứ để em chống chọi một mình, trả giá cho lầm lỗi của em. Em chịu được hết. Thực lòng bây giờ em chỉ mong Tú có một hạnh phúc trọn vẹn, xứng đáng. Đời Tú quá khổ rồi anh ạ!

Thơ đứng lên, tới nhặt cái chìa cùng ga-men nhôm, có ý chấm dứt câu chuyện giữa chúng tôi. Đi thật xa tôi mới dám ngoái đầu nhìn lại cái dáng chịu đựng nhẫn nhục của cô bé.

Sau hôm tôi làm đại sứ về, Tú lầm lì tựa cái bóng. Tôi rỉ tai thằng Hào, xui nó rủ Tú ra mấy nhà hàng ngoài bờ biển giải khuây. Tôi biết rõ ngoài đó các quán vừa đua nhau tuyển mấy em bé xinh như mộng, rất bắt mắt, để lôi kéo khách vào dịp khai trương mùa du lịch. Thằng Hào khì khì cười:

- Ông xui dại con. Vợ con ác chiến không kém công an một-một-ba đâu. Nháy mắt nó đã lù lù sau lưng. Ông định để con bị đánh dấu vào mông à ?

Tôi khích Hào:

- Đồ hèn ! Sợ vợ như sợ cọp, về nhà mặc váy cho xong. Ăn vụng thì học cách chùi mép, khó gì ? Hơn người ở chỗ ấy đấy.

- Vâng, ông ít sợ cọp, con rước ông đi ra ngoài đó “kiểm tra điền thổ “trước. Xem ông chùi mép kiểu gì, lúc ấy con xin học tập ông.

Chối vậy nhưng một buổi tối Hào bảo tôi đến nhà rủ Hào đi “tìm mua bộ lưới, chuẩn bị vụ làm ăn mới của chúng tôi”. Như vậy Hào có cớ ra khỏi nhà một tối. Tôi rủ đi, vợ Hào sẽ khỏi lăn tăn.

Sáng hôm sau nghe tôi hỏi kết quả, Hào cười khẩy văng tục:

- Thôi nhé, từ nay xin ông tha cho con công tác kích dục gà trống thiến đi. Mất thì giờ với thằng cù lần, lại ngượng cả mặt với mấy con bé nhà hàng Bông Đại.

- Mày nói sao ?

- Đưa nó đến nhà hàng ấy yên tĩnh nhất hội còn gì? Vừa ngồi xuống chưa ấm chỗ bà chủ đã đon đả thiết kế xong hai em Cao Bằng mới đón xuống. Con bé tiếp thằng Tú da trắng bóc, có hai răng khểnh cực điệu. Nhưng thằng cù lần ngồi ngây cán tàn, mặt mũi đỏ tía, uống vã hết hai lon bia liền, không chịu đứng dậy vào phòng. Tao ngán quá. Cứ ngồi chường mặt suốt tối ở đây có mà bỏ mẹ. Tao ra hiệu giục nó mấy lần, nhưng nó làm bộ tảng lờ mới ức chứ. Điên tiết, tao quát vào tai nó: “Nào, bố có ăn đặc sản không thì bảo ? Nếu bố đến đây chỉ để ngửi thôi, con kính mời bố phắn khẩn cấp !”.

Tôi không nhịn được, cười phá lên.

- Tóm lại tối qua mày đếch chăn dắt nổi nó chứ gì ?

- Cái gì ? Nghe tao quát, thằng cù lần đứng phắt dậy, về “thẳng két”. Mẹ kiếp, mấy em nhà hàng đang vắng khách, mừng hụt, mặt cứ thuỗn ra. Mụ chủ Bông Đại tha tế sống là phúc đấy. Tao ngượng chín người quẳng vội cả một trăm cho bốn lon bia, không dám lấy lại tiền thừa, chạy mất dép.

Thế này hết thuốc chữa. Tôi gặp Tú, nổi cáu, băm bổ mắng:

- Mày định giữ đau khổ cho đến thối ruột như con cá chết trương à ? Mở mắt ra nhìn xem, quanh mày thiếu giống con gái xinh đẹp nết na, cái Thơ còn lâu mới bám được gót chúng nó. Hơn nữa cái Thơ đã nói nhất quyết không chấp nhận mày, thế mà định chết khô giữ chữ Hiếu với bu mày? Đồ ngu! Làm thằng đàn ông chả sợ thiên hạ chửi mày đầu đất ! Mấy con cave tối qua chắc được một bữa cười bằng chết.

Tú không cãi, nó rên rỉ thừa nhận:

- Ông chửi tôi cũng đáng thôi. Nhưng lúc ấy tôi lại nghĩ đến Thơ. Không thể mó vào bất cứ ai được… Làm vậy chẳng khác tôi hèn hạ trả thù Thơ. Với tôi, cô ấy có tội lỗi gì đâu ? Các ông chưa hiểu hết lòng dạ cô ấy.

Đã vậy mặc xác mày ! Tôi thề không quan tâm tới chuyện riêng của nó nữa.

Chúng tôi vay vốn đại tu con thuyền. Cá mú mấy năm gần đây sợ bờ, hoặc giả chúng khôn ngoan biết tránh xa vùng nguy hiểm. Để vượt lộng tìm cá, phải đi giã đôi mới bõ. Chúng tôi quyết tâm mua bộ lưới mới, rủ thêm thuyền ông Cận, người vạn Ngang, đi giã đôi với chúng tôi.

Mọi thứ đã sẵn sàng. Vợ tôi với vợ Hào sắm lễ trình đền Cờn ngày rằm hôm trước. Mấy can nước ngọt, rau mắm, gạo nước đủ cả. Ngày khởi sự hẹn hò với thuyền của ông Cận định vào con nước sáng mười sáu.

Mấy bữa liền tôi gặp Tú ngồi một mình ngoài quán ốc luộc, cái chai rượu nửa lít luôn cạn đến đáy. Nguy hiểm thật ! Liệu nó còn hồn vía không đây ? Hy vọng trời biển sẽ lấy lại thăng bằng cho nó thì may quá.

Bốn giờ sáng hôm mười sáu tôi đến nhà Tú. Tôi với nó có nhiệm vụ khiêng giã lưới mới sắm ra thuyền. Trông thấy căn bếp sáng đèn, tôi biết Tú đã dậy. Tôi đằng hắng đe con mực khỏi sủa, đi vào sân.

Hóa ra ông Bổn, bố Tú, đã ngồi với cái điếu cày ở bàn nước từ bao giờ. Hai ngọn nến điện trên bàn thờ nhuộm đỏ lừ mọi vật lẫn ông già ngây ngô, giống cảnh phim Trung Quốc hay chiếu. Chúng tôi đã phân công vợ Hào mang cơm nước hai bữa sang cho ông. Tôi chào qua ông cụ cho phải phép rồi xuống bếp tìm Tú.

- Đi thôi chứ?

- Đi.

Hai đứa tôi khuân giã lưới ra sân. Khá nặng. Những sợi lưới mềm suội mát lòng bàn tay, chưa nhuốm mùi biển làm tôi phấn khích.

- Ôi giời, cứ như được sờ vào gái đồng trinh ấy.

Ông Bổn từ trong nhà hỏi vọng ra:

- Đi hở?

- Vâng.

Tôi nghe mình trả lời tựa một tiếng reo vui. Chúng tôi luồn thanh đòn vào giã lưới, lấy hết sức nhấc lên vai. Tú đi đằng trước. Nó ngoái lại dặn ông Bổn:

- Tí bố nhớ uống thuốc đấy nhé!

Chẳng đợi ông Bổn trả lời, hai chúng tôi lần lượt đi qua cổng ngõ nhà Tú.

Tôi nhớ hôm đó sương xuống nhiều. Không khí ẩm mặn bám vào da thịt mát rượi. Chung quanh làng chài còn thiêm thiếp ngủ, chỉ tiếng chân chúng tôi bậm bịch khuấy động cái ngõ đá dốc.

Bỗng nhiên đang đi Tú dừng lại đột ngột. Tôi loạng choạng dừng theo. Nghểnh cổ nhìn lên phía trước, tôi chợt nhận ra Thơ. Cô bé sùm sụp mảnh khăn hoa bịt đầu che ngang trán lẫn nửa mặt dưới, chỉ để lộ đôi mắt to đen, tay vẫn xách cái ga-men nhôm đi đánh hàu. Điều đập vào mắt tôi là cái bụng thây lẩy, dễ đã năm, sáu tháng. Thơ từ ngõ nhà cô đi ra. Oái oăm ở chỗ cái ngõ đá ấy đối diện ngõ nhà Tú và cả hai đều dồn về con đường nhỏ dẫn ra bãi biển. Ba chúng tôi gặp nhau đúng giữa ngã ba, không ai kịp né tránh.

- Các anh đi lưới đấy ạ.

Thơ lí nhí chào. Tú không trả lời. Còn tôi, tim tôi nhói lên một linh cảm không lành. Tôi lấy giọng bình thản đáp lại:

- Em ra bãi sớm thế? Đi trước đi!

Thơ hơi cúi đầu, vội bước dấn qua ngã ba, vợt lên trước chúng tôi. Chờ vài giây cho Thơ đi xa hơn, tôi khẽ ẩy cái đòn khiêng trên vai, ra hiệu giục Tú đi tiếp. Quái lạ, không những nó cứ ỳ tại chỗ mà còn trở vai đòn, đứng đối mặt với tôi, ra một lệnh ngắn gọn:

- Quay về!

- Sao? Sao phải về?

Tú không trả lời chỉ du đòn khiêng rất mạnh khiến tôi suýt ngã ngửa. Tôi vừa hốt hoảng trở vai lấy thăng bằng, Tú đã đẩy tôi bước đi. Nó đẩy tôi phăm phăm một cách đầy giận dữ. Thằng khỉ !

- Từ từ nào !

Mặt đường ngõ lát đá bập bỗng dưới bước chân chạy gằn của tôi. Nó định làm gì thế này?

Về tới sân nhà, Tú quẳng phắt giã lưới xuống đất, chạy ào vào bếp. Tôi chạy theo. Trên bếp than tổ ong, một nồi nước nóng đang nghi ngút hơi. Tôi vẫn biết Tú thường đặt cho bố nước nóng để ông cụ tắm rửa mỗi sáng. Ngỡ nó làm gì, nhưng tôi chỉ thấy nó mở nắp bếp cho lửa cháy mạnh hơn khiến nồi nước đột ngột réo sôi. Tôi yên tâm bỏ lên nhà kiếm điếu thuốc lào.

Thấy tôi, ông Bổn làu nhàu:

- Bảo nó thèm uống chè tươi phải chuẩn bị nấu từ sớm đi. Lại còn quay về!

Hóa ra dạo này ông lão tỉnh táo hơn trước. May cho thằng Tú. Nó thương bố không ai bằng. Tôi quý nó ở chỗ ấy.

- Con xin ông điếu thuốc.

- Hút đi.

Cái điếu nảy ro ro thật thích. Đang khoan khoái thở làn khói trắng tự nhiên tôi giật mình đánh thót. Một nỗi nghi ngờ thoáng nhanh trong óc tôi. Nó nấu nướng gì ? Chả lẽ…

Chạy vụt xuống bếp, tôi kịp nhìn thấy thằng Tú đang ngoáy vào nồi nước sôi sùng sục mấy cái đuôi cá đuối khô, một thứ của độc để dành mà dân đi biển thường giữ. Ôi trời, không thể như thế !

-Tú ! Mày điên à ? Thôi nào !

Giọng tôi lạc đi. Mặt thằng Tú tối sầm, đôi mắt long lên dữ tợn. Nó không trả lời tôi, lẳng lặng nhấc nồi nước ra khỏi bếp.

- Tú, mày… mày…

- Lui ra, đừng đến gần tôi !

Tôi chỉ còn cách đứng chắn ngay ở cửa bếp. Nhưng Tú lừ lừ tiến tới. Tôi thấy rõ hai hàm răng nó nghiến kèn kẹt quyết liệt, đôi mắt đỏ ngầu quắc lên. Nó sẽ hắt thẳng nồi nước sôi vào tôi đây. Theo bản năng, lập tức tôi nhảy lùi lại phía sau mấy bước.

Tất cả xảy ra trong chớp mắt. Thằng Tú chạy ào ra sân, tưới một vòng nước sôi quanh giã lưới. Thấy nó tới đến vòng thứ hai, nước sôi không còn mấy, tôi mới mê mẩn đá mạnh cái nồi trên tay Tú. Cái nồi bắn văng tới tận góc sân. Tôi lao vào ôm chặt lấy Tú. Như con thú mất mồi, nó vùng mạnh một cái khiến tôi ngã ngửa. Tuy mắt nảy đom đóm, tôi vẫn kịp nhìn thấy nó ôm đầu chạy biến khỏi ngõ.

Gượng ngồi dậy, tôi chạy đi tìm Hào. Tôi bảo nó cùng về vác lưới ra bến. Trên đường tôi kể vắn tắt mọi việc cho Hào nghe. Nó không ừ hử một tiếng, cũng chẳng tỏ vẻ đồng tình trước lời phê phán gay gắt của tôi.

- Thấy chưa, sáng qua tao đã bảo phải cảnh giác, nó sắp điên rồi. Giờ mày tin lời tao chưa ?

Lúc ấy, Hào mới nhẹ giọng hỏi lại tôi:

- Vào địa vị mày, mày làm khác được?

- Nhưng đấy là cái Thơ!

- Cái Thơ ? Vậy chúng tao là vỏ ốc à? Địa vị tao, tao cũng không thể làm khác thằng Tú. Ai chịu trách nhiệm, nếu có chuyện gì xảy ra hôm nay?

Tôi không buồn tranh luận.

Những người đàn bà chửa xóm chài phải hiểu một điều cấm kỵ không ai nói ra: Cấm xuất hiện ngáng đường hay sờ mó vật dụng của người chuẩn bị lên thuyền ra khơi. Nếu chẳng may vô tình vi phạm, sẽ khó thoát chuyện bị “đánh vía” cho trụy thai bằng nồi nước sôi, đuôi cá đuối, cùng bài niệm bí hiểm ít được phổ biến. Đánh vía xong, những người đàn ông tin rằng họ sẽ thoát được vận xúi, điềm gở. Điều này chỉ là chuyện rỉ tai nhau giữa những người đàn ông dân chài, từ cổ xưa đến giờ.

Tại sao người đàn bà chửa lại mang điềm gở ? Chả ai giải thích rõ được. Ngay bản thân tôi, tuy ít tin những chuyện huyễn hoặc nhưng cũng không dại gì phản đối. Dân chài lênh đênh sóng gió, đối mặt với trăm ngàn bất trắc, hơn ai hết họ cần vững dạ, cần thanh thản bước chân xuống thuyền. Họ có kiêng kỵ cũng chẳng ai cấm được họ.

Nhưng đây là thằng Tú, đây là cái Thơ với đứa trẻ vô tội trong bụng. Tôi không thể ngờ Tú nỡ xử sự như vậy. Đơn thuần do mê tín, hay có cả lòng thù hận trong đó?

Sắp khởi hành, tôi mừng thấy Tú từ đâu chạy vụt ra bãi. Không ai nói lời nào, ba đứa tôi lặng lẽ lên thuyền. Bên kia đội bạn ra lệnh xuất phát. Tiếng máy côle sáu mã nổ giòn lấy lại sự hưng phấn của tôi. Xưa tôi xin nghỉ chân loong toong văn phòng ủy ban phường Vạn Hương, về đi lưới, chính vì sự nao nức mỗi khi con thuyền chồm qua ngọn sóng, bỏ lại rừng thông bờ đá phía sau, đối mặt phía trước chỉ còn biển cả bao la tít tắp chân trời… Lúc ấy gỗ đá cũng phải xao xuyến. Ai sinh ra từ xóm chài, khó lòng dứt bỏ được sự quyến rũ của biển đã ngấm trong máu thịt.

Giã lưới buông hết, chúng tôi neo thuyền. Mặt trời âm u ẩn sau mây. Thằng Hào nhặt rau, Tú nổi lửa bếp. Lúc này nghỉ ngơi, tôi mới kịp xem xét mấy nốt bỏng nước sôi ở bắp chân. Thằng Tú chợt nhận ra, có vẻ áy náy. Hào vô tình hỏi:

- Sao lại phỏng rộp ghê thế ?

- Thì đấy. May nồi nước còn ít, chứ không cầm chắc tao thối thịt.

Tú ngượng ngập:

- Người ta biếu ông cụ ít mỡ trăn. Rồi tôi đưa cho. Bôi vào khắc dịu lại ngay.

Tôi lườm Tú.

- Mày là thằng rồ hoa mướp ! Sẽ có lúc tao nện cho bằng tỉnh ra.

Nó im lặng vẻ hối hận.

Hãy hối hận đi ! Còn nhiều dịp cho mày hối hận nữa ! Mày sẽ phải trả giá cho hành động của mày ngay đấy thôi !

Quả vậy, sau khi ba đứa tôi ăn mừng thắng lợi chuyến đi giã đôi đầu tiên ngay tại quán bia ở bờ biển, rồi giữ chặt bọc tiền ai về nhà nấy, tôi chưa kịp ngả lưng nghỉ ngơi đã nghe tiếng xe máy của Tú rú rít ngoài sân. Nó hớt hải chạy vào, mặt xám ngoét, nói nhỏ với tôi:

- Ông đi lên Trung tâm y tế thị xã hộ tôi với! Thơ… cô ấy…

Tôi ngồi bật dậy, chẳng hỏi thêm, chạy vội ra xe máy đi cùng Tú.

Tú kể cho tôi nghe chuyện nó vừa gặp bà Thạo ở Trung tâm y tế thị xã về. Bà cụ nước mắt chứa chan cứ níu lấy Tú khóc. Đêm hôm qua, Thơ tự nhiên đau bụng quằn quại và có dấu hiệu sảy thai. Đứa bé sáu tháng chết ngay trong bụng. Lấy được thai ra nhưng mẹ nó bị băng huyết. Cô ấy yếu quá thỉnh thoảng lại ngất đi.

Chúng tôi vào phòng cấp cứu khu sản. Thơ nằm thiêm thiếp trên giường đang được truyền máu. Nhìn gương mặt xanh lét như tàu lá, tôi lo cô ấy không qua khỏi.

- Các anh là người nhà sản phụ ?

- Vâng, tôi là chồng cô ấy – Tú đáp luôn không đắn đo.

- Sao bà cụ nói cô ấy chưa có chồng ?

- Bà tôi lẫn cẫn. Cần gì bác sĩ cứ nói với tôi.

- Đêm hôm qua cô Thơ sảy thai, anh không có nhà hay sao ?

- Tôi đi lưới vừa về sáng nay. Tôi mang theo tiền đây, xin chị làm ơn cố cứu vợ tôi với.

- Được rồi. Anh ký vào giấy tờ này đã.

Chúng tôi ngồi canh chừng ống truyền máu theo lời chỉ dẫn của chị bác sĩ. Thơ vẫn chưa tỉnh. Tới giữa chiều, tôi ra ngoài kiếm bánh mì để hai thằng ăn tạm. Lúc mang hai ổ bánh với pa-tê về, tôi thấy Tú đang gục mặt vào bàn tay buông lơi của Thơ, đôi vai run lên lặng lẽ. Tôi quay ra ngoài, mặc nó khóc.

Để thức trông Thơ buổi đêm, tôi với Tú vào quán cà phê Trung Nguyên gần Trung tâm y tế làm mỗi thằng một cốc số tám cho sành điệu.

Thằng cù lần mặt mũi rầu rĩ đến thương. Nó cắm mặt vào cốc cà phê trong lúc thổ lộ với tôi. Nó nói rằng thực ra Thơ rất yêu nó, nhưng cô ấy không vượt qua được mặc cảm lẫn lo sợ. Nỗi đau khổ của bà mẹ trở thành một ám ảnh, án ngữ tình yêu của cô. Tựa hồ luôn có tiếng nói bảo rằng: cô là con của người bố tồi tệ, cô sẽ phải trả nợ cho bố cô, món nợ đúng như ông ta gieo vào đời mẹ. Và cô cố cưỡng lại điều khủng khiếp ấy.

- Ông tin không, Thơ giữ đứa bé trong bụng là cốt để tôi tuyệt vọng, đừng theo đuổi nữa, chứ cô ấy đâu có còn yêu thằng cha dạy nấu ăn. Nhưng tôi không thể sống thiếu Thơ được. Mặc kệ, bây giờ tôi quyết không chịu nhân nhượng cô ấy, muốn ra sao thì ra.

- Hãy lo cho nó sống được đã.

Nửa tháng trời Tú lăn lóc bên giường bệnh. Nó công nhiên đóng vai một anh chồng chu đáo. Tuy vậy tôi để ý hai đứa cùng tránh trò truyện riêng với nhau. Chỉ khổ tôi cứ phải kè kè bên cạnh Tú để làm chất xúc tác.

Ấy thế, Thơ dần dần vượt qua cơn hiểm nghèo. Da cô hồng hào trở lại. Tôi hy vọng khi Thơ trở về sẽ là ngày chúng nó sum họp sau bao nhiêu đau khổ gây ra cho nhau.

Nhưng rõ ràng số phận không chiều người. Ngày Thơ sắp bình phục, tự nhiên Tú đòi chúng tôi để nó tiếp tục đi biển. Nó bảo ngồi trên bờ nửa tháng, người ươn lắm rồi. Dăm ngày nó đi lưới trở về, vừa vặn đón Thơ ra viện.

Có thể do nó cần tiền lo cưới, hoặc trang trải viện phí, chứ tôi biết hạnh phúc nhất đối với nó bây giờ là được mọc rễ bên cạnh Thơ.

Ai ngờ Tú đi chuyến biển cuối cùng của đời mình.

Hôm ấy như có linh tính xui khiến, lúc ra bến, đi bên tôi Tú có vẻ bồn chồn khác thường. Tôi đùa trêu cho nó bình tĩnh:

- Tao tính rồi mày trở thành thằng dính vợ nhất xóm chài. Chưa xa nửa bước đã nóng ruột, có làm ăn con khỉ !

- Tôi không muốn để cô ấy ở một mình. Nói dại sau này tôi mệnh hệ gì, anh em hãy thương tôi, bảo bọc cô ấy nhé.

Tôi mắng nó gở mồm, đã định đuổi về, nhưng không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào tôi lại thôi.

Hôm ấy thuyền ông Cận có thêm người cháu họ tập sự đi khơi.

Thoạt đầu trời rất đẹp, nắng vàng ong mặt biển, không gian oi nồng như mọi ngày. Chỉ đến chiều gió bất ngờ nổi lên, chân trời ùn ùn những đụn mây đen vần vụ đầy đe dọa. Không dám chủ quan, cả hai thuyền vội hò nhau chạy hết tốc độ vào bờ.

Nhưng cuộc chạy trốn của chúng tôi thật thảm hại trước sự cuồng nộ của biển. Chỉ trong chớp mắt, một đám mù trắng xóa đã vây bọc chúng tôi và hơi lạnh ẩm ướt đột ngột khiến tôi sởn gai ốc. Tựa hồ bàn tay vô hình của thần biển đã sờ vào người tôi. Không còn nhìn thấy thuyền ông Cận ở đâu.

Vòi rồng !

Tôi nghe tiếng Tú thét thất thanh trong tiếng gió rít. Một cơn giông xoáy hình thành từ mạn phía đông. Nhìn ra đã thấy một phễu nước đen ngòm lừng lững tiến tới. Nó giống con rắn hổ mang bành khổng lồ, lắc lư thân mình lao tới trước. Tuy nó đi chệch qua, nhưng tôi biết ảnh hưởng của nó sẽ rất khủng khiếp. Chưa kịp trấn tĩnh, tôi đã mê mụ đi khi một ngọn sóng bất ngờ dâng lên cao, đổ ập xuống đầu. Trong cơn choáng váng kinh hoàng, tôi quờ được một mảnh ván thuyền.

Chuyến ấy cả giã lưới đôi lẫn thuyền đều trả nợ biển cả. Tôi với Hào may mắn được tàu cứu hộ vớt lên sau mấy giờ ngoi ngóp, vật lộn với cái chết. Nhưng Tú thì không… Thuyền ông Cận còn thiệt hại hơn, chỉ một mình ông ấy thoát nạn.

Sau cái ngày Tú không trở về, Thơ ốm quỵ đợt thứ hai. Chúng tôi đều hết sức chăm sóc, nhưng rốt cuộc chỉ cứu được phần xác cô ấy.

x x x

Ba năm trôi qua, bây giờ trẻ con xóm chài đã quen với cái dáng gầy gò thất thểu của một người cô gái ngớ ngẩn. Chúng không trêu chọc, thậm chí đôi khi gặp trên đường còn bẻ cho nửa cái bánh. Cô gái ấy lặng lẽ như cái bóng, suốt ngày tha thẩn ở bãi đá, ngóng ra biển như thể đợi ai. Chiều đến, vợ tôi thường nhờ lũ trẻ con hoặc ai đó dắt cô ấy về nhà, lo chuyện tắm táp, ăn uống, rồi chỉ vào tấm phản kê dưới nhà ngang dặn:

- Ngủ đi nhá! Tôi đã mắc màn, không được tháo ra nghe chưa ?

Cô gái ngước bộ mặt sớm tàn tạ nhìn vợ tôi, khẽ nhăn mặt, đầu gật gật ra ý đã hiểu.

Rất nhiều bận vợ tôi thở dài đánh sượt, ngao ngán hỏi:

- Chả lẽ… cứ phải thế này mãi ?

Mười lần như một, tôi đều dịu giọng dỗ dành vợ tôi:

- Ừ, trước mắt chịu khó thế đã. Tôi hứa với thằng Tú rồi…

Tuyệt nhiên tôi không muốn bao giờ phải đi qua cái ngõ đá dốc ấy. Ở đó chắc chắn có một oan hồn không siêu thoát được!

Hồn ma mẹ con Bà Mọi

Tối đến cả xóm tối thui, ít ai ra đường ngoại trừ có công việc. Ban đêm ra đường đi giữa hai hàng cây keo , cây dẹp um tùm phủ ra hai bên đường, khi có cơn gió nhẹ thoảng qua làm các nhánh cây rung động, dưới ánh sao trời tưởng tượng như những hình thù kỳ dị ma quái ẩn hiện trước mặt làm cho ai yếu bóng vía phải rợn tóc gáy.

Nhà tôi ở cuối con hẻm cụt, dọc con hẻm, mỗi bên chừng chục nóc nhà. Cách nhà tôi hai nhà là nhà bà Ba. Như vậy mỗi lần về nhà tôi là phải đi ngang nhà bà Ba. Bà Ba già rồi, bà sống với hai đứa cháu ngoại còn nhỏ là con Tuất(vì nó sinh năm Canh Tuất-70)và con Tân(vì nó sinh năm Tân Hợi-71). Ba bà cháu sống heo hút với nhau trong cảnh khổ cực, thiếu thốn. Phong cảnh nhà bà thấy âm u, quạnh quẽ lắm, tối ai có việc đi ngang qua cũng có cảm giác rờn rợn, lạnh lạnh sao sao ấy!

Bà khó tính, nên hàng xóm ít quan hệ với bà. Ban ngày bà đi mót lúa, hay mò cua bắt ốc gì đó, tối về bà cháu hủ hỷ với nhau dưới ánh đèn dầu một chút rồi đi ngủ;chứ bà ít tới nhà ai, có chăng chỉ tới nhà tôi chơi một chập lát rồi về mà thôi. Sở dĩ bà thân với nhà tôi hơn vì ba tôi hay giúp bà làm cái này, cái kia. . . Đáp lại cũng chỉ có anh em tôi mới dám đến nhà bà chơi với tụi con Tuất, con Tân mà thôi. Như vậy nhà bà vốn dĩ quạnh quẽ thì lại càng quạnh quẽ hơn.

Mấy hôm nay bà con trong xóm xì xầm bàn tán với nhau là nhà bà Ba-ngoại con Tuất có ma:Cứ khoảng 12 giờ khuya trở đi thì nghe văng vẳng tiếng đàn bà khóc than ai oán, giọng khóc kể giống như người ta hay khóc khi có người thân vừa mới chết vậy, có điều là tiếng khóc nghe có vẽ ma quái lắm-tiếng khóc nghe như lúc gần, lúc như từ hư không xa thẳm vọng lại. Dù người có bạo gan cách mấy cũng không tránh khỏi cái cảm giác lạnh sống lưng khi nghe tiếng khóc.

Từ khi có tin đồn có tiếng khóc than ở nhà bà Ba, tối đến người ta càng ít dám ra đường hơn, cơm nước xong nhà nào nhà nấy đóng cửa ở trong nhà, làm cho khu xóm nghèo vốn vắng vẻ, lại càng thêm vắng vẻ!

Mặc dù người ta biết chắc tiếng khóc ma quái phát ra đầu hè nhà bà Ba nhưng không ai dám đem chuyện ấy kể cho bà nghe vì sợ bà chưởi, bảo là trù ẻo nhà bà. Không biết là ngoại cháu bà có nghe tiếng khóc không?!

Lúc đầu hầu như đêm nào cũng nghe. Về sau thì thưa dần, một tháng chừng vài ba đêm, rồi hai ba tháng một lần, nhất là những đêm mưa dầm gió bất, mưa dãi, gió mây. . .

Có người kể là nhiều lúc người ta còn thấy cục lửa xanh ẻo bằng cái chén bay lờ lờ từ đầu con hẻm đến trước cửa ngỏ nhà bà Ba, cục lửa bay đảo qua đảo lại trước cửa hai ba vòng rồi bây vào nhà. Khi vào nhà cục lửa bay tới trước cửa cái dừng một tí rồi bay xuống cửa nhà bếp, rồi bay tiếp lên đầu hè trên rồi mất biệt. Chừng một lúc hơi lâu thì thấy cục lửa bay lại trở ra ngoài rồi theo đường cũ rồi bay đi. Có một đêm bà Nhơn-nhà đối diện nhà bà Ba ra ngoài đi tiểu, dưới ánh trăng mờ hạ huyền, nhìn qua đầu hè nhà bà Ba, bà thấy dáng một người đàn bà tóc xoã dài đến mông nắm tay thằng nhỏ đứng nhìn ánh trăng nhưng bà không thấy rõ mặt. Có chồng bà cũng thấy nữa.

Người ta nói đó là hồn ma mẹ con bà Mọi vì chết tức tưởi quá nên không siêu thoát được, nhớ nhà dẫn con về thăm nhà, thấy lại cảnh cũ, thương hai đứa con ở lại côi cút, khổ sở, nên khóc than buồn cho số phần ngắn ngủi.

Đó là chuyện lúc nhỏ, tôi nghe lõm được khi những người hàng xóm kể cho Ba-Má tôi nghe. Không biết thực hư thế nào. Lúc đó tôi chỉ nhớ thằng Tèo. Tội nghiệp, nó chết thảm quá, ruột lòi ra cả đùm!Ngoài hàng rào, mấy cây mồng tơi là kỷ niệm của thằng Tèo, nó nhổ ở nhà nó đem tới nhà tôi, hai đứa hì hục trồng cả buổi chiều, nó nói trồng để Má tôi hái nấu canh ăn.

Dậu mồng tơi không nhớ đã qua bao độ úa tàn, bao nhiêu lần rụng hạt, chờ mỗi mùa xuân tới lại mọc lên, nay lại xanh mơn mởn, phủ kín một gốc rào. Nhìn dậu mồng tơi lòng tôi thấy buồn vời vợi.

Ở đời chuyện gì mới lạ thì người ta bàn tán xôn xao một lúc nào đó thôi, rồi cũng quên dần đi. Chuyện vụ án mạng thương tâm của Mẹ con Bà Mọi năm nào cũng làm xôn xao một lúc rồi cũng chìm vào quên lãng. Rồi gần đây lại chuyện mẹ con bà Mọi hiện hồn làm hâm nóng lại chuyện án mạng năm xưa, tới đâu cũng nghe bàn tán về hồn ma bà Mọi, một lúc rồi cũng lại chìm vào quên lãng.

Tôi cũng vậy, chuyện bà Mọi bị giết cũng thoáng trôi nhanh qua đầu óc non nớt của mình. Hàng ngày sau buổi học, tôi vẫn thường chạy qua chơi với con Tân , con Tuất, vì ngày nào bà Ba cũng đi mót chỉ có ai chị em nó ở nhà. Anh em tôi qua nhà nó bày ra đủ trò chơi tuổi thơ.

Rồi ngày tháng cứ dần trôi, một ngày nọ bà Ba sức yếu, mắt kém không thể đi mót được nữa con Tuất lại tiếp tục công việc của bà. Nó còn nhỏ không tranh nổi với người lớn nên mót không được bao nhiêu. Tối về thấy có ít lúa, bà đánh đập chưởi bới nó thật tội nghiệp!Nhiều lúc bà chưởi luôn vong hồn đứa con gái bạc phước của bà sao ngu dại ưng trúng thằng chồng sát nhân để rồi bị hắn giết chết phải bỏ lại hai đứa con cho bà. Bà chưởi thế cũng tội nghiệp cho vong hồn bà Mọi, tội cho hai đứa con côi cút mất mẹ phải sống bữa đói bữa no. Nói cho cùng thì chẳng qua số phần của bà nó ngắn và số hai đứa nhỏ phải chịu khổ cực đói khát, chớ bà Mọi nào có muốn như thế đâu, chắc ở nơi âm cảnh lòng bà cũng quặn thắc đớn đau lắm chớ!Nhiều lúc như thế nghĩ lại thấy thấm thía câu hát mẹ ru:”Ầu ơi. . . , mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ lót lá mà nằm!Tôi nghĩ chắc bà Mọi cũng đau khổ lắm vì không còn sống để chăm sóc hai đứa con còn thơ dại, nên vong hồn bà không thể siêu thoát được để hàng đêm lại về thăm con, thấy con khổ mà bất lực không thể giúp được gì nên tủi thân ngồi khóc than cho số phận!

Hồi mới giải phóng cho đến năm tám mươi mấy, thực phẩm khan hiếm ghê lắm. Mười nhà thì tám chín nhà ăn độn thêm khoai lang, khoai mỳ. Tiếng là nông dân có ruộng nhưng có nhà vẫn đói như thường vì sản phẩm làm lên chỉ đủ đong cho HTX, thậm chí còn thiếu nợ nữa. Tội nghiệp có hộ làm mà không đủ đong cho HTX, đến lúc gặt HTX cho lực lượng du kích đến canh giữ. Khi gặt lên họ chở về kho hết(gọi là bao thu). Nhiều cảnh cay đắng thường xảy ra:những hộ bị bao thu đó chờ lúc du kích không để ý liền vác một bao, hay xúc một mủng bưng chạy, không bị phát hiện thì thôi;còn lỡ bị phát hiện là. . . đùng, đùng, đùng. . . thì phải lật đật bỏ “hàng” lại mà chạy trối chết, mà. . . thoát thân, để. . . rồi còn có cơ hội. . . về nhà nhìn vợ con. . . nhịn đói!Bao công sức mồ hôi nước mắt của mình đổ xuống để làm ra hạt thóc để mà, giờ đây mình lại trở thành tên trộm ăn cắp lại tài sản của mình!

Người nông dân thực thụ còn sống trông cảnh thiếu đói như thế, thì nhà con Tân, con Tuất làm sao tránh khỏi cảnh bà cháu phải nhịn đói thường xuyên?!Bà cháu nó có hôm trong nhà chỉ còn lưng chén gạo không đủ nấu cơm chỉ nấu đủ vài chén cháo húp đỡ. Có bữa được ăn cơm nhưng một phần cơm tới hai phần khoai mỳ, hoặc khoai lang ăn với đọt dẹp chấm nước muối ớt. Tới dịp cắt lúa, má tôi gọi con Tuất theo để sai vặt rồi chiều về cho nó mủng lúa. Hoặc thỉnh thoảng má tôi đem đến vài ký gạo. Cùng là bạn nghèo với nhau của ít lòng nhiều giúp nhau lúc ngặt.

Vì bữa đói , bữa no, lại phải vất vả cả ngày ngoài đồng để nhặt từng bông lúa rụng, nên một ngày kia con Tuất ngã bệnh toàn thân phù thủng-do bị suy dinh dưỡng và cảm nhiễm mưa nắng lâu ngày. Rồi lại không có tiền chữa bệnh nên con Tuất đã. . . phải bỏ lại bà ngoại và đứa em.

Sau khi con Tuất chết chừng một tháng, bà Ba bán nhà cho người hàng xóm đối lưng với nhà bà về ở với con gái đầu-bà này cũng nghèo lắm. Con Tân thì được bà hàng xóm tốt bụng ở xóm trên đem về nuôi để sai chuyện lặt vặt, vì bà này không chồng con nên bà thương nó như con vậy. (Hiện giờ con Tân đang ở Sài Gòn)

Căn nhà bà Ba người ta mua để chứa đồ chớ không để ở. Nên từ khi bà dọn đi thì căn nhà vốn đã u ám nay lại càng lạnh lẽo, u ám hơn, ai đi ngang qua đây đều có cảm giác rờn rợn đằng sau gáy!

*

* *

Rồi người ta bắt đầu xôn xao lại chuyện hồn ma bà Mọi:nào là nghe bà Mọi ngồi khóc ở đầu hè;bà Mọi dắt con về;cục lửa bay vòng vòng. . . thôi thì đủ thứ, đủ kiểu hết!

Hồi đó, nghe đoàn cải lương nào đến hát thì thanh niên, thanh nữ, bà già, con nít hầu như ai cũng thấy trong lòng vui như mở hội, trông mau tới tối để đi coi. Lúc đó có đoàn Sông Bé 3 đến lưu diễn, đêm đó hát tuồng Bạch Viên Tôn Cát, bà con ở xóm tôi đi xem thật đông, tôi cũng đi xem nữa.

Khi về tới đầu hẻm, ai vào nhà nấy còn mình tôi lủi thủi, vì nhà tôi ở cuối con hẻm lận. Tôi còn nhớ đêm đó độ mùng chín, mùng mười, ánh trăng thượng tuần chênh chếch về Tây, ánh sáng mờ ảo soi qua tán cây ổi già của nhà bà Nhơn đối diện nhà bà Ba tạo thành những khoảng sáng tối có hình thù kỳ dị ma quái. Còn chừng độ hơn 10 mét thì tới cửa ngỏ nhà bà Ba, nhìn tới đó thì tôi thấy thấp thoáng một cái bóng mờ trắng trắng, tôi nghĩ là ánh trăng xuyên qua tán ổi chiếu xuống chỗ trụ cửa ngỏ. Tôi vẫn vô tư đi tới, khi tới gần tôi mới biết không phải là ánh trăng mà là. . . một người đàn bà mặc áo trắng, tay dắt đứa nhỏ. Thấy thế tự nhiên tôi cảm thấy như có một luồng hơi lạnh trong ruột từ bụng dưới chạy lên tận cổ, lúc đó tôi điếng hồn định co giò chạy, mà có chạy thì tôi cũng phải chạy ngang qua hai mẹ con bà này mới về nhà được, vì đến quá gần rồi, tiến thoái lưỡng nan, nên đành liều mạng mà thôi!Tôi bắt đầu co chân chạy thì khi ấy tôi cũng vừa thấy người đàn bà và thằng nhỏ quay lại nhìn tôi. Ôi, người đàn bà mặt mày và toàn thân trước đầy máu me;còn thằng nhỏ thì tôi không kịp thấy mặt chỉ thấy hình như nó mặc chiếc quần đùi và chiếc áo màu đỏ hay trắng mà dính máu gì đó không phủ hết mà để lộ một đùm. . . gì đó đỏ lòm trước bụng. Trời, chân tôi như xụm xuống, dường như không thể nào bước nổi nữa, song cũng rán hết sức vì còn chừng 20 mét nữa là tới nhà. Tôi tung cửa ngỏ, cửa cái chạy thẳng vào giường trùm mền kín đầu đuôi. Ba Má tôi thấy lạ mới chạy tới hỏi, phải một lúc lâu tôi mới trả lời được, vừa trả lời, vừa run. (Sở dĩ tôi tung cửa vào được là vì Ba Má tôi không cài chốt để chờ tôi về. )

Kể tới đây, quý vị có thể cho rằng vì tôi ám ảnh chuyện người ta đang đồn về hồn ma mẹ con bà Mọi nên trông gà hoá cuốc. Sao cũng được, nhưng đối với chính tôi cho tới bây giờ tôi vẫn tin rằng tôi đã thấy rõ ràng như vậy. Còn chuyện tôi sợ đến bủn rủn tay chân, tôi nghĩ rằng dù ai có dạn cách mấy cũng không tránh khỏi nỗi sợ hãi này:vì bất ngờ nhìn thấy đâu kịp phản ứng gì, với lại rất gần con ma ấy nữa;thấy con ma bình thường đã mất hồn rồi đằng này còn thấy thêm ruột gan, máu me nữa chớ!Ban ngày mà thấy cảnh đầy máu me ruột gan như thế đã điếng hồn rồi!!!

Tôi tin chắc rằng đó là hồn ma mẹ con bà Mọi, do nhớ hai đứa con của mình nên mới về thăm, thấy ngôi nhà xưa còn đó mà con đâu rồi. Đứng ngoài nhìn cảnh cũ rồi nhớ đến cái chết tức tưởi của mình và đứa con nên hiện hình ảnh của mình và đứa con lúc vừa bị giết, có lẽ để tiếc nuối giây phút cuối cùng mình còn sống trong đêm định mệnh ấy. Vì có thể bà rất muốn được sống lại để được chăm sóc cho hai đứa con côi cút bơ vơ nơi dương thế.

*

* *

Dậu mồng tơi mơn mởn đang bỏ ngọn phủ kín hàng rào trước sân là kỷ vật duy nhất thằng Tèo còn lưu lại cho tôi. Chiều hôm ấy nó nhổ mấy cây mồng tơi qua nhà tôi trồng;nó trồng, tôi múc nước tưới, hai đứa hì hục vui vẻ bên nhau suốt cả buổi chiều. Tôi, Nó nào có biết đâu đó là lần cuối hai đứa bên nhau để rồi đến khuya hôm đó nó xa tôi mãi mãi.

Đêm hôm đó đang ngủ thì Má tôi nghe tiếng kêu:”Bớ làng xóm ơi có ai tới cứu mẹ con tôi. Thằng T nó giết con Mọi chết rồi”. Má tôi tỉnh ngủ hẳn, gọi ba tôi dậy:”Ông ơi thằng T nó giết con Mọi rồi”. Ba tôi thức dậy nhìn đồng hồ thấy chừng một giờ rưởi. Lúc này hàng xóm náo động cả. Mấy người xung quanh chạy tới đứng ngoài ngỏ chớ không dám vô vì họ sợ ông T chồng bà Mọi còn trong đó chờ họ vô là giết luôn. Ba Má tôi chạy qua , lúc này bà Ba không còn la nổi nữa mà chỉ rên lên từng hồi thôi. Ba Má tôi xô cửa chạy vào, dưới ánh đèn leo lét thì thấy cảnh tượng hãi hùng:Trên giường xốc xếch, bà Mọi máu me lênh láng. Con Tuất, con Tân hai đứa ôm nhau ngồi co rúm run cầm cập ở góc giường gần chân má nó. Bà Ba nằm trên vũng máu dưới nền nhà, vừa rên ư ử vừa lầm bầm nguyền rủa. Chiếc lưởi lê M16 dính đầy máu vứt lăn lóc cạnh đó.

Rồi mấy người hàng xóm chạy vào xem. Ba tôi chạy ra nhà ông Đích ở xóm ngoài, kêu ông đánh xe lam tới chở nạn nhân đi nhà thương.

Khi Ba Má tôi đến bà Mọi nằm yên bất động, mặc dù còn thoi thóp thở, nhưng không nói lời nào. Hình như bây giờ cảm giác được Má tôi đang ngồi bên cạnh nên bà cố gom chút tàn hơi, hả miệng cố lấy một hơi lên thều thào nói với Má tôi:”Nhờ chị trông giùm mấy đứa con em!”, rồi bà nấc lên mấy tiếng, thở ra một hơi dài rồi xuôi tay. Còn bà Ba lúc thì yên lặng, lúc thì lẩm nhẩm nguyền rủa thằng con rể.

Xe lam đến mọi người giúp một tay khiêng bà Ba và xác bà mọi lên xe. Má tôi cũng theo xe đến nhà thương. Ở nhà, lúc này, Ba tôi mới trực nhớ tới thằng Tèo, nãy giờ bối rối công chuyện mà quên bẵng nó, hỏi ai cũng không thấy.

Bây giờ mọi người mới rọi đèn nháo nhác kiếm thằng Tèo thì thấy nó ngồi co rúm lại chỗ hốc tủ với bộ đang sợ hãi lắm. Nghe có tiếng người, nó cố ngước lên nhìn mọi người như cầu cứu với đôi mắt lạc thần, rồi lấy hơi ức ức lên hai tiếng, xong thở ra một hơi dài, ngã tựa vào góc tủ ngoẹo đầu về một bên rồi. . . xuôi tay!Ai đó bế thằng Tèo đặt lên giường rồi người ta kiểm tra sao thằng Tèo lại chết, không lẽ ba nó giết luôn nó?Khi vén cái áo thun đỏ ướt đẫm của nó lên, thấy một đùm ruột to bằng cái bát trên bụng nó. Ôi, như vậy thằng Tèo cũng bị ba nó đâm rồi, tội nghiệp thằng nhỏ nó có biết gì, tiếng ai đó nấc nghẹn!Ba tôi rọi đèn xem kỹ thì thấy ruột thằng Tèo không bị đâm lủng, chỉ lủng bụng, mà máu ra cũng không nhiều lắm chỉ ướt chỗ bụng mà thôi. Vây sao thằng Tèo lại chết?Hay là nó sợ quá?Ba tôi cho rằng thằng Tèo bị lòi ruột mà không phát hiện kịp thời để cấp cứu nên ruột nằm lâu bên ngoài bị khô;hễ ruột bị khô là chết. Ai nấy nhìn thằng nhỏ cũng thở dài tiếc nuối mà nói rằng:Phải chi lúc xe lam tới mà phát hiện mất thằng Tèo thì chắc nó sẽ không chết tức tưởi, tội nghiệp như vầy!

Độ 5 giờ sáng, Má tôi về cho biết:Bà Ba bị một vết thương chéo ngang hông dài chừng 25 phân, sâu lối 1 phân đến một phân rưỡi, bị mất máu. Bà Mọi bị 6 nhát đâm khoảng 3-4 phân trong đó có một nhát trúng chỗ hiểm. Bác sỹ còn cho biết bà Mọi đang mang thai. Khi đưa bà Mọi vào nhà xác, Má tôi có thấy qua lớp áo bụng bà Mọi một khối gò lên gò xuống một lúc lâu mới yên. Bệnh viện không cho chở xác nạn nhân về ngay mà phải nhập nhà xác để làm thủ tục xong mới được chở về.

Như vậy vụ án mạng có một người bị thương, 2 người và một thai nhi chết.

Chiều hôm đó những người trong xóm tôi khiêng hai quan tài mẹ con bà Mọi đi chôn. Theo sau hai chiếc quan tài-một lớn, một nhỏ là hai đứa trẻ thơ độ bốn-năm tuổi, đầu đội khăn tang, buồn hiu nắm lấy tay nhau-đó là con Tuất và con Tân đưa tiễn mẹ và anh về nơi an nghỉ. Đám tang đi trong lặng lẽ không một tiếng trống, tiếng chiêng!Hai mẹ con được nằm cạnh nhau , bên cạnh mộ bà mẹ được trồng một cây chuối sứ. Người ta nói khi nào cây chuối trổ bông là lúc người dưới mộ sinh con.

Qua lời bà Ba và Ông T(chồng bà Mọi)trước phiên toà(phiên toà án binh mở ở Nha trang vì ông T là lính. Toà có mời Má tôi với tư cách là nhân chứng)thì diễn biến vụ án mạng như sau:Hôm đó ông T chồng bà Mọi từ đơn vị về nhà. Cơm nước xong , cả nhà nghỉ ngơi một chút rồi đi ngủ. Bà Ba ngủ nhà dưới. Vợ chồng bà Mọi và ba đứa con nằm chung cái giường lớn ở nhà trên. Hình như bà Mọi ghen tương gì đó nên kiếm chuyện gây với ông T. Lời qua tiếng lại sao đó, ông T không kiềm chế được nên mới tát tai bà Mọi một cái. Có thể vừa tức bởi cơn ghen, vừa bị đau bởi cái tát tai nảy lửa, nên bà Mọi ngồi dậy lấy lưỡi lê M16 để sẵn dưới gối(lưỡi lê này bà Mọi để dưới gối lâu rồi, để cho con cái ngủ khỏi giật mình)giá lên đâm ông T. Nhanh tay, ông T chụp được cái lưỡi con dao, hai người dằn co dữ dội, cuối cùng bà Mọi cũng rút lại được con dao, hai bàn tay ông T bị lưỡi dao cắt hai đường. Bà Mọi giành lại được con dao, giá lên đâm tiếp thì ông T chụp được tay bà Mọi, hai người vật nhau rầm rầm trên giường. Ông T giật lại được con dao trở lại đâm bà Mọi. Nằm ở nhà bếp bà Ba nghe vật lộn rầm rầm, tiếng bà Mọi rên la khi bị đâm, bà vội chạy lên xem sao. Thấy ông T đang ngồi trên bụng bà Mọi mà giá dao đâm xuống, bà liều mình chạy đến ôm ông T lại, ông T vung tay hất bà ra, bà té nằm xuống đất. Ông T đâm bà Mọi thêm mấy nhát nữa thì bà Mọi nằm yên bất động. Nghĩ rằng bà Mọi đã chết, ông T vứt con dao lại đó rồi đến cảnh sát đầu thú.

Còn về vết thương ngang hông của bà Ba và vết thương ở bụng của thằng Tèo, ông nói ông không hề đâm con ông và không hề biết con ông bị thương, có thể lúc ông và vợ ông vật lộn để giành con dao, vô tình lưỡi dao đã trúng vào bụng con ông;còn khi ông vung tay hất mẹ vợ ông có thể lưỡi dao đã trúng bà.

Như vậy người ta mới lý giải rằng:Khi thằng Tèo bị thương đau quá nên sợ, nhân lúc ba-má nó đang vật lộn không để ý thì nó ôm bụng nén đau cố lén bò xuống giường rồi trốn ở hốc tủ. Tội nghiệp thằng nhỏ đau lắm mà không dám rên một tiếng vì có lẽ sợ rên ba nó nghe thấy tới đâm tiếp!

*

* *

Từ khi tôi thấy hồn ma mẹ con bà Mọi cho đến càng về sau này, người ta càng thấy bà hiện hồn nhiều hơn. Cách một hai đêm là có người thấy bà hiện hồn về. Không như mấy năm trước hai mẹ con bà chỉ âm thầm khóc lóc rồi ra đi;bây giờ bà hiện hồn về như để chứng tỏ mình hơn:Có nhiều đêm hai mẹ con bà hiện lừng lựng đi chung quanh nhà, làm đồ đạc chuyển động nghe loảng xoảng trong nhà, rồi ra đi. Người ta nói khi bà ra đi thì không thấy rõ bóng dáng của bà mà chỉ thấy một cục trắng lợp trắng lợp xẹt qua một cái, trong đêm tối, một dãi lụa trắng lợp kéo dài từ cửa ngỏ của bà ra đến tận đầu hẻm.

Có anh bạn gặt (người cắt lúa mướn)tên Xuân, khoảng 2 giờ rưỡi-3 giờ sáng anh đi gặt, tới bụi bông giấy đầu hẻm thì bất chợt anh thấy bóng một người đàn bà mặc bộ bà ba trắng, tóc xoã khoanh tay đứng tựa bụi bông. Lúc này hồn vía anh như lên mây lên mưa, lỡ chừng, tiến lui cũng khó, đánh bạo anh cứ đi tới, chân đi, miệng niệm to thần chú”Án Ma Ni Bát Di Hồng”-câu thần chú mà hồi nhỏ anh nghe bà ngoại anh nói nó có công năng trừ các loại ma quỷ, hễ thấy ma mà niệm thần chú này thì ma sẽ sợ mà biến mất. Mặc dù biết thế mà chưa có dịp nào thử xem sự linh ứng của thần chú. Trong lúc này là cơ hội ngàn năm có một để kiểm nghiệm xem, nhưng sao anh cũng thấy sợ quá, anh vừa run cầm cập, vừa ấp a ấp úng niệm chú (Không biết lúc đó có từ nọ xọ từ kia không nữa!T-H). Vừa được một hai câu thì. . . trời ơi, bà ấy đứng chần ngần ngay trước anh cái mặt chầm vầm như cái mâm con, máu me lênh láng. . . Lúc này chữ “Án” của anh thành ra chữ Á!!!!!!!!, rồi cái rật, nằm yên bất động, tay chân lạnh ngắt.

Đêm khuya thanh vắng nghe một tiếng lảnh lót trước nhà, giật mình tỉnh giấc bà chủ nhà cầm đèn chạy ra thì, trời ơi, . . . một cảnh tượng hãi hùng:một cái “xác”nằm yên bất động xung quanh nào là cơm cá nước non lăn lóc, lổn nga, lổn ngổn. Hoảng kinh hồn vía bà la oải oải báo động hàng xóm. Bà con túa ra thì ”ôi, trời ơi thằng Xuân ở xóm dưới bị trúng gió” ai đó la lên như thế. Người ta xúm nhau khiêng thằng”trúng gió”về nhà. Không biết vì sợ quá hay sao mà anh ta bệnh hơn nửa tháng mới hồi phục. Anh ta nghỉ gặt lúa luôn vì không dám đi ban đêm nữa.

Những buổi chiều tối trời mưa lâm râm, người ta có chuyện đi ngang qua thổ mộ Cây Trôm, nơi chôn mẹ con bà Mọi, người ta thấy thấp thoáng nơi mộ mẹ con bà là bóng một người đàn bà ngồi khoanh tay bó gối cúi mặt, và một cục lửa nhỏ bay vòng vòng qua lại gần đó. Người ta nói đó là hồn bà Mọi ngồi buồn;còn cục lửa là đứa con hồn nhiên, vô tư, thơ thẩn dạo chơi quanh mẹ nó.

Càng ngày những câu chuyện rùng rợn về hồn ma bà Mọi càng nhiều. Chuyện đồ đạc kêu loảng xoảng trong nhà bà Ba lúc đêm khuya làm ông chủ mua ngôi nhà này sợ quá phải dở bỏ chỉ còn lại nền nhà cho bồn bồn mọc. Thế mà cũng chẳng chịu yên. Những chuyện này đã ảnh hưởng không ít đến nề nếp sinh hoạt thường ngày của bà con. Thấy tình trạng mỗi lúc càng tệ hơn, những người lớn tuổi bàn tính vận động bà con đóng góp kẻ ít người nhiều để nhờ Thầy làm lễ siêu độ cho bà. Má tôi có đem chuyện này bàn với bà ”má” nuôi con Tân, bà này đồng ý chịu hoàn toàn kinh phí cho chuyện này.

Buổi cầu siêu diễn ra rất đơn giản trong không khí trang nghiêm và thầy đã đưa vong linh mẹ con bà về chùa để sớm hôm nghe kinh kệ. Từ đó đến nay không còn nghe ai nói bà Mọi hiện hồn nữa.

*********

Trở lại chuyện anh Xuân niệm chú mà ma không chịu biến đi mà còn quay lại nhát anh. Tới đây có thể có một vài trong quý vị thắc mắc về chuyện này.

Theo tôi nghĩ, không phải chú không linh nghiệm đâu, mà lúc đọc chú tâm anh ta lại quá tán loạn(do sợ quá)thì làm sao chú phát huy tác dụng được, lại nữa, anh ta đọc là đọc như vậy thôi chứ chưa thực sự tin hẳn vào oai lực của thần chú;với lại trước giờ anh có trì tụng chú bao giờ đâu thì làm sao có sự cảm thông với chư Phật và Bồ tát?Mà không có cảm làm sao có ứng!Mặt khác anh thấy ma hồn vía anh lên mây lên mưa thì đó là điều kiện thuận lợi để con ma tác oai tác quái;còn giả sử mà khi ấy anh bình tỉnh với tâm niệm chỗ bà-bà đứng, đường tôi-tôi đi thì có thể bóng ma đó biến mất, hoặc đứng yên chứ không hù nhát anh ta đâu. Trường hợp của tôi ở trên cũng vậy, lúc đó tôi mà không” hồn bất phụ thể”chắc mọi chuyện cũng khác rồi. Đây là suy luận chủ quan thô thiển của tôi.

Duy có một điều tới bây giờ tôi còn thắc mắc là “dải lụa trắng”. Bà Mọi ra đi với một dải lụa trắng. Mà vào trung tuần năm 2004, thằng Sáu Sụt ngã gục ngay gốc rào nhà bà với một con dao Thái lan đâm lút tới cán, đứt động mạch cảnh, sau đó cũng hiện về đứng trên cây sung với dải lụa trắng phất phơ, mà tôi và mấy người khác thấy tận mắt. Chuyện “dải lụa” thằng Sáu Sụt thì tôi còn lý giải được theo quan điểm chủ quan của mình. Còn chuyện bà Mọi với “dải lụa” thì tôi cứ. . . thắc mắc hoài!Hồn ma có liên quan gì với “dải lụa”?Không phải vô lý khi cầu hồn, các thầy có dùng đến dải lụa?!Khi có dịp tôi sẽ kể hầu quý vị câu chuyện HỒN MA THẰNG SÁU SỤT.

Người đẹp đông phương

Phát nói một cách khôi hài:

- Chắc chắn rằng mau hay lâu đây tôi cũng thua một trận oanh liệt với mấy đạo quân vi trùng lao đã một năm nay đi dạo trong phổi tôi.

- Tôi có thể tin ở bệnh đau ruột của mình.

Sau lời ý, đến tôi.

Thanh, họa sĩ nói:

- Tôi chết vì đàn bà.

Hạ cười:

- Thật không?

Thanh ngừng một lúc rồi thong thả:

- Không, tôi sẽ gãy đổ vì nghệ thuật.

Sự sống và cuộc đời đưa chúng tôi về một nơi xa khác nhau. Năm năm sau, tôi gặp Nam, Cử nhân luật ở Sài Gòn. Nam rủ tôi cùng đi ăn cơm tối. Khi tôi tỏ ý hỏi thăm các bạn cũ còn ở Hà Nội, thì Nam nói:

- Bây giờ họ không còn đủ hết đâu!

- Tại sao thế?

- Mấy người đều theo đúng lời bàn đoán trước của họ. Anh còn nhớ buổi tối chúng ta nói đến cách chết của mỗi người sau này?

- Phải, nhớ lắm. Nửa năm sau đó tôi về đây, rồi trôi dạt khắp nơi đến nay gặp anh.

- à, Phát là người đi trước, sáu tháng sau, hắn chết lúc gần kỳ thi.

- Chúng ta cả thảy là sáu – ba đứa đều đi theo mỗi cách chết riêng. ý thì lẽ tất nhiên vì bệnh đau ruột. Tứ thì vỡ não vì quá trụy lạc. Thần chết cũng chiều theo ý muốn của người đấy chứ!

- Còn Thanh họa sĩ thì thế nào?

- Thanh đã theo đúng lời hơn hết trong bọn chúng ta. Hắn gẫy đổ vì đàn bà và nghệ thuật.

- Hắn chết vì đàn bà?

- Đã mấy tháng nay Thanh ở trong nhà thương điên, thuộc vào hạng không chữa được. Người thiếu nữ làm kiểu mẫu của Thanh tan ra vì khoái lạc, dưới những cái hôn nồng cháy của hắn rồi bốc lên não làm cho hắn thành điên.

- Tôi tưởng Nam nên khôi hài một lúc khác thì hơn.

- Không, tôi có khôi hài đâu, sự thật là thế. Nam khẩy tàn thuốc, gọi thêm một cốc rượu rồi nói:

- Câu chuyện tóm tắt như tôi đã nói với anh: một thiếu nữ trẻ, đẹp chừng hai nghìn tuổi, mà Thanh vẽ rồi yêu, tan ra vì khoái lạc trong lúc Thanh âu yếm. Vì thế mà Thanh trở nên điên. Hết! Nhưng nếu muốn rõ ràng, tôi có thể kể lại cho anh nghe.

Rồi Nam thong thả tiếp theo:

- Lúc anh từ giã Hà Nội, bốn tháng sau Thanh đến vẽ cho “Cổ viện á Đông”. Tìm một họa sĩ chuyên về lối phương Đông như Thanh không phải dễ dàng. Thanh là một thiên tài và cũng vì thế mới đưa hắn vào nhà điên.

Độ ấy viên hội trưởng “Cổ viện á đông” có mua được một thứ đồ cổ rất quý, ở miền bắc á châu, không thể định giá được là bao nhiêu, vì trên mặt đất này chẳng có một vật thứ hai như thế. Đó là một khối nước đá lớn, đã mấy nghìn năm nay đựng một người đẹp còn giữ được thân thể nguyên vẹn nằm trong đó.

Việc chở “Người đẹp Đông phương” về rất khó khăn. Cái phòng làm chỗ ở cho người đàn bà lại khác lạ lắm. Một tòa nhà hai mươi thước bề cao, bốn mươi thước bề ngang và khá dài. “Cổ viện á Đông” muốn giữ được vẻ đặc biệt, cho “Người đẹp Đông phương” ở một căn phòng xây dưới đất, cả một tháp nước đá, mà nhờ các máy, khí hậu ở đây luôn luôn giá lạnh. Hai lớp cửa sắt phủ nước đá phía trong ngăn cách một gian phòng ấm áp ở ngoài. ánh đèn khí đặt rất khôn khéo chiếu sáng cái tháp mùa đông.

Ai muốn vào xem “Người đẹp Đông phương” thì phải có giấy phép của viên hội trưởng “Cổ viện á Đông”. Thế rồi một người đến, và sự gặp gỡ này tai hại cho cả hai.

Thanh là người đã được chứng kiến lúc rước người đẹp đến. Nhân dịp này, có người chụp vài tấm hình về cuộc đón tiếp, nhưng hư hỏng gần hết, vì tảng nước đá phản ánh sáng, một người đàn bà bị thay đổi, như ở trong một tấm kính trá dạng. Bởi thế viên hội trưởng nhờ Thanh vẽ nàng để gửi bức tranh ấy qua trường Bác Cổ Pháp. Thanh nhận lời.

Thế rồi một sự dị thường đi qua tâm trí Thanh. Về sau các người canh giữ nhà nước đá nói rằng lúc đầu họ không thấy gì lạ trong các cử chỉ của Thanh, nhưng mấy ngày cuối cùng phải để ý vì thấy có khi họa sĩ ngồi yên hàng giờ, mắt chăm chú vào người đẹp, không vẽ một nét. Một hôm lạnh, tay cầm bút họa run, Thanh thôi, và cũng vẽ xong một bức chứa chan tài nghệ.

Trong mấy ngày trước khi thôi vẽ, Thanh nói với mấy người canh giữ ra ở phòng trước. Ban đầu họ không lấy làm lạ và cho là lòng tử tế của họa sĩ muốn được ở gian ngoài ấm áp hơn là gần khối nước đá lạnh lẽo. Thanh còn cho họ tiền riêng để họ mặc yên một mình họa sĩ. Hai lần, ở căn phòng trước, họ nghe tiếng nói trong gian phòng nước đá, và nhận ra là giọng của Thanh.

Về độ này, một hôm Thanh nói chuyện cùng viên hội trưởng mượn các thìa khoá trong gian phòng để người đẹp. Thanh muốn vẽ một bức tranh lớn về nàng và cần phải được luôn luôn tự do vô ra. Theo trường hợp khác thì Thanh đã được nhận lời, nhưng trong lúc ấy, cử chỉ của Thanh và cách yêu cầu có vẻ khác thường làm cho viên hội trưởng nghi nan liền từ chối một cách lịch thiệp. Thanh run người lên, nói vài câu vô nghĩa rồi vội vã ra ngoài, không chào nữa. Lẽ tất nhiên thái độ lạ lùng ấy làm cho viên hội trưởng thêm nghi ngờ. Ông ta bảo cùng những người canh giữ “Cổ viện á Đông” không được để một người nào vào gian phòng nước đá nếu chẳng có giấy phép có chữ ký của ông ta.

Sau đó có tin ở Cổ viện rằng có người định đánh đuổi tên canh gác để vào trong tháp nước đá. Người ấy không ai khác hơn là Thanh. Ông hội trưởng hay tin, tìm đến nhà Thanh gặp lúc Thanh đang ngồi trước đồ vẽ, mặt úp trong hai tay. Thấy khó cắt nghĩa về việc đã xẩy ra, Thanh lễ phép mời viên hội trưởng đi ngay khỏi căn phòng mà Thanh là chủ nhân. Thấy họa sĩ có vẻ kỳ dị, ông nhún vai ra về và đặt thêm ba ống khóa bí mật ở cửa phòng “Người đẹp Đông phương” và giữ chìa khóa trong tủ sắt ở buồng giấy riêng. Trong ba tháng, không có sự gì xẩy ra. Mỗi tuần hai lần viên hội trưởng cùng hai người canh giữ coi về các máy lạnh tự mình vào thăm người đẹp.

Mỗi ngày, Thanh vào phòng họa nhưng không làm việc nữa, nước thuốc khô lại, bút vẽ bừa bãi không rửa. Có lúc, Thanh ngồi hàng giờ trước giá vẽ hay là đi lui tới luôn trong phòng không nghỉ. Cách nửa tháng, một buổi khuya, tôi gặp Thanh trong một tiệm cà phê bán sáng đêm. Lạnh lùng bơ phờ, Thanh bắt tay tôi, chỉ nói một câu:

- Tôi mới bán ba bức tranh cho một người Pháp được gần một ngàn đồng.

Rồi im lặng ngồi nhìn tách cà phê đậm đen cho đến lúc trời hừng sáng, Thanh đứng dậy nhìn tôi cười gượng đầy cả buồn rầu ra về.

Vắng Thanh khá lâu, một hôm tôi đọc thấy trên báo rằng Thanh và đồng lõa, một người thợ khóa, và tên canh giữ “Cổ viện á Đông” bị truy tố. Người thợ khóa có tiền án trốn thoát; tên canh giữ bị bắt thú nhận hết: Thanh năn nỉ nếu hắn ngủ yên trong đêm phiên gác thì sẽ cho một trăm đồng. Được món tiền lớn hắn nhận lời. Lúc chín giờ tối Thanh đến Cổ viện với một người thợ khóa, tên canh giữ mở cửa cho hai người vào phòng giấy của viên hội trưởng.

Tên thợ khóa mở cửa vào, rồi đem ra thử đủ các kiểu thìa khóa để mở tủ sắt. Hắn không phải khó nhọc lắm, vì ống khóa tủ sắt làm theo một kiểu xưa, Thanh lấy mấy cái thìa khóa để trong đó và đóng lại. Rồi cả ba người vào trong Cổ viện mở các ống khóa bí mật ở tòa nước đá để vào văn phòng trước.

Thanh bảo tên canh giữ đốt củi ở lò sưởi cho được ấm áp rồi bày thuốc màu và đồ vẽ đem theo. Thanh đưa cho tên canh giữ số tiền đã hẹn và cho tên thợ khóa ba chục rồi bảo đi ra để yên một mình Thanh. Hai đứa ra uống rượu mừng được món tiền lớn, rồi người thợ khóa đi, tên canh giữ ngả ra ngủ cho đến sáng.

Tình cờ ngày sau lại gặp hôm viên hội trưởng đến thăm người đẹp. Thấy cánh cửa sắt khóa ở trong, ông cho tìm một người thợ khóa và báo tin cùng sở cảnh sát. Sau một giờ phá, cạy, cái cửa sắt nặng rơi rầm xuống trong gian phòng ngoài. Một mùi thối ghê gớm hắt vào mặt bắt họ muốn nhào lui, long óc. Viên hội trưởng bịt mũi bằng khăn tay, chạy vào thì thấy khối nước đá đã tan vỡ và ở phía giữa, người đẹp biến mất.

Thình lình trong góc, một giọng rền rĩ, than vãn nghe như không phải là tiếng của người. Thanh đang cựa quậy trong đống nước đá bị ướp lạnh đến nửa người. Mặt và hai tay đầy máu, mình mặc sơ mi và quần áo rách hư. Hai con mắt của Thanh như lìa ra khỏi sọ dừa, nước bọt chảy đầy cả miệng. Người ta đem Thanh ra khỏi nơi này rất khó khăn. Trả lời cho những câu hỏi, Thanh chỉ lập cập nói không đâu. Khi muốn đưa Thanh ra căn phòng trước thì hắn la hét và vùng vẫy chống cự lại. Bốn người phải giữ lấy Thanh nhưng lúc đem ra gần cửa phía ngoài thì hắn giật thoát được, với một tiếng hét ghê gớm rồi chạy vào một góc trong xa. Một sự giày vò điên cuồng đưa lại cho cái thân hình đã giá cứng một sức mạnh lạ thường khiến những người canh gác phải bắt trói chân tay Thanh lại, khiêng đi như một con vật. Ra đến trước cửa Thanh còn cố gỡ thoát ra với một tiếng kêu rùng rợn, rồi rơi xuống đất, đầu gối trên một tảng nước đá, bất tỉnh.

Người ta mới chở Thanh vào nhà thương và ở đây, cách ba tháng sau, đưa vào nhà điên. Tôi có đến thăm Thanh một lần trông thảm hại quá. Hai lỗ tai và bàn tay mặt cứng giá lại, độ mười lăm phút, thì một cơn ho dữ dội làm run rẩy cả mình Thanh. Sau một đêm ghê rợn trong gian phòng nước đá, Thanh chẳng có một lúc yên. Một cơn mê sảng ghê gớm giày vò hắn cả ngày lẫn đêm.

Tôi sôi nổi giục Nam.

- Nhưng mà trong đêm đó tại “Cổ viện á Đông” đã xẩy ra những gì?

- Tôi đã hết sức chú ý, thu nhặt đến những tài liệu gần như vô ích để đi tới sự hiểu biết rõ ràng. Tôi sục sạo những tranh vẽ, các hộc bàn của Thanh; ở đây, một nét vẽ, chỗ kia một hàng chữ, cắt nghĩa cho tôi biết thấu những dây tơ tưởng, những giấc mơ của Thanh. Có lẽ tôi phải nghĩ ra nhiều trường hợp nữa, nhưng tôi chắc không đến nỗi phải lầm.

Nguyễn Thanh là một người khác thường. Thanh đi trên cuộc đời với một giấc mơ trong tâm hồn. Đối với Thanh cái gì rồi cũng ra tro bụi trong nháy mắt, cái xác con chó chết thối tha bên đường cũng như hình ảnh người đàn bà đẹp nhất bằng xương bằng thịt. Thanh muốn sự không bao giờ có thực hiện. Phải có một cái đẹp nữa, đứng trên cả thời gian và không gian: sự bất diệt.

Và sự vô vọng ấy đã thành sự thật: nhà nghệ sĩ đã tìm được nàng bất diệt, “Người đẹp Đông phương” – Một người đàn bà đẹp, đã sống mấy ngàn năm trước đây ở một góc trời á đến làm kiểu mẫu cho Thanh. Nàng đã đặt mình nằm trên sức mạnh của thời gian để gặp Thanh. Nàng đã chết. Nhưng cần gì? Thanh nói thế, dẫu nàng chết đi rồi, sao Thanh lại không có thể yêu? Người xưa đã yêu một pho tượng đá và pho tượng đã cảm động hóa ra người. Người đẹp phương Đông đã thắng được sức mạnh của thời gian trong khi loài người tiêu tan trở về với cát bụi. Nhà nghệ sĩ theo đuổi sự bất tử liền ôm ấp lấy sự phi thường ấy.

Cứ mỗi lần Thanh đến ở Cổ viện để vẽ người đẹp, thì trong hồn càng in sâu bức tranh tượng trưng sự thắng lợi của sắc đẹp trên thời gian. Và bởi đây, trí tưởng điên cuồng của nhà nghệ sĩ đã nẩy nở ra cái hoa đẹp nhất mà không bao giờ một người trần gian nào được hưởng: ái tình và Nghệ thuật hòa nhịp đời đời. Nhưng mà không phải Thanh vẽ người yêu ở trong khối óc đá. Nàng phải được tự do nằm ở gần chàng. Dưới chân nàng thời gian giết hại bất lực quỳ trước nhan sắc thắng thế.

ý nghĩ đem nàng ra khỏi khối nước đá ăn sâu trong tâm hồn Thanh và những sự khó khăn phải gặp chỉ làm cho Thanh thêm bồng bột muốn đi ngay đến định tưởng. Với số tiền đã bán được mấy bức tranh, Thanh đưa cho tên canh giữ và người thợ khóa, Thanh có thể thực hiện được ý muốn. Trong thời kỳ viên hội trưởng cấm không cho Thanh vào Cổ viện, sự ước muốn gần người đẹp càng sôi nổi trong đầu óc Thanh. Và chàng đã tìm đến “Người đẹp Đông phương”.

Trong khối nước đá, nàng như muốn đi ra với Thanh. Hai mắt người đẹp như chăm chú nhìn Thanh, bàn tay nàng như ra dấu trước sự mờ loạn của Thanh.

Chàng rút cái rìu nhỏ đem theo trong túi ra bắt đầu làm việc.

Nhưng với một vật nhỏ như thế không phải là dễ dàng, Thanh đã phải làm việc rất lâu. Từng lúc người đẹp như thúc giục chàng với đôi mắt xanh biếc.

- Gắng lên, người yêu của em! Chỉ trong chốc lát là em sẽ ở trong tay anh!

Bốn bề nước đá vỡ vớt ra từng mảng. Thanh phá mãi, và bồng được người đẹp ra ở phòng ngoài ấm áp và tiếng nổ trong lò sưởi như hát một điệu nhạc lạ lùng.

Nhẹ nhàng, Thanh đặt nàng trên ghế dài rồi bắt đầu vẽ. Với một sự sôi nổi dị thường, một cảm hứng kỳ lạ, Thanh đặt hết thiên tài vào tác phẩm của mình. Trong khi ấy, lửa ở lò sưởi cháy rực làm không khí trong phòng trở nên nóng bức. Mồ hôi nhỏ giọt ở trán, Thanh tưởng là sự kích thích của linh hứng đã làm cho chàng nóng nảy nên cởi áo ngoài ra mặc sơ mi để vẽ.

Có phải môi nàng đã cử động không? Thanh chăm chú nhìn nàng, môi dưới của người đẹp như thoáng một nét cười. Thanh dụi mắt tưởng mình lầm lạc. Nhưng tay nàng se sẽ cử động như tỏ dấu cho Thanh lại. Thanh vứt bút vẽ vội vàng đến bên nàng. Chàng quỳ xuống, nắm lấy bàn tay xinh đẹp in mấy làn gân xanh nhạt Nàng để yên cho Thanh. Chàng ấp vào bàn tay, ngẩng đầu lên nhìn rồi ngả mình vào lòng nàng, nhắm mắt hôn má, môi, cổ, làn ngực trắng nõn nà.

Xác thịt tan rữa, hôi nồng nặc dính vào người Thanh. Chàng lùi vài bước. Những nét đẹp mất dần… Một mùi thối ghê gớm, không thể chịu nổi lấn át Thanh và theo hơi nóng của lửa càng tăng thêm. Xác người đàn bà đẹp chảy ra. Trước mắt Thanh, một cảnh tượng khủng khiếp đi sâu vào trí não chàng: thời gian, cái vĩ đại tàn ác trả thù.

Thanh muốn trốn thoát, chạy ra cửa… nhưng thìa khóa đâu? Trong lúc ấy, Thanh không còn lý trí nữa. Chàng đánh đầu đến chảy máu, nhưng cửa sắt vẫn đóng chặt. Và cứ mỗi lúc cảnh rùng rợn càng tăng thêm. Thanh cảm thấy mùi thịt rữa nát bấu cắn lấy mũi, miệng chàng. Thanh hét lên như một con vật bị cắn họng, chàng đâm mình vào trong phòng nước đá rồi ngồi yên trong một góc mặc cho sự hối hận vò xé, đay nghiến.

Và đây, ta thấy con người bé nhỏ rồ dại tưởng có thể giãy đạp thời gian ở dưới chân.

Thay Hồn Đổi Xác

Chiếc mũ đã được lột ra, bỏ bên cạnh. Ngồi trước mặt ông là một người đàn bà mặt mày bơ phờ, mệt nhọc, đôi mắt dáo dác nhìn ra ngoài như đang tìm kiếm một người nào, trong khi ngươi cảnh sát cầm cây bút ghi ghi, chép chép. Một hồi, ông ta ngẩng đầu lên nhìn người đàn bà:

- Chị nói trước đó chị có nói chuyện với người đàn ông mỹ đen tên John phải không?

Người đàn bà tên Tâm nói giọng mệt mỏi:

- Phải, tôi có nói chuyện với ông John một đôi lân khi tôi đi mua thức ăn trưa. Khi đi qua chỗ ông ta ngồi xin tiền, thỉnh thoảng tôi có dừng lại nói chuyện.

- Câu chuyện thường thường kéo dài bao lâu?

- Vài phút.

- Vài phút là bao nhiêu? 5? 10? 15? Tâm cau mặt:

- Nói lâu hay mau có gì quan trọng không?

Người cảnh sát nhếch mép:

- Có chứ. Tôi hỏi gì, chị cứ trả lời. Nếu chị nói chuyện thường và nhiều sẽ khiến ông ta cảm thấy thân với chị hơn. Chí có thể kể cho tôi nghe chi quen ông này như thế nào?

- Ai làm việc ở chung quanh đây, cũng đã một đôi lần nói chuyện với ông John. Tôi chắc ông cảnh sát cũng biết ông ta hay ngồi ở các góc phố, nhất là góc phố ở gần shop may ” Cây kim vàng” nơi tôi làm việc mỗi ngày. Mỗi lần đi mua đồ ăn trưa, ngang chỗ ông ngồi, ai cũng cho ông John những đồng tiền lẻ, để ông ấy mua thức ăn trưa. Một đôi lần tôi được về sớm, đứng nói chuyện với ông ta lâu hơn. Tôi hỏi ông tại sao bị cụt mất một cánh tay. Ông kể ông bắt gặp vợ ông ngoại tình, bà này mưu mô cùng gã tình đich hại ông. Một ngày rình lúc ông đi làm về ban đêm, tên tình địch nhảy ra đầu ngõ chém ông một nhát đứt lìa cánh tay. Vợ ông sau đó trốn biệt. Ông cũng không buồn đi tìm về. Từ đó tới bây giờ đã hơn 10 năm. Sau đó nhà ông bị hỏa hoạn. Bao nhiêu vật dụng trong nhà đều làm mồi cho thần hỏa. Ông sống lây lất nhờ lòng thương xót của mọi người. Tôi thấy nghiệp cho hoàn cảnh của ông nên giúp đõ ông có thể nhiều hơn người khác một chút, thế thôi.

Tâm nhớ đôi mắt màu hạt dẻ của ông nhìn nàng:

- Chị thật tử tế. Phải chi vợ tôi có được tấm lòng nhân hậu của chị thì hay biết mấy…

Tâm thấy thật tội nghiệp cho John, ông cô đơn quá. John không có con cái, không một người thân. Nàng biết ông hay ngủ dưới những cây cầu, dùng carton làm mền. Tâm đã đem cho ông ta một cái mền dày còn khá tốt và một vài bộ quần áo cũ của Tự.

Tâm chợt thở dài nhớ tới hoàn cảnh của mình và Tự. Không biết chàng đang làm gì? Chắc khi thua hết tiền, đời sống của Tự cũng không khác gì mấy với cuộc đời ông John. Tuy giận chồng, nhưng Tâm làm sao không nhớ kỷ niệm êm đềm của hai vợ chồng lúc mới lấy nhau. Nàng nghe người ta nói, nếu mình giúp cho ai điều gì, người khác sẽ giúp cho người thân của mình như thế đó. Đã hơn hai tháng không nghe tin tức gì của Tự…

Người cảnh sát cắt ngang ý tưởng của nàng:

- Vậy đúng là chị hay nói chuyện với ông John, thì thông cảm thấy thân với chị, rồi từ thân, ông ta đi tới có cảm tình.

Tâm nhăn mặt:

- Tôi xin ông cảnh sát ăn nói giữ gìn một tí, không lẽ tôi…

Người cảnh sát lại nhếch mép:

- Tôi không có ý hạ giá trị của chị, nhưng chuyện tình cảm khó nói lắm. Nhất là ông ta cô đơn, nghèo khổ, có người từ tâm như chị…

Tâm ngắt lời:

- Vậy thì ông cảnh sát giải thích giùm tôi tại sao ông Mỹ Đen lại biết nói tiếng Việt?

- Chuyện này thì chúng tôi phải điều tra xem thật sự ông ta hoàn toàn là người Mỹ hay Mỹ lai Việt Nam. Chị cũng biết nhiều người Mỹ lai, mới nhìn thì thấy giống như người Mỹ 100 phần trăm, nhưng thật ra họ lai hai giòng máu.

Tâm chợt liên tưởng đến trường hợp một cô ca sĩ mà đã cso sự tranh cãi trong cộng đồng người Việt về gốc gác của có này. Có người nói cô là người Mỹ mà hát nhạc Việt rất sõi, nhưng cũng có người nói cô lai Mỹ, hát tiếng Việt được có gì lạ. Nhưng trường hợp của người đàn ông này hoàn toàn khác. Ông này trước đó không hề nói một tiếng Việt nào với nàng cả, không lẽ tự nhiên bây giờ ông mới mở miệng thử nàng?

Bất giác nàng rùng mình nhìn ra ngoài đường, gương mặt lo âu. Người cảnh sát biết ý nói:

- Chị đừng lo, ông ta đã bị giam rồi. Bây giờ chị có thể ra về được rồi. Ngày mai, nếu cần, chúng tôi sẽ tiếp xúc với chị.

Nàng đứng lên, chưa ra khỏi phòng thì có chuông điện thoại reo, người cảnh sát bắt lên. Tâm muốn chào ông ta, nhưng ông đang quay mặt về hướng khác, lắng nghe một cách chăm chú. Nàng nghe ông nói:

- Có chắc là chết rồi hay không? Biết lâu chỉ chị thương nên lết đi cầu cứu?… Không thể nào có chuyện đó! Sao lại biết mất được..

Ông ta xoay cái ghế lại, thấy Tâm vẫn còn đứng chần chờ, ông vẫy tay ra dấu chào, bảo nàng cứ về.

- o O o -

- Dầu có chết đi, linh hồn anh cũng sẽ theo em mãi mãi.

Trái tim Tâm tự nhiên đập loạn xạ. Nàng nhớ lại lời Tự sau khi hai người cãi nhau. Một linh cảm không hay chợt hiện ra trong đầu. Nàng nhớ lại nhưng câu chuyện về hồn người chết nhập vào một người khác đã được nghe và đọc trong sách vở. Không lẽ lời của Tự đã ứng nghiệm và hồn chàng đã nhập vào người đàn ông Mỹ đen?

Tâm vẫn nghe rõ ràng tiếng của John lẽo đẽo theo sau:

- Tâm! Tâm! Anh đây nè! Em không nhận ra anh à?

Tâm quay phắt lại, lấy tay bụm miệng khi thấy John, người đàn ông ăn xin thường ngày vẫn ngồi ở góc phố chờ người đi đường qua lại bỏ vào đồng, vài xu mua đồ ăn trưa. Tâm đưa mắt nhìn chung quanh để coi mình có nghe lộn hay không. Thật là dễ sợ khi tiếng của John vẫn tiếp tục, âm thanh tiếng Việt rõ ràng là giọng nói của Tự, thoát ra từ đôi môi xám, râu ria xồm xoàm của một người Mỹ đen! Tâm thấy lạnh toát cả người, giọng hắn vẫn rõ mồn một, tha thiết:

- Tâm! Anh đi xa lắm mới gặp được em. Sao em cứ đi như chạy vậy? Đứng lại nói chuyện với anh một chút, nếu có thể thì em xin về sớm với anh luôn. Thằng Thể vẫn còn nóng lắm, sao em lại đi làm?

Tâm bụm miệng, mặt mày xanh ngắt. Miệng nàng há hốc, mắt nhìn quanh để cầu cứu. Trời ơi! dễ sợ quá! Tại sao người Mỹ đen này nói tiếng Việt và giọng của hắn đúng là giọng của chồng nàng? Và quái đản hơn hết là hắn nói đúng tên đứa con trai của nàng đang bị bệnh ở nhà.

Tâm lùi lại, John vẫn tiến lên. Tâm hét lên:

- Đứng lại! stop! If not I will call police.

John đưa tay ra ngăn lại:

- Đừng! Tại sao em lại làm thế? Anh là chồng em, chúng ta vẫn là vợ chồng, sao em lại đòi gọi cảnh sát?

- Ông… ông là ai? Tại sao ông lại giả tiếng nói của chồng tôi? Ông là người Mỹ hay người Việt?

Một nét ngạc nhiên hiên ra trong đoi mắt của John:

- Em nói gì anh không hiểu? Anh là chồng chính thức của em. Dầu gì mình cũng đã có hai mặt con với nhau. Nếu em không thương anh nữa, thì cũng từ từ… không lẽ em tính dứt khoát liền với anh như vậy sao?

Tâm vẫn lùi lại, trong lòng hy vọng sẽ có người tới bên cạnh để cứu nàng. Chắc chắn hôm nay nàng đã gặp một kẻ điên. Trới ơi! đúng là hắn điên rồi. Phải thoát ra khỏi nơi này rồi hãy tính. Trong đầu nàng hiện ra thật nhanh nhiều câu hỏi, nhiều ngh vấn. Tên này không biết làm thế nào mà lại biết hoàn cảnh của nàng và chồng nàng, rồi hắn bày đặt trò này để hù dọa nàng đây. Nàng dáo dác tím kiếm người đi đường quanh đó, hy vọng họ thấy thái độ kỳ quặc của hai người sẽ gọi cảnh sát giùm. Tâm liếc vào hai bàn tay của John. Hắn không có vũ khí trong tay, không đáng ngại lắm, nhưng hắn to quá, nếu hắn làm bậy ngay trong giờ vắng vẻ này thì nàng làm sao chống cự nổi. Tâm đâm ra ân hận, tại mình mê làm ovẻtime nên khi ra về không còn ai nữa. Hồi nãy có hai người cùng sở đi ra một lần, nhưng vì John chận đường nói chuyện nên họ đã đi mất tiêu rồi. Tâm nhìn John, đôi mắt nàng chứa đầy lo âu:

- Ông có phải là ông John, hàng ngày vẫn ngồi ở góc kia xin tiền phải không?

John nhìn theo hướng tay của Tâm, rồi lắc đầu:

- Em nói gi anh không hiểu gì cả. Anh là Tự, là chồng của em, là cha của thằng Thế và con Phượng. Anh biết em vẫn còn giận anh lắm. Nhưng anh đã hứa với lòng sẽ làm lại từ đầu để em đừng buồn anh nữa.

Đến nước này thì đúng là một sự gì không ổn rồi. Tâm toát mồ hôi, chân tay run lảy bẩy. Không còn nghi nghờ gì nữa, tên John này biết được câu chuyện giữa vợ chồng nàng không sai một ly một tí. Vừa lúc đó, ở góc phố, hiện ra một chiếc xe cảnh sát. Tâm đưa tay lên vẫy và gào thật to:

- Help! cứu tôi! help!

Chiếc xe cảnh sát chạy trờ tới, đèn chớp lia lịa. Tâm chạy ào lại chiếc xe, người cảnh sát đưa tay ra vừa có ý cản, vừa có ý đề phòng vì không biết người đàn bà này muốn làm gì. Trong khi John lúng túng mặt mày thất sắc, viên cảnh sát rút súng ra ra lệnh cho John:

- Xoay mặt lại vào tường! Giơ hai tay lên khỏi đầu!

John làm theo lời. Người cảnh sát hỏi Tâm:

- Chuyện gì vậy chưa bà? Tên này làm phiền bà phải không?

Tâm chợt bật khóc:

- Dạ phải! Hắn giả giọng chồng tôi và nài nỉ tôi đi về theo hắn.

Người cảnh sát nhíu mày nhìn John. John lắp bắp nói tiếng Mỹ một cách vất vả:

- Thưa ông! Bà này là vợ tôi. Tôi nói chuyện với vợ tôi thì có gì là sai quấy?

Người cảnh sát hầm hừ nhìn John:

- Ông nói sao? Bà này là vợ của ông?

Người cảnh sát quay lại Tâm:

-Ông ta nói ông là chồng của bà?

Tâm rên rỉ:

- Trời ơi! Làm ơn cứu tôi! Tôi đã có chồng, chồng tôi đâu phải là ông này. Hắn điên rồi. Ông làm ơn bắt hắn nhốt đi. Hắn chỉ muốn làm hại tôi thôi.

Đến lượt John rên rỉ một cách đau khổ:

- Trơi ơi! tôi không điên! Bà này là vợ của tôi. Tôi không hiểu tại sao bả không nhận ra tôi. Ông làm ơn đi theo tụi tôi về nhà để điều tra, xem tôi có nói đúng sự thật hay không. Con trai út chúng tôi đang bị đau, chị nó đi làm chưa về. Tôi nóng ruột đi tìm vợ tôi về.

Người cảnh sát nhìn Tâm và nhìn John ra vẻ không hiểu câu chuyện kỳ cục này. Hắn bảo hai người leo lên xe để chở về ty cảnh sát. John được một cảnh sát viên đem đi giam tạm chờ thẩm vấn, rồi mời Tâm lên văn phòng hỏi chuyện.

- o O o -

Bước vô nhà Tâm thấy nhà cửa vắng ngoe. Nàng vội chạy vô phòng. Thế đang ngủ. Tâm thở phào nhẹ nhõm. Nghe tiếng động, Thế mở mắt quay mình lại nhìn mẹ:

- Mẹ mới về hả? Hôm nay mẹ về trễ vậy?

Tâm đặt tay lên trán con:

- Ừ! hôm nay me có nhiều việc quá. Con thấy bớt tí nào không?

-Dạ con cũng đỡ rồi. Con khát nước quá.

Tầm cầm chai nước lạnh đã cạn trên chiếc bàn nhỏ gần giường lên nói:

- Để mẹ đi lấy chai khác cho con. Chị Phượng chưa về à?

- Dạ chưa. Chị Phượng nói chị đi ngang chợ mua cam và táo.

Tâm không nói gì, vừa đi vừa ngẫm nghĩ thương đứa con gái lớn. Nó thật quán xuyến. Việc gì trong nhà cũng lo lắng đầy đủ. Phượng sợ mẹ buồn phiền vì ba đã bị thất nghiệp, không làm gì giúp cho mẹ lại còn mang bệnh cờ bạc. Ba hay lấy tiền của mẹ, lại còn lấy đồ đạc trong nhà bán rẻ để đi qua Shrevport đánh bài.

Vợ chồng nàng cãi nhau hoài làm đứa bé cũng buồn. Phượng đi làm part time để phụ với mẹ. Còn Tự thì lấy cớ buồn vì mất việc, đi qua sòng bài nói là để nghe nhạc cho vui. Nhưng ai cũng biết Tự đã lậm vào môn này rồi, khó mà dứt ra được. Không chịu nỗi sự bực bội, Tâm đòi ly dị. Tự hối hận hứa với vợ con không đi cờ bạc nữa. Nhưng con ma đỏ đen đã ăn vào máu của chàng rồi, vì vậy, không đi khoảng 2 tuần là chân tay Tự ngứa ngáy chịu không nỗi. Bao nhiêu tiền của vợ giấu trong hộc tủ, góc rương, Tự moi ra đi nướng hết. Con cái cso đồng nào Tự cũng tìm cách nói đưa. Mỗi lần về tới nhà là hai vợ chông gây gổ. Lần cuối cùng Tự nói sẽ không thèm về nhà nữa. Đã hơn một tháng rồi, mẹ con sống lủi thủi với nhau. Biết hai con vẫn thương ba, nhưng Tâm đã nhất quyết. Nàng không muốn sống trong cảnh này mãi được. Tự như một chiếc răng sâu cần phải nhổ. Để chỉ làm cho cả thân thể đau nhức mà thôi.

Thấy mẹ trở vào phòng với chai nước mới, Thế ngồi dậy, nhưng hơi chóng mặt, nó lại nằm xuống:

- Mẹ mệt không? Mẹ làm việc overtime nhiều quá, mệt lắm phải không? Con thấy mẹ hơi xanh!

Tâm cười cho con yên lòng:

- Còn đừng lo, mẹ biết sức mẹ mà.

Nàng lảng sang chuyện khác:

- Cón đói bụng lắm rồi phải không? Để mẹ xuống bếp hâm lại cháo con ăn.

Thế đưa tay cản:

- Con không đói, miệng con lạt lắm. Mẹ đói ăn đi. Một lát chị Phượng về thế nào cũng mua thêm vài món.

- Không biết chị con đi đâu bây giờ chưa về? Ở nhà có gì lạ không con?

Thế không biết mẹ nói lạ là lạ chuyện gì. Nó bệnh nằm thiêp thiếp cả ngày, chuyện lạ chắc chắn không xảy ra ở trong nhà này rồi. Nó cười cho mẹ an lòng:

- Con ngủ cả ngày, không thấy gì lạ hết. Mẹ đi làm có gì lạ không?

Tâm thấy tim tự nhiên thắt lại, nhớ đến sự việc ngày hôm nay, giong nàng run run:

- Không! À có… không… con có nghe tin tức gì của ba con không?

Thế tư tự:

- Dạ… con nghe thằng Nhi nói tuần rồi nó gặp bên sòng bài.

- Nó cũng đi đánh bài à?

- Không biết nó có đánh bài hay không, nhưng nó nói có chương trình ca nhạc hay lắm, cả nhà tụi nó đi coi.

Tâm cũng nhớ đã thấy tờ quảng cáo trên báo, có các ca sĩ hay từ California về trình diễn trong dịp cuối năm. Mới đó mà năm cũ đã đội nón sắp bước đi, nhường một năm mới đang xách dù trở về. Tâm chợt liếc nhìn hình nàng trong gương. Mái tóc nàng xơ xác với gió lạnh bên ngoài. Làn da tái, đôi mắt thâm quầng. Không biết Tự đã sống như thế nào cả tháng nay. Nàng chợt nghe tiếng của chàng qua đôi môi đen, thâm tái của John. Trời ơi! Tại sao lại có chuyện quái đản như vậy xẩy ra chứ? Lòng nàng chợt xao xuyến, bất an. Tâm nghĩ, một lần nữa, khi Phượng về, sẽ kể chuyện này cho hai con nghe cùng một lúc. Phượng chững chạc, khôn trước tuổi. Nó có thể phân tích cho nàng nghe chuyện này. Thế thì còn bé quá, chắc không giúp nàng giải quyết được gì.

Gió bên ngoài chợt như thổi mạnh hơn. Đêm xuống thật nhanh. Nhưng tiếng động sột soạt trên mái nhà cũ kỹ. Tâm kéo tấm màn lại và nói:

- Hôm nay coi bộ gió lớn lắm. Không biết sao con Phượng vẫn chưa về mà không thấy gọi điện thoại.

Thế ngừng chai nước uống, nghe ngóng bên ngoài rồi nói:

- Hình như chị Phượng về.

Vừa nói xong, cánh cửa mở tung. Phượng chạy vào như cơn gió lốc. Nàng oà khóc:

- Mẹ! mẹ!

Tâm hoảng hốt hỏi:

- Phượng! Chuyện gì vậy?

Thế cũng vội vàng nhảy xuống giường:

- Sao vậy chị? Có chuyện gì vậy?

Phượng mếu máo nói:

- Con nghe người ta nói có một chiếc xe chở người đi đánh bài bên Shreveport bị lật, trên xe có nhiều người chết….

Tâm lay vai Phượng:

- Hả? Có biết ai chết không?

Phượng nấc lên:

- Có. Ba!

Tâm ôm ngực ngồi lảo đảo xuống ghế. Thế khóc rống lên:

- Ba? Có thật không? Trời ơi! BA! ba chết rồi hả?

- o O o -

Bản tin được đăng trên báo địa phương:

“Tại nạn giao thông từ sòng bài: 3 người bị thương nặng, một người tưởng chết nhưng tự nhiên sống lại, sau hơn một ngày. Trước đó, bác sĩ khám nghiệm, tuyên bố ông này đã qua đời”..

Người chết đã sống lại, đó là Tự, chồng của Tâm. Ba mẹ con lái xe đi cả đêm. Khi đến nhà xác, ba mẹ con đã nhào lại khóc thảm thiết, nhất là đứa con trai út. Nhưng ngày hôm sau, nàng được cảnh sát báo tin là chồng nàng đã sống lại. Tự được đưa vào bệnh viện chữa trị trước khí về trở lại Dallas.

Từ khi sống lại, nhờ một phép lạ, Tự thay đổi thành một người hoàn toàn mới. Tuy vẫn chưa tìm được việc làm, nhưng ở nhà, Tự chăm chỉ dọn dẹp, sơn sửa nhà cửa, vườn tược, chăm sóc con cái hết mực khi Tâm đi làm. Tâm cũng cảm thấy an ủi và vui trong lòng. Tuy nhiên, có những lúc Tâm bắt gặp chồng ngồi nhìn vô tấm gương to treo ở cánh cửa quần áo trừng trừng. Chàng lấy tay xoa xoa lên cằm như thể xem bộ râu ra sao, mặc dù Tự không có râu. Khi thấy vợ nhìn mình nhừ dò hỏi, Tự quay ngoắt đi.

Tháng sau, Tâm được mời đến cảnh sát ký đóng hồ sơ thưa người đàn ông da đen tên John đã quấy rầy nàng. Người cảnh sát nhìn Tâm một cách lạ lùng:

- Chí có thấy câu chuyện của chồng chị và ông John có liên quan với nhau không?

Tâm ngơ ngác:

- Tôi không hiểu ông cảnh sát muốn nói gì?

Người cảnh sát nhìn ra ngoài sân, ánh sáng nhảy múa lăn tăn qua kẽ lá. Ông quay lại nhíu mày nhìn sâu vào mắt Tâm:

- Tôi muốn nói quả thật hồn của chồng chị có nhập vào xác ông John!

Tâm giật mình xuýt ngã ra khỏi ghế:

- Ông cảnh sát nói giỡn sao chớ? Chông tôi và xác ông John? tại sao ông lại nói xác ông John? Ông ấy chết hồi nào?

- Ông ấy chết cách đó một tiếng trước khi gặp chị. Cùng lúc với tai nạn xảy ra ỏ shevrept, lúc chồng nàng. Nàng nhìn đăm đăm vào mặt viên cảnh sát:

- Ông muốn nói gì?

- Tôi chắc chị đã hiểu. Tôi là người công giáo, tôi không tin lắm về những chuyện ma quỷ này, nhưng chuyện này khá ly kỳ, vì chị biết sao không?

- Ông nói nhanh đi.

Giọng ông ta chợt trầm hẳn bên tai nàng:

- Theo bản báo cáo thì khi chồng chị chết vì tai nạn xe thì cùng lúc, ông John bị một kẻ lạ mặt đánh chết dưới gầm cầu. Rồi ông ấy đã xuất hiện theo chị trên đường phố nhận mình là chồng chị. Khi ông bị giam, ông vẫn lảm nhảm ” Tại sao vợ tôi không nhìn ra được tôi?” Ông ta đã la lên: “Tôi muốn có một cái gương để xem tại sao vợ tôi không nhận ra tôi!” Cảnh sát canh gác được lệnh mang lại cho anh ta một tâm gương. Khi nhìn vào tấm gương….

Người cảnh sát ngừng lại vì xúc động:

- … Ông ta rú lên!

Giọng Tâm thảng thốt:

- Ông ta rú lên làm sao?

- Ông ta chỉ nói hai tiếng “Trời ơi!” rồi ngã ra và chết trở lại!

Tâm lẩm bẩm như người mất hồn:

- Chết trở lại?

- Phải! Xác ông John bi giết dưới gầm cầu được người qua đường nhìn thấy, báo cáo với cảnh sát. Nhưng khi cảnh sát, tới nới thì xác ấy biến mất. Đó là lúc ông đi theo chị gần sở chị làm.

Gai ốc đã nổi lên đầy lưng Tâm. Nàng chợt hiểu lờ mờ trong đầu, chưa kịp hình dung thì tiếng người cảnh sát đã vang lên:

- Hồn chồng chị trong xác của ông John đã không hiểu tại sao chị không nhận ra ông, vì thế ông đòi soi gương. Khi soi gương ông mới thấy mình không giống mình. Hồn ông hoảng hốt, vội rồi thi thể ông John…. Và… như chị đã biết, hồn chồng chị lại nhập vào xác của chính ông trở lại….

Tâm nhớ đến gương mặt thẫn thờ của Tự khi đứng trước gương với bàn tay xoa lên cằm như để tìm bộ râu.. Không biết chàng có nhớ chuyện gì đã xảy ra hay không… Viên cảnh sát tiếp:

- Tôi đã xem kỹ các hồ sơ, khi ông John la xong hai tiếng “Trời ơi!” và ngã vật ra chết, cũng giờ phút đó, xê xích một vài giây, chồng chị sống lại trong nhà xác!

Tâm bước lùi ra cửa, mặt xanh ngắt. Viên cảnh sát bước theo nói vọng ra:

- Mong thượng đế ban phép lành cho chị!

Ngủ Với Ma

Con đường mòn này đi xuyên qua nghĩa địa làng và qua một con mương. Chỉ mười lăm phút sau là tôi đến nhà ông Năm. Tôi mượn món đồ rồi vội vàng bỏ vào cái túi xách và xin phép ông Năm về cho sớm.

Khi băng trở qua nghĩa địa làng thì tôi thấy đàng trước có bóng người đang làm công chuyện gì đó bên gốc cây Bàng. Tôi không thèm để ý là ai, nên định cuối đầu bước đi cho nhanh. Nhưng khi bước ngang qua cây Bàng thì tôi lại muốn coi hắn là ai mà giờ này còn làm công chuyện gì. Tôi liết mắt nhìn kỷ thì đó là một cô gái khoảng 17, 18 tuổi. Tôi đi chậm lại rồi, tiến tới hỏi thử coi có quen không, hay tôi có giúp được gì hay không.

- Cô em , chiều tối rồi sao còn làm gì vậy ?

- Em cần mấy nhánh cây này, nên đang bó lại để mang về, cũng gần xong rồi.

- Có cần tui giúp không, trời cũng tối rồi, thôi để tui cột phu cho.

Tôi không đợi cô ta trả lời, tôi đặt cái bao xuống rồi tới cột phụ cô ta mấy bó nhỏ vô một bó lớn. Tôi không nhìn cô ta và không để ý cô ta bận gì. Khi cột xong bó cây tôi ngẩn đầu lên nhìn, thì dường như tôi bị một phép lạ nào đó thu hút. Cô ta đẹp vô cùng, ban đêm mà da mặt cô trắng đẹp. Cô ta bận bộ đồ bà ba mỏng màu xanh lợt trông vô cùng khêu gợi.

Tôi như bị mất hồn thì cô ta lên tiếng:

- Cám ơn anh nhé, nhà em gần đây. Anh phụ em khiêng bó cây này về nhé?

Tôi làm sao từ chối đây. Đành trả lời:

- Ô, chuyện nhỏ mà, nặng lắm để anh khiêng cho. Em cầm cái túi giùm anh nhé.

Cô ta đi trước dẫn đường. Tôi lệ kệ vác bó cây lóc cóc theo sao. Nhờ ánh trăng tôi thấy cô ta có cái đít qúa đã. Cái mông đít no tròn vặn vẹo theo mỗi bước chân của cô. Tôi mãi mê ngắm mà không để ý là cô ta đẫn tôi đi lối nào, tôi thấy con đường hơi lạ lạ. Khoảng 5 phút, thì đến nhà cô ta. Cô đẩy cửa mời tôi bước vào.

Căn nhà rất là đơn sơ, bình trà và mấy cái ly để trên một cái bàn gổ củ kỷ với 2 cái ghế cũng cũ ở giữa nhà. Cái đi-văng cũng cũ kê sát tường. Vài ba món đồ linh tinh trên nền nhà bằng đất. Cô kéo ghế mời tôi ngồi rồi đi thẳng vào trong bếp và nói.

- Anh ngồi chơi 1 chút , để em nấu chút trà uống cho ấm bụng.

- Thôi em, anh phải về. Tối rồi, anh sợ ba má em thức giấc. Để bữa khác anh ghé nha?.

- Em ở đây có một mình hà, anh ngồi chơi chút đi rồi về.

Nói xong cô ta đi vào bếp. Tôi như bị một cái gì thu hút, nên ngồi dán chặt xuống ghế, không nói được tiếng nào. Vài phút sau cô ta bưng bình trà nóng đi ra. Tôi nhìn cô ta sửng sốt và ngạc nhiên tột độ. Cô ta bận cái áo ngủ dài tới chân, cái áo màu trắng toát và mõng manh đến nỗi tôi có thể thấy cả. Da thịt cô ta trắng một cách kỳ diệu, cặp ngực thì to tròn nở nang, căng tràn sức sống vung cao dưới làn áo. Tự nhiên tôi nhớ đến những chuyện huyền thoại nói về các cô người thiểu số sống trong rừng, thường hay bắt cóc thanh niên người Kinh về để thỏa mãn dục vọng rồi giết chết. Tôi cảm thấy sợ. Cô ta dâng cho tôi tách trà và nói:

- Uống trà đi anh cho ấm bụng.

- Ờ để anh uống…

Tôi lấy lại bình tỉnh nhìn cho kỷ cô ta. Cô ta rất là hiền, đẹp lại dễ thương nữa. Không có lý nào cô ta là yêu ma sơn nữ gì đâu. Để cho chắn chắn khi đón nhận tách tra , tôi cố tình cầm lấy tay cô ta. Tay cô ta mát rượi và mềm mại vô cùng, tự nhiên tôi có cảm giác nhột nhột trong người. Tôi thấy an tâm phần nào. Tôi cầm tay cô ta mà quên buông ra. Cô ta mĩm cười nói.

- Í , anh bỏ tay em ra chứ?

- Ô, xin lỗi em nhe, anh quên.

- Thôi được, không có chi đâu.

Cô ta ngồi đối diện tôi, cầm quyễn sách coi, lâu lâu lại nhìn tôi rồi cười. Tôi nữa thì muốn xin phép về, nữa thì muốn nán ở lại vì thân thể cô ta bốc cháy qúa. Tôi nhìn dáo dác căn nhà, hỏi bâng quơ vài câu cho đỡ tẻ nhạt. Cô ta thì cũng trả lời bẻn lẻn thôi. Qua vài câu hỏi tôi được biết cô ta tên là Lê Thị Trung Trinh, 19 tuổi con gái ông Hội Đồng quận Cái Bầu. Vì chuyện tình duyên nan giải nên cô ta mới dọn về ở chổ này hơn 6 tháng nay.

Tôi liếc nhìn cặp ngực vun tròn của cô ta mà thấy nóng cả người. Tôi không dám dứng lên vì thằng nhỏ của tôi nó chỉa thẳng muốn xuyên thủng cái quần vải thô tôi đang bận. Không biết cô ta có bỏ gì vô trong tách trà không mà tôi hơi ngà ngà nửa say nửa tỉnh. Tôi cầm lấy tay cô ta, cô ta cười cười không nói gì. Tôi được nước bèn xích ghế từ từ tới gần cô ta. Rồi chỉ trong khoảng khắc tôi đã ngồi đối diện sát bên cô.

Tôi với tay ra và nhẹ nhàng sờ xuống bầu vú căng tròn trên thân hình vệ nữ của cô ta. Cô ta không phản kháng. Tôi liền nâng lấy bầu vú vun to tròn…, cô gái nhắm mắt lại run nhẹ người lên. Tôi chồm tới đặt một nụ hôn nhẹ nhàng vào đôi môi thơm như mộng. Cô ta liền ghịt cổ tôi giữ cho nụ hôn lâu hơn. Cô ta cởi áo tôi ra, rồi lẹ làng cúi xuống tuột luôn cái quần xuống đất… Tôi đứng loạng choạng chưa kịp vững thì cô nhẹ nhàng trút bỏ cái áo ngủ xuống đất. Toàn thân cô ta trắng toát và bốc cháy trong đêm vắng lạnh nầy. Cô ta ghì chặt lấy tôi và….

…Tôi thấy sướng quá sướng quá chừng. Tôi không hiểu là tại sao cô ta thèm thuồng đến như vậy, tôi chịu hết nổi, cảm giác khoái lạc dần dần gia tăng, toàn thân tôi giật nẩy lên.

….

Xong xuôi cô ta đẩy tôi ra, đứng lên nhoẽn miệng cười như không có gì xẩy ra. Cô ta rót một tách nước trà đưa cho tôi:

- Anh uống thêm miếng trà, cho khoẻ người rồi về.

Tôi cầm lấy tách trà uống một hơi. Bây giờ tôi lại không muốn về nữa. Tôi ngồi xuống ghế kế bên cô ta. Tôi ôm lấy toàn thân cô ta vào trong lòng. Da thịt cô ta rất là mịn màng. Cô ta không nói gì cứ để cho tôi ôm.

Lạ thay, dường như trong trà có gì lạ. Vài phút sau tôi lại thấy nóng người, thằng nhỏ tôi lại ngóc đầu dậy. Nó cọ ngoạy sau lưng cô ta. Cô ta cười khúc khích nói:

- Nhột qúa anh. Hi hi..

Tôi bồng cô ta đặt lên trên bàn xoay người hướng về tôi. Cô ta dướn người lên và một tiếng rên nhẹ nhàng thoát ra khỏi miệng cô. Những ngón tay tôi tiếp tục mân mê…Sự thèm khát xác thịt đang dâng lên trong người tôi tột độ. Tôi không thể nào kiềm nổi trước một thân thể nóng bổng, căng đầy nhựa sống của một cô gái 19 tuổi… những tiếng rên khẻ phát ra… cô ta bắn người lên vì sung sướng,… và tôi chưa bao giờ được sướng như thế. Tôi chồm lên hôn vào cổ vào vai vào lổ tai cô ta. Còn cô ta thì nẩy mông cao lên để đón nhận từng cái nhấp của tôi. Tiếng rên của cô ta và tôi hòa lẫn vào nhau? Hai thân thể oằn oại trong đêm tối.

Tôi không còn ý tưởng đi về nhà nữa. Tôi ở lại ngủ đêm với cô ta.

—o0o—

Ánh nắng chiếu vào mặt làm tôi giực mình thức dậy. Tôi hoảng hồn kinh sợ, tôi đang nằm trong nghiã địa, kế bên một ngôi mộ. Hồn vía tôi bay đi đâu hết rồi. Tôi lật đật bận quần áo vô, rồi nhìn dáo dác. Tôi càng kinh sợ hơn nữa, khi tôi đọc thấy hàng chữ trên tấm mộ bia kế bên tôi “Lê Thị Trung Trinh, sanh ngày … Từ trần ngày … Hưỡng thọ 19 tuổi”. Tôi giật bắn mình lên, tấm ảnh trên mộ bia là hình của cô gái tôi qua tôi ân ái. Tôi ú ớ , lùi lại rồi chạy thật nhanh ra khỏi nghĩa địa.

—o0o—

môi đi hỏi người ta thì mới biết câu chuyện như sau:

Cô Trinh có quen một anh chàng ở tỉnh, lâu lâu thì anh ta về thăm cô một lần. Một bữa nọ ông Hội Đồng đi đâu về sơm thì bắt gặp cô con gái cưng của mình đang trần truồng ân ái với bạn trai. Qúa tức giận, ông ra lịnh bắt tống giam tên bồ của cô con gái. Và cho lính hầu đánh con gái mình 50 roi rồi nhốt vào nhà chứa củi.

Cô Trinh bị đánh qúa đau, quần áo rách nát hết. Cô nằm trong nhà chứa củi khóc than cho thân phận. Đêm đó có 3 tên lính hầu mang cơm vô cho cô ta ăn. Tụi nó thấy cô ta nằm im, quần áo tả tơi, nên nháy mắt nhau làm chuyện bậy.

Ba tên lính đè cô Trinh ra rồi thay phiên nhau hiếp cô. Chuyện lạ là cô ta không la cầu cứu hay chống cự gì cả. Có lẽ là cô ta bị đánh đau qúa, rồi đang nhớ người yêu, nên cô ta nằm yên cho bọn tên lính làm gì thì làm.

Chúng lôi cái thân thể mềm nhủng của cô Trinh ra giữa nhà mà hãm cô ta không từ một chổ nào… Thật là tội nghiệp cho cô Trinh, chỉ nằm yên mà chịu trận. Xong một tua chúng nó nghĩ một hồi rồi lại lôi cô Trinh ra hãm thêm một lần nữa.

Được cơm đòi cá, ba tên lính này hiếp cô Trinh liên tục 6 lần. Lúc đầu cô Trinh còn nhắm mắt nằm yên, nhưng đến tua thứ hai chúng nó dần cô Trinh dữ qúa, cô chịu không nổi nên rung lên bây bẩy như rắn bị chặt đầu.

Một tên có dã tâm, chạy ra kêu một thằng bạn khác vào hiếp cô Trinh. Lần này cô Trinh như một cái xác không hồn, hắn lôi ngữa cô Trinh và dốc ngược đầu cô trên cái ghế dài, Hắn lấy tay nắm chân cô ta và banh rộng háng ra. Cứ thế hắn cứ đâm vào rồi kéo ra như vũ bảo. Cô Trinh chịu không nổi ngất xĩu đi. Tối hôm đó thì cô Trinh qua đời.

Ông Hội Đồng điều tra ra, biết chuyện nên xử bắn ba tên lính hầu. Nghe nói là trước khi trước khi ra pháp trường thì ba tên này đã bị ông Hội đồng chặt đứt cu.

Căn Phòng Ma Quái

Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ

Em nằm xõa tóc đợi chờ anh!!!

Tôi được sinh ra ở một nơi cách Thành Phố Nha Trang vài chục cây số về phía Bắc-Vạn Giả, Vạn Ninh! Ðó là nơi má tôi đã sống suốt thời niên thiếu của mình! Tôi có một chú ruột (chú Nam) và một người bác dượng (chồng chị của ba tôi) sống ở Nha Trang. Vào các dịp Tết, ba mẹ tôi cho chúng tôi về đó chơi để chúc Tết bà con và ngắm cảnh phố phường trong ngày Tết!

Vào mùa Hè năm 1970 tôi đậu Tú Tài 2 và thi đậu vào Ðại Học Duyên Hải tại Nha Trang! Tôi rất mừng vì sẽ được học về những gì mà tôi hằng yêu thích – Hải Dương Học. Gần đến ngày nhập học, ba tôi đem tôi gửi ở nhà bác dượng để cho tiện việc học hành! Ở đó thì tôi chỉ cần đẹp xe đạp 15 phút là đến trường Ðại Học. Nhà dượng tôi nằm gần ngã ba của một con đường nhỏ và đường con đường Phước Hải dẫn xuống chợ. Ba mẹ tôi nói là bác ấy mua căn nhà này với giá rẻ mạt, chỉ bằng nửa trị giá thật sự của nó mà thôi! Nhà có ba từng, ở từng trệt thì phía trước bác mở tiệm may, phía sau làm phòng khách. Từng lầu một có 3 phòng ngủ, một phòng cho hai vợ chồng bac鬠còn hai phòng kia thì là phòng của cô con gái và hai cậu con traị Tầng hai thì chỉ có hai phòng, một phòng phía trước được khóa kín, còn phòng phía sau để trống. Tôi được bác cho ở căn phòng trống nàỵ Bác dượng bắt tôi hứa là không được đụng chạm gì cái phòng phía trước cả! Tôi nghĩ rằng có lẽ bác ấy cất giấu những món đồ quý báu trong phòng nàỵ Tôi hứa ngay và rất vui mừng vì mình được tự do một mình một phòng trên một từng lầu riêng biệt.

Tuần đầu ở đó tôi phải dọn dẹp chỗ ở, và vào trường để nghe hướng dẫn về nội quy và các sinh hoạt trong trường, lại còn phải đi thăm các phòng thí nghiệm tại hải dương viện Nha Trang nên tôi mệt nhoài cả ngườị Khi tối đến là lên giường ngủ say như chết. Sau đó mọi việc đã vào nếp nang và tôi quen dần với nếp sống mới nàỵ Ban ngày đi học, chiều về cơm nước xong nói vài câu chuyện với hai bác rồi lên phòng học bài vở. Vào những ngày Chúa Nhật, sau khi đi lễ về, tôi cùng mấy anh chị con bác dượng đi xi nê hay đi dạo vòng bờ biển. Mọi việc diễn ra êm đẹp cho đến một đêm thứ Bảy, đang nằm trên giường đọc truyện tiểu thuyết của Quỳnh Dao, tôi nghe như có tiếng nói thì thào từ phòng bên vọng sang. Tôi nghĩ chắc bác tôi lên phòng đó để tìm kiếm gì. Nhưng 15 phút sau tiếng thì thào vẫn vọng ra, tôi tò mò hé cửa nhìn xem có ai bên đó không. Tôi thấy cửa phòng vẫn khóa, và tiếng nói bỗng nhiên im bặt. Tôi lấy làm lạ nhưng cũng trở vào phòng của mình tiếp tục đọc sách và đã thiếp đi lúc nào không biết nữạ Sáng hôm sau khi đi dự lễ ở nhà thờ Phước Hải về (bác dượng tôi không có đạo nên chỉ có cô tôi và anh chị cùng với tôi đi lễ mà thôi), tôi gặp riêng bác cô tôi và nói:

- Ðêm qua cháu nghe có ai nói chuyện thì thào ở phòng kế bên, nhưng khi cháu ra coi thì không có ai cả!

- Chắc là cháu ngủ mơ đó thôi chứ gia đình bác ở đây mấy năm nay có gì đâu! Thôi đi ăn sáng đi và nhớ đừng nghịch ngợm gì đến cái phòng đó nghe chưa!

Tuy không hài lòng về câu trả lời của cô tôi, nhưng tôi vẫn vâng dạ và đi ăn sáng rồi đi chơị Vào những ngày sau đó thì không có chuyện gì xảy ra và tuổi trẻ dễ quên nên tôi cũng quên mất sự việc nàỵ Nhưng lại đến đêm thứ Bảy, trong khi đang nằm đọc truyện thì tôi lại nghe tiếng xì xào bên phòng vọng quạ Tôi là thằng nổi tiếng nghịch ngợm ở nhà cho nên rất bạọ Tôi lắng tai nghe và khi chắc chắn rằng là mình không nghe lầm. Tôi nhè nhẹ bò ra cửa sang phòng kế bên và ghé mắt vào ổ khóa nhìn vào phòng. Trong phòng tối đen như mực chẳng thấy gì hết. Ngay cả tiếng thì thào lúc nãy bây giờ cũng im lìm. Trở về phòng với tính lì lợm của mình tôi tự hứa là sẽ tìm ra sự thật của căn phòng đó.

Hôm sau tôi lại đem chuyện này nói với bác trai, nhưng tôi chỉ nói quanh là cháu nghe tiếng động ở phòng bên! Chắc có ai đó đột nhập vào nhà muốn trộm đồ hay sao đó. Bác tôi nạt ngang:

- Mấy con chuột nhắt đó chứ ai mà vô nhà. Nó chạy rầm rầm và cắn nhau chí chóe suốt đêm . Cháu chưa quen nên khó ngủ, từ từ rồi sẽ quen thôị Mà nè cháu phải nhớ lời bác dặn không được phá phách gì cái phòng kế bên nghe chưạ

- Dạ! Cháu nhớ ạ!

Tôi trả lời nhưng trong lòng nghi ngờ là có cái gì bí ẩn mà các bác muốn dấu tôi đâỵ Tôi đợi cơ hội để tìm hiểu sự bí mật trong căn phòng kiạ Khổ nỗi là căn phòng luôn khóa kín và cái chùm chìa khóa thì bác trai luôn giữ theo trong ngườị Nhưng rồi cơ hội đã đến. Một hôm Chúa Nhật hai bác đi dự đám cưới đến khuya mới về, họ lục đục một hồi rồi đi ngủ. Ðến nửa đêm tôi xuống tầng dưới để đi tiểu, bật đèn lên tôi thấy chùm chìa khóa nằm trên bàn gần bộ sa lông. Cơ hội tốt cho tôi rồi, đi tiểu xong tôi vơ ngay chùm chìa khóa rồi nhẹ nhàng lên lại lầu haị Tuy mang tiếng là gan cùng mình, tôi cũng hơi run run khi đút chìa khóa vào mở cửa phòng kế bên. Tôi bước vào trong phòng. Phòng trống không. Chỉ có một bàn thờ nhỏ với hình phóng to của một cô gái trẻ đẹp và một bát hương với đầy chân nhang cắm ở trong đó. Trên tường có gắn một bóng đèn kiểu cọ, và một công tắc ở gần cửa ra vàọ Trên trần nhà có treo một quạt máy cũng còn hơi mới, ngoài ra không có gì nữạ Tôi đứng quan sát một lúc rồi trở ra khóa phòng lại và đem chìa khóa trả về chỗ cũ. Tuy không tìm được những gì mà mình muốn thấy, tôi cũng tạm thỏa mãn với chính mình. Tôi là thằng gan lì chẳng sợ gì. Có lẽ bác tôi nói đúng cũng nên, tiếng động có thể do bọn chuột gây ra mà thôị

Nhưng luận cứ đó chỉ đứng vững có một ngàỵ Ðêm sau tiếng thì thào lại nổi lên. Tôi lắng tai coi có đúng là tiếng chuột không. Không, rõ ràng là tiếng người mà. Tôi đi ra đến cửa thì tiếng nói lại im bặt. Chắc là ai muốn phá mình đâỵ Tôi tự nói với mình như vậy để tránh khỏi dùng đến từ MẠ Không sao, tôi chưa từng sợ ma mà. Nó có làm gì được tôi đâu chứ. Tôi vẫn đợi một cơ hội khác để tìm ra sự thật.

Vào một sáng Chúa Nhật, khi đi lễ về tôi thấy chùm chìa khóa để ở trên tủ may ở nhà ngoài, chắc bác trai khi sửa soạn tiệm để quên ở đó. Trong khi mọi người ăn sáng, tôi ra trước tuột lấy cái chìa khóa phòng rồi chạy ra tiệm làm chìa khóa gần nhà nói làm gấp cho tôị Chỉ mười phút sau tôi đã có trong tay một cái chìa khóa mớị Tôi trở về nhà và may thay mọi người vẫn bận bịu dưới bếp. Tôi gắn trả chiếc chìa khóa cũ vào chùm. Xong tôi thảnh thơi lên phòng mình dấu cái chìa khóa trong cái áo gốị Tôi nghĩ là mình sẽ sớm khám phá ra được mà điều mình muốn biết. Tôi dự định là phải đợi đúng vào lúc mà tiếng thì thào trổi lên thì hành động.

Ðêm đó khoảng 11:30 khuya, tôi nghe tiếgn thì thào nổi lên. Nhẹ nhàng tôi bước tới cửa phòng, đút chìa khóa vào xoay nhẹ và đẩy nhẹ cánh cửạ Tay bỏ cái chìa khóa vào túi quần và bước vào bên trong. Không thấy ai cả. Trên bàn thờ có ba cây nhang đang cháy dở gần hết, chắc là bác trai đốt hồi chiềụ Tôi bước lại gần bàn thờ để nhìn cho rỏ hơn cái hình trên đó. Ðang nhìn thì tôi cảm thấy có vật gì chạm vào phía sau cổ. Với phản ứng tự nhiên tôi dùng tay hất nó ra và quay lại nhìn. Trong bóng tối lờ mờ tôi thấy một sợi dây thừng, một đầu cột dính vào cái quạt, còn đầu kia là cái thòng lọng đang đu đưa hướng về phía tôị Tôi nhớ rỏ là lúc bước vào tôi đâu có thấy nó đâụ Thấy nó hướng về phía mình tôi lấy tay hất ra và nhanh chân phóng ra cửạ Nhưng cái thòng lọng nhanh hơn là tôi tưởng. Nó quàng vào cổ tôi từ phía sau và siết lạị Cái dây tự động rút dần lên và kéo tôi hỏng khỏi sàn nhà gần như nửa thước. Tôi bị nghẹt thở phải cố dùng hai tay để gở sợi dây nơi cổ rạ Vô ích nó xiết rất chặt tôi không tài nào gở ra được. Tôi nghẹt thở quá rồị Mắt tôi bắt đầu trợn trắng lên và tôi phải há to miệng để hít thở. trong giây phút này tôi nghĩ chắc sẽ bỏ mạng với cái dây này rồị Tay tôi yếu dần và tuột dần khỏi sợi dây nơi cổ. Ðột nhiên tay tôi chạm vào sơỉây “thẻ bài” có cái thánh giá bằng ngà mà tôi luôn đeo trên cổ. Ba tôi đã mua thánh giá này cho tôi lúc tôi chịu phép Thêm Sức, nó đã được chính Ðức Giám Mục làm phép. Tôi nhớ lại mẹ tôi thường nói khi nào gặp ma quỷ thì cầm thánh giá và đọc kinh “Tin Kính” thì sẽ thoát được sự hiểm nghèọ Với sức lực cuối cùng, tôi thò tay vào ngực nắm cây thánh giá ra và dí vào sợi dây, trong đầu đọc thầm mấy câu kinh. Thật không ngờ. Cái sợi dây tuột khỏi cổ tôi, rút lên cái quạt rồi biến mất. Tôi rớt xuống sàn nhà cái bịch. Tôi lồm cồm đứng dậy và chạy một mạch xuống lầu không nghĩ gì đến việc đóng cửa phòng lạị

Bác trai nghe nghe tiếng động và thấy đèn sáng dưới nhà bèn xuống coị Thấy tôi ngồi hoảng hốt co ra ở góc sa lông liền hỏi:

- Bộ có ai té hả? Bác nghe cái rầm mà? Khuya rồi sao cháu còn chưa đi ngủ?

- Cháu đi tiểu bị vấp ngã. Cháu ngồi đây một chút rồi sẽ lên ngủ. Tôi nói dối bác.

Bác trở về phòng, còn tôi vẫn ngồi co ro ở phòng khách nào dám trở lên trên đó. Rồi tôi thiếp đi lúc nào không biết. Khi bác trai dậy mở cửa tiệm thấy tôi nằm co ro trên ghế bèn đánh thức tôi dậy:

- Bộ cháu ngủ ở đây suốt đêm hả?

Tôi chưa kịp trả lời thì mặt bác tôi chợt biến sắc. Bác lượm cái chìa khóa nằm trên sàn. Nó đã rớt xuống đó khi tôi ngủ quên. Bác gắn giọng:

- Cái chìa khóa của phòng trên đó phải không?

- Dạ!!! Tôi cúi đầu lí nhí trả lờị

Bác tôi chạy trở lên lầụ Tôi vội vàng rửa sơ mặt mày rồi quơ lấy sách vở dông đi học. Tôi sợ chạm mặt bác vì sự thất hứa của mình.

Ðến chiều vừa về tới nhà tôi đã thấy cái va ly của tôi được để sẵn trước cửa tiệm, và cô tôi đang đứng chờ ở đó. Thấy tôi cô nói:

- Cháu đoán biết được gì rồi chứ. Cháu không thể ở đây được đâụ Cô dẫn cháu sang nhà chú Nam ở thôị

Thế là tôi dọn sang nhà chú Nam ở đường Trần Quí Cáp. Chú tôi là sĩ quan huấn luyện viên trong trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Gia đình chú cũng chỉ đủ ăn đủ mặc thôị Nhà chú là mo6.t căn nhà gác gỗ, vợ chồng chú ở phòng dước còn tôi và hai đứa con trai nhỏ của chú chiếm tầng gác. Tầng này không có ngăn ra, tuồng luông từ trước ra saụ Nhưng không sao miễn có chỗ ở là tốt rồị Nhất là tôi không phải chạm trán với “con Ma Thần Vòng” là êm rồị Chiều hôm sau cô tôi lại thăm, hai cô cháu ngồi nói chuyện một lúc rồi cô tôi hỏi:

- Ðêm trước cháu vào phòng trên đó phải không?

- Dạ! Tôi trả lời rồi kể cho cô biết việc tôi suýt chết vì sợi thòng lọng trong phòng đó.

- Các bác đã dặn cháu rồi mà sao cháu chẳng chịu nghe lờị Bác trai vì sự an toàn của gia đình đành phải đuổi cháu đị Ðể cô kể cho cháu nghe đầu đuôi câu chuyện thì cháu sẽ rõ lý dọ

Năm năm trước gia đình cô từ Sài Gòn chuyển về đây để làm ăn, trước đó thì bác trai đã có nhờ người quen dò hỏi mua dùm nhà ở nơi thuận tiện để mở tiệm may được. Họ nói có một căn nhà đang đề bán với giá rất rẻ. Bác trai vì nôn nóng nên cũng không tìm hiểu gì cho kỹ nên nhờ họ mua dùm. Sau đó gia đình bác dọn về ở. Chỉ một tuần sau là cả nhà đã nghe tiếng thì thầm nói chuyện ở trên lầu hai rồị Bác trai bèn đi hỏi dò hàng xóm mới biết ra sự thật. Căn nhà bị ma ám cả bốn năm rồị Cô gái đầu lòng của người chủ nhà đầu tiên đã treo cổ tự vận trong căn phòng trên lầu hai vì ba mẹ cô ấy nhất định không bằng lòng cho cô ta lấy một anh bạn học nghèọ Và từ đó hồn cô ta chiếm cứ căn phòng đó và phá rối người trong nhà. Gia đình cô ta phải bán nhà đi chỗ khác ở. Căn nhà này đã đổi chủ mấy lần rồị Ai ở được một thời gian cũng phải bán tháo để đi thôị Hai bác rất sợ nhưng bao nhiêu vốn liếng đã bỏ hết vào tiền nhà rồi, có muốn đi cũng không có chổ mà ở. Ðành phải liều ở lại chứ biết làm sao đâỵ

Nhưng mà hàng đêm nó cứ rì rầm và gây ra những tiếng động dị thường trên đó. Bác trai không có đạo, nên ông ấy đi thỉnh thầy cúng về để tế hồn cho nó. Ông thầy pháp và bác trai cúng bái rì rầm trên đó cả buổi mới xong. Khi thầy pháp về bác trai mới cho mọi người biết là bác đã hứa với hồn của cô gái là sẽ dành riêng căn phòng đó cho cô ta và sẽ cúng bái nhang đèn cho cô ấy, chỉ xin cô ấy đừng phá gia đình. Từ đó cô ta không phá gì nữạ Không biết bác trai kiếm đâu ra cái hình của cô ta và đem phóng to ra rồi để lên bàn thờ trên ấỵ Chỉ có mình bác trai là ngày ngày lên nhang đèn trên đó chứ trong gia đình chẳng một ai dám bước lên lầu hai cả. Vì cháu là con cháu trong nhà nên hai bác để cháu ở phòng kế bên, nghĩ là chắc cô ta cũng để yên cho cháụ Nào ngờ vì tính tò mò mà cháu gây ra đại sự. Hôm qua bác trai phải lên trên đó xin lỗi và hứa là đuổi cháu đi để cô ấy vừa lòng. Cháu cũng đừng trách bác trai nhé.

Từ đó về sau mỗi khi có dịp tới thăm gia đình cô tôi, tôi chỉ dám lảng vảng ở nhà dưới mà thôi và không bao giờ dám ngủ lại đêm cả. Cho đến bây giờ mỗi khi hồi tưởng về cái đêm hôm đó tôi vẫn cảm thấy rờn rợn cả người

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: