TUYỀN TẬP HỒI ỨC-KÝ SỰ-Lenghiabk05
Kim Lê
Những lát cắt cuộc đời
Trên đường từ Văn Điển về, xe máy của tôi bị xịt lốp. Dắt bộ dưới cái nắng trưa hè, tôi nhễ nhại mồ hôi. Đi khoảng gần cây số mới có hiệu sửa xe (gọi là hiệu cho nó sang, chứ thực ra chỉ có cái tủ con bụi bặm bầy mấy thứ phụ tùng lặt vặt, một chiếc lốp cũ treo hờ gốc cây và chiếc bàn ép chỏng chơ). Tôi rẽ vào.
Chủ hiệu là một gã rất khó đoán tuổi, người gầy gò, khuôn mặt khắc khổ, tròng mắt lờ đờ như ngái ngủ, mồm sặc mùi rượu. Gã mặc chiếc quần lửng màu cháo lòng, chiếc áo phông cũng không nhận ra là màu gì nữa.
Trong lúc vá xăm cho tôi, thỉnh thoảng gã lại với chai rượu để ở chân bàn, tu một ngụm. Tôi hỏi :
- Ngày có hết một chai không ?
- Mùi mẽ gì ! Gã trả lời- Bây giờ em còn đuối, chứ ngày trước a, em uống rượu thay cơm !- Gã hấp háy mắt nhìn tôi, rồi tiếp- Mà em trông tướng đại ca cũng “sâu” lắm ?
- À, cũng tàm tạm.- Tôi trả lời cho xong.
Gã đưa chai rượu cho tôi : Làm một tợp, đại ca. Tôi lắc đầu lấy cớ trời nóng. Gã cất giọng è è : Chẳng dấu gì đại ca. Trước đây em là dân đào vàng, nơi ma thiêng nước độc đ… có rượu thì chết. Tụi em sống như lũ chuột chũi. Nói đại ca không tin. Em đã từng có trong tay ngót trăm cây vàng, em đập mẹ nó cái nhà cấp bốn đi, xây hẳn một biệt thự ba tầng ở cho nó sướng. Khốn nạn cái dòng họ nhà em, máu cờ bạc gia truyền từ hồi cụ cố để lại. Chỉ trong một năm, em đốt hết mẹ nó cả nhà cửa, cả vốn liếng vào cờ bạc . Con “thị Nở” nhà em, trước là người mẫu thời trang hẳn hoi, thấy em trắng tay nó bỏ đi ôm giái thằng khác, đại ca thấy có mất dạy không ? Tôi gượng cười, hỏi : Thế làm thế này có đủ uống không? Gã ngước cặp mắt lờ đờ nhìn tôi: Đại ca lại khinh em rồi! Trước đây em một xu dính túi không có, mà ngày nào em cũng rượu thịt tì tì.Thiếu gì thì thiếu, chứ thiếu rượu chịu thế đ… nào được, không còn ra cái hồn người nữa. Hồi đó nhà em ở cạnh nghĩa trang Văn Điển. Em thất nghiệp nằm khoèo ngủ vùi suốt ngày. Ngày ngủ thì đêm ngủ thế đ…nào được, em lang thang suốt đêm. Mà đêm thì có chỗ chó nào mà chơi? Thấy trong nghĩa trang sáng đèn, em mò vào xem người ta bốc mộ. Xem mãi cũng chán, em lệu dệu ra chỗ cây hương thờ thần linh, thấy chai rượu và miếng thịt lợn người ta bày cúng ngon quá, em ngó xung quang thấy đ… ai để ý, em thoóng luôn thủ trong vạt áo..,hề hề…đại ca đừng cười em nhé. Các cụ nói đ…có sai “đói ăn vụng, túng làm càn !”
Gã ngừng nói, chép chép miệng nhìn chai rượu lăn lóc ở gậm bàn, rồi tiếp : Như thế lại hoá tươm. Ngày nào em cũng như sĩ quan, chẳng phải mó tay việc chó gì cả mà vẫn rượu thịt đều đều. Hồi ấy, mẹ em bán đồng nát chai chè, có hỏi, em bảo “ra phụ giúp ở nghĩa trang người ta cho lộc”. Hề…hề, đúng là lộc trời cho. Em thấy cái “cửa” ấy quá hay! Đâm nghiện mới bỏ bố chứ. Về sau rút kinh nghiệm, em cũng kiếm một dải khăn trắng, ra đến đấy em chít lên đầu…hề hề…bố đứa nào phát hiện ra được !
Tôi gượng cười mà thấy nhói trong lòng. Nhìn gã gầy gò khắc khổ, cặp mắt bợt đi vì say. Không hiểu cuộc đời gã sẽ đi về đâu?
2.
Ở phố tôi, có một cặp vợ chồng khập khiễng về tuổi tác. Ông chồng giàu có, kiếm được cô vợ hơn hớn kém mình hơn bốn chục tuổi.( Ông ta goá vợ được hơn chục năm, không hiểu cuối đời muốn vớt vát chút “tình iêu” cho hoàng hôn đỡ buồn?” Ông to béo, phục phịch như cụ Di Lặc, nhưng về cái “khoản ấy”lại kém, nó cứ như củ khoai héo. Cô vợ lại màu mỡ ngồn ngộn, thế mới chết! Tính ông lại cả ghen. “Cụ không “ăn” được, nhưng đừng hòng có thằng nào xơ múi vào nhé! Đừng tưởng cụ yếu mà tí tởn! Cụ yếu, nhưng đã có đệ tử “tiên huyền”sửa gáy chúng mày!”
Nhàn rỗi, cô vợ đi tập nhảy đầm (có cấm cũng không được). Cụ khó chịu lắm nhưng đành phải chiều. Cụ mò đến chỗ tập để canh vợ. Đôi mắt cụ hau háu không rời vợ nửa bước, cụ còn lạ gì lũ trai lơ nữa, cứ là nhớn nhác như quạ thấy gà con. Nhìn chúng ôm vợ mình nhẩy mà cụ thấy xót con mắt, cụ nhấp nhổm như ngồi trên đống lửa. “Đấy! Nó lại tì sát vào kia kìa, thằng bỏ mẹ chỉ lợi dụng. Giời ạ! Lại còn cười với nó nữa chứ”. Thằng “bỏ mẹ” liếc nhìn cụ, cố tình trêu, nó te một cái như vật ngửa vợ cụ ra. “Ôí giời đất ơi! Khốn nạn! Khốn nạn! Như thế thì còn gì là người nữa!” Cụ chồm dậy, mặt đỏ phừng phừng, hất mạnh tay “thằng bỏ mẹ” ra, cầm ba toong chỉ thẳng vào mặt hắn: “Nhảy nhót gì cái loại mày! Đồ…đồ bố láo!” Cô vợ luống cuống ngượng chín cả mặt. Cụ chỉ làm trò cười cho cả lớp.
Buổi sáng, hai vợ chồng cụ ra công viên đi bộ. Tụi đàn ông thừa biết vẫn trêu: “ Hai bố con cụ đi tập đấy ạ !?” Rặt một lũ ba que xỏ lá! “ Tao biết tỏng ruột gan chúng mày, hệt một lũ ma đói, thả ra có mà nhai cả xương!” Một buổi, cụ mệt không đi tập được, cô vợ ra công viên một mình. Cụ ở nhà đứng ngồi không yên. Mà yên làm sao được! Trông vợ cụ ngồn ngộn như thế, không có cụ đi kèm, lũ đàn ông mất nết có mà nhẩy cẫng lên. Cụ phải ra! Mệt cũng phải cố ra! Để cho bọn nó biết rằng “quyền sở hữu”thuộc về cụ! Đừng có mà xí xớn! Cụ chống ba toong ra đến nơi, y như rằng thấy “con bà nàng” đang tưng tửng đùa nghịch với tụi đàn ông. Cụ đứng như chôn chân giữa đường, mắt gườm gườm nhìn cả lũ không nói không rằng. Lúc sau, cụ dậm dậm đầu ba toong xuống đất, quát: Về…! Về ngay! Không tập tành gì hết!- Cô vợ chạy đến nũng nịu: Kìa mình…! Các ông ấy chỉ trêu chứ có gì đâu. “Có gì đâu…!”, cụ quắc mắt đai lại. Để đến khi có gì thì thằng già này thành ra “đười ươi giữ ống” à!
Mà cụ “giữ ống” thật. Tay cháu gọi cụ bằng chú ở trong Sài Gòn ra công tác, đã tòm tem vợ của chú ruột mình ( của đáng tội bà thím còn kém cháu hơn chục tuổi). Giữ là giữ với người ngoài chứ giữ làm sao được người trong nhà! Ai bảo cụ lấy vợ trẻ quá cơ, nếu cụ kiếm một bà sàn sàn tuổi cụ thì đâu đến nỗi?
3.
Bố nó là một đại gia. Thủa còn hàn vi, nghèo tã vành váy, lấy được mẹ nó như vớ được vàng. Tuy mặt mũi hơi Thị Nở một chút, nhưng bù lại mẹ nó thuộc hàng “con ông cháu cha”. Nó mang dòng máu của một gã cha căng chú kiết nào không biết? Còn bố nó chỉ là người “tráng men” cho hợp pháp hoá cái thai ba tháng.
Tên cúng cơm của nó là Gái. Nhưng tính nết thì chẳng “gái” chút nào! Ngay từ bé, nó đã thích mặc đồ con trai, tóc cắt ngắn và đi đứng khuỳnh khoàng.
Bạn bè nó, không phải loại liễu yếu đào tơ. Với bản tính còn hơn con trai như thế, làm sao nó đánh bạn với lũ “mít ướt” được. Nó toàn chơi với con trai. Tất nhiên! Nhưng chơi với con trai, nó toàn làm thủ lĩnh! Tụi con trai gọi nó là “thằng” Gái.
“Thằng” Gái đá bóng vỉa hè, áo may ô quần cộc, hùng hục chạy, hùng hục lên bóng, bố đứa nào dám cướp bóng của nó, ăn cút khuỷu tay, gẫy ống đồng như chơi. Nó rượu bia thành thần. Đầu trò trong những cuộc nhậu. Nó là người “lĩnh xướng” một hai ba…dô! Trăm phần trăm! Nó thuốc lá phì phèo ngồi xổm trên chiếu bạc đánh xóc đĩa, tá lả. Nếu có thằng nào “lỡ” ăn gian, nó lừ mắt rồi buông thõng một câu rất đặc trưng : Ăn củ c…bố đây này!
“Thằng” Gái học dốt lòi cán cuốc, nhưng vẫn được lên lớp đều đều? Ngồi trong lớp, nó như “vịt nghe sấm”.Việc học đối với nó là một cực hình! Trong cái đầu đặc sệt những nghịch ngợm phá phách của nó, còn đâu chỗ để nhồi nhét kiến thức!?
Nó tham gia đua xe máy với tụi con trai. Bị bắt vài lần. Nhưng nó lại thấy thích ! Được vào đồn công an ngồi, được nếm mùi pháp luật qua cái còng tay. Thấy lũ con trai rúm ró mà nó thấy thương hại. Nhìn các chú công an lăng xăng đi lại nó lại thấy vui mắt. Rồi khi biết nó thuộc đối tượng “con cháu các cụ” , mặt các chú ngẩn ra, nó lại thấy…buồn cười.
Tiền đối với nó chỉ là tờ giấy lộn, không hơn gì tờ bạc âm phủ! Nó có thể đốt dăm trăm đô trong những cuộc nhậu, vài nghìn đô trong những cuộc du hí. Đến tuổi dậy thì, “thằng” Gái cũng biết yêu. Người yêu của nó không phải loại con trai “tốt mã rẻ cùi”. Người nó yêu là một đứa…con gái, hơn nó những ba tuổi. Nó sắm cho tình nhân không thiếu thứ gì: Quần áo hàng hiệu, váy dài váy ngắn, dây chuyền hoa tai, nhẫn hột xoàn…Nó lại có máu ghen khủng khiếp, có ối thằng phải vêu mõm, bươu đầu vì chọc ghẹo người yêu của nó.
Bố nó thì miên man tối ngày với những dự án tiền tỷ. Mẹ nó có cáu chỉ mắng : Con gái con đứa gì cứ như nặc nô! Đúng là quỷ cái nó lộn vào cái nhà này! Nó nhếch mép cười khẩy, giọng tỉnh queo: Sao lại độc mồm độc miệng với “tương lai “ thế!
Để cách ly nó với “môi trường ô nhiễm”. Mẹ nó gửi cô con gái rượu sang Mỹ quốc du học, nơi cậu ruột nó công tác.
Với một “thằng” như nó, ở đâu cũng vậy thôi! Trong nước còn học hành dấm dớ, huống chi xuất ngoại? Nó tụ tập đàn đúm với những thằng bản xứ, ăn mặc híp hốp, tóc tai xanh đỏ dựng đứng, đua xe phân khối lớn. Ông cậu cũng không quản lý nổi đứa cháu gái bất trị. Một lần đua xe, nó đã bị tai nạn. May mà không chết, chỉ bị chấn thương sọ não. Chuyển về nước, nó thành đứa ngớ ngẩn.
Từ đấy, “thằng” Gái bị nhốt trong nhà. Nó suốt ngày vật vờ, hết hát, lại cười, lại khóc. Khóc chán, cười chán, hát chán, rồi không còn gì để chán hơn, nó trèo lên bể nước sân thượng tầng năm, đứng chót vót, tay khuỳnh khuỳnh chiếc gậy lau nhà. Mọi người tưởng nó có ý định nhẩy lầu, xúm đông xúm đỏ bên dưới nhìn lên. Nó cứ đứng như thế, cái mặt nghênh nghênh, cái chân khuỳnh khoàng, môi trễ điếu thuốc phì phèo, mắt lim dim nhìn đám mây đen phía chân trời. Thì ra nó định làm “Thần tượng”!
Bố nó bay sang Singapore hôm trước. Hôm sau có một ông khách lạ xuất hiện ở nhà nó. Ông ta, đầu chải bóng mượt, hàng ria đen nhánh, chiếc cà vạt hoa loang lổ. Riêng đôi mắt láo lơ như thằng ăn trộm. Mẹ nó tiếp có vẻ thân mật lắm. Khi thấy nó ở tầng trên đi xuống, ông ta ngoái đầu nhìn, nháy mắt với nó ra điều thân thiết. Nó khẽ nháy mắt lại, xong cất giọng rên rỉ “tình là tình như không mà có…ó…!” Ông ta toét miệng cười, vỗ tay bồm bộp. Mẹ nó lườm ông ta. Quát đuổi nó lên lầu. Nó quăng cái nhìn lườm ông khách, xong buông thõng một câu: Có như thế mà cũng vỗ tay…Đồ dở hơi !
“Thằng” Gái đâu biết rằng, ông ta chính là bố đẻ của nó!
Thế mới biết rằng, sự bất chính vụng trộm của thế hệ trước, bao giờ cũng để lại những hệ luỵ mà xã hội phải gánh chịu. Quả tiền nhân nói không sai “ Thượng bất chính. Hạ tất loạn”!
Song Hà
Bát cơm mùa gặt
Ai cũng có một tuổi thơ để nhớ thương, hoài niệm. Với tôi đó là những tháng năm đẹp như một giấc mơ, là những bát cơm đặc biệt không phải ai cũng được ăn. Tôi lớn lên ở ngoại ô Hà Nội. Khu tập thể ngày ấy nhỏ bé nằm lọt thỏm trong một xã chuyên trồng lúa và rau thuộc huyện Từ Liêm.
Cứ đến mùa gặt của người nông dân trong xã, sau buổi học những đứa trẻ trong khu tập thể sàn sàn tuổi lên bảy, lên mười lại rủ nhau ra cánh đồng mót lúa. Đó là lúc lúa đã bắt đầu được gặt vãn. Như đàn chim sẻ nhỏ, chúng tôi sà từ thửa ruộng này sang thửa ruộng khác. Đứa nào cũng đeo bên vai một chiếc túi vải nhỏ. Chiếc túi của tôi được mẹ khâu lại từ những mảnh vải lành lặn cắt ra từ chiếc quần áo rách. Chiếc túi vải nhiều màu có quai đeo rất xinh xắn.
Tôi nhớ ngày ấy người ta thường cắt sát gốc lúa, sắp thành từng dãy thẳng hàng cho hết mảnh ruộng rồi bắt đầu quay lại dùng liềm xén ngang thân cây, gánh phần ngọn về trước. Phần thân dưới cây lúa gọi là rạ, để lại ruộng cho khô rồi mới gánh cho nhẹ bớt. Chúng tôi đi từng dãy rạ, lật ra để nhặt những bông lúa còn sót lại cho vào túi. Bốn năm đứa trẻ đi với nhau, chia mỗi đứa một khoảnh ruộng rồi chăm chú nhặt lúa sót. Rõ ràng đã lật hết đám rạ rồi nhưng đến khi quay vòng lại, lật dảnh rạ lên vẫn cứ nhặt được những bông lúa vàng hươm nằm ẩn mình sau thân rạ khô giòn. Đó đây bật lên tiếng reo nho nhỏ thích thú.
Có những ruộng lúa được cắt ngang giữa chừng thân lúa, chỉ lấy phần bông phía trên, phần rạ phía dưới dựng tua tủa như những ngọn giáo. Khi đến mảnh ruộng như vậy, những đứa có kinh nghiệm thường đi vòng quanh bờ. Nơi đó có những bông lúa nặng trĩu ẩn mình trong đám cỏ cao lút mặt mà những người gặt vô tình bỏ sót lại. Dùng chiếc kéo bé tí xíu vẫn thường được dùng cắt thủ công trên lớp học, cắt bông lúa, chợt thấy túi mình nặng hơn một chút.
Trên thửa ruộng gặt sớm, những bông lúa trổ muộn tiếp tục ra bông và chín. Dường như chúng cố không phụ công những tháng ngày chăm sóc, bón phân, nhổ cỏ của những người trồng lúa. Chúng tôi hái những bông lúa thường chỉ có dăm bảy hạt thóc ấy mà lòng vẫn cứ hân hoan, vui sướng. Năng nhặt chặt bị, nếu kiên nhẫn thì vẫn có thể hái được cả túi thóc đầy.
Sau những trận mưa to, những đám ruộng trước đây khô bây giờ đã ngập nước đến ngang bụng chân. Nước dưới ruộng ấm áp chứ không lạnh như nhiều người vẫn tưởng. Nước trong văn vắt. Những bông lúa sót lại nằm dưới đáy ruộng căng mọng vì nước. Có hạt thóc đã chớm nứt mầm trắng vẫn được vớt mang về. Bàn chân trần giẫm vào gốc lúa ráp mềm. Đàn cá mương mương đuổi nhau vèo vèo trên mặt nước như đùa nghịch cùng mỗi bước chân thơ trẻ. Những con ốc mít, ốc rạ béo múp míp nặng nhọc bò dưới chân ruộng. Đôi ba chú cua đá lồi mắt, giơ càng ra doạ dẫm. Chúng tôi nhặt tất cả cho vào túi. Mỗi ngày vài đứa góp lại cho một đứa thì cũng được một bữa canh cua nấu riêu hoặc nồi ốc luộc ngon lành. Cứ lần lượt quay vòng rồi cũng đến lượt nhà mình ăn canh cua, ốc. Gắn bó với nhau, nhường nhịn nhau như vậy mà thành kỷ niệm ngọt ngào đến tận lúc trưởng thành.
Mùa đông, cánh đồng rộng mênh mông cuối vụ gặt càng thêm vắng. Chúng tôi vừa mót lúa vừa nô đùa thoả thích. Từng đợt gió mùa đông bắc khô hanh khiến cho má những đứa trẻ khô nẻ cứ đỏ hồng lên như táo chín. Cuối ngày trở về nhà, mẹ tôi lại cần mẫn vò lúa, sàng sảy sạch sẽ rồi đem phơi cho vào thùng. Những bông lúa nếp được mẹ lựa riêng. Bông tươi xanh mẹ cho vào bếp than củi nướng cháy rơm, để lại những hạt thóc nếp thơm phưng phức. Ngồi nép vào lòng mẹ, dùng tay để bóc hạt gạo nướng xanh non như cốm, đưa vào miệng nhai dẻo ngọt. Bông lúa nếp già, mẹ tuốt ra phơi khô rồi đem rang thành bỏng. Đêm mùa đông giá lạnh, ngồi học bài trên nhà nghe tiếng bỏng nổ lép bép trong bếp thật vui tai. Một tay mẹ lựa trấu, vun bỏng. Khi được những hạt bỏng nếp sạch sẽ, mẹ pha nước đường trắng, đun nóng vẩy vào rồi nắm lại thành từng nắm xinh xắn. Mẹ vẫn thường dùng chúng làm phần thưởng mỗi khi chúng tôi được điểm 9, điểm 10.
Cứ mỗi một vụ mùa, tôi nhặt được khoảng ba chục cân thóc khô. Giữ đến gần Tết, mẹ đem xát lấy gạo. Số gạo đó mẹ để nấu riêng. Thứ cơm được nấu từ những bông lúa, hạt thóc mót trên cánh đồng lại có hương vị thật lạ. Bưng bát cơm đầy, mẹ cười rạng rỡ khen tôi hiếu thảo, còn nhỏ tuổi đã biết đỡ đần mẹ. Bát cơm đó không giống như cơm gạo tấm dính, tấm nở, gạo mậu dịch hồi ấy hay những bát cơm gạo tám xoan, gạo dự, gạo bắc hương thời bây giờ.
Nhiều năm trôi qua. Những đứa trẻ ngày xưa đã trưởng thành. Tôi đi qua tuổi thơ khó khăn nhưng cũng đầy ắp kỷ niệm và sự hồn nhiên thơ trẻ. Có lẽ nhờ sự tảo tần thu vén của mẹ đã giúp tôi được học hành đầy đủ hơn một số bạn bè cùng trang lứa. Giờ đây, cứ sau một bữa liên hoan chiêu đãi hoặc dự một đám cưới, nhìn những bát cơm gạo tám trắng muốt đựng trong âu sứ, âu men hoặc bằng inox nằm khiêm nhường trên bàn tiệc bị bỏ thừa lại mà chạnh lòng. Nhớ đến quay quắt bát cơm từ những hạt lúa mót được trên cánh đồng làng năm nào.
Kim Lê
Biết rồi ! Khổ lắm
Cái xóm tôi ở gần chợ Mơ. Phần lớn là dân tứ chiếng. Tôi quê gốc Thường Tín. Hàng xóm sát vách là mấy nhà cùng đồng hương. Dân Thường Tín máu mê cờ bạc nổi tiếng. Hồi bố tôi còn sống, gia đình đã nghiêng ngửa vì ông. Ông có thể ngồi đánh bạc thâu đêm suốt sáng. Xóc đĩa, tài bàn, tổ tôm, chắn cạ, thôi thì đủ cả không thiếu món gì! Mẹ tôi kể. Có lần bố mày đã khoắng sạch cả buổi hàng đem tiền đi chơi bạc. Hồi đó tao buôn đường mật cũng phát tài, tối về đổ tiền ra đếm, ngủ gật, cứ mỗi lần gật là ông ấy gạt tiền vô tội vạ. Có lần ông ấy đi đánh bạc ở đâu không biết, khi về trần thùi lụi còn mỗi cái quần cộc.
Đấy là chuyện ngày xưa, hồi tôi còn bé không biết. Khi lớn lên tôi đã chứng kiến cảnh bố tôi thua bạc, về nhà ôm đầu ngồi xổm, ông cứ ngồi ở tư thế đó hàng tiếng đồng hồ. Mẹ tôi bảo. Trông thật hãm tài!
Tôi đã được chứng kiến cảnh, cả nhà có mỗi cái quạt Nhật (sau 1975 quạt Nhật là oách lắm), mùa hè nóng bức là thế, thua bạc, bố tôi mang cả cái quạt duy nhất đi để gán.
Mẹ tôi là người cũng tốt nhịn. Có thế nào đi nữa cũng chỉ đóng cửa bảo nhau, chứ không lu loa như người khác. Bà nhẫn nhục. Nhẫn nhục chịu đựng để khỏi “xấu chàng hổ ai”. Mẹ tôi thường lựa lời khuyên răn. Ông bảo. Nó đã nhiễm vào máu của tôi rồi, không bỏ được!
Đến nước như thế, mẹ tôi chỉ còn biết thở ngắn than dài, thắp hương khấn tổ tông (các cụ chắc không cờ bạc?) cứu bố tôi thoát khỏi con đường u mê lầm lạc. Mẹ tôi thường bảo. Kiếp trước tao vụng tu, nên kiếp này mới bị Giời đầy!
Khi đã nhiễm vào máu rồi. Tức là đã nghiện! Bố tôi vẫn thì thụt cờ bạc như cũ. Có lần đã bị bắt, giải lên đồn công an ngồi 24 tiếng đồng hồ, cả đêm muỗi đốt. Mẹ tôi bảo. Cho thế mới đáng đời! Nhưng đến sáng, bà lại mua bánh giò, bảo tôi mang vào cho ông. Sợ ông bị đói.
Cờ bạc đã thưa đi. Bố tôi lại dồn sang chơi xổ số. Nào có phải chơi như người ta một, hai tờ cho cam. Đằng này ông chơi cả bộ. Lâu lâu, lại đổ trong lục bình to tướng ra những tập số bị trượt, đầy lưng một thúng, cho lũ cháu ngoại chơi.
Góp phần “kiến thiết thủ đô” máu như thế. Nhưng nào có trúng. Hoạ hoằn mới được cái giải bét. Chả bõ!
Rồi cái nạn “đề đóm” nổi lên. Ông nhập cuộc ngay. Sổ to, sổ nhỏ ghi số “đề” chằng chịt. Rồi sách giải những giấc mộng mị (đúng là nằm mơ!). Sách giải những con thú, con vật, con chim, con cò, con lợn ,con chó... Ông có hẳn một bảng theo dõi kết quả to bằng nửa cái chiếu một, ông trải ra phản chổng mông lên để tính tính toán toán, cộng trừ nhân chia, luận ra những con số đẹp nhất, những con số “son” nhất. Hy vọng tràn trề được ăn những 70 lần số tiền bỏ ra. Và để đến chiều khi “đề về bao nhiêu?” lại xẹp lép như bánh đa dầm nước.
Bạn bè ông “đồng hội, đồng thuyền”. Đến nhà chơi nói chuyện gì thì nói, cuối cùng vẫn chuyện “bác thằng bần” là xôm nhất!
Tóm lại. Dưới con mắt của bố tôi. Xổ số, đề đóm cũng là một kiểu cờ bạc chuyển thể. Cũng có đỏ, có đen, có may có rủi. Tôi còn nhớ ông bảo với mẹ tôi “Tôi chơi bời như thế, rủi lại hoá may! Không có ở nhà quê thì thành địa chủ, ở thành phố thì thành tư sản. Họ quy thành phần. Chỉ có chết!!”
Ông làm như nhà ông của chìm, của nổi, nứt đố đổ vách không bằng. Chỉ biết rằng, mẹ tôi vẫn một nắng hai sương, thức khuya dậy sớm lo lắng tần tảo nuôi cả nhà.
Vì vậy. Từ bé cho đến khi trưởng thành. Hễ nói đến cờ bạc là tôi chúa ghét! Ghét cay, ghét đắng! Ghét như đào đất đổ đi!
Đến khi lấy vợ, có con. Tôi dọn ra ở riêng. Lại rơi vào cái xóm “cờ bạc thành thần”.
Gìa trẻ gái trai. Nam phụ lão ấu. Cờ bạc tuốt tuồn tuột! Gìa thì tổ tôm chắn cạ. Trẻ thì xóc đĩa ba cây. Rồi thì tá lả, đầu đít, bóng bánh, đề đóm. Có mấy thằng chip hôi ngồi hàng nước cũng cá cược nhau xe máy chạy vào ngõ biển chẵn hay lẻ. Nghĩa là nhìn vào đâu cũng thấy may rủi, nhìn vào đâu cũng thấy đỏ đen, nhìn vào đâu cũng thấy sát phạt ăn thua. Đến nỗi vợ tôi phải bảo : Chuyển nhà đi nơi khác thôi, không lũ trẻ nhà mình hư hết! Tôi bảo: Cờ bạc bây giờ như đại dịch H5N1! Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa thì sao?
Nói như vậy thôi để trấn an vợ. Trong thâm tâm tôi mỗi khi chuyển nhà là rất ngại. Ở đâu nó quen đấy. Rồi trăm thứ thủ tục lằng nhằng. Nhà ở, đâu phải cái thuyền muốn đẩy đi đâu thì đẩy.
Đối diện với nhà tôi là nhà tay thiếu uý công an bị thải hồi. Bây giờ cũng chuyên môn ghi đề thuê. Cứ chiều đến là ông ta nháo nhác chạy đông chạy tây. Ông ta đã lớn tiếng tuyên bố trong một đám cưới. Mèng nhất mỗi ngày ông ta cũng kiếm được hơn trăm tiền ghi đề (khi say người ta thường nói thật). Lũ trẻ cứ gọi là há hốc mồm ra để thèm. Người chân chất thì xì xào bảo nhau. Mình làm mửa mật ra ngày mới nổi dăm ba chục ngàn!
Vì thế! Không muốn “mửa mật” mà lại có nhiều tiền. Chỉ có cách chơi lô đề! Một ăn bảy mươi, tám mươi buôn bán gì cho lại! Rồi thì nghèo lâu giàu nhanh!
Thiên hạ đổ xô vào lô đề.
Ăn theo tệ cờ bạc, đề đóm là những trò cho vay lãi cầm cố. Thị Lờ ở trong xóm sống bằng cái nghề ấy.Suốt ngày nhẩn nha mà lắm tiền. Không có tiền lô đề cờ bạc (chưa nói đến nghiện hút). Đến gặp thị xong ngay. Lãi tính 10 phân. Rồi thì tivi, xe máy, bàn là, nồi cơm điện... “đội nón” đến nhà thị. Nếu không có của nả gì đáng cầm thì bằng lái xe, sổ hộ khẩu, sổ đỏ nhà. Được tuốt!
Thằng cu Tê ở cạnh nhà tôi. Mới 16- 17 tuổi đầu đã cờ bạc như điên. Học dở dang lớp 9 thì bỏ. Đi làm loong toong ở cửa hàng bán điện thoại. Rồi đi đổi bình gas thuê…Vất vả mà tiền ít. Bỏ không làm. Về nhà lêu lổng, sinh ra cờ bạc lô đề. Nó lừa cả nhà đi vắng. Vác cả ti vi, dàn điện tử đi cầm. Nhà cửa lục đục từ đấy. Anh chị khuyên can thế nào cũng không được. Rồi sửng cồ đánh nhau. Mâm cơm bay ra ngoài đường. Anh em vác xẻng đuổi nhau khắp xóm. Loạn cả lên.
Anh Bê ở xóm ngoài. Đang làm ăn tử tế. Bập vào đề đóm, say mê đến nỗi bỏ cả làm. Rồi lô đề nợ đến vài trăm triệu. Bí quá, không biết xoay vào đâu. Cuối cùng phải bán cả nhà để trả nợ. Đang ở nhà cao cửa rộng, bây giờ cả nhà thút lút vào căn hộ bằng lỗ mũi tận cùng trông xóm. Anh chán cảnh, vật vờ suốt ngày như người mất hồn.
Thằng Đờ, ở đầu ngõ. Cưới vợ vài ngày đã ngứa nghề dở chứng. Lấy cả tư trang vàng nhẫn của vợ đi bán để lô đề cờ bạc. Có lúc, nó được đến tiền tỷ. Thi thoảng đưa cho ông bố vài trăm để uống rượu. Ông bố nhe hàm răng cải mả ra cuời, bảo tôi: Cần gì phải làm cho mệt xác. Lô đề cũng là một cái nghề! Cái gì kiếm được tiền mà chẳng là nghề!
Rồi thì tiền tỷ cũng hết. Của Thiên trả Địa! Bây giờ xe máy cũng không có mà đi. Vợ chồng cãi nhau ỏm tỏi. Con vợ bỏ về nhà bố mẹ đẻ. Thằng chồng lệu dệu suốt ngày ở quán nước. Ông bố ở nhà hết đứng lại ngồi, thở ngắn than dài.
Cái cảnh như thế nhiều lắm! “Khổ quá! Biết rồi nói mãi!”.
Tôi viết bài này,nhằm gửi đến một thông điệp cho những người chót sa chân vào con đường lô đề cờ bạc (và cả những người mới ngấp nghé).
Từ ngàn xưa các cụ ta đã dạy: “Cờ bạc là bác thằng bần”. Nếu ai mắc vào cái vòng ấy sẽ không tránh khỏi nghèo khổ, tan cửa nát nhà . Vì vậy dân gian ta có câu khuyên răn thật chí tình :
Tiền mồ hôi nước mắt để trong nhà!
Tiền cờ bạc để ngoài sân !
Kim Lê
Chuyện đề đóm
Trong cuộc vật lộn để mưu sinh. Có lắm kiểu để kiếm ra đồng tiền. Một trong những kiểu kiếm tiền ấy là “nghề” ghi đề.
Ở một trường tiểu học. Cô giáo hỏi một học sinh: Bố con làm nghề gì? Học sinh đó hồn nhiên trả lời: Bố con làm nghề bán đề ạ! – Trong đôi mắt tròn đen vốn ngây thơ của chúng, chỉ nhìn thấy bố (hoặc mẹ) làm công việc ấy để có tiền cho nó có nắm xôi buổi sáng, có quần áo mới để nó mặc đến trường. Nó đâu có biết rằng “nghề” ấy cũng chẳng đẹp đẽ gì, bị xã hội nhìn với cặp mắt không mấy thiện cảm.
Ở một quán nước vỉa hè. Trên chiếc bàn nhỏ chỏng chơ mấy lọ kẹo cao su, một hộp kính bày vài bao thuốc lá, dăm chai nước ngọt cùng mấy cái cốc. Chủ quán thường là những cô đã luống tuổi hoặc các ông đã mấp mé lục thập. Nắng bụi oi nồng hay gió mưa rét lạnh, họ vẫn ngồi. Lời lãi thu về chẳng đáng là bao. Họ ghi đề thêm để tăng thu nhập.
Không phải là tất cả nhưng phần lớn những quán nước đều ghi đề. Họ bán thuê cho chủ đề ăn phần trăm theo doanh thu (15/100). Một ngày nếu “đắt hàng” họ cũng được dăm chục. Chẳng phải bỏ vốn lại có tiền, chỉ mất tí công ghi chép.
Ngoài các điểm ghi đề ở quán nước, còn có đội ngũ ghi đề lưu động. Những người này đa phần là các chị tuổi đã sồn sồn. Họ la cà ở các ngõ xóm, các hàng quán quen (quán café, quán nhậu, kể cả ở các chợ). Lực lượng này bán được nhiều hơn, vì họ chịu khó mời chào.
Ngoài ra, còn có những người ghi đề tại nhà. “Nhân sự” của lực lượng này là những vị trung niên, phần lớn là nam giới không có việc làm hoặc không muốn làm gì. Họ là những người có máu cờ bạc. Khách chơi đa phần là khách quen có thể gọi qua điện thoại trả tiền sau. Đội ngũ này ghi được nhiều nhất và cũng tệ hại nhất, vì họ có máu cờ bạc sẵn sàng “năm ăn, năm thua”, cần thiết thì “xanh chín” luôn ( con nào khách đánh nhiều, thấy ngon ăn là họ ôm luôn). Có những người đã điêu đứng vì “ôm đề”.
Trước giờ mở thưởng khoảng 30 phút, tất cả những người ghi đề thuê phải mang bảng ghi số và tiền đến nộp cho chủ đề, tiền công sẽ được trả ngay theo doanh thu. Khi có kết quả mở thưởng, người bán thuê tra bảng nếu có người trúng, họ sẽ đến nhà chủ đề lấy tiền trả cho người chơi.
Tôi có cậu em họ cũng nghi đề tại gia. Một buổi, tôi tạt vào chơi. Cậu em ở trong buồng bước ra, dáng mệt mỏi phờ phạc : Em chán lắm bác ạ!- Hắn ta nói- Em vừa bị “một quả” ôm mồm!...Tôi ngỡ ngàng:- Việc gì đấy? Hắn tặc lưỡi:- À…! Chuyện đề đóm ấy mà…!- Rồi tiếp:- Năm nay em bị sao “ Qủa Tạ” chiếu! Mất hơn ba chục triệu bác ạ !- Hấn bập một hơi thuốc, rồi tiếp:- Hôm kia, có thằng nửa đời ở ngõ trong, chơi con 04 những năm trăm ngàn. Không hiểu nó xoáy tiền ở đâu mà máu thế ?! Em nghi tích kê cho nó mà cười thầm trong bụng, vừa 04 ra tuần trước có mà ăn cái thổ tả!!! Em ôm 04 không nghi vào bảng. Đến khi có kết quả em như chết đứng. Đề về 04 mới khốn nạn chứ! Cái số của em đúng là bốc cứt! Vét cả nhà chưa nổi hai chục triệu, em phải khất nó đến hôm sau trả nốt. Cái mặt thằng nửa đời sưng lên “ông đừng có cò quay”. Thánh hoàng làng nhà mày, bố mày lại thèm cò quay! Đồ nhãi ranh..! Hôm sau em phải mang cái xe máy ra hiệu cầm đồ…- Hắn ngừng nói, nuốt cục tức vào trong. Rồi tiếp:- “Thị Nở” nhà em chì chiết cả đêm. Cáu tiết, em cho nó một đập, nó ngoác mồm như cháy nhà, em cho nó đập nữa... “mất điện” luôn!- Hắn ngừng nói, bập bập điếu thuốc, hai má hóp lại, đôi mắt trũng sâu, thâm quầng. Tôi nhìn bộ dạng của hắn mà thấy nhói trong lòng.
Chị H. ở khu Tân Mai. Đã vào hàng trên u40. Thị làm “nghề” ghi đề. Những ai không biết, hỏi thị làm gì, đều đươc trả lời :-Em làm tín dụng! “Văn phòng” chính của thị ở một quán bia nhỏ . Đã ngồi ở quán bia thì phải biết uống bia. Dĩ nhiên ! Thị không kém cạnh gì với lũ “sâu bia”, đến rượu thị còn uống được thì bia là cái “đinh”.
. Lũ đàn ông chơi đề là phụ, thích tếu táo với thị là chính. Tếu táo thì tếu táo. Có mất gì đâu! Miễn là các ổng cứ nộp “xiền” cho thị là được. “Cò không tiến” thì dẹp ra, không nói chuyện!
Thị đã có thâm niên trong “nghề” ba năm. Chồng thị làm thợ xây, thường xuyên vắng nhà, hai đứa con gái vẫn còn đi học. Bán đề thì phải lê la, khách chơi nếu trúng lại mời nhậu nhẹt. Bếp nhà thị chẳng mấy khi đỏ lửa. Hai đứa con đi học buổi sáng, trưa về không thấy mẹ đâu, chúng gọi vào di động . “Mẹ đang bận. Hai đứa ra đầu ngõ ăn bún chả nhé…Cứ ăn đi! Tiền sau !”. Đến chiều, thị lại bận! Giờ cao điểm thì về làm sao được. “Hai đứa dắt nhau ra ăn bún chả nhé!”. Hàng quen ấy mà, họ còn lạ gì con thị nữa.
Một tối, thị về muộn. Thấy con em nằm khoèo dưới đất ngủ, tivi vẫn mở oang oang, không thấy con chị đâu, gọi con dậy hỏi, nó bảo chị ấy đi từ chập tối. Thị điện thoại hỏi các nhà quen, đều trả lời không có. Thị hốt hoảng bổ đi tìm. Đến nhà con bé học cùng lớp, được biết, chúng rủ nhau đi hát karaoke. Thị đến quán karaoke, xộc thẳng lên gác thấy một lũ cả trai lẫn gái đang quắp vào nhau. Thế này thì có chết không cơ chứ! Con bé nhà thị mới 15 tuổi đầu…
Một cô hàng nước tâm sự với tôi : Em đến bỏ không bán đề nữa anh ạ! Kể ra cũng thêm thắt đồng ra đồng vào, nhưng không cẩn thận nhầm lẫn có mà đền ốm xương .Nhưng cái chính là các cháu đã lớn…Hôm vừa rồi, em tình cờ thấy trong cặp thằng lớn mẩu giấy ghi đề, em hỏi nó tiền ở đâu mà chơi, nó bảo tiền nhịn quà sáng. Em mắng nó. Nó cãi: “Mẹ còn bán đề còn nói gì nữa!”. Anh bảo có chết không kia chứ! Đến nước này thì em đến bỏ thôi! Em xin làm đại lý bán thêm sách báo anh ạ, có như thế mới dạy bảo được con!
Những người bán đề thuê phần lớn có hoàn cảnh khó khăn. Không có nghề chuyên môn gì. Kinh doanh thì đòi hỏi nhiều vốn. Cực chẳng đã mới phải vịn vào cái “nghề” ấy để kiếm sống tuy biết rằng chẳng hay ho gì.
Con bạch tuộc CHỦ ĐỀ đã sử dụng họ như những cái vòi để thọc vào tất cả các ngóc ngách cuộc sống, không buông tha một ai.
Thỉnh thoảng, chính quyền lại đi dẹp nạn lô đề ở các hàng quán. Thiết nghĩ. Đánh rắn giữa khúc thì chẳng mấy kết quả. Đánh rắn là phải đánh giập đầu!
KIM LÊ
Kim Lê
Chuyện vặt !
Gã tên là Sộp. cả xóm gọi gã là Sộp điên. Nhưng gã không phải là điên! Điên thì phải đập phá, xé quần xé áo lăn lộn, đi lang thang và thỉnh thoảng ngửa mặt nhìn ông giời cười. Gã chỉ hơi dở người. Có người bảo, vì hồi trẻ gã xem truyện nhiều quá, toàn loại truyện gã thuê ba xu một ngày. Mà bất kỳ cái gì khi đã “quá” đều nguy hiểm: Ăn nhiều quá hoá bội thực. Chơi nhiều quá đâm hỏng người. Làm nhiều quá thì lao lực.
Đằng này gã đọc nhiều quá. Đọc nhiều mà “tiêu hoá” được thì không sao, có khi lại giúp ích cho đời. Nhưng đằng này gã đọc như người ta nhồi gà, nhồi vịt, bất kể loại sách gì, thập cẩm ngũ tạng. Trong bụng gã đầy chữ, anh ách chữ, không tiêu hoá được nó mới chướng lên, ép vào lục phủ ngũ tạng, ảnh hưởng đến cơ quan trung ương. Gã bị “tẩu hoả nhập ma” từ đấy.
Bố mẹ Sộp mất đã lâu. Ông bố ngày xưa làm nghề bán giầy. Ông thường mua những đôi giầy cũ về mông má lại. Chiều tối, ông gánh hai nia giầy ra đầu ngã tư Mơ bán. Đủ các loại giầy: Giầy đinh của lính, giầy đơ cu lơ, giầy jôn, giầy mõm ngoé…Có những đôi ông bôi phẩm xanh đỏ xong đánh xi vào. Giầy tàng tàng thế mà vẫn có người mua. Ông thầu khoán mua đôi giầy đinh. Anh công tử bột mua đôi đơ cu lơ. Thày ký công sở mua đôi giầy jôn. Chỉ có vài hào một đôi, tuy cũ nhưng vẫn còn diện chán.
Mẹ Sộp, người cao ngẳng, lúc nào cũng vấn khăn vểnh trên đỉnh đầu. Khuôn mặt bà teo tóp, gò má cao, đôi mắt vằn đỏ, hút thuốc lào sòng sọc. Bà mắng chồng chửi con xơi xơi, giọng chua loét. Có lẽ Sộp thừa hưởng tính di truyền hơi rồ dại của bà mẹ?
Năm Sộp 14 tuổi thì ông bố qua đời. Năm sau, mẹ gã cũng theo chồng về chầu tiên tổ. Sẩy cha còn chú! Ông chú ruột Sộp có nghề bán thuốc rong trên tàu điện. Từ đó gã theo ông chú lang thang khắp bến tàu, bến xe bán đủ các loại thuốc: Thuốc ho, thuốc hen, thuốc bả chuột, ghẻ lở hắc lào, thổ tả kiết lỵ, cao con hổ, băng phiến…
Ông chú tên là Tê. Ông có năm cái răng bịt vàng, nên người ta thường gọi, ông Tê “năm răng vàng”.
Ông Tê “năm răng vàng” lúc nào cũng đeo kính đen, đầu chải bi xăng tin bóng mượt.
Ban ngày bán thuốc, đến tối ông Tê kiêm luôn nghề tẩm quất. Sộp đi trước, tay cắp chiếc chiếu một , ông Tê đi sau, cất giọng lanh lảnh “ai…quất!”, “quất…nào!”. Tiếng quất được kéo dài trong đêm, oằn lên như một tiếng roi vụt…
Năm Sộp 17 tuổi. Gã chuyển sang đẩy xe ba gác cùng ông cậu họ. Ông cậu có sở thích sưu tầm huy chương, huy hiệu. Kể ra sưu tầm để cất vào ngăn kéo là chuyện bình thường. Điều bất bình thường ở chỗ, ông đeo tất cả bộ sưu tầm ấy lên ngực: Huy chương lao động tiên tiến, huy chương chiến sĩ thi đua…Huy hiệu hồng tập tự, hội liên hiệp phụ nữ, có cả huy hiệu đoàn viên thanh niên… Có cái ông tự chế bằng sắt tây, cắt hình ngôi sao, sơn màu đỏ và buộc những tua chỉ vàng. Ông đeo lên ngực, đỏ ối , lủng lẳng. Có những cái đã cũ, ông thải ra cho Sộp. Ông bảo “đeo cho nó oách”.
Những khi không phải kéo xe ba gác, hai cậu cháu ưỡn ngực đi bát phố. Có ông khách người Liên Xô thấy vậy, giơ tay chào và cất giọng lơ lớ “xin chao anh hung!”,
* * *
Bây giờ Sộp đã trên bốn mươi.Chuyên nghề làm thuê gánh mướn, bám vào cái chợ mà sống, ai trả bao nhiêu cũng được, gã chỉ hì hì cười, có người đùa không trả, gã cũng hì hì cười. Ở đời giúp nhau là chính ấy mà, chuyện vặt! Gã bảo thế.
Sộp ở một mình. Hàng xóm có người nhà mất, chăn màn quần áo bỏ đi thì phí, gọi gã đến cho, gã không từ chối. Thành ra lại diện. Ngày lễ ngày tết, cũng quần dạ áo len, măng tô mũ phớt. Gã đi dạo khắp xóm. Người lạ nhìn thấy, bố dám bảo là gã dở người.
Lão Biều xóm trong ngâm bình rượu ngũ xà. Hai năm mở ra uống vẫn còn tanh. Lão cho Sộp cả bình lẫn rượu. Gã uống chẳng thấy tanh tẹo nào. Mồm nhà giàu bao giờ chẳng khó tính! Còn cái mồm hắn ăn uống tạp pí lù nó quen rồi. Làm gì mà chả ngon! Rượu ngũ xà quá ngon là đằng khác! Uống vào cảm thấy như có rắn cựa quậy trong mạch máu. Cứ gọi là khướt cò bợ.
Một hôm, không hiểu ngứa nghề hay muốn “tìm về dĩ vãng”. Sộp đeo kính đen, cầm chiếc gậy khua khoắng giả làm người mù, gã đi khắp xóm, mồm rao lổn nhổn: Ai…quất! Quất…nào! Tiếng rao quện vào nhau như một kẻ nhập đồng. Mọi người đổ xô ra nhìn, người già thở dài, trẻ con tí tởn bám theo sau.
Tay Phệ gọi vào. Thích thì chiều. Chuyện vặt ấy mà. Việc đó quá đơn giản. Những ngón nghề của ông chú gã trổ ra hết, cũng cua bò, tôm nhảy, lươn trườn. Tay Phệ nằm dính chặt xuống giường, mê lịm đi. Xong việc, Sộp được chiêu đãi chén rượu thuốc. Tay Phệ bảo:
- Cậu chuyển sang làm tẩm quất lại hoá hay. Tay nghề của cậu thủ thuật lắm.
- Thủ thuật cái mẹ gì. chuyện vặt ấy mà.
- Làm gì mà chẳng cần thủ thuật?- Phệ nói- Hồi tớ bán phở ở đầu ngõ, cứ chờ chị em nhà máy 8/3 tan ca về, tớ bắc chảo lên bếp phi tỏi thật thơm, cho quạt máy thổi thốc ra ngoài đường, thế là “bà chị ruột” kéo lại, không đi nổi nữa.
- Chuyện vặt..!- Sộp hì hì cười, ngật ngưỡng ra ngoài cửa còn quay lại: Khi nào thích thì gọi, chuyện vặt ấy mà!
Thế là từ đấy, gã kiêm luôn nghề tẩm quất. Hoá ra lại tươm. Cái xóm gã ở, phần lớn là dân buôn bán, cả ngày phơi mặt ra đường, chạy như cờ lông công. Tối về làm một chầu “quất”, ai mà chả sướng. Các bà, các cô suốt ngày ngồi chợ, xương cốt mỏi nhừ, tối về bảo gã “dần” cho một trận, cứ gọi là đứ đừ, sướng đến tận sáng hôm sau.
Cô Dung “si đa”. Người ta gọi thế ,không phải cô bị ết ệt gì. Cô chuyên nghề bán quần áo hàng thùng ngoài chợ. Vợ chồng cô bỏ nhau vì anh chồng lăng nhăng gái gú. Cô thuê căn nhà trong xóm Sộp để ở tạm. Anh chồng cay cú, đêm nào cũng đến trước cửa réo tên bố mẹ cô ra mà chửi. Cả xóm khó chịu lắm, nhưng chả ai dây với hủi. Mọi người sợ hủi không dám dây, còn Sộp thì sợ chó gì hủi. Gã vùng dậy chạy ra ngoài, chỉ tay vào mặt anh chồng:
- Mày im cái mồm! Cho bố mày ngủ!
- Á…à, thằng Sộp điên..! Láo..!
- Láo cái tổ cụ nhà mày..!
Gã chồm lên, túm tóc anh chồng lẻo khuẻo, thúc mạnh đầu gối vào ngực. Láo này! Láo này! Mọi người lúc đó mới túa ra. Anh chồng bị đau, thấy không lại được với cơn điên của Sộp, len lén cúp đuôi lỉnh đi. Mọi người đắc ý nhìn gã, Sộp cười hì hì:- Chuyện vặt ấy mà! Tôi mà thèm đánh nó cho bẩn tay!
* * *
Thị Len gánh nước thuê ngoài chợ. Người thấp bé, khuôn mặt nhàu nhĩ rất khó đoán tuổi. Thị quê ở Hưng Yên, không chồng, không con. Lên Hà Nội làm thuê gánh mướn ở chợ Bắc Qua, rửa bát quán phở, làm ô sin…Cuối cùng dạt đến cái chợ ven đô này.
Một buổi khuya cuối năm,mưa phùn rét mướt. Sộp đi tẩm quất cho vợ chồng tay Phệ về. Khi ngang qua cửa nhà Tư voi, chợt có tiếng gọi khẽ: Anh Sộp..! Anh Sộp..! Gã quay lại. Khi đến gần, thấy một người đang ngồi thu lu ngoài hiên, mình cuốn chiếc chăn mỏng, đầu chùm khăn kín mít chỉ hở hai con mắt.
- Ai thế này?- Gã cất tiếng hỏi.
- Em là…là Len đây mà…-Tiếng đáp run rẩy.
- Sao lại ra đây ngồi?
- Em bị mụ Tam đuổi… vì thiếu tiền trọ…
Gã ngẩn ra một lúc, rồi gằn tiếng:
- Tổ cụ mụ Tam!
Gã húng hắng ho, rồi xịt xịt mũi, gã xịt mũi đến lần ba, giọng trùng xuống:- Đi..! Đi về nhà tôi mà ngủ! -Thấy Len còn lừng khừng, gã cúi xuống kéo tay thị đứng lên: Đi..!- Gã quắc mắt, quát- Bảo có nghe không!!!
Sau đêm đó, Len chính thức “ở trọ” nhà Sộp. Thị không đi gánh nước thuê nữa, chuyển ra bán rau dưa ở đầu ngõ.
Giao thừa năm ấy, lần đầu tiên cả xóm thấy nhà Sộp bày lễ cúng trời đất ngoài cửa. Cũng có cả con gà ngậm hoa hồng, chai rượu cuốc lủi, nải chuối và hộp mứt…
Ngày ông công, ông táo năm Mậu Tí
Đường ra thành phố
Bà An chép miệng nói với con dâu:
- Chị xem thế nào nhờ người trông thằng Bi. Chứ tôi thì chịu! Trẻ thì hầu con, bây giờ già lại hầu cháu. Cả đời sấp ngửa chẳng có lúc nào rảnh rỗi!
Chị con dâu à ơi ru thằng Bi ngủ. Cất giọng khẽ khàng:
- Con tính gửi cháu ra mẫu giáo…
Bà An ngắt lời:
- Không được! Còn lạ gì các cô “nuôi dạy hổ” nữa. Thằng bé đã lười ăn. Quẳng ra đấy vài tháng có mà còn da bọc xương. Nhà tôi hiếm hoi, có phải gà vịt đâu mà quăng quật!
Chị con dâu lui hui đặt con xuống giường, thằng bé cựa mình ọ ẹ, chị khẽ vỗ ơi à, xong nghèn nghẹn nói:
- Hay con nhờ người thuê ô sin vậy…
Bà An sẵng giọng:
- Càng không được! Thời buổi người khôn của khó. Người thiên hạ làm sao mà tin được! Sểnh ra, nó khoắng một mẻ có mà đi ăn mày!
Chị con dâu lén thở dài. Bà An nhấp hụm nước rồi tiếp:
- Thôi thế này…! Để đến rằm tôi về quê kiếm một đứa giúp việc. Con cháu trong nhà còn yên tâm. Có mà đầy!
* * *
Bà An rẽ vào nhà cậu Tổn. Mang tiếng họ hàng, nhưng về quê mấy khi bà rẽ vào chơi. Nhà cửa tuềnh toàng, mấy đứa trẻ con ngáo ngơ nhìn bà khách. Vợ Tổn đang cho lợn ăn vội chạy lên, chùi qua loa hai tay vào mông quần, quơ chiếc khăn lau qua tấm phản gỗ mộc, mời bà An ngồi. Xong ngó lơ xuống bếp:- Huê! Sang chú Thuổng gọi thày mày về.- Bà An nhìn Huê le te ra cổng:- Lớn tướng rồi còn gì !- Vợ Tổn nói:- Trông như thế nhưng mà ổi luộc lắm bác ạ!
Có tiếng léo nhéo ngoài ngõ. Cậu Tổn về đến cổng đã lên tiếng:
- Bác An về chơi đấy ạ.
- Vâng…! Chào cậu. Dạo này nhàn nhã quá nhỉ !?
- Đang thất nghiệp dài dài đây bác ơi.- Tổn lòng khòng ngồi xuông mép phản, cặp mắt bợt đi- Đang đồng áng nó quen, bây giờ ở nhà người bấy đi bác ạ. Em mời nước bác- Xong chép miệng- Có mấy sào ruộng, nhà nước thu hồi làm dự án xây nhà máy. Nghe đâu liên doanh với Nhật nguyệt gì không biết.? Nhà em được đền bù hoa màu hơn chục triệu. Em bỏ một ít xây lại mộ các cụ cho khỏi tủi với vong linh tổ tiên. Còn lại, xoay ra nấu rượu lấy bã nuôi lợn. Trai tráng trong làng kéo nhau ra thành phố làm thuê và chạy xe ôm. Đàn bà con gái thì buôn bán rau dưa ở các chợ cóc…
Vợ Tổn nói chen:- Họ bảo xây nhà máy xong, sẽ tuyển con em trong vùng vào làm công nhân, đợi dài cổ vẫn ngổn ngang chả đâu vào đâu…
Cậu Tổn ngắt lời:- Ôi dào…! Ở bên Đôn-Tế kia kìa. Nhà máy xây xong, họ lấy những đứa ở đẩu ở đâu. Thanh niên làng, họ bảo mới thoát nạn mù chữ!
Bà An nói:- Tôi thấy quê mình bây giờ cũng nhộn nhịp. Có cả hàng in tờ nét, cả quán ca dao ô kê…!?
Cậu Tổn châm mồi lửa chưa kịp hút, dụi dụi đầu đóm vào nõ điếu:- Bác tính, có ít tiền đền bù chẳng biết làm gì, mở đại mấy quán để sau này chõm công nhân nhà máy. “Chiến lược lâu dài” đấy bác ạ. Trông thì lên nước thành thị lắm! Ô kê ô kề gì toàn thấy ông chủ ngồi hát và hút thuốc lào vặt. Quán điện tử chỉ ăn dỗ trẻ con, đến thày u trẻ con còn chạy ăn bạc mặt…! Ông Biều xóm ngoài đầu tư vào xay sát. Thóc lúa đâu mà xay sát? Suốt ngày ngồi đánh cờ và đuổi ruồi…
Vợ Tổn nuốt cái thở dài:- Nhà quê chúng em chỉ quen làm ruộng. Gìa có việc già, trẻ có việc trẻ. Bây giờ các bà nhàn rỗi, túm năm tụm ba buôn chuyện cả ngày…
Huê loanh quanh dưới bếp. Nghe loáng thoáng mọi người nói chuyện. Rồi tiếng bác An hỏi:- Cái Huê dạo này học hành thế nào? Tiếng dì nó nhanh nhẩu:- Cháu học hết lớp bẩy thì nhà em cho nghỉ. Bác tính, cảnh nhà neo bấn, em bị viêm đại tràng chỉ quanh quẩn con gà con lợn, vả lại còn nuôi ba em nó ăn học, tốn kém lắm bác ạ…!
Tiếng điếu cày sòng sọc. Thày nó lặng im không nói gì.
Rồi tiếng bác An rành rẽ:- Thằng cả nhà tôi vừa sinh cháu đầu lòng. Nhà cũng neo người. Hay là cậu mợ cho cái Huê lên ở với tôi. Ngoài tiền ăn, tiền mặc, mỗi tháng tôi cho cháu một triệu để đỡ đần cậu mợ.
Im lặng. Tiếng điếu cày lại rít lên. Lúc sau, tiếng thày nó lõm bõm:- Chỉ sợ cháu nó vụng về…Trông thế, mà vẫn còn ngờ nghệch lắm bác ạ...!
* * *
Huê năm nay 16 tuổi. Người phổng phao, khuôn mặt bầu bầu ưa nhìn. Nó mồ côi mẹ từ bé. Bố lấy vợ khác. Dì ghẻ con chồng như mặt giăng mặt giời.
Nó lên ở nhà bà An đã được nửa năm. Trông thằng Bi đã gần 3 tuổi mà vẫn ô ê chưa nói được câu nào. Chế độ ăn uống đã được mẹ nó ghi lên tấm bảng treo ở góc bếp:
Sáng: 8 giờ- Cháo tim gan xay nhỏ.
10 giờ- uống sữa.
12 giờ- Cháo thịt ninh nhừ với cà rốt, khoai tây.
Chiều: 2 giờ- Uống sữa.
4 giờ- Hạt sen ninh với thịt xay.
6 giờ- Cháo thịt gà xé nhỏ.
(Hoa quả ở tủ lạnh. Sau mỗi bữa lấy cho em ăn )
Huê chóng mặt vì cái thực đơn ấy. Ngoài ra, còn phải nấu hai bữa cơm, quét dọn lau chùi nhà cửa.
Từ hồi có Huê lên giúp việc, bà An nhàn rỗi cùng mấy bà bạn đi học nhẩy đầm, váy áo xúng xính. Ông An, trước là cán bộ hải quan, nay đã về hưu. Ông suốt ngày ở trên gác như một thày tu. Bà An bảo “ông ấy nghiên cứu tử vi tướng số, phong thuỷ phong hoả cái khỉ gió gì không biết!” Chị con dâu còn bảo “tao thấy ông ấy còn làm thơ tình, lai láng lắm mày ạ!”
Đến giờ ăn , ông An mới xuống. Cả bữa chẳng nói câu nào.Uống một chén rượu thuốc và hai bát cơm. Hôm nào cũng thế. Ông nhìn Huê, đôi mắt ánh lên như có mảnh chai. Huê cảm thấy gờn gợn trước cái nhìn ấy.
Bố cu Bi thì đi suốt ngày. Anh làm ở công ty du lịch. Ít khi ăn cơm nhà. Có hôm đến tận khuya mới về, sặc mùi bia rượu.
Phòng của Huê ở trên tầng bốn. Cả ngày với một lô một lốc công việc, xong xuôi cũng hơn 9 giờ tối. Huê mở cửa ra ban công nhìn xuống. Dòng người xe đi lại như mắc cửi. Mấy đứa con gái bằng tuổi Huê đang túm tụm trước cửa shop thời trang cười nói ríu rít. Quán café Ban Mê đèn xanh đỏ nhấp nháy, khách ra vào xúng xính váy áo như người đi dạ hội. Người thành phố sướng thật! Ăn trắng mặc trơn, chẳng phải lam lũ mà tiền vẫn rủng rỉnh. Chẳng bù cho quê nó, đầu tắt mặt tối , vặt mũi đút miệng không xong. Cứ trông ông bà An thì biết, hơn thày u nó dễ đến chục tuổi mà vẫn trẻ trung béo tốt hồng hào. Những bộ quần áo mẹ thằng Bi thải ra , toàn hàng hiệu , nằm mơ nó cũng không có. Lúc đầu ,lên ở nhà bà An nó còn bỡ ngỡ, phải mất một tháng nó mới làm quen những thiết bị trong nhà.: Nào điều hoà nhiệt độ, máy tắm nóng lạnh, máy giặt, lò vi sóng, nồi khử ô zôn, giường đấm bóp Vigen, máy hút bụi Hàn Quốc…Toàn những thiết bị hiện đại , ở quê nó đốt đuốc tìm cũng không có. Người thành phố sướng thật! Sướng quá đi!
Tuần trước, Huê gặp chị Cà ở quê lên bán rau ở chợ cóc. Nó vội mua mấy gói bánh qui gửi về cho lũ em. Chị Cà nhìn nó bảo :- Cơm gạo Hà Nội có khác, trông mày dạo này béo trắng đẹp ra bao nhiêu. Cố kiếm thằng chồng ở đây để mà đổi đời. Tao lên đây bán rau cỏ nhì nhằng, ngày cũng được ba chục, chỉ tội công an họ đuổi. Trước cả cái Tích con ông Sửu cùng đi, sau cái lần nó bị công an thu cả sọt rau củ, nó chán bỏ sang đi thu mua phế liệu.
Một lần, nó bị tụi nghiện lừa vào nhà kho bỏ hoang, định giở trò cưỡng hiếp, may mà có người đi qua, tụi nghiện bỏ chạy cuỗm theo cả túi tiền nó giắt ở cạp quần. À…! Mày có nhớ cái Lan không? Cái Lan kều ấy! Tháng trước, tao gặp nó, phấn son ăn diện không khác gái Hà Nội. Nghe đâu nó lên trên này làm ca ve đấy mày ạ! Thế mày bây giờ ở nhà bà An hử? Ở đấy sướng như tiên còn gì! Hôm nào tao rẽ vào chơi nhớ…
* * *
Sau khi cho cu Bi uống một chai sữa, Huê ru cho nó ngủ. Gìơ này mà mẹ nó chưa về. Đặt thằng bé xuống giường, chèn con gấu bông bên cạnh. Huê quay ra thì thấy bố thằng Bi bước vào. Cặp mắt một mí nheo nheo nhìn nó. Hắn móc chiếc di động trong túi quần ra, cất giọng è è:- Lại đây…lại đây , anh cho xem cái này…hay hay lắm!- Huê đến gần ngó vào máy, toàn cảnh nam nữ loã lồ đang vật nhau. Nó đỏ mặt:- Khiếp...! Em chịu thôi! Hắn quờ tay ôm chầm lấy Huê hôn hít. Mùi thuốc lá, mùi rượu, mùi mắm tôm hoai hoai phủ tràn mặt mũi. Nó hốt quá, vùng vẫy giằng đạp, thở hổn hển. Tay hắn vẫn ghì chặt, quặp chân đốn Huê ngã xuống đi văng. Hắn vồng lên, Huê oằn xuống ngạt thở…
Bỗng có tiếng chuông gọi cửa. Hắn vội nhả Huê ra, trườn xuống lảo đảo. Huê ngổm dậy sửa lại xống áo đầu tóc, sấp ngửa chạy xuống dưới nhà. Vợ hắn đứng ngoài cửa, gắt:- Làm gì mà lâu thế!? Nó cúi gằm mặt, không nói gì.
Từ lần ấy trở đi, Huê đều tránh mặt hắn. Tránh cặp mắt nheo nheo như muốn thôi miên con mồi.
Huê mơ hồ cảm thấy như có một cái gì rình rập luôn lơ lửng sắp chụp xuống đầu. Chỉ một tiếng động nhỏ sau lưng cũng làm nó giật mình hốt hoảng. Đi ngủ, nó phải cài chặt cửa, nhưng vẫn cảm thấy có người lén lút rình mò. Giấc ngủ chập chờn những cơn mộng mị, cái mặt nham nhở bành bạnh, cặp mắt ti hí của loài rắn, cái lưỡi chẻ đôi thè ra, thân hình nhờn nhợt cuốn chặt khiến nó nghẹt thở…
Nó ú ớ choàng tỉnh, người toát mồ hôi, co rúm người lại nhìn đồ vật trong phòng như những hình nhân kỳ quái muốn nuốt chửng nó. Nó nhắm mắt lại, tai ù đi vì những tiếng khè khè rả rích…
* * *
Huê múc cháo ra bát cho nguội. Thằng Bi đang nghịch đống đồ chơi, người nó trùng trục như cối đá lỗ. Huê cho chiếc đĩa “Xuân Mai” vào đầu máy. Thằng Bi có thói quen vừa ăn vừa nghe Xuân Mai hát.
Huê dỗ cho nó ăn. Thằng bé lúng búng trong miệng xong lại phun hết ra. -Ôí giời...! Cái thằng của nợ này! Không ăn, tao đổ cho chó nó ăn còn hơn!. Bà An xúng xính ở trên gác bước xuống:- Mày vừa nói gì thế? Bảo mãi rồi. Ăn nói phải có văn hoá. Bỏ ngay cái thói nhà quê tục tĩu đi! Huê xị mặt xuống. Nhà quê tục tĩu! Cả nhà bà cũng từ cái chốn tục tĩu ấy mà ra. Lúc đầu còn “bác bác cháu cháu”, về sau toàn “mày tao”. Trông thì đài các, ăn diện thế. Lúc nào cũng bảo “nhà này tôn ti nề nếp”.Hừ..! Tôi nhổ toẹt vào cái nề nếp nhà bà!
Bà An đi ra cửa còn ngoái lại:- Cho Bi ăn xong, bỏ quần áo vào máy giặt. Cái váy tao treo ở mắc, phải giặt tay, nghe không! Huê nhìn bà An lắc lư ra cổng, nó bĩu môi khẽ xì một tiếng.Trông thì đài các, ăn diện, thế mà…thế mà? Nó chợt nhớ tới chị Lan con bà Giổi ở quê. Tuần trước, nó xin về quê thăm nhà . Trên đường ra bến xe, khi ngang qua hàng karaoke, chị Lan chạy ra gọi giật nó lại. Trông chị trang điểm như diễn viên Hàn Quốc. Chị kéo nó vào trong quán, đãi nước cam và bánh ngọt. Chuyện trò ríu rít. Chị khen nó có dáng đẹp, ăn diện vào ối thằng xin chết. Chị bảo khi nào cần muốn gặp chị, cứ đến đây hỏi “Lan kều”. Ở ngoài đường nếu gặp, đố ai bảo chị làm ca ve!
Tiếng u ơ của thằng Bi cắt ngang dòng suy nghĩ của Huê. Nó đã ị ra bỉm. Huê tụt quần thằng bé. “Ăn cho lắm vào!”.
Huê vơ quần áo cho vào máy giặt. Nó gỡ chiếc váy treo ở mắc. Chiếc váy viền đăng ten ở cổ trông thật đẹp. Huê ướm thử vào người, xoay xoay người trước gương, xong bĩu môi… Chợt có tiếng động sau lưng. Nó giật mình quay lại. Ông An đứng lù lù trước cửa buồng tắm, ánh mắt ông như có mảnh chai cứa xoáy vào người nó. Lão kéo quần bỏ hẳn “cái của nợ” ra ngoài, nhăn nhở:- Có thích không!? Huê tái mét mặt, run lẩy bẩy. Lão chồm tới ôm ghì lấy Huê. Nó cong người thúc mạnh đầu gối. Lão nấc lên một tiếng, co rúm người lại, đổ ụp xuống. Huê cuống cuồng vùng thoát ra ngoài…
* * *
Huê bước thập thõm trên đường ra bến xe. Mắt nó ngấn nước. Khốn nạn như thế là cùng! Khốn nạn quá!Thằng con khốn nạn, thằng bố lại khốn nạn hơn! Toà nhà năm tầng đầy đủ tiện nghi. Bề ngoài thì đẹp đẽ lắm, sang trọng lắm..? Nó bỏ chạy ra ngoài ngay lúc ấy. Ra đến cổng vẫn còn ngoái lại sợ lão đuổi theo.
Nó sẽ về quê. Về để hứng chịu những lời nhiếc móc xỉ vả của dì ghẻ, với bộ mặt đanh lại, giọng nói chì chiết rít lên: Lười chảy thây! Như con trâu chương!...
Huê bước chông chênh, mắt nhoà ướt, cảm giác bải hoải rã rời. Dòng người vẫn lũ lượt nhộn nhịp…
Khi ngang qua hàng karaoke. Huê chợt nhớ tới chị Lan kều. Hai chân nó ríu lại. Hình như có một lực hút vô hình khiến nó không cất nổi chân. Huê nhìn vào trong qua tấm cửa kính thấy tối om om và sâu hun hút…
Không hề đơn giản
Trần phẩy nét cọ lên khuôn mặt thiếu nữ trong bức tranh, xong y lùi lại ngắm. Vẫn có cái gì đấy chưa ổn. Y quẳng cọ ngồi phệt xuống nền nhà, nheo nheo mắt nhìn bức tranh. Dáng ngồi được rồi, chân co chân duỗi tạo nên một tư thế nửa kín nửa hở. Cánh tay nuột dài để hờ hững lên bắp đùi căng tròn. Khuôn mặt nghiêng nghiêng hơi cúi xuống nhìn lọ hoa hồng . Bông hoa hơi úa, rụng mấy cánh đỏ tái trên bìa cuốn Kiều vàng sậm. Đằng sau là tấm màn voan mỏng phất phơ trên nền trời nhạt. Bố cục đẹp, màu sắc hài hoà, riêng khuôn mặt thiếu nữ vẫn chưa ổn, ngây ngây dại dại, đờ đẫn vô hồn.
Y châm tiếp điếu thuốc, khép hờ mắt, hình dung ra các cô gái mà y thường gặp. Có cô đẹp lộng lẫy, lộng lẫy đến sắc sảo không giấu nổi nét tinh quái ẩn sau đôi mắt. Có cô đẹp hiền dịu, hiền dịu đến thái quá, phủ lên một cái gì đấy của sự cam chịu. Có cô đẹp kiêu sa đài các, cái đài các quý phái bị vênh lên bởi lòng khinh thị…
Trần bập một hơi thuốc. Y mơ màng nhìn làn khói bảng lảng như giễu cợt cái bất lực của y. Có tiếng ho khan của vợ y đang chùm chăn ngủ. Trần đứng dậy mở hé cửa sổ. Một luồng gió lạnh khiến y khẽ rùng mình. Quán karaoke bên đường văng vẳng “hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi”.
* * *
Trần là một hoạ sĩ tự do. Danh từ “hoạ sĩ” là do y tự phong.Trước đây y làm nghề kẻ biển quảng cáo. Chán nghề kẻ biển, y chuyển sang vẽ truyền thần. Thời ấy, nghề truyền thần đang thịnh. Trần đã sống bằng nghề đó ngót hai mươi năm. Sau này, ảnh kỹ thuật số phát triển, khiến nghề truyền thần lụi dần. Nghề vẽ truyền thần như một võ sĩ hạng gà, so găng với gã khổng lồ “com pu tơ” cho nốc ao ngay từ hiệp một. Y như một thứ hàng lỗi mốt bị ném vào một xó.
Trần học hành dang dở, “đèn chả ra đèn, giăng chả ra giăng”. Nghề ngỗng không biết gì khác ngoài việc vẽ vời. Kinh doanh buôn bán thì y không có duyên. Vợ y đã phải nghỉ cơ quan để “về một cục”, mở quán tạp hoá nhỏ sinh sống.
Y thành ra người thừa. Lao động lam lũ không hợp với tạng người lẻo khẻo của y. Và y cũng không muốn. Tính sĩ diện vì cụ tổ y từng là cụ Quản, chỉ huy đội voi của triều đình. Đến ông nội y cũng đỗ tiến sĩ, từ quan về làm ông đồ gõ đầu trẻ. Đến đời bố y, nửa Tây nửa Tàu, tuy không nối được nghiệp nhà nhưng vẫn là viên chức sở đạc điền. Hồi trước, gia đình y thuộc hàng khá giả. Bà mẹ buôn tài bán đảm, bố y nhẩn nha tom chát cô đầu, tổ tôm chắn cạ. Có lần, ông xách cả ca táp tiền, mua vé máy bay khứ hồi (nhỡ có cháy túi thì còn đường về với vợ con) vào Casino Sài Gòn chơi.
Mẹ y từng kể. “Nếu bố mày không phá thì tao có thể mua mấy dãy nhà Hà Nội”. Như thế, dòng họ y “phú quý giật lùi” rồi còn gì!
Bây giờ y thất nghiệp nằm nhà vợ nuôi. Hay là trở lại nghề kẻ biển quảng cáo? Bây giờ ai người ta kẻ vẽ nữa, toàn cắt chữ và vẽ trên máy vi tính. Vi tính thì y i tờ mít ! Vả lại, tiền đâu mà đầu tư máy móc? Tí vốn còm của vợ y, chỉ xoay quanh mấy thứ tạp phẩm mà vẫn còn thiếu. Thời buổi “nhà nhà đục tường (để mở cửa hàng), người người xuống đường” Thế này mà y chịu chết! Y đâu có bất tài !? “Cầm, kỳ, thi, hoạ” y biết cả. Thời trước, các đám cưới thường chơi nhạc sống, y giữ một chân ghi ta trong ban nhạc xập xình. Y từng làm “phó nháy” chụp ảnh đám cưới, đám ma. Y từng vẽ tranh “Bờ Hồ”, vẽ cuốn thư bán trong dịp Tết. Y từng có thơ đăng báo. Y từng...! Y từng..!
Thế mà bây giờ y chịu chết..?
Mấy tay bạn y, chơi với nhau từ thời cởi truồng dạo này cũng ít lai vãng. Ở đời, phù Thịnh mấy ai phù Suy! Nằm bẹp mãi ở nhà cũng chán, Trần lang thang ra phố. Y cảm thấy lạc lõng cô đơn giữa đám đông người. Y cứ đi… Đi mà không ý thức được mình đi đâu. Bước chân vô định đưa y ngang qua một phòng triển lãm. Y rẽ vào. Thế giới của màu sắc và hình thể. Những bức vẽ nguệch ngoạc theo phong cách trừu tượng, những mảng màu rối rắm theo trường phái ấn tượng, những bức chân dung vẹo vọ không hề giống ai…Thế mà tác giả cũng đề giá vài trăm Đô, thậm chí cả ngàn Đô. Vẽ thế này thì y nhắm mắt cũng vẽ được! Khả năng của y có thể vẽ hơn thế! Và trong đầu y chợt nảy ra một ý tưởng. Sẽ kiếm sống bằng nghề vẽ tranh.
Trần về nhà nói ý định của mình với vợ. Vợ y gạt phắt:
- Thôi, tôi xin ông! Ông cứ ra đầu ngõ chạy xe ôm, ngày cũng được dăm chục!
- Vớ vẩn. Nhà này từ xưa đến nay chỉ làm thày, không ai làm tớ thiên hạ, nhớ !
- Đói dài họng còn sĩ!
Y cố nuốt cục tức vào trong, hạ giọng:
- Chúng nó vẽ như đồ trẻ con, bán mỗi bức một, hai trăm Đô. Tôi còn vẽ hơn thế! Chả nhẽ bó tay à?
Vợ y trùng xuống, giọng hoài nghi:
- Thấy người ta ăn khoai, cũng vác mai đi đào. Liệu có bán được không…?
- Không bán được ,tôi đi đầu xuống đất!
Vợ y cũng xuôi xuôi. Thôi mặc xác cho hắn làm, biết đâu ông giời mở cửa cho thì mình cũng mát mặt. Thị mở hầu bao, chi ra ít vốn để chồng bắt đầu “sự nghiệp”.
Từ đó, Trần đóng cửa ở trên gác, cần mẫn với công việc của mình. Yvẽ đủ các thể loại: Tĩnh vật, phong cảnh, chân dung… Đủ các trường phái: Hiện thực, siêu thực, trừu tượng, ấn tượng…Có những bức y nhắm mắt vãi màu lên toan rồi bôi bôi quyệt quyệt, tạo ra những hoà sắc hoàn toàn ngẫu hứng. Có những bức y chép theo ảnh của những tạp chí “Người đẹp”.
Y lấy làm tâm đắc lắm.
Y mời mấy tay bạn đến để bình phẩm. Sau khi đã tây tây vài chén, Phú “lùn” bảo:
- Ông vẽ giỏi lắm! Cứ y như thật.
Vinh “béo” gật gù:
- Đúng là tinh hoa phát lộ!
Hùng “Tây” hào sảng:
- Gô Ganh, Van Gốc đến thế là cùng!
Y thấy lâng lâng như người mất trọng lượng. Chà…chà..! Những lời nhận xét mới chí tình làm sao…
Thế mà giờ đây, tài năng của y bị chững lại trước bức tranh thiếu nữ khoả thân. Dáng người tuyệt vời! Bộ ngực hoàn mỹ trên cả tuyệt vời! Cặp đùi dài thon không chê vào đâu được. Chỉ còn khuôn mặt là chưa ổn. Y khẽ thở dài. Trên giường, vợ y chùm chăn ngủ, thị thở khò khè vì chứng viêm xoang mãn tính. Chiếc đồng hồ quả lắc bính boong điểm hai tiếng. Y vươn vai ngáp , xong sà xuống đống tạp chí lục tìm. Những khuôn mặt vô hồn như manơcanh, những cặp mắt lờ đờ hoang dại, những cái mồm toe toét vô duyên. Y hờ hững lật từng trang ấn phẩm “Người mẫu”. Bỗng mắt y sáng lên. Một khuôn mặt hiền dịu hơi cúi xuống, sự hiền dịu đến bâng khuâng một nỗi buồn nao lòng. Đúng ý đồ của y. Trần vội vàng đến bên giá vẽ, sửa lại khuôn mặt thiếu nữ giống hệt cô gái trong ấn phẩm.
Hoàn tất công việc thì cũng tang tảng sáng. Y hí hoáy ký tên mình dưới góc phải bức tranh. Bức tranh có tựa đề là “nude”.
* * *
Công việc cuối cùng là công bố tác phẩm, hay nói một cách trần tục là kiếm một chỗ bày tranh để bán. Các mối quan hệ được huy động. Vinh “béo” có ông anh cọc chèo làm sếp ở một phòng triển lãm, đồng ý cho y bày năm bức.
Y chọn ra năm bức ưng ý nhất: Một bức phố cổ bằng sơn dầu, hai bức bột màu vẽ tĩnh vật, một bức thuốc nước cảnh Hồ Gươm chiều thu, cuối cùng là bức “nude” vẽ sơn dầu trên ván ép.
…Đến ngày thứ ba sau khi bày tranh, có hai thiếu nữ ăn mặc rất mốt bước vào phòng triển lãm. Họ lượn một vòng và dừng lại trước bức “nude”. Họ xì xào với nhau và khúch khích cười. Trần ngồi góc phòng giả vờ xem báo. Chẳng có gì đáng cười cả, vẻ đẹp nghệ thuật đâu phải tranh biếm hoạ mà cười! Hai thiếu nữ liếc nhìn y, rồi ríu nhau ra cửa còn khúc khích cười. Trần nhìn lại bức “nude”. Có gì đáng cười nhỉ? À phải rồi ! Bộ ngực và cặp đùi cô gái y tả quá phồn thực. Cái đẹp của tạo hoá đâu phải chỉ để cười!? Mà có cười cũng chẳng sao ! Làm cho mọi người đỡ già đi!
Hai ngày hôm sau. Một chiếc Taxi đỗ xịch trước cửa phòng tranh. Bước xuống là một thiếu nữ dáng dong dỏng, đội mũ rộng vành, đeo cặp kính dâm bự trảng. Cô bước vào phòng triển lãm nhìn quanh, rồi tiến đến bức “nude”. Cô ngó Trần đang ngồi uể oải đốt thuốc. Y đứng dậy đến bên cô gái nở nụ cười tiếp thị.
- Bức tranh này giá bao nhiêu , anh?- Cô gái chỉ vào bức “nude”, giọng lạnh lùng.
- Hai trăm Đô cô ạ!- Trần hí hửng.
Cô gái khẽ cắn môi, rồi quả quyết:
- Tôi mua bức này !
Trần lóng ngóng gỡ bức tranh xuống, lóng ngóng lấy giấy bọc lại, trao cho khách. Cô gái mở bóp lấy ra hai tờ 100 đô trả cho y, nét mặt không hề biểu lộ cảm xúc.
* * *
Tác phẩm đầu tiên bán được. Tiền cũng quan trọng. Nhưng quan trọng hơn là có người thích tác phẩm của mình. Một niềm sung sướng hân hoan không cần gì phải che dấu. Trần nghĩ đến viễn cảnh trước mắt, người y râm ran hệt lần đầu tiếp xúc với cơ thể phụ nữ. Như thế là y đã tìm ra chỗ đứng của mình, tự khẳng định mình. Y sẽ miệt mài vẽ nhiều hơn, y sẽ mở riêng một phòng triển lãm, y sẽ in danh thiếp, in vựng tập tranh của y bằng giấy màu khổ lớn, y sẽ tiếp thị không những ở trong nước mà còn quảng bá ra nước ngoài, tiếp cận với nền mỹ thuật thế giới. Y sẽ nổi tiếng. Ôi cái tên…cái tên! Trời đất đặt ra đâu phải để lu mờ dặt dẹo cùng năm tháng.
Trần treo tranh đầy phòng khách, cũng là một cách tiếp thị và khoe với thiên hạ tài năng của mình. Quán nước bà Sáu là trung tâm thông tin cả xóm. Tư “còm” làm nghề cắt tóc bảo : “Tay ấy vẽ giỏi lắm đấy, có bức tranh bán được hai trăm đô.” Bà Sáu xuýt xoa: “Cứ đà này nhà nó chẳng mấy chốc mà giàu !”. Ông Cương bán vé số tặc lưỡi: “Tranh ấy cho tôi cũng chẳng đắt, toàn vẽ nhăng quậy.” Tư “còm” ra điều hiểu biết: “ Tranh của nó toàn bán cho Tây đấy ông ạ, ngữ ông và tôi như nhìn bức vách, biết gì !”.
Qủa thực, có nhiều bức trừu tượng đến Trần cũng không hiểu mình vẽ cái gì. Lộn bức tranh xuống nhìn cũng được, quay dọc quay ngang nhìn cũng chẳng sao. Thôi thì cứ gắn đại cho nó cái tên “bố cục”. Nghệ thuật cao siêu là phải như thế ! Không hề giống ai!
Thằng con mười tuổi bảo: “Con chỉ thích bố vẽ miêng dưa hấu, trông ngon ngon là, cứ như ăn được!”. Trần rụt đầu lè lưỡi: “Ăn thua gì! Đấy là vẽ theo lối tả thực, tao sắp vẽ một bức siêu siêu thực, trông mới khủng khiếp !”
* * *
Trần ngồi trầm ngâm ở quán café . Hai trăm đô bán bức “nude” đã hết. Đúng là “ tiền vào nhà khó…”. Tranh thì chưa bán thêm được cái nào . Y đã mang gửi cả mấy Gallery trên phố. Tình hình vẫn im ắng, không có gì hứa hẹn sáng sủa hơn.
Vợ y đã bắt đầu sưng mặt, thị làu bàu: “Hay mang ra vỉa hè Bà Triệu bày bán, tôi thấy ở đấy người ta bán đầy.” Y sa sầm mặt . Dở hơi! Chẳng biết gì cả ! Y im lặng chẳng thèm giải thích . Như thế còn ra thể thống gì nữa ! Tranh nghệ thuật bày lẫn hàng chợ, toàn loại rẻ tiền ! Cái tên “Hoạ sĩ Trần” ngang bằng ném cho chó nó gặm!
Thôi thì cứ đợi xem. Biết đâu gặp một ông Tây, ông Tàu nào đấy nhận ra giá trị tác phẩm của mình. Nghĩ đến bức “nude” bán được, y lại tự an ủi. Dù sao cũng có người hâm mộ tài năng của y. Chắc bức đó được treo trang trọng ở phòng khách hoặc một nơi tương tự. Mọi người ngắm nhìn trầm trồ, rồi họ đọc tên tác giả ký dưới bức tranh. Cũng là để lại một cái tên cho người đời ngưỡng mộ.
Trần tạt vào hàng “quẩy nóng” . Chủ quán là một gã trung niên dáng người khắc khổ. Tiếng xèo xèo chảo mỡ, mùi thơm ngầy ngậy của quẩy như an ủi y. Trần chọn chỗ ngồi gần bếp cho ấm . Một chiếc bảng gỗ che trước bếp cho khỏi gió. Y nghiêng đầu ngó bên trong tấm bảng, tuy bị ố lem nhem và sạm đi bởi vệt dầu mỡ nhưng y vẫn nhận ra đó là một bức tranh. Đích thị một bức tranh ! Của quý thế này sao lại phí phạm thế !? “Anh cho xem nhờ tý”, y nói với tay chủ quán, xong nhấc tấm bảng lên. Một bức tranh sơn dầu. Y lấy giấy ăn lau vết bẩn trên mặt tranh. Hình cô gái bị bỏng rộp loang lổ, khuôn mặt bị vết sơn đen bôi quệt nhằng nhịt. Y run run lau sạch góc phải bức tranh, chữ ký của y hiện ra rõ mồn một. Y cảm thấy chơi vơi như người mất trọng lượng. Tiêng gã chủ quán phập phù bên tai “Cô người mẫu nhà bên ném ra xe rác, em nhặt về che bếp cho khỏi gió”
Mẹ kiếp! Buôn bán gì cho lại
Bà hàng xóm dẫn đứa cháu sang mách:
- Cậu cả đâu rồi! Thằng Bốp đánh con Chíp nhà tôi đây này!
Cơn nóng bực bốc lên đầu. Hắn quát thằng con:
- Bốp! Vào nhà ngay! Có vào không? Bỏ bố mày bây giờ!
Thằng Bốp len lén nhìn bố. Nó nhẩy lên giường thu lu như một con chó. Hắn vớ cây phất trần:
- Tao bảo mày thế nào? Bốp! Nhót một cái đã tót ra ngoài đường. Hử..! Hử..!
Hắn trợn mắt.Răng nghiến lại. Sau mỗi câu “hử” là một con lươn lằn trên người thằng bé. Nó rúm người lại chịu đòn.
- Đứng dậy! Ra rửa mặt mũi chân tay!
Thằng bé run rẩy nhìn bố.
- Đứng dậy! Tao bảo mày có đứng dậy không?!
Vút…! Ngọn roi lại quật xuống. Lần này thằng bé đứng bật dậy, sụt sịt đi ra sân. Hắn đi theo vẫn chưa hả cơn bực.
Vợ hắn vẫn lúi húi làm cơm dưới bếp. Từ nãy đến giờ thị im lặng. Dơ không thèm nói. Không hiểu sao dạo này lại đổ đốn ra thế. Hơi một tý là điên điên khùng khùng. Nghe tụi trẻ mách, dạo này bố đánh “đề” hết bao nhiêu là tiền. Dây vào cái lô đề cờ bạc nó rạc rài hỏng người đi. Thảo nào ngót tháng nay không có một đồng, một kẽm nào đưa thị. Đi làm về là cáu cáu kỉnh kỉnh. Ăn xong, ngồi rù rù trên giường như bố già. Lại còn rượu chè nghiện ngập. Có đồng nào đem biếu các bố, các mẹ hết. Khổ quá, thị rít lên:
- Đánh chết đi! Đánh chết cả lũ chúng nó đi, rồi ở một mình cho sướng! Vợ con mà làm gì! Hôm nào cũng thế! Tối nào cũng thế! Chỉ tổ điếc tai hàng xóm…
- Câm ngay mồm! Vợ con gì! Của nợ của tội. Làm khổ ông!
Nghe hắn nói thế, thị tức anh ách:
- Làm ông vương, ông tướng gì! Công to việc lớn
gì ở cái nhà này! Nói thì ra dáng lắm...
“Ra dáng” này! Hắn vớ cái bát rếch ở trên bàn ném thẳng về phía vợ. Hắn cố tình ném trượt.
Quả nhiên, thủ thuật đó có tác dụng.
Vợ hắn im bặt. Tuy đanh đá là thế, nhưng thị rất rát đòn. Nói quá, hắn nổi khùng lên chỉ tổ dại. Vả lại, hắn vừa uống rượu mồm sực hơi men. Thôi thì, cơm sôi bớt lửa, nhịn hắn đi một tý. Chả ai cười.
*
Hắn hầm hầm đi lên trên nhà. Ngồi phịch xuống phản. Xong lại ngồi xổm lên, hai tay ôm đầu. Hắn thấy nhức đầu như búa bổ. Hừ..! Chỉ vì cái số “đề” khốn kiếp đã ngốn của hắn triệu bạc.
Chiều nay, đi làm về hắn rẽ vào quán ông Boong. Con Hạnh “lô đề” xoắn xít:
- Chào ông anh! Trông ông anh dạo này phong độ lắm!
- Phong cái con khỉ!
- Hì...hì..! Hôm nay ông anh kết con gì?
- Con “cái”!
- Tưởng gì. Có mà đầy! Ra Vọng tàu nhanh có hai trăm!
- Còn em?
- Thích thì chiều! Hì...hì! Hai trăm đô!
- Con lạy bà! Hai trăm đồng còn phải xét.
- kẹt sỉ thế?
- Quá date rồi!
- Hì...hì! Này! Làng hôm nay kết đít 9 đấy.
- Có thể. Đêm qua anh mày nằm mơ bị chó cắn.
- Chó là cẩu. Cẩu là 9. Anh giai được thần tài báo mộng rồi. “Cầu lửa” đấy!
Gã mắt ti hí ngồi cạnh bên, tóc cợn quá gáy, sau khi nốc cạn cốc rượu, khà một tiếng nói chen:
- Ông cứ nện con 09- 90 là cái chắc! Đề phòng “trứng vịt lộn”.
- Nhân bảo như Thần bảo! Hắn nhả một làn khói, lẩm bẩm- Đầu 0 đít 9. Đầu 9 đít 0. Nghe được đấy!
- Hì...hì! Quá được là đằng khác!
Hắn tặc lưỡi:
- Ghi cho anh con 09 ba trăm. Con 90 hai trăm. Xong chưa?
- Xong!
- Tiếp tục. Bao “lô” con 09 hai mươi lỗ.
Hạnh “lô đề” hí hoáy ghi vào mẩu giấy con con. Xong thị ngẩng lên:
- Của ông anh tất cả là chín trăm bốn bốn ngàn.
*
Gần đến giờ mở thưởng, quán ông Boong càng đông. Toàn dân đầu đít cờ bạc. Mấy con “sâu đề” đang thách đố nhau. Những con số được viết bằng phấn, bằng nước chè, bằng rượu trên mặt bàn bị những con số bằng mồm đánh át đi. Đứa nào cũng tỏ ra cao tay, nói như thánh phán. Ồn ào như chợ vỡ. Khói thuốc lá, thuốc lào phun ra liên tục. Rượu đầy lại vơi với các thứ mồi: Nem chua, lạc rang, nộm , vó bò, nem chạo...Khách hàng là đám người ngũ tạng. Đứa mặc áo rét, đứa mặc áo cộc, đứa phanh ngực, có đứa chỉ đánh trần cái quần xoọc.
Hạnh “lô đề” lúi húi ở góc phòng.
- Ghi cho anh con 46 Hạnh ơi!
- 46 - Rồi! Bao nhiêu?
- Một “lít”! (100.000 đ)
- Ghi tao con 54.
- Hả?
- Tai lòi! Năm- bốn!
- Bao nhiêu?
- “Lít gẫy”! ( 50.000đ)
*
Hắn ném mẩu thuốc hút dở bây giờ đắng nghét. Mẹ kiếp! Ra “đê” hết! Hắn hối hận. Biết thế quên mẹ nó đi cho nhanh. Đúng là bị chó cái cắn! Nó “đớp” của hắn hơn chục triệu trong vòng ngót tháng.
Cái giống cờ bạc càng cay cú càng chết. Nó tựa như cơn lốc xoáy. Thoạt đầu, hắn chỉ chơi cò con cho đỡ buồn. “Cờ bạc đãi tay mới”. Trúng! Hắn đánh đậm hơn. Lại trúng! Buôn bán gì cho lại! Thật ăn cướp không bằng! Hắn đâm ham. Bỏ bê công việc. Ngày nào không chơi thấy hụt hẫng khó chịu. Đầu óc lúc nào cũng lởn vởn những con số. Số tuổi người chết, số đít xe tang, số điện thoại đầu tiên trong ngày gọi vào máy hắn, số tiền ăn sáng người ta trả lại, số điện thoại tờ rơi gài vào xe máy... Rồi mộng mị chó gà chim chuột... Hắn quay cuồng trong cơn lốc xoáy rồi bị hút xuống lúc nào không biết.
Ngày trước, hắn đâu có thế.
Ngày trước, hắn chịu khó làm ăn với một cửa hàng quảng cáo nhỏ. Hắn “chân chỉ hạt bột”. Đến tá lả còn không biết chơi, nói gì đến cờ bạc lô đề. Rượu bia thi thoảng “văn nghệ” vui anh vui em chứ hắn không nghiện. Hắn thương vợ chiều con, ngày hai buổi đi làm về hắn dành tất cả cho “tổ ấm thương yêu ơi”.
Thế mà bây giờ hắn sinh ra đổ đốn.
Hắn sinh ra đổ đốn vì hay tạt vào quán lão Boong. Vì con Hạnh “lô đề”. Vì cả hắn nữa!
*
Vợ hắn lầm bầm dưới bếp. Hắn ngồi nghĩ vẩn vơ. Ừ...! Hắn sẽ bỏ đi vài ngày cho biết tay. Lại dám bảo hắn là đồ vô tích sự. Hắn sẽ ngủ tại cửa hàng, cơm hàng cháo chợ, “vợ” thì thiếu gì! Hắn sẽ bỏ đi. Xem mẹ con nhà mày làm ăn ra sao. Dám bảo hắn là đồ vô tích sự. Vô tích sự! Hừ..! Mẹ kiếp..!
Hắn khoác áo đi ra cửa.Trời cuối thu se se lạnh. Hắn khẽ rùng mình, lững thững ra khỏi ngõ. Ngoài đường người xe tấp nập. Hắn lủi thủi đi nép vào bên hè. Giờ này mọi nhà đang vào bữa chiều. Hắn thấy lạc lõng. Càng lạc lõng hơn khi ngang qua quán bia nhộn lên những dzô...dzô. Những ánh mắt nhìn hắn. Tất cả đều nhìn hắn. Người đi đường cũng nhìn hắn rồi cười ré lên chế riễu. Cười ré lên chế riễu dzô...dzô... ê... ê.
Mẹ kiếp!
Hắn móc điện thoại gọi cho thằng bạn.
- A lô! Mày đấy à. Gì đấy? ( tiếng ồn ào cười nói trong máy).
- Mày đang ở đâu đấy?
- Tao đang ở nhà. Hôm nay tổ chức sinh nhật bà xã. Có rỗi đến cho vui?
- Thôi! Tao bận...
Hắn thấy chạnh lòng. Hắn chưa bao giờ làm nổi một sinh nhật cho vợ.
Hắn cúi gằm mặt bước đi.
Khi ngang qua một quán phở. Mùi nước dùng ngào ngạt như trêu ghẹo cái dạ dày lép của hắn. Hắn định tạt vào nhưng bỗng sững lại. Trong quán, con Hạnh “lô đề” cùng mấy thằng “trùm sò” đang cười nói oang oang.
Hắn gằm mặt đi thẳng. Một cái gì nghèn nghẹn nơi cổ họng.
Mẹ kiếp!
Đúng là thằng còng nuôi thằng ngay ăn!
Rồi thì “Cầu lửa”! “Thần Tài gõ cửa”.
Mẹ kiếp! Ngu để cho chó nó đợp!
Hừ...! Buôn bán gì cho lại!
Mẹ kiếp! Rặt một lũ bố láo!
Đồ ngu! Ngu không để đâu hết ngu! Hắn tự đấm vào đầu mình.
*
Hắn quyết định quay về!
Về đến cửa. Thấy lũ con đang thơ thẩn chờ cơm. Hắn thấy cay cay nơi khoé mắt...
Vừa lúc vợ hắn lễ mễ bưng mâm lên. Hắn nhìn vợ, nở nụ cười gượng. Vợ hắn đặt mâm cơm xuống phản, giọng khàn khàn:
- Bố con ăn cơm trước đi. Tôi tranh thủ giũ chậu quần áo cho xong.
Đàn bà hay chóng quên. Mà có nhớ cũng giàu lòng vị tha.
Phú “ hin”
Chủ hãng nước mắm Đại Hải là Quản Trọng Phú. Mọi người thường gọi là Phú “hin”. Gã to thô, đầu húi cua, da mặt thiết bì sần lên những vết thâm, làm nền cho chiếc mũi sư tử chồm chỗm một cách mất lịch sự trên khuôn mặt hình quả lê. Khuôn mặt hình quả lê thì phần trán hẹp lại, phần má phình ra, ép vào cái mồm làm cho nó bị lép vế một cách thảm hại. Ngược lại, đôi mắt ốc nhồi của gã không chịu kém miếng với cái mũi, nó thao láo và luôn đùn dử hai bên khoé mắt . Gã gắn lên đôi mắt kém thẩm mỹ ấy một cặp kính không số.
Xấu đẹp về hình thức có thể châm chước được. Nhưng đằng này, gã xấu cả về tính nết. Phú “hin” là một đại gia! Điều này không cần bàn cãi! Nhưng tính nết của gã không hề có chút đại gia nào! Đi tiệc tùng cỗ bàn ở đâu, khi ngồi vào bàn tiệc, việc đầu tiên của gã là cầm bất cứ một đĩa thức ăn nào mà gã nghi vấn đưa lên mũi…ngửi. Gã chun chun mũi và phán một câu rất ư hồn nhiên: Ư…ừ! Món này có mùi!- Gia chủ thoáng chút tự ái kiểm tra lại, vẫn không tin vào cái mũi của mình đưa cho người khác kiểm tra thêm. Kết luận không có vấn đề gì! Nhưng bao giờ thực khách cũng bị “tự kỷ ám thị”, đĩa thức ăn ấy ít được đụng đến. Ăn xong xỉa răng là chuyện bình thường. Nhưng đối với gã, khi xong công việc “vệ sinh” ấy, gã thường đưa đầu tăm lên mũi… ngửi. Có ông bạn nối khố góp ý: Này! Con khỉ! Bạ cái gì mày cũng đưa lên mũi ngửi là thế nào? Gã cười hơ hớ: Thằng này nói đến lạ! Trời sinh ra cái mũi để làm gì?
Dù sao, những cái đấy thuộc về thói quen sinh hoạt. Cái đáng trách là thói bần tiện thâm căn cố đế đã ăn sâu vào máu thịt của gã. Phú “hin” thường trích dẫn câu của sư phụ Nguyễn văn Chẩn (vua lốp ở Hà Nội một thời). “ Mỗi lần tôi phải rút ví ra là cảm thấy như… đứt từng khúc ruột!”.
Phú “hin” bần tiện ngay cả với con người của gã. Ăn sáng, không bao giờ gã cho phép vượt ngưỡng mười ngàn. Ổ bánh mỳ chấm đường, nắm xôi lúa hoặc đĩa bánh cuốn Thanh Trì là thực đơn thường ngày của gã. Thứ bảy,chủ nhật mới có tiêu chuẩn phở. Gã cất công lên tận Mơ để ăn phở“Nhất”.Không phải phở “Nhất” ngon, mà chính là phở ở đấy rẻ! Bát phở sốt vang đầy tú hụ chỉ có mười ngàn. Thời bao cấp lấy đâu ra mà ăn ngon như thế? Buổi sáng, gã cứ nống vào bụng hai chai 65 nước đun sôi để nguội rồi đi làm mà chẳng hề hấn gì.
Cái mặc đối với Phú “hin” thì quá đơn giản. Lễ tết tiệc tùng gã tứ thời đóng chiếc vét tông hàng thùng mua ở chợ Kim Liên. Gã không bao giờ “ngớ ngẩn” bỏ ra tiền triệu để mua những đôi giầy. Giầy của gã chỉ có vài chục một đôi, gã mua ở vỉa hè phố Kim Ngưu, nơi tụi câu giầy trộm bày bán.
Kể ra, căn cơ tằn tiện là tính tốt. Nhưng căn cơ tằn tiện đến mức bủn xỉn thì không nên. Phú “hin” giàu nứt đố đổ vách! Nhưng anh em họ hàng đừng có mà xơ múi. “Hãy tự làm lấy mà ăn , đồ lười lao động!” Gã thường bảo thế.
***
Mẹ Phú “hin” mất. Ngoảnh đi ngoảnh lại đã được ba năm đến kỳ thay áo. Chiều hôm trước, gã về quê thuê mấy đứa cháu họ phạt nấm, kênh nắp ván thiên để sáng mai bốc sớm. Nhờ ông chú họ làm vài chục mâm để mời khách khứa họ hàng. Toàn những việc phải mó đến đồng tiền .Gã là con trưởng bỏ ra một nửa, còn lại chia đều cho cô em và chú út. Gã bảo: Mẹ là mẹ chung! Trả nghĩa mẹ lần cuối, hai đứa phải có nghĩa vụ đóng góp!
Cô em lấy phải anh chồng nghèo, vặt mũi đút miệng không xong. Chú út làm thuê cho gã, lương tháng hai triệu, gã trừ béng năm trăm cơm nuôi một bữa.Gã tặc lưỡi: “Anh em kiến giả nhất phận! Phải tự lực cánh sinh, không được ỷ lại !”.
Bốn giờ sáng hôm đó, anh em, con cháu, họ hàng lục đục kéo nhau ra ngoài đồng. Khi mở nắp ván thiên, nước lưng lửng quan tài Tư “còm”, chuyên nghề bốc mả nhảy xuống để nhặt xương. Xương ống chân, ống tay, rẻ sườn được chuyển lên cho người ngồi trên rửa nước thơm xếp vào tiểu. Tư “còm” khua khoắng một hồi, rồi ngẩng lên hốt hoảng:
- Không thấy cái sọ đâu…? Anh Phú…!
- Sao…?
- Em đã mò kỹ, không thấy cái sọ của cụ…
- …?...?...?
Mọi người nhao nhao lên, gã hoảng hốt giục lấy chậu tát nước. Khi nước còn sâm sấp, thì quả nhiên thấy mất đi cái sọ. Mọi người xôn xao. Công việc, giờ giấc, cỗ bàn đã được sắp xếp đâu vào đấy. Bây giờ lại xẩy ra sự cố…?
Lão Nham thầy cúng thì thào :
- Thôi chết rồi…! Đêm qua, kênh ván thiên mà không cử người canh…
- Sao…? Ông bảo sao ? - Phú “hin” thảng thốt hỏi lại - Có kẻ lấy trộm hả…?
- Chứ còn gì nữa! Tụi nghiện thì chúng có ngán cái gì…?!
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Ờ! Tụi nghiện thì chẳng ngán cái gì thật! Đến mả bố chúng mà đào lên để có tiền hút thì chúng vẫn đào!
…Bỗng chiếc Nokia của Phú “hin” rung lên, nhạc chuông “tiếng chày trên soóc Bom Bo” như trêu tức.
Gã móc máy, giọng gắt lên:
- A lô!
Đầu máy bên kia cất tiếng nhờn nhợt:
- Chào sếp! Sếp không biết em, nhưng em biết rõ về sếp!...
- Mày là đứa nào?
- Em là đứa đã mượn tạm cái “hoa cái” của cụ. Chỉ xin sếp ít tiền thôi…
- À…! Thì ra lũ khố dây..! lũ ma xó!... lũ ma cà chớp! lũ ăn mày… ăn nhặt!
- Hề…hề! Sếp muốn gọi tụi em là lũ gì cũng được!...
Gã hạ giọng:
- Chúng mày định xin đểu bao nhiêu?
- Tụi em chỉ xin sếp năm triệu thôi mà…
Gã giẫy nẩy:
- Năm triệu!...Tao có đào mả tổ chúng mày lên cũng không có từng ấy tiền!
- Hề…hề! Sếp lại “Trần Quấy” rồi! Năm triệu đối với sếp như muỗi đốt inox…
Gã bực mình tắt máy.
Mọi người xôn xao. Đúng là lũ khố đỉn, chúng dồn người ta vào thế bí.
…Gã ngồi thụp xuống bờ ruộng. Chỏm mũi sư tử tím tái lại. Tại sao chúng lại biết số phone của mình? À..! Đầu với óc! Trên kính hậu xe con có ghi tên hãng và số máy...
Cô em và chú út lại bên ông anh, cất giọng lo lắng:
-Bây giờ tính sao, bác cả?
Gã gắt lên:
- Còn tính sao nữa. Tiền đ…đâu ra mà chuộc ?!
Cô em nhìn chú út thở dài. Chú út nhìn ông anh. Lúc sau gằn giọng:
Thôi thế này! Ông cứ ứng tiền ra, xong về tôi chịu tất! Được chưa?
Phú “hin” chề môi , ghé sát tai thằng em thì thầm:
- Mày nói thật hay đùa đấy? Ngữ mày, móc đít bảy ngày không thấy cứt!…sĩ diện!
Chú út tím mặt...
Chiếc Nokia của gã lại đổ chuông:
- A lô!
Đầu máy bên kia, tiếng khào khào như mèo rên:
- Thế nào sếp? Còn nghĩ ngợi gì nữa, sắp qua giờ hoàng đạo rồi…
- Nghĩ cái mả mẹ chúng mày!
- …?
Gã tặc lưỡi:
- Thôi..! Tao thí hồ thí cháo cho chúng mày hai triệu.
- Trời đất quỷ thần ơi! Mang tiếng là “Phú” sao sếp ”hin” thế!
...Tút...tút...tút! Đầu bên kia tắt máy.
Mọi người lo lắng nhìn nhau. Phía đằng đông, trời đã hưng hửng.
... Phú ”hin” nhổ toẹt bãi nước bọt. Lúc sau, gã bấm vào số máy vừa gọi, giọng uất lên:
- Lũ chó chết !...Tao cho thêm năm trăm! Nếu không đồng ý thì mang về đặt lên bàn thờ tổ chúng mày mà thờ!
Cuối cùng, bọn nghiện phải xuống thang. Chúng bảo gã mang tiền ra miếu cô hồn, để ở dưới chân bát nhang. Lấy tiền xong, chúng báo cho gã nơi để sọ của cụ. Mọi người vội vã kéo nhau ra, chiếc sọ của mẹ gã vứt lăn lóc chân bờ rào sau chùa
***
Hôm nay là ngày ông công ông táo lên chầu giời. Nhà Phú “hin” cũng làm một mâm để cúng. Thiên hạ đổ đi mua cá chép vàng, cá chép đỏ, cúng xong đổ xuống hồ ao. Đúng là một lũ cuồng tín, lãng phí dở hơi! Nhà gã chỉ làm mấy con cá giấy kèm trong túi đồ mã “hai ông một bà”mua của tụi gánh rong. Cúng xong, gã sai ôsin mang vàng đi hoá ở góc sân. Ôsin hoá thế nào dội nước không kỹ, lúc sau ngọn lửa âm ỉ gặp gió bùng lên, bén vào bộ quần áo bảo hộ vắt trên đống can nhựa. Khi đó Phú “hin” đang ngủ gật trên sofa ở lầu hai. Ôsin lúi húi lau chùi quét dọn nhà ngoài, khi ngửi thấy mùi khét, nó chạy vào thì lửa đã lan sang tấm bạt che hàng cháy lem lém. nó hốt hoảng chạy lên lầu gọi ông chủ. Phú “hin” vẫn chưa tỉnh cơn say, gã ú ớ loạng choạng lúc sau mới hồi trí lao xuống cầu thang, trượt chân ngã lông lốc từ trên tầng hai xuống…
Hậu quả vụ hoả hoạn thiệt hại không đáng kể. Cái đang kể là ông chủ bị chấn thương sọ não.
Từ đó, Phú “hin” chỉ quanh quẩn ở nhà. Lúc nào gã cũng khoác chiếc vét tông hàng thùng, cổ thắt cà vạt nghiêm chỉnh, nhưng ở dưới ,gã lại đánh chiếc quần đùi. Gã thường đứng ở chân cầu thang nhìn khách vào mua bán, bất kể quen hay lạ, đàn ông hay đàn bà, gã đều giơ tay chào, xong toét miệng ra cười…
Thi thoảng với bộ cánh như thế, gã đi dạo phố. Gã thủ sẵn ở nhà những cọc tiền lẻ, khi qua bất kỳ một cửa nhà nào, gã đều nhét vào khe cửa những đồng năm trăm, một nghìn…, giống như những người đi rải tờ rơi.
***
. Vào một buổi chiều hè oi bức. Bên thành cầu Long Biên, người ta thấy một gã đàn ông vận vét tông, đeo cà vạt, đóng quần đùi, cầm những xếp tiền ném xuống sông. Có những tờ ngược chiều gió rớt xuống đường. Người đi đường cúi xuống nhặt, ngạc nhiên! Toàn là tiền mệnh giá cao. Một trăm, hai trăm, năm trăm. Tiền giả? Thằng cha phi tang tiền giả? Hai viên cảnh sát ở đầu cầu có người báo, vội phóng xe đến, mời gã đàn ông về đồn giải quyết. Toàn bộ số tiền trong người gã được lấy ra. Khi kiểm tra bằng đèn soi, số tiền đó đích thị do Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành!
Hai tay trật tự thầm thì với nhau: “Thằng cha bị điên! Nhưng mà điên tỷ phú!”.
Quá Khứ Và Hiện Tại
Quán miến lươn của cô Hồng ngoài thị trấn, lúc nào cũng đông khách. Phần lớn là cánh lái xe.
Miến lươn của cô ngon, được chế biến khéo, cô Hồng lại xinh xắn, khéo chiều khách. Ông nào khó tính đến đâu, vào quán cô cũng trở lên dễ tính. Có ông đùa: Miến của em ngon, nhưng anh thấy “lươn” của em còn ngon hơn ! Cô Hồng chỉ cười: Bác cũng sành mồm. Hàng nhà em là loại hương đồng gió nội, đâu phải nuôi bằng cám gà! Ông khác lại nói: Thảo nào. Mồm nhai, tai nghe, mắt nhòm, sướng đến run cả lưỡi ! Cô Hồng lúng liếng: Bác run ít thôi, chứ run nhiều quá bác gái bắt đền em thì chết ! Ông khách cười hơ hớ: Em yên tâm đi ! Anh là cầu thủ đội Camerun mà. Vua phá lưới đấy em ạ !
Cứ tếu táo như thế, bông phèng như thế, khách nào mà chả thích ! Nhất là cánh lái xe lại càng thích ! Khi mà đã thích rồi, chủ quán tính tiền hơi cao một tí cũng “no” vấn đề.
Minh- chồng cô Hồng, lái xe chở vật liệu xây dựng. Dáng anh to thô, khuôn mặt dữ tướng, nhưng tính nết lại lành hiền. Những cô hàng xóm dỗ con, doạ: Có nín đi không, ông “Xồm” đến kia kìa. Anh trợn mắt, há mồm, đứa bé im thin thít. Vợ anh bế con bảo: Ai lại đi làm cái ông ba bị doạ trẻ con thế, có giỏi thì doạ con anh đây này ! Anh há mồm trợn mắt, thằng con ba tuổi cũng trợn mắt há mồm doạ lại bố. Cả nhà bò ra cười.
* * *
Trời mưa.Quán hôm nay vắng khách. Hồng lơ đãng nhìn những bong bóng phập phồng ngoài hiên. Một chiếc Camry đỗ xịch trước cửa. Hai người đàn ông bước vào. Người đàn ông để ria mép cứ nhìn Hồng chằm chằm. Hai người ngồi ăn, thầm thì như buôn bạc giả. Khi ăn xong, tính tiền. Hồng nghe có tiếng gọi nhỏ “Hồng Marl”. Cô giật mình quay lại. Gã đàn ông để ria mép cười khẩy: Không nhận ra anh à? Hồng bàng hoàng. Cái tên “Marl” như đâm nhói vào tim. Tiếng gã đàn ông phập phù: Trông em vẫn còn ngon lắm ! Hôm nào rảnh, cho anh gặp em nhé ?! Gã nhếch mép cười đểu, búng tay đến tách một cái, quay trở ra xe.
Hồng lảo đảo ngồi phịch xuống ghế. Cái tên “Hồng Marl” dính liền với quá khứ ê chề nhục nhã…
Hồng quê ở Nam Định. Mồ côi bố mẹ từ nhỏ, ở với bà dì ruột. Năm Hồng mười sáu tuổi, lão chú rể đốn mạt đã cưỡng hiếp Hồng. Khi bà dì biết chuyện, đã lấp liếm dúi cho Hồng nắm tiền bắt đi nạo. Biết không thể ở nhà dì được nữa, Hồng đã lang thang mò lên Hà Nội. Sống cùng đám người dưới đáy xã hội, đi nhặt đồ phế thải ở những bãi rác, đi gánh thuê ở chợ đêm Long Biên, làm cửu vạn ở chợ Bắc Qua, rửa bát hàng phở, làm phụ bếp ở những quán ăn…Một lần, lão chủ quán hàng ăn định giở trò tòm tem với Hồng, vợ lão bắt được làm ầm lên xua đuổi Hồng ra khỏi nhà. Hồng đã lang thang trong đêm mưa phùn cuối năm…Rồi những “con nhện độc” đã giăng lưới, cuốn Hồng vào những hang ổ nhầy nhụa sa đoạ và trác táng. Hồng vùng vẫy cố thoát ra, nhưng càng giẫy càng bị thít chặt…
Hồng nghiện thuốc lá, trong túi lúc nào cũng có một bao Marlboro, và cái tên “Hồng Marl” ra đời từ đấy.
Mấy ngày sau. Gã đàn ông lại xuất hiện. Gã đến bên Hồng, cất giọng ri rỉ: Marl ! Thế nào em ? Hồng gườm nhìn hắn, ngoảnh mặt đi không thèm trả lời. Gã sang quán café bên đường. Nửa tiếng sau gã quay lại, dúi vào tay Hồng mảnh giấy gập tư…
Chờ gã đi khuất. Hồng lén mở tờ giấy ra đọc.
Hồng Marl ! Anh đã dò hỏi mọi người ở đây, đều không biết cái tên “Marl”của em. Kể cả chồng em! Mọi ngưòi khen em nhiều lắm, cũng tốt thôi ! Anh còn công tác ở đây dăm hôm nữa. Anh muốn gặp em lần cuối cùng.( Chỉ một lần cuối cùng!). Anh hứa sẽ giấu kín chuyện của em!
Khi nào đi, thì phôn cho anh. Số máy: 0904…….
Hồng vo tờ giấy ném tọt vào ngăn kéo. Đồ chó đực!
Chiều hôm sau. Chuông điện thoại réo, ôsin nhấc máy, gọi vọng ra: Cô Hồng ơi…! Có điện thoại. Hồng bỏ hàng chạy vào. Giọng gã đàn ông nhừa nhựa: Hồng Marl…! Sức khoẻ của em ra sao..?... Hồng bực mình dập máy. Sao hắn biết số máy nhỉ? Ôi dào…! Ngoài biển ghi sờ sờ. Đầu với óc. Mình đến phát điên lên mất ! Hồng dứt dây điện thoại ra khỏi ổ cắm.
Chiều tối, Minh về. Hồng bảo với chồng: Anh trông hàng hộ em. Nhức đầu quá…!
Cô lên gác nằm. Đầu ong ong. Bóng gã đàn ông như hình nhân vật vờ. Đồ súc vật ! Hệt như đỉa đói không chịu buông tha nàng, nàng đã quên đi và rũ bỏ quá khứ hôi hám dơ bẩn, để được làm một người bình thường, ngẩng mặt sống như những người bình thường, có một tổ ấm như những người bình thường. Sau khi được ra trại, cô đã phải dạt đến cái thị trấn heo hút này để làm lại cuộc đời. Nay, vết thương đời nàng đã lên da non, chúng vẫn lẵng nhẵng bám theo, chực thò cái vòi thối vào, để cắn, để xé, để nhai, để nuốt…
Lũ hình nhân vẫn lượn lờ. Hồng gục đầu xuống gối thổn thức… Nó mà nói với chồng mình thì sao ? Liệu anh có bỏ qua cho không ? Có chấp nhận sự thật này không ?...Hay là thú nhận với anh ?... Ôi..! Đau đầu quá…!
Hồng nhổm dậy, đến bên ban thờ Phật thắp một nén nhang… Trăm lạy, ngàn lạy Phật Bà Quan Âm cứu khổ, cứu nạn. Không hiểu kiếp trước con bị tội tình gì, mà kiếp này con khốn khổ thế này.Con yêu chồng, thương con. Con quý tổ ấm của con. Nhưng chúng không để con yên. Con đã quá khổ, quá nhục rồi. Xin lạy Phật bà ra tay phù hộ độ trì cho con…
* * *
Đồ khốn nạn! Đồ con đĩ!- Minh trợn mắt, răng nghiến lại, hàm bạnh ra. Mặt anh từ đỏ chuyển sang xám ngoét. Nỗi hận lòng tràn ứ. Cứ tưởng thế nào ? Trời ơi ! Hay hớm chưa, nhục nhã chưa ! Đồ đĩ rầy, đĩ rạc! Tao lấy vợ, chứ có phải lấy đĩ về làm vợ đâu!?
Anh đùng đùng mở tủ, vơ hết xống áo của Hồng ném xuống đất: Có đường có nẻo thì xéo ! Tao không chứa ! Hồng ôm đầu gục xuống thành giường, đau đớn và nhục nhã khiến cô không khóc nổi nữa, không con nước mắt để khóc nữa. Mẹ..! Mẹ ơi..! Tiếng con trai gọi, nó sà xuống ôm lấy vai Hồng. Tiếng gầm lên của Minh : Ra đây! Không mẹ con gì hết ! Minh giằng thằng bé ra. Hồng ôm con chới với. Thằng bé khóc thét, tiếng khóc như cứa vào tim . Cô chồm lên, ôm ghì lấy con. Minh tóm tóc cô giật ngửa, Hồng dúi dụi vẫn ghì chặt thằng bé. Minh như một con thú ,lao vào thẳng chân đạp, Hồng oằn người buông con ra, thằng bé ậc…ậc khóc không thành tiếng. Minh vơ đống quần áo nhét vào túi xách, xong thẳng tay lẳng ra ngoài, nhổ một bãi nước bọt: Tao đánh mày cho bẩn tay. Cút !
Khi đến tột cùng của cái đau, người ta lại không có cảm giác đau nữa. Hồng gỡ tóc, cầm túi xách đứng thẳng dậy, nhìn thẳng vào mặt Minh. Đã đến nước này thì còn cái gì nữa mà giữ ! Cô nhìn lại căn nhà lần cuối, nước mắt bây giờ mới trào ra. Cái số kiếp mình nó thế. Âu cũng là giời đầy…! Chém cha cái số má đào, gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
Hồng quay người, bước thẳng ra đường. Ngoài trời tối đen, xa xa le lói ánh đèn như ma chơi. Cô bước thập thõm…thập thõm, bỗng chới với, ngã sấp mặt xuống hố nước đen ngòm…
Hồng choàng tỉnh, thở hổn hển, toàn thân rớm mồ hôi…Thì ra là một cơn ác mộng.
* * *
Minh mở ngăn kéo đếm tiền. Thấy tờ giấy vo tròn, anh mở ra đọc. Đọc đến lần thứ ba, trán anh nhíu lại…
Anh quen Hồng trên một chuyến xe khách. Hồi đó anh lên Tuyên Quang có việc. Dọc đường bị cảm, đau bụng tưởng chết. Hồng đã dìu anh thuê xe ôm đến bệnh viện.Quen biết nhau từ đấy. Anh cũng biết Hồng mồ côi từ nhỏ, ở với cô dì chú bác, mở quán nhỏ bán hàng tạp hoá.
Ngay lần đầu gặp Hồng, anh đã ngờ ngợ, không hiểu đã gặp cô ở đâu…? Đến khi lấy nhau ,anh mới nhớ ra. Một buổi đưa hàng lên Hà Nội, anh và tay bạn rủ nhau vào quán karaoke có tay “vịn”. Ở đó anh đã gặp Hồng. Sau khi hát “mỏi tay”, anh và Hồng đã đưa nhau đi nhà nghỉ “bóc bánh trả tiền”. Hồng có một vết chàm nhỏ, giống hình con bướm ở bên đùi trái, gần chỗ kín.
…Lúc đầu, anh cũng bàng hoàng, không nói gì cho Hồng biết. Anh tặc lưỡi ! “Hợp đồng” một thời gian xem sao.
Cả thị trấn ai cũng khen Hồng đảm đang tháo vát, chiều chồng thương con hết mực, được cả người, được cả nết. Trước lúc mẹ anh mất, bà bảo: Nhà mình thật có phúc, giời thương! Vợ con là đứa hiếu thảo nết na, mẹ nhắm mắt cũng được yên lòng ! Trước đây, anh đã có một đời vợ. Con vợ khinh nhà anh nghèo, cãi nhau tay đôi với mẹ chồng như hát hay. Anh cho nó cái tát méo mặt, tống khứ ra khỏi nhà.
Chuyện quá khứ của Hồng, anh thề sẽ đào sâu chôn chặt ! Thế mà giờ đây có thằng chó nào thọc mõm vào. Vợ chồng sống với nhau dù cái tình nếu không còn , vẫn còn lại cái thương chứ. Đằng này anh sống với Hồng ,đã có với nhau một mặt con, tình sâu nghĩa nặng…thế mà có thằng chó nào thọc mõm vào! Mà quá khứ là cái thổ tả gì kia chứ !? Có ối đứa con nhà “ông nọ, bà kia”, quá khứ trắng bong không tì vết mà hiện tại… thối như cứt !
Minh lên gác lay vợ dậy :
- Em bị mệt à ? Có ăn cháo anh bảo mua ?
Hồng gượng quay người lại :
- Em chỉ hơi váng đầu thôi…tí nữa ăn cơm…
Minh lấy tờ giấy nhàu nát trong túi áo ra :
- Anh thấy tờ giấy vo tròn vứt ở ngăn kéo…-
Hồng chột dạ, mặt tái mét. Giọng Minh chùng xuống, chậm rãi:
- Em không phải nghĩ nhiều về chuyện ấy. Để anh gọi điện nói chuyện với nó. Minh với chiếc máy bàn để ở đầu giường, anh mở loa ngoài,bấm số di động ghi trên tờ giấy. Tiếng tút tút ngắt quãng, lúc sau giọng gã đàn ông khàn khàn :
-Alô…! Hồng “Marl” hả ! Thế nào em..? Mai anh phải về Hà Nội rồi…- Minh gằn giọng : Tao là chồng của Hồng đây ! Mày nghe rõ chưa? Khôn hồn thì dẹp cái trò khỉ của mày vào, nếu không ,tao sẽ đập cho mày tẹt mỏ ! Đồ chó chết !...
Thằng con ở trong buồng chạy ra, kéo tay Hồng : Mẹ…! Mẹ bảo bố làm áo…ộp đi, làm áo…ộp đi ! - Hồng ôm lấy con ghì chặt vào lòng. Một luồng hơi ấm lan toả khắp người nàng.
Tri nhân - Tri diện - Bất tri tâm
Ông có tướng ngũ đoản. Tướng ngũ đoản cái gì cũng ngắn. Mặt ngắn, chân ngắn, tay ngắn…Một sự chểnh mảng của tạo hoá khiến cơ thể ông trở nên cũn cỡn, thiếu hụt và giảm đi rất nhiều về phần thẩm mỹ. Có một lão thầy tướng nhìn ông kinh ngạc bảo : Ngài có tướng đại quí ! Nếu không bị phá cách bởi cặp mắt hơi nhỏ so với khuôn mặt thì đường hoạn lộ vinh hoa phú quí là lẽ đương nhiên ! Bù lại, ngài có “giác quan thứ sáu”, biết được những cái bên trong mà người đời che giấu. Cũng là cái Phúc - Hoạ của ngài !
Ông chỉ nhếch mép cười . Không tin !
“Vinh hoa phú quí” ư ? Đến thằng gác cổng ở nhà hàng cũng thừa biết ! Còn “giác quan thứ sáu”? Chắc lão thày tướng nửa mùa nhìn đôi mắt của ông hơi nhỏ liên tưởng đến thuật thôi miên của loài rắn. Còn “trong phúc có hoạ” ư ? Chỉ là mớ triết lý ba xu rưỡi của mấy gã thày Tàu. Còn đối với ông, tuổi ngoài ngũ thập nhưng phúc-lộc vẫn đến ào ào. Ông có đòi hỏi gì đâu ? Mọi người hoàn toàn tự nguyện ! Ông giúp họ. Họ trả ơn ông. Đơn giản vậy thôi ! Toàn những người tử tế cả ! Cậu Tư bên tài chính kêu nhà cửa chật chội, ông ký cái roẹt cấp cho hắn mảnh đất kề bên cơ quan. Cô Hạnh công ty x, vướng mấy công ten nơ ngoài hải quan. Ông phôn cho tay giám đốc sở giải quyết gọn lẹ…v.v…Toàn những việc đáng giúp đỡ cả ! Ở đời giúp nhau là chính ! Đơn giản như vậy mà dư luận cứ vống lên này nọ. Thời buổi giúp nhau cùng phát triển mà họ không chịu hiểu. Hay nói chính xác là họ quá chậm hiểu !
Vợ ông không chậm hiểu như họ. Ngược lại, bà hiểu quá rành rẽ tới mức vượt quá ngưỡng của lòng tử tế. Tay Tư được mảnh đất mừng húm như cha chết sống lại, biếu ông bọc quà trong có năm cây vàng. Vợ ông rỉ rả : Mảnh đất trị giá ngót tỷ, nó xón cho mình từng ấy rõ là cái quân khố đỉn ! Cô Hạnh thoát được mấy công ten nơ, biếu ông chai rượu ngoại kèm theo phong bì năm ngàn đô. Bà vợ bĩu môi : Lần sau ông cạch mặt nó ra. Đối với loại ấy có mà rỗi hơi. Làm đĩ nhưng tiếc tiền son phấn ! Ông thấy chướng tai, vặc lại : Bà quá nó vừa vừa chứ ! Mình giúp họ vô tư, họ biết ơn gọi là có chút thơm thảo. Nhiều ít không quan trọng, quan trọng là ở tấm lòng ! Bà nhìn ông như nhìn một vật thể lạ từ sao thổ rơi xuống, cặp môi son nguýt dài trề ra : Tấm lòng…! Ông sống ở thời kỳ trước công nguyên đấy à ?! Nói thẳng toẹt là đáy lòng cho xong ! Đáy lòng nó là gì ông biết không ? Là ruột già đấy thưa với ông ạ !!! Ông ngán ngẩm bỏ lên trên gác. Đành hanh như thế là cùng. Không có được tí ti của tình nhân loại. Bao nhiêu cũng là ít. Mà có thiếu gì đâu cơ chứ…
* * *
Sau cuộc chiêu đãi, ồn ào những cái bắt tay ríu rít, ồn ào những lời mời chào thân thiện. Ông lật đật ra xe con trở về. Xe lướt êm trên đường quốc lộ. Cảnh vật hai bên đường loang loáng, máy lạnh chạy vo vo ru ông vào giấc ngủ…Bỗng chiếc xe lạng đi đâm sầm xuống hố vôi ven đường. Ông bị hất tung lên, đầu đập vào thành xe bất tỉnh nhân sự…
Khi tỉnh dậy. Ông thấy mình đang nằm trong bệnh viện. Tay lái xe chạy vào hổn hển : Cháu tránh thằng Toyota đi ngược chiều, nó say rượu đánh võng giữa đường, cháu không xử lí nhanh thì đấu đầu rồi…! Hai chiếc xe không đấu đầu nhau, nhưng cái đầu của ông có vấn đề. Bác sĩ chụp cắt lớp bảo tổn thương vùng thuỳ trái, phải ngưng hoạt động một thời gian.
…Ông nằm im, đầu đau như búa bổ, cảm thấy óc mình nhão ra, bết lại. Lúc sau lại thấy lạnh buốt hai thái dương như có tảng băng đông cứng trong đầu. Người ông nổi gai như bị sốt rét xong lại hầm hập nhớp nháp mồ hôi. Ông linh cảm thấy trong đầu có sự cố kì lạ. Lúc thì rầm rập như cả đoàn tàu đang chạy, lúc thì im ắng đến lạ lùng của một thế giới vô âm thanh. Bỗng trong đầu ông rung lên những tiếng u…u…xoèn...xọet..như tần số của chiếc radio đang dò sóng. Một luồng khí nóng rần rật chạy qua thái dương, những tiếng xoèn xoẹt nhỏ dần…nhỏ dần, âm âm trong đầu ông giọng nói rành rẽ “. May mà hắn không chết, nếu hắn chết thì mình chỉ còn nước bán sới, đi tù là cái chắc !”. Ông ngạc nhiên nhìn quanh. Trong phòng cấp cứu chỉ có tay lái xe đang ngồi trầm ngâm đốt thuốc. Ông nhíu mày, hỏi tay lái xe :
-Cậu vừa nói gì thế ?.
Tay lái xe sững sờ :
-Không ạ ! Cháu có nói gì đâu..?
- Rõ ràng tôi nghe thấy cậu nói. Cậu bảo ai sống? Ai chết? Ai đi tù?
Tay lái xe chột dạ “ Sao lão lùn lại biết được ý nghĩ của mình !?”
- Cậu bảo ai là lão lùn?
- Dạ…không ạ..! Dạ…không…! Tay lái xe mặt tái mét, run lẩy bẩy, hốt hoảng bỏ chạy ra khỏi phòng.
Ông phát hiện ra mình có một khả năng kì lạ. Nghe được những ý nghĩ của người khác .
Lúc sau, vợ ông đi vào. Bà âu yếm đặt tay lên trán ông, cất giọng nhỏ nhẹ : Mình lại nóng đầu rồi đây này. Mình uống nước sâm đi, thứ này giải nhiệt tốt lắm.- Bà đỡ ông dậy , kề cốc nước vào miệng ông dỗ dành như dỗ một đứa trẻ. Ông hớp từng ngụm nước mát lạnh, thấy trong đầu nhẹ đi. Tình cảm hiền dịu, sự âu yếm chăm sóc đã biến cốc nước thành thứ nước huyền ảo tưới đẫm trong ông lòng vị tha với những dục vọng đời thường của bà.
Bà lấy khăn thấm thấm những giọt nước nhểu xuống mép ông . Ánh mắt bà hơi trùng xuống “ không hiểu sao mình lại là vợ lão chim cánh cụt này kia chứ…”. Ông sa sầm nét mặt, nhìn thẳng vào cặp mắt đang nheo nheo của bà, giọng ông đanh lại :
- Bà hối hận à ? Kiếm ngay một thằng tốt mã mà về ở với nó !
Bà tròn mắt sững sờ :
-Kìa…mình…! Tôi có nói…nói gì đâu…
- Còn cãi à !
- Ơ…ơ...không mà...! Thật! Tôi không nói gì mà…!
Ông lặng thinh, nhắm nghiền mắt lại. Chua chát đến thế là cùng . Không hề có chút yêu thương chỉ là sự bấu víu của ham muốn vật chất.
Lại có tiếng xoèn xoẹt âm âm trong đầu ông “ Khỉ thật…! Lão ta như có ma xó…!”. Ông mở mắt, nhìn xoáy vào cái mũi thẩm mỹ viện đang ửng đỏ. Bà vợ lúng túng. Ông chồm dậy :
-Quên ngay lão ma xó này đi! Quên đi…! Đồ…đồ giả dối!
Ông vung tay gạt cốc nước xuống đất vỡ tan. Bà sợ hãi lùi lại, vướng phải chân váy ngã dúi dụi,xong lồm cồm ngồi dậy mặt bợt đi. Bà sấp ngửa chạy ra ngoài, mồm lẩm bẩm: Lão ta bị ma ám rồi…! Đúng là ma ám rồi…!
Ông nằm bất động, người trũng xuống , tê dại đi. Thì ra cái tử tế bên ngoài chỉ là giả dối. Trước đây mình bị ảo tưởng quá nhiều. Biết được bộ mặt thật trần trụi không hiểu là phúc hay là hoạ đây? Có lẽ lão thầy tướng nói đúng…
* * *
Chiều hôm ấy, mọi quan hệ tíu tít đến thăm ông. Ai cũng cố tạo ra vẻ mặt thân thiện, ái ngại cho sếp. Giám đốc công ty x, nắm bàn tay nguội lạnh của ông run run cảm động : Cũng là cái hạn anh ạ ! Năm nay là năm tuổi, anh có hạn tàu xe…cũng may chỉ bị nhẹ . Hắn đặt túi quà lên bàn, thầm nghĩ “ phong bì mười ngàn đô đấy ông tướng ạ . Nhớ giải quyết cho cái dự án Y. Không có chuyện cho không ,biếu không đâu!”
Ông nhếch mép cười khẩy.
Đại diện công ty Z là một gã bụng phệ, cố len vào sát đầu giường, cặp mắt ti hí hấp háy, giọng xệt xuống : Như thế cũng là may lắm rồi sếp ạ. Phúc đức nhà sếp to bằng mười cái đình! Sếp ăn ở tình nghĩa nên “đức năng thắng số”! Nhưng trong bụng gã lại nghĩ “ tinh nghĩa mà không có tiền thì cũng vứt vào một xó. Cứ trông mặt hắn thì biết, cứ vờ vịt lên mặt đạo đức nhưng bao nhiêu cũng là ít”.
Ông nén cái thở dài,mặt tím lại.
Giám đốc công ty cổ phần là một ả mặt xám môi chì, ăn mặc như phường đồng bóng, xáp lại gần cất giọng thương cảm : Em thấy anh dạo này xanh lắm , chắc phải lo nhiều việc. Anh nên nghỉ ngơi tĩnh dưỡng để đảm bảo sức khoẻ. Em có thằng cháu bên Hàn Quốc gửi về mấy hộp sâm Cao Ly chính hiệu , biếu để anh dùng. Nhưng đầu ả lại nghĩ “đồ quỉ lùn Checlơmo, có mỗi cái hợp đồng của bà mãi vẫn chưa duyệt. Đấm mõm cho lão thêm năm ngàn đô nữa, cái mồm cá ngão kia phải biết…”
Ông nhìn bọn họ như những quái nhân lộ rõ nguyên hình.
Tất cả những ý nghĩ được giấu kín sau tấm mặt lạ được bóc trần trơ trẽn đến bỉ ổi. Ông nghe rõ mồn một. Luồng sóng phát ra quá mạnh , ăng ten não bộ của ông thu lại chuyển ngữ vang vang trong đầu…
Chua chát quá…! Chua chát quá…!
Ông ôm đầu không chịu nổi. Bầu không khí như đặc quánh làm ông khó thở. Ông úp mặt xuống gối khóc rưng rức. Đám người vây quanh nhìn ông khó hiểu…
Ông bỗng chồm dậy, vơ hết các túi quà quẳng hết xuống đất. Ông gào lên : Các người xéo cả đi ! Cút hết cả đi ! Mắt ông rưc lên như có quầng lửa chiếu vào.
Đám người nhốn nháo sợ hãi nhìn ông. Tất cả co rúm người lại , họ bất động như những hình nhân nhìn đống quà dưới đất tung toé, những chiếc phong bì ềnh ệch vung vãi. Không ai bảo ai, họ len lén như kẻ vụng trộm cúi xuống nhặt phong bì của mình lên. Họ lủi nhanh ra cửa túm tụm lại xì xào: Lão ta bị điên rồi ! Đúng là bị điên rồi…!
Ông nằm bất động, người trũng xuống, tê dại đi….
Bụi Đất Và Hư Vô
Trưa ngày 25 tháng 12 năm 1974, tôi đang cùng với bạn-bè dự một bữa ăn nhân dịp Nô-En tại nhà của một thuộc-viên thì được Sĩ-Quan Trực từ Phòng Tình-Hình gọi máy đến báo-cáo một tin-tức khác thường.
Vào khoảng 11g30 vừa rồi, có một chiếc trực-thăng đáp xuống cạnh Trường Tiểu-Học Xã Lộc-Mỹ, thuộc Quận Ðại-Lộc, Tỉnh Quảng-Nam. Từ trên phi-cơ bước xuống một thiếu-tướng và một trung-tá Việt-Nam Cộng-Hòa, cùng với một người đàn-ông và một người đàn-bà Hoa-Kỳ.
Người đàn-ông có mang theo một cái hộp trên tay. Viên trung-tá vào trường, dẫn bác Cai Trường ra, giới-thiệu với mấy người kia; rồi bác Cai Trường vào trong mang ra một cái xẻng, theo sự chỉ-dẫn của hai người Mỹ, đào một cái lỗ, ngay giữa hàng-rào phân chia khoảng sân bên hông trường ấy với con đường hương-lộ bên ngoài, chôn xuống đó cái hộp của người đàn-ông Hoa-Kỳ, lấp đất lại, rồi xóa sạch dấu đất mới, để chỗ đó trông giống bình-thường như không có việc gì xảy ra. Xong, bốn người kia trở lên trực-thăng bay đi, và bác Cai Trường vào trường.
Mọi việc xảy ra mau lẹ như đã được sắp-đặt từ trước rồi.
Lúc chôn cái hộp là vào khoảng 12 giờ trưa.
Tôi đoán là có cái gì bí-mật, mà nhà chức-trách địa-phương giấu kín, hoặc không biết rõ nên Sở Ðặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam chỉ báo-cáo đơn-giản thế thôi. Cho nên, do tò-mò nghề-nghiệp, tôi về nhà sớm và bắt tay vào việc ngay.
Sau khi gọi điện-thoại hỏi Trung-Tâm Hành-Quân thuộc Sư-Ðoàn I Không-Quân và Văn-Phòng Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu I, tôi tổ-chức một chuyến đi quan-sát tại chỗ, đồng-thời tiếp-xúc với các mật-viên quanh vùng, để biết thêm chi-tiết về vụ này...
*
Bác Nam thanh-minh:
- Tôi cứ tưởng là chỉ cần báo-cáo những gì liên-can đến cộng-sản mà thôi, còn đây là vấn-đề tình-cảm cá-nhân mà các người trong cuộc đã yêu-cầu tôi giữ kín giùm...
Thiếu-tá Sơn đỡ lời tôi:
- Không ai trách-móc bác đâu. Bác hãy kể chuyện về người Mỹ tên Sam đi.
Bác Nam kể:
- Ðầu năm 1971, Toán Dân-Sự-Vụ của Thủy-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ hoạt-động tại Quận Ðại-Lộc thay đổi cấp chỉ-huy.
“Người mới đến là đại-úy Sam, một thanh-niên đẹp trai, hiền-lành, nhã-nhặn, bình-dân. Anh rất lanh-lợi và có nhiều sáng-kiến hay.
“Công-tác nổi bật đầu tiên là anh thành-lập một Hội Việt-Mỹ cho Quận Ðại-Lộc. Anh chịu khó đi thuyết-phục để mời vào Hội không những chỉ các viên-chức chính-quyền như Quận-Trưởng, Phó Quận-Trưởng, Chỉ-Huy Cảnh-Lực, Trưởng Chi Thông-Tin, Trưởng Phòng Văn-Hóa Giáo-Dục, Hiệu-Trưởng Trường Trung-Học, các sĩ-quan thuộc Chi-Khu, Xã-Trưởng, giáo-sư, phụ-huynh học-sinh, học-sinh trung-học, v.v... như thường-lệ, mà anh còn mời cả các thương-gia, nông-dân, tài-xa, tài-công, lâm-dân, ngư-dân, v.v... cùng với một số tu-sĩ Phật-Giáo trong vùng.
“Với Hội Việt-Mỹ của Sam, sinh-hoạt ở đây sinh-động hẳn lên. Hội-viên gồm mọi tầng-lớp xã-hội. Sách+ báo từ phía Hoa-Kỳ phân-phát, phổ-cập hầu như đến từng gia-đình. Hoạt-động không chỉ thu gọn trong các kỳ họp, mà còn thể-hiện qua bất-cứ cơ-hội nào có người Mỹ xuất-hiện trong làng xóm Việt-Nam.
“Sam đề-nghị, và được phía Việt-Nam đồng-ý, dùng phòng học của Lớp Năm trường này làm nơi trao-đổi văn-hóa, dạy tiếng Anh vào buổi tối, vì nơi đây thuận-tiện cho sự đi lại của mọi người.
“Phòng này nằm ở đầu dãy, bên hông có một cửa sổ nhìn ra hàng-rào che khuất tầm mắt của người qua đường. Phía bên kia đường, các ông thấy đấy, có một cây đa cành lá sum-suê, rễ ở gốc cây cao hơn mặt đất, người nào vóc cao mà đứng lên trên đám rễ, tựa vào gốc cây nhìn vào cửa-sổ thì trông thấy mặt cô giáo rõ-ràng.
“Giáo-viên Lớp Năm là cô Diệu-Hương, hoa-khôi toàn Quận, năm ấy vào khoảng hai mươi, dịu-dàng, lễ-phép, đứng-đắn, siêng-năng.
“Phòng học Lớp Năm trước kia là nơi cô đến soạn bài, chấm bài cho học-sinh, và tự học thêm chương-trình đại-học vào các ngày nghỉ và mỗi buổi tối, thì nay còn là nơi cô đến làm công-việc của Hội với tư-cách thư-ký, học tiếng Anh, dạy tiếng Việt cho ngưới Mỹ, giúp chiếu phim, điều-khiển máy ghi-âm, v.v...
“Cha mẹ cô thuộc giới trung-nông, sùng Ðạo Phật và chịu ảnh-hưởng Ðạo Nho.
“Sự giao-tiếp giữa cô với Sam, trong khung-cảnh chung của sự tiếp-xúc giữa hai bên Việt-Mỹ, có bắt tay, có vỗ vai, nhất là giữa đàn-bà con-gái Việt Nam với đàn-ông Hoa-Kỳ, bề ngoài là chuyện tự nhiên, nhưng cha mẹ cô rất lo, nên đã nhờ tôi theo dõi, ngăn ngừa giùm, sợ đi quá xa.
“Tôi là liên lạc viên của Hội, vừa sắp dọn rồi cất dẹp mọi thứ trước và sau mỗi buổi, vừa tham dự học tiếng Anh và dạy tiếng Anh, nên tôi có mặt hầu hết mọi lần Sam và Diệu Hương gặp nhau. Và tôi đã thấy ngay một mối tình trai gái chớm nở giữa hai người, ngày càng sâu nặng hơn.
“Quả thật là tôi đã có đồng lõa với hai người.
“Thứ nhất là vì tôi thấy đại úy Sam thật tình yêu Diệu Hương, muốn xây dựng lâu dài. Anh đi lễ chùa vào rằm, mồng một âm lịch, tìm hiểu Ðạo Phật, học hỏi phong tục tập quán Việt-Nam. Anh biếu quà và tham gia mọi cuộc vui với trẻ em vào các dịp cuối tuần, nghỉ hè, Trung Thu. Anh đưa Y-Tế Mỹ đi săn sóc từng cụ già, cứu trợ từng nạn nhân bị Việt Cộng pháo kích, giật mìn. Anh giúp lợp nhà, sửa đường, đào mương, tích-cực hơn cả cán-bộ của mình. Dân chúng nhờ anh rất nhiều.
‘Mà điều quan trọng là anh trân-trọng người yêu, không hề sỗ sàng bậy bạ như đa số người Mỹ khác. Sam nói riêng với tôi là anh sẽ xin chính thức cưới Diệu Hương. Tôi biết là có nhiều cô gái Việt-Nam lấy chồng Mỹ đường hoàng, nên tôi yên tâm.
“Thứ nữa là vì tôi nghĩ: nếu cho cha mẹ cô biết thì chắc ông bà sẽ cấm hẳn cô tới lui với Hội Việt Mỹ; mà không có cô thì Hội tất-nhiên sẽ tan, vì anh sẽ dời Hội đi nơi khác, tôi mất việc làm với đồng lương cao và tiền lời bán đồ giải khát, bánh, kẹo, cháo, chè mỗi đêm.
“Mãi đến hôm nay, giữ đúng lời hứa với hai người trong cuộc, tôi vẫn chưa kể cho cha mẹ cô biết về mối tình giữa hai người.
“Huống chi đại úy Sam thì đã về nước từ sau NôEn năm ấy, và cô Diệu Hương thì cũng đã bỏ đi đâu biệt tích từ sau Noên năm ngoái, 1973...”
- Từ khi Sam rời Việt-Nam, đến khi Diệu Hương đi biệt, là hai năm trời, hai người có còn liên lạc với nhau hay không? Ðời sống tình cảm của cô thế nào?
- Anh vẫn gửi thư đều đặn cho cô, qua tôi; tôi đều chuyển lại tận tay; nhưng cô nói là cô không trả lời. Tôi không được biết trong thư anh nói những gì.
“Có nhiều thanh-niên Việt-Nam cũng như vài ba người Mỹ có vẻ săn đón cô hơn, nhưng cô đối xử với họ bề ngoài tự nhiên như đối với Sam trước kia, chứ không có gì khác hơn.
“Cuối năm 1972 thì cô đổi về dạy ở Tam Kỳ, thuộc Tỉnh Quảng Tín; cuối tuần về nhà thường ghé thăm tôi.
“Tôi hiểu là cô rất buồn, ít nói hơn, da xanh hơn...
“Ðây là bức thư của cô đã viết cho Sam vào dịp Noên năm ngoái. Cô không gửi nó qua Mỹ mà lại nhờ tôi cất giữ như một bằng chứng hoặc một di vật lưu lại cho Sam; tôi không mở xem. Cô đã dặn tôi: nếu đến hết ngày Noên năm nay, tức là 12 giờ khuya hôm nay, mà Sam vẫn không trở lại gặp tôi, thì xin tôi hãy giải giùm lời thề, bằng cách đốt nó ở gốc cây đa, là nơi anh đã đứng đó nhiều lần hướng về cửa sổ say đắm nhìn vào...”
*
Lộc-Mỹ, ngày 25/12/1973
Anh Sam yêu dấu,
Ðây là bức thư đầu tiên mà cũng là bức thư cuối cùng em gửi anh, người đàn ông đầu tiên mà cũng là người đàn-ông cuối cùng trong đời em. Nội-dung chỉ là EM YÊU ANH. Nhưng vấn-đề không chỉ đơn giản như ba tiếng “em yêu anh”.
Anh là người Mỹ học thức, giàu có, mạnh khỏe, trẻ trung, can đảm, cần cù, nhân ái, vị tha, hào phòng, tự do.
Những quân nhân như anh, ngoài các cuộc hành-quân còn dành thêm tâm-trí, công-sức và thì-giờ để làm công-tác xã hội giúp ích cho người xung quanh, thật là hiếm-hoi. Trong cương-vị của anh, anh xứng đáng tiêu biểu cho một dân tộc hùng-cường, nghĩa-hiệp, vượt vạn dặm trùng dương đến đây hy sinh xương máu để bảo vệ, kiến thiết, và phát triển Việt Nam nghèo yếu khổ-nạn quê hương em.
Anh là một thanh niên lịch thiệp, nói theo các bạn em là “con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai”, yêu đời, yêu người, biết kính già quý trẻ, biết tôn trọng những giá trị tinh-thần, nhất là tôn trọng người mình yêu.
Anh đã cho em biết thế nào là mãnh lực ái tình, thế nào là tình yêu không phân chia chủng tộc, màu da. Anh vừa lãng mạn phác họa một cảnh gia đình hạnh phúc tràn trề, vừa thực tế dự trù sau khi xuất ngũ sẽ tiếp tục học lấy bằng Master, lấy bằng Ph.D., dọn đường cho sự nghiệp tương lai. Anh đặt kế hoạch cho tiền đồ của cả hai chúng mình. “Anh đã cho em Niềm Tin trong Tình Yêu”...
Nhưng vì cha mẹ em không chấp nhận việc một người con gái Việt-Nam lấy chồng người nước ngoài (em biết điều đó qua nhiều lần ông bà phê-bình người khác trước mặt em, và qua lời ông bà nói với bác Nam mà bác ấy kể lại với em), nên em đành phải giấu-giếm mọi người, trừ bác Nam mà em đã thú thật sau này.
Yêu nhau mà phải lén lút, còn gì bực bội và xấu hổ bằng!
Hy vọng duy nhất của em là chờ đến ngày em hai mươi mốt tuổi, là tuổi hợp pháp tự mình quyết định hôn nhân của mình; nhưng không phải là để tự do làm giấy hôn thú với anh, mà là để dễ thuyết phục song thân em chấp nhận mối tình của chúng mình, vì em không thể làm một đứa con bất hiếu, bất hiếu vì làm trái ý cha mẹ, bất hiếu vì làm cha mẹ mất mặt với mọi người.
Nhưng, nếu ông bà vẫn không đồng ý thì sao? Ðó là điều mà em không dám giải đáp, vì chỉ nghĩ đến là em đã thấy sợ rồi.
Ðùng một cái, anh được lệnh hồi hương. Một việc bình-thường mà thời gian qua đắm chìm trong tình yêu em không nghĩ đến. Hết hạn tùng quân thì phải về thôi!
Tuy thế, có lý nào chấm dứt mọi sự ngang đây sao anh?
Nhưng anh đã trấn an em. Anh hứa là sẽ tìm đủ mọi cách trở lại Việt-Nam, dù với tư cách quân nhân hay nhân viên dân chính, thường dân.
Qua năm 1972 thì Hội Việt-Mỹ dời đi nơi khác.
Em sống xa anh, lại không còn gần những cảnh sinh hoạt thân quen do anh tạo nên và vẫn mang đậm dấu ấn của anh, nên em cảm thấy cuộc sống trống vắng, lạt lẽo vô cùng, dù anh vẫn gửi thư về đều đều; nên qua Noên thì em đã xin thuyên-chuyển về dạy ở Tam-Kỳ.
Em về Tam-Kỳ để gần căn cứ Chu Lai, để được thấy các bạn anh nhiều hơn, để đỡ nhớ anh hơn, và để càng nhớ anh hơn.
Anh yêu! Cuộc đời không chiều lòng người. Nô-En 1972 anh chưa trở lại được, nhưng vẫn còn nhiều hy vọng, vì chiến tranh vẫn còn. Noên 1973 anh không trở lại được, thì đâu còn hy-vọng, vì chiến tranh không còn. Phải chăng hy vọng chỉ còn, tình yêu của chúng ta chỉ còn, khi vẫn còn chiến tranh, cuộc chiến khốc liệt mà chúng mình muốn sớm kết thúc? Nhưng, kết thúc như thế nào, có phải là trong chia lìa, mất-mát, đổ vỡ, đau thương không anh?
Noên năm nay em có một quyết định mới. Em bỏ gia đình, em bỏ việc làm, em thử... tìm về Hư-Vô, một cõi sắc không không-sắc , như anh đã có nghiên cứu và nói là đã lĩnh hội được rồi , vì cuộc đời quả là bể khổ, oái-oăm phi lý quá, phải không anh? Cha mẹ em ép buộc em phải kết hôn với một người mà em không yêu. Thế là em đã có lý do để thoát- y gia đình mà không làm cho ai đổ lỗi cho anh.
Thời-hạn ba năm của lời thề xưa vẫn còn. Anh còn một năm để giải lời thề trước cây đa làng cũ. Anh còn một năm để thử thách lòng anh. Em đã cố tình không viết một dòng chữ nào cho anh từ hai năm qua, trừ lời nhắn miệng với các người bạn mà anh nhờ gặp, rằng em trọn đời yêu anh và sẽ trung thành với anh, cốt để giúp anh trắc nghiệm tình anh. Nếu anh trở lại được, thì anh đi tìm em được; Tình Yêu sẽ hướng dẫn anh. Nếu anh không tìm ra em, mà anh vẫn muốn tìm em, thì đêm Noên 1974 em sẽ chờ anh ở Nhà Thờ năm xưa; chậm lắm là vào 12 giờ khuya ngày 25, phút cuối cùng của thời gian thử thách, em sẽ chờ anh ở gốc cây đa.
Ở gốc cây đa đó, em đã đón nhận nụ hôn đầu tiên của người khác phái, em đã trao anh nụ hôn đầu tiên của người con gái, là lần đầu tiên em ngây ngất mê ly, là lần đầu tiên em sẵn-sàng chết đi trong vòng tay siết chặt của người yêu. Ôi, nụ hôn ngọt-ngào như lời thề-nguyền buổi sáng mùa xuân cuộc đời, mà cũng là nụ hôn đắng cay mùi vị chia ly chúng mình dành cho nhau trước ngày anh xa em.
Anh không sợ ma, em không sợ ma, nhưng hầu hết những người dân làng ở đây đều sợ ma. Nhờ họ sợ ma nên họ để yên cho chúng mình gặp nhau giữa khuya bên gốc cây đa nhiều đêm. Những lần ấy, anh có biết đâu, em lo sợ vô cùng: không phải là sợ có người biết được mối tình mà chúng mình giữ kín, mà là sợ Việt-Cộng tìm cách ám-hại anh, vì chúng đã hơn một lần muốn nhờ tay em...
Bây giờ thì anh đã hiểu rồi đấy. Nụ hôn biểu hiện lời thề. Ðời em chỉ hôn một người; người đó, trên đạo-lý, đã là chồng em.
Em còn nhớ mấy câu Kinh Thánh mà anh đã giảng cho em: “Không được thề dối!” và “Không được phạm tội ngoại tình!”; và: “Hễ ai ly-dị vợ mà không phải vì cớ vợ mình gian-dâm thì tức là khiến cho nàng ngoại tình!” (Matthew 5:33, 27, 32)...
Em không ngoại tình, em không gian dâm; em chỉ yêu một mình anh. Nếu không có anh thì em sẽ là hư vô, vì đời trở nên hư vô.
Ðây cũng là một cuộc thử thách tối trọng và tối hậu về phần em: do nơi anh, và do lời hẹn của anh, em sẽ trở về sống với hạnh-phúc trần-gian, hay sẽ tiếp tục và vĩnh viễn trở thành sắc không...
D.H.
*
- Và đây là mười hai bức thư của anh; Diệu Hương không ghé lấy từ mười hai tháng nay...
Trời đã xế chiều. Tôi tranh-thủ mở đọc bức thư mới nhất của người thanh niên đã từng một thời là đại-úy Sam:
New York, December 1974
Diệu Hương, người yêu duy-nhất của anh:
Cả ba năm nay em không viết thư cho anh. Anh chấp-nhận, vì đó là ý muốn của em mà em đã nói cho anh biết trước rồi; nhưng trong thâm tâm anh bao giờ cũng mong ước và ngóng chờ thư em.
Vậy mà giờ đây thì anh không còn trông đợi thư em nữa, em biết vì sao không?
Ngay khi gặp em là anh yêu em. Ðồng-thời, sau khi đã ở Việt-Nam rồi, đã hiểu Việt-Nam rồi, là anh yêu luôn Ðất Nước và đồng-bào em.
Anh về Hoa Kỳ không phải chỉ để vận động trở lại Việt-Nam với em mà thôi, mà là còn để nói lên tiếng nói của lương tri, chống lại phong trào phản chiến, kêu gọi tinh thần khử bạo phù nguy vốn là truyền thống cao-đẹp của dân tộc Hoa-Kỳ.
Thế nhưng kết-quả ngược lại.
Ma quỷ đang hồi cực mạnh; người ta không nghe tiếng nói thống thiết của những con người chính trực như anh, thậm chí bác đơn thỉnh cầu của anh xin được một lần trở lại Việt-Nam.
Và bây giờ thì nước Mỹ đã bỏ cuộc rồi.
Anh còn mặt mũi nào sống trên đời này mà làm người thua cuộc, hả em? nhất là trong cuộc tình của chúng mình mà hạn chót của lời thề đã đến rồi.
Trong quá khứ, nước Mỹ đã từng cứu Pháp, giúp Ðức, tiếp trợ Âu Tây, nâng Nhật Bản, vớt Ðại Hàn, che chở Á Ðông.
Trong tương-lai, nước Mỹ chắc-chắn sẽ còn hành hiệp cái-thế độ-nhân.
Nhất-định mọi người sẽ phải xét lại thái-độ yếu hèn của ngày hôm nay.
Riêng đối với em, anh đã giữ tròn danh tiết cho em.
Trong đêm cuối cùng, bên gốc cây đa, em đã lịm người trong vòng tay anh, phó mặc hoàn-toàn cho anh. Nhưng anh kính-trọng tinh thần văn hóa Ðông Phương...
Anh sẽ không để cho ai biết gì về mối tình vô vọng của chúng mình.
“Khối tình mang xuống tuyền-đài khôn tan...”
Nếu còn có thoáng chốc nào em nhớ đến anh, thì xin em hãy tin rằng, đến tận hơi thở cuối cùng của cuộc đời mình, anh vẫn chỉ biết một lòng yêu em.
Tình Yêu ấy là sinh-khí cho hình hài này, vốn là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất mà thôi.
Xin cho linh hồn anh được thanh thoát, làm một Romeo, một Trương Chi...
SAM
*
Thiếu Tá Sơn, Chánh Sở Ðặc Cảnh Tỉnh sở tại, nãy giờ ghé mắt cùng đọc theo tôi, phát-biểu:
- Như thế là cô Diệu Hương đã tái xuất-hiện ở Nhà Thờ đêm qua, và sẽ có mặt ở gốc cây đa đêm nay...
Tôi nghĩ: “Ðoạn cuối câu chuyện không thuộc nhiệm-vụ của mình. Mình chỉ tìm biết xem cô là ai, lâu nay làm gì, ở đâu; thế thôi”.
Tôi bắt tay từ giã Sơn:
- Tất cả thư từ, và những việc gì xảy ra đêm nay, về sau, hoàn-toàn để tùy bác Nam giải-quyết. Bây giờ thì tôi phải về; còn nhờ anh Hòa trong Quảng Ngãi, anh Song trong Quảng Tín, và anh Ðảm ngoài Thừa Thiên, dĩ nhiên là cả anh nữa, tìm xem cô đang tu ở chùa nào...
*
Ðà Nẵng, ngày 25 tháng 12 năm 1974
PHIẾU TRÌNH
Kính trình...
tại SÀI-GÒN
Tiếp theo công-điện...
Kính xác-nhận điện-trình sơ-khởi về việc...
Văn-Phòng Bộ Tư-Lệnh Quân Khu I xác-nhận chính thiếu tướng Phó Tư-Lệnh Quân-Khu I, thừa lệnh Cấp Trên, đã dùng trực-thăng đưa hai người Mỹ liên hệ đến Xã Lộc Mỹ trưa ngày hôm nay, 25-12-1974.
Hai người Mỹ ấy là đại diện của một văn phòng Chưởng Khế Mỹ, thi hành di chúc của một người tên Sam.
Theo di chúc của ông Sam thì sau khi ông tự tử chết đi, thi hài được thiêu thành tro, đem đến chôn ở hàng-rào của trường tiểu-học Xã Lộc Mỹ, thuộc Quận Ðại Lộc, Tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, ngay hướng mắt nhìn từ gốc cây đa vào khung cửa sổ Lớp Năm, giữa ngày Noên năm nay...
Chúng tôi đã đến tận nơi tìm hiểu, được biết:
Nguyên...
*
Sáng sau, tôi đang đọc lại bản lưu Phiếu Trình nói trên thì Sĩ Quan Trực Phòng Tình Hình báo cáo rằng các Chánh Sở Ðặc Cảnh các Tỉnh đã có mặt sẵn, đang chờ lệnh tôi trên máy điện-đàm.
Thiếu-tá Thái Văn Hòa của Tỉnh Quảng Ngãi được tôi hỏi trước, trả lời:
- Ở Tỉnh Quảng-Ngãi có chùa Thiên Ấn và nhiều chùa khác, nhưng không có ni cô nào giống với đối tượng cần tìm...
Thiếu tá Ðặng Văn Song, Chánh Sở của Tỉnh Quảng Tín, báo cáo là chưa tìm ra.
Chánh Sở Trương Công Ðảm của Tỉnh Thừa-Thiên liền xin xác-nhận:
- Ngoài này chúng tôi đã tìm ra được cô rồi.
“Cô ở ngay Chùa Sư-Nữ nổi tiếng của Miền Trung. Tại đây, cô giấu lý lịch; ngoại trừ Sư Bà trụ trì, còn với người khác thì cô xưng một tên khác, nhưng thường chỉ dùng pháp danh mà thôi. Cô không bao giờ tiếp xúc với người ngoài chùa. Trước đây đã có nhiều người từ trong Ðại-Lộc ra tìm, nhiều lần mà không gặp được. Riêng ngày hôm kia, cô đã xin phép đi vào Quảng Nam thăm nhà...”
Tôi cám ơn các anh, rồi hỏi thiếu tá Lâm Minh Sơn của Tỉnh Quảng Nam tình-hình đêm qua thế nào.
Sơn đáp:
- Ðêm qua, chúng tôi không thấy Diệu Hương đến gốc cây đa. Có lẽ cô đã nấp kín, cũng gần đâu đó mà thôi. Nhưng không thấy Sam xuất hiện thì cô đến đó làm gì!
“Còn bác Nam thì, vào lúc 12 giờ khuya, sau khi đốt xong bức thư của cô ở gốc cây đa, đã chôn luôn các bức thư của Sam vào chỗ đã chôn cái hộp mới được đưa đến từ nửa vòng trái đất bên kia...”
LÊ XUÂN NHUẬN
Cám Ơn "Cơm chỉ"
Tác giả tên thật là Phùng An, hiện là cư dân Westminster, Nam California. Trước năm 1975: Công chức. Từ năm 1975 đến 1979: Bán chợ trời. Năm 1980: Vượt biên đến Mỹ. Nghề nghiệp ở Mỹ: Electronic Technician.
Khi nghe nói đến danh động từ "Cơm chỉ", hẳn quý vị đều biết đó là những món ăn bình dân, đơn giản thuần tuý Việt Nam nhưng được gắn thêm tên gọi thoáng nghe có phần dí dỏm, xa lạ nhưng ý nghĩa không kém phần độc đáo. Tôi không nhớ danh động từ này được khai sinh từ lúc nào.
Khoảng vài năm trở lại đây, trên đường đi làm, tình cờ mở đài Little Saigon Radio nghe giọng nói ngọt ngào, dễ thương của một cô xướng ngôn viên trẻ đẹp nào đó đang giới thiệu những món ăn của một tiệm "food to go"... thơm, ngon, tươi, mới... nấu như mẹ nấu ở nhà mà nhiều người quen gọi là "Cơm chỉ ...". Chỉ món nào múc món đó. Kể từ đó, danh động từ "Cơm Chỉ" in vào trong tiềm thức tôi.
Dòng họ "Cơm chỉ" cũng có một quá trình khai sinh, hình thành và phát triển của nó. Tôi còn nhớ, sau khi từ giã tiểu bang miền lạnh về định cư tại miền Nam Cali nắng ấm, đời sống của một người độc thân, ở trọ (share phòng) thật giản dị, nhứt là về vấn đế ăn uống, nấu nướng hàng ngày. Chiều chiều trên đường đi làm về, nếu thích làm bếp có thể ghé vào một tiệm thực phẩm bên đường mua vỉ đùi gà hoặc cánh gà (thịt bò, heo chưa dám mua vì chưa biết cách nấu nướng) về luộc cho thêm hành tây, nêm mắm, muối, tiêu, đường, sẽ có ngay nồi súp gà. Nước luộc, bỏ thêm rau vào làm canh, thịt gà xé phay, bóp chút rau răm, lúc bấy giờ chưa biết cholesterol là gì nên da gà trộn chung với thịt ăn thoải mái. Những dịp cuối tuần nếu có bạn hiền đến thăm cũng vẫn thực đơn này chấm muối tiêu chanh ăn với cơm trắng vẫn ngon miệng và hấp dẫn như "Cao lương Mỹ Vị". Có lẽ hình ảnh và dư vị những bữa cơm độn ngô, khoai hoặc bo bo ở quê nhà từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 vẫn còn hằn sâu trong ký ức nên thịt gà luộc ăn với cơm trắng, gạo thơm không độn ngô, khoai là "Cao lương Mỹ Vị" chăng?
Muốn hiểu rõ dòng họ "Cơm Chỉ" , ta thử nhìn về quá khứ, khoảng từ đầu 1985 trở về trước, khu Little Saigon chưa được phát triển như hiện nay, các siêu thị Việt Nam chỉ là những ngôi chợ nho nhỏ nằm chung dãy với các cửa hàng bán lẻ, phòng mạch bác sĩ hoặc các văn phòng dịch vụ chưa dám sánh vai cùng các siêu thị của người bản xứ trong vùng, hãy còn e ấp như các cô thôn nữ vừa từ miền quê lên tỉnh. Các khu thương mại chưa có bộ mặt sầm uất, xứng với danh nghĩa "Thủ Đô Của Người Việt Tị Nạn" và các cửa hàng ăn uống cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Lớp người Việt Nam đầu tiên đến định cư tại đây,một quốc gia quá văn minh mọi sinh hoạt được máy móc hóa nên thời gian quý hơn vàng và qua nhanh như chớp khiến mọi người phải vội vã chạy đua vơí thời gian. Những ai may mắn có gia đình, hàn gngày đi làm còn có phần ăn mang theo cho bữa trưa tại nơi làm việc. Những người độc thân, nếu không mang theo một hộp pizza, một phần hamburger hay một miếng bánh mì thịt nguội, buổi trưa phải "get line bên cạnh xe "lunch" chờ mua những phần ăn lai căng theo thực đơn Mỹ, Mễ, hy vọng buổi tồi về nhà sẽ có những tô mì gói hoặc bữa ăn "Cao lương Mỹ Vị" như đã nói trên đây. Nhiều người không có thời gian tự nấu cho mình những bữa ăn hàng ngày.
Hiểu được nhu cầu và thông cảm hoàn cảnh này, một vài gia đình có lẽ vì không đủ khả năng hay không muốn bận rộn khi mở tiệm ăn lớn , họ mở những tiệm ăn nhỏ, nấu những món ăn thông thường, thuần túy quê hương bán từng món cho khách mua mang đi như hình thức "Drive Through" hay "Fast food" trong hệ thống tiệm ăn của người bản xứ, gọi bằng tên cúng cơm là "Food To Go". Mãi hơn hai mươi năm sau, khi được nhập "Việt tịch", tên "Food To Go" được đổi thành cơm chỉ. Một tên gọi giúp cho người mua được dễ dàng trong lĩnh vực ẩm thực.
Theo sự hiểu biết của tôi, tên "Cơm Chỉ" chưa có trong bất cứ bộ tự điển nào của Việt Nam, cũng không có chỗ trong văn học nghệ thuật của bốn ngàn năm văn hiến nhưng đã du nhập về tận quê nhà, được đổi tên là "Cơm Hộp". Nếu quý vị có về Việt Nam hẳn đã biết.
Bước vào thế kỷ 21, lĩnh vực hoạt động của ngành "Cơm Chỉ" đã có nhiều thay đổi và khả năng biến chế để chiều theo sở thích và khẩu vị của mọi người. Tuy nhiên, ta cũng nên nhìn về quá khứ để thấy sự vươn lên và tiện lợi của ngành "Cơm Chỉ" mà từ trước khi còn ở quê nhà có lẽ chúng ta chưa bao giờ nghe nói đến hoặc nghĩ đến việc khai trương một tiệm "Cơm Chỉ".
Hiện tại, quanh vùng Little Saigon có cả chục tiệm "Cơm Chỉ". Những tiệm bán những món hàng vừa ăn chơi, vừa ăn thiệt thường nằm trên những khu phố có đông người qua lại, có nhiều tiệm phát triển thành hai, ba tiệm cùng mang chung một thương hiệu. Số còn lại mở chung trong các siêu thị lớn của người Việt Nam.
Trong câu chuyện "trà dư, tửu hậu" hôm nay, tôi chỉ xin đề cập đến hai tiệm cơm chỉ đặc biệt đối với tôi. Tiệm thứ nhứt là "BM số 1 FTG" nằm trên đường Bolsa. Đây là một trong những tiệm "Cơm Chỉ" khai trương đầu tiên và tôi là người đầu tiên và thường xuyên đến tiệm này. Sau nhiều năm ăn cơm chỉ, ngày nay tôi đã là "sở hữu chủ" của một "mệnh phụ" và ba "nhóc tì" nhưng hôm nào "cơm không lành, canh không ngọt", "mệnh phụ" "giả vờ bệnh" không nấu nướng. Hoặc năm nào làm nhiều giờ phụ trội (over time), "bà xã" vui vẻ, thỏ thẻ rằng: "Em nhớ ba má quá" xin về Việt Nam ăn Tết hết tháng Giêng, thì nhờ tiệm "Cơm Chỉ" này mấy cha con tôi vẫn có những bữa ăn ngon lành. Thỉnh thoảng, trong bữa cơm chung với các con, câu giới thiệu tiệm "Cơm Chỉ" của Little Saigon Radio:. . . thơm, ngon, tươi, mới. . . nấu như mẹ nấu ở nhà hiện về trong tâm trí, tôi thấy tác giả nào đó nghĩ ra câu quảng cáo so sánh này hay và đúng quá, nhứt là mấy "nhóc tì", bất cứ món ăn nào có dính dáng đến "má mì" dù mua ở tiệm đem về hay nấu ở nhà chúng điều khen ngon.
Tiệm thứ hai là "HL Sandwich FTG" cũng ở trên đường Bolsa, tiệm này khai trương sau tiệm số một nhưng cũng thuộc thành phần "lão làng", ngày nay đã ngưng hoạt động nhưng đối với tôi có nhiều kỷ niệm đẹp, hay nói đúng hơn, đã làm thay đổi hẳn cuộc đời tôi. Lúc bấy giờ tôi "share phòng" ở khu đường Magnolia, thuận đường lên freeway 405, chiều chiều đi làm về tôi thường ghé tiệm này mua phần ăn cho buổi tối thay vì cứ dùng thực đơn "Cao Lương, Mỹ Vị" hoài sợ sẽ quên dần hương vị quê hương.
Trong tiệm "Cơm Chỉ" này. Lúc bấy giờ, ngoài cô gái xinh đẹp con chủ tiệm đứng ở quày tính tiền, có hai cô thường trực đứng tại khu có những khay thức ăn nóng để phục vụ khách hàng. Hai cô này tuy dung nhan không làm nghiêng thành, đổ nước nhưng nét duyên dáng, mặn mà cũng làm say đắm những chàng thanh niên độc thân, sống cô đơn nơi đất khách, quê người. Thoạt tiên khi đến mua phần ăn, tôi không mấy quan tâm đến hai cô bán hàng duyên dáng, dễ thương này, chỉ nhìn vào những khay thức ăn quen thuộc, dễ gọi, không dám gọi những món lạ sợ nói không đúng tên món ăn cô bán hàng sẽ cười, xấu hổ lắm. Thời bấy giờ chưa có tên "Cơm Chỉ".
Dần dà, có lần một trong hai cô bán hàng ngẩng nhìn tôi, hỏi: "Sao anh cứ ăn những món này hoài không mua những món khác để thay đổi khẩu vị?" Kỷ niệm tình yêu tuổi trẻ đã xa như quê nhà. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời tị nạn tôi được một người đẹp duyên dáng gọi "anh". Chỉ vậy thôi mà sao trong lồng ngực, con tim tôi thấy niềm vui rộn rã bởi tiếng "anh" nghe ngọt ngào làm sao. Nhờ sự "cố vấn" của cô bán hàng tử tế, tôi liều "nhắm mắt đưa tay" chỉ thêm vài món mới.
Nhân dịp này tôi muốn khoe cùng quý vị buổi chiều hôm ấy tôi có một bữa cơm thật ngon nhưng giấc ngủ đến với tối không trọn vẹn vì hình ảnh cô bán hàng và âm thanh "anh" luôn luôn ẩn, hiện chập chờn trong tâm trí.
Tôi không ngờ cuộc đời tôi bắt đầu thay đổi từ đây. Mỗi chiều khi đến mua phần ăn, tôi không mua theo ý mình như từ trước mà chỉ nói, cô bán cho tôi phần ăn, món nào cũng được tuỳ ý cô. Vô tình, tôi đã gián tiếp giao cho nàng quản lý vấn đề ăn uống của tôi. Kể từ hôm ấy, phần ăn tối của tôi nhiều hơn, nhìn hấp dẫn hơn và món ăn nhiều dinh dưởng hơn, mặc dù tôi cũng chỉ trả $2.00 (giá tiền một phầ ăn "Food to go" thời ấy).
Đọc được chút thiện cảm nàng dành cho tôi qua những phần ăn tôi mua hàng ngày, từ nay mỗi lần đến mua phần ăn tối, tôi không còn nhìn những khay thức ăn nữa, tha hồ ung dung đứng nhìn trộm cô bán hàng. Nàng đẹp, đẹp thật. Đôi môi chín mộng, ánh mắt long lanh, tóc mai loè xoè quyện chút mồ hôi với đôi má ửng hồng do hơi nóng từ những khay thức ăn tỏa lên. Mắt, môi, mũi, miệng hài hòa trên khuôn mặt rạng rỡ, phủ bờ vai bằng mái tóc đen mượt càng làm nổi bật nét đẹp duyên dáng của người phụ nữ á đông đang độ xuân thì.
Chắc quý vị còn nhớ, hơn hai mươi năm trước, phong trào làm đẹp cho phụ nữ bằng phương pháp: "Hút, Bơm , Cộ, Cắt, Nâng, Xâm..." chưa được tân tiến và quảng cáo rầm rộ như hiện nay nên nàng vẫn giữ nguyên vẹn vẻ đẹp tự nhiên. Nàng đứng bên trong quày hàng nên tôi chỉ ngắm được nàng từ trên xuống đến nửa lưng chừng. Chỗ cần "bôm" của nàng tôi thấy đã quá lý tưởng, đẹp như người trong tranh. Chỗ muốn "hút" của nàng tôi thấy chưa cần thiết. Căn cứ vào hai "vùng chiến thuật" trên đây, tôi tưởng tượng vòng số bai của nàng chắc phải tuyệt vời lắm. Chỉ nghĩ đến đó thôi, tôi cũng thấy quên ăn, mất ngủ.
Nhìn hình dáng nàng hiện hữu trước mặt, lòng tôi nhen nhúm dâng lên một niềm ước mơ: "Đưa nàng về dinh." Câu hát quen thuộc: . . . "Anh đưa em đi về, về quê hương yêu dấu. . ." Tôi xin phép tác giã tự đổi lại: . . . "Anh đưa em đi về, về nơi anh đang sống. . . Anh đưa em đi về, về nơi anh share phòng. . ." Để đêm đêm tự hát cho riêng mình tôi nghe.
Thời ấy, tuổi thanh niên đang sung mãn và tràn đầy sức sống, nhưng tôi vụng về và nhút nhát làm sao. Nhiều lúc tôi muốn gọi nàng bằng "em", miệng đã mở ra nhiều lần nhưng nói chẳng nên lời.
Bốn chữ: "Đưa nàng về dinh" nghe đơn giản nhưng làm thế nào để được mở cửa xe hoa cho nàng bước lên cũng thật "trầy vi, tróc vẫy" và lắm công phu.
Cái khó khăn đầu tiên là làm thế nào để biết được nàng là hoa đã có chủ hay chưa. Tôi đem điều suy tư này tâm sự với một người bạn cùng tuổi, làm cùng sở và đã có gia đình. Theo kinh nghiệm bản thân, người bạn này bảo: "Dễ thôi, anh cứ nhìn vào ngón tay đeo nhẫn của cô ta là biết ngay. Các cô khi đã là hoa có chủ luôn luôn ngón tay áp út có chiếc nhẫn".
Nhờ bài học kinh nghiệm này tôi mới biết nàng là hoa đang sẵn sàng chờ người đón về cắm vào bình. Những giai đoạn kế tiếp, tôi xin phép quý vị kể vào dịp khác, dài dòng lắm. Bây giờ tôi tự hào nói cho quý vị biết nàng đang là một bình hoa đẹp được trang trí trong nhà tôi.
Cám ơn Thượng Đế đã cho con đi vượt biên được an toàn, đến được bến bờ tự do, có cuộc sống an cư, lạc nghiệp. Đặc biệt, có bình hoa đẹp trang trí trong nhà (bắt chước một xướng ngôn viên đẹp trai của một đài phát thanh "nịnh đầm" chút). Cám ơn "Food To Go" và "Cơm Chỉ" đã cho tôi điều kiện để rước được nàng tôi yêu về dinh và đặc biệt cám ơn "bà xã" đã cho anh chuỗi ngày hạnh phúc tuyệt vời nhiều hơn thời gian "cơm không lành, canh không ngọt".
Cánh cò trên đảo Đình Vũ
“Tôi xa Hải Phòng hơn hai chục năm rồi mà vẫn nhớ một thứ đặc sản, bình dân thôi, nhưng đúng là đặc sản Hải Phòng. Không! Không! Chẳng phải phở mà có người bảo trên tài phở Hà Nội, chẳng phải bánh chưng Thủy Nguyên vừa to vừa rền, chẳng phải nước mắm Cát Hải, chẳng phải mực Cát Bà mà có thời là của lạ trong nhà hàng một số nước Đông Âu. Nó dân dã mà đậm đà, chỉ nghĩ đến thôi cũng khoái. Ông cười gì? À, ông nghĩ đến cái món “đặc sản” mà tôi giới thiệu chọc ông lúc ông đang lớ ngớ mới làm dân Hải Phòng chứ gì! Cái món “quả dừa” Đồ Sơn ấy tôi cũng chỉ “đánh trận mồm” thôi có đi vào thực địa đâu mà đeo đẳng kí ức. Món tôi nói đây là cá bống Đình Vũ. Ông lại cười! Tưởng là gì, phải không? Cá bống, nhưng là cá bống Đình Vũ! ”.
Hình như tôi hiểu ông bạn. Hẳn là cá bống Đình Vũ chẳng phải có gì đặc biệt khiến rạng danh văn hoá ẩm thực đất Cảng, trừ khi có những “gia vị” phi vật thể. Ấy là vào những năm túng thiếu, túng đói nữa, trước hết là về thực phẩm. Dẫu dân thành phố đã tận dụng những mảnh đất trống để trồng rau; tận dụng bếp, hành lang để nuôi heo, nuôi gà. Hải Phòng kề biển mà đến cá khô cũng hiếm. Thế rồi có “phong trào” sắm cần câu. Ờ, ngoại thành thiếu gì ao chuôm, sông ngòi. Chớ! hợp tác xã quản lí cả đấy. Rỉ tai nhau : ở đập Đình Vũ....Cũng chỉ rủ những ai thân tình; buổi đầu cần có bạn. Nơi ấy hoang vắng lắm. Phải đạp xe hơn mười cây số. Lại phải đến đấy vào lúc kề hoàng hôn cá mới ham cắn câu ( chớ chẳng phải ngại ban ngày ban mặt đâu, hỉ! ) . Chẳng lâu la gì người ta phát hiện ra ở đập là “mỏ” cá bống. Cá này kho nước mắm-đường-tiêu cho quánh lại theo lối trong nam thì khỏi nói ( kể ra thì buổi ấy nước mắm, đường, tiêu chẳng sẵn lắm đâu ). Cải thiện bữa ăn , “sang” ấy chứ , bên đĩa rau muống luộc.
Chiều xuống, rồi chạng vạng bóng hoàng hôn quanh quất , những bóng người rải ra đứng canh bên bờ đá . Thỉnh thoảng những động tác tay đập muỗi và những câu nói vọng sang nhau chẳng khuấy được cái u tịch triền miên; một bên là đảo hoang sình lầy , “ lãnh địa “ của cây dại , muỗi mòng , rắn rết ,...; một bên là những đồng bãi với xóm làng xa mờ mờ sương khói .Có khi chấp chới muộn mấy “bóng cò trên đảo cánh phân vân” (*) .
Đảo Đình Vũ vốn bị kẹp giữa hai dòng sông rộng : sông Bạch Đằng và sông Cấm , nhìn ra hai cửa biển : cửa Nam Triệu và cửa Cấm.
-Khi chưa có cái đập ngăn sông Cấm nối đảo với đất liền , Đình Vũ chỉ là cái đảo hoang chưa biết đến dấu chân người ....
-Nói hay thật! Vậy chớ hồi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đi nghiên cứu thực địa để lập trận tuyến phục kích quân Nguyên-Mông trên sông Bạch Đằng lại không đảo qua mảnh đất chẳng hẹp trấn ngoài cửa sông này chăng ? Lại nữa , quận He Nguyễn Hữu Cầu , người từng dọc ngang trên sông Bạch Đằng , khi quần nhau với quân Trịnh , nhất là khi bị bạn đồng môn cũ Phạm Đình Trọng rượt đuổi tìm diệt, không có lúc phải ém quân nơi đây sao ? Cái tên Đình Vũ khá chững hẳn đã được đặt ra một cách “ chính qui” chứ không truyền miệng mà thành như Quả Muỗm , Cái Bèo ,... Đảo hoang không có nghĩa là bị bỏ rơi. .
-Ờ , nghe nói hồi Pháp còn đô hộ nước ta , tức là trước năm 1945 ấy, có người đã tìm cách khai phá Đình Vũ nhưng Tây nó không cho .
-Cũng có thế . Thời ấy , ra đó kiếm ăn lẻ thì được , còn đậu lại thì khó . Những “tay chơi” mà được trấn trên Đình Vũ có thể đột kích các tàu ra vào cảng ...
-Tây nó cũng ngu nhỉ ! Không biết dùng Đình Vũ làm bàn đạp mà vươn thẳng ra Cát Hải , Cát Bà , lại dùng đường thuỷ quanh queo .
-Có thể chúng ngu hơn ông , nhưng chúng ranh chán . Có cảng Hải Phòng thì phải quan tâm đến đường thuỷ chứ . Rồi chuyện liên lạc với vùng than . Nên nhớ là thực dân Pháp là bọn bần tiện nhất trong lũ thực dân . Người ta nói :bị đế quốc đô hộ đã là bất hạnh rồi, song, sa vào tròng đế quốc Pháp còn khốn nạn nữa . Giáo sư Trần Văn Giàu nói : “Các đế quốc khác khai thác thuộc địa , ăn thịt chúng còn để lại ruột non ruột già cho dân bản xứ ; còn đế quốc Pháp thì xực tất , cả những thứ trong ruột ” . Xây dựng , phát triển chút gì ở thuộc địa , chúng cũng nhằm kiếm lợi cho “mẫu quốc”, chứ chẳng nhằm khai hoá người bản xứ như chúng vẫn rêu rao đâu ! Có thể chúng cũng có nghĩ đến con đường từ Cát Hải xuyên qua Hà Nam bắt vào con đường Mười ở quãng Quảng Yên . Nhưng xét lợi ích kinh tế hay yêu cầu quân sự chẳng có gì đáng để chúng đổ công của vào chuyện đó . Sau này , người Hải Phòng “nội địa” cũng thấy Cát Hải , Cát Bà quá là diệu vợi , nhưng là cái kiểu “gần nhà, xa ngõ". Hà Nam sát liền Cát Hải đấy nhưng lại thuộc tỉnh khác . Ngày ấy , phà vượt biển đã khó , nói chi cầu qua biển . Từ chót cuối đảo Đình Vũ , ngóng sang bên kia lạch biển thấy dải núi mờ xanh , xa thật là xa .
Một ngày đẹp trời nọ , có chàng kĩ sư trẻ dè dặt đề xuất việc nối đảo Đình Vũ với đất liền . Một cái đập ngăn sông Cấm .
Cái đập ra đời mang tên đảo . Có cái đập , đảo Đình Vũ gắn với đất liền như một bán đảo , nhưng vẫn hoang vu và lầy thụt, loi thoi cây ngập mặn .
Chung quanh chuyện cái đâp này cũng lắm ý kiến , thường là đồn thổi. Người thì khen những triển vọng. Ngó xa, sẽ là mở ra cửa ô thứ năm vươn tới huyện đảo Cát Hải. Nhìn gần, một mặt tập trung dòng nước cho cửa ngõ vào cảng Hải Phòng ; mặt kia ngăn dòng cho nuôi trồng thủy sản. Người thì chê những dự định dựa trên tham vọng nhiều hơn là hiểu biết thấu đáo. Có vẻ như đã thấy vài hệ quả. Bên này, đảo Cát Hải : “Ôi chao! bờ biển bị lở ngày càng nhiều!”. Bên kia, khu nghỉ mát Đồ Sơn : “Ôi chao! Bãi tắm bùn đọng như ruộng sắp cấy!”. Mà thu hoạch thì xem ra... Có một chuyện nghe như chuyện cười dân gian. Một hôm, có vị lãnh đạo cấp cao về thăm Hải Phòng. Vị đứng đầu địa phương đưa đi thăm thú các nơi. Đến đầm nuôi thủy sản Đình Vũ, người ta cho kéo lên những con cua xinh thật là xinh, vị lãnh đạo cấp trên không ngớt lời khen ngợi “cứ thế này mà tiến lên!”. Nhưng kìa! mấy tay nhà báo láu lỉnh đang bấm chóe nhau chuyện gì vậy? Thì ra có càng cua còn quắp chặt sợi lạt buộc mà người ta đã cởi ra trước khi thả con “bò ngang” xuống nước. Họ rỉ tai nhau : gần một nửa “đại đội” cua từ chợ Sắt trẩy về ém tại đây từ sớm.
Nếu chỉ là những kế hoạch cò con, chắp vá, hoặc để đối phó hay khoe mẽ thì “cõi đất” Đình Vũ mười ki-lô-mét vuông mãi mãi chỉ là cõi hứa trên miệng và trên giấy.
Đảo chính của Ma Cao cũng chỉ khoảng 10 km2, từ rất lâu đã là một đô thị hiện đại với chừng 40 vạn dân (mật độ cư dân vào hàng cao nhất thế giới) hàng năm đón 10 triệu du khách ; tổng thu nhập hàng chục tỉ đô la Mĩ / năm . Ma Cao chỉ có một ít công nghiệp nhẹ, kĩ nghệ chủ yếu là du lịch, nhất là sòng bạc. Riêng khoản sau thu 10 tỉ USD mỗi năm (60% số đó nộp cho Bắc kinh). <Các số liệu năm 2003>. Chưa kể các khoản thu từ nhà hàng, khách sạn,...
Đình Vũ, nếu là khu du lịch, khó mà kiếm được lượng khách như Ma Cao. Không nói những điều kiện khác như vị thế, lịch sử,... chỉ riêng các sòng bạc đã thu hút 80% lượng khách đến Ma Cao. Đình Vũ có “gan” và có “tài” mở ra “vương quốc đỏ đen” như họ không? Cũng dễ hiểu là dự án khu kinh tế Đình Vũ đi theo hướng khác.
Bây giờ thì cái đảo hoang đang trở mình. Những bước đi đầu tiên của một dự án qui mô và dài lâu đang báo trước một Đình Vũ hoàn toàn lột xác và vươn dậy.
Đảo hoang Đình Vũ như là biểu tượng sự giới hạn trước những thách thức tự thuở năm mươi người con theo cha Lạc Long Quân tiến ra phía biển khởi đầu công cuộc khai phá đồng bằng và ven biển, chuyển dần từ phương thức hái lượm, săn bắt sang phương thức trồng trọt, chăn nuôi, và (manh nha) khai thác biển. Biết bao thế hệ kế tiếp nhau đã dựng nên cơ đồ ngày một hoàn thiện hơn. Song le, trải hơn bốn nghìn năm từ thời kì đồ đá đi lên cho tới thế kỉ 20, đất nước chúng ta chưa vượt lên khỏi thời kì đồ sắt thủ công nghiệp, đang lẽo đẽo theo sau công cuộc công nghiệp hoá của thế giới tiền tiến. “Người đẹp” Đình Vũ nằm ngủ hàng mấy nghìn năm giữa bao tiềm năng chờ chàng “hoàng tử” hiện đại hoá đến đánh thức. Song, chẳng phải chàng nào mang danh công nghiệp hoá cũng hợp duyên.
Lần đi thăm Đình Vũ mới đây, tôi bắt gặp một đàn cò trắng mấy trăm con từ một đầm nước bay lên lượn vòng, -hình ảnh thân thuộc chốn đồng quê mà nay đã hiếm đi.
Những đàn cò này mai ngày sẽ về đâu? Hỏi vậy kiểu trách cứ thật là lẩn thẩn. Nếu cách sử dụng thuốc bảo vệ thực vật vô tội vạ khiến cho cánh cò thưa dần trên ruộng đồng ; nếu việc hiến những vùng đất bờ xôi ruộng mật cho các khu công nghiệp, sân gôn,... thay vì những chốn khô cằn, hoang hoá, để chiều các nhà đầu tư, khiến cho các đàn cò lơ láo nơi thôn quê là đáng chê trách, đáng lên án thì lẽ nào cứ giữ những nơi như Đình Vũ mãi mãi hoang vu!
Hỡi cò! Con người cũng phải kiếm sống. Nhưng con người chẳng thể như cò chỉ với đôi chân và cái mỏ, dẫu người Việt Nam ta từng ví đám người đáng quí nhất, đáng trọng nhất, mà cũng đáng mủi lòng nhất, với “thân cò lặn lội bờ sông”. Con người trên xứ sở này cần tiến bước cùng thiên hạ, phải nhờ vốn của người ta, kĩ thuật của người ta, cung cách làm ăn của người ta. Dĩ nhiên, chẳng phải họ đến với mục đích giúp dân bản xứ giàu mạnh lên. Chỉ có hiểu biết, tỉnh táo và “lành mạnh” mới có thể cùng họ chia phần thoả đáng. Còn phần của cò? Những toà cao ốc, những đường cao tốc, những cảng nước sâu, những chiếc cầu vươn dài trên biển nối Đình Vũ với Cát Hải, Cát Bà chẳng là “đất lành” để cò đậu. Nhưng cò hãy an tâm đi, hay ít ra thì cũng gắng mà tin như chúng ta ràng : những đô thị văn minh bao giờ cũng có rừng cây, mặt nước, -những “lá phổi xanh”, trong lòng nó và vùng ven ; rằng những vành đai cây ngập nước làm lá chắn phòng hộ không bị đối xử chểnh mảng, vô trách nhiệm hoặc thực dụng một cách thiển cận, vơ vét,... ; rằng vân vân...
Rồi đây, chẳng còn cánh cò chao liệng trên hòn đảo này. Bao giờ khu kinh tế Đình Vũ cất cánh? Tôi mường tượng rằng sẽ có lúc mình đến đứng trên một điểm cao nào đó của khu đô thị Đình Vũ mà ngóng xa thấp thoáng bóng cò bay...
(*) Thơ Xuân Diệu : “ Con cò trên ruộng cánh phân vân”
Hải Phòng, 11 – 2008
Marcel
Canh Rau Sam
Lần đầu tiên tôi được biết đến canh rau sam là ở tại nhà "nó". Hồi đó, ngày ngày tôi chăm chỉ đạp xe đến Thanh Xuân Bắc để nó phụ đạo cho môn toán (mà dân ngại nghĩ như tôi vẫn gọi đùa là ôn oán). Tôi trở thành thành viên "ăn trực" ở nhà nó lúc nào không hay...
Trưa hôm đó, nắng nóng ghê lắm... Mẹ nó bảo sẽ chiêu đãi hai cử nhân tương lai một món canh đặc biệt... Hai đứa tôi háo hức lắm, vừa học bài vừa suốt ruột ngó đồng hồ liên tục... Mẹ nó vừa bảo "nghỉ ăn trưa thôi hai đứa" là tụi tôi đã xà ngay xuống chiếu... "Món đặc biệt đâu hả mẹ" - nó hỏi ngay... "A, món canh này ạ"... Nó thử, tôi cũng nhanh nhẹn theo bạn (thế mới là đôi bạn cùng...thử)... "ôi, chua quá"... Quả đúng thế thật, canh rau sam có vị chua nhẹ, lại có kiểu dính dính nhớt nhớt của rau mùng tơi... Thấy hai đứa tôi, đứa chun mũi, đứa nhăn mặt, mẹ nó cười bảo "rau này mát và bổ lắm đấy"... Thỉnh thoảng ở nhà mẹ tôi cũng nấu "canh láo nháo", trong đó điểm xuyết vài cọng rau sam, nhưng canh mà chỉ toàn rau sam thế này thì tôi chưa biết thật... Vị sao mà lạ quá, khó ăn quá... Đó là những năm lớp 8, khi chúng tôi chuẩn bị thi vào cấp 3...
3 năm sau... Nó bấm chuông inh ỏi, chuông xe đạp tàu mà cũng kêu ra phết... "Đi với tớ một lát đi"....Nhìn mặt nó lúc đó, tôi không dám hỏi thêm một câu, líu ríu dắt xe theo sau... Oh, tưởng đi đâu, hoá ra lại là đi chợ... Mà lạ thế, sao nó lại chỉ hỏi mua rau sam nhỉ "Rau sam mùa này làm gì có hả con gái, lạnh thế này cơ mà, mua bắp cải này ăn có phải ngon hơn không, bác bảo này..." Nó lầm lỳ không nói một câu, lại vòng sang chợ khác... Và chợ nào nó cũng hỏi mỗi rau sam.... Đến chợ Bưởi, tầm chợ thứ tám thì tôi kiên quyết không chịu đi nữa nếu không được biết mục đích tìm mua cai loại rau "láo nháo" kia... sao lại phải mất công mất sức đến thế ... Mà nó có ngon lành gì đâu cơ chứ... Nó oà khóc khi nghe tôi cằn nhằn... tôi ngẩn tò te bối rối... trong tiếng nức nở đứt đoạn của nó, tôi bàng hoàng đến lặng người khi biết mẹ nó bị ung thư.... Mẹ nó thèm ăn chút rau sam cho mát...
Thế mà cũng đã gần 2 năm mẹ nó ra đi... trong suốt một thời gian dài, tôi thay nó, đi chợ tìm mua rau sam để nấu làm nước uống hàng ngày cho mẹ nó... Nghe mọi người chỉ rau sam dễ mọc, dễ tìm, tôi cũng cố để ý tìm hái cho được. Thậm chí tôi quyết tâm trồng một vườn toàn rau sam... Loại cây thân mỏng mảnh, cánh xinh xinh đầy đặn dần dần đã trở nên rất quen thuộc với tôi....
Thật bất ngờ khi tôi được mời thử một bát canh rau sam tại đất Pháp này... Vẫn cái vị chua chua ngày nào... Mai phải hỏi xem rau sam ở đâu mới được, nó nhỉ?
Ngô Viết Trọng
Chim ơi! Vĩnh biệt sao đành!
Lời tác giả: Ở đời có những chuyện nói ra nghe khó tin nhưng lại là chuyện rất thật. Khi viết lại (2001), tôi vẫn thấy chuyện này như mới xảy ra, mặc dầu nó đã qua đi 25 năm rồi. Nó có những hình ảnh khiến người ta liên tưởng đến thời nô lệ thượng cổ trung cổ rất xa xưa nào đó: Hai người đàn bà trẻ cầm hai cây roi, xông xáo giữa một đám đàn ông trần truồng, tay chân khẳng khiu lòng khòng với dáng vẻ những con kanguru... Nhân chứng biết chuyện giờ vẫn còn nhiều.Tôi có gọi điện thoại đến một số người trong cuộc để nhờ xác định lại một vài chi tiết. Chuyện xảy ra ở trại giam B5 Tân Hiệp, Biên Hoà, vào năm 1976.
Khoảng cuối năm Ất Mão, không biết bệnh ghẻ phát xuất từ đâu, lan tràn nhiều nơi ở miền Nam Việt Nam và đặc biệt phát triển mạnh trong các trại tù. Ghẻ lan đi như một trận dịch. Người ta nói ghẻ theo chân mấy anh bộ đội từ rừng sâu về đồng bằng nên cũng gọi là ghẻ bộ đội. Nó không chỉ phát triển ở người mà còn ở các loài khác như chó, mèo và cả đến các loài sống dưới nước nữa. Những ai sống gần đồng gần suối lúc bấy giờ hẳn đã thấy những con cá da bị lở loét gớm ghiếc bơi lờ đờ, có con tưởng chừng như chỉ còn cái đầu với bộ xương...
Khoảng tháng 7 tháng 8/75, tôi bị đưa vào trại giam B5 Tân Hiệp Biên Hoà. Trại này có mười bốn phòng, chứa ngót ngàn người. Mỗi phòng đều có cầu tiêu và bể lớn chứa nước. Tuy vòi nước chảy mạnh, mở tự do, nhưng lượng người quá đông nên việc tắm rửa rất khó khăn. Bị nhốt chừng một tháng thì một số tù bắt đầu bị ghẻ, khởi đầu bằng những nốt nhỏ ngoài da làm cho người ta ngứa ngáy khó chịu. Trại không có thuốc trừ ghẻ nên bạn tù đã “sáng tạo” ra cách lấy nước đắng trong các ống thuốc lào để xức. Mặc dầu thứ nước đen đó có một mùi hôi rất khó chịu nhưng nhiều người vẫn tranh nhau xin để dùng. Kết quả nhiều hay ít không rõ, chỉ biết rằng, ghẻ vẫn lan ra.
Rất tội cho những người bị ghẻ “tiền phong”! Ghẻ hành hạ họ đã đành, cái lòng, cái đầu họ cũng muốn lộn tung lên vì bị bạn bè xa lánh có khi đến độ phũ phàng! Người bị ghẻ tiếp theo sau cứ trách người bị ghẻ trước “Vì mày lây sang cho tao đấy!” Trong hoàn cảnh từ chỗ nằm đến chỗ để đồ đạc đều ở trong thế ép buộc “chen vai sát cánh”, vậy mà cũng phải cắt chiếu phân ranh! Cái dây mùng, cái chéo áo bên này vướng qua bên kia một chút đôi khi cũng sinh chuyện. Những cái miệng nhỏ nhen cứ mở ra là “Ở dơ thì sinh ghẻ chứ có gì lạ!” hoặc “Ghê tởm quá! Thế mà không biết chút lịch sự, cứ chung lộn với người ta!” Thậm chí khi chia đồ ăn, có cả chuyện người lành hất chén của người bị ghẻ khi người này vô tình đặt chén gần chén mình. Không thiếu những toán “người lành” ngồi với nhau rỉa rói những người bị ghẻ. Nói không quá đáng, họ hất hủi những người bị ghẻ thiệt tình như “con chó ghẻ”. Có anh còn lên mặt giảng giải về phép vệ sinh, về phép xã giao, lịch sự nọ kia... tưởng chừng như mình là kẻ hoàn toàn tốt. Một số sợ ghẻ đến nỗi phải nhịn phần ăn quá đạm bạc của mình để thuê những người sáng mắt bắt con ghẻ trong các mụn ghẻ. Người ta dùng cái kim khều khều trong mụn ghẻ rồi khươi ra những sinh vật cực nhỏ, mắt thường rất khó thấy, quệt lên một cái gì đó. Chính mắt tôi đã thấy những sinh vật li ti này nhúc nhích. Trông con ghẻ hơi giống con nhện, nhỏ hơn cả con “mạc” gà. Tuỳ người ghẻ nhiều hay ít, người ta linh động ấn định số lượng con ghẻ bắt ra được để lấy một phần ăn hay nửa phần ăn. Nhưng bắt mãi ghẻ vẫn lan nên nghề này rốt rồi cũng không thọ.
Dịch ghẻ lan thật nhanh. Nhiều người tắm xát xà phòng như điên hàng ngày vẫn không thoát. Rồi những người hay giảng phép giữ vệ sinh cũng không ngăn chận được bệnh ghẻ đến với họ. Chuyện trớ trêu là cái người hay nói chuyện vệ sinh, hay mỉa mai khinh bỉ những người bị ghẻ nhất về sau lại dẫn đầu về ghẻ. Đó là ông Ẩn. Tôi là một trong những người bị ghẻ đầu tiên, ông ta từng nhìn tôi bằng cặp mắt khinh thị như nhìn con quái vật. Mãi tới ngày ông Ẩn được thăng ngạch ghẻ “thượng hạng ngoại hạng” ông mới chịu nở với tôi một nụ cười. Lúc ấy trong phòng không còn ai tránh được ghẻ nữa, còn khác nhau chăng là ghẻ nặng hay nhẹ. Có điều ai cũng nhìn nhận là người da sáng sủa bị ghẻ chiếu cố mạnh mẽ hơn người da tối tăm. Một điều khá tức cười nữa là con ghẻ cũng biết nể “thể diện” con người. Nó mọc khắp chỗ hở, chỗ kín, trên đầu, khắp bàn chân, bàn tay... nhưng nó vẫn chừa ra cái mặt cho bất cứ ai. Phong trào “gảy đàn” trong phòng phát triển sôi nổi. Càng gãi càng ngứa! Càng ngứa càng gãi! Lúc này hết còn ai đổ thừa cho ai vì tất cả đều đã bị nhiễm ghẻ. Nhưng nhìn chung, những người có thăm nuôi được bồi dưỡng ghẻ vẫn ít phát triển hơn. Ngược lại, những người thiếu thốn lại còn dễ mang thêm môt chứng bệnh khác: bệnh tê bại. Dần dần có một số người phải bò lết thay vì đi đứng bình thường.
Có người bị ghẻ chay, mọc nốt trên da, tuy ngứa nhưng không làm mủ, loại này tương đối ít dơ dáy. Có người lại bị ghẻ mủ, chỗ nào cũng mưng lên từng cục mủ, lớn thì bằng hạt bắp, mọc nhiều ở lòng bàn tay, bàn chân, nhỏ thì bằng mũi kim mọc khắp mình mẩy, đụng đến thì vỡ ra nhầy nhụa tanh tưởi không ai chịu được. Cũng có người bị mang cả hai loại. Tôi thuộc dạng chay, mủ kiêm toàn này. Về sau có một số người bị ghẻ nặng đến độ kiệt quệ.
Ghẻ mủ làm người bệnh khổ sở hơn ghẻ chay rất nhiều. Người bị ghẻ nặng luôn đau đớn theo từng cử động. Nằm ngửa, nằm nghiêng, nằm sấp đều đau đớn theo từng cái trở mình. Ngồi không yên nằm cũng không ổn, thức chẳng xong ngủ cũng chẳng xuôi. Tôi đã lâm cảnh đau đớn, đờ đẫn, mê mê mệt mệt, ngày cũng như đêm. May lắm khi nào trời mát lạnh tôi mới thực sự ngủ được chút ít. Tôi chỉ tỉnh hẳn người mỗi khi được mở cửa cho ra sân trại tắm nước phèn và phơi nắng.
Sân trại giam hình chữ nhật, đất pha cát, có một số giếng đào không sâu lắm, nước đầy phèn. Sân cũng có trồng vài cây trứng cá để lấy bóng mát. Ban đầu trại ấn định hằng ngày cán bộ trực từng đợt mở cửa một hai phòng cho tù ra sân hít thở, phơi nắng một hai tiếng. Những lúc được ra chơi như thế, hầu hết tù nhân chỉ mặc quần xà lỏn và ở trần. Trong dịp này, một số tù cũng đem áo quần ra giặt phơi, tắm táp. Cũng có người thèm thuốc quá nhưng không có thuốc, họ phải hái lá trứng cá khô vấn hút cho đỡ ghiền. Đây là những dịp tốt cho tù khác phòng chuyện vãn, trao đổi gởi gắm quà cáp cho nhau.
Về sau, thấy người bị ghẻ và tê bại ngày càng nhiều, trại đặc ân cho những tù bệnh nặng ở tất cả các phòng đều được ra sân suốt ngày. Họ được tắm giặt, phơi phong thoải mái. Đó là cái ân huệ mà chẳng người tù nào muốn từ chối. Dù không làm được gì họ cũng dựa cây dựa tường để hít thở thoải mái, tránh bớt được cái ngột ngạt hôi hám trong phòng. Nghiễm nhiên họ cũng trở thành những tay liên lạc tốt giữa các phòng tù.
Nhưng dù cho tù bệnh ra sân thường ngày mà khan hiếm thuốc chữa và thiếu bổ dưỡng thì bệnh đâu có giảm! Thấy được điều đó, trại phải lo tìm một biện pháp mới.
Một buổi sáng, viên cán bộ tới mở cửa cho bọn tôi ra ngoài dặn:
“Mấy anh bị ghẻ mủ đem tất cả áo quần theo ra ngoài hết!”
Dặn xong anh ta bỏ đi mở cửa các phòng khác. Chúng tôi bắt đầu phỏng đoán nọ kia. Có thể là đổi phòng. Dám lần này họ dồn những tù ghẻ nặng về một hay hai phòng để cách ly cho ghẻ khỏi lây lan lắm. Thật sự số tù bị ghẻ và tê bại nặng được cho ra ngoài lúc bấy giờ chắc đã cao hơn con số một trăm. Người nào cũng trơ bộ xương cách trí, bụng thóp lại, hai tay do chứng tê bại tạo cho họ thói quen co gập cổ khuỷu lại trước ngực, hướng lòng bàn tay và các ngón ra phía trước, bước đi lựng khựng trông chẳng khác gì những con kanguru. Viên cán bộ mở các cửa phòng xong, bỏ đó mặc ai làm gì thì làm, đi mất tiêu.
Chừng nửa giờ sau, tôi thấy hai người đàn bà trẻ, một khá mập, một mảnh khảnh đều mặc áo bà ba đi vào, mỗi người cầm một cây roi. Cả hai đều khoảng hăm lăm hăm bảy tuổi. Đi gần đến chỗ bọn tôi đứng thì họ ngừng lại. Hai bà lặng lẽ nhìn người này rồi người khác như xoi bói điều gì. Chốc sau lại có hai người tù khỏe mạnh từ phía nhà bếp vác hai cái bao nhỏ nhưng khá nặng đến quăng xuống gần thềm một cái giếng. Đó là hai bao muối hột. Tiếp đó là bác sĩ tù Lê Công Hùng tay xách hai cái xô chứa nước bước đến. Ông vốn người Bắc, cựu thượng uý, vào Nam dự chiến dịch Mậu Thân và bị bắt trong dịp này, sau đó xin cải danh thành chiêu hồi. Ông được trại chọn làm bác sĩ khám bệnh cho tù. Chúng tôi chưa hiểu họ định làm gì thì người đàn bà mảnh khảnh đến trước mặt tôi, nhìn tôi từ đầu đến chân rồi nghiêm nghị nói:
“Cởi quần ra!”
Tôi ngạc nhiên như trên trời rớt xuống. Lúc ấy trên thân tôi chỉ có độc một cái quần đùi. Thế nghĩa là gì? Tôi ngẩn ngơ nhìn lại bà ta dò hỏi. Những bạn tù chung quanh cũng ngơ ngác nhìn bà ta và tôi. Bà ta lặp lại pha một chút cười:
“Tôi biểu anh cởi quần ra, anh nghe rõ không?”
Tôi hỏi lại:
“Cán bộ bảo cởi quần đùi này?”
Bà ta gằn giọng:
“Chứ còn cái gì nữa!”
Tôi đâu hiểu ý bà ta muốn gì. Mọi người đàn ông gần đàn bà lạ, lại là đàn bà trẻ trung láng lẩy, đều có cái xốn xang gió bão trúc gốc gẫy cành là chuyện thường tình. Cái lệnh “cởi quần ra” của người nữ cán bộ này khiến tôi vô cùng lúng túng. Tôi lo sợ sự nhạy cảm của mình. Nhưng liền đó, tôi chợt nhớ rằng, “hài nhi” của tôi đã bệnh liệt giường qua bao nhiêu ngày rồi...
Trong khi tôi đang dùng dằng thì người đàn bà hơi mập kia cũng chỉ một loạt nhiều anh tù khác ra lệnh:
“Tất cả mấy anh này cũng cởi quần ra hết!”
Qua mấy phút nhìn nhau, cả trăm người tù đàn ông đều tồng ngồng trước mặt hai người đàn bà trẻ. Thật là một cảnh tượng khác thường tôi chưa hề tưởng tượng tới bao giờ. Người đàn bà khá mập nói với bác sĩ Hùng:
“Anh lựa cho tôi mấy người mạnh khỏe!”
Bác sĩ Hùng lựa được sáu anh trong đám. Chốc sau chúng tôi mới biết mấy bà lựa những người này để múc nước tắm cho chúng tôi. Tôi và ba anh bạn khác được gọi lại đứng gần giếng để mấy anh kia dội nước và kỳ cọ cho. Hai cán bộ nữ đứng quan sát và đưa roi chỉ nặn mụt ghẻ này, gỡ mụt ghẻ nọ. Tuy có đau rát nhưng cái đau rát chịu đựng được có pha chút sảng khoái. Từ khi lên mười, tôi có bao giờ được ai tắm cho như vậy đâu!
“Xách xô nước kia lại đây!”
Người đàn bà khá mập ra lệnh. Một anh tù ì ạch xách xô nước đầy lại, trong đó có sẵn một cái lon gô. Xô nước đã được một người tù quậy hoà tan vào cả lon muối hột. Người đàn bà khá mập nói tiếp:
“Anh hãy múc nước trong xô dội cho anh này!”
Gô nước vừa dội lên mình là tôi nhảy dựng người và hét lên. Rát ơi là rát! Không khác gì xát ớt hiểm vào da bị thương! Tôi phải gập người lại, hai tay bụm lấy hạ bộ mà rên rỉ trong khi tiếng cười chung quanh vang rân. Anh tù dội nước ngưng lại. Người nữ cán bộ thét lên:
“Anh cứ dội cho nó! Không dội làm sao mà lành!”
Mấy gô nước muối nữa dội xuống làm cho tôi rát đến thấu xương tưởng chừng muốn ngất đi.
“Thôi, được rồi! Lấy nước lạnh dội lại cho anh ta!”
Khoảng nửa giờ sau tôi mới trở lại bình thường. Tôi thấy nhiều cặp mắt nhìn tôi mỉm cười, trong đó có cả bà cán bộ mập. Bấy giờ lại tới phiên tôi đứng vừa phơi nắng vừa chứng kiến những người bạn khác chịu trận. Bị dội nước muối sau khi các mày ghẻ bị tróc nó rát không tưởng tượng được. Không một ai bị dội vào mà khỏi phải rên la nhảy tưng tưng lên! Tới phiên anh tù người Đại Hàn bị dội, anh hét tướng lên như bò rống rồi vùng chạy bươn bả gặp ai xô vẹt ra nấy. Mấy người tù khỏe phải chạy theo bắt anh ta lại dội nước muối tiếp mặc cho anh vùng vẫy la hét. Trong khi người ta tắm cho anh, tôi lẳng lặng đưa mắt quan sát. Tôi chợt nhận ra một điều khác thường. Cái thân hình khẳng khiu vì thiếu ăn, bệnh hoạn của anh ta lại mang cái “hạ bộ” hết sức kỳ dị. Nó rất lớn, hơi đỏ, cương láng lên không khác gì hạ bộ của trâu bò thời kỳ sung sức. Hèn gì bình thường tôi thấy anh ta chỉ mặc quần đùi một ống! Tên anh ta không biết viết thế nào nhưng mọi người vẫn gọi là Chung Goam. Anh là một kỹ sư, can tội làm việc giúp Việt Nam Cộng Hoà. Lần tắm ghẻ bằng nước muối đầu tiên đã làm cho những người bị ghẻ vô cùng khiếp sợ.
Hôm sau Chung Goam và một số anh không dám ra ngoài tắm nữa.
Cũng bắt đầu từ hôm đó, ngày nào hai nữ cán bộ cũng cầm roi trên tay, xông xáo giữa đám tù đàn ông trần truồng, khẳng khiu, đi lựng khựng hay ngồi ủ rũ. Tôi cứ tưởng tượng ra đó là hai nữ chủ nhân và đám nô lệ của một thuở xa xưa nào. Hai nữ cán bộ ấy bấy giờ chúng tôi đã biết tên, bà mập có bầu tên Phấn, bà mảnh khảnh tên Hồng, đều là người miền Nam.
Cũng kể từ hôm hai cán bộ nữ bắt những người tù bị ghẻ cởi truồng thì vấn đề tù nhân cởi truồng trong trại trở nên bình thường. Nhiều anh chưa bị ghẻ bao nhiêu cũng ở truồng ké cho thoải mái. Bất cứ khi nào, trước bất cứ cán bộ trại nào, kể cả trưởng trại, không ai quan tâm đến chuyện tù mặc quần hay cởi truồng nữa. Dĩ nhiên là ngoại trừ khi đi làm việc.
Ngày kế tiếp thì trại xảy ra một biến cố lớn: Chung Goam qua đời. Có lẽ anh là người đầu tiên chết vì bệnh ghẻ trong tù!
Mãi sau này, khi tôi bị giam ở khám đường Bà Rịa, nơi có đến mấy chục người chết vì bệnh ghẻ, tôi mới rút được kinh nghiệm tất cả những ai bị ghẻ mà đến độ bộ dái sưng lên như dái trâu, mặc quần không được nữa, thì chỉ một hai ngày sau nhất định phải chết. Chính hai người bạn nằm bên trái cũng như bên phải của tôi ở khám đường Bà Rịa, một anh tên Liên, một anh tên Đày, đều chết vì chứng đó. Tôi vẫn còn xúc động mỗi lần nhớ lại việc vài hôm trước khi chết, hai anh này còn dùng muỗng ăn cơm, thay phiên cạo ghẻ cho nhau đến chảy nước vàng và cứ khen “Đã quá! Đã quá!”...
Thấy Chung Goam chết, trại không còn để tự do ai muốn ra tắm thì ra nữa mà bắt buộc các phòng phải đưa những người bị ghẻ nặng ra “tắm muối”. Tắm muối như một cực hình ai cũng khiếp sợ. Ngày nào cũng có cảnh la hét tơi bời ở giếng tắm. Cho nên rất nhiều anh hễ có cơ hội thuận tiện là trốn tránh. Ngày kia, một anh Tàu Chợ Lớn tên là Lý Tường, bị lôi ra tắm nhưng anh cứ mặc quần dài và nhất quyết không chịu cởi. Cán bộ Phấn nổi giận ra lệnh:
“Mấy anh cứ đè nó xuống mà cởi ra!”
Lý Tường phát khùng lên quay nhìn cán bộ Phấn trừng mắt nạt lại:
“N... l... hay sao mà bắt người ta cởi quần để coi c...?”
Mọi người ngẩn tò te ra hết. Gã cán bộ trực đứng gần đó quay mặt giả lơ, miệng tủm tỉm cười. Còn Lý Tường nạt lại cán bộ xong, liền vùng chạy. Cán bộ Phấn hét lên:
“Bắt nó lại! Bắt nó lại!”
Thế là mấy anh khỏe mạnh đuổi bắt Lý Tường lại, đè xuống cởi đồ ra mà tắm cho hắn. Cán bộ Phấn cũng cười khi thấy Tường vùng vẫy la hét vì bị dội nước muối. Nhiều người tưởng hắn sẽ bị phạt hay ít nhất cũng bị rày một trận cảnh cáo nhưng rồi chẳng có chuyện gì xảy ra hết...
Kế hoạch chữa ghẻ bằng cách tắm muối trong trại B5 Tân Hiệp Biên Hoà đã trải qua nhiều tháng sau tết Bính Thìn. Những người ghẻ chúng tôi thành quen lệ cứ sáng ra là loã lồ trăm phần trăm ngồi đợi mở cửa. Một số lớn người bị ghẻ nặng dần thuyên giảm thật sự. Trại cho đây như là một thành công trong kế hoạch chữa bệnh do sáng kiến của trại. Riêng tôi thì không hẳn tin như thế. Tôi thấy những người bệnh đang phát triển mà được gia đình tới thăm, ăn uống đầy đủ thường thuyên giảm rất nhanh. Một anh ghẻ mủ đang đầy người, cầm chén cầm đũa không được, thế mà chỉ sau một tuần được thăm thì ghẻ lặn bớt và nhiều vết lở mím miệng đâm da. Hiệu quả nhất là có vitamin B1 trợ sức. Thuốc tây bấy giờ quá đắt, quá hiếm cho nên người được gia đình cung cấp vẫn hay giấu kín để phòng thân. Những gia đình không kiếm ra được thuốc B1 thì gởi cám trộn đường cho thân nhân. Những gói cám đường tù trao cho nhau cũng là một thứ quà quí. Chỉ tội nghiệp những người không được thăm nuôi bệnh vẫn kéo dài. Dù sau, tắm nước muối riết rồi sự đau rát cũng dần quen phần nào.
Lúc bấy giờ tôi nghĩ rằng hiệu quả của sự tắm nước muối này chỉ là ở chỗ ngăn ngừa sự lây lan của ghẻ. Sau này khi bị đưa vào khám đường Bà Rịa tôi mới có thêm một nhận định khác. Khám đường Bà Rịa số người bị ghẻ ít hơn nhiều so với số lượng người bị ghẻ tại trại B5 nhưng lại chết trên hai mươi người, trong khi trại B5 chỉ chết một viên kỹ sư Đại Hàn Chung Goam. Phải chăng là nhờ trại B5 cho tù tắm nước muối hàng ngày trong khi khám đường Bà Rịa cả tuần tù mới được tắm sơ sài một lần, đó là chưa kể trường hợp tù biệt giam có người cả năm không được tắm? Phải chăng người bị chết là do nhiễm trùng?
Chung Goam từ khi vào tù cho đến khi chết không hề có ai thăm viếng. Anh lại là người ngoại quốc không thạo tiếng Việt nên khó bày tỏ với ai những khó khăn của mình. Cái chết của anh đã làm tôi giật mình. Người tôi yếu đuối và nhỏ con hơn anh ta nhiều. Tôi cũng bị ghẻ trước anh ta khá lâu. Phải nói đúng vào dịp tết Bính Thìn tôi đã đạt mức quán quân về ghẻ ở trại B5 Biên Hoà. Toàn thân tôi chỗ nào cũng nổi nhọt mủ, chỉ chừa mặt. Hai bàn tay chạm nhau một cái là mủ chảy tèm lem. Lại thêm chứng tê bại phụ vào, tay tôi không còn sử dụng chính xác nữa. Khi ăn, tôi phải dùng cả hai tay đưa cái chén lên rồi cố gắng dùng tay trái ép chén vào ngực để giữ. Tay phải lại đưa xuống cầm muỗng bằng cách dùng hai ngón tay chỉ và trỏ để kẹp cán muỗng. Rất nhiều lần tôi đã làm đổ mất phần ăn của mình. Người tôi càng ngày càng luội, lúc nào cũng chỉ ưa nằm. Mà nằm thì cứ mê thiếp từng cơn, đầu óc thì cứ bị ám ảnh chuyện chết chóc.
Nhưng cũng may, vận tôi chưa đến ngày cùng! Một hôm tôi ra phơi nắng thì gặp ba vị cứu tinh. Đó là ông Võ Huyến, cựu Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia Quảng Trị, ông Cái Viết Pháp, cựu Chỉ huy phó Trung tâm huấn luyện Cảnh sát Dã chiến Đà Lạt và anh Lưu Phát. Lưu Phát có thời gian cùng làm việc một chỗ với tôi, cũng lại là anh ruột Lưu Khánh Vân, bạn học của tôi. Cả ba người đều mới được thăm nuôi nên đều tiếp tế thức ăn cho tôi. Riêng ông Võ Huyến, thấy tình trạng tôi kiệt quệ như thế, đã không ngần ngại đưa cho tôi cả gói thuốc B1. Kỳ diệu như phép màu, chỉ mấy ngày sau tôi đã giảm bệnh nhiều, nhất là chứng tê bại. Từ đó về sau, mỗi lần được thăm nuôi, mấy ông ấy vẫn tìm cách chia sẻ cho tôi. Có một ông đại tá tên Cát, người cao lớn, tôi chưa hề quen biết, cũng có lần cho tôi một gói đồ toàn thức ăn tốt như đường, cá và bột mình tinh. Ông lại an ủi tôi:
“Qua thấy cặp mắt em còn ‘thần’ lắm, không thể chết đâu mà sợ!”
Không biết ông coi tướng được thật hay là chỉ trấn an tôi, nhưng nhờ đó tôi cũng an tâm rất nhiều. Nếu không gặp được những người ấy, nhất là ông Võ Huyến, có thể tôi đã tranh đi theo Chung Goam rồi.
Qua thời gian được cho ở truồng ra ngoài tắm muối, đầu óc tôi cũng dần bình thường. Ông Võ Huyến biết tôi ngoài đời hay ngâm thơ nên mỗi lần gặp phòng ông được ra chơi, ông lại gọi tôi. Ông khuyên tôi nên ngâm thơ để giải buồn cùng luyện lại giọng. Trong thời gian bị ghẻ phát triển nặng, giọng tôi bị tắt, chỉ nói được khào khào. Tôi nghe lời, bắt đầu ngâm thơ trở lại. Bất cứ bài thơ nào tôi cũng nói là của Tố Hữu hết. “Hồ trường” cũng của Tố Hữu, “Nhớ rừng” cũng của Tố Hữu, “Hai sắc hoa tygon” cũng của Tố Hữu nốt... Mà đã ngâm thơ Tố Hữu thì cán bộ không bao giờ thắc mắc. Tôi vốn thuộc một số bài thơ nổi danh như “Đêm liên hoan”, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ” của Quang Dũng, “Nhà tôi” của Yên Thao, “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan, bốn bài thơ của T.T. K.H., một số của Tản Đà, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Thế Lữ... nên nhiều người thích nghe tôi ngâm. Một số kiếm giấy bút lén nhờ tôi đọc cho chép lại những bài họ thích. Tôi không thể chép giúp vì chứng tê bại đã làm tôi không sử dụng viết được. Ngày nào tôi cũng được thính giả người thưởng táng đường, kẻ cho trái chanh, cái bánh... Chính chút nghề mọn này đã giúp tôi mau hồi phục sức khoẻ thêm. Mỗi lần nhớ lại chuyện cũ, tôi không khỏi tức cười vì cái việc hi hữu mình đã làm: ở truồng ngâm thơ mà vẫn được đông thính giả ái mộ như thường! Có lúc có cả cán bộ đến nghe nữa. Những lúc đó, tôi vẫn tiếp tục ngâm, nhưng hay dùng thơ thứ thiệt của Tố Hữu. Cán bộ nghe cũng khoái chí vỗ tay khuyến khích.
Có một lần tôi trần truồng ngâm thơ cho một nhóm thính giả cũng trần truồng kẻ đứng người ngồi thưởng thức như thế thì cán bộ Phấn đến. Bà ta cũng ngồi xuống nghe. Anh Tám, một bạn tù cùng phòng với tôi vẫn rất thích nghe thơ, đang ngồi bên tôi bỗng cười khục khặc cụi tay vào người tôi rồi bỏ đi nơi khác. Tôi không hiểu anh muốn nói gì, vẫn tiếp tục ngâm nga. Khi về phòng tôi thấy anh cứ nhìn tôi mà cười ngặt nghẽo. Mấy người chung quanh xúm lại hỏi chuyện gì. Anh kể không ra hơi:
“Tôi đang nghe thằng này ngâm thơ thì mụ mập tới ngồi gần tôi. Nhìn thấy mụ nây nây cái bầu ba bốn tháng, thằng nhỏ của tôi ngủ mê đã mấy tháng nay thình lình nhảy nhổm dậy khiến tôi hoảng hồn phải chạy đi chỗ khác! Nghĩ mà cứ tức cười!”
Mọi người nghe Tám nói đều cười nghiêng cười ngả. Một anh hỏi tôi:
“Nếu ‘ngâm sĩ’ gặp trường hợp đó thì mần răng hè? Không lý đang ngâm mà cán bộ tới thưởng thức lại bỏ chạy! Nặng tội lắm, biệt giam như chơi đấy!”
Một người khác đùa:
“Ngâm sĩ lúc này lấy cả hai tay mà vò nó cũng không nhúc nhích được chứ đừng nói là nó nhảy nhổm dậy!”
Anh này nằm gần tôi nên biết rõ về tôi. Quả thật, mặc dầu bệnh ghẻ và bệnh tê bại của tôi có giảm nhiều nhưng hài nhi của tôi vẫn còn thiêm thiếp liệt giường. Một anh khác lại cười ngặt nghẽo nói:
“Ngâm sĩ bây giờ đã thành ‘công công’ rồi. Để tôi ngâm thế ngâm sĩ đôi lời gọi là thương tiếc thằng bé đã qua rồi một thời quá khứ liệt liệt oanh oanh nhé:
Trời đất từ nay xa cách mãi!
Cửa động, đầu non, đường lối cũ!
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!
(thơ Tản Đà)
Các bạn thấy mấy câu thơ có hợp cảnh hợp tình không?”
Mọi người lại tiếp tục cười ó khen hay. Lôi ra được những câu như thế thì thật tuyệt diệu. Nhưng chết cha! Như vậy là lạm dụng và bất kính đối với nhà thơ tiền bối đáng yêu rồi! Hi vọng rằng người xưa cũng thông cảm cho lũ hậu bối tìm chút vui nhỏ trong bước đường cùng chăng? Một người lại hỏi:
“Công công là cái gì?”
“Công công là từ dành riêng xưng gọi mấy anh thái giám ngày xưa.”
Sau buổi vui đùa trên của các bạn tù, tôi càng lo nghĩ về mình. Quả thật đã khá lâu, tôi không nghĩ tới chuyện gì ngoài sự hành hạ của bệnh hoạn. Bây giờ bệnh đã giảm nhưng hài nhi của tôi vẫn cứ co ro gầm mặt. Phải chăng đời nó đã tàn?
Lợi dụng lúc mọi người yên ngủ, tôi thử mân mê vuốt ve nó nhiều lần, đủ cách, đủ kiểu nhưng nó vẫn vật và vật vượi vô hồn. Nó có thể bình phục không đây? Qua một thời gian cố gắng không kết quả, tôi đã nghĩ đến cuộc sống gia đình sau này với một viễn tượng tối tăm. Sống đây cũng như chết rồi ư!
Cửa động, đầu non, đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!
Ôi, lời thơ buồn thúi ruột! Từ đó, hằng ngày tôi thẫn thờ ra sân nhưng không còn hứng thú gì để ngâm nga nữa. Lòng tôi đang trĩu nặng nên tôi cứ tìm chỗ vắng mà ngồi. Dù vậy, đêm về tôi vẫn thử kiểm tra vốn riêng và vẫn hoàn toàn thất vọng!
Thời gian cứ thế trôi qua. Những người chung quanh ngạc nhiên về thái độ của tôi nên bắt đầu hỏi thăm. Chẳng đặng đừng, tôi phải tâm tình với một người bạn thân. Không ngờ anh ta hở ra với người khác để rồi cuối cùng ai cũng biết hết. Chẳng bao lâu sau, mọi người đều chú ý đến tôi làm cho tôi càng khó chịu. Có người thật tình khuyên giải an ủi, nhưng cũng có người lấy đó để trêu chọc làm trò cười. Mấy câu thơ của Tản Đà bỗng được nhiều người ngâm nga.
Lại một chuyện tức cười nữa xảy ra, một anh tù vốn chẳng hề màng đến thơ phú, một hôm cũng ồ ề ngâm Cửa động, đầu non, đường lối cũ. Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi! Gặp lúc viên quản giáo đi ngang, nghe anh ta ngâm, viên quản giáo hỏi:
“Anh đang ngâm thơ gì đó?”
Anh tù ghẻ trả lời tỉnh bơ:
“Thơ Tố Hữu đấy cán bộ!”
Viên quản giáo hỏi lại:
“Có thiệt thơ Tố Hữu không? Thơ Tố Hữu làm gì mà có ‘ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!’ à? Anh liệu hồn mà ngâm thơ phản động!”
Nói xong viên quản giáo bỏ đi thẳng. Anh em tù nhìn nhau cười. Không ngờ sau này khi ra tù, tôi có gặp một bạn tù cũ, nhắc lại chuyện xưa thì anh này cũng tưởng mấy câu thơ đó là của Tố Hữu thiệt.
Một hôm, tôi đang ngồi một mình thì anh Khởi bước lại ngồi xuống bên cạnh. Trước đây anh cũng là tù ở truồng, nhưng gần đây anh đã mặc quần trở lại. Khởi nhỏ nhẹ hỏi:
“Thằng cháu anh nó đã ngồi dậy được chưa?”
Tôi cười méo mó khôi hài:
“Nó đành tâm vĩnh biệt tôi rồi anh ạ! Tôi đã cố làm nhiều cách mà đều vô hiệu.”
Anh Khởi tủm tỉm cười:
“Tôi bày cho anh một cách, anh hãy cố gắng thử xem sao nhé! Nói thiệt với anh, trước đây tôi cũng bị như anh, sau nhờ nhìn lén cán bộ Phấn mấy lần mà nó hoạt động trở lại đấy anh. Anh cứ ráng vừa ‘chiêm ngưỡng’ vừa tưởng tượng nhiều pha gây cấn thử xem sao. ‘Chiêm ngưỡng liệu pháp’ có thể là cách trị liệu thần diệu đấy!”
Tôi chỉ nhìn Khởi cười buồn. Khởi lại hài hước tiếp:
“Nhưng nhớ hễ kết quả sơ sơ là lo chuồn liền chứ đừng chờ nó khỏe mạnh mà hung hăng lên là mang họa đấy nhé!”
Cán bộ Phấn có bầu cỡ ba bốn tháng chi đó. Bà ta có thói quen cẩu thả, hay bạ đâu ngồi đấy. Anh em tù nhiều người dù gần chết nhưng vẫn hay “bình phẩm” nọ kia để vớt vát tinh thần. Tôi vốn nhút nhát nên bình thường không dám đấu tranh trực diện như thế mà chỉ âm thầm luyện công thôi. Hôm ấy, sau khi nghe Khởi mách nước, tôi quyết định thử ứng dụng “chiêm ngưỡng liệu pháp” xem sao. Biết đâu nó chữa trị được căn bệnh của tôi! Thế là tôi cứ ngong ngóng cán bộ Phấn đến. Vừa trông đợi vừa cố tưởng tượng những đòn “hồi mã tấn thương” thật tuyệt vời. Nhưng thể chất đã quá tàn lụi, dù cố gắng tưởng tượng thế nào cũng vô ích. Suốt ngày đó, cán bộ Phấn vẫn bặt tăm hơi, chỉ có cán bộ Hồng mảnh khảnh “ít gợi cảm” vào điều hành việc tắm rửa. Hôm sau cũng chỉ một mình cán bộ Hồng vào lo công việc. Lòng tôi cảm thấy buồn buồn như mất mát một cái gì. Phải nói thành thật, cả ngày tôi không ngớt theo dõi những cán bộ vào ra cổng trại. Tôi quên luôn cả mục tiêu cần đạt là để chữa bệnh mà lại ngỡ như mình đang mong đợi một người tình, một người bạn thiết xa cách lâu ngày. Mong ngày không được lại mong đêm. Quả đúng là liên tưởng củng cố đam mê, thời gian ấy gần như lúc nào tôi cũng nghĩ tới người đàn bà đó...
Cũng may, bà Phấn không đi hẳn. Một buổi sáng kia, với cái dáng nâng náo hơn, bà Phấn lại xuất hiện để chỉ huy việc tắm xát chữa bệnh. Sau một hồi xông xáo làm việc, bà Phấn lại gốc cây trứng cá chảng chân ngồi. Tôi thấy cơ hội thuận lợi đã đến, bèn giả vô tình, mon men lại gần làm như núp nắng dưới bóng cây. Lúc này trại nới việc thăm nuôi, gia đình tiếp tế thuốc men cho tù khá thoải mái. Những người bị ghẻ nặng nguy ngập phần lớn đã được bắn tin cho gia đình thăm nuôi tiếp thuốc, bệnh cũng giảm lần. Một số tù ở truồng đã mặc quần trở lại. Những người bị xếp vào hàng tanh tưởi nhất, trong đó có tôi, bây giờ đã ít bị người khác né tránh. Tôi đã có thể lẫn lộn giữa đám đông một cách bình thường để hành động không lộ liễu. Hễ có cơ hội là tôi tận tình vận dụng phương thức “ba mặt giáp công”: mắt thì liếc chiêm ngưỡng, đầu óc thì tưởng tượng những đòn phép thần sầu, tay thì lén mân mê “nó” để hà hơi tiếp sức. Nhưng than ôi! Tôi cố thử đi thử lại rất nhiều lần mà hài nhi vẫn thiêm thiếp giấc nồng...
Đêm này qua đêm khác, tôi cứ nghĩ về tương lai tối tăm của mình:
Trời đất từ nay xa cách mãi,
Cửa động, đầu non, đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!
Thế là hết rồi. Trước kia tôi đã nghe nhiều người nói về cái bệnh khốn kiếp kia. Nó đã làm cho bao nhiêu người thấy mất hết ý nghĩa của cuộc sống. Nhiều gia đình đã ly tan vì nó. Tôi cứ hay nghĩ về mấy con gà trống thiến béo nung núc thui thủi kiếm ăn một mình không bầu bạn mà thương. Thôi thì cứ mặc dòng đời đưa đẩy. Cả ngày về tôi cũng chẳng còn thiết tha mong đợi nữa. Dù sức khỏe có phần vãn hồi nhưng tôi không còn chút nào hứng thú ngâm nga như trước. Tôi chỉ muốn được tĩnh lặng, không ai quấy rầy. Cái danh công công của tôi đã dần thành thông dụng. Tôi cũng thản nhiên chấp nhận, không vui, không buồn...
Thấy tình hình chữa ghẻ cho tù khả quan, hai cán bộ nữ cũng thưa tới điều khiển việc tắm rửa lần. Những người ra ngoài lúc này dần mặc quần đùi trở lại càng nhiều. Riêng tôi, tuy không còn tin tưởng mấy, nhưng nhớ lời người xưa “còn nước còn tát”, tôi vẫn tiếp tục luyện công cầu may.
Một hôm, lựa lúc mọi người đã tắm xong cả tôi mới ra giếng. Lúc đó trời nắng hơi gắt, mọi người đều tìm chỗ tránh nắng. Tôi muốn được một mình một chiếu tôi tìm một chỗ vắng để dễ luyện công hơn. Không ngờ “cao nhân tất hữu cao nhân trị”, một vài anh đã đoán biết ý tôi. Tôi đang tập trung thần lực truyền sức cho hài nhi thình lình một toán bốn năm người vừa cười vừa chạy nhanh đến chỗ tôi:
“Chào công công! Công công luyện chưởng thành công tới đâu rồi?”
Tôi ngượng ngùng chỉ hài nhi cười:
“Nó vẫn mê mê muội muội vậy thôi!”
Anh Bằng, người bạn tù tuổi cỡ năm mươi, ít nói, luôn tỏ ra đàng hoàng chững chạc, nhìn tôi thương hại:
“Được rồi, để mai tôi cố giúp anh thử sao! Ngày mai cũng vào giờ này, tôi ra đây tắm cho anh!”
Mấy người khác đều cười nửa tin nửa ngờ:
“Phải đấy, ngày mai tụi tôi sẽ ra đây chứng kiến sư phụ làm phép cho công công!”
Một anh cười hô hố:
“Mấy con mẹ y tá chữa được bệnh ghẻ mà lại không chữa bệnh này cho chả luôn, thiệt là bất nhân!”
Một anh khác nhìn anh Bằng dò hỏi:
“Anh không trêu gạt công công đó chớ!”
Anh Bằng cũng cười:
“Tôi nói thật mà! Biết đâu cách làm của tôi lại hiệu quả thì sao!”
Tư cách ăn ở hàng ngày của anh Bằng đã làm tôi có chút tin tưởng. Mà cũng có thể do tôi đã hết đường xoay xở, nên cố bám víu vào lời nói đó. Tôi nhìn anh biết ơn:
“Tôi rất hi vọng ở sự giúp đỡ của anh. Tôi sẽ nhớ ơn anh suốt đời!”
Anh Bằng nhìn tôi nói có vẻ thành thật:
“Tôi cũng hi vọng giúp được anh. Nhưng trước hết, nhất là trong đêm nay, anh hãy cố gắng tập trung trí tưởng tượng vào những pha cụp lạc nhất mà anh đã gặp trong đời. Nó sẽ giúp anh rất nhiều. Mong anh chuyến này toại nguyện!”
Suốt đêm đó, phải nói là tôi đã lạm dụng quá đáng. Tôi không thành công trong việc thức tỉnh hài nhi mà lại làm cho hài nhi nôn mửa tả tơi. Tôi lại càng tràn trề thất vọng vì nghĩ như thế chỉ làm cho nó đuối sức thêm.
Hôm sau, đến giờ hẹn, tôi ra giếng thì anh Bằng và rất nhiều người cùng theo ra. Tôi để ý thấy anh Bằng cầm một cái hũ Péniciline. Sau khi tắm rửa và đợi khô người xong, tôi ngồi bên miệng giếng đợi anh Bằng làm phép. Phải nói là tôi cũng khá hồi hộp. Những người khác có lẽ cũng như tôi, đều chăm chú theo dõi hành động của anh Bằng. Anh mỉm cười mở hũ péniciline: chỉ có một ít thuốc nước gì trong trong dưới đáy hũ. Anh nhìn mọi người rồi nhìn tôi:
“Công công hãy ra sức tưởng tượng đi! Bà Phấn, bà Hồng hay nàng tiên nào đó cũng được!”
Anh bảo tôi chấm ngón tay vào hũ thuốc rồi quệt lên hài nhi. Tôi quệt nhiều lần cho đến khi hết thuốc trong hũ. Ban đầu tôi cảm thấy mát mát nhưng sau đó nó nóng lên như bôi dầu nhị thiên đường. Tôi cũng cảm thấy có cả mùi dầu nhị thiên đường. Anh Bằng nói:
“Anh xoa bóp đều cho hài nhi đi! Thuốc trợ sức ngày trước xuất ngoại đem về còn chừa đó!”
Tôi làm theo lời anh, dùng cả hai bàn tay để xoa như người ta dùng tro để tẩy nhớt khi làm thịt con cá chạch hay con lươn. Mọi người chung quanh chăm chú theo dõi. Một vài người lên tiếng hỗ trợ cổ võ:
“Hậy, hậy, dô, dô!”
Lần đầu tiên từ sau trận bệnh ghẻ, tôi thật sự thấy hài nhi cựa quậy. Mọi người cùng cười rôm rả:
“Nó chuẩn bị ngồi dậy đó! Nó chuẩn bị ngồi dậy đó! Chúc mừng! Chúc mừng!”
Và quả thật nó chuyển gồng mình rồi ngóc đầu lên. Tôi sung sướng quá chừng. Trông nó cũng còn đẹp trai như thuở nào. Nó gật gật như thể cám ơn những người chung quanh đang thật tình chúc mừng cho nó. Một anh khen:
“Nó nghễu nghện trông chẳng khác gì một nhân vật quyền uy đang hiểu dụ dân chúng về một kế hoạch kinh tế nhảy vọt sắp thực hiện hỉ!”
Người bên cạnh thúc cùi chỏ vào người mới phát biểu, nói khoả lấp:
“Thôi, đừng đi quá lạc đường! Thế mới phải chớ! Tôi đã biết nó đâu nỡ để cho ngâm sĩ chịu cảnh ‘Cửa động đầu non, đường lối cũ, Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi’ sao đành?”
Huyền Băng
Chợ Trời
Đó là cái chợ đầu đội trời chân đạp đất ? Chắc có lẻ đúng như vậy, vì mọi người trong chợ đều ngồi giang đầu ra nắng, ngồi bẹp dưới lòng, lề đường. Cái danh từ chợ trời này xuất phát ở Việt Nam từ sau 1975.
Chính quyền cũ ra đi, chính quyền mới đến. Mọi việc như xáo trộn. Một số cơ quan nhà nước thì vẫn duy trì họat động, nhưng một số công thương nghiệp tư nhân thì hình như chẳng còn ai? Và bao nhiêu con người không còn biết phải làm gì đã phải ra đứng ở chợ trời để kiếm sống. Họ trãi một tấm nilon nhỏ khỏang 1mét vuông. Ban đầu là lụm đồ nhà ra bán, cái gì thấy bán được là cứ bày ra : một cái muổng inox, một cái mâm, mấy con ốc vít, một đọan dây xích, mấy cái bạc đạn cũ đã dùng qua, thậm chí cái bugi cũ cũng được đem bán. Ai cần đến mua thì tùy theo lúc đó cần tiền như thế nào mà bán . . .Nếu đã có tiền đi chợ rồi thì bán cao giá một chút, nếu từ sáng đến trưa mà chưa có bán thì giá nào cũng bán để có tiền đong gạo vì giá cả hàng hóa lúc đó không tính theo giá trị thành phẩm. Người nào mặt hơi lì một chút thì ra ngồi đó, người nào không được lì thì đem ra bán rẻ cho người lì. Nói chung là tương trợ lẫn nhau . . . để ai cũng có cái sống qua ngày. Đấy là buổi sơ khai của chợ trời . . .
Khi đã đối mặt với nhu cầu của khách, họ bắt đầu đi săn tìm những gì mà mọi người thiếu và thị trường bắt đầu nhộn nhịp hẳn lên. Cơ sở tiểu thủ công bắt đầu sống lại, họ đi tìm mua những moteur, cánh quạt, những bánh răng, những phôi sắt cũ để về chế biến. Và thế là một số công nhân len lõi vào những kho phế liệu tháo từng bù lon, con tán, từng sợi dây curoix , và những bãi xe phế thải khổng lồ được tháo gở, xắp xếp phân lọai từng món nhỏ một cách từ từ cho đến khi chấm hết.
Có một lần đi ngang An Phú, thuộc tỉnh Bình Dương, tôi thấy giữa nơi đồng không mông quạnh, lại có một đám đông người ở đó, đi vào mới biết trong bãi đất trống mênh mông đó họ đang tụ tập đào một cái hố rất to, trên hố là những kẻ thâu hàng, dưới hố là hàng trăm người tìm hàng. Hố sâu chắc cũng phải 3m và rộng hàng 50 – 70 mét. Họ làm gì ở đó? Đến gần mới thấy; họ gồm những người dân quanh vùng đến đó, ai cũng có trên tay cuốc xẻng và một cái bao. Họ cứ đào bới, cái gì coi được thì bỏ vào bao. Hỏi ra tôi mới bíết nơi đây chôn một số quân dụng của lính Mỹ. Họ lấy gì trong đống mục nát đó? Những người hiểu biết về máy móc, thì luợm những vật máy móc, những người hiểu biết về vàng bạc thì tìm kiếm những thứ liên quan đến vàng bạc. Và những người không hiểu biết gì thì lượm bao nilon. Tất cả rồi cũng được đem về vựa ve chai, nơi có đủ mối lái đến thâu. Ban đầu họ đi đào bới vì sự tình cờ, nhưng đến khi quen thì họ lại tìm kiếm coi như là sự sống. Đứng nhìn họ đào bới và lượm lặt mà tôi hồ như bãi đất đó sẽ trở thành một mãnh đất vô cùng sạch sẽ với tay người là những lưỡi cày, một lưỡi cày rất sâu. Hồi ấy cái gì cũng quí, cái gì cũng cần vì không có sản xuất, cũng chẳng có nhập. Nhưng chính những lưỡi cày sâu này đã góp phần làm nhịp sống không dừng lại. Máy móc vẫn có thể chạy, xe cộ vẫn lưu thông, con người vẫn có cái sống qua ngày.
Ngòai những người dùng sức người để bới tìm sự sống, cũng có người đi trộm cắp của người khác rồi đem ra chợ bán. Và nhà nước phải ra tay. Thế là có chiến dịch gom những thanh niên vô công rỗi nghề đi lao động, Và người bán chợ trời bớt người trẻ, chỉ còn những người già, người trung niên.
Năm tháng trôi qua, đâu rồi cũng vào đó, chợ trời rồi cũng phải có nóc. Con người rồi cũng có cuộc sống ổn định. . .
Huyền Băng
Lính Lê Dương giựt bánh cam - bánh vòng !
Bây giờ chắc ít ai còn biết đến chiếc bánh cam, bánh vòng mang đầy tính chất mộc mạc của người Việt bình dân. Đó là một lọai bánh làm bằng bột nếp trong có một lớp nhưng đậu xanh, nếu nắn thành hình tròn đè bẹp xuống một chút gọi là bánh cam, nếu làm thành một cái vòng ở giữa tróng thì gọi là bánh vòng, nó được chiên phồng lên rất giòn. Để cho chiếc bánh có màu sắc thu hút, lại thêm vị ngọt đậm đà, người ta thắng nước đường rưới lên trên mặt bánh. Sau giấc ngủ trưa nếu có một hai chiếc bánh cam bánh vòng nhâm nhi uống nước thì thật là tuyệt . Đấy là một trong những món ăn giữa bữa của người lao động.
Mẹ tôi, một tiểu thơ khuê các, con một chánh văn phòng của một hảng tàu. Cuộc sống rất thỏai mái, trong nhà luôn có sẳn xe kéo, bước ra đường là chỉ việc leo lên xe kéo có người kéo đi. Bà được đi đây đi đó khắp nơi theo tàu của hảng mà ông ngọai tôi làm việc. Thế nhưng bất hạnh đã đến với gia đình, ông ngọai tôi qua đời vì một cơn bạo bệnh, Bà tôi, buồn bả trước cái chết của ông lại đâm ra nghiện rượu, cứ mỗi sáng là bà phải làm một ly xây chừng rồi mới đi đâu thì đi , cơn nghiện càng ngày càng nặng hơn, kinh tế gia đình càng ngày càng suy sụp. Chiến tranh lại bùng nổ – cuộc chiến 1945 trở nên dử dội, và nhiều người dân thành phố buộc phải bỏ nhà bỏ cửa chạy ngược về miền quê. Lúc đó Pháp lùng bố bắt bớ thật gắt gao, họ dùng những người trùm bao bố để chỉ điểm, những người chỉ điểm này chỉ ai là Việt Minh thì người đó là Việt Minh.. Và dầu có là Việt Minh hay không, nếu chỉ mích lòng họ thì với nhất dương chỉ của họ, cái mạng của người bị chỉ coi như xong rồi.
Có lẻ vì quá lo sợ nên mẹ tôi dắt díu bà ngọai và bồng trống mấy đứa em rời thành phố về nhà một người bà con ở Phú Văn nay thuộc tỉnh Bình Dương để trú ngụ cho qua những ngày đen tối ấy. Mẹ tôi kể lúc đó không có xe đi mà chỉ đi bộ , chỗ thì Pháp đóng, chỗ thì Nhật đóng qua chỗ nào cũng nguy hiểm cả. Dì út tôi còn nhỏ phải bỏ vào cái thúng để gánh một đầu, còn đầu kia gánh đồ đạc. Cứ thế mà đi, lúc trên đường, lúc phải xuống ruộng để tránh những cuộc tuần tra của Nhật, hoặc của Pháp, họ ra lệnh ở đâu ở đó. Khi đến trú ngụ tại nhà bà con, mẹ tôi gởi mẹ gởi em ở đó rồi quảy gánh vượt đồng, vượt nguy hiểm buôn bán để kiếm tiền nuôi ngọai, nuôi mấy cậu và mấy dì. Và cũng chính vì sự hy sinh đó của mẹ tôi mà mấy dì mấy cậu ai đều kính nể.
Chiến tranh tạm lắng xuống, mẹ tôi lại đưa cả nhà trở lại thành phố. Cuộc sống vẫn còn nhiều vất vả! Để thêm thu nhập cho đủ sống, mẹ tôi sắm một cái rổ, một cái tràng và mua mấy chục cái bánh cam bánh vòng bảo hai cậu của tôi đi bán. Cậu lớn khỏang 14 cậu nhỏ khỏang 10 tuổi một. Hai người bưng rổ bánh cam bánh vòng đi bán trong buổi trưa hè, không biết bán được bao nhiêu cái nhưng khi ngồi nghỉ cậu lớn của tôi nhìn thấy những miếng đường rưới trên chiếc bánh cam qủa thật là ngon, những giọt đường đỏ thẳm chảy xuống như khêu gợi, thế là cậu lớn bảo cậu nhỏ :
- “Tao với mày gở mấy miếng đường dư ăn đi, đâu có ai biết”!
Cậu nhỏ của tôi ban đầu không dám, nhưng nhìn thì cũng thấy thèm thuồng, thế là gở từ từ những miếng đường dư chung quanh bánh để ăn. Cuộc chiến không dừng lại ở đây, những chiếc bánh cam dần dần mất hết đường trên mặt. Vì càng ăn càng ghiền mà...Đến khi cái bánh cam cuối cùng được gở trọc lóc hai người sựt tỉnh và bắt đầu lo lắng. Cậu nhỏ tôi bảo cậu lớn:
- “Làm sao bây giờ anh, ăn như vầy làm sao mà bán được, về nhà chị hai đánh chết” . Sau một lúc suy nghĩ, cậu lớn tôi bảo cậu nhỏ:
- Tao với mày ăn hết đi rồi về tới nhà tao tính cho.
Thế là hai ông ngồi xuống làm sạch sẽ mâm bánh tàn dư. Trên đường về nhà, cậu lớn dặn cậu nhỏ chừng nào tao bảo chạy là mày chạy nghe không? Và tao nói gì thì mày chỉ gật đầu. Còn độ 200 mét nửa là về tới nhà, cậu lớn tôi bắt đầu hô chạy, thế là cậu nhỏ chạy theo. Họ chạy cấm đầu cấm cổ và lao vào nhà như một cơn giông. Cả hai thở hổn hển, mẹ tôi hỏi:
- Hai đứa làm gì mà chạy dử vậy? Bánh trái đâu cả rồi?
Cậu lớn tôi nói trong tiếng được tiếng mất vì quá mệt:
-“tụi nó chận bắt lấy bánh ăn hết rồi” ;
Mẹ tôi hỏi:
-“Ai? Ai mà chận hai đứa nhỏ như bây để giựt bánh? C
ậu lớn tôi vội vàng đáp :
-“Lính Lê dương đó”.
Mẹ tôi phì cười :
-”Lính Lê dương mà thèm ăn bánh cam đến nổi phải giựt của tụi bây hả”.
Mẹ thương mấy cậu vì những ngày chạy giặt thiếu thốn, nhưng mẹ vẫn phạt cậu lớn về tội nói dối, và phạt cậu nhỏ về tội a tòng” Đấy là những chuyện kể về mẹ mà mấy cậu tôi thường kể cho tụi tôi nghe. Và năm ấy cậu khỏang hơn bốn mươi nhưng vẫn quỳ bên gối mẹ tôi để xin lỗi vì làm mẹ tôi giận chuyện gì đó. . .
Huyền Băng
Một ngày đi hôi gạo
Đó là những ngày đầu tháng năm năm 1975. Tôi rảnh rổi không có việc gì làm, đạp xe qua nhà cậu tôi ở Cầu Kinh, một khu vực vắng vẻ nằm trên đường từ Hàng xanh rẻ ngược lên Bình Qưới. Trong tâm trạng không biết phải làm gì, sẽ làm gì, tôi đi trong cơn nắng tháng năm thật chói chang, nóng bức! Vào nhà cậu, mới chuyện gẩu với đứa em con cậu mấy câu thì có vài người hàng xóm của cậu mà tôi cũng quen rủ đi lấy gạo. Tôi hỏi gạo đâu mà lấy? Họ bảo là ở Tân Cảng; trước đây Chánh quyền Sài gòn dự trử, nay bỏ chạy người dân chung quanh đó đã mở kho và vào xúc gạo rất đông.
Tôi tò mò cũng muốn biết cảnh ấy như thế nào và tôi cũng theo đám người đó vào Tân Cảng. Đọan đường từ đấy đến Tân cảng không xa, nhưng rất vắng vẻ vì khu đó trước đây là khu quân sự, không có nhà dân dọc theo hai bên đường. Đi hết đọan đường rầy đất đỏ, chúng tôi chung dưới gầm cầu Sài Gòn để vào kho Tân Cảng. Trước mắt tôi một khung cảnh hổn độn chưa từng thấy! Mọi người không biết từ đâu đến, rất đông, xúm xít nhau kẻ bao người bị, già trẻ lớn bé gì cũng có, họ đang hì hụt bưng, khiêng, vác . ..
Trong cái kho rộng mênh mông, từng cây gạo được xếp cao tới nóc nhà. Những người cơ hội đến đây lấy gạo về bán cũng có, những người dân quanh vùng sợ đói tìm đến quơ chút đỉnh cũng có. Những tay chuyên môn thì đưa xe ba bánh máy vào, rinh từng bao bỏ lên xe, bỏ đầy thì đi. Những người dân bình thường thì không thể nào bưng nổi bao gạo nên xổ bớt gạo ra khỏang lưng bao rồi vác lên xe gắp máy hay xe đạp gì đó để chở về. Và cũng chính vì vậy, dưới sàn kho, gạo đổ ra linh láng và mọi người đi trên đó mà tôi thấy cũng hơi sót ruột. Tôi cũng nghe mọi người kể với nhau rằng: cẩn thận đó, có người mở bao từ dưới để rút gạo bị cây gạo tuột đè bị thương nặng đó. Tôi cũng mang theo cái bao 50 để đựng gạo, và để chắc ăn tôi xúc gạo dưới đất mà họ đổ ra để khỏi nguy hiểm. Tôi không thể bê nổi bao gạo 50 nên tôi chỉ xúc hơn nửa bao. Tôi lôi xệch bao gạo ra ngòai và để lên sườn chiếc xe đạp mini của tôi.
Vì ham vui đi nên tôi chẳng mang dây ràng cột gì cả . . . Những người đi chung với tôi đã về trước, một mình tôi tha bao gạo lên xe và chạy từ từ về nhà cậu. Bao gạo không chịu ngồi yên, nó cứ tuột lên tuột xuống và tôi phải vật vả với nó: cứ đi mấy thướt thì nó lại trì tuột xuống, tôi lại phải đở lên, vừa mệt, vừa nóng, mắt tôi hoa lên, tôi ngó tới ngó lui nhưng chẳng thấy ai để nhờ giúp đở. Tôi ráng đi một chút nừa với hy vọng gặp ai cho quách họ bao gạo cho xong. Thế nhưng đường vắng vẫn vắng và tôi không nở nào bỏ bao gạo giữa đường. Mệt quá, tai tôi ù đi, và may thay chính lúc đó tôi mờ mờ thấy có một căn nhà hay một cái kho gì đó bỏ hoang, cửa mở ngỏ mở toang, nhìn vào sân tôi thấy có một cái vòi nước ở dưới thấp, tôi như bắt được vàng, bước vội vào sân nhà đó mở vòi nước, uống lấy, uống để. Lổ tai tôi bắt đầu làm việc trở lại, mắt tôi bắt đầu sáng ra. Ngụm nước đó đúng là một ngụm nước thần, tôi tỉnh táo hẳn và tôi cảm nhận được người sắp chết trên sa mạc gặp được một ngụm nước quý biết chừng nào. Với kinh nghiệm vật lộn với bao gạo nảy giờ tôi biết tôi không thể ngồi trên xe để chở một bao gạo mà không có dây ràng được nên tôi đành dắt bộ nó về nhà cậu. Về đến đó, tôi như trút được gánh nặng Tôi đã không đem nó về nhà mình mặc dù lúc đó tôi có thể kiếm được một sợi dây để cột. vì nhìn nó - tôi thấy sợ. .
Đọan đường từ Tân Cảng về nhà cậu tuy không xa nhưng làm cho tôi tưởng chết đi được và tôi tự cười nhạo tôi: Yếu như sên mà cũng đòi đi hôi của. Đó là chuyện của tôi, nhưng có lẻ cũng chính nhờ những động thái đó mà một số gia đình nghèo sống trong thành phố không có gạo, thức ăn dự trữ để ăn trong những ngày còn hổn độn ấy có cái sống qua ngày. . . chờ ổn định.
Huyền Băng
Những chiếc xe đạp thồ . . .
Vào năm 1980 chúng tôi phải công tác xa thành phố nên cứ mỗi đầu tuần là chúng tôi đi và cuối tuần lại về. Ngồi trên xe dọc đường quốc lộ. thỉnh thỏang tôi thấy trên đường xuất hiện những người đi xe đạp thồ chở những bao than cao chất ngất. Mỗi bao như vậy nặng từ 35 – 40 kg, và mỗi xe chở từ 5 – 6 bao là chuyện thường, những bao than vượt qua đầu người chở.
Họ vượt qua 50 – 70 km cho mỗi bận, tổng cộng vừa đi vừa về chắc cũng hơn 100 cây số. Họ phải đi như thế vì lúc đó việc buôn bán giữa địa phương này với địa phương kia chưa được phép, chỉ có nhà nước mới có quyền vận chuyển lương thực thực phẩm. Nhưng việc buôn bán của nhà nước còn hạn chế, hàng hóa không đến tay người tiêu dùng đủ, và nơi sản xuất thì lại dư, nên người ta vận chuyển bằng cách đó để tránh trạm kiểm sóat, và cũng để đở tốn kém trong việc chuyên chở thì giá thành tới người mua mới có thể chấp nhận. Đất nước ta những năm đó nghèo lắm các bạn ạ. . . trên đọan đường quốc lộ mà tôi gặp họ, thỉnh thỏang vẫn có người bị bể bánh xe phải dắt bộ hàng mấy cây số mới đến chỗ vá xe. Tôi nhìn họ đi mà thấy ngao ngán, và mường tượng rằng họ đang dùng sức người thay sức ngựa để kiếm sống. Nếu như chỉ là những bao than thì cũng không nói làm gì, có khi họ chở những cây gỗ được sẻ sẳn dài 3 – 4 mét, kẹp hai bên sườn xe. Họ sẽ không thể đạp với bàn đạp thông thường được, họ phải hàn thêm cốt cho bàn đạp dài ra, và họ khùynh hai cái chân ra mới có thể đạp được. Có lúc nhìn họ tôi ngẩm nghĩ: họ đi như thế này một thời gian chắc họ phải bị tật thôi, và lúc xuống đi bộ chắc chắn là chân họ phải đi vòng kiềng. Họ lại chở lu, những cái lu bằng đất nung to tướng đựng được khỏang 2đôi rưởi nước. Ngày xưa nhà nào cũng phải dùng lu để đựng nước uống. Mỗi xe chở 6 lu to như thế, họ phải để cho thật cân bằng thì mới có thể đi được. Đọan đường chở hàng rất xa, phải đi về cả ngày, nêu chở ít, thì tiền lời không đủ kiếm ăn cho gia đình một ngày nên họ phải chở ráng. Có một lần đi đến cầu Bình Triệu tôi thấy người chở lu lên dốc cầu không nổi, trời lại gió mạnh và người đó không gượng được chiếc xe đổ kềnh ra và bể hết mấy cái lu. Như vậy là công sức cũng như vốn liếng đã đi đon trong ngày hôm ấy. Tôi không biết ngày hôm sau họ tìm đâu ra tiền để mà tiếp tục đi.
Một năm sau, tôi cũng không có việc để làm. Tôi cũng chẳng biết xin vào đâu mặc dù nghề nghiệp tôi vẫn có. Tôi lại nhớ đến những người xe thồ, và tôi muốn trui luyện mình xem mình có thể làm được như họ hay không? Tôi bắt đầu chuyến đi đầu tiên của tôi bằng đọan đường từ TP. dến Bà Rịa, Tôi thong dong vừa đi vừa ngắm cảnh để làm quen với đọan đường dài, tôi ngẩn đầu trong nắng trong gió để giữ cái phong thái của mình, và khi vượt hơn 50 cây số ngang qua giáo xứ Hải Hà, có một người đàn bà địa phương ngoắc tôi quá giang một đọan. Tôi không thể từ chối, vừa đi tôi vừa cười thầm trong bụng: “bà ơi tôi mệt lắm rồi bà có biết không”? Tôi đã chở bà ta đi đến giáo xứ khác cách đó khỏang 3 cây số. Nơi tôi muốn đến, tôi đã đến. Nhưng cái tôi muốn mua thì lúc đó lại không có, tôi lại đạp xe không quay trở về. Tôi đạp xe qua khỏi ngả ba Thái Lan về tới dốc 47 thì trời gió ngược, tôi lảo đảo trong cơn giớ, nhưng tôi vẫn cố gắng và cuối cùng tôi cũng vượt qua được cơn dốc đó. Lúc đó trời bắt đầu về chiều, mặt trời như cái hột vịt muối đang từ từ lặn xuống, tôi không còn dám thông dong nữa mà phải ráo riết đạp để có thể thóat ra đọan đường này trước khi trời sập tối. Cuối cùng tôi cũng về đến nhà, chân tay tôi cũng đủ rả rời. . .Tuy nhiên, tôi vẫn không nản chí, tôi nghĩ rằng mình phải đổi hướng đi thôi, vì sức mình không thể chống lại sức gió.
Hai hôm sau tôi lại lên đường. Lần này tôi dậy thật sớm và đi về hướng Tân Uyên, một thị trấn nhỏ nằm trong tỉnh Biên Hòa. Tôi có một người quen làm ruộng làm rẩy ở đó, tôi lên đó nhờ họ thu gom gà, và tôi chở về. Lúc đó một con gà đem về thành phố bán lời cũng được 2 đồng, nếu chở 10 con cũng kiếm được 20 đồng. Mua thêm ít đường đậu nửa thì cũng có thể kiếm chút đỉnh. Tôi lại thẳng lưng ngẩn cao đầu đạp và tự cho mình những niềm vui trong phong cảnh chung quanh để không thấy đường xa. Qua cầu Bình Triệu, tôi rẻ phải đường lên Thủ Đức, đi được một đọan tôi lại rẻ trái đi một con đường tắt để băng ngang qua khu Sóng Thần, ở đó có một con đường mòn đất đỏ đi qua một khu nghĩa địa của người Tiều, người Quãng rồi băng qua xã An Phú, đọan đường đi tuy vắng vẻ nhưng đối với tôi thì lại rất thú vị. Thỉnh thỏang đi ngang những khóm trúc, những bờ tre, hay những rẩy khoai, tôi rất thích. Trước khi đến Tân Ba tôi phải băng ngang một con đường mòn nhỏ hơn và có một đọan nó bị cắt ngang vì nước chảy mạnh xóay phá đường mòn. Khỏang bị cắt đứt này khỏang 1,5 mét, sâu xuống cũng 1mét. Tôi phải xuống đắt xe thì mới qua được. Khi qua khỏi Tân Ba để vào Tân Uyên, phải đi những đọan đường vừa dốc, vừa ngoằn ngòeo. Tôi đến chợ Tân Uyên vào lúc 7,30 sáng, và tôi mua được một ít gà một ít đậu. Chuyến về của tôi đến cầu Bình Triệu là đúng 12 giờ trưa. Sáng hôm sau, tôi ra chợ bán, tôi kiếm được ít chục và quay trở về nghỉ ngơi cho chuyến đi ngày mai. Con đường đi quen rồi không thấy xa nửa, và nó thành như con đường dễ thương của tôi. Tôi có thể quên tất cả những chuyện không vui và tha thẩn trong nó. Cái nhọc nhằn của thân xác có thể làm trí nảo mình bớt căng, và trời đất nắng gió làm mình không buồn lo nửa. Tôi thuộc từng khúc quanh, từng bụi cây đám cỏ...Cho đến một hôm, người bà con ở Tân Uyên gởi về cho mẹ chị ấy một gộp thuốc rê, tôi nhận chở và khi đi đến Tân Ba, vừa xuống dốc tôi bị một du kích xã chận lại, dí súng, bắt tôi đẩy xe về xã với lý do tôi chở thuốc rê không có giấy phép. Thế là gộp thuốc rê bị tạm giữ, nói gì cũng không được tôi đành đi về, vừa đi vừa lo lắng không biết có lấy lại được gộp thuốc người ta gởi không và trong nổi lo lắng đó tôi đi ngang vết lở của đường mòn một cách không cẩn thận, đầu chiếc xe chúi xuống, chiếc xe lộn nhào, tôi cố gắng đở chiếc xe lên thì ôi thôi mấy con gà của tôi đã gảy cổ gần hết. Tôi cắm cúi đạp xe về, không còn tâm trạng đâu mà ngắm cảnh. Bảy con gà gảy cổ được cho vào nồi nước sôi nhổ lông cấp tốc, một dì hàng xóm hảo tâm đã giúp tôi bán những con gà chết đó để lấy lại phần nào vốn. Tôi lúc đó cỏ cảm giác mình giống như Khương Thượng, dở lịch ra xem thì đó là ngày mồng 5. Tôi tự an ủi mình vì mình đi mà không coi ngày. Sáng hôm sau, tôi lại vượt đọan đường hơn 50 cây số đến Tân Uyên để xin giấy chứng nhận của xã là thuốc rê này do cô con gái trồng gởi về cho ba mẹ chị ấy xài.
Chuyến đi đó là chuyến đi cuối cùng của tôi đến vùng khỉ ho cò gáy ấy. . .cách đây vài năm tôi có dịp đi đến Tân Ba, ngồi trên xe honda, tôi nghe ê ẩm cả người, tôi nhớ lại những ngày xưa và không hiểu sức mạnh nào đã giúp tôi đi trên đường dài bằng chiếc xe đạp bé nhỏ của tôi.
Huyền Băng
Những ngày xưa không thể quên . .
Nếu ai đã từng đến Nha Trang, phải công nhận với tôi rằng biển ấy thật là đẹp. Một bãi biển dài thoai thõai, với bãi cát trắng, với trời trong xanh và những hàng dừa lao xao trong gió vào những ngày nắng đẹp . Xa xa những hòn đảo mà màu sắc thay đổi tùy theo thời tiết. Buổi sáng hoặc những ngày mù sương nó mang hình ảnh mờ ảo như những bức tranh thủy mạc, và khi nắng ấm nó xanh thẩm lên nổi bật trong làn nước biển trong xanh hiện trước mắt tôi một khung cảnh hùng vĩ làm sao? Tôi là người Sài gòn đến làm việc tại Nha Trang, cảnh sắc ở đây quả là rất thu hút với tôi, và tôi thường ngồi ngắm nó hàng giờ không biết chán. . .
Cũng chính nơi này, tôi làm quen với một số người Nha Trang, với cư dân thành phố nhỏ thời đó. Người dân Nha Trang nói chung thật hiền hòa, thật dễ mến. Kim Cúc, bạn tôi, một người mà tôi được làm quen ở xứ sở này, một trong những người bạn mà tôi không bao giờ có thể quên. . . Kim Cúc nhà ở Thành, là một địa danh mà chúng ta phải đi qua trước khi vào tới Nha Trang. Dân chúng quanh đây chỉ làm ruộng, làm rẩy. Ruộng rẩy ở đây không phải như ở trong nam, mỗi năm chỉ làm được một mùa thôi, vì mùa hè đất khô cứng, những gốc rạ lồi lên và cứng như đá, tôi đã thử bỏ dép đi chân không nhưng thực thì tôi không thể. Nước ngọt rất hiếm hoi, trong nhà có một cái giếng, nhưng khi múc lên thì phèn rất nhiều làm cho màu nước trở nên vàng vọt, và chỉ dùng để giặt giủ, rửa . Nước uống thì phải gánh thật xa hàng cây số. Từ đường quốc lộ rẻ vào nhà Kim Cúc cũng phải mất 600m. Nhưng ở nhà quê thì 600m chẳng là bao. Có một lần đến nhà bạn ấy ăn đám giổ, tôi hơi ngạc nhiên vì nhà được cất trên một nền rất cao so với mặt đường, sau nhà lại có một chiếc xuống không biết để làm gì vì chung quanh nhà không có sông, sau này tôi mới hiểu.. .
Mùa mưa bảo năm 1972, đấy là lần đầu tiên người dân Sài gòn như tôi mới biết thế nào là mưa phùn, giông bảo. Cứ sáng đến bước ra ngòai là thấy mưa xì sụt, mưa không lớn nhưng lại kéo dài hết ngày này đến ngày nọ, vừa ngớt lại đổ mưa, quần áo phải phơi hàng mấy ngày mới khô. Lúc đó, tôi là một công chức, lương chỉ đủ tiêu hàng tháng chớ không có dư, nếu tháng nào xài hoang một tí là chưa hết tháng tiền cũng đã hết rồi. Và trong những ngày mưa giông sụt sùi đó, tôi hết gạo, tiền lương thì còn cũng ít ỏi. Bạn tôi, Kim Cúc bảo là về nhà để mang gạo lên cho tôi ăn, khỏi phải mua. Chiều hôm ấy bạn ấy đi, và đúng ra sáng hôm sau bạn phải đến chỗ tôi để cùng đi làm. Nhưng không hiểu sao sáng hôm đó bạn ấy không vào làm việc. Đến trưa tôi mới được mấy người cùng sở cho biết: Vì mưa to nên nước trên núi đổ xuống không thóat kịp, đường quốc lộ bị ngập nước, xe cộ không thể lưu thông. Tôi nghĩ có lẻ vì vậy nên bạn ấy trở xuống không được. Tuy nhiên, chuyện không đơn giản như vậy. . .Bạn ấy trên con đường từ nhà tôi về Thành, còn khỏang một cây số đường quốc lộ nửa mới tới ngã rẻ vào nhà bạn ấy, xe không chạy được vì nước ngập cao, và bạn tôi phải xuống xe, lội nước ngược để về nhà mình. Đi trong nước ngập mênh mông như thế thật là nguy hiểm, vì không biết đâu là đường đâu là ruộng bên đường, nếu định hướng sai lọt xuống ruộng thì lúc đó rất sâu, và phải nhắm theo hướng mấy cột đèn mà đi. Ban đầu nước còn ở thấp nhưng vẫn mỏi và bạn ấy phải dừng ở những cột đèn, ôm nó để nghỉ dưỡng sức, nhưng càng lúc mực nước càng cao và đến ngay lối rẻ vào nhà là nước tới cổ rồi. Vì là dân miền biển, bạn tôi lội rất giỏi, nhưng đến lúc này thì sức cũng kiệt không thể nào lội vào nhà được. Mà nếu ôm cột đèn đứng đó thì cũng không biết chịu được bao lâu. . .Cũng may, ngay lúc thật đuối sức thì trong nhà có người chèo ghe ra ngòai. Và cũng nhờ vậy, bạn tôi được đưa lên xuồng chở vào nhà. Sau một buổi trời vật lộn với con nước ngược, bạn ấy đã phải nằm nghỉ ở nhà một ngày, và sáng hôm sau gia đình chở bằng ghe ra quốc lộ và lội nước xuôi một đọan thì mới có xe để ra chợ Nha Trang. Bạn ấy đến chỗ tôi với mấy kg gạo mang từ nhà, và hai ống quần vẫn còn ướt nước.
Tôi thương quá một người bạn chân tình, tôi luôn ghi khắc trong lòng hình ảnh người bạn đơn sơ dễ thương với giọng nói hơi cứng vì có mùi của biển nhưng rất đáng yêu. . .
Hai mươi lăm năm sau, có dịp trở lại miền đất Nha Trang đáng yêu này. Tôi đã cố tìm lại người bạn cũ. Khó khăn lắm tôi mới tìm được căn nhà xưa mà tôi một lần đền, bạn ấy giờ đã lập gia đình, và theo chồng về quê ở Ninh Hòa, sau khi thăm hỏi những người thân của Cúc, tôi đón xe ra Ninh Hòa, tôi bắt xe ôm vào xả Vĩnh Phú, nơi mà tôi chưa một lần đi qua. Nói thật lúc đó tôi rất sợ vì không biết xe ôm chở tôi đi đâu? Và người xe ôm này có tốt không? Nhưng lòng mong mỏi gặp lại người bạn cũ khiến tôi can đảm ngồi trên xe vượt qua những cánh đồng, những khúc quanh với tre làng, với những ngọn núi xa xa. Tôi đã gặp, khuôn mặt dễ thương ngày nào của bạn. Đôi mắt lúc nào cũng ngơ ngác dưới hai tròng kính, và bây giờ ngơ ngác hơn khi gặp lại tôi . . .Bạn tôi bây giờ là một cô giáo dạy cấp II tại trường Vĩnh Phú. . .
Ẩn tàng trong cái đẹp hùng vĩ của miền Trung thương nhớ này, là bao gian lao cực khổ mà người dân ở đấy phải đối chọi với thiên nhiên, với nắng hạn, với bảo giông . . . nhưng cũng trong miền đất này ẩn tàng bao tâm hồn hiền hòa dễ mến mà tôi không thể nào quên . .
Phạm Lưu Vũ
Chuyện xảy ra từ cái thời loạn lạc
Chuyện xảy ra từ cái thời loạn lạc, thật giả tít mù.
Làng Văn Mộng tục gọi là làng Cóc có mấy anh rách việc thích lập ngôn, lập tự, xưng là những “tục sĩ”, hay ngồi quán rượu tán gẫu. Quán nằm ngay ngã tư, bốn hướng đều là đường cái, thành ra ngồi đó được chứng kiến khối kẻ qua, người lại. Người ta qua lại thì mặc người ta, đừng ngứa mồm làm gì. Nhưng khốn nỗi mấy “tục sĩ” này lại không thế, cứ nhòm thấy gì lạ là lại hét toáng lên, rồi chỉ trỏ, cười chê với nhau ra tuồng khoái chí lắm. Chẳng hạn thấy một người trán hói, đeo kính trắng, tay cắp một chiếc cặp to tướng, trông rất dáng thầy giáo đang đi sang phía Đông. Các “tục sĩ” vừa trỏ vừa tán. Cứ một câu “thực” lại đến một câu “luận”... Một anh nói:
- “Thế kia mà cũng làm thầy”
Anh khác vừa cười vừa phụ hoạ:
- “Thảo nào thiên hạ cứ đầy người ngu”
Lại thấy một ông cao lớn đầu nhẵn thín, lông mày rậm, cắp ô đi phăm phăm về phía Tây. Một anh cười chảy cả nước mắt, vừa cười vừa nói oang oang:
- “Thế kia mà cũng đi tu”
Một anh khác hớn hở tiếp lời:
- “Trách nào mẹ đĩ lộn mu ra ngoài”...
Kết quả tối về nhà, anh nào anh nấy mồm sưng vếu lên hết lượt, có anh còn bị gãy cả răng. Vợ thấy thế bèn hỏi: “làm sao đến nông nỗi này?” – trả lời: “bị người ta vả”. Lại hỏi: “tại sao vả?” – trả lời: “tại cười người ta.” Vợ bảo: “thế thì vả là đáng lắm. Nên nhớ con người ta là chỗ chỉ có thể khen, không có thể cười chê được.”
Mấy “tục sĩ” thấm thía bài học ấy lắm. Bèn rút kinh nghiệm, một hôm lại rách việc đúng cái chỗ ngã tư ấy. Lần này thì không dám cười chê gì nữa, mà bảo nhau vừa ca ngợi, vừa khen lấy khen để. Chẳng hạn nhìn thấy một ông mồm rộng, răng lớn đang đi xuống phía Nam, các “tục sĩ” bèn xuýt xoa khen ngợi. Nhưng lần này thì cứ một câu “luận” lại đến một câu “kết”... Một anh nói:
- “Mồm kia mới thực dẻo dai”
Anh khác tiếp lời:
- “Răng kia mới thực thiên tài... gặm dân”
Bất chợt lại trông thấy một ông mặt to, bụng phệ đi lên phía trước. Một anh nói:
- “Mặt kia vĩ đại như thần”
Một anh khác nói:
- “Bụng kia mười thước thì... phân cả mười.”...
Lại kết quả tối về nhà, anh nào anh nấy không những sưng mồm, gãy răng hết lượt, mà còn hộc cả máu mồm máu mũi ra nữa. Vợ thấy thế lại hỏi: “làm sao đến nông nỗi này?” – trả lời: “bị người ta tát”. Lại hỏi: “tại sao tát?” – trả lời: “tại khen người ta.” Vợ bảo: “thế thì tát là còn may đấy. Đời không có gì đáng khen. Vậy mà cứ ra rả khen thì có khác gì chửi đểu...”
Lần này thì các “tục sĩ” không phục lắm cái bài học ấy của vợ. Bụng cứ thắc mắc mãi. Cười không được, khen cũng không được, thế là nghĩa lý gì. Chợt nhớ lão chủ cái quán rượu ấy. Lão ở ngay chỗ ngã tư đường cái, chứng kiến không biết bao nhiêu việc lạ. Mà lão cũng là con người, tránh sao cho khỏi có lúc ngứa mắt, rỗi mồm. Vậy mà lão không hề bị ai vả, ai tát. Mồm mũi quanh năm vẫn lành lặn, nguyên si... là cớ làm sao. Bèn rủ nhau đến hỏi nguyên do. Lão chủ quán nghe xong thì bảo:
- Các anh há lại không biết rằng con người bây giờ còn thiêng hơn cả thần thánh, ma quỉ hay sao? Lão cả đời ở chỗ ngã tư này, hai mắt tuy thao láo đấy, nhưng đã luyện được phép... không nhìn thấy gì. Vả lại các anh cười hay khen gì thì cứ việc. Hà cớ gì lại diễn ra... thơ. Trong khi thơ là một thứ hiểm nguy chứ không phải tầm thường. Cười ra thơ thì dẫu có “giả” người ta cũng tức, khen ra thơ thì dẫu có “thực” người ta cũng nghi... Huống chi cuộc đời bây giờ đối với cái chuyện văn chương thơ phú, có khác gì ăn cá mà lại mắc chứng hóc xương, cứ thấy ở đâu có chữ nghĩa là người ta phải nâng cao cảnh giác. Nhưng thôi, nói nhiều cũng vô ích. Các anh đã không luyện được phép “không nhìn thấy gì” như lão thì hãy cho lão hỏi. Chẳng hay các anh cười bằng cái gì?
Các “tục sĩ” nhìn nhau ngạc nhiên, bụng nghĩ lão này chắc lên cơn hâm hay sao mà hỏi lạ vậy. Song vẫn trả lời:
- Chúng tôi cười bằng mồm.
Lão chủ quán rượu “hừ” một tiếng rồi bảo:
- Thế thì phải rồi. Đời bây giờ mà cười chê người ta bằng cái mồm cha sinh mẹ đẻ của mình, thì có bị gãy răng cũng là còn may. Phải cười bằng “khuôn” mới được. Trên đỉnh ngã tư này có cửa hàng bán một thứ gọi là cái “khuôn cười”. Khuôn chỉ một cỡ, nhưng vừa cho tất cả bàn dân thiên hạ. Vì thế không cần phải đo mồm. Các anh cứ đến đấy mà mua. Từ nay muốn cười ai thì cứ chụp cái “khuôn” ấy vào mồm rồi tha hồ mà cười. Cười khùng khục, cười ra chữ nghĩa hay thơ văn gì càng tốt. Tiếng tuy có bị méo đi song người khác nghe rất vừa tai, không ai thèm động lòng.
Các “tục sĩ” nghe lời, bèn tìm đến cửa hàng ấy mua mỗi người một cái “khuôn cười”, đem chụp vào mồm rồi cười thử. Quả nhiên nghe lạ hẳn đi, không ai nhận ra tiếng của mình trước đây nữa. Lại phải nắn mồm sao cho đúng với hình dáng của cái khuôn, quá một tí là bị ngay những mũi kim chích vào hai mép đau điếng. Kết quả chỉ phát ra những tiếng lí nhí, êm ru như muỗi kêu. Giải quyết xong chuyện cười. Các “tục sĩ” quay lại hỏi lão chủ quán:
- Cười phải có “khuôn” thì được rồi. Thế còn khen thì sao?
Lão chủ quán rượu hỏi:
- Chẳng hay xưa nay các anh khen bằng cái gì?
Các “tục sĩ” trả lời:
- Thì... cũng bằng mồm đấy thôi.
Lão chủ quán rượu lại “hừ” một tiếng rồi bảo:
- Thế thì càng không được. Cái mồm cha sinh mẹ đẻ của bọn “tục sĩ” các anh, vốn thật giả khó lường, khen với chửi nhiều khi không phân biệt được. Vì thế khen mà vẫn bị hộc máu mũi ra là còn may đấy. Khen cũng phải nắn lại mồm. Nhưng không dùng khuôn, mà dùng “rọ”. ở cửa hàng ấy cũng có bán thứ đó, gọi là cái “rọ khen”. Rọ cũng chỉ một cỡ, nhưng cũng vừa với tất cả bàn dân thiên hạ. Các anh đến mua đi rồi muốn khen ngợi ai, khen cái gì, cứ chụp cái “rọ” ấy vào mồm thì tha hồ mà khen. Có dùng đến chữ nghĩa cũng chẳng sao, càng khen ra nhiều văn, nhiều thơ càng tốt. Có thế người ta mới yên tâm, mới sướng tai nghe những lời khen của các anh được.
Các “tục sĩ” nghe nói, lại lập tức đến cửa hàng ấy mua “rọ khen”. Kích thước của cái “rọ khen” này cũng hao hao cái “khuôn cười”. Nhưng lại có những lỗ mắt cáo y hệt cái rọ thường chụp vào mõm chó để đề phòng cắn càn. Quả là an toàn cho tất cả mọi người. Bèn chụp “rọ” vào mồm, rồi anh nào anh nấy thử ngâm nga mấy câu ca ngợi. Quả nhiên giọng tuy cũng lạc hẳn đi nhưng nghe rất du dương, dễ chịu.
Từ đấy, các “tục sĩ” làng Cóc anh nào cũng thủ sẵn một chiếc “khuôn cười” và một chiếc “rọ khen”, coi như hai thứ “bảo bối” trong người. Ông chủ cửa hàng bán “khuôn cười” và “rọ khen” ở đỉnh ngã tư ấy là người vừa nghĩ ra mẫu mã vừa độc quyền phân phối, nên càng ngày càng phát đạt ra trông thấy.
Cũng từ đó trở đi, mồm mũi các “tục sĩ” luôn luôn lành lặn, không còn lo bị sưng vếu, bị gãy răng hay hộc máu tươi như trước nữa. Về sau, các “tục sĩ” còn rủ nhau lập thành “hội”, có nội quy, điều lệ đàng hoàng, lại bầu ra hội trưởng, hội phó hẳn hoi, gọi là: “Hội Tục sĩ làng Cóc”.
Hội vài năm họp một lần, mỗi lần họp vui như đám mổ bò, lại cũng bầu bán rất ghê. Hội kết nạp hội viên thoải mái, ai vào cũng xong, chỉ cốt có tí “tục”, kèm theo... một bữa nhậu là được. Tiêu chuẩn quan trọng duy nhất là phải sắm cho bằng được hai thứ “bảo bối” ấy ở cửa hàng độc quyền của ông chủ ở đỉnh ngã tư kia
Phạm Lưu Vũ
Cơm trắng
Vào thành phố làm thuê đã gần chục năm nay, Tết này anh ở lại ăn Tết với vợ chồng tôi. Sáng ba mươi làm cỗ cúng ông bà ông vải, nhìn vợ tôi xới ra mấy lưng cơm trắng đặt lên mâm, anh bảo: “Ông có tin là tới khi lấy vợ, tôi mới biết thế nào là cơm trắng không?” Rồi không đợi tôi trả lời, anh nói tiếp, giọng bùi ngùi: “Giờ nói ra chắc chẳng ai tin. Nhưng có một thời những người nông dân quê tôi không biết thế nào là cơm trắng. Thế mà mấy ông mấy bà nhà văn cứ viết thế này thế nọ. Tài thật!...” Rồi anh kể cho chúng tôi nghe một chuyện ở làng anh. Tôi nghe xong định bụng sẽ có sao chép vậy. Cầu mong những vong hồn ở quê anh có khôn thiêng chứng giám. Mâm cơm này xin được cúng cả cho những oan hồn ngày ấy. Còn sau đây là câu chuyện của anh:
Năm đó chị Thắm về thăm làng đúng vào dịp giỗ bà nội của chị là bà Gái. Đã mấy chục năm trôi qua. Cái chết của bà nội lúc nào cũng ám ảnh chị. Bà chết vì lên cơn dại sau mấy ngày bị chó cắn. Lúc đó chị mới lên chín tuổi. Ôi! Bà chết mới thương tâm, kinh sợ làm sao. Bắt đầu là những triệu chứng sợ gió, sợ nước, những trận run không hãm lại được. Rồi bà lên cơn, miệng sùi bọt mép, tấm thân già nua co giật dữ dội, bố mẹ chị phải cố hết sức mới giữ cho bà khỏi lăn xuống nền nhà. Bố mẹ chị khóc không thành tiếng. Cái Thắm bấy giờ sợ quá đứng ôm nép một bên cột nước mắt ràn rụa. Nó gào khóc ầm ĩ. “Ối bà ơi... bà làm sao thế bà ơi...” Hàng xóm láng giềng đổ đến. Mấy ông già cao tuổi nhìn cảnh ấy lắc đầu. Rồi có những lúc cơn dại tạm lui, bà mềm nhũn như một cọng bún, người đẫm mồ hôi, dúm dó. Mặt bà tái dại đi. Song bà vẫn tỉnh táo. Bà biết bà sắp chết. Bố mẹ cũng biết bà sắp chết mà không làm sao được. Tất cả chỉ còn biết nhìn nhau thê thảm. Đôi mắt đã thất thần của bà vẫn như muốn dõi tìm cái Thắm. Bà giơ hai tay lên, muốn kéo nó lại gần. Bà phều phào lẩy bẩy mấy lời trăn trối: “Con... ơ... ơi... Cháu... ơ... ơi... Đừng bao giờ mơ cơm trắng nữa... ng... nghe... chư...chưa...” Chỉ được có thế, rồi một cơn dại khác lại ập đến...
Chị Thắm xin phép bố mẹ để chị đi chợ mua đồ về làm lưng cơm cúng bà. Đặt đĩa xôi, con gà lên bàn thờ, chị xới ra lưng bát cơm trắng để lên trước bát nhang rồi thắp hương, cúi đầu lầm rầm khấn vái. Khấn xong, chị chắp tay ngẩng nhìn tấm di ảnh nhăn nheo của bà nội trên bàn thờ. Khói hương như những con giun ngoằn ngoèo cuộn lên rồi toả ra xung quanh thành những vòng tròn nằm ngang. Qua làn khói, chị cảm thấy đôi mắt của bà lung linh như vừa chớp một cái, lúc nhìn chị, lúc lại nhìn xuống bát cơm trắng đặt trước mặt. Cặp môi răn reo của bà hình như vừa mấp máy điều gì. Bất giác, chị cảm thấy một luồng hơi lạnh chạy giần giật dọc sống lưng, toàn thân chị sởn hết gai ốc, chị muốn quị xuống.
Chị sực tỉnh khi bố chị nhắc chị đứng ra ngoài để ông vào cúng. Giọng cúng của ông đều đều, ấm áp như một bài tụng kinh siêu thoát làm tâm thần vừa nặng trĩu của chị vơi đi được phần nào. “Nam mô A di đà Phật, tái thế tế thứ... Thượng hạ Đông Tây Nam Bắc... Thượng hạ mồ ma đống cao...” Cứ sau mỗi đoạn của bài cúng, ông lại lấy hơi bằng cách “suýt” nhẹ một tiếng rõ dài. Chị đứng nghe mà không cầm nổi nước mắt. Cúng xong, ông đưa hai tay lên bàn thờ sửa lại mấy nén hương. Bỗng ông hoảng hốt kêu thét lên: “Ối giời đất ôi! Cái gì thế này?...” Chị giật mình thấy ông bố mặt tái mét đang trỏ tay vào bát cơm trên bàn thờ, miệng ú ớ nói không nghe ra tiếng nào nữa. Chị vội lao tới, nhìn theo hướng ngón tay trỏ của ông. Ngay lập tức, đến lượt chị cũng rụng rời hồn xiêu phách tán. Bát cơm trắng muốt chị vừa xới ra, giờ đỏ lòm như một bát máu. Kí ức của cái Thắm bé bỏng ngày xưa tưởng đã quên đi, giờ lại đột ngột dội về...
Cuối làng có một túp nhà tranh, tường đắp đất như cái lô cốt. Đó là nhà Rốp Đực. Rốp Đực mới gần ba mươi, học mất sáu năm trường làng lên tới lớp ba rồi nghỉ luôn. Bố mẹ lấy vợ cho gã rồi cho gã ở riêng. Cái đĩ Nhài con nhà Phẹt quắt queo, thò lò mũi thế mà về làm vợ gã độ nửa năm bỗng trổ mã phổng phao câu, má đỏ hây, ngực căng muốn nứt áo, nom ngon như một con bò cái tơ. Vợ chồng lực điền son rỗi thành ra cũng không đến nỗi, đủ ngày hai bữa cơm độn, không phải ăn cháo rau như khối nhà khác trong làng. Từ khi trổ mã, cái Nhài được đích thân thằng Tấn, bí thư Đoàn tuyên truyền giác ngộ rồi kết nạp vào Đoàn... Riêng gã vẫn thành phần thanh niên chậm tiến. Thằng Tấn con Bí thư Nục quyền sinh quyền sát trong làng. Nó cũng chỉ học đến lớp bảy rồi phá ngang, suốt ngày lêu lổng, tụ tập mấy đứa ranh con đi ăn cắp trứng gà hoặc rình đàn bà con gái tắm. Từ ngày ông Nục đưa nó lên chức bí thư Đoàn, lúc nào nó cũng cố tỏ ra chững chạc ta đây cán bộ cán bèo, song vẻ lưu manh thì không giấu đi đâu được.
Cái Nhài sinh hoạt Đoàn được mấy tháng thì thằng Tấn tỉ tê hứa sẽ bồi dưỡng để nó được đứng trong hàng ngũ của Đảng quang vinh. Thế thì có mà đổi đời. Rốp Đực chả tin điều đó. Song con vợ cứ hí hửng thì thầm vào tai gã: “Bố nó là Bí thư, nó muốn làm gì chả được...” Gã gắt lên với vợ: “Dưng mà tao đếch thích cái thằng ấy, cả bố con nhà nó...” Rồi một buổi tối, sau khi sinh hoạt Đoàn xong, thằng Tấn dẫn cái Nhài ra phía cánh đồng, vừa đi vừa khoát chân khoát tay “bồi dưỡng” lý tưởng... cho nó. Tới tít cánh Rộc cùng, giọng “bồi dưỡng” của thằng Tấn chợt run lên lào phào, trộn lẫn những hơi thở gấp. Cả người nó bỗng ngùn ngụt như muốn bốc cháy. Nó kéo cái Nhài ngồi thụp xuống bờ ruộng. Cái Nhài chợt tỉnh ra, sợ quá la lên: “Tôi là gái có chồng...”. Thằng Tấn vội vàng dùng tay bóp chặt mồm nó lại không cho kêu rồi đè ngửa ra, rứt vội một nắm cỏ nhét đầy vào mồm nó. Cái Nhài ú ớ giẫy giụa. Không ăn thua gì. Thằng con trai kia vẫn một tay ghì chặt ngang cổ nó, một tay giật phựt phựt những nút áo. Đoạn rồi gã nhổm đít, co một chân lên, móc ngón cái vào cạp quần ngay dưới rốn cái Nhài, đạp mạnh xuống...
Suốt mấy ngày đêm, cả nhà Rốp Đực lẫn nhà Phẹt đổ đi tìm con Nhài. Không thấy tăm tích nó đâu. Cả đời nó đi xa nhất chỉ sang đến chợ Đò. Vậy mà mấy đứa trong ban chấp hành Đoàn cả quyết rằng tối ấy sinh hoạt xong sớm, chúng nó thấy cái Nhài rủ đi xem phim tận bên Gia Trung... Ba ngày sau, xác cái Nhài nổi lên ở cuối đoạn sông gần cánh đồng Rộc cùng, người nó mắc vào một chân cột vó bè, mồm ngậm đầy những cỏ, hai mắt nó trợn ngược, trắng dã, quần áo rách te tua phơi cái bụng trương sình, trắng như lợn cạo. Lão Phẹt nghe tin sét đánh vội vã lao tới. “Ối con ơi!...” Vừa lúc ấy từ miệng cái Nhài, nắm cỏ ộc ra ngoài kèm theo một ngụm máu lẫn nước dãi, nom nhờ nhờ như máu cá. Bí thư Nục vội vàng triệu tập họp những cán bộ chủ chốt để phổ biến tình hình trật tự an ninh trong khu vực. Ông ta thông báo rằng gần đây có một nhóm cướp mới tụ tập, chuyên lảng vảng làng này, làng nọ. Công an đang tổ chức truy bắt. Trường hợp của đồng chí Nhài chắc chắn do nhóm cướp đó gây ra... Tiếc quá, bên Đoàn đã giới thiệu đồng chí nữ đoàn viên tích cực ấy vào diện cảm tình, đối tượng...
Rốp Đực phát điên từ ngày đó. Một hôm gã vác con dao bầu đến nhà ông Nục đòi gặp thằng bí thư Đoàn. Gã cho rằng chính vì chuyện sinh hoạt Đoàn điếc cái con mẹ nhà chúng nó ấy đã khiến vợ gã chết oan. “Ối Nhài ơi... em cứ ở nhà với anh thì đâu ra nông nỗi... Đoàn điếc gì để người ta hiếp chết em ơi...” Lúc ấy, thằng Tấn cùng mấy đứa trong ban chấp hành Đoàn đang tụ họp đánh chén trong nhà hoảng hốt chui hết vào buồng, đóng chặt cửa lại. Mãi sau, một thằng được phân công lẻn cửa sau đi báo công an. Lập tức công an có mặt. Giải thích, thuyết phục thế nào gã cũng không nghe, lại còn chửi vung xích chó. Một anh công an xông vào, gã múa tít con dao bầu, xuýt xảy ra án mạng. Một anh khác thấy thế chĩa súng lên trời bắn một phát chỉ thiên. Cả làng giật mình sợ chết khiếp. Rốp Đực cũng giật nảy mình, ngơ ngác. Nhân lúc đó, một anh công an vòng phía sau lao vào ôm chặt lấy gã. Rồi mấy anh kia xông tới cướp lấy con dao, đè nghiến gã xuống, trói gô lại như một con chó, giải về trụ sở. Rốp Đực biến một lèo sáu tháng, lên huyện, rồi lên tỉnh... Dân làng đồn gã bị khép tội phản động. Bỗng một hôm người ta chở gã về, người như cái xác ve, rũ rượi. Từ đó gã càng điên loạn hơn trước, song những cơ bắp lực điền ngày xưa biến đâu hết cả, sức vóc hầu như chẳng còn gì đáng kể. Cũng may, gã tuy điên nhưng lành như cục đất, chẳng dọa nạt con nít bao giờ.
Hôm ấy, Rốp Đực xúc đầy một rá gạo, đem ra nhúng cả vào vại nước, vừa vo vừa ngửa cổ lên trời ca một câu rất dở hơi:“Hơ hơ!, đĩ vợ ta ơi... về ăn cơm trắng rồi chơi... Bố mày!... Hơ hơ!...” Hai tiếng “Bố mày” gã quát lên thành tiếng chửi, không biết chửi ai? Vo gạo xong, gã trút hết vào cái xoong nhôm nhăn nheo, đổ đầy nước rồi đem vào đặt lên bếp, nhóm lửa. Có tiếng gà lúc cúc đi ngang qua sân. Gã vọt ra. Không kịp rồi. Con gà mái đã lao thẳng vào vườn chuối, vừa chạy vừa quác lên mấy tiếng như muốn chửi vào mặt gã: “Mả cha mày, định giết bà hử...” Gã ngây người tiếc rẻ, lững thững quay vào bếp. Gã nhìn ngọn lửa đang liếm láp cái đít xoong, thở dài. Cái đít xoong đen óng ả như mái đầu của đĩ Nhài dạo nào. Gã bỗng tưởng tượng vợ gã đang ngồi đấy như mọi lần, một tay cầm que cời, một tay đưa lên vấn lại mái tóc, da thịt Nhài tròn căng trong lớp vải pô pơ lin mỏng tang, thơm lịm... Gã đưa hai bàn tay lên bưng lấy mặt, rồi lại mở ra, rồi lại bưng lấy như trẻ con chơi trò trốn tìm... mắt gã hau háu nhìn vào cái chỗ trống trơn ấy. Bỗng gã cúi xuống, luống cuống tụt quần ra, rồi hai tay ôm cứng lấy bộ hạ, gã bước lò dò tới đứng trước cái bếp lửa. Ngửa mặt lên nóc bếp, gã tru lên mấy tiếng như một con chó đực, bọt mép trào ra hai khoé môi. Cứ thế, những thớ thịt nhão nhoét hai bên đùi gã giật lên những cơn nhè nhẹ trước chậm sau nhanh dần, nhanh dần. Hai bàn tay gã cũng hối hả giật ra giật vào dưới hạ bộ. Mồ hôi gã túa ra, chảy nhễ nhại trên khuôn mặt. Gã giật mình cảm giác như có mùi hương bồ kết, mùi da thịt ngầy ngậy quen thuộc của vợ gã lẩn quất đâu đây. Rồi theo một thứ phản xạ nào đó của giống đực, gã kiễng hai chân, rướn người lên... Vừa lúc ấy, có tiếng “xèo!...” một cái, búng nước nhờn từ chỗ hạ bộ gã vừa vọt ra theo hình vòng cung, bắn thẳng vào giữa ngọn lửa. Xoong cơm trên bếp chợt bục lên một tiếng, phì hơi ra ngoài, cái nắp vung mấp máy. Cơm sôi. Bất giác, thân hình Rốp Đực cũng giật nhẹ một cái. Gã hơi cong người há hốc mồm nhìn cái vung xoong đang sùi bọt, hấp háy. Từ một lỗ châm kim đâu đó, một tia hơi nước mảnh như que tăm phun mạnh lên, phát ra tiếng kêu ri rỉ như tiếng khóc của một oan hồn. Gã lạnh toát người, mắt hoa lên, nảy đom đóm, miệng thở phì phò như kéo bễ. Lùi lại một bước, gã nhắm mắt lại rồi thả phịch người xuống thùng trấu, nằm lăn ra thở dốc.
Gã thức dậy lúc trời đã xế chiều. Xung quanh vắng lặng. Tiếng khóc ri rỉ ban nãy đã nín bặt. Dường như oan hồn đã bỏ gã mà đi. Xoong cơm trở lại im lìm trên bếp, ngọn lửa đã tàn từ lúc nào. Bê xoong cơm ra giữa sân, gã kéo lê cả cái rổ bát lỏng chỏng đặt bên cạnh. Rồi gã lấy bát, xới cơm ra. Xoong cơm trắng muốt bốc hơi thơm lựng, ngào ngạt điếc mũi. Mấy con chim sẻ đang bay trên trời bị cái mùi thơm ấy quyến rũ vội sà xuống, nhảy nhót loạn xạ xung quanh song không dám đến gần. Cái mùi ấy bay lên trời, toả đi khắp nơi, ra tới tận đầu làng. Bất giác dân làng ai cũng ứa nước miếng. Trẻ con ngơ ngác, tuôn dãi ra rề rề. Đám thanh niên hỏi nhau: “Mùi gì mà lạ thế, chửa được ngửi bao giờ?” Các cụ già lẩm bẩm: “Mùi cơm gạo mới ngày mùa đây mà. Đã hàng chục năm giời nay mới lại ngửi thấy. Nhưng ở đâu ra thế nhỉ...”
Rốp Đực bưng bát cơm lên, lùa một miếng vào miệng. Bỗng gã trợn mắt dừng lại, cơn điên lại bùng phát. Gã phun miếng cơm trong miệng ra, rồi nâng bát cơm lên khỏi đầu, quật mạnh xuống nền gạch. Choác! Cái bát sứ vỡ tan, cơm trắng văng ra tứ phía. Lũ chim sẻ đang nhảy nhót xung quanh hoảng sợ bay vọt lên. Lập tức, mấy con chó đói đang nấp trong vườn chuối phía tây lao tới, thì ra chúng rình từ nãy. Những con chó vừa gầm gừ, vừa vùng vằng ăng ẳng tranh nhau liếm vội những hạt cơm. Nhìn khung cảnh náo nhiệt của bầy chó, gã thấy mình dường như đỡ cô đơn. Gã lại xới một bát nữa, lại... choác! Bầy chó hơi giật mình, khựng lại một giây rồi chợt hiểu. Nhờ có cái tiếng “choác” đó chúng mới có cơm mà liếm. Chúng chẳng sợ, chẳng cần để ý đến gã nữa.
Bà Gái nuốt vội miếng nước bọt. Cái gì mà bên nhà Rốp Đực cứ bốp bốp, chát chát như đập bát đập đĩa thế nhỉ? Lại còn tiếng chó ăng ẳng, hình như chúng đang tranh ăn. Đích thị là tranh ăn. Người tranh ăn có khi còn kín tiếng chứ chó tranh ăn thì không giấu tiếng vào đâu được. Lại còn cái mùi thơm lựng giời? Ở đó chứ còn ở đâu ra nữa. Mấy hôm trước sang xin lửa, bà ngó cót nhà nó dễ còn mấy yến thóc, mình nó ăn đâu đã hết. Chỉ có điên như nó mới dám thổi cơm trắng. Từ khi có hợp tác xã, cả làng trừ những nhà Bí thư, Chủ nhiệm... còn lại nhà nào khá lắm cũng chỉ dám thổi cơm khoai, cơm sắn, còn đâu toàn cháo loãng, kể cả trong những ngày mùa, lúa gặt về chất đầy sân kho mà đâu có được chia ngay. Còn phải đợi cán bộ “cân đối”, “lên phương án”.... Nước bọt lại ứa ra, bà Gái nhìn cái Thắm đen đúa như củ súng đang ngồi rũ một xó. Đôi mắt nó sáng quắc, cái cổ thụt vào giữa hai bờ vai gầy nom như một con cóc. Tội nghiệp nó, đang tuổi ăn tuổi lớn. Già ngót tám mươi tuổi, sắp xuống lỗ như bà còn đói không chịu nổi nữa là nó. Húp một bát cháo độn xu hào loãng từ trưa tới giờ, bụng cả hai bà cháu đã quắt lại như dán chặt quanh xương sống. Nó cũng đang thèm cái mùi thơm như bà. “Đi! đứng lên đi” bà ra lệnh rồi quả quyết đứng dậy, lôi đứa trẻ theo.
Hai bà cháu từ ngoài cổng nhà Rốp Đực ngó vào. Ối giời ôi! Nó đang đập những bát cơm trắng xuống sân kìa. Phí của thế hả giời? Lũ chó kia sẽ ăn hết mất thôi. Cơm trắng quá, trắng đến loá mắt. Lâu lắm rồi bà không còn được nhìn thấy những hạt cơm như thế nữa. Phải cứu lấy cơm trắng. Bà nghĩ bụng rồi dắt theo cái Thắm, xăm xăm đi vào. Tới sân, bà chợt sững người, xấu hổ đỏ bừng mặt. Cái thằng Rốp Đực nó cởi truồng nồng nỗng, ngồi trật ra cả một đống hạ bộ đen sì. Cái Thắm nép sau lưng bà tỏ vẻ sợ hãi, vậy mà đôi mắt vẫn hau háu nhìn cái xoong cơm. Bà muốn quay ra. Nhưng còn cơm trắng? Nhìn vẻ man dại của Rốp Đực, nhất là cái đùm đen sì hôi hám của gã đang tô hô thế kia, bà bỏ ý định sấn tới cạnh gã, giằng lấy cái xoong cơm. Thôi thì vớt vát được chừng nào hay chừng nấy. Sự xấu hổ nhất thời đã không thắng được bản năng tiếc của. Hai bà cháu cố tránh nhìn gã, cứ thế len lén đi vào. Rồi bà ngồi thụp xuống, đứa cháu như con cóc cũng ngồi bệt xuống theo. Bà cháu bắt đầu hối hả đưa cả hai tay ra vét lấy những hạt cơm trắng đang vãi tung toé. Phía đối diện, bầy chó dường như cảm thấy có thêm đối thủ, chúng gừ lên mấy tiếng như để thị uy rồi sấn xổ lao vào giữa đống cơm trắng vương vãi lẫn những mảnh bát vỡ.
Rốp Đực nhìn cái cảnh bên chó bên người ấy lại càng thấy ngồ ngộ. Đúng là cái thằng điên. Hai bàn tay gã vừa nâng một bát cơm lên qua đầu chợt ngừng lại. Gã nghĩ sao lại hạ bát cơm xuống, nhoai người đặt ra xa trước mặt, cố ý để nó lệch về phía hai bà cháu. Bà Gái chợt ngừng nhai miếng cơm lẫn cát đang lạo xạo trong miệng. Bà nhìn bát cơm trắng, rồi nhìn gã, nghi ngờ. Nó cho mình bát cơm? Không nhẽ nó tử tế đến thế. Dễ đến chục năm nay, bà không hề được bưng trên tay một bát cơm trắng tinh như thế. Đứa cháu kia thì phải nói là từ lúc đẻ ra đến giờ. Có thật nó cho mình không? Ôi bát cơm quý hoá, bụng bà réo sôi ùng ục, bà run bắn người lên, vừa nghi ngờ, vừa lo sợ mấy con chó sẽ nhanh hơn bà. Bà nhìn gã, nhìn lũ chó như canh chừng rồi nhích dần, nhích dần. Bà đã tới rất gần, rất gần cái bát cơm quý hiếm có một không hai ấy. Cái Thắm ngồi phía sau cũng đang nín thở mong bà. Đợi đấy! Rồi bà cháu ta chia nhau bát cơm này nhá. Lũ chó không hiểu sao cũng chợt yên lặng. Hình như chúng chưa kịp hiểu điều gì đang diễn ra. Chó mà, chúng đâu có thông minh được như người. Hay chúng muốn nhường nhịn? Bà đã tới gần lắm rồi, chỉ cần đưa tay ra chộp xuống là được, bà hồi hộp nghĩ, mắt vẫn không rời gương mặt man dại của gã. Bỗng bà cúi nhanh xuống, nhìn thẳng vào bát cơm, đoạn chụp cả hai tay ôm gọn lấy nó. Ngay lúc ấy, lũ chó dường như cũng chợt tỉnh. Chúng sủa rộ lên, rồi một con lao tới. Nó há cái mõm đầy răng nham nhở của nó đớp mạnh vào tay bà. Á! một tiếng thét đau đớn bật ra. Song bà quyết không rụt tay lại, bà vẫn ôm chặt cái bát cơm, cố giằng nó vào lòng mình. Máu từ tay bà trào ra. Giây lát, màu trắng của cơm chuyển hẳn sang màu đỏ. Bát cơm vừa nãy giờ đã nhuộm đầy máu tươi...
Phạm Lưu Vũ
Chị Cả Bống
Lời Giới Thiệu
Truyện ngắn Chị Cả Bống xuất hiện đầu tiên trên báo Người Hà Nội, số ra ngày 8/6/05. Lập tức toàn bộ số báo bị tịch thu. Ông phó tổng biên tập cho in bài "nổi loạn" này bị mất chức. Tác giả đang bị công an hù dọa liên tục. Hiện tại số báo ngày 8/6 này đang được phô tô truyền tay nhanh chóng tại Hà Nội, vượt xa cả số phát hành chính thức là 2000 tờ. Những số báo đã lỡ gởi ra trước khi có lệnh tịch thu mà các đại lý nhanh tay giấu được ngay lập tức được bán với giá gấp 10 lần (20.000 đồng một tờ). Tại Sài Gòn nơi tác giả lấy bối cảnh để viết, giá lên gấp hai mươi, ba mươi lần.
Chiều tà, một người đàn ông phóng như ngựa phi nước đại về phía tây thành phố, nơi ấy có nhà tù với cái tên rất đẹp là "Hoà khí". Tới cổng gác, ông ta trình thẻ căn cước cho lính canh. Sau khi xem chứng minh thư, lính canh dẫn ông vào văn phòng nộp hồ sơ. Một người đứng tuổi đeo kính trắng nhận hồ sơ rồi bảo:
- Dẫn tới khu nhà chờ, đợi thẩm tra hồ sơ, ba tuần sau có kết quả.
Lính canh lại dẫn ông ta đi, khu nhà chờ gồm vài dãy nhà cấp 4 xập xệ và rêu mốc, rất đông người ở kín các gian phòng, đàn ông, đàn bà, lớn bé, già trẻ, đủ cả... Điều kiện sinh hoạt rất tồi tệ song không ai ta thán, đơn giản họ chỉ ở lại đây có vài tuần. Từ khi lập ra khu nhà chờ này không lúc nào vơi người. Ngày nào cũng có người đi lại, ngày nào cũng có người đến. Giống như người đàn ông kia, mọi người chờ thẩm tra hồ sơ, nếu đủ tiêu chuẩn sẽ được vào tù. Tiêu chuẩn đơn giản nhưng không phải không kỹ càng, chỉ những người lương thiện không dính tý lưu manh nào mới được vào tù. Tất nhiên lũ bất lương đừng hòng bén mảng tới.
Chẳng ai lấy làm ngạc nhiên, ở xứ xở này, không có chuyện gì là không xảy ra kể cả những chuyện ngược đời, đơn giản mọi người không những thích đùa mà còn đùa rất dai; 5 giờ rưỡi sáng, kỹ sư Hoàng thức dậy, vợ và đứa con trai mười tuổi của anh đang ngủ say. Đứa con gái 17 tuổi của anh đêm qua không về, chị giúp việc cũng đã dậy từ lúc nào, đèn dưới bếp hắt lên mấy vệt sáng le lói qua khe cửa. Mười phút cho việc vệ sinh cá nhân, 25 phút cho việc mở các loại cửa. Như mọi nhà trong thành phố, từ lâu anh đã biến căn hộ của mình thành một pháo đài. Các cửa sổ ngoài việc lắp chấn song bằng thép dày, còn được giằng ngang ba ống thép to bằng cổ tay, chia đều từ trên xuống dưới. Cửa đi cũng bằng thép đúc, bên ngoài dán một lớp gỗ mỏng. Tính từ trong ra đến cửa, còn năm lớp cửa như thế, tất cả đều có khoá đặc biệt, mỗi cửa gồm ba chiếc khác loại nhau. Mở đến lần cửa cuối cùng thì vợ con anh cũng vừa trở dậy. Những việc chuẩn bị cho một ngày mới diễn ra đã thành nếp. Sau khi dặn dò kỹ lưỡng chị giúp việc hai vợ chồng dắt xe đi làm. Chị kiêm thêm nhiệm vụ đưa con tới trường, chiều về ghé qua chợ mua thức ăn cho ngày hôm sau. Trước khi ra cổng, anh một lần nữa kiểm tra trên người vợ con xem có đeo bất cứ loại trang sức nào không, nhắc vợ cẩn thận kẻo bị cướp... Anh lại lần lượt khoá tất cả các cửa từ trong ra ngoài, trong lúc vợ đứng giữ xe. Đứng bên ngoài thò tay qua các lỗ cửa thực hiện những thao tác của người mù, mười phút nữa cho công việc ấy, xong xuôi vợ chồng con cái chia thành hai ngả phóng xe đi.
Kỹ sư Hoàng làm việc tại một cơ quan thiết kế gần trung tâm thành phố. Mới ngoài 40 mà tóc anh đã gần như bạc trắng, thằng con trai lớn 19 tuổi đang ở trung tâm cai nghiện, đứa con gái thứ hai 17 tuổi đua đòi chúng bạn bỏ cả học đi vũ trường thâu đêm, suốt sáng. Không phải vợ chồng anh không biết dạy con mà là bất lực. Con đường đời biết bao nhiêu cạm bẫy, nó gài khắp mọi nơi, mọi chốn, gài trên mỗi bước chân. Già đời chững chạc như vợ chồng anh, ngày nào cũng phải nhắc nhau từng tí một mà vẫn ngay ngáy lo rằng không biết lúc nào, cái bẫy nào sẽ ụp xuống mình đây ?
Kỹ sư Hoàng chợt lạnh người. Có tiếng còi nghe rợn tai, một cảnh sát giao thông bước quả quyết từ trên vỉa hè xuống đường vừa tuýt còi, vừa chỉ thẳng cái dùi cui vằn vện vào mặt anh, một cảnh sát khác ngồi vắt vẻo trên yên xe máy phân khối lớn sơn màu trắng. Chưa kịp hiểu mình có sai luật hay không anh vội đạp phanh, chiếc xe dừng tắp lại.
- Kiểm tra giấy tờ! Người cảnh sát vừa rút chiếc còi ra khỏi miệng vừa giơ tay lên mũ chào như một cái máy, vừa ra lệnh cho anh. Cầm giấy tờ của anh đưa cho anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, anh cảnh sát ấy lại tiếp tục đút còi vào miệng cầm gậy trỏ xuống đường chọn bắt xe khác. Anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, lướt qua đống giấy tờ của một anh khác. Không nói năng anh ta đưa mắt ngó lơ đi chỗ khác như thể chờ ai đến đọc giùm. Cũng như một cái máy, kỹ sư Hoàng dựng xe, móc bóp, rút ra một tờ đẹp đẽ vuông vắn có in hình lãnh tụ, bước tới chỗ anh ta.
Đến cơ quan, vừa kịp giờ làm việc, chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia là một thẩm phán toà án, người đang xử lý vụ kiện đòi nợ của cơ quan anh. Bằng một giọng rất lễ phép anh thẩm phán nhắc khéo anh rằng vụ kiện của cơ quan anh sẽ có thể bị đình chỉ vì phía anh chưa nộp chi phí cho việc thẩm tra. Nhân tiện anh ta nhắn rằng bữa nhậu chiều qua vì điện thoại cho anh không được mà anh ta và đám chiến hữu bên viện kiểm sát phải ký nợ nhà hàng một khoản kha khá, lúc nào anh ghé qua thanh toán giùm...
Chiều hôm đó về nhà, kỹ sư Hoàng chưa kịp mừng vì tin cô con gái đã trở về đang nằm bẹp trên gác thì đã nghe vợ mếu máo báo tin chiếc xe máy của chị bị cướp, mẹ con phải đi bộ về. Thực ra chị đã dối anh, chiếc xe máy đó chị đã buộc phải thế chấp để chuộc cô con gái từ cái động của một mụ tú bà, vì cô còn nợ mụ một khoản tiền vay mua son phấn với mức lãi 40% một ngày. Thế coi như của đi thay người. Kỹ sư Hoàng chưa kịp phát điên lên vì giận dữ thì may quá nhà có khách. Ông trưởng khu phố và mấy cán bộ của Uỷ ban lừng lững bước vào:
- Chúng tôi đến nhắc anh về khoản đóng góp xây nhà tù - Ông trưởng khu vào đề ngay, - nhân tiện báo để anh biết tháng trước có xe chở vật liệu đến đây, anh đã thuê thợ sửa nhà mà không xin phép. Uỷ ban đã nắm được việc này, nếu anh không thu xếp ngay thì sẽ bị lập biên bản thu giữ giấy tờ nhà, giấy tờ đất.
Kỹ sư Hoàng ngớ ra, quả thật tháng trước anh có thuê thợ lắp thêm một lần cổng nữa, phải xây mấy mét vuông tường, tưởng việc nhỏ, không phải xin phép, ai ngờ... Thôi đành "thu xếp" cho mấy vị trong Uỷ ban, nhưng còn khoản đóng góp xây nhà tù?
- Can phạm bây giờ nhiều quá ông trưởng khu phố giải thích. Đấy anh xem, trong nhà gặp lưu manh, ra đường đụng kẻ cướp, đủ các kiểu ăn cướp; rồi còn lũ ăn trộm, lừa đảo cho vay nặng lãi, nhà tù nào cũng chật ních, phải xây thêm. Ngân sách không kham nổi phải áp dụng phương pháp "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Phố ta được giao chỉ tiêu góp vốn xây 500 mét vuông nhà tù, thế mà ngẫm lại vẫn chưa đủ cho số tội phạm của chính phố ta đang nằm trong đó, chưa kể số sắp phải vào tù nay mai...
Đoàn cán bộ khu phố về được một lúc thì lão Tiến cụt giò đến, đó là một lão già vô tích sự nhà kế bên. Lão bị cụt một bên giò từ hồi chiến tranh, giờ sống bằng số tiền thương tật, thỉnh thoảng con cháu dấm dúi gặp chăng hay chớ cho thêm. Suốt ngày chẳng làm trò gì, chỉ hay la cà hết nhà này đến nhà khác kiếm câu chuyện làm quà. Nhà kỹ sư Hoàng là một trong những nơi lão hay mò đến. Lão dở hơi ấy liến thoắng như thể đã tỏ tường mọi chuyện:
- Họ đến đòi tiền đóng góp xây nhà tù phải không? Anh kỹ sư này tôi nói anh xem có đúng không nhé: làm người lương thiện bây giờ vất vả quá, phải góp tiền xây nhà tù cho bọn bất lương ở, lại còn phải nai lưng nuôi chúng nữa, trong khi bọn lưu manh ngày càng chiếm đa số, người lương thiện ngày càng giảm đi. Biết đâu đến một lúc nào đó, những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình. Khi ấy tất nhiên bọn lưu manh tha hồ ở ngoài, vì lương thiện bây giờ đâu có nhiều nhặn gì, vừa bắt chính bọn chúng phải nai lưng ra làm đề nuôi người lương thiện, như thế có phải là công bằng không ?
Kỹ sư Hoàng phì cười vì cái lý sự ấy của lão Tiến cụt, vừa lúc ấy, chuông điện thoại trong nhà đổ dồn, vợ anh nghe xong, mặt tái mét ra báo tin dữ:
- Anh tới ngay bệnh viện Chúng Sinh. Thằng Phúc con chị cả bị cướp giật té xe, chấn thương sọ não đang nằm cấp cứu trong ấy.
Chị Cả Bống là chị gái kỹ sư Hoàng ở dưới quê, anh chị có ba thằng con trai thì hai thằng lớn theo bố làm nghề xin đểu kiêm trấn lột ở bến đò Đuôi Cáo bị đâm lòi ruột, chết cả ba bố con từ năm kia. Cũng là cái số thôi. Làng khối người làm nghề ấy hoặc hao hao nghề ấy mà có sao đâu, chỉ thỉnh thoảng lại thấy đi ở tù, vài năm về còn lưu manh hơn trước. May còn lại một mình thằng út tên Phúc ngoan, hiền, học giỏi. Năm ngoái đỗ đại học lên ở ký túc xá. Nó thương cậu mợ Hoàng nghèo nên không muốn nhờ vả. Chị Cả bán hết mảnh vườn còn lại sắm cho nó cái xe máy cũ làm phương tiện đi lại. Hôm ấy đang làm cỏ ngoài đồng có người gọi về cái trạm điện thoại công cộng ở đầu làng báo tin nó bị nạn. Chị nghe nhắn lại mà muốn quỵ luôn xuống ruộng. Vội vã chạy về nhà, chị vét vội mấy bơ lạc, bơ gạo nếp cho vào mấy cái bao ruột tượng tất tả chạy ra bến đò Đuôi Cáo. Vừa mới mon men gạ bán ở các hàng quán quanh đó, bất ngờ gặp mấy anh quản lý thị trường, chị bị bắt vào trụ sở. Lạy van thế nào họ cũng không nghe, còn dẫn hết "nghị định 01" đến "thông tư 04" gì đó ra đọc sang sảng vào hai cái tai đã chỉ còn nghe thấy tiếng lùng bùng của chị. Kết quả mấy bơ lạc ấy bị tịch thu vì lý do bao bì không có nhãn hiệu hàng hoá!
Thật khốn khổ cho chị, chỉ do cuống lên vì đứa con cuối cùng còn sót lại đang gặp nạn, muốn bán tống bán tháo mấy món tài sản ít ỏi ấy cho thật nhanh để lấy tiền đi xe lên thành phố. Chứ có phải chị buôn gian bán lận gì đâu ? Còn tiền thuốc thang, nói dại, nếu nó bị nặng chị chưa biết sẽ trông vào đâu, một viên thuốc cảm bằng cái cúc áo bây giờ giá bằng ba bốn cân thóc. Giờ thì ngay đến việc lên nhìn mặt con cũng bị chặn đứng lại rồi. Không có tiền ai người ta cho chị đi xe hàng trăm cây số? Càng nghĩ chị càng quýnh quáng chân tay, cuống cuồng, đứng chôn chân một chỗ, đầu óc mụ đi, mắt ráo hoảnh, vô hồn nhìn phía trước như một bức màn sương... bỗng từ trong cái màn đục lờ ấy, một bóng trắng hiện ra quằn quại, máu bê bết hiện ra chập chờn lúc xa xa, lúc ập ngay trước mặt, gió lạnh quất gai người. Phảng phất mùi tanh của máu tươi. Tai chị nghe rõ ràng tiếng kêu cứu của đứa con trai. Chị bàng hoàng nhận ra đó là tiếng rên từ địa ngục, tiếng của một âm hồn không còn ở cõi nhân gian này nữa:
- Mẹ ơi, con chết rồi. Họ đang mổ bụng con. Mẹ ơi...
Chị cả Bống hốt hoảng lao tới, giơ hai tay túm lấy bóng con, chợt cái bóng như có người giằng lấy, chập chờn quăng qua quăng lại trước mặt chị rồi mờ dần mờ dần, vẫn còn ri rỉ tiếng kêu cứu của oan hồn, rồi tất cả lịm đi. Cả tiếng kêu cứu lẫn cái bóng máu me chợt tắt ngấm bởi một tràng cười ré lên sằng sặc như của lũ ma quỷ nhưng không phải vọng lên từ địa ngục, tiếng cười ấy rõ ràng đang ở cõi nhân gian hiện hữu này...
Chị cả Bống sau này phát điên không về làng nữa, cứ lê la liếm láp ở quanh cái bến đò có cái tên rất ấn tượng là bến đò Đuôi Cáo ấy. Nhưng chị không điên ngay lúc đó, có người chứng minh là sau khi ra khỏi trụ sở ban quản lý thị trường chị vẫn còn tỉnh táo nhớ ra trong người còn sót mấy đồng tiền lẻ. Chị lần vào trạm điện thoại công cộng gọi điện báo cho cậu em trai. Đó là tất cả những gì chị làm được cho đứa con. Sau đó chị mới phát điên.
Kỹ sư Hoàng đến bệnh viện Chúng Sinh thì trời đã tối. Tìm tới phòng cấp cứu, anh hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, cô hộ lý mặc blu trắng bảo:
- Biết ai là phúc với họa gì ở đây. Đi mà hỏi trực ban.
Phòng cấp cứu rộng mênh mông, đầy những giường là giường, giường nào cũng ít nhất hai người nằm trở đầu đuôi. Đủ các kiểu tai nạn, vỡ đầu, gãy chân, lòi ruột, lòi xương. Ánh đèn nê ông trắng bệch soi loang lổ những máu me bông gạc. Nồng nặc một thứ mùi vừa tanh tanh máu, vừa ngầy ngậy thuốc tây. Bóng những blu trắng đi qua lại giữa các giường như ma trơi. Làm sao nhận ra đứa cháu bây giờ ?
Kỹ sư Hoàng vội vã đến phòng trực ban. Phòng trực ban cấp cứu nằm cuối dãy hành lang đầy những kẻ nằm người ngồi vạ vật rất chi là bệ rạc. Trong phòng có mấy người cũng mặc blu trắng đang chụm đầu bàn bạc nhỏ to:
- Cái mật hôm trước bán vội quá. Ngay hôm sau có người tới trả cao hơn cả chục triệu, tiếc đứt ruột - một người nói
- Cái này đếch bán nữa, đem ngâm rượu. Hũ rượu trước hết con mẹ nó rồi. Mấy lão hen suyễn kinh niên uống vào là khỏi, để giành bán cho các lão ấy. Gớm họ vừa chi tiền vừa cám ơn rối rít ấy chứ - một người khác nói
- Thôi được rồi! Người thứ ba nói - các ông xuống làm ngay đi, thằng này căn cước ghi rõ ràng: 19 tuổi. Đã kiểm tra, đảm bảo còn nguyên dương ( đàn ông chưa xuất tinh lần nào) chết do chấn thương sọ não vừa được mấy phút. Cái mật này mới tuyệt hảo, để quá hai tiếng có mà hỏng mẹ nó cả chì lẫn chài. Đã điện thoại cho bên công an rồi, họ bảo cứ mổ đi, có gì đừng "quên" họ là được.
Hai người kia vội vã đứng dậy lao nhanh ra khỏi phòng, vừa lúc ấy kỹ sư Hoàng bước vào:
- Bác sĩ làm ơn cho hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, 19 tuổi, sinh viên năm thứ hai, nghe nói bị chấn thương sọ não có cấp cứu ở đây không, nằm giường số mấy? Tôi là cậu ruột cháu - kỹ sư Hoàng vừa hỏi vừa tự giới thiệu
Anh bác sỹ còn lại trong phòng thoáng một chút giật mình. Anh ta làm như nghĩ ngợi điều gì rồi ngập ngừng:
- Tên Phúc, sinh viên, 19 tuổi.. A... anh... à bác ngồi chờ cháu một lát.
Linh cảm thấy có gì nghiêm trọng xảy đến với đứa cháu, lại cứ tưởng anh bác sỹ kia vì thông cảm với nỗi đau của mình mà chưa nỡ nói ngay. Kỹ sư Hoàng vừa lo sợ vừa cảm động nhìn anh bác sỹ đang cúi gằm mặt, tay lần giở một cuốn sổ to tướng chậm rãi lần một hồi. Mồ hôi đã toát ra lấm tấm trên khuôn mặt đỏ như gà chọi, anh bác sỹ chợt ngẩng lên bảo:
- Trong sổ này không thấy có tên Phúc. Bác ngồi đây chờ cháu đi lấy sổ khác. Nhớ là đừng đi đâu đấy.
Nói xong anh ta gập sổ rồi vội vã ra khỏi phòng, không quên đóng sập cửa lại. Còn một mình trong phòng, kỹ sư Hoàng lòng như lửa đốt. Bỗng chuông điện thoại reo vang, một hồi, hai hồi... chừng như người đầu dây bên kia có việc cần gọi cho bằng được. Kỹ sư Hoàng do dự giây lát rồi nhoài người với lấy cái ống nghe, định nói cho bên kia chờ lát nữa gọi lại. Vừa áp ống nghe lên tai, kỹ sư Hoàng chợt nghe ngay một giọng nói dằn từng tiếng:
- Trực ban cấp cứu phải không ? Bảo với pháp y rằng cái mật lần này tuyệt đối không được bán nghe chưa! Chú Sáu bên Uỷ ban đăng ký rồi đấy.
Kỹ sư Hoàng chưa kịp hiểu mô tê ra sao thì người đầu dây bên kia đã dập máy. Sau khi định thần suy nghĩ kết hợp với mấy câu cuối nghe được loáng thoáng lúc mới bước vào phòng, kỹ sư Hoàng chợt lạnh người với một nỗi nghi ngờ. Anh với cuốn sổ lúc nãy mở ra. Ngay giữa trang cuối cùng, rõ ràng có tên nạn nhân Nguyễn Hồng Phúc, 19 tuổi, sinh viên, té xe, nhập viện lúc... giờ... ngày - người đưa đến: Phạm văn A - bạn cùng lớp. Bỗng cánh cửa sịch mở, anh bác sỹ khi nãy ùa vào. Nhìn thấy cuốn sổ trên tay kỹ sư Hoàng, anh ta thoáng một giây bối rối rồi lập tức liến thoắng:
- Cháu quên không đọc trang cuối, đúng là có...
Anh ta chưa kịp nói hết câu kỹ sư Hoàng đã ngắt lời:
- Tôi biết hết rồi, anh không phải giải thích
Rồi chẳng muốn nói gì thêm, nữa kỹ sư Hoàng ném trả cuốn sổ, hấp tấp lao nhanh ra khỏi phòng, anh bác sỹ hé cửa ngó theo, hơi lắc đầu, mỉm một nụ cười ý nhị rồi đóng cửa lại, ung dung quay vào. Chuông điện thoại lại reo, anh ta cầm lấy ống nghe:
- Dạ... dạ... à thế ạ... Báo cáo, xong xuôi cả rồi ạ. Thế thì chú nói chú Sáu chuẩn bị rượu tốt để ngâm, cháu sẽ bảo anh em mang sang ngay bây giờ ạ.
Kỹ sư Hoàng xuống đến nhà xác thì Phúc đã nằm trong ngăn lạnh. Một không khí thê lương sặc mùi tử khí. Nền nhà vương đầy những bó nhang cụt, những cục nến gãy, những mẩu giấy tiền vàng mã... làm quang cảnh nơi đây giống như vừa xảy ra một vụ cướp. Viên quản lý nhà xác nghe trình bày, quan sát anh từ đầu đến chân bằng cặp mắt âm u như cặp mắt quỷ rồi chẳng nói chẳng rằng, ông ta lừ lừ tiến đến kéo một ngăn tủ ra. Kỹ sư Hoàng lạnh toát người nhìn trân trân cái xác... "Đúng thằng Phúc rồi, chị Cả ơi, khổ thân chị quá"... Không giữ nổi bình tĩnh, anh khuỵu xuống gục đầu vào ngăn tủ. Mùi máu tanh tưởi ập vào giác quan. Anh chợt tỉnh, ngẩng phắt lên, lấy tay lật manh áo trước bụng đứa cháu... một vết mổ cẩu thả còn chưa khít miệng với mấy mũi khâu vội vàng, dúm dó :
- Các người đã mổ cháu tôi... các người đã... Tôi sẽ kiện, kỹ sư Hoàng gào lên trong nước mắt
- Híc... viên quản lý nhà xác cất tiếng, giọng cũng âm u như phát ra từ bụng gã – Tha hồ cho ông kiện, tất cả những cái chết bất đắc kỳ tử thế này đều phải mổ hết, luật pháp quy định như vậy. Hừ có mà điên mới đi kiện luật pháp. À mà tôi đã vi phạm nội quy khi cho ông xem xác, lấy gì chứng minh ông là người nhà bây giờ? Mời ông đi khỏi đây.
Nói xong gã đưa tay đóng sập ngăn tủ lại
- Nhưng tôi... kỹ sư Hoàng chưng hửng... vậy còn cháu tôi?
- Trước hết phải có giấy tờ chứng minh ông là người nhà của nạn nhân đã, rồi sau đó phải làm đầy đủ thủ tục mới mang được lấy xác ra khỏi đây. Mà ông định cõng xác trên lưng mang về hay sao? Viên quản lý lạnh lùng phán.
Kỹ sư Hoàng có vẻ hiểu ra những việc cần làm, anh thất thểu bước ra khỏi nhà xác gọi điện về nhà bảo vợ chuẩn bị căn cước, sổ hộ khẩu lên phường xin giấy chứng nhận rồi tìm đến một tiệm bán quan tài. Ông chủ tiệm quan tài có tên "Nhân nghĩa đường" hăng hái đón khách. Chỉ vào đống quan tài đủ các kiểu loè loẹt đang bày la liệt, bảo kỹ sư Hoàng:
- Tuỳ bác chọn cái nào thì chọn. Bác cho biết địa chỉ, số nhà, giờ khâm liệm... chúng tôi sẽ cho người đến lo liệu.
- Không phải liệm ở nhà mà là ở nhà xác bệnh viện chúng sinh. Kỹ sư Hoàng ngắt lời
- Thế thì không được rồi. Ông chủ Nhân nghĩa đường lắc đầu - tôi không bán được cho bác đâu, cũng không làm gì được hết.
- Tại sao lại như thế ? Kỹ sư Hoàng kinh ngạc thốt lên ?
- Chắc đây là lần đầu tiên nhà bác có người chết ở bệnh viện - ông chủ Nhân nghĩa đường giải thích - bệnh viện có luật của họ, muốn lấy được xác ra phải có cửa. Quan tài mua tiệm nào do họ chỉ, khâm liệm, ma chay... tất tần tật do người của họ làm hết. Có thế họ mới ăn chứ, độc quyền mà.
- Té ra phải như vậy. Kỹ sư Hoàng cay đắng nghĩ rồi rời khỏi tiệm "Nhân nghiã đường". Quay lại chỗ nhà xác chờ một lúc lâu thì vợ anh mang giấy tờ tới. Mấy đứa bạn học của Phúc biết tin cũng đã tìm đến, mang theo nhang hoa và trái cây. Lúc này đêm đã gần khuya, mắt đỏ hoe vợ anh mếu máo:
- Ối anh ơi, vẫn chưa thấy tăm hơi chị cả đâu, em đến nhà ông chủ tịch nói mãi ông ấy mới ký cho cái giấy chứng nhận, lại vừa đóng lệ phí, vừa bồi dưỡng hết mấy trăm. Cháu nó nằm đâu để em vào thắp nén nhang cho cháu.
Kỹ sư Hoàng dẫn vợ và đám bạn của Phúc vào, trình mớ giấy tờ cho viên quản lý.
Gã này săm soi một lát rồi lắc đầu:
- Không được, trường hợp này công an còn phải điều tra, vả lại khi nãy ông còn định kiện tụng gì nữa cơ mà? Sáng mai đến giải quyết
Chẳng lẽ để đứa cháu lạnh lẽo qua đêm không một chút khói nhang an ủi linh hồn ? kỹ sư Hoàng lúc này đã mụ mẫm hết tinh thần, cụt què cả ý chí, anh chỉ còn biết vớt vát như một cái máy:
- Tôi xin ông, ấy là tôi chót nhỡ mồm. Tôi không kiện tụng gì đâu. Mọi việc giao cho các ông "lo" hết. Chỉ mong sao mang cháu về nhà...
- Vậy thì về viết cam đoan đi, viên quản lý hạ giọng - nhưng cứ phải sáng mai mới giải quyết. Không có giấy của công an thì bố tôi cũng không dám giao xác cho các người.
Sáng sớm hôm sau. vừa thò mặt đến cổng nhà xác bệnh viện Chúng Sinh đã có mấy kẻ mặt mũi rất chi là khả nghi túm lấy kỹ sư Hoàng.
- Xác của bác là xác tai nạn giao thông phải không ? Giá chót tám triệu, chúng em lo mọi thủ tục chiều lấy xác ra... quan tài khâm liệm 12 triệu nữa bao trọn gói - một người trong bọn bảo
- Tại sao lại phải đến chiều ? Làm ngay trong sáng nay không được sao ? kỹ sư Hoàng hỏi lại
- Hì các bác này đúng là chưa "chết" lần nào. Phải đợi công an người ta hoàn tất hồ sơ chứ... một người khác giải thích - mà chúng em phải đưa bác đến làm tờ khai, chiều lấy được là còn nhanh, với điều kiện phải có bồi dưỡng... không thì cứ đợi đấy.
Đám người ấy quả là thạo việc, rốt cục chiều hôm ấy kỹ sư Hoàng cũng đưa được xác đứa cháu về nhà sau khi đã được khâm liệm cẩn thận. Vẫn không thấy bóng dáng chị cả đâu, linh tính xảy ra chuyện chẳng lành, kỹ sư Hoàng bàn với vợ cùng mấy đứa bạn của Phúc trông nom nhang khói, để anh về làng đón chị Cả lên.
Có mấy kẻ lạ mặt lảng vảng ngoài cổng nghiêng ngó hỏi thăm, mấy đứa bạn của Phúc chạy ra nghe ngóng rồi vào bảo:
- Mấy thằng cò nghĩa địa bác ạ. Nó bảo đất chôn mặt tiền lối đi là 12 triệu, phía trong tám triệu, chưa kể tiền lo giấy phép chôn và công đào huyệt lấp đất xây mộ, tuỳ theo to nhỏ tính riêng. Nếu túng tiền thì chôn đứng. Chôn đứng rẻ hơn một nửa, tất nhiên đất rộng chỉ bằng 1/3. Nghĩa địa bây giờ khối người phải chôn như thế, thành ra đầy những ma đứng, linh hồn đứng, đứng vĩnh hằng.
Vội vã phóng về quê, kỹ sư Hoàng hoảng hốt lạnh người khi hàng xóm bảo chị Cả Bống đã lên thành phố từ chiều hôm qua, mấy nhà khác thấy anh về đổ đến hỏi thăm. Có người chợt nhớ ra bảo:
- Sáng nay đi chợ thấy ở bến đò Đuôi Cáo có ai nhang nhác bác Cả Bống ấy. Hay là bác sang tìm thử xem.
Không kịp suy tính, kỹ sư Hoàng vội vã lao sang bến đò, tìm khắp các hàng quán hỏi thăm, ai cũng lắc đầu. Chợt anh nhìn thấy dưới bờ sông sát mép nước, một người đàn bà đầu tóc rũ rượi đang ngồi ném những nắm cát xuống dòng sông... kỹ sư Hoàng vừa nghi hoặc, vừa thận trọng tiến lại gần... "Ai như chị Cả?" Anh cất tiếng gọi... một tiếng, hai tiếng... Người đàn bà chợt quay phắt lại... Đúng là chị, chị nhìn anh với đôi mắt thất thần, khuôn mặt răn reo, lem luốc cát. Bỗng chị lảo đảo lao đến, ôm chầm lấy anh, gào lên nức nở:
- Ối! Con ơi, con về với mẹ đây rồi, người ta cướp cái gì của con, con chết có đau không? Con về đây báo oán mẹ... mẹ không đến được với con... con ơi
Cứ thế chị gào mãi, gào mãi, tiếng gào rợn cả một khúc sông. Kỹ sư Hoàng hai tay nâng khuôn mặt chị, miệng hoảng hốt nhắc đi nhắc lại : - Em đây mà, Hoàng đây mà!
Song chị đâu có nghe, đâu có thấy, chỉ một mực gào tên con... dần dần tiếng chị khản đặc chỉ còn như tiếng thở lào phào... Người chị bỗng lả đi, từ từ khụyu xuống. Kỹ sư Hoàng quỳ xuống theo, hai chị em ôm nhau quỳ trên bãi cát, hoàng hôn bắt đầu buông, trăng chiều rực lên đỏ thẫm. Qua màn nước mắt, anh cảm thấy tất cả không gian như chìm trong biển máu, bên tai anh chợt vọng lên văng vẳng giọng nói của lão Tiến cụt hôm trước:
- Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá... biết đâu đến một lúc nào đó những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro