Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

tum lum-lenghiabk05

Thèm món ăn Hà Nội

Ngừng đến đấy tôi không tập trung lái xe nên suýt đâm vào cái xe trước mặt làm cho chồng tôi xanh mặt, ấy vậy mà anh ấy vẫn nói: “Thế còn thịt chó? Thịt chó luộc, dồi chó nướng, sáo chó nấu măng em ơi!...”

Tôi mê ăn mê uống từ nhỏ... Cứ mỗi buổi sáng bước chân xuống giường là nghĩ ngay: hôm nay ăn gì? Tôi thì hay đói mỗi khi đi làm về, lúc lái xe và tắc đường tới hàng tiếng đồng hồ thì là lúc tôi thèm món ăn Việt Nam nhất..

Chồng tôi người Sài Gòn và tôi người Hà Nội, chúng tôi thích món ăn của cả hai miền... Lúc chồng ngồi bên cạnh mặt thì mếu máo vì đói và chán nản cảnh tắc đường nên tôi kể cho anh nghe những món ăn ngày xưa mẹ hay nấu cho tôi (anh về Hà Nội cũng thưởng thức rồi), nào là: ốc nhồi nấu chuối đậu, canh rau đay và mướp hương nấu với cua đồng, bún nem cua bể ngon tuyệt đỉnh, gà ri vàng nhỏ luộc lòng đào ăn với muối tiêu và lá chanh, lòng tràng lợn luộc trắng ngần ăn với mắm tôm sủi bọt, chả cá quả nướng trên than hồng ăn với bún, mắm tôm, ốc mít luộc lá chanh, canh hến rau răm, rau muống luộc dầm sấu,...

Ngừng đến đấy tôi không tập trung lái xe nên suýt đâm vào cái xe trước mặt làm cho chồng tôi xanh mặt, ấy vậy mà anh ấy vẫn nói: “Thế còn thịt chó? Thịt chó luộc, dồi chó nướng, sáo chó nấu măng em ơi!...”

Có lần mẹ tôi mua cả một miếng đùi chó thật ngon mang về tẩm ướp với giềng, sả, mẻ, mắm tôm, nghệ và nướng trên than hồng, ôi thơm nức mũi. Miếng thịt nướng chín tới vàng rộm được thái từng lát mỏng, cuốn với một cái lá mơ, miếng giềng, húng quế và chấm vào mắm tôm mà thưởng thức, nhấm một ngụm rượu nếp gạo vào và thấy đời sao tuyệt vời thế...

Rồi bún măng vịt, bún ốc, bún riêu, bún thang, bánh giò chợ Hôm, phở bò chín ăn với quẩy, bánh cuốn tráng mỏng ăn với ruốc tôm, bún mọc Hàng Hành, bún bung, chả ngan... Chao ôi sao mà ngon đến thế!

Chồng tôi lúc này chồm lên và hỏi tôi: này, hai vợ chồng mình xin nghỉ phép về Hà Nội thăm mẹ đi. Anh hết ngày nghỉ rồi nhưng giả bệnh, xin nghỉ một tuần thôi, còn em thì...hummm..à, ông ngoại mất nên phải về một tuần (xin lỗi linh hồn ông ngoại, ông mất khi cháu vẫn còn là một quả trứng trong bụng mẹ)...

Tôi chớp chớp con mắt đỏ ngầu vì nhớ bố mẹ, nhớ nhà, nhớ Hà Nội, nhớ cái nóng oi nồng, nhớ những trận cười nghiêng ngả với bạn bè kinh khủng và tôi gật đầu để lên kế hoạch cho chuyến đi...

Hôm nay tôi đến chỗ làm và kế hoạch vẫn nung nấu trong tôi, chỉ có điều là khi phải bịa chuyện thì không mấy tự nhiên... Nghĩ đi nghĩ lại thấy thế là không đúng nên tôi đành nói với chồng tôi: anh ơi, em không làm thế được vì thấy ngại thế nào ấy, đi về mà lăn tăn thế này cũng sẽ không vui, mình lại cày bừa và tiết kiệm tiền, ngày nghỉ rồi về cho thoả thích, em sẽ tiếp tục kể cho anh nghe về nhiều món ăn phong phú nữa của người Hà Nội và anh sẽ kể em nghe về ẩm thực Sài Gòn, mình ráng nghe anh.

Chồng tôi cười xoà trong điện thoại và nói với tôi: hôm nay sẽ là phần anh kể cho em về món ăn miền nam, anh sẽ bắt đầu từ Huế, bánh bèo, bánh nậm, bún bò Huế...

Kỳ công nấu món Việt ở đất khách

Thèm ăn bún cá, chị Thu Hà ở Stuttgart (Đức) phải dành ra vài tiếng đồng hồ, đi qua mấy cửa hàng bán đồ châu Á lớn mới mua được đủ nguyên liệu.

Sống ở nước ngoài, hầu như người Việt nào cũng thích nghi với việc ăn món Tây. Nhưng ai cũng luôn thèm nhớ các món ăn Việt. Và để được thưởng thức hương vị xứ sở, họ không ngại bỏ nhiều công sức để chế biến, dù sẽ tốn kém cả về thời gian và chi phí hơn những món ăn bản xứ. 

Sẵn sàng “lội ba quãng đồng”  

Chị Thu Hà, 31 tuổi, sang Đức theo chồng đã ba năm. Dù bận chăm con nhỏ nhưng chị vẫn dành thời gian để làm các món ăn quê nhà đãi chồng, và cũng để xoa dịu nỗi nhớ của mình. Hà kể, hôm đó chị quyết định nấu món bún cá. Xương lợn, cá chép tươi thì mua ở siêu thị gần nhà. Cá Tây thịt mềm và nhạt, nhưng chị tự an ủi là vẫn phù hợp hơn cá đông lạnh. Có cá rồi, chị lại phải đi vòng vòng qua hai cửa hàng bán đồ châu Á lớn để mua bún, cá quả, rau cần, dọc mùng, hành lá, thì là, giá sống… Mất gần một buổi, hết đi bộ đến lên xuống xe buýt và tàu điện ngầm, chị mới có đủ những thứ mình cần. 

“Làm món này cũng vì thèm rau cần nữa”, Thu Hà giải thích, “Nếu mua đủ rau cần để xào thì quá tốn, vì rau ở đây, nhất là các loại đặc biệt một chút, đắt như vàng. Nấu bún cá là hợp nhất”. Hà rất hài lòng vì hôm đó ông chồng vốn ghét cá của chị nhiệt liệt hưởng ứng món ăn. Thế nên tuy có người nói việc chị bỏ công nấu được tô bún chẳng khác gì “ăn một bát cháo lội ba quãng đồng”, Hà vẫn nghĩ rằng điều đó cũng bõ công.

Còn Thuỷ Lộc, 20 tuổi, du học sinh ở Anh, cho biết thỉnh thoảng vẫn gọi các bạn đến để đãi món bún thang, mà theo cô là vừa đơn giản, dễ làm vừa hợp với túi tiền của “dân” du học. Nói là đơn giản nhưng cô vẫn phải đi hai cửa hàng mới mua đủ nguyên liệu, trong đó bún, hành lá, rau thơm mua ở khu chợ Trung Quốc.  

“Tuy là bún khô thôi nhưng luộc lên ăn cũng khá, không thể được như bún thang ở nhà nhưng như thế cũng là tốt lắm rồi”, Lộc tâm sự.

Thanh Hiền, 24 tuổi, du học sinh ở Nantes, Pháp, tuy rất bận với việc học, làm thêm và cả những chuyến du lịch thăm thú châu Âu nhưng vẫn thường xuyên trổ tài nấu nướng. Đặc biệt, cô thích làm anh bạn trai người Pháp thán phục bằng những món quê hương mình, cũng là để thoả mãn sở thích ăn uống của bản thân. Hầu như món nào ở quê nhà có, Hiền cũng đều xoay xở để nấu được dù không đủ nguyên liệu. Thèm thịt chó nhưng ở Pháp chỉ có thể nấu giả cầy, cô mua thịt chân giò về nướng bằng bếp điện, cũng tạo lớp cháy ngoài da và bốc khói thơm lừng. Cũng riềng, cũng sả, cũng nghệ tươi đoàng hoàng, không có mẻ thì cô dùng rượu vang, hoặc sữa chua không đường. Mắm tôm chợ Tàu  kém ngon nhưng cũng chẳng đến nỗi không dùng được. Thế là món giả cầy hình thành.  

Hiền rất sáng tạo để “biến không thành có” khi nấu món Việt. Để được ăn bún riêu, cô chấp nhận dùng cua hộp bởi không có cua tươi, và ninh xương lợn để lấy nước dùng thay cho nước thịt cua. Không có gạch cua, cô dùng hộp gia vị bán sẵn để tạo màu hấp dẫn.  Muốn ăn dưa món nhưng su hào rất hiếm, đu đủ thì quá đắt, cô dùng phần lõi cuống bắp cải để muối, cũng giòn và ngọt. Hiền cho biết thèm món bò pía, nhưng Nantes không có củ đậu, và cô đang “vắt óc” nghĩ xem có cái gì hao hao để thay thế không.

Dịp Tết Nguyên đán vừa rồi, để mâm cơm đậm màu sắc Việt Nam, Hiền lặn lội mất hai hôm để đặt mua bằng được một con gà trống có đủ đầu, cánh, chân cùng bộ lòng, về luộc và tạo dáng gà cúng. Con gà được bạn bè cô sung sướng khen ngợi như  một kỳ công vì ở đây, gà làm sẵn trong siêu thị đều đã bị cắt bỏ chân, đầu và vứt đi bộ lòng.

Trở nên đảm và khéo từ khi xa quê

Hồi ở nhà, Thu Hà không thuộc tuýp đảm đang, hay mày mò bếp núc. Thế nên khi chị gọi điện hoặc chat với người nhà ở Việt Nam, khoe mới làm món này món nọ, có cả những món rất cầu kỳ, ngay mẹ đẻ chị cũng “choáng”.  

Hà giải thích, cả hai vợ chồng đều không thích đồ ăn Tây, dù anh đã sang Đức vài chục năm. Ăn món châu Á ngoài tiệm thì quá đắt nên cách tốt nhất vẫn là tự nấu ở nhà. Việc chế biến món ăn Việt mất thời gian hơn, mua đủ thứ nguyên liệu chỉ để nấu cho hai người nên tính ra không kinh tế bằng đồ Tây, nhưng họ vẫn thích. Ngoài việc lên các báo điện tử Việt Nam để copy cách nấu nướng, Thu Hà còn nhờ người nhà gửi cuốn sách in công thức gần 1.000 món Việt sang cho chị

Trong các món ngon của quê nhà mà Hà biết nấu, hầu hết chị chỉ học được khi đã sang Đức. Không có mẹ hướng dẫn, chị cứ làm theo sách báo, có những món thành công ngay, có những món phải qua vài lần hỏng mới được chồng gật đầu tán thưởng. Hà kể: “Vừa rồi tự nhiên rất thèm bánh bao, có lần mua ở chợ châu Á nhưng không thấy ngon vì bánh được nấu theo khẩu vị Trung Quốc, thế là mình mua bột về tự làm”. Thu Hà rất sướng  vì tuy làm lần đầu nhưng bánh “ăn được”, lại rẻ vì chi phí làm 12 cái chỉ 4 euro, trong khi một cái bánh mua sẵn bé bằng nửa, nhân ít mà giá đã hơn 3 euro. 

Còn Thanh Hiền thích mày mò nấu nướng vì sống ở xứ người, nỗi nhớ món ăn Việt cũng là một phần nỗi nhớ quê của cô. Mặt khác, chế biến món ăn là thú vui, cách giải trí của Hiền.

Một lý do quan trọng khác khiến nhiều người Việt rất chịu khó, chấp nhận mất thời gian, công sức để nấu món ăn quê nhà là vì nếu không thế, họ chỉ có cách ăn đồ Tây. “Ở nhà không cần biết nấu cũng được ăn, chỉ cần chạy ra quán, gọi một tiếng là người ta bê cho sau vài phút. Còn ở đây, muốn ăn thì chỉ có cách lăn vào bếp”, Thuỷ Lộc tâm sự. 

Lộc cho biết, do các món ăn được cô nấu theo sách hoặc chỉ dẫn của bạn bè, nguyên liệu không đủ nên hương vị nhiều khi không giống “nguyên bản”. Nhưng cô và các bạn chẳng ai phiền lòng vì điều đó. Lộc nói: “Khi em gọi đến chiêu đãi, bạn bè đứa nào cũng khen nức khen nở. Cái chính là bọn em sung sướng vì được cảm nhận hương vị Việt Nam, được cảm thấy gần gũi với gia đình, với kỷ niệm hơn ở một nơi cách quê nhà hàng chục nghìn cây số”.

Chàng trai Việt nấu ăn cho Lý Quang Diệu

24/01/2012 17:17

(TNTS Xuân Nhâm Thìn) Anh đã năm lần bảy lượt khăn gói sang Singapore, mang theo từng bó húng lủi, từng nắm cơm dừa, từng hũ tôm chua... để quấn cuộn gỏi cuốn, nấu tô canh chua, kho tộ nồi cá lóc... theo lời mời của ông Lý Quang Diệu - cựu Thủ tướng Singapore.

Là một đầu bếp được đào tạo bài bản nhưng cái tên Võ Quốc lại không gắn với một nhà hàng nào cả. Người ta tìm thấy anh trên mạng Yahoo, giữa những giải đáp sắc sảo về ẩm thực Việt Nam trong vai trò là chuyên gia tư vấn và "gặp" anh qua những quyển tạp chí hướng dẫn nấu ăn bắt mắt Món ngon Việt Nam mà anh là "chủ xị". Các quốc khách của VN thì tìm thấy anh qua những bữa tiệc chiêu đãi của Chính phủ mà anh là bếp trưởng.

Cứ "đụng" tới chuyện nấu ăn là Võ Quốc lại say sưa, đôi mắt hấp háy niềm vui: "Khi tôi nấu món Việt, ngay cả để đãi các nhà lãnh đạo phương Tây, đó là những món Việt 100%, không lai một tí Tây, tí Tàu nào cả".

Điều duy nhất mà anh điều chỉnh là phục vụ theo thói quen ăn của họ cho dễ ăn, chẳng hạn người phương Tây rất sợ xương và không thích những món nước nhiều lợn cợn nên khi nấu riêu cá, anh dùng cá phi lê đã lóc hết xương và các nguyên liệu trong phần nước súp như cà chua, thì là, khế… đều được xay nhuyễn. Còn bún bò Huế của anh vẫn cứ cay nồng, chả giò vẫn phải chấm nước mắm chua ngọt, bún thang giữ nguyên hương vị miền Bắc...

Thỉnh thoảng mới "xuất chiêu" nấu ăn trong các buổi tiệc được đặt riêng, Võ Quốc khiến những vị khách sành ăn nhất cũng phải bất ngờ. Kỳ công trong từng món ăn là một trong những nguyên tắc bất di bất dịch của anh, dù đó chỉ là một tô bún bò thanh tao mà anh khẳng định phải cay quanh vành môi chứ không được cay ở lưỡi vì sẽ làm mất cảm giác ngon, hay bữa tiệc các món sơn hào hải vị (bào ngư, vi cá, bóng cá đường, gân nai…) mà anh từng phục vụ với giá 14 triệu đồng/phần ăn. Đơn cử thứ nước dùng mà anh sử dụng được hầm liên tục 3 ngày 3 đêm, đủ 3 loại xương ống, bẹ, đuôi để đủ vị ngọt thanh, ngọt béo, ngọt mặn, kèm theo xá sùng (một loại trùn biển), sò điệp khô, gà già và quả lê. Từ 100 lít nước ban đầu, anh chỉ lấy được 10 lít nước dùng.

"Ông Singapore" ghiền bún bò Huế

Cơ duyên khiến Võ Quốc "lọt vào mắt xanh" của vị cựu thủ tướng đảo quốc sư tử xảy ra cách đây chừng 5 năm, khi anh tham gia một hội nghị của Yahoo tại Singapore với vai trò đầu bếp giới thiệu các món ăn Việt. Nhiều đầu bếp của các nước Đông Nam Á khác cũng nấu các món ăn của quê hương họ. Người phụ trách tiệc gọi Võ Quốc ra vào phút chót, yêu cầu phải loại mắm ruốc khỏi công thức và giảm cay ở món bún bò Huế để người nước ngoài ăn được. Anh không đồng ý, bởi "không có mắm ruốc và không cay thì không phải là bún bò Huế". Món bún bò "đúng Huế" cuối cùng vẫn được giữ nguyên trong sự quan ngại của người quản tiệc.

Ông Lý Quang Diệu cùng gia đình cũng tham gia sự kiện đó và món đầu tiên họ gọi là bún bò Huế, tiếp theo là một chuỗi các món ăn VN. Họ vừa ăn vừa tấm tắc… Nhiều người khác thấy thế cũng bắt chước gọi theo và mê mẩn với món ăn Việt. Cuối cùng quầy thức ăn Việt hết đầu tiên. "Sau này tôi mới biết ông Lý Quang Diệu rất thích và cũng cực kỳ sành món ăn của ta", Võ Quốc cho biết.

Cũng từ bữa tiệc đó, ông Lý Quang Diệu nhiều lần mời anh sang Singapore nấu trong các bữa tiệc đãi khách quý. Tiệc của ông Lý toàn những món ăn dân dã VN: gỏi cuốn thịt luộc tôm khô, cá lóc kho tộ, canh chua cá điêu hồng, bánh bèo, bánh nậm, bánh cuốn… Mỗi lần như thế, anh đều đóng gói tất cả các nguyên liệu từ VN, từ con cá lóc đồng ngọt lừ đến từng cọng rau quế thơm dịu dàng để cùng anh xuất ngoại. Ẩm thực Việt cứ thế lặng lẽ cùng từng bước chân của anh rạng danh trên đất khách.

Món ăn Việt trên CNN

Thứ bảy, 28 Tháng 1 2012 12:57 Số lượt xem: 23 lần

Với một đất nước nhỏ bé như Việt Nam, thức ăn đa dạng và tinh tế đến kinh ngạc.

Thách thức & “tội lỗi”

Với tựa đề Những món ăn thách thức nhất Việt Nam, CNN đã có một bài viết vui về 6 món ăn mà không phải người Việt nào cũng dám đụng đũa. Phóng viên “mắt xanh mũi lõ” Adam Bray nói tiếng Việt nhoay nhoáy nhận xét trong bài viết rằng người Việt rất “thích mạo hiểm” trong chuyện ăn uống.

Côn trùng dẫn đầu danh sách những món ăn “thách thức”, với nhận xét cộng đồng Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nằm trong số những người “thích phiêu lưu” nhất, ăn cả dế, nhện, nhộng… như thể đang nhai bắp nổ vậy. Trong khi chỉ vài người dám ăn côn trùng thì trứng vịt lộn là món ăn phổ biến nhất ở Việt Nam được kể đến trong danh sách, bên cạnh những món mà nhiều người nước ngoài sẽ không dám gắp nếu biết nguồn gốc như phá lấu, ếch nướng sả ớt, răng mực…

Trong khi đó, 11 món ăn được CNN đánh giá là ngon tuyệt nhưng có thể là kẻ thù của tim mạch. Bài viết cho rằng ẩm thực Việt nhìn chung rất tốt cho sức khỏe với việc sử dụng những nguyên liệu tươi mới nhưng cũng có những món phải khiến bạn… mang mặc cảm “tội lỗi” khi thưởng thức. Danh sách này, với chú thích ghi rõ những địa chỉ ngon nhất cho từng món, bao gồm bột chiên, chuối chiên, xôi mặn, bánh mì, phở chiên, chả giò…

Rẻ nhất = ngon nhất

Đi ăn ngoài chợ: 10 món Việt truyền thống chưa tới 1 USD - đó là tựa một bài viết khác trên CNN, với phần mào đầu như sau: Những món Việt hấp dẫn nhất đôi khi cũng là những món rẻ nhất mà người địa phương ngồi ăn trên những chiếc ghế đẩu nhựa và những cái bàn xếp ở ngoài chợ. Tác giả nhận xét: Với một đất nước nhỏ bé như Việt Nam, thức ăn đa dạng và tinh tế đến kinh ngạc. Mỗi thành phố, thậm chí mỗi ngôi làng, có thể có một danh sách những món đặc sản riêng. Thậm chí những món quốc hồn quốc túy rất phổ biến cũng được chế biến đa dạng tùy theo mỗi cộng đồng. Nơi rẻ nhất cũng là một trong những nơi chế biến được món Việt ngon nhất, giữ đúng hương vị truyền thống nhất chính là ở ngoài chợ.

Bài viết đưa ra danh sách các món “rất được yêu thích”, mô tả thành phần của từng món, kèm theo cả chỉ dẫn nơi ăn ngon nhất, theo ý kiến của tác giả. Chẳng hạn món bánh xèo được mô tả như sau: Đó là loại bánh bột gạo chiên chung với thịt heo, tôm hoặc mực tươi. Tại TP.HCM, những cái bánh xèo rất to được xắn thành từng miếng nhỏ rồi cuốn với cải bẹ xanh. Ở Đà Lạt, bánh xèo nhỏ hơn nhiều, đôi khi được cuốn trong bánh tráng và ăn kèm rau xanh. Còn tại Phan Thiết, bánh xèo phải được thả trong chén nước chấm và nhất thiết phải có rau húng. Tác giả cho rằng bánh xèo ngon nhất là ở Phan Thiết và TP.HCM

Ngon nhất thế giới

Nếu tìm kiếm bằng từ khóa “món ăn Việt Nam” trên trang web CNN, bạn sẽ thấy nhiều bài viết khác, chẳng hạn như 6 món Việt ở Cabramatta (Sydney, Úc) hay 40 món Việt ngon miệng hay những quán cà phê độc đáo ở Hà Nội…Tất cả đều được mô tả rất chi tiết, trong đó bài về 40 món ăn mô tả chi tiết thành phần, nét đặc trưng của từng món ăn, giới thiệu địa chỉ gợi ý và văn hóa ăn của từng món. Có thể tìm thấy rất nhiều món phổ biến, từ bình dân cho đến cao cấp trong danh sách này: chả cá, bánh xèo, cao lầu, rau muống xào tỏi, bún bò Huế, bánh khọt, nộm hoa chuối…

Và thật hãnh diện khi trong một bài viết khác trên CNN, có tựa 50 món ngon nhất thế giới , ẩm thực Việt ghi tên 2 lần: gỏi cuốn và phở. Sau khi giới thiệu về các thành phần của gỏi cuốn, CNN kết luận gỏi cuốn là một ví dụ điển hình của cái gọi là “tuyệt hảo đến chỉ muốn gắp thêm nữa”. Còn món phở vang danh thế giới thì được mô tả “thơm phức, ngon tuyệt và cân bằng”.

Tết đãi chồng món Việt

Bánh chưng Việt kiều

Thấy tôi than vãn mua bánh chưng ở cửa hàng Việt tại Brussels (Bỉ) ăn không ngon, bị lại gạo, mặn nhân, chị Kim Anh ở Scotland mách qua email: “Chị học gói bánh chưng theo muivi.com. Em cứ làm đúng như thế là bánh ngon tuyệt. Chúc thành công”.

Chuẩn bị gói bánh chưng xa nhà là một tổ hợp của… google, email, chat, điện thoại…Không dễ gì đến nhà nhau chung củi lửa như ở quê nhà, nên người ở Anh, Pháp, người ở Hà Lan, Bỉ, Thụy Điển, Phần Lan… kết nối theo hội online.

Đã 3 năm nay, cứ Tết Nguyên Đán chị Kim Anh lại gói bánh chưng: “Bánh chưng hải ngoại của tớ công phu lắm nhé. Tớ sắm cái nồi thật to để luộc được khoảng 7 chiếc một lúc. Sau đó đến siêu thị của người Việt hoặc người Hoa mua nếp cái hoa vàng đậu xanh đã tróc vỏ về ngâm cả đêm cho mềm. Không tìm được lá dong, lá chuối cũng đắt nên mình chỉ lót một lớp trong cho xanh bánh thôi, giấy bạc bọc bên ngoài, buộc bằng dây nilon. Khuôn bánh thì dựng bằng bìa carton.

Bánh chưng lá chuối, bọc giấy aluminium và buộc dây nhựa của chị Kim Anh ninh trên bếp điện 10 tiếng! Anh lain – chồng chị, đi ra đi vào sốt ruột, anh phải chờ công đoạn góp tay khi vớt bánh: ép cho nước trong bánh chưng chảy ra, như thế vợ mới hài lòng vì có bánh chưng ngon, dền!

Bún miến chiều chồng ngoại

Không ăn được bánh chưng như anh lain, gói làm gì đến bảy chiếc lá hả chị Kim Anh? “Cho bánh vào tủ đá, ăn cả năm ấy chứ. Khi nào ăn, lấy ra để một ngày cho tan đá, hôm sau cho vào chảo rán, mùi vị mới ngon làm sao!”.

Phần lớn các ông chồng ngoại không ăn được đồ nếp. Các bà vợ phải đãi họ những món bún miến phổ thông hơn để rể ngoại cũng được hưởng chút gọi là “no ba ngày Tết”!

Phải chờ đến Tết, chị Nguyễn Minh (định cư đã 6 năm ở Đức) mới lôi ra chiếc lọ nhỏ xíu quý báu “Dầu cà cuống, phải mua ở hàng khô chợ Hôm, đem sang để nấu bún thang cho chồng”. Chồng chị Minh từng sống nhiều năm ở Việt Nam, khề khà uống rượu gạo nếp và ăn bún đậu mắm tôm với bố vợ nhiều lần. Món bún thang chị Minh nấu có nấm hương, giò lụa, trứng, thịt gà, tôm khô rồi lại nêm mắm tôm, rau răm, dầu cà cuống, anh rất thích, vì “có đủ thứ trong bát bún thang, động vật thì đa dạng, con bay con nhảy con bơi

Hai món phổ biến nhất để đãi các ông chồng ngoại trong dịp Tết Việt là phở và nem rán. Siêu thị Việt hoặc Trung Quốc tại châu Âu ngày nay đều bán sẵn viên gia vị để chị em dễ dàng nấu phở, bún bò Huế, bò kho, canh chua… Nhưng chị Thùy Dung (Paris, Pháp) vẫn chịu khó tìm mua cho bằng được hoa hồi và quế để chế nước dùng: “Viên gia vị kiểu công nghiệp có mùi vị phở nhưng không thể đậm đà như phở ở quê nhà mình được. Ngoài hoa hồi và quế, khi nấu phở còn phải chịu khó nướng gừng và hành khô cho vào nước dùng. Chồng tôi dân Lyon, nhưng ăn phở gia vị mua sẵn biết liền, nhắc khéo: vợ hôm này cho ăn sẵn rồi!”

Lai rai cùng chồng nội

Chồng Việt kiều chiều vất vả hơn! Các chàng thèm ăn đủ món những ngày này, nhưng được cái vợ chồng tâm đầu ý hợp về khẩu vị quê nhà.

Chị Trần Thi Ly sung sướng khi tìm được món lòng lợn đông lạnh tại siêu thị Trung Quốc tại Anh: “Món này chồng mình khoái lắm. Ngày xưa, Tết nào gia đình anh ấy cũng mổ lợn, chiều Ba mươi là cánh đàn ông nhậu nhẹt đùm đuề món lòng lợn luộc, có khi còn làm cả tiết canh. Thời nay thông thương thuận lợi, sang Anh rồi mà vẫn tìm mua được lòng già, tràng và dạ dày để làm món nhậu cho chồng. Luộc lòng phải chú ý, lòng đông lạnh chỉ luộc 18 phút kể từ khi nước sôi sùng sục, vớt ra cho ngay vào nước lạnh để lòng giòn và không thâm đen”.

Hôm nay là rằm tháng chạp rồi. Sực nhớ trong trang ẩm thực này mình chưa hề có món chay nào hết! Thật là thiếu sót!

Gia đình tôi ăn chay đều đặn mùng 1 và rằm hàng tháng. Lúc sinh thời, bà ngoại tôi ở chùa nên chế biến món chay rất ngon (dĩ nhiên là mẹ tôi được thừa hưởng tài nấu ăn này!). Ngoài ra, thỉnh thoảng ăn chay rất có lợi cho sức khỏe, vừa ngon lại vừa giúp bộ máy tiêu hóa làm việc nhẹ nhàng hơn. Ngược lại với suy nghĩ của nhiều người khi cho rằng ăn chay rất đạm bạc, thiếu chất dinh dưỡng, và không ngon, bản thân tôi cho rằng tất cả tùy thuộc vào cách chế biến món ăn. Tôi để ý là mỗi lần ăn chay là gia đình tôi đều ăn rất ngon lành Tuy vậy, nếu không vì lí do tính ngưỡng, tôi nghĩ việc ăn mặn xen kẽ với vài ngày ăn chay trong tháng là tốt nhất cho sức khỏe vì sẽ cân bằng được nguồn dinh dưỡng cho cơ thể

Món bún bì chay là một món mà bà ngoại hay nấu lúc còn sống. Sau này tôi được biết đây cũng là món ăn truyền thống mà bà nội chồng tôi nấu cho gia đình ăn vào ngày mùng 1 Tết. Cả hai người bà đều nấu ăn rất khéo không ai sánh bằng. Tuy tính tình nghiêm khắc, nhưng rất mực thương yêu gia đình, con cháu. Mỗi lần nấu món ăn này là tôi lại nhớ tới bà. Tôi vui vì khi nấu được cả hai gia đình khen ngon, hi vọng không làm bà ngoại và bà nội phật lòng.

Những thủy thủ gốc Việt trên tàu sân bay Mỹ

Có 20 người Mỹ gốc Việt đảm trách việc sửa chữa từ máy bay đến hệ thống điện và điện tử trên tàu sân bay khổng lồ USS George Washington. Họ nhớ nhà, ước được ăn thịt kho nước dừa, thèm bánh xèo, cóc, ổi.

Hôm 13/8, mẫu hạm hàng không chạy bằng năng lượng nguyên tử USS George Washington dừng ngoài khơi Thái Bình Dương, tiếp giáp vùng biển Việt Nam. Trong một buổi sáng nắng vàng biển xanh, các nhân viên hải quân Mỹ gốc Việt đã chia sẻ với báo về cuộc sống thường nhật của họ trên tàu sân bay. Dù nói tiếng mẹ đẻ còn lõm bõm, những anh lính trẻ cho hay rất thích được nói tiếng Việt.

Thủy thủ Trần, phụ trách việc sửa thang máy cho biết, trên mẫu hạm hàng không được mệnh danh là ngôi sao của Hạm đội 7 có hơn trăm ngành nghề khác nhau dành cho tổng số 5.500 binh sĩ. Tuy nhiên, nhân viên gốc Việt rất ít, chỉ có 20 người làm các nghề như sửa chữa máy bay, thang máy, điện, điện tử... , trong đó có hai người là nữ. Thủy thủ đoàn làm việc theo nhiều ca khác nhau, khi thì ban ngày, lúc lại về đêm nên cũng khó có dịp gặp nhau trong thời gian công tác.

Trần cho hay: "Thông thường mọi người chỉ chạm mặt vào giờ ăn tại căn tin. Song mỗi khi có dịp gặp nhau các thành viên trong nhóm người Việt đều rất vui vẻ và sôi nổi".

Có 2 năm làm việc trên tàu ở vị trí quân nhu, anh Triết, sinh ra và lớn lên ở California, tâm sự rằng lênh đênh trên biển khá buồn và nhớ không khí đất liền, nhớ gia đình, nhưng đổi lại sẽ có dịp theo tàu đi đến nhiều nơi trên thế giới. Thời gian nhàn rỗi, các thủy thủ trên tàu giải trí bằng việc tập thể thao, xem phim, đọc sách, chơi game. Thậm chí nếu muốn theo chương trình cao đẳng, đại học thì nhân viên cũng được tạo điều kiện học lên cao hơn. Khi được cập cảng, thủy thủ đoàn được phép lên bờ, anh em cũng cùng nhau đi chơi để đỡ nhớ phố phường.

Tại căn tin của tàu sân bay vào giờ ăn trưa, các thủy thủ gốc Việt có dịp kể về nỗi nhớ nhà và hương vị những món ngon chỉ có tại bếp lửa gia đình. Triết trải lòng: "Chúng tôi rất thèm bánh xèo, bánh bèo, cóc, ổi, bánh bao. Cũng may là mới rời Thái Lan nên trên tàu vẫn còn chôm chôm và măng cụt".

Đi vào khu vực lấy thức ăn, anh giải thích, thịt kho của người Mỹ không giống món thịt kho nước dừa của Việt Nam. Nhắc đến món ăn này dễ khiến anh em nhớ nhà da diết. Anh dự định khi về đất liền sẽ xin mẹ nấu mấy món "tủ" cho ăn. Ở trên tàu nếu thèm món ngon hay đặc sản đến mấy cũng cứ phải nhịn vì người nhà không thể chuyển thực phẩm lên tàu được.

"Người Việt Nam thích ăn gia vị đậm đà trong khi khẩu vị người Mỹ rất nhạt, ăn lâu cũng quen khẩu vị Mỹ, nhưng hương vị của gia đình thì khó mà quên được," anh nói.

Còn anh Quân, có một năm rưỡi làm việc ở USS George Washington, kể rằng trên tàu sân bay này, các nhân viên không chỉ chịu trách nhiệm về công việc chuyên môn của mình mà còn phải tham gia vào các công tác khác. Ngoài công việc chính trên tàu, anh từng trải qua các việc khác như phụ rửa chén, bưng bê thức ăn, hoặc lau bàn quét dọn.

"Hầu như trên tàu ai nấy đều trải qua khoảng thời gian quy định làm công việc phục vụ để chia sẻ trách nhiệm với mọi người. Làm công tác này xong mình sẽ ngừng than vãn và thấu hiểu, thông cảm cho anh em hơn", Quân nói.

Quân cho biết dù lênh đênh trên biển nhưng về sức khoẻ thì các thủy thủ không phải lo lắng vì phòng y tế trên mẫu hạm hàng không này hiện đại như một bệnh viện nhỏ, bác sĩ không những rất giỏi mà còn có thể trị đa khoa. Anh cũng kể về hai trường hợp cần thăm khám bác sĩ mới đây nhất là bị trầy đầu gối do vướng các cửa trên tàu và bị u đầu do đụng trần khoang

Món “nhà nghèo”

Mỗi lần đi chợ thấy người bán ngọn rau lang, lòng tôi lại bồi hồi nghĩ về mẹ, một người mẹ trong khốn khó đã nuôi tôi khôn lớn thành người.

Ngày ấy gia đình tôi sống ở vùng nông thôn, cuộc sống của thời bao cấp cái gì cũng thiếu. Mỗi lần ăn cơm với rau lang luộc, mẹ nói: “Rau lang ăn rất tốt, nhuận tràng và mát cho cơ thể”.

Nhưng dù thức ăn có là gì đi nữa thì mẹ cũng chỉ ăn lưng chén cơm là buông đũa. Ba nói: “Bà nhường ba con tôi phải không? Nếu bà nằm xuống thì các con khổ lắm đấy”.

Một hôm, em của ba từ trên huyện ghé chơi, mẹ nói với ba: “Ông ạ! Chú nó về chơi mà nhà mình cạn tiền rồi, hay có con gà mái đang đẻ bắt làm thịt đãi chú?”. Ba cười: “Bà nghĩ chú nó là ai? Nó là em mình, ăn gì mà chả được, cả nhà còn mỗi con gà mái đẻ”.

Bữa cơm hôm ấy dọn ra có một đĩa cá cơm khô rang, tẩm mắm, một bát canh rau tập tàng và một đĩa rau lang luộc cùng với chén mắm tỏi ớt. Bình thường tôi thấy không ngon nhưng hôm ấy sao ăn thấy ngon, bùi và thơm đến lạ lùng. Chú nói: “Cái món rau lang luộc chấm mắm tỏi ớt em ăn không biết chán”. Mẹ nói chữa: “Món này là món của nhà nghèo đấy chú ạ”.

Cái khốn khó của một thời rồi cũng qua đi, những năm sống ở thành phố tôi thường nhớ về món rau lang luộc chấm nước mắm tỏi ớt ngày ấy.

Mỗi lần ngồi vào bàn ăn có món rau lang luộc, tôi nói với chồng và các con: “Đây là món ăn nhà nghèo đấy”. Chồng tôi phá lên cười: “Em nhầm rồi! Đây là món ăn của nhà giàu, là món ăn đặc sản của các nhà hàng khách sạn đấy”.

Mỗi lần ăn món rau lang đó, hình ảnh mẹ lại hiện về, mỗi lần đi làm đồng về trên tay mẹ thế nào cũng có một nắm rau lang. Sau khi rửa sạch sẽ, mẹ nói: “Rau này nhìn vậy nhưng kén lửa lắm, nếu lửa không to, không đều thì rau dễ bị đen, nếu luộc kỹ quá thì sẽ nát, ăn không ra gì, chỉ luộc vừa chín tới - ngọn rau vẫn xanh ăn vào giòn ngọt”.

Những lời mẹ dặn cứ ăn sâu vào tâm trí tôi. Mẹ tôi nay không còn nữa nhưng hình ảnh mẹ và món “nhà nghèo” luôn sống mãi trong trái tim tôi.

Ăn cơm đặc sản nhớ nồi canh mộc mạc của má

Nhà nghèo lại nhiều miệng ăn, bữa ăn thường chỉ có một trứng hột vịt luộc duy nhất xắt làm tám, đĩa rau luộc và chén nước tương dầm ớt. Anh em nhường qua nhường lại ăn mãi vẫn không hết một trứng vịt…

Tôi sinh ra và lớn lên trên một vùng quê sông nước, mùa nắng đất nứt nẻ, mùa mưa lầy lội. Cha đi cách mạng, má một nách 5 con nhỏ, trong căn nhà nhỏ ọp ẹp bên bờ một nhánh sông Vàm Cỏ.

Khi anh em tôi còn quá nhỏ, má không thể đi làm xa. Nhà nghèo lại nhiều miệng ăn, bữa ăn thường chỉ có một trứng hột vịt luộc duy nhất xắt làm tám, đĩa rau luộc và chén nước tương dầm ớt. Anh em nhường qua nhường lại ăn mãi vẫn không hết một trứng vịt. Mùa lũ tôm cá đổ về, má cùng anh em tôi đi lưới cá. Cá trê, cá lóc, cá lăng má đem ra chợ bán đổi gạo, còn cá nhỏ bằng ngón tay, cá rô, cá sặc, cá linh, má làm mắm ăn dần. Sau mùa lũ, cây cối chết hết, thường gia đình tôi chỉ ăn 2 món, mắm và đĩa rau luộc, vài trái ới hiểm hườm chín vậy mà… má ngồi bên nồi cơm xúc muốn mỏi tay. Hạnh phúc gia đình đơn sơ, mộc mạc nhưng thật ấm áp!

Tháng mười một tháng chạp ta, gió chướng thổi về, cây so đũa sau nhà bắt đầu trổ trắng bông, gia đình tôi quây quần bên nồi canh chua bông so đũa bốc khói nấu với cá chốt, có cặp trứng vàng ló ra ngoài bụng cá, hương thơm ngào ngạt. Canh má nêm ớt xắt khoanh, rau om, ngò gai xắt nhuyễn ăn với nước mắm trong dầm ớt đỏ, kèm theo một món mặn thường là tép ram hay cá rô kho tộ, anh em tôi ăn liền năm chén, vét láng sạch nồi kêu kôm kôm, mà vẫn còn thấy đói…

Thời đại công nghiệp, vợ làm ca, con đi học, hiếm khi có một bữa cơm chung. Chiều thứ bảy, tôi cùng gia đình bên nồi lẩu hải sản, dĩa ếch xào xả ớt, dĩa tôm rang me, ly rượu chát đỏ sóng sánh trên tay… mà sao lòng tôi chùng xuống, miệng thấy như đăng đắng. Ăn cơm mà không có con chó, con gà quanh quẩn bên chân, không nghe tiếng chim chiều về tổ.

Lòng tôi bùi ngùi thấy nhớ má, nhớ anh em, nhớ mâm cơm nghèo buổi chiều trên bộ ván với ngọn đèn dầu leo lét… Nhớ con tôm đất nằm trong rổ còn kêu ro re, nhớ tô canh chua rau nhúc, nhớ ly nước mưa mát lạnh thời thơ ấu

Món kho quẹt

Giờ đây, con đã được thưởng thức biết bao món ngon vật lạ, dự những bữa tiệc sang trọng nhưng với con, chưa có bữa ăn nào ấm áp bằng những bữa ăn do má nấu. Những bữa cơm thời khốn khó, khi mà ngày nào con cũng được thưởng thức món đặc sản “kho quẹt” của má là những bữa cơm mà có lẽ suốt đời con sẽ khắc ghi.

Ngày xưa nghèo khổ, chúng con - những đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn - lúc nào cũng hau háu đói. Nhà mình nghèo, cảnh thiếu trước hụt sau oằn nặng lên vai má. Má vất vả chạy chợ từng bữa quả không dễ dàng chút nào dù chỉ để lo cho đủ mấy bữa ăn đơn điệu, chỉ có cơm với rau chan nước mắm mỗi ngày. Má luôn trăn trở, xót xa nhìn lũ con đang lớn dần lên trong thiếu thốn. Và món đặc sản “kho quẹt” ra đời trong hoàn cảnh đó.

Món đặc sản hồi đầu má làm chỉ là nước mắm kho với muối cho đến khi sền sệt, rồi bỏ ớt băm nhuyễn vào trộn đều cho cay cay, dễ ăn. Món ăn vừa mặn vừa béo vừa cay, ăn với cơm ngon tuyệt nên nồi cơm lúc nào cũng hết veo. Hôm nào sang thì kho với tóp mỡ.

Món kho quẹt phải kho thật mặn cho đỡ tốn đồ ăn. Vì quá mặn nên khi ăn, chỉ có thể lấy đầu đũa quẹt một chút. Vậy mà xong bữa cơm, cái chảo kho cũng hết sạch. Có khi, chúng con tham ăn nhiều, một lát sau khát nước lại tranh nhau uống nước và no căng bụng. Nhìn lũ con ăn ngon lành mà má thấy lòng nghèn nghẹn.

Món kho quẹt dễ làm, rẻ tiền và ăn rất bắt cơm. Tuy vậy, không phải ai cũng thấy được cái ngon của nó. Chỉ có con nhà nghèo, trải qua thời kì khốn khó mới cảm nhận được vị ngon rất riêng mà món ăn này đem lại. Thương lũ con ăn uống kham khổ mãi, thi thoảng má mua một ít thịt, băm nhuyễn và cho vào nồi kho quẹt. Món đặc sản này lại trở nên hấp dẫn và chúng con ăn ngon lành.

Giờ, đời sống đã khá hơn, thi thoảng con vẫn làm món kho quẹt với nguyên liệu vô cùng đơn giản: Nước mắm, chút đường, tiêu và hành phi thơm cho vào chảo đảo, rồi giữ lửa riu riu để nước mắm cô đặc lại thành một hỗn hợp vàng nâu có mùi rất thơm lan tỏa trong không gian bếp ấm áp.

Để có món ăn phong phú hơn, con cho thêm tóp mỡ, tôm khô, thịt băm hoặc tôm nõn vào đảo cùng. Món kho quẹt có thể ăn kèm với rau củ luộc, cơm nóng, bún hay cháo trắng...

Chúng con bây giờ đều đã lớn khôn, đã hiểu và cảm thông được sự vất vả của má khi phải chăm lo từng bữa ăn hằng ngày cho gia đình. Món ngon nhớ mãi trên đầu lưỡi vì có vị mặn của mồ hôi má vất vả, có vị cay xè trong mắt má thương lũ con thiếu thốn, và trên cả là có vị đậm đà của tình mẫu tử thiêng liêng...

Tản mạn đám cưới Hà Nội cổ

Nghi thức, nghi lễ ăn hỏi và cưới ở Hà Nội nhìn chung cũng giống như các tỉnh phía Bắc, tuy nhiên cưới hỏi ở Hà Nội cũng có những điểm khác biệt.

Các lễ nghi, thủ tục cưới hỏi đã tồn tại trong chế độ phong kiến như luật bất thành văn và nó được truyền từ đời này qua đời khác. Nhưng đến đời vua Lê Thánh Tông, nghi thức, nghi lễ cưới xin chính thức được đưa vào Quốc triều Hình luật (còn gọi là Luật Hồng Đức), bộ luật đầu tiên của Việt Nam. Việc "luật hóa" các nghi thức, nghi lễ trong cưới hỏi chứng tỏ các nhà làm luật rất tôn trọng những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Các nghi lễ, nghi thức kết hôn ghi trong chương Hộ hôn bao gồm: lễ nghị hôn (là lễ chạm mặt hay nôm na là dạm hỏi), lễ định thân (hỏi tên tuổi cô gái, đã kết hôn lần nào chưa), lễ nạp trưng (dẫn đồ cưới) và lễ thân nghinh (tức là lễ đón dâu). Xa xưa, hôn lễ thường diễn ra vào chiều muộn vì đó là khoảng thời gian dương qua âm lại, âm dương giao hòa là thuận theo lẽ đất trời.

Trải qua thời gian với những biến động của lịch sử về kinh tế, xã hội, đặc biệt là sự có mặt của các nhà truyền giáo phương Tây vào thế kỷ XVII đưa Thiên chúa giáo vào Việt Nam cũng không làm thay đổi các giá trị văn hóa truyền thống vốn cắm rễ trong đời sống người dân Việt Nam. Dù là sống ở nội thành hay ngoại thành, giàu hay nghèo thì một đám cưới bao giờ cũng bắt đầu bằng lễ chạm ngõ (có nơi gọi là dạm ngõ). Sau chạm ngõ là lễ ăn hỏi. Dù là nhà giàu hay nhà nghèo cũng không thể thiếu được chè, chai rượu và quan trọng là cơi trầu vì "miếng trầu là đầu câu chuyện". Cuối thập kỷ thứ 2 thế kỷ XX mới xuất hiện thuốc lá trong lễ vật ăn hỏi. Với người Hà Nội không thể thiếu cốm và hồng, gia đình khá giả thì ngoài cốm, hồng còn có thêm lợn sữa quay.

Theo thời gian, đồ lễ ăn hỏi cũng có thay đổi, lễ vật là đặc sản của Hà Nội như bánh cốm, mứt sen. Nhà giàu lễ to, nhà nghèo lễ nhỏ nhưng không thể thiếu bánh phu thê, biểu tượng của đôi vợ chồng duyên phận vẹn toàn. Sau lễ ăn hỏi, tùy theo thỏa thuận giữa hai gia đình sẽ ấn định ngày cưới. Lễ đón dâu ngày xưa có rất nhiều thủ tục, đi đầu đám rước là những người giàu có địa vị trong làng xã, khi đón dâu còn có tục chăng dây ở đầu làng hoặc đầu phố, hai họ muốn đi qua phải đưa cho họ ít tiền. Tục chăng dây tồn tại đến tận đầu thế kỷ XX, sau đó mất hẳn. Tiệc tùng diễn ra trước ngày cưới một ngày. Mời cưới cũng rất quan trọng, đại diện nhà trai hay nhà gái phải gặp được người cần mời có lời thưa, nếu mời qua người khác là không tôn trọng và người ta sẽ không đến.

Văn hóa Pháp cũng ảnh hưởng đến việc mời đám cưới. Đám cưới đầu tiên dùng thiếp mời, kèm theo gói chè nhỏ và hạt sen là đám cưới con trai thứ của nhà tư sản Bạch Thái Bưởi vào năm 1920 tổ chức tại Khách sạn Pháp quốc ở phố Hàng Bài (nay là Rạp chiếu bóng Kim Đồng). Đám cưới này cũng là đám cưới đầu tiên ở Hà Nội không làm tại tư gia mà đặt cỗ ở khách sạn với 240 mâm. Mỗi mâm đặt một chai vang Bordeaux cùng 6 chiếc cốc pha lê. Người in tấm thiếp cưới đầu tiên này là ông Ngô Tử Hạ, chủ nhà in ở phố Lý Quốc Sư. Sau gần một thế kỷ nội dung tấm thiếp cưới bây giờ cũng không khác gì thời đó. Tục đưa thiếp mời kèm theo gói chè, bánh cốm hay bánh phu thê vẫn còn đến hôm nay. Nếu là đám cưới của những gia đình khá giả, phải có quả phù tang (dùng để đựng đồ lễ) do hai người khiêng, đựng trầu cau, lợn sơn son. Tục mang lợn quay bị phê phán là phong kiến và mất hẳn vào năm 1946. Với gia đình trung lưu, rượu sâm banh với bánh sămpa là hai thứ không thể thiếu trong lễ cưới.

Dù nhiếp ảnh xuất hiện ở Hà Nội từ năm 1865 nhưng phải đến đầu những năm 1930 mới xuất hiện việc chụp ảnh đám cưới và cũng chỉ những gia đình khá giả mới chụp ảnh ghi lại sự kiện trọng đại của con cái. Cỗ cưới, đặc biệt là khu vực nội thành rất được chú trọng. Với nhà giàu, mâm cỗ bao giờ cũng phải đủ bốn bát, sáu đĩa. Theo quan niệm con số 10 tượng trưng cho đầy đặn và cũng là lời chúc hạnh phúc cho đôi vợ chồng mới. Sáu đĩa bao gồm: một đĩa thịt gà úp lật quân cờ da vàng rượi, một đĩa thịt lợn quay xếp hình cánh hoa đều tăm tắp, một đĩa giò lụa, một đĩa chả quế, thêm một đĩa xôi gấc, một đĩa nộm thập cẩm. Bốn góc mâm là bốn bát canh gồm: một bát măng ninh chân giò, một bát mọc thả nấm, một bát chim bồ câu hầm hạt sen và bát mực nấu rối gồm: xu hào, cà rốt thái chỉ, trứng tráng thái chỉ, giò lụa thái chỉ, mực khô thái chỉ xào cháy cạnh. Nhà sang còn có thêm hoa quả tráng miệng hay đĩa chè kho. Mỗi mâm đặt một chai rượu trắng và 6 chiếc chén hạt mít cho khách uống rượu.

Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị hình thành ở Hà Nội thì xã hội có sự phân chia giai cấp, cỗ cưới nhà giàu không đơn giản là tiệc mà nó còn là sự phô trương của cải, mối quan hệ của chủ nhà. Đám cưới nào có khách là quan chức, nhà văn, nhà báo đi ô tô, xe tay riêng đến dự mới là sang trọng vì thế mới có chuyện nhà báo Tam Lang (nổi tiếng với phóng sự xã hội trong đó có "Tôi kéo xe") thường xuyên được mời ăn cưới cho dù ông không hề quen chủ nhà. Không những thế, người ta còn chuẩn bị sẵn cả tiền mừng. Và sáng hôm sau chuyện Tam Lang mừng bao nhiêu tiền lan ra hàng phố. Con gái nhà giàu ở các phố: Hàng Ðào, Hàng Bạc, Hàng Ngang, Hàng Bông, Hàng Gai... lấy chồng theo tiêu chuẩn "phi cao đẳng bất thành phu phụ" vì thế cỗ càng to. Nhà không khá giả vẫn có cỗ và tất nhiên là số bát và đĩa ít hơn nhưng không thể thiếu được thịt gà luộc và xôi gấc, hai món biểu trưng cho sự thịnh vượng, may mắn và hạnh phúc. Tuy mời ăn cưới có giờ giấc cụ thể, nhưng bao giờ khách cũng đến muộn hơn vì đến đúng giờ sợ mang tiếng là "tham ăn". Khi khách đã tròn mâm, chủ nhà có lời thưa và lúc đó cỗ cưới bắt đầu. Trong mâm luôn có một người của gia đình hay họ hàng nhà đám ngồi cùng thay chủ nhà tiếp khách, rót rượu. Sau khi rời mâm, chủ nhà mời khách ra bàn uống chè mạn, ăn trầu, cắn hạt dưa, hút thuốc lá và tiễn khách về mới là xong việc.

Năm 1930, nhà Quảng Tín (119 Hàng Bông) mua chiếc Citroen cho thuê ăn hỏi và đưa dâu trở thành nhà đầu tiên ở Hà Nội mở dịch vụ này. Tiếp đến là Tự Vân ở Hàng Gai, Hoa Tường ở Khâm Thiên mua xe Ford mui trần chở cô dâu chú rể. Xe được trang trí hoa và kết dây băng bằng lụa màu nổi bật trên phố. Họ hàng nhà trai đi đón dâu và nhà gái đi đưa dâu ngồi xe tay. Còn nhà bình dân thì đi bộ.

Sau năm 1954, miền Bắc sống trong hòa bình, chế độ mới có quan niệm khác trước dẫn đến cưới xin cũng phải thay đổi. Nghi lễ, nghi thức đơn giản hơn, nhất là đám cưới của cán bộ, bộ đội ở chiến khu hay Điện Biên Phủ trở về lấy các cô gái Hà Nội. Không còn chăng dây đầu phố, không có thách cưới, chú rể có khi vẫn quần áo bộ đội, đi dép cao su cho dù cô dâu áo dài thướt tha. Cưới hỏi thách to, mâm cao cỗ đầy, đón dâu bằng ô tô... bị cho là lối sống của chế độ thực dân, phong kiến phải loại bỏ ra khỏi đời sống. Khái niệm cưới đời sống mới ra đời  rất đơn giản, nhiều nghi thức, nghi lễ bị lược bỏ, không có ăn mặn, chỉ có tiệc ngọt. Đón dâu xong vợ chồng dẫn nhau ra hiệu ảnh Quốc tế ở Hàng Khay chụp ảnh kỷ niệm. Tuy nhiên, nhiều gia đình vẫn tổ chức ăn mặn nhưng đến năm 1959, Hà Nội thực hiện cải tạo tư bản tư doanh, không ai dám làm cỗ vì sợ bị quy là tư sản hay tiểu tư sản thành thị.

Năm 1964, đế quốc Mỹ đánh phá miền Bắc bằng không quân, năm 1966 bắt đầu ném bom ở Hà Nội nên đã sinh ra cưới thời chiến. Nếu gia đình nào không sân dựng rạp thì thuê phòng cưới Trăm Hoa ở phố Bà Triệu hay Hòa Bình ở phố Huế. Dù ở phòng cưới hay ở nhà, tại  hội trường cơ quan, xí nghiệp thì phông (bằng vỏ chăn bông) đều có chữ lồng và không thể thiếu được đôi chim câu mớm mỏ nhau cắt bằng giấy. Băng rôn trên tường là khẩu hiệu "Vui duyên mới không quên nhiệm vụ", "Thắm tình Tổ quốc, đẹp tình ta" hay "Tất cả cho tiền tuyến". Khăn trải bàn ở phòng cưới là miếng vải hoa thì cưới tại gia thường phủ tấm áo mưa, đủ các màu. Phần lớn chú rể đều mặc quần âu, áo sơ mi trắng "cắm thùng", đi dép xăng đan còn cô dâu có khi là áo dài, nhưng cũng có người quần lụa, áo sơ mi trắng cổ lá sen, đi guốc sơn đen, trên đầu có cài nhành hoa. Song dù đám cưới thời chiến nhưng Hà Nội vẫn giữ nếp có phù dâu, phù rể, đốt pháo Trúc Bạch và khi cô dâu chú rể vào phòng cưới vẫn tung giấy màu cắt vụn lên đầu hai người.

Cũng giống cưới đời sống mới, cưới thời chiến cũng có văn nghệ "cây nhà, lá vườn". Những bài thường hát là các bài hát chống Mỹ như: "Trường Sơn đông, Trường Sơn tây", "Nổi lửa lên em", "Bài ca 5 tấn", "Thanh niên 3 sẵn sàng, phụ nữ 3 đảm đang"... ai hát xong được hội hôn tặng một tràng vỗ tay và còn nhận được một chiếc kẹo mềm. Do kinh tế khó khăn và "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" nên tiêu chuẩn cho một đám cưới gồm: hai cân kẹo, một cân chè, hai tút thuốc lá Tam Đảo hoặc Trường Sơn, một đôi chiếu và chiếc màn đôi bằng vải xô. Thuốc lá mang sang nhà gái còn nhà trai thì hút thuốc cuộn. Trừ một số ít người làm cơ quan, xí nghiệp có thể mượn ô tô  để đón dâu, còn lại các đám cưới đều đón dâu bằng xe đạp. Nếu nhà  không có xe tốt thì mượn họ hàng, được chiếc Peugeot cho chú rể đèo cô dâu thì nhất. Năm 1968, đám cưới anh Quang ở phố Bạch Mai đón dâu bằng xe đạp, nhưng chú rể không biết đi xe nên cô dâu phải đèo, đã thế chú rể sợ ngã lại ngồi hai chân hai bên, một tay bám vào yên xe còn tay kia nâng tà áo dài khiến cả phố buồn cười. Ở ngoại thành, cô dâu mặc quần lụa hay sa tanh đen, áo sơ mi trắng. Tuy nhiên, nhiều gia đình vẫn làm cỗ vì quan niệm "đứt ruột đẻ ra, nuôi lớn nên không thể cho không".

Cưới thời chiến kéo dài cho đến năm 1975, năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Dù cuộc sống còn rất khó khăn song cưới  ở Hà Nội có xu hướng trở lại với nghi thức, nghi lễ cổ, dạm ngõ, ăn hỏi, lễ cưới và có hai lễ gia tiên nội ngoại nhà cô dâu. Nhà khá giả vẫn có bánh phu thê, gói chè, quả cau khi đi mời cưới. Chuẩn bị cho một đám cưới khá vất vả, phải mua sẵn măng khô cho món măng, tích trữ gạo nếp để nấu món xôi và đặc biệt là đổi chác phiếu thịt, nước mắm để đến ngày cưới có số phiếu kha khá mua thịt hay chân giò. Do tiêu chuẩn đồ cưới quá ít, nhiều nhà mang bột mỳ, đường đến các cơ sở gia công làm bánh săm pa, quy gai. Nơi có nhiều nhất các nhà làm bánh hồi ấy nằm trên phố Sinh Từ, nay là phố Nguyễn Khuyến. Dạm trước mượn bếp dầu, bàn ghế bát đựng cỗ, tấm trải bàn... của hàng xóm, họ hàng và bạn bè; xin phép chính quyền địa phương căng bạt ở chỗ đất trống, mang đăng ký đi thuê ô tô...

Đám cưới thời bao cấp thật vui vì huy động cả gia đình, họ hàng và bạn bè cô dâu chú rể. Vui nhất sau lễ ăn hỏi là chị em nhà gái xúm xít đóng gói mứt sen, chè, rồi tíu tít đi mời. Họ hàng ở quê lên làm giúp quá đông nên có nhà chật phải gửi ngủ ở hàng xóm. Đêm trước ngày đón dâu cả họ cùng thức, chị em thì thái su hào, cà rốt làm nộm, đồ xôi gấc, rửa bát đĩa...; cánh đàn ông thì làm gà, luộc thịt... còn thanh niên lo sửa sang lại phông và lo phần ăm ly, loa và băng nhạc. Một việc quan trọng mà nhà trai phải cắt cử hẳn một người "chăm sóc", nịnh nọt bác tài vì giờ đón dâu đã xem nên không thể chậm trễ được. Xe khách của Xí nghiệp Xe khách Thống Nhất chỉ có hai loại: Hải Âu và Ba Đình. Xe Hải Âu của Liên Xô khá lịch sự còn xe Ba Đình (do Việt Nam đóng, dùng máy IFA) vừa thô vừa xấu, lớp sơn ngoài vỏ thì lem nhem, song thuê được là may. Nếu làm cơ quan nhà nước thì tiện hơn vì công đoàn ủng hộ một chuyến xe đón dâu, và xe đưa đón nhân viên thường là xe Labob của Liên Xô đẹp và sang hơn xe Hải Âu. Áo dài cô dâu khá dễ dàng vì dễ mượn song quần áo chú rể mới là điều đáng nói. Ai có tiền mới may "củ" (tên dân dã dùng để gọi comple) còn lại đều phải mượn và có khi phải qua nhiều cầu mới mượn được  bộ vừa người. May một bộ comple khá nhiều tiền nhưng thời bao cấp thẫm đẫm tình người nên không quen chú rể người ta vẫn sẵn sàng cho mượn. Xong comple lại lo giày. Giày xấu đẹp hay màu gì cũng được miễn là phải vừa chân, nếu chật thì khốn khổ. Do ngày ấy hiếm xi nên có người lấy dầu lạc đánh cho bóng và lúc chuẩn bị quần áo giày dép đi đón dâu mới biết kiến xơi hết phần dầu để lại các vết lỗ chỗ trên mặt da. Còn phù rể thì chỉ mặc "củ sếch" (không thắt cà vạt). Cô dâu mặc áo dài trong ngày cưới cài bông hoa trên tóc để phân biệt với các cô phù dâu". Đám cưới đầu tiên ở Hà Nội cô dâu mặc váy là năm 1974, cô dâu là con gái của một cán bộ cao cấp học ở nước ngoài về.

Sang thập niên 80 thế kỷ XX, dịch vụ cho thuê áo cưới, trang điểm cô dâu xuất hiện ở Hà Nội. Chụp ảnh cưới quay trở lại và không chỉ ngày cưới, nhiều gia đình thuê chụp cả lễ ăn hỏi. Nhiều thợ ảnh còn in ảnh cô dâu chú rể trong hình quả tim, có khi là bao thuốc lá 3 số 5. Sinh viên Khoa Quay phim Trường Sân khấu - Điện ảnh cùng các phóng viên ảnh các báo cũng vác máy Zenit hay Praktica phục vụ. Những chiếc máy chạy băng cối  hiệu AKAI nỉ non những "Chuyện tình Lan và Điệp" hay Boney ầm ĩ hàng xóm. Lại có đám cưới chơi cả nhạc  sống, song phải là "dân chơi" mới dám bỏ tiền thuê ban nhạc. Ban nhạc thời kỳ này có Hà "Xồm", Hiếu "văn hóa", Vân "Hàng Bông"... Những bản nhạc được ưa chuộng có: "Tình ca trên Thảo Nguyên", "Đôi bờ", "Chiều Matxcơva" (Nga) "Tuýt Sông Hồng" và cả nhạc The Beatle... Một số sinh viên, người học nghề ở Đông Âu về khi tổ chức đám cưới đã bạo dạn tổ chức nhảy đầm. Đạo diễn Phi Tiến Sơn học quay phim ở Cộng hòa dân chủ Đức về cưới vợ cũng đã tổ chức  nhẩy đầm ầm ĩ ở phố Huế. Thời kỳ này có một đám cưới làm xôn xao Hà Nội, có người còn làm thơ châm biếm. Chú rể là một nhà thuốc Đông y đã ngoài 70 tuổi còn cô dâu ngoài 30 (người ta đồn 18 tuổi).

Đất nước đổi mới, cuộc sống khá dần lên, đám cưới ở Hà Nội và các tỉnh thành khác có sự thay đổi, chuyện phô trương trong đám cưới xưa trở lại. Có nhà coi việc cưới cho con cái là dịp "làm kinh tế" đã khiến đám cưới mất đi ít nhiều nét văn hóa.

Dưa cà, mắm tép quê mẹ

04-04-2008

Từ sáng sớm mẹ đã trở dậy, lập cập cắp thúng ra chợ. Tại đấy, người nhà quê ngược tàu mang về chẳng thiếu thứ gì. Nào khoai sọ, khoai lang, cà pháo, cà bát và cơ man là đỗ. Theo chân mẹ mỏi chân khắp chợ may ra mới mua được mẻ cà vừa ý. Đến xế chiều, nắng xiên khoai lọt qua dàn thiên lý, mát hẳn. Từng chùm hoa chín vàng, thoang thoảng mà lại thơm lâu. Mẹ nhẩn nha pha một ấm chè đặc, hai mẹ con cặm cụi cắt cà. Dao phải sắc như dao cau mới không "ăn" vào thịt cà. Như thế thì nén cà mới không bị ủng, không kháng. Vại muối cà phải là sành Hương Canh, đen nhánh, đanh lì. Qua mỗi mùa hè muối cả chục mẻ nên lớp vỏ sành đã thấm ngấm mấy lần nước muối mặn. Chẳng khác gì ấm pha trà ngấm dầy cao chè. Đá nén cũng phải kén đá cuội to, trơ lì và nhẵn thín.

Nước muối mặn mấy cũng không thể ngấm vào. Các loại đá khác khi ngập chìm trong nước muối sẽ thôi ngấm ra, nước đục là cà có vị ngái. Ngay đến vỉ nén cũng phải đan bằng giang đã ngâm kỹ, gác trên gác bếp cho ngấm bồ hóng. Kỹ lưỡng đến thế rồi mẹ mới rải từng lớp cà. Cứ một lớp lại quải đều một lớp muối trắng. Nước đổ vừa xâm xấp mặt cà rồi thả dăm nhát giềng. Xong xuôi đặt vỉ, nén rõ chặt. Mẹ dặn, cứ vài ngày phải xem nước có ngót không. Cốt sao lúc nào cà cũng phải ngập nước. Đến khi vớt ra, để bao lâu cà vẫn trắng phau, không bị thâm tái…

Trong bếp có vại cà, cả nhà đủ sống qua ba tháng hè. Rau đay, rau ngót cũng một tay mẹ trồng trên mảnh vườn nhỏ sau nhà. Bên bờ rào, mồng tơi rậm rì xanh ngắt. Mùa hè nắng nôi, có bát canh rau với dăm quả cà là xong bữa. Lúc tối lửa tắt đèn, hàng xóm chạy sang xin dăm quả. Cả xóm thành ra nghiện cà mẹ muối. Ai cũng bảo muối cà tưởng là đơn giản. Hoá ra phải có " tay " thì cà nén mới giòn, trắng nõn và tuyệt nhiên không có vị chua…

Hũ mắm tép ấm lòng những ngày đông

Cuối hè, mấy trận mưa rào chưa thể xua hết cái oi nồng, bức bí. Tuy thế, khi gió chiều nổi lên đã thấy hơi lạnh phảng phất. Trên mặt hồ, mặt ao, tôm tép úi lên từng đám dầy đặc, sẫm cả mặt nước. Trời nhá nhem rồi tối dần. Mẹ bắc ghế ra đầu hè, bó gối ngồi. Một lúc sau thể nào cũng có ông lão đánh dậm đi ngang qua. Người chưa đến mà gió đã sực mùi tôm cá. Cái giỏ đựng tép nặng chịch, vít tấm lưng ông già gập xuống. Cái dậm thì to kềnh như chiếc diều cứ chực nhấc bổng thân người đẫm nước, tong teo. Mớ tép rui tươi nguyên trút ra rổ. Đầy những rong rêu, cọng cỏ. Mẹ khẽ đảo tay, hàng trăm con tép nhảy tanh tách. Nước bắn tứ phía, óng ánh như có vẩy bạc. Dưới đáy rổ thấy cả cọng vó, đòng đong, cân cấn, niềng niễng rúc đầu chạy…

Ngọn đèn dầu thắp lên khoanh tròn một vầng sáng. Mẹ cặm cụi đãi nhặt ốc vặn, rơm rác. "Cái giống mắm tép phải làm rõ sạch và kỹ lắm. Chỉ hơi lẫn một tý là hỏng. Là ngả màu thâm xỉn, mất hẳn cái mầu đỏ hồng". Mẹ giảng giải như thế. Đãi đi đãi lại cho đến khi rổ tép trắng hồng, trong suốt, mẹ mới cho vào cối đá giã giậm. Có thế mắm mới nhuyễn, quánh dẻo. Xong đâu đấy, mẹ nhóm bếp rang thính. Ngọn lửa không được to quá, chỉ vừa lom dom. Nhất là phải đảo đều tay. Trăm hạt gạo như một, vàng rộm, nở đều như hoa cau chín. Thính giã vừa tới, không được vỡ vụn. Cứ thế, một lớp tép, lại quải một lớp thính. Khi cho mắm vào hũ, phải nút chặt bằng lá chuối khô. Lúc nào hũ mắm cũng để sát cạnh bếp.

Nhờ có lửa than, hơi nóng mắm ngấu chín. Suốt cả tháng trời cứ háo hức chờ lúc mẹ mở nút lá chuối. Ba gian nhà sực nức mùi vị ngọt ngào, thơm lạ thơm lùng. Chiều tối đi học về, chạy ù vào bếp. Cơm vừa chín tới để nguyên trên bếp. Mâm là cái mẹt chỉ có độc bát canh dưa vùi trong trấu. Tay mẹ xới lưng cơm nóng hôi hổi, rưới đều từng thìa mắm tươi hồng, đặc sánh. Hơi cơm bốc nghi ngút quyện với mùi mắm tép ngào ngạt. Mẹ nhìn con ăn, mắt rưng rưng. Ngoài trời gió lạnh đã về, hun hút lùa qua khe vách…

Của ngon vật lạ, mâm cao cỗ đầy rồi cũng chuội đi, có đọng lại gì. Sao vẫn nhớ cồn cào vị mắm tép, nhớ đến xót xa quả cà mẹ muối ngày nào. Ngót ba chục năm rồi có bao giờ tìm thấy nữa

Hẹ nước “chân quê”

04-04-2008

Cứ sau vài trận mưa đầu mùa, các thửa ruộng vùng đất ngập phèn lênh láng nước. Đó là lúc những cây hẹ nước bắt đầu đâm tược. Chẳng mấy chốc, cọng hẹ đã mọc dài chừng năm, sáu tấc, mặt lá rộng cỡ bề ngang một ngón tay. Đó cũng là lúc bọn trẻ chúng tôi bắt đầu đi "thu hoạch" loại rau trầm thủy này. Nói vậy cho oai chứ thật ra trong những buổi không có giờ học, ở đồng quê thời xa xưa chẳng có gì chơi, chúng tôi rủ nhau giải trí một cách hơi… có ích. Năm ba đứa bạn, quần cụt, áo thun, dầm chân trong những miếng ruộng, mắt láu liên tìm trong dòng nước từng đám hẹ oặt òa ngọn lá sau những cử động bước chân của chúng tôi. Vậy là khom mình xuống, thò tay nhổ từng đám lá hẹ khỏi mặt đất ruộng. Khi nhổ được số lá hẹ như mong muốn, chúng tôi thơ thới hân hoan mang về nhà khoe như một công lao quan trọng…

Hẹ nước là một loài rong không chỉ mọc ở ruộng nước, mà còn hiện diện ở các kênh mương, đầm nước vùng đất phèn. Cũng như lúa trời (lúa ma), loài rau hoang dại này mọc nhiều ở khu vực Đồng Tháp Mười. Nơi nào nước sâu, chảy mạnh và nhiều thì lá hẹ có màu xanh đậm và to bản hơn, xốp hơn, giòn hơn và thơm hơn là hẹ mọc ở đáy mương. Nhổ hẹ nước về, người ta cắt bỏ nguyên phần gốc, rễ, đem rửa sạch. Hẹ nước được người ta dùng ăn sống như một loại rau, chấm nước cá kho, thịt kho… nhưng ngon nhất là chấm mắm kho.

Mắm kho trước kia, bây giờ là lẩu mắm, là món thường ngày của người dân miền Tây Nam bộ. Đi kèm với món ăn làm nên danh tiếng xứ này là một "tập đoàn" rau và bông hết sức "tầm cỡ", nhưng thiếu sự hiện diện của hẹ nước thì coi như "bỏ đi"! Cảm giác ngon miệng của các loại rau, bông khác chấm mắm kho, lẩu mắm là chuyện ai cũng biết. Nhưng cái ngon của hẹ nước chấm mắm kho, lẩu mắm mới là đặc biệt. Vì, lúc mới ăn chẳng cảm thấy gì đặc biệt, nhưng càng nhai càng nghe vị ngọt rất đặc trưng của nó lẫn vị mặn ngọt của nước món ăn, thấm dần, thấm dần vào dạ dày.

Chính vì vậy mà từ nhiều năm nay, Dược sĩ Nguyễn Văn Bé, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu bảo tồn dược liệu Đồng Tháp Mười – Remedica – ở tận xã Bình Phong Thạnh, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An đã biết khai thác hẹ nước. Ngoài nhiệm vụ Bộ Y tế giao, ông còn tổ chức du lịch sinh thái trong bốn tháng mùa nước nổi. Đến đây, mùa này, ngoài được đi xuồng ba lá trên những con kinh dài mút mắt, uốn khúc theo bìa rừng, những bầy le le, vạc, gà nước, cò ma, cò trắng, bạch hạc (giang sen), điên điển, sếu đầu đỏ, bồ nông… bay liệng hoặc đậu trên các cành cây…, khách còn được ông Bé khoe ở dưới ao có một loại rau đặc biệt chỉ có trong mùa nước nổi. Đó là cây hẹ nước, chấm với mắm kho ăn hết chỗ chê! Và, chỉ với mỗi món ăn đậm chất Nam bộ ấy mà ông Bé đã hớp hồn biết bao du khách khi đến với khu du lịch hoang dã này.

Ngọn rau hoang dại trên mâm cơm đạm bạc của người nghèo trên vùng đất chua phèn nay đã có bán tại chợ 1-5, thị xã Vị Thanh, Hậu Giang. Dù rất xa lạ với người Sài Gòn, nhưng hẹ nước đã dần thu hút khẩu vị của họ khi đã có mặt tại chợ An Lạc với giá 6.000 đồng/kg. Nó sẽ trở thành đặc sản với dân thành thị vì vừa ngon, bổ, rẻ, lại vừa rất an toàn.

Hẹ nước “chân quê”

04-04-2008

Cứ sau vài trận mưa đầu mùa, các thửa ruộng vùng đất ngập phèn lênh láng nước. Đó là lúc những cây hẹ nước bắt đầu đâm tược. Chẳng mấy chốc, cọng hẹ đã mọc dài chừng năm, sáu tấc, mặt lá rộng cỡ bề ngang một ngón tay. Đó cũng là lúc bọn trẻ chúng tôi bắt đầu đi "thu hoạch" loại rau trầm thủy này. Nói vậy cho oai chứ thật ra trong những buổi không có giờ học, ở đồng quê thời xa xưa chẳng có gì chơi, chúng tôi rủ nhau giải trí một cách hơi… có ích. Năm ba đứa bạn, quần cụt, áo thun, dầm chân trong những miếng ruộng, mắt láu liên tìm trong dòng nước từng đám hẹ oặt òa ngọn lá sau những cử động bước chân của chúng tôi. Vậy là khom mình xuống, thò tay nhổ từng đám lá hẹ khỏi mặt đất ruộng. Khi nhổ được số lá hẹ như mong muốn, chúng tôi thơ thới hân hoan mang về nhà khoe như một công lao quan trọng…

Hẹ nước là một loài rong không chỉ mọc ở ruộng nước, mà còn hiện diện ở các kênh mương, đầm nước vùng đất phèn. Cũng như lúa trời (lúa ma), loài rau hoang dại này mọc nhiều ở khu vực Đồng Tháp Mười. Nơi nào nước sâu, chảy mạnh và nhiều thì lá hẹ có màu xanh đậm và to bản hơn, xốp hơn, giòn hơn và thơm hơn là hẹ mọc ở đáy mương. Nhổ hẹ nước về, người ta cắt bỏ nguyên phần gốc, rễ, đem rửa sạch. Hẹ nước được người ta dùng ăn sống như một loại rau, chấm nước cá kho, thịt kho… nhưng ngon nhất là chấm mắm kho.

Mắm kho trước kia, bây giờ là lẩu mắm, là món thường ngày của người dân miền Tây Nam bộ. Đi kèm với món ăn làm nên danh tiếng xứ này là một "tập đoàn" rau và bông hết sức "tầm cỡ", nhưng thiếu sự hiện diện của hẹ nước thì coi như "bỏ đi"! Cảm giác ngon miệng của các loại rau, bông khác chấm mắm kho, lẩu mắm là chuyện ai cũng biết. Nhưng cái ngon của hẹ nước chấm mắm kho, lẩu mắm mới là đặc biệt. Vì, lúc mới ăn chẳng cảm thấy gì đặc biệt, nhưng càng nhai càng nghe vị ngọt rất đặc trưng của nó lẫn vị mặn ngọt của nước món ăn, thấm dần, thấm dần vào dạ dày.

Chính vì vậy mà từ nhiều năm nay, Dược sĩ Nguyễn Văn Bé, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu bảo tồn dược liệu Đồng Tháp Mười – Remedica – ở tận xã Bình Phong Thạnh, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An đã biết khai thác hẹ nước. Ngoài nhiệm vụ Bộ Y tế giao, ông còn tổ chức du lịch sinh thái trong bốn tháng mùa nước nổi. Đến đây, mùa này, ngoài được đi xuồng ba lá trên những con kinh dài mút mắt, uốn khúc theo bìa rừng, những bầy le le, vạc, gà nước, cò ma, cò trắng, bạch hạc (giang sen), điên điển, sếu đầu đỏ, bồ nông… bay liệng hoặc đậu trên các cành cây…, khách còn được ông Bé khoe ở dưới ao có một loại rau đặc biệt chỉ có trong mùa nước nổi. Đó là cây hẹ nước, chấm với mắm kho ăn hết chỗ chê! Và, chỉ với mỗi món ăn đậm chất Nam bộ ấy mà ông Bé đã hớp hồn biết bao du khách khi đến với khu du lịch hoang dã này.

Ngọn rau hoang dại trên mâm cơm đạm bạc của người nghèo trên vùng đất chua phèn nay đã có bán tại chợ 1-5, thị xã Vị Thanh, Hậu Giang. Dù rất xa lạ với người Sài Gòn, nhưng hẹ nước đã dần thu hút khẩu vị của họ khi đã có mặt tại chợ An Lạc với giá 6.000 đồng/kg. Nó sẽ trở thành đặc sản với dân thành thị vì vừa ngon, bổ, rẻ, lại vừa rất an toàn.

Sau một thời gian vắng bóng, những xe phở gõ bắt đầu xuất hiện trở lại trên đường phố Nha Trang. Vẫn là những chiếc xe đẩy với đủ mọi thứ cho một hàng phở quy tụ trên đó: nồi nước dùng, nước trụng, bánh phở, gia vị, rau… và dĩ nhiên là có đủ cả tô, đũa, muỗng kiêm luôn cả nước rửa… Nếu trước kia xe phở lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm, thì bây giờ lại chọn những chỗ gần chợ, gần khu dân cư, bất cứ chỗ nào có một vỉa hè thoáng đãng nhưng không thuộc khu vực lực lượng Quản lý đô thị quản lý. Đi trên đường phố Nha Trang, bạn sẽ bắt gặp khoảng gần chục xe phở gõ như thế, có xe chọn đường Lê Quý Đôn, xe chọn đường Tô Hiến Thành, xe vào tận Hương lộ 45…

Mỗi xe phở gõ thường kèm theo khoảng ba chiếc bàn và chục chiếc ghế nhựa nhỏ. Sau khi tới địa điểm, xe để sát lòng đường, bàn ghế được bày ra. Khách đi ngang qua chỉ nhìn xe là biết đó là xe phở gõ.

Bạn sẽ ngạc nhiên về tô phở chỉ có giá rất rẻ. Nhưng bạn sẽ càng ngạc nhiên hơn vì khi đói bụng, ghé ngay góc đường có bán phở gõ, ăn thử một tô sẽ cảm thấy ngon miệng. Và chính vì để có thể hạ giá thành, những người bán đã tính toán đến mức tối đa các nguyên liệu cho tô phở. Bánh phở ít hơn, nước dùng cũng rất ngọt, đậm đà. Cái khác ở tô phở gõ với tô phở ở các quán chính là chỉ có mỗi món phở thịt heo. Những lát thịt heo cắt rất mỏng, vài lá rau quế, ít nước tương ớt. Trên bàn chỉ có hai loại gia vị khách có thể dùng thoải mái là ớt và nước mắm.

Khách đi ăn phở gõ cũng đa dạng. Là học sinh sau khi tan trường rủ nhau đi ăn, là các chị bán hàng ngoài chợ, cũng có thể là một cặp tình nhân thích không khí của phở gõ. Khách ăn không đòi hỏi nhiều như đi ăn phở quán, chủ xe phở chế biến như thế nào thì ăn như thế đó. Đôi khi có vài vị khách nước ngoài, tò mò cũng vào quán phở gõ, ăn cho biết.

Phở gõ hình thành và tồn tại trong lòng thành phố biển Nha Trang như một nét rất riêng

Cỗ cưới ở quê tôi

Một hôm cô bạn tôi cười nói với tôi: “Hai vợ chồng em từ hôm qua đến giờ nhận được tám cái thiếp mời cỗ cưới vào ngày mai rồi anh ạ. Từ giờ đến tối chả biết còn ai mời nữa không”. Tám đám cưới cho hai vợ chồng một ngày, bình quân mỗi người bốn đám. Hai vợ chồng công chức trẻ lại có chức sắc ở huyện một ngày giữa mùa cưới như thế chưa chắc đã là ngày được nhiều đám mời nhất.

Tình trạng mùa cưới ở quê tôi rộ lên đã kéo dài từ nhiều năm nay. Càng những năm gần đây, mật độ đám cưới ngày càng dày lên. Đám cưới nhiều lên thì lượt người được mời cũng tăng lên theo. Tôi hỏi cụ già ngoài tám mươi tuổi về cỗ và đám cưới xưa ở làng thì cụ nói: “Xưa làng ít người nên ít đám cưới. Ngoài cỗ cưới ra chỉ có cỗ đám ma, cỗ giỗ và cỗ dựng nhà. Họa là lâu lâu, làng có ông nào được bổ làm lý trưởng, phó lý thì có cỗ ăn khao, chứ  không nhiều cỗ như bây giờ. Mâm cỗ xưa có bốn bát, bốn đĩa nhưng bát đĩa đều nhỏ, đơm vơi. Thực phẩm cho mỗi mâm chỉ độ bảy lạng thịt lợn, còn lại là rau. Nhà giàu thì có thêm đĩa xôi, đĩa chè chứ không to tát đầy đặn như mâm cỗ bây giờ. Thế mà cũng méo mặt đấy”. Tôi ngẫm lời cụ nói mà thấy đúng. Ví như cái làng tôi đây năm năm về trước chỉ có năm mươi hộ, nay lên tới hai trăm. Tính theo con số ấy thì chỉ riêng cỗ cưới nay đã tăng lên gấp bốn lần so với ngày xưa. Xưa cỗ đã ít mà đi ăn cỗ cưới con gái có phải tiền mừng đâu, cho nên người đi ăn cỗ không lo, chỉ có chủ nhà là lo thôi. Bây giờ, đi ăn cỗ cưới con trai, con gái đều phải mừng tiền như nhau cho nên người có cỗ lo ít, người đi ăn lo nhiều. Nay cỗ cưới, mai lại cỗ cưới , có ngày chạy mấy đám. Ngoài cỗ cưới lại cỗ đám ma, đám giỗ, cỗ mừng thọ, cỗ lên chức, cỗ đỗ đạt vào trường nọ trường kia, cỗ đi làm ăn ở nước ngoài v.v... cỗ nào chả phải tiền, ít là vài ba chục một đám cho nên tiền cỗ trở thành khoản tiền to nhất trong chi tiêu của mỗi gia đình hiện nay. Người giàu thì cứ vô tư đi, còn người nghèo thi vô tư sao được, mênh mông bát ngát làm sao được, nhiều khi họ nhăn nhó lạc lõng giữa những người giàu.Xưa nghèo túng, thiếu thốn, nhà có cỗ thì chủ nhà lo lắm. Giờ giàu có, lương thực, thực phẩm hàng hóa cái gì cũng sẵn, chẳng phải lo lắng tính toán gần xa gì, cứ vui đi. Nói vậy thôi, những nhà có cỗ cũng phải tính toán, lo liệu sao cho phù hợp với hoàn cảnh giàu nghèo của mình. Thường cỗ nhà nghèo là cỗ bình dân, còn cỗ nhà giàu thì “cao cấp” hơn. Dù giàu hay nghèo, nhà nào cũng phải tính đến chuyện đón tiếp mời chào, vui vẻ niền nở, lịch sự, cỗ bàn tươm tất, khách ăn ngon miệng. Rất nhiều và rất nhiều đám làm được như thế, ai đến ăn cũng khen. Song không phải đây đó không còn những đám mà người ăn cạch đến già. ở một làng nọ, có một nhà giàu nhất làng cưới con trai ăn hai ngày, ngày hôm trước mời khách cơ quan, đơn vị bạn bè hàng tỉnh hàng huyện cỗ bàn to tát ăn uốn linh đình, hôm sau mời họ hàng dân làng nhà quê, cỗ bàn rất sơ sài, có thứ đã ôi thui nên ở đám cỗ ra về có người nói bô bô: “Hôm nay dân mình được ăn cỗ thừa, cỗ trút”. Buồn nhất là có một ông người làng được mời đến ăn hôm sau lại đến nhầm vào ngày hôm trước bên bị ông bà chủ “quên” không tiếp... Lại có một lần ngồi cùng mâm với tôi là năm ông khách lạ tại nhà một người bạn đồng niên với tôi. Chủ “mến khách” quá đem ra bao nhiêu là rượu. Nhưng rượu nhắm với cái gì. Mỗi người mới được hai lưng chén mà mấy bát đĩa đồ nhắm dùng được đã hết nhẵn cả. Những thứ còn lại ở bát đĩa trên mâm chỉ là những thứ bày ra để nhìn thì vẫn giữ y nguyên. Một ông khách lớn tuổi có vẻ là trưởng đoàn của đoàn khách này nói với tôi: “Chúng tôi đại diện cho Đảng ủy, ủy ban và đoàn thể xã N, huyện L cách đây tám chục cây số nơi cái thằng cháu cưới hôm nay đang học... Nói ông thông cảm, chúng tôi đến đây là vì tình! Ông là bạn với ông chủ, lại là người địa phương, lúc nào thư thả ông nói giùm chúng tôi với ông chủ câu ấy nhé! Tôi lấy làm thẹn trước câu nói vừa thật lòng, vừa kín đáo của ông khách.Trên đây là những câu chuyện về cỗ cưới ở quê tôi. Chả biết quê khác thế nào. Các cụ xưa có câu: “Ma cười, cưới trách”. Nghĩa là đám ma, đám cưới là những đám buồn, vui thường có đông người đến dự, khâu tổ chức dễ có những thiếu sót tránh sao khỏi tiếng cười chê. Nhưng có phải đám nào cũng bị chê cười đâu. Khi nhà có đám, gia chủ dù thận trọng, chu đáo bao nhiêu cũng không thừa. Gần xa, giàu nghèo, ai có lòng đến với mình cũng quý, đừng xem thường xem khinh ai, đặc biệt đừng nhân đám cỗ mà tính toán kiếm lời, buồn lắm!

Chuyện "cải cách" mâm cỗ làng quê

Khi đời sống ngày càng phát triển thì theo đó mâm cỗ cưới cũng ngày một thịnh soạn và... tinh tế hơn. Điều này đôi khi trở thành một nỗi lo đối với nhiều bạn trẻ ở các làng quê khi sắp phải tính chuyện lập tổ ấm riêng cho mình.

Mới đây, Thành - em họ tôi là thợ xây từ Phú Thọ vào TP.HCM kiếm việc. Cậu tâm sự: "Em sẽ cố gắng gom góp trong 1-2 năm, đủ một vài chục triệu tiền cưới vợ là em về quê ngay". Nhiều người ngạc nhiên: Cưới ở quê gì mà tốn kém vậy? Thành cười: "Ở quê bây giờ "kềnh dềnh" chẳng kém gì thành thị. Cũng tốn kém lắm, mà dân quê lấy đâu ra tiền nhiều để mừng? Trung bình mỗi người mừng hai chục, đi năm chục ngàn đồng là sang. Anh em thân thuộc mỗi nhà mừng trăm ngàn bạc thì kéo cả già trẻ lớn bé sang ăn 2, 3 ngày từ khi bắc rạp".

Thành ngồi liệt kê ra: nào tiền thuê váy áo cưới cho cô dâu chú rể, nếu cách làng thì mất tiền thuê ô tô, tiền phông rạp, tiền chụp hình làm album, "phong bì" chạm ngõ nhà gái, anh nào sang còn thuê ghi hình video. Nhưng có lẽ gay go nhất vẫn là khoản tiền cỗ cưới.

Quả thực, mâm cỗ ở quê bây giờ đã khác xưa rất nhiều. Ngày trước cỗ thiên về nhiều số lượng bát đĩa trên mâm thì nay lại thiên về chất lượng. Những lần về quê ở làng Lương Lỗ, huyện Thanh Ba, Phú Thọ, tôi từng được nghe kể khá nhiều về chuyện "cải cách" mâm cỗ cưới ở đây.

Bắt đầu là đám cưới con ông chủ tịch xã lấy một cô gái người thành phố, được tổ chức rất linh đình: từ cách trang trí đám cưới tới mâm cỗ cưới khiến bà con phải xuýt xoa… Dần dà không ai bảo ai nhưng nhà nào cưới cũng lấy mâm cỗ cưới nhà ông chủ tịch làm gương. Sau đó, người ta đua nhau "đầu tư" vào mâm cỗ cưới cho thật phong phú, khác người.

Đầu tiên phải kể đến chuyện thịt mỡ biến mất khỏi mâm cỗ: món thịt luộc, bát chuối nấu thịt ba chỉ không còn được ai đụng đũa trong mâm cỗ cưới. Những loại giò mỡ, giò lòng - món "truyền thống" của cỗ xưa cũng không mấy được đả động đến nữa. Cưới xịn thời nay chẳng mấy nhà mổ lợn, tốt hơn hết là đi ra ngoài mua thịt nạc cho đỡ bị ế thịt mỡ! Có một dạo, tự nhiên trên mâm cỗ cưới "lạ" hẳn đi bởi sự xuất hiện của… 6 trái trứng, được gọi là món "bồi dưỡng" sau khi uống rượu.

Cũng chẳng nhớ ai là người đầu tiên đưa "chiêu" trứng luộc này vào song nó đã tồn tại một thời gian khá dài và thậm chí trong nhiều tiệc cưới thiếu món này lập tức bị đánh giá là cỗ không… sang (!). "Khúc biến tấu" từ trứng luộc chính là… trứng cút, cũng là một sự đổi mới thú vị. Cỗ cưới nông thôn bây giờ lại đưa thêm vào món tráng miệng học được từ cỗ cưới thành thị: trái cây, bánh ngọt, xôi chè…

Thành cho biết: cỗ cưới sang ở quê thời nay phải đưa vào những món đặc sản như thịt bò, thịt lươn, thịt thỏ. Nếu thịt gà phải đúng loại gà ta chứ gà công nghiệp hoặc gà tam hoàng là coi như mất sang. Nhà ai mà nghĩ ra món độc đáo sẽ coi như một sự kiện để bà con bình phẩm.

Ấn tượng nhất là có nhà đã đưa vào mâm cỗ cưới món… mộc tồn, được dân mê nhậu hoan nghênh nhiệt liệt, coi như một sáng tạo độc nhất vô nhị! Cỗ cưới sang thường có bia chai. Nếu uống rượu gạo thì phải là loại nếp cái hoa vàng hạ thổ 100 ngày mới đạt tiêu chuẩn cỗ cưới xịn!

Ở các làng quê, sau mỗi đám cưới bao giờ cũng có phần bình phẩm. Có người đã nói vui: "Bị chê cô dâu xấu đành chịu chứ bị chê cỗ bé thì ấm ức lắm! Đã thế, nhiều người dân quê đi ăn cưới nhìn sơ qua thấy cỗ xoàng đã lẻn ra sau nhà rút bớt tiền mừng khỏi phong bì trước khi gửi đến tay cô dâu chú rể".

Trung bình, mỗi đám cỗ phải tốn từ 8 đến 25 triệu đồng, cộng tiền mừng cưới nhà nào may lắm thì hòa vốn, còn lại đa số là thâm thủng ngân sách. Xem ra, ăn uống là chuyện nhỏ nhưng lại không hề nhỏ chút nào đối với các bạn trẻ mới vào đời. Bởi thế sau nhiều đám cưới, đôi vợ chồng trẻ thay vì hưởng tuần trăng mật thì phải lo sốt vó, lao ra thành phố buôn thúng bán bưng, làm thuê lần hồi để dành tiền trả nợ cho bữa tiệc của ngày hạnh phúc. Hẳn là cuộc sống của cặp vợ chồng trẻ đã kém vui đi rất nhiều

Rườm rà đám cưới quê ngày nay

Mỗi lần đi ăn cưới về, mẹ tôi thường nhận xét: “Trước kia, việc cưới xin phải lo sao giữ được "nếp nhà" ấm cúng, đem lại hạnh phúc cho dâu rể và chu tất trong mối quan hệ họ hàng... Còn bây giờ thì nặng về hình thức quá”.

Chẳng riêng mẹ tôi, xem ra nhiều người cũng có nỗi băn khoăn đó. Việc cưới, cỗ cưới xưa ở nông thôn chỉ cần có con lợn, vài chục cân gạo nếp là xong, còn ngày nay "bung ra" theo lối thị thành, cỗ bàn đủ món; nhiều khi còn đặt cỗ ở nhà hàng, tiệc mặn tiệc ngọt đủ thứ, sinh ra sự xa xỉ. Những khách dự đám cưới đều chúc mừng hạnh phúc cho cặp uyên ương bằng “phong bao” hàng trăm nghìn đồng. Vợ chồng tôi có ngày nhận được bốn giấy mời (con của bạn thân bên chồng, bên vợ rồi các cháu trong quan hệ gia đình) thường gọi đùa là “phiếu ăn cơm giá cao”, hay “thiệp… moi”… Hàng tháng, tính sơ sơ cũng có ba, bốn đám cưới mời, tiền mừng ít ra cũng phải bốn, năm trăm.

Ý kiến của bạn về vấn đề này xin gửi đến Diễn đàn Dân trí qua địa chỉ e-mail:[email protected]

Là người dân nông thôn, làm nông nghiệp, tưởng như thế cũng đã “nặng gánh” lắm rồi, nhưng xem ra so với nhiều người - những bạn bè là công chức - có nhiều mối quan hệ trên dưới, dọc ngang, số lần được mời đi dự đám cưới và số tiền mừng lên tới hàng triệu mỗi tháng. Xem như vậy mới biết “hủ tục” cưới xin ngày nay đâu có thua kém thời xưa, mà ngược lại còn tốn kém hơn vì cái mốt đua đòi hiện đại không những làm khổ cho “người trong cuộc” mà còn làm phiều lụy nhiều người khác vì cái trò “trả nợ miệng” và các mối “quan hệ”.

Ông hàng xóm của tôi phàn nàn: Chỉ là chỗ quen biết sơ sơ thôi, cũng được ông nọ, bà kia "trân trọng kính mời". Không đi thì ngại bị mang tiếng là ít giao lưu, quan hệ, hoặc ngại làm "xấu mặt người mời". Ði thì phải có tiền. Người có thu nhập còn đỡ, nhiều người lương thấp mà cứ phải tiếp tục “giao lưu” theo kiểu như vậy thì mệt quá.

Ở quê tôi bây giờ nhà hàng mọc lên như nấm. Các “chiêu” cạnh tranh được khai thác triệt để, quảng cáo ồn ã... Có thời điểm “mùa” cưới, khách hàng phải đăng ký xếp hàng trước hàng tháng, nhất là những nhà hàng, khách sạn có thương hiệu. Người nhà quê nghe đến giá tiền mỗi mâm cỗ có giá bạc triệu, xót lắm, vì thấy quá lãng phí.

Nếu cứ tính “lượng cỗ” ấy, so với cỗ ở quê - có giá thành đắt hơn gấp đôi. Nhiều đám đạt "kỷ lục" tới vài trăm mâm, chi phí tới hàng trăm triệu đồng. Ăn cỗ cưới thời nay, “uống nhiều hơn ăn”, “thưởng thức bằng mắt” là chính, nên hầu như cỗ các đám cưới đều dư thừa, lãng phí. Mỗi lần đi ăn cưới về, mẹ tôi lại chép miệng: “Nhiều người hiện còn đang thiếu đói, không có mà ăn, thấy thức ăn thừa thãi ở đám cưới, mẹ nhìn thấy mà tiếc quá. Thật là kẻ ăn không hết người lần chẳng ra!”

Cỗ cưới ngày càng đua theo “mốt” với các món ăn mới lạ. Số tiền mừng, vì thế, cứ nâng dần lên theo giá thị trường: 50 nghìn đồng rồi đến 100 nghìn đồng, 200 nghìn đồng, 500 nghìn đồng… và rồi sẽ còn leo thang đến mức nào nữa đây?

Nhân dịp cưới xin con cái, cũng không ít người có chức có quyền muốn thông qua việc vui của con để thu lời “chính đáng!”. Mỗi đám cưới lớn đến vài trăm mâm cỗ thì số tiền thu về lên đến hàng trăm triệu đồng !

Lại có chuyện muốn “bằng anh bằng chị”, nhiều gia đình thuộc diện khó khăn, thậm chí không lo nổi việc học hành cho con cái, nhưng khi cưới vợ cho con, cũng gắng đầu tư “hết số” với năm, bảy chục mâm, chẳng chịu thua kém ai. Rồi sau đó nai lưng ra trả nợ hàng năm trời chưa hết.

Có đám cưới con của một vài công chức địa phương và một số người có “máu mặt”, tuy không “quy mô” như thị thành, nhưng giờ cũng lên tới hàng trăm mâm. Nhà không có sân rộng thì có thể nhờ cả sân nhà hàng xóm, hoặc mời theo giờ để đón khách. Bên cạnh các dịch vụ chụp ảnh, thuê váy áo, trang điểm cho cô dâu chú rể, có đám cưới còn thuê cả dịch vụ nấu ăn ở phố về.

Từ chuyện cưới xin, nhiều gia đình lâm vào tình trạng bố mẹ và con cái to tiếng với nhau vì tiền mừng cưới của con - bố mẹ đã cầm và chi tiêu hết rồi - giờ “cột” trách nhiệm cho con cái phải “đi trả nợ” dài dài.

Tôi có một đứa cháu lớn chuẩn bị lập gia đình, vợ chồng chú em tôi (cả hai đều là công chức ở tỉnh) mời mẹ cùng chú ruột và vợ chồng tôi ra chơi để bàn việc cưới hỏi cho cháu. Danh sách dự kiến mời khách dự cưới của vợ chồng chú em tôi, ngoài người thân “ba bề bốn bên”, cùng hai bên nội ngoại của bố mẹ, thông gia rồi khách cơ quan đoàn thể, bè bạn của vợ, của chồng, của con... lại còn bao nhiêu chỗ quan hệ, giao lưu khác... dài dằng dặc, vị chi có đến bảy trăm người - tương ứng với hơn một trăm mâm cỗ cưới.

Mẹ tôi ngồi nghe rồi lên tiếng:

- Không muốn là người bảo thủ, lạc hậu, nhưng theo mẹ thế này, những chỗ thật thân tình thì các con hãy mời. Người ở xa, già cả, đau yếu, thay cho việc mời, các con nên “báo hỷ” cho chu đáo. Những bậc ngang hàng với bố mẹ đến dự, các con lưu ý đón tiếp cho phải phép. Chớ vì việc vui của mình mà để mọi người phải nghĩ ngợi, lo lắng về độ đường, thái độ cư xử cũng như tiền bạc. Theo mẹ, cốt làm cho đúng tập tục, lễ nghi sao cho trang trọng, vui vẻ, tiết kiệm. Chuyện trăm năm chớ nên ganh đua và đừng để mang tiếng lấy việc vui để trục lợi.

Vợ chú em tôi chừng như còn băn khoăn:

- Chúng con thấy khó quá, vì có nhiều chỗ chúng con ngại từ chối. Trước đây họ đã mời mình rồi, vả lại lo các cháu tủi vì thua chị kém em.

Mẹ tôi ôn tồn :

- Khó hay không là ở các con, nếu cứ mời dự cưới theo kiểu “đòi nợ” như vậy thì mẹ cũng chịu. Các con có dứt khoát bỏ qua những điều băn khoăn ấy thì hãy mời mẹ, chú và anh chị ra đến đây để bàn, không thì tùy các con vậy ?

Ông chú tôi đỡ lời:

- Mẹ cháu nói đúng đấy ! Chú cũng tán thành việc cưới hỏi cho đúng tập tục, tập quán, thực hiện theo nếp sống văn hóa mới, như ý kiến của mẹ cháu, không để việc vui trở thành nỗi lo lắng, gánh nặng cho mỗi gia đình và mọi người.

Tôi vỗ vai đứa cháu (sắp làm rể):

- Ý kiến bà và ông bàn, cháu thấy thế nào ?

Chàng rể tương lai khôn ngoan:

- Vâng, cháu cũng thấy các cụ dạy là đúng, tổ chức cưới "to" vừa phải thôi... cho hai gia đình đỡ phải lo lắng nhiều.

Qua việc cưới hỏi của đứa cháu, tôi cứ suy nghĩ, ngẫm ngợi về những lời khuyên chí lý của mẹ tôi và nhận thấy, việc cưới hỏi thời bây giờ có điều còn lạc hậu hơn... so với thời “các cụ ngày trước”. Vẫn biết những gương sáng thực hiện nếp sống mới trong việc cưới xin đã thấy xuất hiện nơi này nơi nọ, nhưng chưa nhiều, chưa tạo thành “dòng chảy"” phổ biến trong xã hội ngày nay.

Phóng sự xã hội : BÂY GIỜ ĐÁM CƯỚI Ở QUÊ.

" Không ai chê đám cưới, chẳng ai cười đám ma", đó là câu nói dân gian được truyền tụng một thời ở quê tôi. Câu nói ấy có nghĩa: đám cưới hay đám ma đều tùy gia phong kiệm mà làm, cốt sao giữ lấy đạo nhà là được. Mặc dù cũng lắm thủ tục phiền hà trong cưới xin, nhưng chẳng qua là do "xưa bày nay làm", thuần túy mang tính lễ giáo phong kiến chứ hoàn toàn không chút vụ lợi nào cả.

   Sau ngày giải phóng, những thủ tục phiền hà ấy được dần dần loại bỏ, thay vào đó là việc cưới hỏi theo nếp sống mới hoặc nửa cũ nửa mới được thịnh hành một thời. Nhưng...trong những năm gần đây ở quê tôi người ta thi nhau "đổi mới" đám cưới, biến đám cưới thành hình thức kinh doanh và rõ ràng đang tạo nên một hủ tục mới.

    Từ những đám cưới mang tính vụ lợi...

  Đám cưới ở quê bây giờ khác trước nhiều lắm. Mỗi nhà bày biện việc cưới hỏi theo một cách riêng, không ai giống ai cả. Nhà giàu thì tổ chức cưới to đã đành. Nhà nghèo cũng "rán sành ra mỡ" bởi không chịu thua. Phàm đã mang thân đi ăn cỗ cưới nhà người thì mình phải làm sao không hơn cũng bằng mới chịu. "Gà tức nhau tiếng gáy" mà!

  Anh H gia cảnh quanh năm thiếu trước hụt sau, nhưng lo đám cưới cho con gái  đầu lòng vẫn cố chạy vạy thuê cho được nhà hàng về nấu nướng, mời đến hàng trăm khách, rước cho được cả ban nhạc trên thị trấn về xập xình làm náo động thôn xóm mấy ngày liền. Dự đám cưới xong, mấy ngày sau gặp anh tôi hỏi:"Lo cho cháu vừa rồi tốn kém thế nào?". Anh H đáp gọn lỏn:"huề vốn!". Nói " huề vốn" là cách nói, chứ ai mà biết được " đèn nhà ai ...". Mà cũng phải đạo thôi, có ai đi dự đám cưới mà không mang quà biếu bao giờ! Mới đây nhà chú T  cũng lo cưới vợ cho cậu quí tử duy nhất. Chú bảo:" Bên nhà gái họ tổ chức to lắm. Không lẽ nhà trai mình lép để người ta cười cho à!". Thế là chú đi vay để lo cưới vợ cho con. Cũng cho in thiệp mời loại đắt tiền. Cũng đủ hạng khách mời trong họ ngoài làng, quen thân, quen sơ đều mời tất. Cũng đặt cỗ cưới ở nhà hàng có tiếng trong vùng đem về. Cũng bê một ban nhạc đủ kèn trống từ trên thành phố về làm rùm beng nhức óc điếc tai. Khách đến dự tiệc nườm nượp từ sáng đến tối vẫn chưa xong. Xong lễ cưới, gặp ai trong làng chú cũng cười hả hê:" Việc cưới hỏi đời lần, lo cho con để nó nở mặt nở mày với chúng bạn, rứa là mình sướng cái bụng lắm rồi!". Cả làng ai cũng kháo nhau chú T lo cưới cho con bỏ ra một mà thu vô gấp đôi gấp ba. Bởi sau đó chú trả hết nợ, anh con trai sắm được xe xịn chở vợ chạy khắp vùng đã làm cho những cu cậu ở tuổi cập kê lấy đó làm điều mơ ước của mình.

...Đến việc đi ăn cỗ cưới và làm" nghĩa vụ" chẳng có ý nghĩa nào cả.

  Đám cưới ở quê hiện nay xem ra không thua kém ở thành thị. Có chăng ở thành thị thì tổ chức tại nhà hàng sang trọng, còn ở quê thì nống sân che rạp mà thôi. Khách mời dự cưới cũng đủ các thứ bậc trong xã hội: bạn bè gần xa, quan chức trên dưới, trong họ ngoài làng, có mời qua  mời lại...làm cho đám cưới ở quê có lắm nơi lên đến năm, bảy chục mâm là điều không phải hiếm. Có không ít đám cưới con các quan chức hàng xã ,hàng huyện mời tới cả trên ngàn khách dự là lẽ thường. Có những đám cưới mà khách mời quá đông trong khi nhà cửa quá chật chội nên gia chủ mời khách từng thời gian khác nhau. Vì tiếp khách nhiều suất nên hễ khách đến giờ nào, cứ đủ 10 người là ngồi vào 1 mâm. Gia chủ có đôi lời mộc mạc xong là nâng ly, cầm đũa. Những vị nào đến sau chịu khó ngồi chờ một chút, khi đủ 10 người mới ngồi mâm tiếp . Cứ thế , ai ăn xong trước về trước, ai ăn xong sau về sau, như kiểu hẹn nhau vào quán ăn vậy. Chủ yếu là đến ăn cỗ, trao phong bì xong thì ra về., chứ chẳng thấy mặt mũi cô dâu chú rể ở đâu cả.

  Cũng có đám cưới chỉ mời khách dự tiệc một lần. Nhưng vì khách mời quá đông, nên khi đến giờ, khách kéo tới chật cả trong nhà ngoài ngõ, làm cho gia chủ cũng chỉ kip chào hỏi qua loa thôi. Khách đến dự chen nhau tìm chỗ ngồi sao cho có người quen để vừa ăn vừa trò chuyện. Chú rể mặc com lê màu sáng, còn cô dâu thì súng sính bộ váy đầm nhiều tầng, đầu đội vương miện, mi mắt đính kim tuyến lóng lánh, tay ôm hoa. Sau lời "tuyên bố" của MC, cô dâu chú rể cùng hai bên song thân ra mắt quan khách, rồi lời phát biểu của bậc sinh thành, sau đó rượu hồng được rót tràn ly,thay pháo là hai chùm bong bóng nổ lóc bóc nghe cũng vui tai.Cô dâu chú rể đến bàn tiệc nào là ở đó có quay phim, chụp ảnh sáng lóa. Trước đây khách mời trao phong bì tận tay cô dâu chú rể, còn bây giờ đã có thùng thư hình trái tim, cứ nhớ bỏ bì vào cho yên tâm rồi hãy ngồi tiệc.Cỗ cưới thì đã có bản thực đơn trên bàn, thực khách cứ đọc để "điều chỉnh hành vi"dự tiệc của mình sao cho nó hợp tình hợp lý.

   Cần có mẫu hình như thế nào cho đám cưới?

  Ai cũng rõ hiện nay ở phố cũng như ở quê có nhiều đám cưới mang tính kinh doanh rõ ràng. Báo chí cũng đã lên tiếng phê phán, dư luận xã hội thì đàm tiếu...Nhưng tất cả chỉ là "nước đổ đầu vịt".

  Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Trong đó phê phán :" Nhiều gia đình, trong đó có những cán bộ có chức có quyền, vì động cơ hiếu danh, vụ lợi, tổ chức đám cưới, đám tang linh đình, phô trương, có những trường hợp thực chất là "bán cỗ thu tiền" ". Chỉ thị ra đời nhiều năm nay, gần đây Thủ tướng cũng đã có qui định cụ thể về việc tổ chức đám cưới. Song nhìn chung không mấy địa phương, đơn vị chấp hành nghiêm túc. Nhiều nơi cấp ủy, chính quyền, mặt trận, mà nhất là các đoàn thể còn đứng ngoài cuộc. Xin đơn cử trường hợp ông M ở thị trấn P là cán bộ đã về hưu, hôm chuẩn bị đám cưới cho con trai, ông nói tỉnh bơ :" Cả đời mình đi dự nhà người ta, chi ra không đếm xuể, nay mình mắc chi...".  Có người giải thích cho ông rằng đã có chủ trương của trên không được tổ chức cưới theo kiểu "bán cỗ thu tiền", nhưng rồi ông cứ phớt lờ và tổ chức cưới linh đình không thua kém ai. Ở quê, xem ra thật khổ tâm cho người nông dân, quanh năm tay lấm chân bùn làm ra đồng tiền bát gạo phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, thế mà cứ đi dự đám cưới đều đều, tiền chi ra đâu phải bạc chục mà bạc trăm, kiếm đâu ra?...Cũng đành buột bụng thắt lưng, kêu trời không thấu!.

  Qua các đám cưới bây giờ ở quê càng cho thấy một hủ tục mới nẩy sinh trái với thuần phong mỹ tục ở làng quê xưa nay, bất chấp sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành và quản lý của Nhà nước và vai trò vận động của các đoàn thể quần chúng. Đã là chủ trương của Đảng và Chính phủ sao lại làm nửa vời? Thậm chí buông lỏng?...Sao không đúc rút kinh nghiệm? Trách nhiệm này thuộc về ai? Cấp nào "đánh trống bỏ dùi" để dẫn đến thực trạng hủ tục nói trên tràn lan hiện nay?...

 Ôi, " Biết rồi khổ quá nói mãi", nhưng vẫn phải nói, không "thấu" được bề dọc thì cũng "thấm" được bề ngang, chứ sao!

 Để không bị chê "đánh trống bỏ dùi",  một lần nữa các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể quần chúng đều phải đồng loạt "ra tay" mới tạo được chuyển biến thật sự. Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Người cao tuổi...phải "vào cuộc" giúp các gia đình thực hiện một "hình mẫu" đám cưới theo nếp sống mới. Đoàn Thanh niên nên chăng vận động những cặp uyên ương đang rục rịch  trong mùa cưới hãy cùng nhau chọn "ngày lành tháng tốt" để tổ chức một đám cưới tập thể theo nếp sống mới như một số nước đã làm, dần tạo nên một tập quán mới trong việc cưới hỏi thời văn minh hiện đại. Và, chỉ có "xây" được như thế mới "chống" những hủ tục mới đang ngày càng phát sinh như đã nêu trên.

Về quê ăn cỗ cưới

Cập nhật:

//

26/9/2008 11:04

Ở nông thôn, đám cưới thực sự là một ngày vui chung của cả làng. Trước đây, tiệc cưới thường do họ hàng làng xóm đến lo cùng gia chủ. Ngày nay, do nhu cầu nâng cao nên dịch vụ nấu cỗ thuê dần thế chỗ...

Theo chân một thợ chuyên nấu cỗ, tôi được tiếp cận với hậu trường các đám cưới và không khỏi giật mình khi được tận mắt chứng kiến cảnh chuẩn bị nấu nướng từ A đến Z...

Anh Phạm Công Hà ở xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo là người cho tôi "theo chân" tới ba đám cưới ở các xã Liên Am, Cao Minh và Nam Am có thống kê: "Một đám cưới bây giờ ít nhất cũng phải 50 mâm. Nhà nào có mối quan hệ kha khá thì 80 còn rộng là 120 mâm và chia ra ăn hai ngày.

Để chuẩn bị kịp cho việc dọn cỗ vào 9h sáng thì bắt buộc phải chế biến thực phẩm từ tối hôm trước và chuẩn bị nấu nướng từ lúc 6-7h sáng hôm sau". Như vậy, lễ cưới ở quê thường kéo dài hai ngày, nhà nào cỗ to thì phải ba ngày. Trước ngày cưới chính, ban "hậu cần" của gia chủ tự lo việc chuẩn bị thực phẩm và thường quây một khu vực phía sau nhà, gần với nguồn nước để làm địa điểm giết mổ kiêm nấu nướng. Chính tại "điểm nóng" này, nguy cơ mất an toàn vệ sinh thực phẩm bắt đầu xuất hiện.

Nguy cơ đầu tiên đến từ việc sử dụng nguồn nước. Do lượng thực phẩm và bát đũa sử dụng cho hàng trăm người ăn cùng một lúc là rất lớn nên nhà nào có ao liền được sử dụng "hết công suất": gà vừa thịt xong thì đến rửa rau, rau xong thì đến lượt bát đũa thế chỗ.

Vì nguồn nước dùng chung như vậy nên việc thực phẩm và đồ dùng bị nhiễm vi khuẩn, vi trùng là đương nhiên. Đáng lo ngại hơn là ta không thể nhận ra vi khuẩn, vi trùng bằng mắt thường nên rau sống cứ thế "bay" thẳng lên mâm cỗ còn việc tráng rửa và lau bát đũa thường được làm qua loa cho kịp giờ ăn.

Nguy cơ thứ hai đến từ khâu bảo quản thực phẩm - khâu do các thợ nấu cỗ đảm nhiệm. Với cỗ cưới quê, thực đơn có thể thay đổi tuỳ theo yêu cầu của gia chủ nhưng một số món "chủ công" thường có là gà luộc, bò luộc, giò, nộm và xôi gấc.

Các món ăn này đều được chế biến và "trưng bày một cách tự nhiên" bảy tiếng đồng hồ mà không có một phương tiện bảo quản nào

Gần tới giờ ăn, hàng chục rổ rau, đĩa thịt sau khi được "bốc" bằng tay từ mẹt lên sẽ được bày trên chạn. Chạn ở đây là các giá gỗ hoặc sắt từ 5 - 7 tầng dựng ngay nơi chế biến thức ăn để tiện việc bày biện. Tầng thấp nhất của chạn chỉ cách mặt đất vài cm và không hề có lồng bàn để đậy nên khó tránh khỏi việc bị bụi bẩn dính vào.

Càng những mâm dọn ra sau càng ít món nóng. Những món còn dôi dư ở mâm trước được dồn lại sang đĩa mới, nếu khách đến nhiều, không kịp hâm lại nóng thì dọn lên luôn cho nhanh gọn. Thế là có những đĩa thức ăn từ mâm buổi sáng lại "trình diện" lên mâm gần trưa...

Khi có ý định viết bài này, tôi dành thời gian tìm hiểu về "10 nguyên tắc chung nhất của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về vệ sinh an toàn thực phẩm" thì thấy cỗ cưới quê vi phạm tới 8 nguyên tắc về sử dụng nguồn nước, bảo quản và chế biến thức ăn, chỉ có 2 nguyên tắc về thực phẩm tươi sống và nấu chín kĩ là được thực hiện đúng.

Sự thật là các nhóm thợ chuyên nấu cỗ thuê chưa bao giờ có kiến thức đầy đủ về an toàn thực phẩm hay được học qua trường lớp nấu ăn mà thường do có kinh nghiệm, tay nghề nên kết hợp nhau thành nhóm để hành nghề.

Về phía khách khứa, đến dự chủ yếu là người làng nên nếu ai có biết quy trình nấu ăn cũng xuề xoà cho qua vì "lần trước nhà mình làm cỗ có khác gì". Khi đề cập đến việc mất vệ sinh an toàn thực phẩm dễ dẫn đến dịch tiêu chảy, người dân đều biết và cũng quan tâm nhưng hình như ai cũng nghĩ: "dịch ở đâu đâu chứ làng mình thì chưa thấy đâu, cứ… vô tư đi".

Thời điểm này, ở Vĩnh Bảo đã có gần chục bệnh nhân nhiễm phẩy khuẩn tả. Vì thế, khi dịch tiêu chảy cấp "đến hẹn lại lên" và khi mùa cưới còn dài, mọi người cần nâng cao ý thức giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm hơn nữa bởi "phòng bệnh" bao giờ cũng tốt hơn "chữa bệnh".

Ngày nay, mỗi khi dự tiệc cưới ở Sài Gòn hay nói rộng ra là cả vùng Nam Bộ, ta dễ nhận thấy có sự giống nhau về các món ăn gần như là một công thức với các món tuần tự được dọn lên bàn tiệc, chỉ cần thấy vài món đầu tiên là thực khách có thể đoán được bốn năm món còn lại là những gì.

các nhà hàng sang trọng, món thứ nhất chắc chắn sẽ là một chén súp vi cá (thường là giả vi cá cho có vẻ) hay súp măng tây cua. Còn các tiệc bình thường cũng phải có một loại súp khai vị như thế, tuy chất liệu có thể thấp hơn một chút: vi cá, bào ngư, cua biển được thay bằng lòng trứng gà, măng tre xắt nhuyễn, đôi khi có cả trứng cút. Đã gọi là súp tất nhiên phải loãng, nhưng không loãng như súp của người phương Tây, súp ta luôn pha thêm bột năng, bột bắp sền sệt. Bởi vậy nhìn trong chén súp ta thấy như có những áng mây hòa quyện trên bầu trời, hay rồng - phượng giao nhau (một chút ý tưởng lãng mạn). Đó là lý do để người chế biến thức ăn gọi súp khai vị là món Phong vân hội tụ hoặc Loan phượng hòa mình. Mục đích là chúc mừng cho tân lang tân giai nhân.

Món kế tiếp nhất thiết phải là món ăn khô (không có nước) và thường được gọi là bốn món ăn chơi. Tuy bốn món nhưng không dọn ở bốn đĩa khác nhau, mà bốn món dọn chung một đĩa. Ngày xưa khi còn xính dùng chữ Hán thì món này có tên là tứ bửu (bốn thứ ngon), gồm: gà rút xương sắt lát, chả giò tôm cua, càng cua bách hoa, một món thịt nguội (sau này có khi các đầu bếp giản tiện hóa bằng một món duy nhất trong số bốn món kể trên). Ăn chơi, tức dạng khai vị nghĩa là đi cùng với chén súp, món tứ bửu được dọn trong lúc chờ các món chính của bữa tiệc cưới.

Món chính ngày nay thường là gà quay, heo sữa quay hay cá chẽm, cá lóc hấp, cá tai tượng chiên xù hoặc trưng theo nhiều kiểu cách khác nhau. Nhưng khoảng hơn nửa thế kỷ về trước, ở vùng đồng bằng sông Cửu Long , món chính thịnh hành nhất trong tiệc cưới có cái tên gọi Hán Việt khá cầu kỳ Giang Nam dã hạc và được coi là một món ăn quý, với cách chế biến hoàn toàn theo phong cách người Việt phương Nam. Bây giờ món này hầu như không còn hiện diện trên bàn tiệc, nhất là tiệc cưới, tuy nhiên đó là một món ăn khá độc đáo, thiết nghĩ nên được phục hồi.

Cái tên Giang Nam dã hạc - Nghĩa là con chim hạc đậu trên cánh đồng Giang Nam (tỉnh ở phía Nam song Dương Tử của Trung Quốc, nơi có đồng ruộng phì nhiêu giống miền Tây Nam Bộ của nước ta) – còn được ông cha ta gọi là Kim kê bát bửu hay Phượng Hoàng bát trân (nghĩa là con gà vàng hay con phượng hoàng với tám món quý). Nội cái tên nghe đã thấy “hoành tráng”, mà hoành tráng thật, trên chiếc đĩa bàn là một con gà mái tơ được quay vàng, dưới bụng gà là hàng tá những thức ăn đi kèm (bát bửu hay bát trân – tám món ngon, quý): trứng, tôm càng, cua biển, óc heo, ruột gan heo, chim sẻ lạp xưởng, thịt khô, nấm măng tre; rồi trên lớp măng là một lớp gồm tám quả trứng (có thể hơn, tùy theo số thực khách trong mỗi bàn tiệc) gọi là trứng non, được làm bằng hợp chất gồm thịt sấy khô băm nhuyễn, lạp xưởng xắt hạt lựu, thịt cua biển xé nhỏ, củ hành, nấm rơm hoặc nấm mèo, thêm gia vị vừa ăn rồi vo viên thành hình quả trứng gà nhỏ, được quấn chung quanh một đoạn ruột heo làm sạch, xong đem chiên vàng. Rồi lại một lớp măng, một lớp trứng nữa nhưng lần này là trứng già, được làm bằng tôm càng băm nhuyễn trộn với củ năng xắt nhỏ và bột mỳ, vo viên và cũng quấn ruột heo, đem chiên giòn. Lại một lớp măng, một lớp trứng nữa, nhưng lần này là trứng lộn, làm bằng gan heo bằm nhỏ trộn cùng đậu đen, mè, tương hột, nước cốt dừa, lá chanh hoặc lá rau răm và óc heo, cũng vo viên và cũng cuốn ruột heo rồi đem chiên vàng. Đã có trứng lộn ắt phải có trứng nở con. Lớp trứng trên cùng chính là trứng nở, hay trứng khẻ mỏ mà để tạo thứ trứng này người ta lấy vỏ trứng đã rưa sạch, mở một cái lỗ vừa đủ cho vào một con chim sẻ hay chim dồng dộc đã chiên vàng. Trứng khẻ mỏ cũng ăn kèm với măng tre.

Tóm lại, con gà rôti bên trên được đặt theo tư thế xòe cánh trùm hết số trứng bên dưới, giống như đang ấp trứng. Điều này vừa ngụ ý đã có đám cưới ắt sẽ sinh con, mà số trứng nhiều như vậy là biểu trưng cho hạnh phúc sum vầy và sung túc. Một lời chúc phúc quá tốt đẹp!

Khi ăn, con gà (đã được chặt ra từng miếng nhỏ và ghim dính lại với nhau bằng tăm) được gắp từng miếng cho đến hết; tiếp theo là từng món trứng, mỗi người một qủa. Do được ăn kèm với măng tre luộc nên không ngán. Sau cùng là món cơm chiên, Kim kê bát bửu đúng nghĩa là món ăn chính cho bữa tiệc vì gồm luôn cơm trong đó, thay vì món cơm chiên hay lẩu đi kèm mì như sau này. Dọn cùng lúc với món kim kê thường là một món có nước, hoặc là cù lao (sau này gọi là lẩu) hoặc giò heo hầm củ cải mặn hay hầm ngũ quả (năm loại quả, củ: táo tàu, hạt sen, củ năng, bạch quả, hạt kê hoặc một quả gì khác thay thế).

Kết thúc bữa tiệc cưới là món tráng miệng, cũng giống như ngày nay, gồm bánh ngọt hoặc trái cây.

Đặc biệt, có những điều kiêng kị trong thực đơn tiệc cưới của người Nam bộ ngày xưa, mà bất cứ ai dù giàu sang dù bần hàn đều phải nhớ tránh: các món canh chua, canh đắng và món mắm. Dù miền Nam là nơi sản sinh ra các loại mắm cá đồng với những thứ chế biến từ mắm tuyệt ngon như mắm ruột, mắm kho và rau (ngày nay là lẩu mắm), nhưng không bao giờ mắm có trong thực đơn tiệc cưới. Lý do đơn giản: ngày cưới người ta kỵ những thứ gì gợi lên đắng cay, chua chát và hôi hám (mắm dù ngon nhưng vẫn là món nặng mùi). Tương tự, cá lóc nướng trui dù là một trong những đặc sản chỉ miền Nam mới có, nhưng cũng không bao giờ có mặt trong bữa tiệc, cưới hỏi, trong khi cá hấp thì có. Người ta kiêng bởi hình ảnh con cá nướng trui tượng trưng cho sự cháy xém đen đủi.

Ngày xưa, nhà giàu cỡ nào thì trong tiệc cưới – thường nấu tại nhà – cũng phải có những món kể trên, chủ nhân muốn biểu tỏ sự giàu sang, sung túc của mình thì trên những món đắt tiền khác. Ngày nay, tiệc cưới đa phần đặt ở nhà hàng, các món ăn có nhiều thay đổi, tuy nhiên về trình tự dọn ăn thì chẳng khác xưa là mấy.

Không có vua

Nguyễn Huy Thiệp

GIA CẢNH

Cô Sinh về làm dâu nhà lão Kiền đã mấy năm nay. Khi về, cô Sinh mang theo bốn bộ quần áo mỏng, một áo dạ mặc rét, hai áo len, một vỏ chăn hoa, bốn cái xoong nhôm một cái xoong bột, một cái phích hai lít rưỡi, một cái chậu tắm, một tá khăn bông, tóm lại là một đống tiền, nói như bà mẹ cô Sinh làm nghề buôn gạo ở chợ Xanh.

Cậu Cấn chồng cô Sinh là thương binh. Họ quen biết nhau trong dịp tình cờ. Hai người cùng trú dưới hiên nhà trong một trận mưa. Chuyện này đã có người viết (thế mới biết nhà văn ở ta xông xáo!) Theo đồn đại, đại để đấy là một “xen” (scène) về tình yêu giản dị, trong sáng, không vụ lợi cuộc sống là duy vật biện chứng, hài hòa, đẹp, đáng yêu....

Cấn là con trưởng. Dưới Cấn có bốn em trai, chênh nhau một, hai tuổi. Đoài là công chức ngành giáo dục, Khiêm là nhân viên lò mổ thuộc Công ty thực phẩm, Khảm là sinh viên đại học, Tốn, con út bị bệnh thần kinh, người teo tóp, dị dạng.

Nhà lão Kiền sáu người. Toàn đàn ông. Bà Nhớn, vợ lão Kiền, mất đã mười một năm, lúc đó lão Kiền năm mươi ba tuổi, cái tuổi oái ăm, lấy vợ nữa cùng dở, không lấy vợ nừa cũng dở. Lão Kiền chọn cái dở ít hơn, ở vậy... Nhà lão Kiền trông ra mặt đường. Lão làm nghề chữa xe đạp. Cấn làm nghề cắt tóc (khi mới quen Sinh, anh nói làm nghề dịch vụ). Được tiếp thu một nền giáo dục gia đình bình dân (cha dạy học, mẹ buôn gạo), Sinh không phải là người có nhiều định kiến hẹp hòi. Hơn nữa, trong tính cách, thậm chí ở cô có phần phóng túng. Trình độ văn hóa hạn chế (Sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở) nhưng điều đó không can hệ gì. Với phụ nữ, học vấn giữ vai trò thứ yếu tạo nên sức mạnh thần thánh ở họ, điều này không phải chứng minh. Về làm dâu, lúc đầu Sinh khá ngỡ ngàng với không khí tự do trong nhà. ăn cơm chẳng ai mời ai, sáu người đàn ông, ai cũng cởi trần, mặc quần đùi cười nói thản nhiên, chan chan húp húp như rồng cuốn. Sinh phục vụ cơm nước ba lần một ngày. Được cái việc nặng Sinh không phải làm, có Tốn giúp đỡ. Tốn suốt ngày lau nhà, giặt giũ. Nó không có khả năng làm việc gì khác. Cứ cái xô nhựa với tấm giẻ lau, khoảng vài tiếng nó lại lau nhà một lần. Nó không chịu được bẩn. Quần áo ai thay ra, nó cũng giặt mà giặt rất sạch, phơi phóng cẩn thận. Tốn ít nói, nếu ai hỏi gì, chỉ cười bẽn lẽn, trả lời nhát gừng. Vừa làm, nó vừa ti tỉ hát, không hiểu học được khi nào bài hát của bọn bợm rượu:

A ha... Không có vua

Sớm đến chiều say sưa

Tháng với ngày thoi đưa

Tớ với mình dây dưa

Tình với tính hay chưa

Tốn hay giúp đỡ Sinh, nó cư xử với Sinh bằng lòng tốt vô bờ bến. Những ý thích nhỏ nhặt của cô, nó thực hiện với lòng tận tụy cầm thú. Nửa đêm, nếu Sinh buột miệng "có ô mai thì thích" là sẽ có ngay ô mai. Không biết Tốn lấy tiền ở đâu, đi mua lúc nào, chuyện này chịu.

Ở trong nhà Sinh hãi nhất lão Kiền, sau đến Khiêm. Lão Kiền suốt ngày cau có. Mọi người không ai thích lão. Lão kiếm ra tiền, lão cãi nhau với mọi người như cơm bữa, lời lẽ độc địa. Như với Đoài, lão bảo: "Mày ấy à? Công chức gì mặt mày? Lười như hủi, chữ tác chữ tộ không biết, chỉ giỏi đục khoét". Hay với Khảm, cậu sinh viên năm thứ hai: "Đồ ruồi nhặng! Học với chả hành! Người ta dạy dỗ mày cũng phí cơm toi”. Với Cấn, lão có đỡ hơn, thỉnh thoảng cũng khen, nhưng lời khen lại quá lời chửi: "Hay thật, cái nghề cạo râu ngoáy tai của mày, nhục thì nhục nhưng hái ra tiền". Riêng với Khiêm, lão ít gây sự.

Khiêm to lớn, lừng lững, tính nóng nẩy. Hàng ngày đi làm về (Khiêm hay làm ca đêm), Khiêm đều mang về khi cân thịt, khi bộ lòng. ít hôm Khiêm về không. Đoài hay nói (cũng là nói sau lưng Khiêm): "Trước sau cũng vào tù thôi. Cái thằng ấy tôi đã thấy trước tương lai của nó. Ít cũng sáu năm tù. Kể cũng lạ. Một năm nó ăn cắp đến nửa tấn thịt mà người ta để yên cho nó".

Khiêm có vẻ khinh hai ông anh. Với Cấn, nếu Khiêm cắt tóc bao giờ Khiêm cũng trả tiền. Khiêm bảo: "Anh đừng làm bộ với tôi. Tôi bắt anh phục vụ tôi có quyền trả tiền”. Cấn nhăn nhó: "Chú làm anh như người ngoài ấy". Khiêm bảo: "Không phải người ngoài, anh không nhận thì thôi, tôi đi hàng khác, tôi bắt thằng khác ngoáy tai cho tôi... Kìa, cẩn thận con dao. Đừng cạo của tôi bộ ria mép đấy". Cấn chẳng biết trả lời ra sao, phải nhận tiền. Sinh bảo chồng: "Anh nhận tiền chú ấy khinh cho". Cấn bảo: "Tôi là anh cả, nó khinh tôi thế nào được".

Với Đoài, Khiêm coi như kẻ thù. Nhưng Đoài khôn, Khiêm không nói gì được. Khi đi làm, Đoài bao giờ cũng lấy cơm vào cặp lồng, cho vào mấy miếng thịt, mấy miếng lòng. Đoài bảo: "Có chút đạm này là đủ hai nghìn calo để làm việc cả ngày đây Cũng là nhờ chú Khiêm nhà mình vừa khéo vừa nhanh". Khiêm hỏi: “Khéo với nhanh cái gì?" Đoài bảo: "Ấy là tôi nói chú khéo xử sự với người, mà nhanh xử sự với lợn”. Khiêm tức nghẹn họng, sùi bọt mép.

Sinh lọt vào gia đình nhà này tựa như cơn mưa rơi xuống đất nẻ. Không khí dịu lại. Vài tháng đầu, lão Kiền không gây sự gì với con cái. Cấn là người hạnh phúc nhất. Anh cầm kéo cắt tanh tách, đối xử với khách hết sức nhã nhặn. Cấn quyết định nâng giá cắt tóc từ ba chục lên năm chục, ngoáy tai từ một chục lên hai chục, gội đầu từ hai chục lên ba chục, cạo râu từ một chục lên hai chục. Doanh thu tăng vọt. Mức chi tiêu gia đình chủ yếu do Cấn cầm cân nảy mực có phần rộng rãi. Đoài thấy mức chi tiêu tăng lên, ban đầu hoảng sợ nhưng không thấy ai hỏi han gì về khoản đóng góp thường lệ của mình nên bình tâm hơn. Còn Khiêm, vẫn y như tháng trước, tháng trước nữa, không chi ra một hào nhưng đều đặn góp vào mỗi hôm một cỗ lòng hoặc một hai cân thịt. Ăn lòng lợn hơn chục hôm liền, Sinh phát sợ, bảo chồng: "Mai chú Khiêm có mang lòng về thì tôi đưa ra chợ để đổi thứ khác đấy". Cấn cười, mắt ve vuốt thân hình mềm mại của vợ, bảo rằng: "Tùy ái khanh".

II. BUỔI SÁNG

Thường thường, ở nhà thì Khiêm là người hay dậy sớm nhất. Khiêm để đồng hồ báo thức một giờ sáng. Khi chuông reo, Khiêm dậy ngay, đánh răng súc miệng rồi dắt xe đi. Tốn ra khóa cửa. Đoài bị mất ngủ, càu nhàu: "Thật là giờ làm việc của quân đạo tặc". Ba giờ sáng, lão Kiền dậy, cắm bếp điện đun nước pha chè. Cái ổ cắm bếp điện bị hở, chữa nhiều lần nhưng cứ ít hôm lại có người bị điện giật đến thót, lão Kiền bị điện giật, bèn chửi: "Cha chúng mày, chúng mày ám hại ông. Chúng mày mong ông chết, nhưng trời có mắt, ông còn sống lâu". Đoài nằm trong giường nói vọng ra: "Ở đâu không biết, chứ ở nhà này thì lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống là chuyện thường tình". Lão Kiền chửi: "Mẹ cha mày, mày ăn nói với bố thế à? Tao không hiểu thế nào người ta lại cho mày làm việc ở Bộ giáo dục". Đoài cười: "Họ xét lý lịch, họ thấy nhà mình truyền thống, ba đời trong sạch như gương". Lão Kiền lẩm bẩm: “Chứ không à? Chúng mày thì tao không biết, nhưng từ tao ngược lên, nhà này chưa có ai làm gì thất đức". Đoài bảo: "Phải rồi. Một miếng vá xăm đáng một chục nhưng tương lên ba chục thì có đức đấy". Lão Kiền bảo: "Mẹ cha mày, thế mày nâng bát cơm lên miệng hàng ngày mày có nghĩ không?". Khảm rên rỉ: "Thôi thôi, anh Đoài ơi anh thương em với, hôm nay em phải thi vấn đáp môn triết học đây". Đoài bảo: "Triết học là thứ xa xỉ của bọn mọt sách. Chú có thấy cái chuỗi hạt nhựa đeo cổ của chị Sinh không. Nó là triết học đấy". Khảm không trả lời. Căn nhà lặng im được độ một tiếng đồng hồ thì lại nhộn nhịp. Đấy là bốn rưỡi sáng, Sinh dậy nấu cơm.

Sinh dậy nấu cơm, lấy sáu bò rưỡi gạo. Cấn lúi húi nhặt rau. Khảm bảo: "Đẹp đôi thật. Có việc gì để em làm giúp". Sinh bảo: "Chỗ mỡ lòng hôm qua đầy kiến, chú làm sao chắt được hết kiến thì làm". Khảm bảo: "Ở nước mình, mật độ lòng lợn trên đầu người thì nhà mình là nhất. Em đã thử thống kê, một năm anh Khiêm mang về hai trăm sáu mươi bộ lòng". Đoài bảo: "Em giai ơi, thằng ấy là phúc thiện tinh của nhà mình đấy. Nói không phải, cái nghề đồ tể của nó giá trị gấp mười lần cái bằng đại học của tao với mày”. Lão Kiền mở cửa hàng. Một bà cắp thúng xôi đi qua ngó vào: "Mời bác xơi quà sáng”.

Lão Kiền xua tay quầy quậy: "Giời ơi, nhà làm ăn, mới sáng ra đàn bà con gái đã ám thế này thì làm ăn gì”. Bà bán xôi bảo: "Chẳng bao giờ tôi bán được một hào xôi cho lão già này". Cấn cầm dao mài soàn soạt vào miếng da bò, lẩm bẩm: “Hôm nay cắt được chục cái đầu thì hay".

Cơm dọn ra, Sinh với Khảm ngồi hai đầu nồi. Khảm xới cơm, Sinh bảo: "Cơm nóng, chú lèn thế thì ai ăn được?”. Khảm bảo: "Chị đừng lo. Họ Sĩ nhà này toàn miệng gang miệng thép". Sinh bảo: "Mời bố ăn cơm, mời anh Cấn và các chú ăn cơm". Đoài bảo: "Nhập gia tùy tục, ở nhà này không có lệ mời. Khảm xới tao một bát”. Khảm bảo: "Ăn nhanh thế, em mới được hai và". Đoài bảo: "Tao ăn cơm tập thể từ mười bốn tuổi, ăn nhanh quen rồi. Hồi học đại học, có thằng bạn ăn sáu bát cơm trong một phút rưỡi. Thế có kinh không?". Lão Kiền bảo: "Quân trí thức bây giờ toàn phường phàm phu tục tử". Khảm cười: "Các cụ ngày xưa chẳng dạy: "Có thực mới vực được đạo là gì?”. Lão Kiền hỏi: "Bọn chúng mày bây giờ thì vực đạo gì?". Đoài ăn xong đứng lên vươn vai: "Cái này phải tranh luận đấy. Tôi đang ngờ cái ông ngày xưa nói ra câu ấy chẳng hiểu quái gì về đạo. Đáng ra phải nói "Có thực mới vực được tình. Tức là tình người đấy, đồng bào ạ". Cấn cười tủm tỉm: "Chú thì lắm tình lắm". Đoài nhìn chăm chú vào khoảng lõm ở ngực chị dâu, nơi chiếc khuy bấm vừa tuột ra, bâng quơ: "Tình ơi tình, mình ơi mình, tình hở hang lắm cho mình ngẩn ngơ". Sinh đỏ mặt, một lát sau lén cài khuy áo.

Sinh dọn mâm bát. Lão Kiền ngồi uống nước. Khảm mặc quần áo, quần bò, áo phông, trên áo có ghi dòng chữ "Walt Disney Productions”. Khảm bảo: "Anh Cấn ơi, anh cho em năm chục". Cấn bảo: "Tiền đâu mà cho". Khảm bảo: "Bố cho con năm chục". Lão Kiền bảo: "Mày ngồi vá cho tao cái xăm để góc kia kìa, rồi tao cho tiền". Khảm nhăn nhó: "Thế thì muộn giờ học còn gì". Lão Kiền không trả lời, mở tủ dồ nghề lúi húi làm việc. Khảm dắt xe ra cửa, nghĩ thế nào lại dựng xe ôm cặp vào nhà. Khảm mở cửa buồng, trông trước trông sau không thấy ai, mở thùng gạo xúc ra bò rưỡi vào cặp rồi lẻn đi ra.

Sinh cất nồi dưới bếp. Đoài đi theo, lấy cơm vào cặp lồng. Đoài đưa tay chạm vào lưng Sinh, Đoài bảo: "Người chị tôi cứ mềm như bún". Sinh lùi lại, hốt hoảng: "Chết, chú Đoài, sao lại thế". Đoài bảo: "Gớm, đùa một tý đã run bắn người". Nói xong đi lên nhà.

Tốn xách xô nước, cặm cụi lau sàn, ti tỉ hát: "A ha... không có vua... ". Có người đến cắt tóc, Cấn hỏi: "Bác cắt tóc kiểu gì?" Khách bảo: "Chú cắt thấp cho tôi. Cẩn thận, tôi mọc cái đầu đanh gần chỗ đỉnh đầu”.

Đoài mặc xong quần áo, dắt xe đi. Đoài đến cửa quay lại bảo Cấn: "Ngày kia giỗ mẹ, anh Cấn bảo chú Khiêm mai kiếm cho được cân thịt ngon ngon. Em đưa chị Sinh một trăm rồi đấy. Cấn bảo: "Nhớ rồi".

III. NGÀY GIỖ

Giỗ bà Nhớn, lão Kiền làm 5 mâm. Bên ngoại có ông Vỹ, em ruột bà Nhớn ở Phúc Yên về dự. Ông Vỹ là công chức về hưu, hưởng lương chuyên viên ba một trăm phần trăm. Ông Vỹ đông con, nhà nghèo, về mang theo mỗi chục quả tai chua với chai rượu trắng làm quà. Trên phố xuống có vợ chồng cô em gái lão Kiền, bà này bán hàng khô, chồng tên là Hiển, làm thợ thiếc. Ông Hiển có năm đứa con vừa trai vừa gái. Khách dự có anh Minh, trưởng phòng, cùng cơ quan với Đoài. Khảm dẫn về ba bạn học cùng lớp, một cô tên là My Lan, một cô tên là Mỹ Trinh. Cậu con trai tên là Việt Hùng, đeo kính trắng, có đôi môi đỏ như môi con gái. Khoảng mười giờ, khách đến đông dủ. Cấn bưng một mâm đặt trước bàn thờ, thắp ba nén hương rồi quay ra bảo: "Bố vào cúng". Lão Kiền mặc quần bảo hộ lao động, áo cộc tay trắng ba túi, đầu chải nước lã rất mượt, ra trước bàn thờ chắp tay, lầm rầm khấn: "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm thứ... Lạy Trời, lạy Phật, lạy tổ, lạy tiên, lạy vợ tôi là Ngô Thị Nhớn. Mời tất cả chư vị về dự cơm nhạt với tôi. Tôi, Nguyễn Sĩ Kiền, sáu mươi tư tuổi, ngụ ở 129 phố... Các con trai là Cấn, Đoài, Khiêm, Khảm, Tốn. Con dâu là Sinh. Tất cả đều lòng thành, xin chư vị phù hộ độ trì, cho sức khỏe dồi dào, làm ăn tấn tới”.

Cúng xong, lão Kiền quay ra bảo ông Vỹ: "Cậu vào lạy chị cậu một cái”. Ông Vỹ mặc áo đại cán kiểu Tôn Trung Sơn, cài khuy đến cổ, trông rất trịnh trọng. Ông Vỹ bảo: "Cán bộ chúng em vô thần. Bốn chục năm nay em theo cách mạng, nhà không có bàn thờ, chẳng biết khấn vái thế nào". Lão Kiền im lặng, mắt đỏ hoe. Ông Vỹ đến trước bàn thờ, đứng nghiêm, gục đầu như mặc niệm. Lão Kiền lau mắt, bảo: "Bây giờ thứ tự, người nào vào cúng thì cúng". Bà Hiển bày lên bàn thờ năm trăm vàng, một xếp tiền âm phủ, một bộ quần áo giấy rồi quỳ thụp xuống, chống. tay, lạy ba lạy, đầu chạm sát dất. Ông Hiển đến trước bàn thờ vái ba vái. Cấn cũng vái ba vái. Cấn bảo: "Chú Đoài vào lễ đi". Đoài đang chặt thịt gà, tay đầy mỡ, cứ để thế không rửa tay, chạy lại bàn thờ vái lia lịa. Đoài bảo: "Lạy mẹ, mẹ phù hộ cho con đi học nước ngoài, kiếm cái xe Cub". Ông Vỹ cười: "Cháu đi nước nào?”. Đoài bảo: "Cái đấy còn phụ thuộc cái ông để ria mép mặc áo ca rô kia kìa". Anh Minh nghe thấy bảo: “Đi hay không sao lại phụ thuộc vào tôi?". Đoài bảo: "Gì thì gì, anh là sếp trực tiếp, anh quay lưng lại thì em rồi đời". Anh Minh bảo: "Cậu cứ làm việc cho tốt. Tớ ủng hộ". Đoài bảo: "Công việc nhà nước biết thế nào là tốt xấu? Chỉ xin anh nhớ thằng Đoài lúc nào cũng tốt với anh".

Sinh lúi húi dưới bếp. Trong buồng Sinh, Khảm đang giới thiệu với ba người bạn tập album có chụp những ảnh của Khảm, có cả ảnh hồi bé tập lẫy. Cô My Lan bảo: "Anh Khảm hồi bé bụ ghê". Khảm bảo: "Con anh sau này cũng bụ thế, nhưng xinh hơn, có cái nốt ruồi ở cằm”. My Lan đỏ mặt, sờ vào cái nốt ruồi cằm mình, đấm thùm thụp vào lưng Khảm. Việt Hùng hỏi: "Ảnh này chụp hồi đi thực tập phải không?". Khảm bảo: "Ừ”. Việt Hùng khen: "Nét lắm". My Lan hỏi: "Có phải hồi ấy anh ăn trộm khoai, bị dân quân bắt không". Khảm đỏ mặt bảo: "Toàn nói lăng nhăng, mắc tội nói xấu đồng đội. Thế nào tớ cũng bắt đền". My Lan hỏi: "Bắt đền gì?". Khảm bảo: "Đợi tối thì biết". Mọi người cười.

Đoài ngó vào, vẫy tay gọi Khảm. Đoài bảo: "Dọn mâm". Khảm hỏi: “Ăn rồi à?". Đoài không trả lời Khảm đi theo Đoài xuống bếp. Đoài hỏi: " Cô có cái nốt ruồi là người yêu mày đấy à?". Khảm bảo: "Vâng". Đoài hỏi: "Thế cái vị anh hùng thơm nức kia là thế nào?". Khảm cười: "Đấy là Mỹ Trinh, bố cô ấy là ông ánh sáng ban ngày, chủ hiệu điện". Đoài hỏi: "Thằng kia với nó thế nào?". Khảm bảo: “Chưa có gì". Đoài bảo: "Tao chim nó đấy". Khảm bê mâm, Sinh bảo: "Thiếu cái gì thì gọi". Đợi Khảm đi khuất, Đoài bảo: "Thiếu một tý tình thôi, Sinh cho tôi xin một tý tình". Sinh bảo: "Nỡm. Lên nhà trên mà bảo hai cô bạn của chú Khảm ấy". Đoài bảo: “Hai con ôn vật ấy bằng thế nào được Sinh". Sinh bảo: "Đi ra đi". Đoài bảo: “Cái lão Cấn của Sinh như con cua bấy mà lại hách dịch". Sinh bảo: "Tôi mách anh Cấn đấy". Đoài bảo: "Đây chẳng sợ". Nói rồi xán lại, hôn chút lên má Sinh. Sinh đẩy ra, Đoài hổn hển: "Tôi nói trước, thế nào tôi cũng ngủ được với Sinh một lần". Nói xong đi ra, Sinh bật khóc.

Cấn đi vào, thấy mắt vợ đỏ hoe, hỏi: “Sao thế?" Sinh bảo: "Tại cái bếp nhà mình khốn nạn quá”. Cấn bảo: “Cô cho mấy ấm nước lên đi, trên nhà hết cả nước sôi". Sinh bảo: “Tôi có ba đầu sáu tay đâu?". Cấn trừng mắt: "Nói năng thế à? Nhà này không có lệ thế! Mấy cái bát này sao chưa rửa?”. Nói rồi, xô chồng bát, đi ra. Chồng bát vỡ. Sinh khóc òa lên. Ăn đợt đầu ba mâm. ăn xong khách ra về. Lại ăn đợt sau hai mâm. Lúc ấy cũng hơn hai giờ chiều. Đang ăn, Khiêm đi làm về, lầm lầm lì lì chẳng chào hỏi ai. Khảm bảo: "Anh Khiêm ngồi cùng mâm với chúng em cho vui". Hai cô My Lan, Mỹ Trinh cũng ríu rít mời. Cả mâm chống đũa chờ.

Lão Kiền say rượu, nằm ngủ lơ mơ trên giường, nước dãi đọng trên chiếu. Đoài chào mọi người để đưa ông Vỹ ra bến ô tô cho kịp chuyến xe Phúc Yên buổi chiều. Khiêm hỏi: "Thằng Tốn đâu?" Khảm bảo: "Nó loanh quanh đâu đấy, anh ra ăn cơm, chúng em chờ". Khiêm bảo: "Cứ ăn đi". Khảm bảo: "Ta ăn thôi. Ông ấy khó tính bỏ mẹ". Cô Mỹ Trinh bảo: “Anh ấy trông như Tácdăng".

Khiêm xuống bếp hỏi Sinh: "Thằng Tốn đâu?" Sinh bảo: "Tôi bận bịu từ tờ mờ sáng cũng quên khuấy. Không biết chú ấy đâu?". Khiêm vứt vào chạn bát một bao tải nặng. Sinh hỏi: "Lại lòng à?" Khiêm không trả lời, đi lên nhà, ngó vào buồng Sinh thấy Cấn đang ngáy khò khò. Khiêm xô cửa bước vào hỏi Cấn: "Thằng Tốn đâu?". Cấn ngồi dậy hỏi: "Mấy giờ rồi?".

Khiêm hỏi: "Thằng Tốn đâu?". Cấn bảo: "Nhà có việc, để nó ra vào bất tiện. Tôi nhốt nó trong cái buồng ở cạnh nhà xí". Khiêm cầm cái gạt tàn thuốc lá trên bàn ném vào mặt Cấn. Cấn kêu "ối" một tiếng rồi ngã lăn ra. Khiêm xô vào đạp túi bụi. Khảm chạy vào đẩy Khiêm ra. Sinh chạy lên hốt hoảng nói: "Sao lại thế". Khiêm gạt Sinh ra.

Căn phòng cạnh nhà xí trước là chuồng lợn, nay để than củi. Cánh cửa bằng gỗ thùng đóng ghép. Có ai mới làm thêm chiếc khóa bên ngoài, hôm qua chưa có. Khiêm giật khóa, không được. Khiêm cầm xà beng phá khóa. Cửa mở ra. Tốn chân tay mặt mũi đen nhẻm đang nhe răng cười. Khiêm quát: "Đi ra". Tốn lết đôi chân què đi lên nhà. Thấy nhà bẩn, nó xách ngay cái xô nước với tấm giẻ lau.

Mấy người bạn của Khảm chào lí nhí rồi về, Khảm dắt xe ra theo. Trước khi đi, Khảm rút vội mấy điếu thuốc lá trên bàn cho vào túi áo. Lão Kiền tỉnh rượu, thấy nhà vắng tanh, hỏi: “Chúng mày đâu cả?". Sinh lấy miến cho Tốn ăn. Tốn đói, ăn ba bốn bát liền, sợi miến lòng thòng vương ra đất.

Khiêm dắt xe ra cửa, không ăn uống gì. Cấn ôm ngực ho sù sụ, nhổ ra một chiếc răng gãy, máu dây bên khóe mép. Cấn giơ nắm đấm trước mặt bố, bảo rằng: "Ông liệu tống thằng ấy ra khỏi nhà này, không tôi giết nó". Lão Kiền bảo: "Chúng mày cứ giết nhau đi, tao càng mừng". Nói rồi cầm chiếc khóa hỏng trên tay, lẩm bẩm: "Mất cả sáng lắp được chiếc khóa. Thế là toi trăm bạc".

IV. BUỔI CHIỀU

Sinh rửa mâm bát xong thì ba giờ chiều. Sinh lên buồng lấy quần áo tắm. Bỗng Sinh hốt hoảng gọi Cấn. Cấn hỏi: "Cái gì?”. Sinh bảo: "Buổi sáng, tôi bỏ cái nhẫn vào hộp kim chỉ, anh có cầm không?". Cấn bảo:”Không".

Sinh hỏi: "Có ai vào buồng này?". Cấn bảo: "Không". Đoài dắt xe về nhà, thấy đồ đạc lung tung hỏi: "Chuyện gì thế?". Cấn cau có: “Chú có vào trong buồng này không?". Đoài bảo: "Không". Cấn bảo: "Chị Sinh mất cái nhẫn". Đoài bảo: "Hỏi bố xem". Lão Kiền chửi: "Mẹ cha mày. Thế mày nghi tao lấy cắp chứ gì?". Đoài im, nghĩ một lát rồi bảo: “Buổi sáng thằng Khảm với ba đứa bạn ngồi trong phòng này. Tôi ngờ cái thằng đeo kính, môi đỏ như son. Mắt nó rất gian".

Vừa may lúc Khảm về. Cấn bảo: "Thằng bạn mày lấy cắp nhẫn của chị Sinh". Khảm tái mặt hỏi: "Ai bảo thế?". Cấn bảo: "Mắt tao trông thấy". Khảm bảo: "Sao không bắt ngay? Vừa rồi đi chơi nó cứ nằng nặc đòi về. Phải đến nhà nó mà đòi. Không trả thì đánh bỏ mẹ nó đi". Cấn bảo: “Tao đi với mày". Hai người dắt xe đi. Lão Kiền bảo: "Mang theo cái búa! Đừng đánh vào đầu. Nó chết thì tù mọt gông". Đoài lên giường giở báo ra đọc. Sinh dọn dẹp một lúc rồi xuống đi tắm. Sinh xách hai xô nước vào trong buồng tắm, khép cửa lại.

Lão Kiền loay hoay dưới bếp, nghe tiếng dội nước ở trong buồng tắm, thở dài, bỏ lên nhà. Đi vài bước, lão Kiền quay lại, vào trong bếp, bắc chiếc ghế đẩu, trèo lên nín thở ngó sang buồng tắm. Trong buồng tắm, Sinh đứng khỏa thân.

Đoài đang lim dim ngủ, thấy Tốn giật áo ngồi dậy hỏi: “Cái gì?". Tốn xua tay, dắt Đoài xuống bếp, chỉ lão Kiền đang đứng kiễng chân ở trên ghế đẩu. Đoài cau mặt tát Tốn rất đau. Tốn ngã vập mặt xuống cái xô đựng nước, trên có tấm giẻ lau. Lão Kiền vội tụt xuống ghế, nép ở cánh cửa, lát sau chạy ra hỏi: "Sao đánh nó?". Đoài bảo: "Nó vô giáo dục thì đánh". Lão Kiền chửi: "Thế mày có giáo dục à?". Đoài nghiến răng nói khẽ: "Tôi cũng vô giáo dục nhưng không nhìn trộm phụ nữ cởi truồng". Lão Kiền im.

Đoài lên nhà, rót rượu uống. Lão Kiền đỡ Tốn dậy. Tốn xách xô nước, ngồi thụp xuống lau nhà. Lão Kiền đi lên bảo Đoài: "Rót tao một cốc”. Uống cạn cốc rượu lão Kiền bảo: "Mày có học mà tệ. Bây giờ tao nói chuyện đàn ông với mày”. Đoài bảo: "Tôi không tha thứ đâu". Lão Kiền bảo: “Tao chẳng cần. Đàn ông chẳng nên xấu hổ vì có con b...”. Đoài ngồi im, uống thêm một cốc rượu nữa, rồi bỗng thở dài: "Kể cũng phải". Lão Kiền bảo: “Làm người nhục lắm". Đoài hỏi: “Thế sao không lấy vợ lẽ?”. Lão Kiền chửi: "Mẹ cha mày, tao chỉ nghĩ thân tao, thì lũ chúng mày được thế này à?". Đoài rót ra một cốc rượu nữa, tần ngần: "Bố uống rượu nữa không?”. Lão Kiền quay mặt về phía bóng tối, lắc đầu. Đoài nói: "Con xin lỗi bố". Lão Kiền bảo: “Bây giờ mày như đào kép diễn trên tivi".

Tốn lau nhà, thấy cái nhẫn rơi dưới gầm tủ bèn đưa cho Sinh. Sinh mừng quá. Đoài cầm chiếc nhẫn soi ra ánh đèn, bảo: "Được độ nửa chỉ là cùng". Sinh bảo: "Đây là của hồi môn mẹ tôi dành dụm vất vả cả đời người đấy". Lão Kiền bảo: “Chết thật, chỉ sợ thằng Cấn gây sự với nhà người ta thì xấu cả mặt”. Chập tối, Cấn với Khảm về. Cả hai trông như hai thằng móc dưới cống lên, nhếch nhác bẩn thỉu. Đoài cười: "Chắc ăn đòn hả?" Cấn không trả lời. Khảm bảo: "Nhà ấy nuôi hai con chó bécgiê không sao vào được". Đoài bảo: "Cho chết, ai bắt chưa chi đã định giở thói côn đồ”. Lão Kiền bảo: "Tìm thấy nhẫn rồi”. Cấn hỏi: "Ở đâu?". Lão Kiền bảo. "Vợ mày giấu trong cặp quần chứ đâu". Cấn bảo: “Đồ khốn nạn". Nói rồi tát Sinh một cái nảy đom đóm mắt. Cấn định đánh thêm, Đoài xô Cấn ra, đứng chắn ở trước mặt Sinh, tay cầm con dao lăm lăm rít khẽ: "Cút đi! Anh mà đụng vào cô ấy là tôi chém liền". Sinh úp mặt vào thành giường, khóc nức nở: “Trời ơi... Sao cái thân tôi nhục nhã thế này?".

Lão Kiền hỏi Khảm: "Có mang búa về không?". Khảm cáu: "Tí nữa mất mạng với hai con chó bécgiê còn búa với lại kìm gì?". Lão Kiền bảo: "Thế lại toi trăm bạc".

V. NGÀY TẾT

Thấm thoắt đến Tết. Rằm tháng Chạp, lão Kiền đi ngân hàng rút lãi tiết kiệm được tám nghìn đồng. Lão Kiền mua cho Tốn cái áo sơ mi, mua cho Sinh đôi bít tất, còn lại tiền đưa cả cho Cấn. Khảm bảo: “Bố chỉ quý con dâu, con út".

Khiêm phải theo xe đi các tỉnh mua lợn, vắng nhà mấy ngày liền. Công việc chắc vất vả , hôm nào Khiêm cũng đi làm từ mười một giờ đêm đến trưa hôm sau mới về, người toàn mùi phân lợn. Về nhà vật ra ngủ liền, thế mà mắt cứ lõm sâu vào, vằn tia máu đỏ.

Cấn cũng đông khách . Từ sáu giờ sáng đến mười giờ đêm lúc nào cũng có người chờ cắt tóc. Buổi trưa Cấn ngủ, Khảm ra cắt tóc thay anh. Hôm đầu chưa quen, Khảm cắt phải tai một ông khảch làm chảy máu. Ông này tức, tiền cắt tóc hết bảy mươi đồng chỉ trả có hai mươi đồng. Cấn lấy bút chì ghi tiền làm được hàng ngày vào một cuốn sổ, một trăm đồng thì ghi dấu cộng, hai trăm đồng dấu khuyên tròn, lại vẽ những hình tam giác trong chấm một cái chẳng biết là ký hiệu gì. Đoài bảo: “Sổ sách kế toán của ông này thật như gián điệp" . Ngày 23 tháng Chạp ăn Tết ông Táo lên trời. Sinh nấu miến, mọi người ăn no căng bụng. Khảm hỏi : "Sao gọi là ông Táo?". Đoài bảo: "Chuyện thế này. Ông Táo là ba ông đầu rau. Ngày xưa có hai anh em cùng lấy một vợ. Người này một hôm ngủ với anh, một hôm ngủ với em. Khi họ chết, Ngọc Hoàng cảm động mối tình khăng khít của họ, biến mỗi người thành một ông đầu rau để lúc nào cũng gần gặn. Ta gọi là thần Bếp, hay ông Táo”.

Sinh bưng mâm xuống bếp. Khảm bảo: "Ngày xưa được phong thần dễ nhỉ?". Lão Kiền bảo: "Đừng nghe nó". Đoài bảo: "Lại có chuyện thế này. Nhà kia có cô con dâu, bố chồng bóp vú cô ta . Đứa con trai hỏi: "Sao ông bóp vú vợ tôi?". Ông bố bảo: "Để trừ nợ. Thế hồi xưa sao mày bóp vú vợ tao?”". Nghe nói những người này cũng được phong thần". Cấn bảo: “Chuyện của chú, tôi chẳng hiểu gì". Lão Kiền bảo: “Đừng nghe nó".

Ngày 27, lão Kiền gói bánh chưng. Gói một yến rưỡi nếp, được hăm tám chiếc bánh. Bánh có hai loại, loại nhân đỗ, loại nhân đường, loại nhân đường đánh dấu bằng sợi lạt nhuộm phẩm đỏ.

Sinh luộc bánh chưng. Đoài quanh quẩn ở bếp. Đoài hỏi: "Sinh biết nhà này tương lai thuộc về ai không?". Sinh bảo: "Không". Đoài cười: "Về tôi”. Sinh hỏi: “Sao thế ?". Đoài bảo: "Bố già bố chết. Thằng Khiêm trước sau cũng vào tù. Thằng Khảm ra trường không đi Tây Bắc thì cũng Tây Nguyên. Thằng Tốn không nói làm gì, vô tích sự". Sinh hỏi: "Thế còn anh Cấn?". Đoài bảo: "Phụ thuộc vào Sinh. Nến Sinh yêu tôi, tôi sẽ gây sự tống cổ ra đường". Sinh bảo: "Dễ thế?". Đoài bảo: "Sinh còn quyến luyến cái gì? Lão Cấn vừa ngu vừa hèn, lại yếu, bác sĩ bảo bị lãnh tinh, lấy Sinh hai năm mà có con cái gì đâu?". Sinh ngồi yên, nồi bánh chưng sôi sùng sục.

Đoài bảo: "Tối nay tôi vào buồng Sinh nhé!". Sinh vớ con dao, nói khẽ: "Cút đi. Anh đến gần đây là tôi giết đấy". Đoài cười nhạt, đi giật lùi, bỏ lên nhà, vừa đi vừa lẩm bẩm: "Đàn bà là giống ác quỷ".

Hai chín Tết, lão Kiền đi chợ mua về một cành hoa đào. Đến chiều ba mươi, Khiêm mang về một chậu quất to ba tầng quả với bánh pháo cối dài sáu mét. Khảm bảo: "Chơi sang quá đấy”. Đoài bảo: "Nó cậy lắm tiền". Khảm bảo: "Hai anh em mình mang tiếng có học mà Tết nhất đến, một bộ quần áo hẳn hoi không có". Đoài bảo: "Chỉ có con đường lấy vợ giàu thôi. Tối nay mày đưa tao đến con ông ánh sáng ban ngày đấy nhé". Khảm bảo: "Được thôi. Nếu anh tán được thưởng em cái gì?”. Đoài bảo: "Thưởng cái đồng hồ". Khảm bảo: "Được rồi. Anh ghi cho em mấy chữ làm bằng". Đoài hỏi: "Không tin tao à?". Khảm bảo: "Không". Đoài ghi vào giấy: “Ngủ được với Mỹ Trinh, thưởng một đồng hồ trị giá ba nghìn đồng. Lấy Mỹ Trinh, thưởng 5% của hồi môn. Ngày... tháng... năm... Nguyễn Sĩ Đoài". Khảm cười cất mảnh giấy vào túi rồi nói: "Cám ơn".

Khảm bảo: “Hôm qua em nghe anh Khiêm kể chuyện, thế là đến tối gặp phải giấc mơ kinh quá". Đoài hỏi: "Chuyện gì?". Khảm bảo: "Anh Khiêm kể về công việc giết lợn. Hai tay cầm hai cực điện dí vào thái dương từng con. "Éc" phát là chết. Bị mất điện, anh Khiêm phải dùng xà beng quật vào gáy lợn. Gặp con lợn khỏe, quật chục cái không chết, gáy toét cả ra, buồn ngủ quá, anh Khiêm quật cả vào chân. Một ca anh Khiêm giết được hơn nghìn con lợn, được khen thưởng”. Đoài hỏi: "Thế giấc mơ gì?". Khảm bảo: "Em mơ thấy đi giết lợn, giết mãi không chết, con lợn cứ nhe răng cười, thế là bị đuổi đi dọn cả một bể cứt. Bể cứt xây xi măng, kích thước 10x 6 x l, 5 mét, dung tích 90 khối. Mưa bão đến, bể cứt trôi phăng phăng, em ngập trong ấy, cứt vào cả mồm, cả lỗ tai". Đoài bảo:”Giấc mơ tốt đấy còn công việc để ý làm gì. Mà y chơi xổ số đi, thế nào cũng trúng. Các cụ bảo giẫm vào cứt là có lộc về. Mày chìm cả người trong bể cứt, có khi mày trúng xổ số độc đắc cũng nên". Khảm bảo: "Ừ nhỉ. Anh không nói thì em không biết". Nói rồi hớn hở chạy ra phố.

Lúc giao thừa, ở nhà khi ấy chỉ có Khiêm, Tốn với Sinh. Ông bà Hiển cho con rể đi xe máy xuống mời lão Kiền với Cấn lên phố chơi từ chập tối, chắc uống rượu say chưa về được. Đoài với Khảm dẫn hai cô Mỹ Trinh và My Lan đi chùa Ngọc Sơn hái lộc.

Khiêm bày lên bàn thờ con gà mái tơ Sinh luộc từ chiều, mỏ ngậm một bông hoa hồng. Lại mở hộp mứt, lấy rượu rót ra ba cốc, pha một ấm chè, bày cả lên đấy. Khiêm bảo: "Chị Sinh ra lễ". Sinh thoa tí son, mặc quần côn, áo len dài bên trong, bên ngoài khoác áo len cộc đan kiểu gilê, không cài khuy, cổ choàng một chiếc voan mỏng màu hoàng yến, trông khác hẳn ngày thường vẫn mặc bộ đồ trong nhà. Sinh bảo: "Chú lễ đi. Tôi đàn bà con gái biết khấn thế nào". Khiêm bảo: "Chị là bề trên, chị cứ vái ba vái trước còn đâu tôi khấn". Sinh bảo: "Cũng được". Nói rồi ra trước bàn thờ vái ba vái, đứng lẩm nhẩm một lúc, lại vái ba vái nữa, không phải là người không biết nghi thức.

Khiêm bảo Tốn: "Tao treo bánh pháo ở cửa, lúc nào tao khấn xong thì châm lửa đốt". Nói rồi châm điếu thuốc đầu lọc cắm vào miệng Tốn. Khiêm bảo: "Cầm điếu thuốc dí thế này này". Tốn gật đầu.

Khiêm vái ba vái, nói: "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Năm thứ...". Tốn đốt pháo. Cả ba nét mặt rạng rỡ. Trời đất giao hòa, lòng người cảm động.

Khiêm bảo: "Năm mới, chúc chị Sinh sức khỏe, may mắn. Mừng tuổi chị một nghìn, chị cầm lấy để cho có lộc". Sinh rớm nước mắt: “Cho tôi nhiều thế”. Tôi cũng chúc chú mạnh khỏe, bằng năm bằng mười năm ngoái. Anh Cấn giữ hết cả tiền, tôi chẳng có gì mừng tuổi cho chú. Chị mừng tuổi Tốn một trăm. Đây là lộc của chú Khiêm". Tốn cầm tiền giơ lên ánh đèn, hỏi: "Tiền à?". Khiêm bảo: "Ừ". Tốn hỏi: "Tiền là gì?". Khiêm bảo: "Là vua".

Một giờ sáng lão Kiền với Cấn về. Một lúc sau, Đoài với Khảm cũng về. Cả nhà ngồi ăn uống đến ba giờ, chợp mắt được nửa tiếng, lại lục đục dậy làm cỗ, khấn vái qua loa, lại ăn uống. Đến tám giờ, lão Kiền bảo: "Tao đi chúc Tết hàng xóm, vợ chồng thằng Cấn đi theo tao. Khiêm ơi, mày cho bố ít tiền để đi mừng tuổi".

Lão Kiền và vợ chồng Cấn đi chúc Tết. Lão Kiền mặc quần bảo hộ lao động, áo dạ len, đội mũ len trùm đầu. Cấn mặc bộ quần áo may kiểu quân phục cấp úy, bộ quần áo này mua trên chợ Giời, có một vết thủng ở ống tay áo do tàn thuốc rơi vào. Sinh mặc quần bò nhung, áo lông Đức. Khảm bảo: “Chị Sinh trông như Hoàng hậu".

Nhà hàng xóm sang chúc Tết, Đoài ra tiếp. Chúc mừng xong xuôi ngồi uống nước nói chuyện phiếm. Đoài bảo: "Xin lỗi bác, cháu chẳng biết nhà bác có bao nhiêu người, tên là gì?". Ông hàng xóm cười: "Thì tôi cũng thế". Đoài bảo: "Ngày xưa bọn ăn trộm có luật chia ra bốn loại mà chúng không lấy: một là nhà hàng xóm, hai là nhà bạn bè, ba là nhà đang có chuyện buồn, bốn là nhà đang có chuyện vui. Cứ thế này, cháu đi ăn trộm, lơ mơ phạm luật". Ông hàng xóm cười: "Thì các con tôi cũng thế". Uống nước xong, mọi người ra về. Đứa con ông hàng xóm bảo: "Cái tay Đoài có học mà ăn nói linh tinh". Ông hàng xóm bảo: "Loạn".

Ba ngày Tết trôi qua, lòng đường đầy xác pháo. Ai cũng có cảm giác ngày Tết trôi nhanh! Ngày nào mà chẳng trôi nhanh, hở giời?

VI. BUỔI TỐI

Cuối tháng ba, Sinh tắt kinh, thèm ăn của chua, thỉnh thoảng lại nôn oẹ, người cứng đơ, triệu chứng có thai.

Tháng năm xảy ra việc lão Kiền ốm, đầu tiên tưởng nhẹ, ai ngờ cứ nặng dần. Đầu tiên lão Kiền chỉ hoa mắt, nhìn một hóa hai, cửa không đi cứ đâm sầm vào tường. Cả nhà lo sợ, đưa đi bệnh viện Tây y. Bác sĩ chẩn đoán rối loạn chức năng thần kinh, cho uống B6. Bác sĩ bảo: "Đây này, dây thần kinh thế này, hai dây chập vào nhau, thế là trông một thành hai, trông gà hóa cuốc”. Cấn hỏi: "Thưa bác sĩ, vậy làm thế nào?". Bác sĩ bảo: "Y học đang nghiên cứu". Nằm một tuần, mắt lão Kiền mờ đi. Đoài bảo: "Tôi ngờ đoán nhầm bệnh". Đoài sang nhờ người quen ở bệnh viện Đông y. Người này bảo: "Tây y ra quái gì. Chú về đưa ông cụ đến đây”. Đoài về, xin cho lão Kiền chuyển viện. Bác sĩ bảo: "Đi là không trở lại đâu nhé”.

Lão Kiền điều trị Đông y, không khỏi, người rạc đi, đầu đau nhức. Đến tháng mười phát hiện thấy có u não. Bác sĩ bảo: "Để thì chết, mổ may ra cứu được". Cấn về họp gia đình, Cấn bảo: "Làm thế nào? Từ khi bố ốm nhà mình tiêu nhiều tiền lắm”. Cấn giở quyển sổ kế toán ra đọc: "Chú Khiêm đưa một lần một nghìn, một lần tám nghìn, một lần năm nghìn. Chú Đoài đưa một lần một trăm, một lần sáu chục, một lần một nghìn mốt. Chú Khảm đưa một lần ba trăm nhưng hôm tôi đưa một nghìn đi lấy thuốc ông lang Toại, chú Khảm mua hết có năm trăm, còn năm trăm vẫn cầm. Tiền thức ăn thế này... thế này... Ai chi gì tôi ghi cả".

Đoài bảo: "Tôi nghĩ bố già rồi, mổ cũng thế, cứ để chết là hơn". Tốn khóc hu hu. Cấn hỏi: "Ý chú Khảm thế nào?". Khảm bảo: "Các anh thế nào thì em thế". Cấn hỏi: "Chú Khiêm sao im thế?". Khiêm hỏi: “Anh định thế nào?". Cấn bảo: "Tôi đang nghĩ”. Đoài bảo: "Mất thì giờ bỏ mẹ. Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé".

Hôm lão Kiền mổ não, trừ Sinh với Tốn, mấy anh em đều kéo nhau lên bệnh viện. Ca mổ kéo dàì bốn mươi hai phút. Ngồi ngoài phòng chờ, Đoài bảo Khảm: "Ông cụ không viết di chúc mới gay, sau này tài sản biết chia thế nào?". Khảm bảo: "Lão Cấn tham lắm, anh em mình rồi ra đường thôi". Đoài bảo: "Sang năm tao cưới Mỹ Trinh, ông ánh sáng ban ngày hứa cho một cây. Mày bảo một cây mua nổi nhà không?”. Khảm bảo: "Vào tay em, em nhân nó lên vài cây ngay". Đoài bảo: "Có năng khiếu kinh doanh thích thật, còn các năng khiếu như văn chương, nghệ thuật... đều vô dụng cả”.

Cấn vào gặp bác sĩ. Một lúc sau đi ra lắc đầu: "Bác sĩ bảo khoảng một tháng nữa thì đưa bố về". Hôm đưa lão Kiền về, lão Kiền đầu quấn băng, hỏi gì cũng không nói, mắt lờ đờ. Vào trong nhà, Sinh tháo gỡ băng ra. Đầu lão Kiền trọc lốc, nổi lên một khối u to như quả trứng gà. Nửa tháng sau, khối u này to bằng nửa quả bưởi, lấy ngón tay ấn vào thấy như có chứa bã đậu ở trong, ấn mạnh thì lõm sâu, ấn nhẹ thì lõm ít. Sinh phục vụ, săn sóc, rất khổ sở.

Khảm hỏi Đoài: "Bệnh này có lây không?". Đoài bảo: "Có kiêng có lành. Tao khuyên mày cẩn thận. Vợ chồng lão Cấn còn có tiền. Thằng Khiêm còn có tiền. Tao với mày lỡ bệnh, tiền đâu mà chữa?". Ít lâu sau, lão Kiền mê sảng, cứ rên rỉ: “Cho tôi chết đi, đau đớn lắm". Không khí trong nhà u ám, ai cũng buồn rầu. Đến ngay Tốn cũng bỏ lau nhà, suốt ngày ngồi thu lu trong cái buồng vẫn để than củi cạnh nhà xí.

Bà Hiển trên phố xuống, thấy anh mình vật vã đau đớn, khóc: "Anh ơi, tiền oan nghiệp chướng gì mà anh chết khổ, chết sở thế này”. Bà Hiển bảo: "Chúng mày xem thế nào chứ? Để thế này à?”. Cấn bảo: "Cô bảo làm thế nào nữa?". Bà Hiển bảo. "Cô có người bạn, bà ấy có bài kinh Vô thường, bây giờ xin chép về đọc, may ra ông ấy sẽ đi yên ổn". Đoài bảo: "Lại thế nữa".

Bà Hiển bắt Khiêm đèo lên phố, đến nhà bà bạn để chép kinh Vô thường. Khiêm mang về bảo Đoài: "Anh giỏi chữ, anh đọc đi". Đoài cầm tờ giấy, xoay ngang xoay dọc rồi lắc đầu: "Chữ nghĩa chú viết thế này thì tôi xin chịu, thật quá sổ sách kế toán ông Cấn".

Khiêm vào đọc kinh. Lúc ấy là chập tối. Bà Hiển thắp hương ngồi cạnh. Lão Kiền lúc đầu vật vã, rồi nằm yên. Mười một giờ đêm, mọi người đi ngủ. Khiêm vẫn ngồi đọc. Đọc đi rồi lại đọc lại. Đại ý bài kinh xin đức Phật giải tội cho người sắp chết, để nghiệp chướng cho người sống chịu, lời lẽ khó hiểu. Suốt đêm Khiêm ngồi đọc, lạc cả giọng. Đến bốn giờ sáng hôm sau, lão Kiền tắt thở, trên môi thấp thoáng nụ cười, trông rất hiền lành, trung hậu. Khiêm vuốt mắt bố rồi vào gọi Cấn. Cả nhà dậy. Đoài bảo: "Ông cụ đi rồi. Thật may quá. Bây giờ tôi đi mua quan tài".

VII. NGÀY THƯỜNG

Sau hôm giỗ lão Kiền một trăm ngày, Sinh đẻ con gái. Đón Sinh về, mọi người làm tiệc mừng. Cấn với Khảm đi chợ. Khiêm nấu nướng. Đoài với Tốn dọn nhà. Hai cô My Lan và Mỹ Trinh đến dự, mua cả hoa.

Vào tiệc, mọi người để Sinh ngồi giữa, hai cô My Lan và Mỹ Trinh ngồi hai bên. Sinh đẹp lộng lẫy Đoài rót rượu ra cốc, đứng lên nói: "Cốc rượu này tôi dâng cuộc sống. Rượu vừa ngọt vừa cay. Ai chấp nhận cuộc sống thì cầm lên cho. Cuộc sống dù khỉ gió nhưng đẹp tuyệt vời. Vì đứa trẻ mới sinh ra kia, vì tương lai của nó". Mọi người nâng cốc, Đoài bảo: "Khoan đã. Nhưng nó tên gì nhỉ?". Mọi người cười. Cùng uống rượu vui, Khiêm bảo: "Chị Sinh ơi về làm dâu họ Sĩ nhà này chị có khổ không?". Khảm bảo: "Chị phải nói thế nào cho hai cô My Lan, Mỹ Trinh khỏi sợ". Sinh cười: "Cứ thế này thì không thấy khổ". Cấn hỏi: "Thế ngày thường thì thấy khổ à?". Sinh bảo: "Khổ chứ. Nhục lắm. Vừa đau đớn, vừa chua xót. Nhưng thương lắm”. Tốn mỉm cười ngô nghê nhắc lại: "Thương lắm!".

Người đưa thư qua cửa ngó vào: "Nhà 129 phải không? Có điện đấy". Cấn ra nhận điện, bảo: "Cậu Vỹ ở Phúc Yên mất lúc tám giờ sáng hôm qua".

Đoài bảo: "Cứ gác lại đã. Các bác già chết đi có gì là lạ? Tiếp tục cuộc vui đi. Nào, xin mời chư tướng

Miếng ăn là miếng NHỤC nhưng mà... NGON!

Các bạn đọc thử đoạn bài báo dưới đây xem mình đặt tiêu đề trên có đúng không nhé:

Anh Hưng ở 176 phố Kim Mã thì gian nan vì món chả nhái. Nghe đồn làng Khương Thượng, Hà Nội có quán chả nhái ngon nhất thủ đô có tên Hà Dũng. Năm lần bảy lượt anh cùng vợ tìm đến để thỏa mãn trí tò mò và cốt yếu thưởng thức món khoái khẩu.

Điều đáng nói ở đây là quán chả nhái chỉ phục vụ vào buổi trưa, không phục vụ khách nào đến muộn sau 12 giờ, không đón tiếp dưới 4 người cho dù trong nhà chẳng có “ma dại” nào hoặc hàng vẫn còn nguyên. “Bà chủ ở đây hứng chí thì lúc 3 người cũng tiếp, khi có vẻ không thấy thiện cảm thì đuổi luôn. Tuy vậy đi đến lần thứ 4 mới được ăn”, anh Hưng kể.

Lần thứ nhất do anh chỉ đi có hai người nên chủ quán không cho vào. Lần thứ hai cố gắng rủ thêm được một anh bạn là thành ba cũng bị đuổi. Lần thứ ba, đủ bốn người thì bị muộn giờ mặc dù hàng vẫn còn đầy và nóng hổi trên chảo.

Anh kể một lần cảm thấy ê chề nhất: “Mấy người ? Có 3 thôi hả, thôi, lượn đi”, cậu con trai bà chủ hàng nhái ngồi cạnh đó vừa nói vừa xua tay khi khách vừa dừng xe máy trước cửa. Cuối cùng lần thứ tư, bà chủ quán đồng ý cho 4 người lên gác lửng ngồi "thưởng thức".

Anh kể: “Vừa nhâm nhi món khoái khẩu trên gác, chúng tôi vừa phải hứng những từ ngữ khó nghe từ phía dưới mà theo nhiều người kể lại đó là chuyện bình thường. Ngoài chuyện bà ấy gọi gia đình tôi là chúng mày và xưng tao thì còn nhiều câu nghe chướng tai, rất chợ búa. Hơn nữa các món văn hóa ẩm thực cũng bị bôi nhọ bởi các cái tên "Cởi truồng", "Quần đùi"... cho món chả nhái", anh Hưng kể.

Anh cũng tâm sự rằng lần sau nếu có dịp lại vẫn vào đó ăn nhưng có hạn chế hơn vì món này ở đây chế biến rất ngon.

Xã hội : "Miếng nhục" của người nghèo Sài Gòn.

PSN 5.06.2008 - Nguyễn thị Lan Anh.

Nhận trát đòi họp mặt của Lớp trưởng P. với lý do liên hoan mừng X. xong cái Thạc sĩ, kẻ viết bài phải miễn cưỡng có mặt. Bữa tiệc chiêu đãi X. toàn những thứ quê kiểng như rau muống xào tỏi, bầu luộc chấm chao, chả nhái, dế cơm chiên giòn, cá kèo nướng mọi (cá còn sống, đặt lên vỉ nướng, xong chấm muối ớt ăn ngay), ốc xào nước dừa, uống với bia Tí Ghè (Tiger).

Tàn buổi, hai chục tên già đầu trợn mắt nhìn cái hóa đơn kê số tiền một triệu rưởi, xuýt xoa kêu đắt. Kẻ viết bài nhẩm tính trong đầu ba ngàn một gói mì ăn liền. Một triệu rưởi mua được năm trăm gói mì. Thời buổi đắt đỏ này, mỗi ngày chỉ cần hai gói đủ sống. Nếu được năm trăm gói, quá bằng kho báu!

Tính toán thế, vì kẻ viết bài quen biết em Trần T., sinh viên năm cuối khoa Sử trường KHXH&NV. Công thức tồn tại của Trần T. là sáng mì gói, chiều mì gói. Nấu nước sôi, cho thêm mấy lá rau vặt ở vườn trường (lá cây ớt, cây hoa mào gà, cây sống đời…), rồi thả gói mì vô. Đợi mì nở mềm, chan cơm nguội, lua một mạch hai chén cơm ngon lành, đủ năng lượng họat động nửa ngày cho tấm thân cao thước sáu, nặng nửa tạ. Ngồi với T. nghe kể về Phan Rang quê em, vùng đất nóng như rang, không có rau cỏ gì ăn được vào mùa khô. Những cây xương rồng tua tủa gai trên đồi cao, dê bò phải cố nuốt. Mẹ em lấy lá khoai mì muối chua (như muối dưa). Ngay cả cùi mít cũng muối chua kiểu “nhút” của dân Thanh Chương – Nghệ Tĩnh. T. bảo trọ học ở Sài Gòn, ăn uống kham khổ, đối với dân miền Trung rất bình thường vì “nứt mắt bọn em đã biết mùi nghèo. Nghèo từ trong trứng nghèo ra”. Thực đơn nấu mì gói chan cơm cả chục ngày liền vẫn được coi là thần tiên, vì còn cơm “đoàn tụ” với mì, thay vì cơm không, hay mì không.

Trong vài tuần lễ liền, trên bảng kỷ lục thắt lưng buộc bụng, kẻ viết bài đã xếp anh sinh viên T. ở ngôi đầu bảng. Cho đến khi tiếp cận các tín đồ canh bún chợ Phạm Văn Hai, vị thứ này mới thay đổi. Nhưng canh bún là món

Đây là món Bắc quý vị ạ. Cực kỳ dễ nấu. Lại rẻ tiền. Kẻ viết bài từng thấy các bà Bắc di cư 54 ở Hố Nai – Biên Hòa nấu canh bún theo công thức tôm khô giã nhỏ đun sôi kỹ, cho rau cần nước vào, nêm nếm. Xong cho bún “tùm” vào theo. Hết chuyện! Khi ăn thì mắm tôm, tiêu, chanh ớt cho lên mặt, kiểu lấy cay, lấy nóng làm ngon của con nhà nghèo.

Còn canh bún chợ Phạm Văn Hai khác hẳn. Nó là sự hợp tấu của canh bún và bún riêu. Người ta giã cua đồng lọc nước, đun sôi. Thịt cua kết lại thành giề. Cà chua xào, đổ lên mặt nồi nước, thêm tí gạch cua chưng hành mỡ tạo cảm giác bồng bềnh mây nước. Đọan thả bún sợi to vào, đun sôi. Rau muống luộc cắt khúc, để riêng. Khi khách ăn thì múc bún vào tô, cho ít rau muống lên, chan nước. Khéo sao cho có miếng cà chua, riêu cua chen giữa rau muống. Lọ mắm tôm, đĩa chanh ớt để sẵn, khách tự lấy.

Giữa không gian nghi ngút khói sương, toàn đàn bà với nhau khỏi phải giữ kẽ, chị em thoải mái húp soàn sọat, vã mồ hôi, nước mắt nước mũi vì cay vì nóng. Người khỏe có thể “đánh” một lúc hai tô. Đứng dậy, trả sáu ngàn. So với một gói mì nấu lên, chan cơm, thì vẫn rẻ hơn. Lại nhanh chóng, tiện lợi, đủ vi ta min. Chị Hương bán quần áo sida trong nhà lồng chợ Phạm Văn Hai vừa rút “xà beng” xỉa răng, vừa kể gia phả bà hàng bún “con mẹ bán canh bún này trụ ở đây hơn mươi năm rồi. Ban đầu đặt quang gánh vỉa hè, bán năm trăm, một ngàn. Rồi lên ngàn rưởi, hai ngàn một tô. Chỉ canh bún thế mà xây nhà lầu, thuê mặt bằng, mướn thêm đầy tớ… Suốt khu chợ rau chợ cá, bọn bán quần áo, trái cây, mỹ phẩm, đều ăn của nó”. Thế chắc phải ngon? Bà bạn chị Hương lắc đầu “Chả ngon! Nhưng được cái rẻ vô địch. Ngồi bán ngoài chợ cả ngày, ế ẩm, nóng nực. Chỉ thèm đồ nước. Nhưng hủ tiếu, bún bò, miến gà, mì… thì mười ngàn, ăn không nổi.

"Phải ăn canh bún”

Nghe các bà vén màn bí mật trong khâu bào chế canh bún, kẻ viết bài bủn rủn cả người. Cua đồng nấu canh bún là… cua chết. Cà chua cũng mua lọai dập nát. Rau muống để nguyên chiều dài cọng rau, rửa qua, luộc trong nước có bỏ thuốc tiêu mặn – bi cạc bô nát đờ xút – cho rau vừa xanh, lại mau mềm… Nồi nước cua màu đỏ cam hấp dẫn là nhờ bột ngọt và bột màu công nghiệp (lọai dùng pha để sơn quang dầu bàn ghế)… Biết độc thế, sao cứ ăn? Thời buổi tiền mất giá này, ba ngàn thì mua được gì hơn thế mà chẳng ăn? Vả lại chê canh bún, ăn thứ khác, thì cũng “ngon bổ, vệ sinh” y vậy thôi.

Thực tế phũ phàng từ bát canh bún của các bà các chị buôn bán cò con, ít tiền, thích tiện ở chợ Phạm Văn Hai, coi vậy, nhưng chưa phải là ghê gớm, thảm khổ gì nếu so với các công nhân xí nghiệp. Công nhân ngày nào cũng vào ca từ sáng tới chiều, tới khuya. Có muốn cũng không thể nấu mì gói chan cơm như anh T., hay lê la canh bún như các bà ngoài chợ, mà chỉ đành nhắm mắt nuốt những thứ được xí nghiệp cung cấp, để rồi không ít lần bị ngộ độc hàng lọat, phải đi bệnh viện cấp cứu.

Xuống tìm hiểu một cơ sở cung cấp suất ăn công nghiệp, kẻ viết bài được chủ cơ sở N.M, vốn là chỗ học trò cũ, kể rành mạch:

“Người cung cấp hàng (thịt cá, rau củ), người chế biến hàng, và người đặt hàng, ba người này đều biết sự kém phẩm chất của nguyên liệu. Và cả ba người này đều không ai dám ăn những thứ được nấu xong. Nhưng rồi vẫn phải mua, phải nấu, phải nhận về phân phối vì “bị ép giá tàn bạo”. Thị trường Sài Gòn, theo nhiều nguồn tin khác nhau thì tháng 3 và khốc liệt nhất là tháng 4 sắp tới đã và sẽ có cả ngàn mặt hàng đồng lọat tăng giá từ 10% tới 40%. Tại các siêu thị Big C, Sàigòn Co-op, Citimart, Maximart… thịt heo ngon trên tám chục ngàn đồng một ký. Tép tám chục ngàn. Cá biển ba chục ngàn. Rau cải các lọai, dầu ăn, bột ngọt, đồ khô… đều lên. Vậy mà một suất ăn của công nhân chỉ đặt bọn em bảy ngàn. Bảy ngàn mà đòi cơm phải đủ ăn no. Thức ăn ngoài canh, còn phải một món xào, một món mặn, cả trái chuối tráng miệng. Ai nấu nổi với giá đó? Nhưng vẫn phải nhận. Vì mình từ chối, “thằng” khác vớt liền… Thịt, cá nhiều bữa, vừa bịt mũi vừa làm. Đành lấy gia vị nhiều làm ngon, lấy khuất mắt trông coi làm sạch” Nhưng công nhân thì cũng là con người, sao cho ăn tệ như chó ăn thế. Pháp luật không sợ thì phải sợ lương tâm chứ. Bà chủ N.M cười buồn “Lương tâm không bằng lương tháng đâu! Chủ xí nghiệp bây giờ ai cũng than lỗ. Nhiều xí nghiệp bắt tăng ca, tăng giờ liên tục, cắt luôn suất cơm trưa”

Miếng ăn là miếng nhục …

Cụ Bính, gần chín mươi tuổi, người Bắc di cư, thong thả nhắc cả nhà như vậy. Anh con trai cũng đã có cháu nội, ngắt lời “được nhục là đại phúc. Không có nhục mới thực là …nhục”. Cụ Bính quắc mắt. Chợt nghĩ thế nào cụ thở dài buồn bã. Anh con trai nhìn bố, cũng buồn bã …thở dài. Kẻ viết bài hiểu hai bố con nhà cụ hơi bị…“Hán rộng” (độc giả phát âm “Hán” với phụ âm cuối là n, thay vì ng nhé). Họ dùng chữ “nhục” theo kiểu đồng âm dị nghĩa - nhục là thịt (trong chữ cốt nhục) và nhục là hổ thẹn, nhục nhã.

Còn tiếng thở dài của cả hai bố con, kẻ viết bài đồ chừng họ bắt chước…Tam Nguyên Yên Đổ – Nguyễn Khuyến. Ông Nguyễn này cáo quan về quê, cuộc sống rất thanh bần. Có kẻ đi dự đám tế mộ, khi về đem biếu ông miếng thịt (tặng nhục). Đang đói, được cho thịt, rất mừng. Nhưng là nhà nho, ông Nguyễn lại nghĩ ngợi “không ăn thì sẽ đói. Ăn vào người sẽ nhục. Không ăn thì sẽ gầy. Ăn vào người hóa tục”. Cuối cùng sau khi viện các danh sĩ bên Tàu từ Đào Tiềm tới Hàn Tín để biện hộ cho thái độ “nhận nhục” của mình, bậc danh sĩ giơ tay ra… mà lòng vẫn ngầm tủi nhục “Bùi ngùi lời khó thốt. Nhận thịt che mắt ướt”.

Chuyện cụ Bính lấy miếng thịt răn con cháu về cách sống khiến nhiều người cho là cụ rất hiểu đời. Cụ hiểu thịt là lọai thực phẩm ngon, bổ (chỉ đứng sau gạo và mắm muối, rau cỏ) nhưng việc ăn thịt không hề đơn giản. Vì nó dính đến nhân cách. Miếng ăn quá khẩu thành tàn. Nhưng sau miếng ăn, danh tiết có thể đi đời. Đau lắm, nhục lắm! Nên phải cẩn thận. Cứ coi gương ông Tam Nguyên Yên Đỗ, nhận có mỗi miếng thịt mà làm hẳn bài thơ “Nhân tặng nhục” để giãi bầy lòng mình, đủ biết vị đại nho này cẩn thận chừng nào trong từng việc nhỏ nhặt đời thường.

Không có thịt, trẻ con không phát triển, người lao động nặng không có sức, người mang thai, người già cả, người suy dinh duỡng… sẽ yếu ớt. Biết vậy, nhưng nghèo quá, kiếm đâu ra thịt mà ăn. Mới nghe than, vài người đã hăng hái tư vấn miễn phí ngay. Rằng không cần ăn thịt, chỉ ăn… hột mít cũng ô kê. Vì mười bìa đậu hũ, bổ bằng nửa ký thịt. Mười cái hột mít, bổ bằng một miếng đậu hũ…

Suy ra ăn một rổ hột mít ba ngàn, bổ tương đương nửa ký thịt bốn chục ngàn. Vừa ngon rẻ, lại khỏi suy nghĩ nhục hay không nhục lôi thôi. Kẻ viết bài bái phục công thức “hột mít= đậu hũ= thịt” này lắm. Hỏi ra mới biết tác giả là các “bố già” Hà Nội. Các bố bảo thời bao cấp công thức này khá phổ biến “ngoài ta”. Nhưng thời ấy, mọi người cùng xơi hột mít như nhau nên cũng vui, ít “tâm tư” bằng bây giờ. Bây giờ đói đến nỗi mẹ phải ăn cả thịt con…

Ý chừng các bố muốn xới lại chuyện bà Dung làm nghề “đứng đường” đã bị công an quận Bình Thạnh bắt hôm 24-3 mới đây vì tội ép T.T., đứa con gái ruột mới 10 tuổi, theo nghề của mình. Suốt năm năm liền, ngày nào cũng như ngày nào (cả ba mươi tết, cả khi đang hành kinh) cứ chập tối đứa bé 10 tuổi nọ phải đi khách. Mờ sáng mới được cho về ngủ. Không biết mặt đồng tiền, (khách đi với T. xong, bà Dung thu tiền), không học hành, không bạn bè, không đi đâu… Cho tới khi trốn thoát được, chạy về cầu cứu bố ruột.

….

Người xưa từng nói no nên bụt, đói nên ma. Miếng ăn không phải là miếng gì to, nhưng “đì” nó lâu là không ổn. Kẻ sĩ không thể cứ mì gói chén mãi. Cánh chị em buôn bán ế ẩm không thể cứ “chơi” đều canh bún thổ tả. “Sinh vật sót lại từ thời bao cấp” càng không thể bóc mãi hột mít cho vào mồm, sau đó bình tĩnh ngâm bài Nhân tặng nhục của Nguyễn Khuyến… Chuyện vùng lên, làm cách mạng… thịt chỉ là chuyện ngày một ngày hai.

Bà mẹ nhẫn tâm ăn thịt con, như bà Dung mà báo chí đang kêu ầm, xét cho cùng, cũng là biểu hiện vùng lên – dù rất man rợ – của cái đói nhiều bề, nhiều mặt. Trong giai đọan kinh tế khó khăn hiện nay đời sống của người Sài Gòn nói riêng, cả nước nói chung, luôn chung chiêng, chao đảo. Nếu không cấp bách giải quyết vấn đề lạm phát bằng những biện pháp hữu hiệu, thì e rằng chuyện mẹ ăn thịt con trong xã hội như xã hội ta, không chỉ là hiện tượng. Và “nhục” không là “nhục” riêng của một người nào

MIẾNG ĂN" TRONG THỜI KHỦNG HOẢNG

22/03/2010 13:57  |  26 lượt xem

   Các cụ ta ngày xưa thường nói: "Miếng ăn là miếng nhục" hay "Miếng ăn là miếng tồi tàn". Thật ra thì không phải là các cụ khinh thường "miếng ăn" đâu! Vì dù gì đi nữa, "miếng ăn" cũng là cơm là thịt , là của cải vật chất mà con người phải đổ mồ hôi sôi nước mắt làm ra. Việt Nam lại là nước nông nghiệp nghèo và lắm thiên tai thì lại càng không thể xem nhẹ "miếng ăn" được. Nhưng nếu đem "miếng ăn" so sánh với những giá trị đạo đức thì các cụ đặt miếng ăn ở dưới thấp hơn nhiều! Các cụ chỉ khinh thường những "miếng ăn" hỗn hào, tham tục, "miếng ăn bẩn" mà thôi. Đấy mới là miếng nhục, miếng tồi tàn. Còn những "miếng ăn" mang bao giá trị tốt đẹp của cuộc sống thì các cụ quý trọng vô cùng. Đó là "miếng ăn" san sẻ những khi hoạn nạn.

   Nước ta bây giờ đã khác xưa nhiều, nhưng vẫn đang là một nước nghèo. Đồng bào chỗ này chỗ kia vẫn còn nhiều người khốn khó, chạy ăn từng bữa toát mồ hôi. Vậy mà đôi lúc chúng ta vẫn nhìn "miếng ăn" chưa thật đầy đủ.                            

   Hay nói cách khác chúng ta thường nhìn thông qua cái "sĩ". Đôi khi lại là một cái "sĩ" cứng nhắc và vô lý! Đi dự tiệc ai cũng ngại gắp miếng những thức ăn cuối cùng trên đĩa. Sợ làm như thế sẽ bị cho là nhục, là tồi. Khi đi ăn quán thường trong ly trong chén luôn chừa lại một chút thức ăn, chứ ngại ăn hết sạch. Sợ gì nào? Sợ "quê". Vẫn có cái kiểu lạ lùng như thế tồn tại trong bộ phận chúng ta đấy. Nhà ai có làm tiệc đám gì dù là tại gia hay đặt tại nhà hàng thì cũng cố làm cho mâm bát ê hề, thức ăn đầy ứ. Cứ phải ăn uống thỏa thuê thừa thãi như thế thì mới lấy làm sang, làm hãnh diện. Dẫu khi nhìn lại sự lãng phí bày ra cuối buổi tiệc, ai cũng cảm thấy tiếc xót. Có phải chúng ta đang vô lý chăng?                              

   Tôi từng nghe câu chuyện một ngừơi Việt Nam sang Đức chơi, đi nhà hàng, và...bị phạt. Thì có gì đâu. Ông ấy cũng khá giả, vào quán gọi khá nhiều món, nhưng lại ăn không hết. Mấy bà người Đức dùng bữa ở bàn bên cạnh nhìn thấy ngứa mắt, liền gọi điện cho cơ quan bảo trợ xã hội địa phương. Anh cán bộ cơ quan này lập tức có mặt tại nhà hàng, xé ra một tờ giấy phạt đưa cho vị khách đến từ Việt Nam với lời giải thích:

"Ở đây có quy định cấm để thức ăn thừa quá nhiều. Quý ông đã vi phạm nên bị xử phạt. Tiền là của ông nhưng tài nguyên là của xã hội. Ông không được lãng phí tài nguyên xã hội". 

   Dù tiền phạt không nhiều nhưng cũng đủ làm cho ông khách Việt thấy đỏ mặt xấu hổ. Hay câu chuyện người Hàn Quốc đến hôm nay vẫn còn giữ thói quen dùng vài thìa canh cho vào chén cơm và húp sạch vào cuối bữa ăn. Thói quen này có từ khi dân tộc Triều Tiên còn cơ khó. Nó được giữ lại đến giờ như là một cách để nhắc nhở mọi người phải biết tiết kiệm và quý trọng miếng ăn. Thế đấy! Ở những nước phát triển giàu có mà họ còn có thái độ đối với "miếng ăn" như vậy, thì lý do gì chúng ta lại không nhìn lại mình?

   Thế giới đang đói! Nguồn lương thực thực phẩm của con người đang bị suy kiệt vì nhiều nguyên nhân. Đây không chỉ là thách thức của hiện tại mà còn là của cả tương lai nữa. Nhiều dự án sản xuất nhiên liệu sinh học bị dừng lại. Nhiều quốc gia tăng cường sản xuất nông nghiệp để bảo đảm an ninh lương thực. Giá nông sản thực phẩm leo thang. Ngay ở nước ta mà cũng có lúc người dân lao nhao vì sợ sốt gạo. "Miếng ăn" bây giờ không còn là chuyện bàn luận trong làng ngoài xóm nữa mà đã là vấn đề cả thế giới quan tâm. Vì vậy, chúng ta phải nhìn "miếng ăn" một cách chân thực, công bằng và có trách nhiệm. Chúng ta phải hiểu cho thấu đáo, cho sâu sắc những ẩn ý trong câu nói của ông cha. "Miếng ăn", bản thân nó thực là đáng quý. Và quan trọng chính là cách chúng ta ứng xử như thế nào với "miếng ăn". Để rồi từ cách ứng xử ấy, người ta mới suy ra đâu là miếng ăn ngon, đâu là miếng tồi tàn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: