Tuần lễ dài nhất của Tư lệnh (30/04/1975)
CHƯƠNG 1
QUẢNG TRỊ : CHIẾN TRƯỜNG MÁU LỬA CỦA ĐẠO QUÂN TRỪNG GIỚI
1- Phòng tuyến Gio Linh “những ngày gió cát”
Chiếc trực thăng dành riêng cho Tư lịnh Quân đoàn 1 rời Huế bay về hướng Quảng Trị.
Mấy giờ là 1 buổi chiều tháng 4-1967… Tướng Lãm, Tư lịnh Quân đoàn, tướng Stillwell, cố vấn trưởng bay thị sát chiến trường giới tuyến : Huế - Quảng Trị 59 km, Quảng Trị - Đông Hà 14 km, Đông Hà - Gio Linh 12 km, Gio Linh – Bến hải 8 km. Đã bao năm rồi, những con số, khoảng cách đó vẫn ở lại trong trí nhớ chúng tôi, những người lính mà tuổi thơ đã trải qua ở thị trấn Đông Hà, ở thị xã Quảng Trị, với những mùa thi ở Huế…
Khác hẳn với dự đoán, viên Tư lịnh Quân đoàn không dừng lại ở Đông Hà để thăm Bộ chỉ huy Trung đoàn 2… Như đã nắm rõ phi – trình của viên Tư lịnh, phi công trở hướng bay…
Đông Hà, thị trấn sầm uất của tỉnh Quảng Trị đã nếm mùi bom đạn từ năm 1946, khi những binh đoàn Lê Dương, Maroc chọn Đông Hà làm căn cứ đóng quân… Và con sông Hiếu Giang xuôi về Cửa Việt, chiều hôm đó, ngước chào những người khách lạ ngồi trên trực thăng… Bay dọc theo dòng sông về Giá Độ, Xuân Thành, rồi sẽ qua Mai xá… tạt về Gio Linh, 1 quân lỵ ở bờ nam Bến hải…
- Hồng Hà! Kinh Kỳ gọi!
- Kinh Kỳ nghe Hồng Hà
- Mặt trời chiều bên sông Hồng
Hoạt động truyền tin không – lục hoạt động để hướng dẫn trực thăng hạ cánh, khói màu cuồn cuộn bay… Trực thăng giảm độ cao… hai xạ thủ phi hành trong tư thế sẵn sàng khai hỏa… vì chiến tranh không chỉ diễn ra ở chiến hào, ở rừng núi mà có thể ngay quân lỵ Gio Linh nhỏ bé này…
Viên trung tá Tiểu khu trưởng cùng với Chi khu trưởng Gio Linh hướng dẫn các VIP về chi khu, phòng hội chật hẹp… Buổi họp kín… chỉ có viên trung tá Tiểu khu trưởng được dự….
Khi các VIP rời phòng họp, tướng Lãm gọi viên Tiểu khu trưởng dặn dò :
- “Bằng mọi giá phải đưa dân đi hết. Làm không xong thì anh cũng không còn làm tỉnh trưởng nữa…”
Không ai theo 2 viên tướng về lại Đà Nẵng. Chúng tôi được thả xuống Đông Hà… thị trấn “lính nhiều hơn dân”… Những ngày tạm trú tại hậu cứ Trung đoàn 2 chúng tôi gặp lại một số bạn bè cùng khóa, những người lính cùng quê…sau những lời hỏi thăm là những lời than vãn :
- Đi lính mà ra tận Động Hà là cùng đường rồi, còn đi đâu nữa! Không lý qua bên kia sông Bến Hải đi theo CS.
- Từ ngày ra trường, đưa tuốt về đây… chẳng biết khi nào mới về lại Thủ Đức thăm cô em dễ thương ở Chợ Nhỏ.
- Cái Trung đoàn 2 này, tụi nó gọi là Trung đoàn bị… đày
Cùng với các đơn vị khu giới tuyến, chúng tôi trở lại Gio Linh một ngày trung tuần tháng 4… Từng đại đội phân tán mỏng vào các ấp, xã… để “yêu cầu dân chúng ra đi”… chiếc xe phóng thanh của toán công tác chiến tranh chính trị phát đi nhiều lần lời kêu gọi của bộ chỉ huy chiến dịch : “yêu cầu đồng bào di tản… tại đây sẽ xảy ra những cuộc giao tranh…”
Theo 1 trung đội, tôi đi vào 1 ngôi làng gần Mai Xá… ở đây chúng tôi chứng kiến những người dân nghèo bỏ xóm làng ra đi trong vô vọng…
Một cụ già dẫn 2 đứa cháu đến gặp chúng tôi, gia tài của cụ chỉ có 1 bao bị đựng quần áo, 1 cái thúng mây đựng chén đũa, nồi niêu… còn tất cả để lại…
- Ông ơi! Cực chi mà cực dữ ri… mẹ nó bỏ cha nó, lấy chồng khác, cha nó đi lính tuốt đâu trong nam, ông nội già thế này nuôi 2 cháu cũng không yên thân, đi như ri khi mô mới về mấy ông?
Phải nói gì với ông cụ đây, phải nói gì với những người dân lên xe GMC ra đi, phải nói gì với những người mẹ già tóc bạc phơ bồng cháu dại… Cha mẹ của chúng nó đâu?... Và căn nhà nào, vùng đất nào sẽ đón các cụ, bà con tạm trú?... N cùng đi với chúng tôi đã quay hết 2 cuộn phim 16 ly, với rất nhiều cận ảnh, cận ảnh về những dòng lệ, về những khuôn mặt hốc hác, về những ánh mắt buồn bã, về manh áo vá bạc màu… Cả 1 quân Gio Linh ra đi…
Từng chiếc GMC chuyển bánh, gởi lại Gio Linh bụi mù… Lũy tre, chiếc cầu, giếng nước ngọt ở lại với vùng gió cát…
M79:
2- Cam Lộ, những ngày nghiệt ngã… Ngày đầu tiên của di dân
Cách quân lỵ khoảng 2 km, thung lũng đất đỏ bụi suốt một mùa hè là quê hương tạm trú… những dãy nhà “tăng” dã chiến dựng lên, bên cạnh các toán Dân sự vụ VN, có cả các người bạn cao lều nghều trong đội “Tiểu đoàn tâm lý chiến Hoa Kỳ” từ Đà nẵng ra… Nhưng những người vất vả nhất vẫn là các anh lính của Trung đoàn 2 Hà Mã (sau này là anh cả của Sư đoàn Trừng Giới), vừa an ninh, vừa làm luôn nghề của ngành “công binh kiến tạo”,….
Những viên hạ sỹ quan đi lính từ hồi Tây, bây giờ là thượng sỹ thường vụ đại đội, không ngớt đôn đốc lính :
- “Tụi bay rán mà làm, ông thiếu ta không tha cho tụi bây, nếu đến tối mà dựng lều không xong…”
Một thượng sỹ - tuổi hơn 40, đã làm đơn xin giải ngũ, phân trần với các nhà báo kaki :
- “Rứa là chưa chắc giải ngũ được, có ở thêm vài năm, may mắn lắm là lên được chuẩn úy, không chừng lại nằm trong quan tài để được truy thăng... Cái Trung đoàn 2 này đa số là lính vô kỷ luật, đào ngũ, lao công đào binh phục hồi… thật là thập cẩm… quân đoàn và sư đoàn chê, cứ đẩy ra đây… Không biết gọi cái trung đoàn này bằng cái tên chi mới đúng…”
Một trung sỹ mới ra trường, hạ sỹ quan tiểu đoàn trưởng quay sang nói với thượng sỹ thường vụ đại đội :
- Bố đã đọc cuốn tiểu đoàn trừng giới của cái ông nhà văn “Hi Ming Uê” chưa?
- Mày giỏi sinh ngữ lắm sao mà đọc được?
- Đâu có giỏi bố… Con đọc trong tờ báo đăng từng kỳ, ông nhà văn chi đó dịch ra tiếng Việt…
- Thôi, làm đi con ơi! Tiểu đoàn trừng giới, trung đoàn trừng giới! Rồi sau này cũng có cả sư đoàn trừng giới.!
- Phượng Hoàng mà nghe được là bố bị lãnh củ đấy… Con nghe ông đại đội trưởng nói… Khi còn trung úy, Phượng Hoàng đã có lần làm đại đội trưởng đại đội kỷ luật… mà phe mình gọi là Đại đội trừng giới…
+ Đại cái bang đội quân trừng giới
Đêm N+7 tại Bộ chỉ huy chiến dịch, người phóng viên quân đội ngồi nói chuyện với thiếu úy S, trung đội trưởng dân sự vụ… Anh cho S biết :
- “Ngày mai trở về Sài Gòn để giao ảnh và bài… sau đó trở lại bám trụ ở đây”.
Cách 2 người không xa, đại tá Đỗ Kiến Nhiễu (cự chánh văn phòng Quốc trưởng Dương Văn Minh, thất sủng, bị đẩy ra Trung, tướng Lãm phong cho chức vụ “Phụ tá Tư lệnh đặc trách Chương trình tỵ nạn”) ngồi nói chuyện với thiếu tá G, trung đoàn trưởng Trung đoàn 2, biệt khu trưởng Biệt khu giới tuyến, đồng thời là “Phó phụ tá về Chương trình tỵ nạn”. Thiếu tá G coi thường đại tá Nhiễu, dù có cấp bậc thấp hơn nhưng ông đang nắm binh quyền trong tay. Dưới ánh đèn điện, nét mặt viên trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 xa vắng… Còn đại tá Nhiễu, nỗi buồn nối tiếp nỗi buồn,… đường công danh đã chia tay với ông. Nhìn viên thiếu ta đầy tham vọng, ông không nghĩ được rằng chỉ 4 năm sau, bông mai bạc trên cổ áo thiếu tá G sẽ trở thành 1 ngôi sao bạc, ngài thiếu tá G sẽ là chuẩn tướng G Tư lịnh Sư đoàn “con út” của quân đội…”Sư đoàn Trừng Giới” của đạo quân bờ nam vĩ tuyến 17.
Ngồi bên S, anh bạn phóng viên tường thuật 1 đoạn phim sống về “ngài tư lịnh” tương lai…
- Ông G xuât thân khóa 10 Đà Lạt, văn hóa trung học, ra trường đổi về Sư đoàn Dù, cùng lượt với tướng Trưởng, khóa 4 Thủ Đức.
- Sao ông lại về Sư đoàn 1?
- Thế là bạn không biết, năm 1960, Nguyễn Chánh Thi đảo chính hụt, chạy sang Campuchia… Phượng Hoàng G mất người che chở… bị đẩy đi nhiều nơi… Khi tướng Dương Văn Minh lên… ông Thi trở về… rồi sau vụ chính biến của tướng Khánh, ông Thi được cử làm tư lịnh Sư đoàn 1. Thế là Phượng Hoàng G gặp lại “chủ tướng”, ông Thi cho ông G làm trưởng phòng 2 Sư đoàn…
- Sau đó ông đổi ra đây?
- Chưa đâu, khi ông Thi về, làm tư lịnh quân đoàn 1, ngồi ở Đà Nẵng, ngài thiếu tướng không quên “Đại cái bang G, thế là từ đại úy được mang thiếu tá về làm phó tỉnh trưởng Nội an tỉnh Quảng Nam. Tỉnh trưởng là dân sự, nên ông phó nội an kiêm luôn Tiểu khu trưởng… Nguyễn Chánh Thi rớt đài… Hoàng Xuân Lãm từ Sư đoàn 2 về nắm Quân đoàn… Ngô Quang Trưởng về nắm sư đoàn 1… Tướng Trưởng xin G về làm trung đoàn trưởng Trung đoàn 2… Cái trung đoàn mà báo trí Kaki gọi la quân trừng giới…
- Mày biết tụi lính chiến tranh chính trị của tao giải thích chữ trừng giới thế này : Trừng là trừng phạt, giới là giới tuyến.
- Không đúng, phải nói là indisciplinaire mới đúng nghĩa trừng giới…
Đêm N+7 tại Cam Lộ, đêm hoàn tất mục tiêu 1 của kế hoạch “di dân”. Những căn lều vải lập lòe trong đêm… Ánh sáng đèn điện không dọi hết nỗi ưu tư của những người bỏ xứ mà đi
M79:
3- Rồi ngày kia… Sư đoàn Trừng Giới… ngước chào giới tuyến
+ Người được gắn “sao” sau cùng ở Phú Văn Lâu
Khi tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ, ghé thăm trại “định cư”, thì kế hoạch di dân đã hoàn tất… Để tưởng thưởng cho những người đã nỗ lực trong kế hoạch “dồn dân” này, tướng Kỳ đã gắn “Chương-mỹ bội tinh” cho đại tá Nhiễu, thiếu tá G và 1 số viên chức dân sự khác.
Khi gắn huy chương cho thiếu tá G, tướng Kỳ quay sang hỏi viên tư lịnh Quân đoàn :
- Mới làm trung đoàn trưởng sao không cho lên trung tá?
- Đương đề nghị
Đập mạnh vào vai thiếu tá G, tướng râu kẽm nói :
- Ráng lên, có ngày cũng lên tướng như tôi!
Gần 4 năm sau, lời phán của “thủ tướng” đã trở thành hiện thực… khi “thiếu tá G ngày nào” trở thành đại tá G, tư lịnh phó Sư đoàn 1…
Lam sơn 719 khai diễn vào thượng tuần tháng 2-1971, cuộc hành quân bị sa lầy…Tuy nhiên để rửa mặt, tổng thống Thiệu cho lệnh tổ chức “lễ chiến thắng”, tại Phú Văn Lâu… 3 người được đeo sao và thêm sao. Phạm Văn Phú lên tướng 2 sao, Hồ Trung Hậu, tư lịnh phó Dù lên tướng 1 sao… Người cuối cùng được tổng thống Thiệu, cựu tư lịnh Sư đoàn 1, gắn sao chính là đại tá G.
Khi bắt tay viên tư lịnh phó Sư đoàn 1, tổng thống Thiệu nói :
- Lên chuẩn tướng, chuẩn bị nắm sư đoàn
Tướng Phú đứng gần đấy, liếc mắt sang, lòng không mấy vui…
“Biết đâu cái thằng này lại thay mình. Tông tông! Hay chơi cái trò cho lên sao rồi mời đi chỗ khác ngồi chơi!...”
+ Lính Mỹ giã từ phòng tuyến “Nước mắt “
Trở lại mùa xuân 1967, phòng tuyến điện tử Mc Namara – sản phẩm của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ - được xây dựng dọc theo bờ nam sống Bến hải, vòng lên miền núi, những C1, C2, Tân Lâm Bắc, tân Lâm… trở thành quen thuộc với các đơn vị Sư đoàn 3 thủy quân lục chiến Mỹ… Riêng với Khe Sanh do 1 trung đoàn phòng thủ… “Trung đoàn 26 – Mắt thần”… Tết Mậu Thân, Khe Sanh bị bao vây… số phận của Trung đoàn 26 Mỹ và Tiểu đoàn 37 biệt động quân tăng cường được đếm từng ngày… Khi đó, ông G còn làm trung đoàn trưởng Trung đoàn 2, đã điên đầu vì số lính “đạo quân trừng giới” đào ngũ ngày càng tăng. Thêm vào đó số phận Khe Sanh gây nỗi ám ảnh cho số phận của Trung đoàn 2 bô binh. Nếu tướng Lãm điều Trung đoàn 2 nhảy vào Khe Sanh thì chắc “trung đoàn trừng giới” này đào ngũ gần hết…
Sau hơn 4 năm trấn giữ phòng tuyến điện tử, 1 phòng tuyến mà các nhà báo Anh đã gọi là phòng tuyến “Nước mắt người Mỹ”… những người lính Mỹ cuối cùng đã từ giã Gio Linh vào những ngày cuối tháng 9-1969… Bộ chỉ huy tiền phương Sư đoàn 1 thành lập với lực lượng nòng cốt là Trung đoàn 2 Hà Mã và thiết đoàn 11…Nhưng tình hình ngày càng căng thẳng… 2 năm sau khi lính Mỹ rút khỏi Gio Linh, áp lực quân sự càng gia tăng trong nỗi lo âu của người lính “trừng giới”…
Tướng 3 sao Hoàng Xuân Lãm trình tổng thống xin thành lập Sư đoàn 3 bộ binh có nhiệm vụ phòng thủ từ phía bắc thị xã Quảng Trị ra đến Bến hải…
Dù trong trình văn, Bộ tư lịnh Quân đoàn đặt tên cho sư đoàn tân lập này là : “Sư đoàn 3 bộ binh”, nhưng từ lính đến sỹ quan tại Sư đoàn 1, Sư đoàn 2, Bộ tham mưu Quân đoàn đều gọi nó là “ Sư đoàn 3 giới tuyến”,
Và những người lính được chọn về đầu quân ở đại đơn vị này thì đặt cho sư đoàn sắp thành lập nhiều tên gọi khác nhau : “Sư đoàn 3 Bến Hải”, “Sư đoàn 3 Trừng Giới”, “Sư đoàn 3 bị đày”…
Còn thân quyến họ thì bị ám ảnh bởi danh hiệu :
"Sư đoàn Trừng Giới"
+ Ái Tử, điểm hẹn của những lao công đào binh
Theo tổ chức, 1 sư doàn bộ binh gồm có :
- 3 trung đoàn
- 1 thiết đoàn kỵ binh
- 4 tiểu đoàn pháo binh
- 4 tiểu đoàn yểm trợ : công binh, truyền tin, tiếp vận, quân y
- Và 1 số đại đội biệt lập : trinh sát, vận tải, kỹ thuật, quân báo…
“Lấy đâu ra lính mà thành lập”… Các trưởng phòng 1 của Quân đoàn 1, Sư đoàn 1, các tiểu khu rối đấu vì phải “đào đâu ra lính” để giao cho Sư đoàn tân lập…
Lấy Trung đoàn 2 làm lực lượng nòng cốt, rút bớt 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 51 Biệt lập 2 Quảng Nam (Trung đoàn này có đến 5 tiểu đoàn bộ binh)… chừng đó chỉ giải quyết được một nửa nhu cầu quân số về bộ binh. Còn các đơn vị khác, các tiểu đoàn bộ binh tân lập? Lính đâu? Quan đâu?
Tòa án quân sự đã vắng đi những phiên tòa xư tội đào ngũ… Đài phát thanh thông báo hàng ngày “Lệnh ân xá” đối với quân nhân đào ngũ ra trình diện… “Ngành quân pháp” liên tiếp ban hành văn thư phục hồi binh quyền cho các lao công đào binh… Tất cả về Quân Khu 1… tất cả về Sư đoàn 3… tất cả về giới tuyến.
Lính thì vậy, còn quan thì tìm đâu? Thiếu úy A vô kỷ luật… Trung úy B hay đi phép trễ… Đại úy C hay “dù” về thăm nhà”… Khỏi phạt… Khỏi đem giam quân lao Mang Cá… Cứ cho ra Sư đoàn 3 bộ binh!... Ái Tử, thung lũng nép mình bên quốc lộ 1, cách thị xã Quảng Trị không quá 5 km là điểm hẹn của những người lưu lạc…
Tuyến đường Huế - Quảng trị những ngày tháng 9-1971 rộn ràng theo những đoàn “công voa” chở quân… Sẽ không tìm thấy niềm vui, nụ cười qua từng người “Lữ khách”
Tướng G, đại táCh tư lịnh phó tạm thời kiêm tham mưu trưởng bận rộn suốt ngày với kế hoạch bổ sung quân số… Tướng 3 sao Hoàng Xuân Lãm thường xuyên ghé Ái Tử… trước khi lên phi cơ trở lại Đà Nẵng… bao giờ cũng nhắc các đơn vị trưởng :
- Phải làm cho xong trước tháng 10, đầu tháng 109 là xuất quân… tổng thống ra dự!
+ Mặt trời lớn sẽ chiếu vào đầu tháng 10
Còn 1 tuần lễ nữa thì hoàn tất giai đoạn chuẩn bị. Tướng Lãm trình về Sài Gòn xin cho Sư đoàn 3 làm lễ xuất quân vào ngày 1-10-1971. Trình văn gởi “đại tướng tổng tham mưu trưởng trưởng” để “đại tướng” mời tổng thống chủ tọa lễ xuất quân…
Bộ tư lịnh làm việc suốt cả ngày, kể cả đêm. Phòng 1, Tổng quản trị, phòng 3 phải làm việc đến khuya… Người bận rộn nhất không phải là tướng G mà là đại tá Ch tư lịnh phó tạm kiêm tham mưu trưởng… Thâm tâm ông rất mong ngày xuất quân để ông có dịp gặp lại tổng thống… Ông đã làm tỉnh trưởng “hụt” Thừa Thiên 1 lần sau Lam Sơn 719… Đây là dịp ông chứng tỏ cho tổng thống thấy “tài năng tham mưu diễu hành của ông…
Những ngày cuối tháng qua đi trong nỗi mong chờ… “Mặt trời lớn sẽ chiếu vào tháng 10”… Tướng G thỏa mãn với 1 sao trên áo, với ghế tư lịnh vững vàng… Chỉ khổ cho đại tá tư lịnh phó, lo lắng ngày đêm… chỉ khổ cho bộ tham mưu bị tướng G chưởi mắng, chỉ khổ cho các đơn vị trưởng cấp nhỏ trưởng cấp nhỏ, giữ lính như giữ, trẻ chỉ sợ đến ngày xuất quân, tụi nó chuồn hết thì khốn, không có lính để làm lễ xuất quân… ý nghĩa đó như lãng vãng trong tâm tưởng của các trung đội trưởng, đại đội trưởng bộ binh
Chiều 30-9, lực lượng quân cảnh tuần tra dọc theo quốc lộ, ngay tại xã Đông Hà và Quảng Trị… Tất cả chuẩn bị cho ngày dài nhất “1-10-1971”.
M79:
4- Đạo quân trừng giới lên đường
Kèn quân hiệu vang lên, tướng 3 sao Hoàng Xuân Lãm trao quân kỳ cho Vũ Văn Giai, tư lịnh đầu tiên sư đoàn… thế là ước mơ của đại tá Ch đã là mây khói… bản nhật lệnh ngắn ngủi của tướng Lãm không xoá được nét hằn buồn bã trên khuôn mặt của những người lính trẻ… Một ngày không xa, có thể họ sẽ nghe lại điệu kèn hôm nay, không phải trong 1 buổi lễ mừng chiến thắng mà là tiếng truy niệm cho bạn bè họ nằm xuống… ý tưởng chiến bại đã chớm trong nhận thức của bao người…
Lễ xuất quân qua đi trong nỗi chán chường mệt mỏi… Lại những đoàn xe đưa những người lính mới về doanh trại… xe ngừng lại Đông Hà… Xe ra Gio Linh… Xe về Cam Lộ… Xe lên tân Lâm, xe vượt đường 9 bụi muờ…
- Xuống đi tụi bây, đến “nhà” rồi đó!
- Không có tạt vào quán… Muốn ăn uống gì thì vào câu lạc bộ hậu cứ!
- Tối nay, cho tụi bây say!... “say 1 đêm thôi… rồi mai lên đường”.
- Đ…m… ở “Dù” đâu có cảnh này… tha hồ lả lướt…
- Thôi đi cha… Dù hay Biệt động quân đi chỗ khác chơi… Về đâ là Sư đoàn 3.. Sư đoàn giới tuyến… tuyến giới… trừng giới… ở đây mà ca… con cá!
Những câu nói “chen nhau” đi tìm thính giả… họ là xướng ngôn và cũng chính họ là thính giả… Chỉ hơn tháng trước, còn trong trại quân lao… tuy cực nhưng súng đạn chưa hỏi thăm sức khỏe… Còn về đây… những “truy tặng, truy thăng, chiến thương bội tinh” đợi chờ! Ớn quá!...
Tại 1 quán nước gần bến xe Đông Hà, thiếu úy T, sĩ quan Trung tâm hành quân căn cứ T.L và 1 chuẩn úy ngồi chờ xe lên Cam L65… Họ từ hành quân chuốn về Đông hà buổi sáng, “lặn” đã nửa ngày… bây giờ trở lại đơn vị… Trung đoàn trưởng và trưởng ban có lẽ chiều mới về… Có gì thì “Thẩm quyền phụ tá trưởng ban” che chở… Lại những câu chuyện về cái chết và sự sống… Đẩy chai bia về phía viên chuẩn úy… thiếu úy T nói :
- Hồi tao ở La Sơn, tao ớn nhất là ông đại tá H… hở 1 tý là chưởi như tát nước… có nhiều khi định xin ra tiểu đoàn, làm đại đội phó hay trung tá Ch ở Sư đoàn, gởi gắm tao với Phượng Hoàng H… nên mới được làm ở trung tâm hành quân Trung đoàn…
- Sao mày xin ra đây?
- Ông Đ rút tao đi… đi đâu thì cũng được ở bộ chỉ huy Trung đoàn… Còn mày, chuẩn úy mới ra trường, gốc mạnh mới được ngồi ở bộ chỉ huy của Phượng Hoàng… rán mà giữ mình
- Ở Trung đoàn tao cũng không yên tâm… Nếu có đánh lớn… nhiều khi ở bộ chỉ huy còn “tan tành” sớm…
- Đ…m con trai gì mà bi quan quá… Không chết trước thì chết sau… sợ đ… gì!
- Mày dóc tổ, nếu mày không “rét” bom đạn mày về T.O.C (trung tâm hành quân) làm gì?
- Thì tao đã nói, bà già chỉ còn mình tao, bà sợ tao chầu trời sớm…
- Đã ra cái sư đoàn mà thiên hạ gọi là trừng giới này, mạng sống đếm từng giờ…
- Từng giây chứ con! Thôi stop! Uống đi… uống cho đã… Lên Ca-rôn thì không uống nhiều được… Phượng Hoàng la…
+ Người tình ngoài chân mây
Trung úy Q… Đại đội trưởng kiểm soát hàng quân… Thường vụ đại đội vừa báo cáo : “Tụi nó chuồn hơn 10 đứa…’ không tập họp… Q đi từng trung đội… Lát nữa đây, đích thân Phượng Hoàng Đ sẽ thanh tra quân số… Thế nào cũng bị “quạt” nặng
- Kính Họa My tôi nghe! Sơn Ca tôi đương thăm các con… Kính Họa My! Đáp nhận!
Q trở về ban chỉ huy khi cuộc điện đàm cũng vừa dứt… Người hiệu thính viên đại đội báo cáo cho Q biết : “Phượng Hoàng D không đến…”, lát nữa trực thăng sẽ bốc quân.
Để chiếc nón sắt lên mỏm đá, Q ngồi xuống cạnh viên thiếu úy đại đội phó cằn nhằn :
- Đ.m đã đề nghị bao nhiêu lần… Trong máy đừng có “kính”, có “thưa”… vậy mà không ai chịu nghe hết… thằng con nít nghe riết cũng biết Họa My là tiểu đoàn trưởng, Phượng Hoàng” là trung đoàn trưởng… “Mặt Trăng” là tư lịnh phó… “Mặt Trời” là tướng…
Nhìn sang đại đội trưởng, viên thiếu úy mới đổi về làm phó, như đọc được những bất mãn qua khuôn mặt và những câu nói của Q… trung úy 4 năm chưa lên đại úy… Anh tán đồng nhận xét của cấp chỉ huy trực tiếp :
- Phải đấy trung úy, mấy ông Việt cộng nghe tụi mình nói qua máy PRC25 đoán được hết… sở dĩ họ pháo kích trúng các điểm đóng quân cũng chỉ vì tụi mình không chịu bảo mật khi nói qua máy… mã hóa đâu không thấy, chỉ thấy toàn bạch văn…
Đại đội chờ trực thăng đến… những dãy núi ở phía bắc Tân Lâm chờ họ… mùa đông ở Cận Sơn Quảng Trị không lạnh lắm nhưng những cơn gió thay mùa khó chịu làm sao… Mới thành lập chưa đầy 1 tháng, tiểu đoàn bị “đì”, ứng chiến 100% để sẵn sàng nhảy khi có đụng độ. Sáng nay đại đội sẽ trực thăng vận vào tọa độ mới làm nhiệm vụ lục soát nghe đâu có các ông lớn ở Sài Gòn ra thăm…
Ngồi cách Q không xa, toán phóng viên điện ảnh của Sư đoàn đương kiểm tra lại máy. Nhìn họ, Q nói với đại đội phó :
- Lát nữa, mày dẫn mấy cha nội quay phim chụp hình theo “slick” của mày… còn tao đi “slick” khác… đ.m tao cóc ưa mấy cha chiến tranh chính trị… toàn bốc phét.
- Nhưng thẩm quyền không nên nóng, lịnh của tiểu đoàn trưởng là phải lo cho ba ông này, để họ “bốc” mình lên truyền hình… Nhất là có ông đại úy đi theo!
- Bốc cái củ “c”… Toàn là lính “bất trị” đào ngũ năm mười lượt… thứ lính “trừng giới” mà bốc con mẹ gì… Để rồi mày xem… Lát nữa vào “vùng”… Chỉ có lục soát… Chưa chắc có Việt Cộng nào đâu!... Cũng chẳng có lấy 1 viên A.K để tịch thu nữa… Tao làm đại đội trưởng hơn 4 năm rồi tao biết quá… “Việt Cộng” khôn lắm… đợi mình lơ là thì mới đánh!
Viên thiếu úy không chú ý nghe đại đội trưởng, rụt rè lấy trong túi áo ra 1 bức thư… anh đã đọc bức thư không biết bao lần. Lá thư của 1 người con gái học trường Nguyễn Hoàng gởi anh… Không rõ những gì viết trong thư, chỉ thấy anh buồn...
- Đ.m lại thư tình! Đi lính thì nên xa cái món “yêu đương” đi con!
- … Đâu có thẩm quyền
- Tao đi guốc trong bụng mày… Thôi được, để tao nhờ ông đại úy dẫn toán quay phim qua “chộp” mày 1 “xen” gởi về cô bạn gái “hậu phương” kèm theo phụ đề : “Người tình ngoài chân mây”… Đi lính cái Sư đoàn Trừng Giới này mà yêu đương chi khổ thôi con ơi!
+ Mẹ già tóc bạc trên đường tìm con
Người lính gác hậu cứ Trung đoàn 56 trong tư thế nghiêm báo cáo với thiếu tá chỉ huy hậu cứ khi xe ông vừa vào đến cổng trại :
- Kính thưa thiếu tá… có 1 bà già ở trong Nam ra xin gặp thiếu ta… Bà đợi ở phòng trực… Tôi cho bà gặp thiếu úy Ban 1 nhưng bà không chịu… nằng nặc đòi gặp thiếu tá…
- Thôi được, mày nói với trưởng toán trực dẫn vào gặp tao
…. Thiếu tá chỉ huy hậu cứ vừa ở Bộ chỉ huy hành quân về, ông bị trung tá Đ khiển trách vì không kiểm soát số tân binh bổ xung… Chưa ra hành quân thì đã “lặn”, đã nhiều lần ông xin thôi cái chức “quản gia” này nhưng trung tá Đ không chịu… Đương bực mình vì trăm chuyện đổ lên đầu ông… bay giờ lại nghe bà già than vãn… Tuy nhiên ông phải kiên nhẫn nghe… Bà già đã hơn 60 tuổi đi thăm “thằng Hai” lính Trung đoàn 56
- Má cho biết con má tên gì?
- Trần Văn S.
- Cấp bậc?
- Nó đào ngũ mấy lần, có cấp chức gì đâu!... từ Sài Gòn ra đây, mong gặp được nó… cho nó ít tiền…
- Thế cậu ấy không thư từ gì cho má?
- Ôi ông ơi! Nó có màng chi đến chuyện gia đình… đào ngũ bị bắt mấy lần… lần cuối ở Sư đoàn 5… rồi trốn ra Đà Nẵng thăm dì nó… bị quân cảnh bắt… cả tháng sau mới biết…
- Thôi được, má muốn gặp cậu ấy thì tôi cố giúp… nhưng má có biết ở tiểu đoàn nào không?
- Biết thì quá tốt rồi, khổ là không biết… Cả tuần nay đi tìm nó… nó chỉ nhắn về là đổi ra Trung đoàn 56
Theo chỉ thị của hậu cứ, Ban 1 đã dó danh sách đám tận binh bổ sung, tìm cho bằng được bình nhì Trần Văn S quê ở Thủ Dầu Một.
Nửa giờ sau thiếu tá chỉ huy hậu cứ nhận điện thoại thông báo của Ban 1 : “Binh nhì Trần Văn S Đại đ65i chỉ huy tiểu đoàn 1/56…”
Người mẹ già vẫn ngồi phòng ngoài đợi kết quả… nhưng vấn đề cho S gặp mẹ ngoài thẩm quyền của ông… Ông sẽ giao cho Hậu cứ tiểu đoàn giải quyết… Tiểu đoàn đường hành quân làm sao gặp được…
Nhìn người mẹ già đi về phía Hậu cứ tiểu đoàn 1… thiếu tá chỉ huy hậu cứ quay sang nói với 1 đại úy sư đoàn đến công tác.
- Hàng ngày tôi phải giải quyết không biết bao nhiêu vụ “Mẹ tìm con, vợ tìm chồng”… Chán quá… Xin thôi… mà không được!
5- Tuần lễ dài nhất của mùa đông vĩnh biệt
+ Bài thuyết trình không có đoạn kết
Viên trưởng phòng 1 chưa kịp nói hết những ý kiến cuối cùng của mình thì trung tá B, tham mưu trưởng Sư đoàn đã chen vào :
- Khỏi kể lể dài dòng… như thế là quân số lý thuyết và quân số thực hiện chênh lệch… Anh làm trình văn ghi thật rõ… nhấn mạnh 3 điểm này cho tôi :
• Thứ nhất là quân số tại tại hàng chỉ có 70% so với quân số lý thuyết
• Thứ hai là Quân đoàn giao cho Sư đoàn toàn những loại lính bất trị. Lính tốt quá hiếm!
• Thứ ba là nguồn tuyển mộ hầu như số không (0), không có ai ở tỉnh Quảng Trị này tình nguyện đi Sư đoàn 3… trừ khi bị quân cảnh bắt… vì trốn lính mới xin nhập Sư đoàn 3 để ở gần nhà…
Buổi họp tham mưu thu hẹp cuối tuần tại phòng hội sư đoàn không mấy vui… trung tá B, cựu tiểu khu phó Thừa Thiên… nhận chức tham mưu trưởng với một gia tài tham mưu vá víu… gốc pháo binh, hay tính toán… Ông thấy rõ cái bi kịch đương xảy ra cho sư đoàn con út của quân đội… Trước đó 1 giờ, tại phòng riêng của tư lịnh, tướng G, đại tá Ch tư lịnh phó và ông đã chia xẻ cho nhau những ngại đó… Tư lịnh phó đã nói với tư lịnh :
- “Nếu có một Mậu Thân thứ 2 xảy ra trong tết này, tôi e sư đoàn ta khó giữ nổi… Ngày trước, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến Mỹ quân gấp 2 sư đoàn Việt nam chỉ trấn giữ có 2 quận Gio Linh, Trung Lương mà vẫn khốn đốn… huống hồ bây giờ… Chúng ta đương chịu trận… Sư đoàn mới thành lập mà quân số thiếu hụt…”
Tư lịnh lặng yên… Tham mưu trưởng lặng yên… hết nhìn chẩn tướng đến nhìn đại tá… Từ ngày ông về đây, đã bao nhiêu buổi họp, đã bao nhiêu lần thuyết trình, có mở đầu, có thân bài nhưng không tìm ra kết luận… Phần kết luận đó dành cho đại tướng Viên, trung tướng Lãm hay cao hơn là tổng thống
+Tín hiệu dông bão sắp đến với những chiến hào
Bằng những nguồn tin do phòng 7, phòng 2 Tổng tham mưu và Quân đoàn cung cấp… tướng G được thông báo “đối phương có khả năng đánh lớn trong dịp Tết… trước Tết có thể sẽ có những đợt giao tranh cấp trung đoàn”…
Khác với các “tư linh sư đoàn” khác, viên gia trưởng Sư đoàn 3 đã trải qua những chặng đường gian khó… Hơn 3 năm làm trung đoàn trưởng Trung đoàn 2, ông hiểu được đối phương cũng như hiểu được sức mình. Trung đoàn 2 còn bình yên chính là nhờ hỏa lực không pháo, những trận B52 trút xuống núi rừng Gio Linh ngược về Khe Sanh đã giúp các tiểu đoàn ông đỡ vất vả, nhưng ngày đó lính Mỹ ở cạnh ông… còn bây giờ… Cả Bộ Quốc phòng lẫn Bộ Tổng Tham mưu khoán trắng cái phòng tuyến gai góc cho ông và lính Sư đoàn 3… chỉ cần 1 lực lượng gấp đôi có xe tăng… đạo quân ông có thể bị “xất bất xang bang”…
B52 vẫn yểm trợ nhưng không ào ạt như trươc…Viên đại ta cố vấn trưởng sư đoàn vẫn lầm lý suốt ngày… Giá như trong tay ông có được sư đoàn thiện chiến như Sư đoàn 1 của tướng Phú… Dù mỗi lần ghé thăm, tướng Lãm đầu nói :
“Sư đoàn 1 trước đây có 17 tiểu đoàn bộ binh, bây giờ rót sang cho anh hết 5 tiểu đoàn, mà là tiểu đoàn giỏi… anh còn than vãn gì nữa?”
5 tiểu đoàn không tệ thì đúng hơn!... nhưng bị xé lẻ thành 2 trung đoàn trừ… chiến sự gia tăng… lính chán nản… Những dấu hỏi lớn “phải làm thế nào đây?” hẳn đã ám ảnh viên tư lịnh của Sư đoàn trừng Giới.
… Một ngày trung tuần tháng chạp, phái đoàn báo chí quân đội ở Sài Gòn ra thăm Sư đoàn. Ông né giao cho đại tá Ch tiếp… Hơn ai hết… ông hiểu rõ mình và hiểu rõ đối phương… Những bài phóng sự, những đoạn phim ca tụng không giải quyết được gì, chỉ trở nên lố bịch khi thực tế tàn nhẫn và phũ phàng.
Có lần ông nói với viên tham mưu phó chiến tranh chính trịc sư đoàn :
“Ông đừng có bắt chước cái thằng Tr… Sư đoàn 1… Nó “ca” đến nỗi nghe phát ngượng… Ông có biết trong khi các sư đoàn khác chỉ có 3 trung đoàn với 12 tiểu đoàn, Sư đoàn 1 quân số gấp rưỡi, có ông tướng Stillwell trước đây đỡ đầu… tình hình 2 năm trước đây còn nhẹ, ây thế mà nghe nó “ca” trên radio và trên TV, chỉ muốn tắt máy”.
Đại úy Đ, tùy viên tư lịnh đã phải chịu trận với những cơn thịng nộ không bình thường của tư lịnh
Những tín hiệu do Biệt đội Kỹ thuật hoặc những bản tin mật hàng ngày trình tư lịnh… đó là những tín hiệu có thể đánh lớn, ít ra là cấp trung đoàn… những chiến hào dọc theo phòng tuyến “Trung Gio” đợi chờ giông bão… những căn hầm chống pháo kích không hiểu có chịu nổi những trận mưa pháo từ rừng sâu gởi đến…
+ Tư lịnh phó và người thày bói
- “Moa” đã gặp ông thày bói nổi tiếng như “toa” giới thiệu… Ông nói “moa” chỉ ở Quảng trị thêm thời gian ngắn nữa rồi đi.
- Ông có nói bao giờ đại tá lên “tướng” không?
- Ông không nói, nhưng ông biết sau Tết, “moa” gặp hên…
- Dám đại tá lên nắm tư lịnh, ông G đổi đi!
- Cái đó thì chưa biết, như nếu được cử làm tư lịnh, moa thừa sức, không thua ai… Đã từng nắm 2 trung đoàn, đã từng chỉ huy trưởng tiền phương sư đoàn, moa không có nhảy “lớp”… từ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn phó… trung đoàn trưởng, moa đều đi qua đủ các “lớp” đó… Không có nhảy băng như các tư lịnh khác
Một sáng hạ tuần tháng chạp, đại ta Ch trong dịp về thăm thị xã Quảng Trị thăm người thân, gặp lại một cộng sự viên của mình… trong câu chuyện hàn huyên, ông đã nhắc lại những dự đoán của thày bói nổi tiếng ở Huế…
+ Kịch bản chiến trường của người gia trưởng
Chỉ còn 1 tuần lễ nữa là đón Tế… Bộ tư lịnh chuẩn bị để đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra. Tướng G và đại tá Ch thường xuyên đến thăm các trung đoàn. Tư lịnh chỉ thị chó trung tá chỉ huy trưởng pháo binh ra lại 54 khẩu pháo 105 ly, 18 khẩu pháo 155 ly… tất cả đề sẵn sàng để chấp nhận một trận địa pháo có khả năng xảy ra bất cứ tại đâu, bất cứ lúc nào…
Cụm phòng thủ Tân lâm giao cho Trung đoàn 56 của trung tá Đ… Tư lịnh rất tin tưởng ở ông trung đoàn trưởng hơn 30 tuổi này… Xuất thân khóa 9 Thủ Đức… tình nguyện đầu quân khi đương là học sinh lớp đệ nhị trường Thiên hựu… Trung tá Đ thăng cấp rất nhanh, trong khi bạn cùng khóa còn mang cấp đại úy… còn làm tiểu đoàn phó, tiểu đoàn trưởng, ông đã nắm trung đoàn…
Khi từ giã căn cứ La Sơn, nơi đặt bộ chỉ huy Trung đoàn 54 mà ông là trung đoàn phó… ông nói với một sỹ quan thân tín :
“ Không chừng tao qua mặt Phượng Hoàng, lên tư lịnh và trở về chỉ huy ông cũng có!”
Một trong những người được nghe lời phát biểu cao hứng của trung tá Đ, thuật lại cho Phượng Hoàng H, trung đoàn trưởng 54 có biệt danh là “Siêu Việt”. Ông đã chưởi thề :
“Thằng bố láo, ông là bố của chúng nó! Thằng Đ mà làm trung đoàn trưởng thì tao làm tư lịnh quân đoàn… Nó lên trung ta nhờ ông tướng nâng đỡ… So với nó, tao phải mang 3 sao mới xứng!...”
Nhưng những phát biểu đả kích nhau chỉ là chuyện bên lề… Điều làm cho trung tá Đ bận tâm lo lắng là tình hình của trung đoàn ông… các tiểu đoàn trưởng tương đối khá, đại đội trưởng ở mức trên trung bình, nhưng còn lính thì yếu qua… Lao công đào binh, quân phạm đủ loại… không được như lính của Trung đoàn 3 ngày ông còn làm tiểu đoàn trưởng của đại tá P.B.H…
Trận đánh Mậu Thân đã giúp ông một kinh nghiệm : Đại đội trưởng giỏi nhưng lính nhát thì cũng vô ích! Làm sao bây giờ. Khi trung đoàn ông cùng chung một định mệnh như Sư đoàn…toàn là những toán quân ô hớp từ 4 phương về đây…
Trung đoàn 2 kỳ cựu do trung tá T làm trung đoàn trưởng đã được chọn làm lực lượng ứng chiến sư đoàn… Cứ lo “xa” bị đánh “gần” trở tay không kịp… Mậu Thân – Mang Cá – Sư đoàn 1… Những cái tên đã đi vào kỷ niệm của lính bộ binh, của các tiểu đoàn trưởng và nhất là của tướng G.
Như con “pháo” nằm chờ ăn “quân” trong bàn cờ tướng, Trung đoàn 2 được bố trí phòng ngự tại những vị trí trọng yếu để bảo vệ Bộ Tư lịnh khi bị tấn công… Còn Trung đoàn 57 của trung tá Kh cùng với Trung đoàn 56 tạo thành hình vòng cung từ Tân Lâm xuôi về Gio Linh Mai Xá…
Những ngày giáp Tết đã đến trong sự chờ đợi, trong lo lắng của các cấp chỉ huy thuộc Sư đoàn 3… còn quân sỹ… những người lính gốc Lao công đào binh, quân phạm đương tính nhẩm cho mình một lộ trình “chuồn” một “dòng sông” để lặn…! có bị bắt rồi cũng cho ra lính lại! Sợ gì! Ý nghĩ đó như lãng vãng trong đời riêng của các anh binh nhì, binh nhất Sư đoàn Trừng Giới.
Lệnh cấm trại 100% được áp dụng kể từ 20 Tết… Đại đội quân cảnh tung nhiều chốt chận để bắt tất cả các quân nhân Sư đoàn 3 tìm đường vào Huế. Đông Hà, Quảng Trị đầy lính, lính ngoài đường, lính trong quán, lính hậu cứ đi sắm Tết gởi ra tiền phương… những người giàu có đánh hơi tìm cách bán nhà, vào Đà Nẵng hay Sài Gòn buôn bán… Còn người dân lao động họ vẫn bình thảnvới đời thường.
Khối chiến tranh chính trị trình tư lịnh kế hoạch đón xuân cho các đơn vị bị tướng chê là không thực tế… Những màn kịch “Hậu phương hướng về tiền tuyến” không có ý nghĩa… điều ông mong mỏi là có trong tay “sỹ tốt, quân hay”, nhưng đó chỉ là ước mơ… thực tế đã làm ông lo ngại.
Thế nào Tổng thống cũng ghé thăm Sư đoàn, chắc phải trình cho tổng thống rõ tình hình của Sư đoàn, che dấu mãi không được gì. Tướng G đã tâm sự với một số trưởng phòng như thế…
Toán phi công lái trực thăng dành cho tư lịnh vào những ngày cuối năm phải ứng chiến… Họ đưa tư lịnh đến từng tiểu đoàn, đáp xuống từng ngọn đồi, trong nỗi lo sợ đối phương pháo kích… Tin riêng cho biết “tổng thống sẽ về thăm Sư đoàn 3 sau khi khé Huế thăm Sư đoàn 1” khiến cho tướng G lo lắng.
Như người con gái rạng rỡ về nhà chồng trong ngày đầu tiên, để rồi khi đối mặt với cuộc sống, những “ý nghĩ thiên thần” cũng bay đi… tướng G cũng vỡ mộng sau 3 tháng nắm sư đoàn. Những ngày đầu lạc quan, hưng phấn bao nhiêu, thì bây giờ ông lo lắng và bồn chồn bấy nhiêu…
Căn cứ Ái Tử trải dài trên quốc lộ 1, từ Nhan Biều chạy về Lai Phước… doanh trại của Sư đoàn Trừng Giới những ngày cuối năm rộn ràng với những chuyến xe tiếp tế… Gởi ra chiến trường súng đạn, thức ăn, nhưng không gởi được niềm tin và nụ cười…
M79:
6- “Đại tá Thiệu” về thăm chiến trường cũ và đạo quân chết non trên cụm tuyến Tân Lâm.
+ Khi Đại tá trở lại chiến trường xưa
Vũ đình trường Gạ - Lê của Bộ tư lịnh Sư đoàn 1 ngày 25 tháng chạp (cuối tháng 1-1972) rợp cờ xí, biểu ngữ và những đoàn quân…
… Lính Sư đoàn 1 và tướng Phú đón vị cựu Tư lịnh sư đoàn cũa “thời kỳ 1962 – 1963” về thăm đơn vị cũ với cương vị “tổng thống, Tổng tư lịnh quân đội”… Chỉ “1 giờ dừng lại” nhưng cả Sư đoàn đã lo sốt vó từ 1 tuần nay…
Tướng Phú nhắc đi nhắc lại nhiều lần với đại tá Điềm, tư lịnh phó :
“An toàn tối đa, mặt trời lớn chiều là phải an ninh tuyệt đối… ông đương nói chuyện mà bị pháo kích thì lãnh cả đám!”
Trực thăng đỗ ngay trước khán đài chính. Tướng Lãm, tui7n1g Phú hướng dẫn “cụu tư lịnh Nguyễn Văn Thiệu” duyệt các đơn vị dàn chào… Những nghi thức và thủ tục… những bài diễn văn và nhật lệnh… Thay mặt cả Sư đoàn, tướng Phú thề thốt…
Trung tá H mới nhận chức trung đoàn trưởng trung đoàn Cọp Trắng 54 nói nhỏ với một sỹ quan đứng gần :
“Quảng Trị đã có ông G và Sư đoàn 3 rồi! Sư đoàn 1 gần Thừa Thiên chưa chắc gánh nổi…”
Rờ Giạ Lê “Tổng tư lịnh Nguyễn Văn Thiệu” bay ra Ái Tử… Tướng G không thề thốt như tướng Phú, chỉ xin hứa “quyết tâm bảo vệ Quảng Trị khi bị tấn công, dù Sư đoàn 3 quy nạp toàn lính “chê” tư các sư đoàn, binh chủng khác tống về…”
Từ Ái Tử, lên trực thăng trở lại Huế, tổng thống dặn tướng G :
“Địch có khả năng đánh lớn trong Tết hoặc sau Tết… đừng có xảy ra như Mậu Thân ở Huế!…”
Để tay lên vành mũ, tướng G đứng nghiêm tiễn chào… Máy bay lên cao… ông vẫn còn đứng giữa sân bay… lặng yên như một pho tượng… cái gì sẽ đến với ông và đạo quân ô hợp trong mùa xuân này?
+ Trình Tư lịnh : Trung đoàn 56 bị tấn công!
Nửa đêm cuối tháng 3… Trung tâm hành quân Sư đoàn 3 nhận báo cáo “hốt hoảng” từ Tân Lâm gọi về. Viên thiếu tá trung tâm trưởng theo dõi :
- “Đối phương tấn công đồng loạt các tuyến phòng thủ của Bộ chỉ huy Trung đoàn và các tiểu đoàn…”
Qua tiếng nói dồn dập của sỹ quan trung tâm hành quân, viên thiếu tá ngherõ cả tiếng gầm của hỏa tiễn đối phương.
- “Pháo tới tấp – chúng tôi không thể phản pháo nổi… Xin yểm trợ không pháo…”
Trung tá trưởng phòng 3 từ phòng ngủ chạy vội qua trung tâm hành quân theo dõi tình hình… khoảng 10 phút sau, khi biết chắc toàn bộ cụm phòng tuyến Tân lâm đối phương cường tập, ông gọi máy cho sỹ quan tùy viên tư lịnh :
- “Báo ngay cho mặt trời rõ “ Trung đoàn 56 bị tấn công…”
Một giờ sau trận chiến đã đi vào điểm cao… các tiểu đoàn báo cáo về Trung đoàn… Trung đoàn báo về Sư đoàn… Tướng G, đại tá Ch, trung tá B, tham mưu trưởng có mặt đông đủ… cứ khoảng 5 đến 10 phút lại gọi đường dây “đỏ” cho trung tá Đ, trung đoàn trưởng :
- “Cố gắng chống đỡ đến sáng… Sư đoàn sẽ tăng việ!...”
Nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra… Tuyến phòng thủ của các đơn vị khác ở bắc Quảng Trị đếu bị tấn công đồng loạt.
Và sau nửa ngày giao tranh, Trung đoàn 56 đầu hàng toàn bộ.
Trung tá Đ không được như De Castries của Điện Biên Phủ 1954, trước khi đầu hàng còn được tướng Cogny, tư lịnh quân Pháp tại miền Bắc thời bấy giờ động viên. Trung tá Đ chỉ nghe những lời khiển trách cằn nhằn của Tư lịnh.
Ngay tối hôm sau… Đông Hà xôn xao vì tin Trung đoàn 56 đầu hàng… và rạng sáng hôm sau cả thành phố Huế đều hốt hoảng về tình hình chiến sự tại Quảng Trị…
Những chuyến xe đó đầu tiên trong ngày trên đường Huế - Quảng Trị đầy khách… Đa số là gia đình quân nhân của Trung đoàn 56… Họ ra Đông Hà để hỏi han tin tức… những lời kể lể, những giọt nước mắt…
Vợ trung tá Đ mang thai, đêm hôm trước đã đến nhà của đại tá Ch, vừa bước vào nhà đã ôm chầm lấy bà Ch khóc lớn :
- Chết mất, chị ơi! Anh Đ bị bắt rồi! Cả trung đoàn bị bắt rồi chi ơi! Khổ em quá!
Vợ viên tư lịnh phó Sư đoàn dìu bà Đ vào ghế salon… tìm lời an ủi :
- Bị bắt là còn sống, còn trở về...
Buổi tối đầu tháng 4, gia đình quân nhân Trung đoàn 56 tìm luôn sóng Đài phát thanh Giải phóng… chính tai họ nghe trung tá Đ, và thiếu tá M… lần lượt lên tiếng nói chuyện với gia đình và “chiến hữu” Sư đoàn 3 qua làn sóng điện…
Nỗi lo sợ giảm đi, khi họ biết tin người thân qua lời cấp chỉ huy cao nhất của Trung đoàn.
+ Tháng dài nhất tại chiến trường giới tuyến
Cùng chung số phận với Trung đoàn 56, các lực lượng bộ binh của Trung đoàn 57 cũng tan rã. Chỉ còn lại Trung đoàn 2 nnguyên vẹn vì chưa tham chiến.
Đông Hà, thị trấn của tỉnh Quảng Trị ngước chào chiến trận bằng những cuộc di tản dân cư về thị xã Quảng Trị, về Huế. Quân đoàn 1 báo động. Trung tướng Hoàng Xuân Lãm được cử làm tư lịnh hành quân chiến trường giới tuyến với sự tăng viện các lực lượng tổng trù bị từ trung ương. Nguyễn Văn Toàn (thiếu tướng) cựu tư lịnh Sư đoàn 2, chỉ huy trưởng thiết giáp được thăng phái, làm tư lịnh phó hành quân. Thiết đoàn 20 trang bị chiến xa hiện đại M48 được tung vào chiến trường. Bộ tư lịnh hành quân đặt ngay tại Mang Cá Huế (Bản doanh cũ của Sư đoàn 1, sau đó là Bộ chỉ huy Tiểu khu Thừa Thiên)… Lân đầu tiên tại vùng 1 các trận giao tranh bằng xe tăng đã xảy ra…
Những ngày đầu tháng 4 là những ngày nghẹt thở của lính cộng hòa. Nhiều trận đánh xáp lá cà diễn ra ngay trên các địa đạo. Lực lượng không quân của Sư đoàn 1 không quân, của Sư đoàn 5 Tân Sơn Nhất tăng phái tham gia chiến trường. Những AD-6, A-37 gầm thét trên vùng trời bé nhỏ của Đông Hà thương khó, không tạo được niềm tin cho bộ binh, nhảy dù, thủy quân lục chiến, pháo binh, thiết giáp tham chiến dưới mặt đất…
Quân cộng hòa lùi dần về phía nam sông Thạch Hãn. Cổ thành Quảng Trị trở thành là bản doanh của tướng G. Hàng ngày Quảng Trị hứng hàng trăm đợt pháo. Pháo binh Sư đoàn 5 bị khống chế, không tạo được thế cân bằng… Từng ngày qua đi trong nỗi hãi hùng của lính “trừng giới”.
Hiệp đồng giữa mặt trận Đông Hà, mặt trận tây nam huế giữa Sư đoàn 1 bộ binh và các lực lượng của Quân khu Trị Thiên (Giải phóng quân) diễn ra trong thế giằng co. Bộ tư lịnh Sư đoán tại căn cứ Gia Lệ (căn cư cũ của Sư đoàn 101 Không kỵ Hoa Kỳ) cũng đặt trong tình trạng báo động. Tướng Phú quát tháo suốt ngày. Căn cứ Bình Điền (Bộ chị huy Trung đoàn 54), căn cứ Bát Tôn do Tiểu đoàn 2/54 án ngữ, căn cứ “Sếch mếch” do Tiểu đoàn 1/54 phòng thủ, đương bị bao vây…Đại tá P.B.H, giữ chức tham mưu trưởng nhiều trưa không về nha, dùng cơm ngay tại phòng… với tấm bản đồ hành quân trước mặt.
Ngay khi Tân lâm thất thủ, dân chúng Quảng Trị chạy vào Huế, dân chúng Huế chạy vào Đà Nẵng. Thị xã Quảng Trị trở thành thị trấn chết. Cố đô Huế cũng cùng chung một số phận. Mọi sinh hoạt ngưng trệ, trường học đóng cửa, chợ búa vắng hoe, các cơ quan làm việc chiếu lệ, đa số các nhân viên chuồn vào Đà Nẵng với gia đình.
Không khí ngột thở đó bùng nổ vào ngày 30-4-1972. Trước áp lực quá mạnh của đối phương, Sư đoàn 3 tháo chạy tại Quảng Trị. Từng đoàn quân rút lui trong hỗn loạn trên tuyến đường Quảng Trị - Huế. Còn dân Trị Thiên vượt đèo Hải vân chạy vào Đà Nẵng vô cùng mỏng manh…
Tướng G thoát thân bằng trực thăng về tạm trú tại căn cứ Hòa Mỹ của một đơn vị Mỹ… trước đó 1 giờ. Ông xin lệnh của tướng Lãm, nhưng viên tướng xe tăng bảo :
- “Cứ cố thủ…”
M79:
7- Từ Phú Bài đến ngọn đồi vĩnh biệt.
+ Những ngày đầu tháng 5
Cố đô Huế nghẹt thở vì cường độ của chiến tranh đã đạt đến điểm cao nhất.
- 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 54 bị tan rã.
- Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 54 đầu hàng
- Và Bộ Tổng tham mư ở Sài Gòn điên đầu vì những thất bại dồn dập.
Tướng G bị tống giam. Sau đó ra tòa án nhận cấp binh 2.
Tướng Hoàng Xuân Lãm nghe tin Quảng Trị thác chạy khi đương còn chơi quần vợt. Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lịnh Quân đoàn 4 được cử thay thế tướng Lãm nắm quyền Tư lịnh Quân đoàn 1 và Quân khu 1. Tướng Trưởng ra miền Trung với đoàn tham mưu nặng ký :
- Đại tá Lê Văn Thân - Cựu Tỉnh trưởng Thừa Thiên, phụ trách hành quân.
- Tướng Nguyễn Duy Hinh - Tư lịnh phó
- Lâm Quang Thi - Trung tướng, chỉ huy trưởng trường Võ bị Đà Lạt, được chỉ định làm Tư lịnh phó Quân đoàn 1, phụ trách chiến trường Tín - Ngãi (Quảng Tín, Quảng Ngãi)
Tướng Ngô Quang Trưởng đặt Bộ tham mưu chính ngay tại Mang Cá Huế. Đà Nẵng trở thành hậu cứ Quân đoàn
+ Ngôi nhà tạm trú của đoàn quân “tạm biệt chiến trường”
Căn cứ Phú Bài trở thành nơi tạm trú của quân sỹ các đơn vị Sư đoàn 3 còn lại. Đại tá Ch, Tư lịnh phó tạm thời xử lý thường vụ chức Tư lịnh Sư đoàn. Trung đoàn 56 tái lập. Trung đoàn 57 bổ sung và tái trang bị. Phòng Tổng quản trị và phòng 1 quân đoàn vét hết số quân lính quân phạm, lao công đào binh, tân binh tại các trung tâm huấn luyện Đống Đa, Hoà Cầm bổ xung khẩn cấp cho Sư đoàn 3, để Sư đoàn này có thể tái sinh…
Hàng ngày, tướng 3 sao Ngô Quang Trưởng đều tạt ngang Phú Bài thăm Sư đoàn 3 nhìn đám tân binh ô hợp. Ông lắc đầu, nói với xử lý thường vụ Tư lịnh :
- Lính này đánh đấm cái gì?
+ Cuộc tranh giành quyền lực
Trong 3 tháng tái huấn tại Phú Bài, đại tá Ch đã đề bạt các đàn em cũ của mình nắm giữ các chức vụ trọng yếu, trong khi đó bản thân ông vận động ngầm để được chính thức làm tư lịnh.
Nhưng tướng Trưởng không tin tưởng khả năng đại tá Ch, dự định sẽ chọn đại tá Thân hoặc chẩn tướng Hinh nắm quyền tư lịnh Sư đoàn 3.
Riêng tướng Ngô Quang Trưởng cũng bị sự chống đối của 2 tư lịnh Dù và Thủy quân lục chiến.
Dư Quốc Đống, trung tướng Tư lịnh Dù là cấp chỉ huy cũ của tướng Trưởng. (Khi tướng Trưởng mang thiếu ta thì tướng Đống lên chuẩn tướng) bay giờ phải nhận lệnh của đàn em minh.
Lê Nguyên Khang, trung tướng Tư lịnh Sư đoàn Thủy quân lục chiến bất mãn với tổng thống vì bị đặt thuộc quyền chỉ huy của viên tướng “hậu sinh”. Khi Khang làm Tư lịnh Quân đoàn 3 với cấp bậc thiếu tướng thì tướng Trưởng mới là thiếu tá Tiểu đoàn trưởng dù.
(Theo tổ chức, Tư lịnh Ngô Quang Trưởng là người trực tiếp điều động 2 sư đoàn Dù và Thủy quân lục chiến tăng phái cho Quân đoàn 1)
+ Những người ra đi và những người mới đến
Để giải quyết sự bế tắc của hệ thống chỉ huy, ảnh hưởng đến sự sống còn của Quân đoàn 1 nói chung và Sư đoàn 3 nói riêng, tổng thống Thiệu đã :
- cử Bùi Thế Lân (đại tá, sau đó được thăng chức chuẩn tướng) nắm quyền Tư lịnh Thủy quân Lục chiến.
- Cho tướng Khang về Bộ Tổng tham mưu làm “Tướng không quân”
- Tướng Dư Quốc Đống cũng cùng chung số phận nhưng may mắn hơn là chỉ sau một thời gian được tổng thống Thiệu tin dùng trở lại với chức vụ Chỉ huy trưởng trường Hạ sỹ quan Nha Trang, sau đó là Tư lệnh Quân đoàn 3.
Riêng Sư đoàn 3, “Nhân vật chính” của bút ký này, có người cha mới :
“Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tân Tư lịnh Sư đoàn”
+ Cuộc Nam tiến về ngọn đồi vĩnh biệt
Ngay sau khi nhận chức Tư lịnh, tướng Nguyễn Duy Hinh cùng đạo quân hồi sinh di chuyển về Đà Nẵng.
Từ giã Quảng Trị, những ngày tháng nghẹt thở và kinh hoàng, từ giã Phú Bài những ngày huấn luyện với nắng cháy da người, đạo quân hồi sinh vượt đèo Hải Vân, tiến về Quảng Nam, về vùng đất mới của Bộ Tư lịnh Sư đoàn là căn cứ Hòa Khánh (căn cứ cũcủa 1 sư đoàn Mỹ giao lại). Hòa Khánh ở dưới chân đèo Hải vân. Đó là dãy đồi lớn đủ để trú quân cho cả 1 sư đoàn. Những người lính Mỹ gọi đùa Hòa Khánh là “Đồi Chết”.
Không phải mất công tốn sức như tướng G trong giai đoạn đầu ở Ái Tử, cũng không phải ngược xuôi như đại tá Ch khi Sư đoàn còn ở Phú Bài; tướng Nguyễn Duy Hinh may mắn hơn, với doanh trại khang trang do Mỹ để lại, với sự tín nhiệm của tổng thống Thiệu, của đại tướng Cao Văn Viên và tướng Trưởng. Tướng Nguyễn Duy Hinh bắt tay vào công việc hồi sinh Sư đoàn 3 trong những điều kiện thuận lợi.
Xuất thân là 1 giáo sư, tốt nghiệp khóa 1 sỹ quan trù bị Thủ Đức (cùng khóa với Nguyễn Cao Kỳ), để nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng :
- Trung đoàn trưởng Thiết giáp
- Tham mưu trưởng liên trường Võ khoa Thủ Đức
- Tư lịnh Biệt khu Quảng Đà
- Tư lịnh phó lãnh thổ kiêm chỉ huy trưởng Địa phương quân vùng 1
- Tư lịnh phó Quân đoàn 4.
Với 1 lý lịch tương đối khá “bề thế”, tướng Hinh tạo được cái uy cần có của 1 Tư lịnh.
Mùa xuân đầu tiên của tướng Hinh tại Sư đoàn 3 đúng vào thời điểm Hiệp định Paris ký kết. Nhưng tiếng pháo giao thừa 1973 tại Đà Nẵng bị át đi trước tiếng pháo binh Sư đoàn, bắn đi trong đêm trừ tịch, mở màn cho cuộc chiến tranh mới : chiến tranh “dành đất”.
Trong khi tướng Hinh và Bộ Tư lịnh nâng cốc đón giao thừa tại căn cứ Hòa Khánh, thì tại Quế Sơn, Đại Lộc, Dục Đức, Hiếu Đức, đạo quân hồi sinh được tung vào các xã lân cận sơn, chiếm giữa các ngọn đồi, mở rộng vùng hoạt động…
Một ngôi sao chờ đợi trên cổ áo tướng Hinh nếu kế hoạch bình định diễn ra đúng chỉ thị của “Mặt trời lớn” ở Sài Gòn…
Với 44 tuổi giữ chức Tư lịnh sư đoàn, dù là sư đoàn bại trận, niềm mơ ước về những ngôi sao lấp lánh nhiều hơn trên cổ áo như lớn dần trong ánh mắt của viên tư lịnh “Sư đoàn Trừng Giới”.
Cành mai trước “ngôi nhà Tư lịnh” trong căn cứ Hòa Khánh nở rộ trong mùa xuân 1973, đâu biết rằng chỉ 2 năm sau, mùa xuân 1975, những bông mai không còn nở rộ, như báo trước ngày tàn của đạo quân đã một lần tan rã.
Mùa xuân 1975, mùa xuân dài nhất của đứa con út “Quân lực Cộng Hòa”, mùa xuân được đếm bằng những ngày nghiệt ngã, bằng những trận đánh kinh hoàng, bằng những đợt lui quân vô vọng.
Mùa xuân 1975, mùa xuân cuối cùng của Sư đoàn Trừng Giới trên chiến trường Quảng Đà. Nếu mùa xuân 1973, Sư đoàn có nhiều cơ may lập công, thì qua mùa xuân 1974, mùa xuân ghi dấu bóng dáng của 1 cuộc chiến khốc liệt ngày mai, và đến mùa xuân 1975, ngọn đồi Hoà Khánh trở nên thầm lặng hơn, buồn bã hơn khi biết trước số phận ngắn ngủi của đạo quân Sư đoàn 3 Trừng Giới đương ở vào những ngày giờ cuối…
Mùa xuân 1975, mùa xuân cuối cùng của Sư đoàn Trừng Giới số 3!
M79:
CHƯƠNG 2
GIẾNG NƯỚC BI THẢM
8- Kế hoạch Arizona : Sinh lộ mùa xuân của đạo quân trừng giới
+ Buổi thuyết trình đầu năm : Bản hợp ca bi tráng
Sau 2 năm hoạt động tại Quảng Đà, theo chỉ thị của tướng Hinh, 1 cuộc họp mở rộng được tổ chức tại phòng họp tham mưu của Bộ Tư lịnh. Mục đích cuộc họp là tổng kết “Thành tích hoạt động” của Sư đoàn trong thời gian tướng Hinh làm Tư Lịnh, đặc biệt là trong năm 1974. Các phòng ban thi đua thực hiện những biểu đồ thật đẹp, thật lạ để làm vừa ý Tư lịnh.
Ngày đầu của tháng giêng 1975 được đánh dấu bằng “Buổi thuyết trình tổng kết”. Khác với tư lịnh sư đoàn khác, tướng Hinh được Bộ Tổng tham mưu đánh giá là tướng “Tham mưu giỏi”.
Tốt nghiệp khóa 1 Cao đẳng Quốc phòng, tướng Hinh có cái nhìn rộng và xa hơn so với tướng Điềm (Tư lịnh Sư đoàn 1) hay tướng Nhựt (Sư đoàn 2) cũng thuộc Quân đoàn 1. Dù vậy, tướng Hinh vẫn luôn nghi kỵ Tư lịnh phó tham mưu trưởng. Trong ý nghĩ của ông, ông nghĩ rằng cận thần sẽ chê ông vì ông ít xông pha trận mạc… ông luôn luôn mặc cảm “Tướng tham mưu” chứ không phải là “Tướng chiến trường”.
Với tướng Hinh, các sỹ quan không được tô hồng chiến thắng, bi thảm hóa thất bại, ngược lại, phải trình bày trung thực không che dấu. Với quan niệm này, chức vụ Trưởng phòng 5 và Trưởng phòng 3 đã qua tay nhiều người, vì 2 phòng này là xương sống của Bộ Tư lịnh.
Mở đầu buổi thuyết trình là bản tổng kết hoạt động “đối phương” trong 2 năm 1973-1974. Phần hoạt động 1973 chỉ được trình bày khái lược. Phần hoạt động 1974 được triển khai chi tiết.
Trung tá Q, một sỹ quan có 20 năm tuổi nghề tình báo đã trình bày rành rẽ về lực lượng “đối phương”. Biết ý tướng Hinh, trung tá Q nhận xét :
- Phòng 2 ghi nhận trong năm 1974, Tỉnh đội Quảng Nam, Mặt trận Quảng Đà, các sư đoàn chính quy của Quân khu 5 đã gia tăng hoạt động. Các trận đánh lớn tại Đại Lộc, Duy Xuyên, Quế Sơn trong 6 tháng đầutiên của năm cho chúng ta nhận xét : Địch chuyển từ cách đánh phân tán mỏng chuyển sang cách đánh cường tập. Cao điểm của cách đánh này là trận tiến công của 1 trung đoàn chính quy đánh thẳng vào tuyến phòng thủ của Tiểu đoàn 3/56 và Tiểu đoàn biệt động quân Biên phòng. Cả 2 tiểu đoàn trưởng chết tại trận, hơn ½ quân số thương vong.
Trầm ngâm trước lời trình bày của trung tá Q, tướng Hinh hỏi người cộng sự thân tín của mình :
- Trong năm 1975, nhất là mùa xuân 1975, địch có khả năng đánh lớn cấp sư đoàn không.
Trung tá Q trả lời :
- Kính thiếu tướng, hiện tại ta đương đối mặt với 4 sư đoàn :
• 3 sư đoàn chính quy của Quân khu 5,
• 1 sư đoàn tương đương, đó là mặt trận Quảng Đà
Theo tin tức kỹ thuật của Biệt độ Kỹ thuật phòng 7 Tổng tham mưu cùng với các tin tức tình báo khác thu nhận được, Phòng 2 ghi nhận khả năng đánh lớn cấp sư đoàn có thể xảy ra trong mùa xuân này.
Tướng Hinh chỉ thị :
- Phòng 2 cần tăng cường hoạt động, nắm bắt kịp thời chứ đừng có báo cáo láo. Muốn thắng địch, phải đoán trước ý định của địch.
Lần lượt các Phòng 3, Phòng 4 trình bày tổng kết kế họach hành quân, huấn luyện, tiếp vận.
Bản tổng kết mà tướng Hinh chờ đợi là bài thuyết trình của khối CTCT.
Đại úy Trưởng phòng Tâm lý chiến đại diện cho đại tá B (Tham mưu phó Chiến tranh chánh trị Sư đoàn) là trưởng phòng trẻ nhất của Bộ Tư lịnh và của cả Quân đoàn 1. Ngoài trung ta Q, viên đại úy này rất được lòng của tướng Hinh.
Có một lần trong câu chuyện hàn huyên, tướng Hinh nói :
- Cậu xứng đáng mang cấp thiếu ta.
Sau khi phân tích tình hình chính trị trong khu vực Quảng Nam, Đà Nẵng và Quảng Tín, viên Trưởng Phòng 5 (Tâm lý chiến) kết luận :
- Chương trình xây dựng nông thôn do thiếu tướng đề xuất và do đại tá Tư lịnh phó làm chủ tịch : Trong 2 năm 1973 và 1974 thất bại nhiều hơn thành công. Chúng ta đã tung ra nhiều toán công tác mà nòng cốt là các hạ sỹ quan Chiến tranh chính trị, các toán tâm lý của đại đội 102 Chiến tranh chính trị để đạt được mục đích là nắm lòng dân tạo điều kiện tốt cho hoạt động tình báo của phòng 2. Nhưng thực tế chúng ta đã thất bại. Lòng dân vẫn hướng về bên kia. Vùng Lộc Hiệp, Đại Lộc được đánh giá là khu vực thí điểm, nhưng ngay tại đó, cơ sở của CS ngày càng mọc ra. Chúng ta không thắp được ngọn đuốc chiến dịch Arizona trong lòng dân Lộc Hiệp.
- Thế tinh thần binh sỹ của ta thì sao?
Đại tá B, Tham mưu phó Chiến tranh chính trị trả lời thay cho người công sự của mình :
- Kính thiếu tướng. Khối CTCT, Phòng Chính Huấn đã thực hiện phiếu trắc nghiệm phát tận tay từng binh sỹ. Kết quả ghi nhận :
• 70% trách các cấp chỉ huy hay đánh lính
• 50% binh sỹ gốc miền Nam mong được đi phép hàng năm. Vấn đề này khó giải quyết.
• 80% lính gốc miền Nam được đi phép thì chuồn luôn, không trở lại đơn vị. Có nghĩa là đi 5 chỉ trở về 1
Nói chung tinh thần binh sỹ sa sút, khối Chiến tranh chính trị có phiếu trình riêng với thiếu tướng Tư lịnh về toàn bộ vấn đề này
+ Nỗi lo âu của “mặt trời”
Sau phần trình bày của các đơn vị yểm trợ, của các chỉ huy hậu cứ Sư đoàn, đảo mắt nhìn mọi người, rồi quay sang vị đại thần phụ tá… “Mặt trời” nói :
- Nhìn chung Sư đoàn sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong năm nay. Địch chắc chắn sẽ gia tăng áp lực, có thể đánh lớn. Tinh thần quân sỹ sa sút. Về vũ khí và lương thực đã đến lúc phải tiết kiệm vì viện trợ quân sự của Mỹ đã giảm sút sau khi tổng thống Nixon từ chức. Có thể chúng ta chiến đấu bằng “tự lực cánh sinh”. Hãy cấm dứt mọi hoang phí, chúng ta sẽ có tuần lễ dài nhất trong cuộc chiến đấu này, hoặc là tồn tại hoặc là mất tất cả… nói khác đi một thất bại chờ chúng ta nếu chúng ta đầu hàng khó khăn…
Như suy nghĩ điều gì, quay sang phải, nhìn ghế dành cho Tư lịnh phó bỏ trống… tướng Hinh nói chậm rãi :
- Đại tá Ch đi học, đại tá H tạm kiêm nhiệm Tư lịnh phó, công việc nặng nề, cố gắng chấn chỉnh lại Bộ tham mưu. Tôi muốn chương trình Arizona (Lộc Hiệp) phải được tái sinh. Trọng điểm bây giờ là ngay các ấp quanh căn đây là nơi tạm trú của CS, để từ đó đánh ngay vào Tổng hành dinh Sư đoàn.
Phòng 2, Phòng Tâm lý chiến kết hợp gia tăng hoạt động địch vận, dân vụ ngay tại khu vực quanh căn cứ Hoà Khánh. Đừng để mùa xuân năm 1975 là mùa xuân cuối cùng. Chúng ta sẽ có những tuần lễ dài nhất nhưng không phải là tuần lễ cuối cùng.
--------------
Chú thích của người viết :
ARIZONA là tên một căn cứ của đơn vị quân đội Mỹ tại vùng Lộc Hiệp. Các đơn vị Sư đoàn 3 đến thay quân, căn cứ Lộc Hiệp thường được các sỹ quan Tham mưu gọi là căn cứ Arizona.
Sau khi thất bại tại Quảng Trị, tái hoạt động tại Quảng Nam, tướng Hinh, người thay thế tướng G đã phát động chiến dịch Xây dựng Nông thôn, giao cho đại tá Tư lịnh phó làm chỉ huy trưởng chiến dịch. Các toán xây dựng nông thôn dân vụ nhằm mục đích gây cơ sở tình báo, đồng thời nắm lấy lòng dân. Kế hoạch còn có tên riêng là chương trình Arizona. Chương trình này thành công về mặt tổ chức và giúp cho Phòng 2 gài được ít cơ sở, nhưng về mặt tâm lý, chính trị thì thất bại, vì dân chúng hơn 50% vẫn ngả về “Mặt trận Giải phóng”
M79:
9- Vành đai trắng giữa 2 tuyến quân và mặt trận Quảng Đà : Đối thủ của Sư đoàn Trừng Giới.
+ Từ một lá thư của người nằm xuống.
“Con đang học trong NG không về thăm mẹ được. Lính Sư đoàn 3 dạo này hay phục kích trên các lộ từ núi về đồng bằng, việc đi lại khó khăn, do đó việc ghé qua gia đình trên đường đi công tác có trở ngại. Nhưng mẹ cứ yên tâm… có ngày con sẽ luôn bên mẹ”.
Trên đây là 1 đoạn trong lá thư mà lính Sư đoàn 3 nặt được trên tử thi của một chiến sỹ giải phóng thuộc Mặt trận Quảng Đà. Qua đó Bộ Tư lịnh Sư đoàn 3 đã bắt mạch được đối thủ của mình là “Mặt trận đang gia tăng hoạt động huấn luyện để có thể có những trận đánh lớn”.
Theo tin tức của Phòng 2 thì đa số chiến sỹ trong mặt trận Quảng Đà là thanh niên các quân Đại Lộc, Duy Xuyên, Đức Dục, Hiếu Đức, Thượng Đức, Quế Sơn thoát ly gia đình “xanh”, tuổi trung bình là 20.
Mặt trận Quảng Đà có các tiểu đoàn chủ lực và các đại đội đặc công, hoạt động thì phân tán, chỉ khi nào tham gia một trận đánh mới tập trung, do đó những tin tức nhận được về các hoạt động của Mặt trận 44 thường bị đảo lộn vào giờ cuối.
Tin tình báo có gia trị cao ghi nhận vào giờ G ngày N, Tiểu đoàn K hoạt động tại núi Giàng, nhưng khi những đơn vị đến để đột kích thì Tiểu đoàn K ở đó đã biến mất, không để lại dấu vết nào.
Chiến thuật xuất nhập vô hình này gây khó khăn cho giải đoán ở Phòng 2 và Phòng 3 về kế hoạch hành quân
+ Những người không mang súng
Theo dự tính của Phòng 2 ngoại trừ các đơn vị chủ lực miền, các đơn vị địa phương của “Giải phóng quân” đều phải tự túc về lương thực. Nguồn cung cấp đều phải tùy thuộc vào sự đóng góp của quần chúng.
Nắm được yếu tố này, tướng Hinh chỉ thị phong tỏa kinh tế (Trên nguyên tắc tướng Hinh còn là Tư lịnh chiến trường Quảng Đà nên về mặt quân sự, ông có quyền hạn đối với tỉnh trưởng đồng thời là tiểu khu trưởng).
Các chốt chặn kiểm tra lưu thông, được rải ra khắp nơi trên các tỉnh lộ, hương lộ nhằm mục đích ngăn chặn dân tiếp tế cho Mặt trận. Mặc dù vậy, các cơ sở hạ tuần vẫn tìm cách tiếp tế cho các cánh quân. Những người lính không mang súng trong “Mặt trận Quảng Đà” chính là những phụ nữ, tìm cách chuyển gạo và lương thực vào “xanh”.
Theo tin tức tình báo dân vụ, sự tiếp tế này xảy ra thường xuyên trong mùa thu hoạch. Tìm cách chôn dấu thóc lúa tại những nơi kín đáo, để sau đó chuyển vào khu.
Những người lính kinh tế không cầm súng này là những người lính vô danh của “Mặt trận Quảng Đà”.
+ Tiếng hát từ trên máy bay chiêu hồi
“Phải lung lạc tinh thần chiến đấu của Việt Cộng” Tướng Hinh giao nhiệm vụ cho Phòng tâm lý chiến của Sư đoàn…
Để thi hành chỉ thị của Tư lịnh, hàng tuần, trên vùng trời thuộc khu vực cận sơn Quảng Nam, những chuyến bay phát thanh chiêu hồi gửi xuống núi rừng hàng triệu truyền đơn và hát cho núi rừng những chương trình nhạc chiêu hồi, các bản nhạc phản chiến của các nhạc sỹ sài Gòn được sửa lời ca cho phù hợp với nội dung công tác địch vận.
Toán chỉnh huấn của đại đội 102 Chiến tranh chính trị tập trung hát những bài biên cải để thu băng, phát lại trong chuyến bay chiêu hồi ngày cũng như đêm… (“Tôi có người yêu chết trận A sao…” những bài ca đổi lời cho phù hợp với tình hình chếin sự…)
Truyền đơn bươm bướm rải khắp trên các đường mòn của miền núi Quảng nam với mục đích lôi kéo Giải phóng quân bỏ ngũ.
Mặc dù tốn rất nhiều công sức cho các hoạt động chiêu hồi,địch vận, nhưng số Giải phóng quân “chiêu hồi” ít, nhiều tháng không có một người nào.
Buổi họp định kỳ tại Bộ Tư lịnh, Khối chiến tranh chính trị bị tướng Hinh khiển trách vì hiệu năng của công tác chiêu hồi không thực hiện đúng như ý muốn của Tư lịnh. Có một lần ông la đại tá B :
“Không lẽ bỏ ra hàng triệu bạc mỗi tháng in truyền đơn, phi vụ phóng thanh, để cuối tháng không có một mống nào ra chiêu hồi sao?”
Đại tá tham mưu phó chiến tranh chính trị lặng yên, để rồi sau buổi họp than thở với các trưởng phòng :
“Lý do chắc Tư lịnh hiểu hơn tụi mình, nhưng Tư lịnh muốn la thì la. Dieu seul le sait (chỉ có trời biết)”
+ Vành đai trắng ngay trên chiến địa
Tại nhiều xã, hệ thống bố phòng của địa phương quân rất chặt chẽ, vòng trong là Đại đội Địa phương quân, vòng ngoài là Chủ lực quân Sư đoàn 3. Tuy thế Mặt trận Quảng Đà vẫn lập được vòng đai trắng giữa 2 tuyến quân. Những trận đột kích vào trụ sở xã, hay thị trấn, quân lỵ trong năm 1974, 1975 đã chứng minh điều đó.
- “Phải ngăn chặn vòng đai trắng!”
Đó là khẩu hiệu của tướng Hinh mỗi lần ông đến thăm các Chi khu (quận).
Nhưng các viên quận trưởng (chi khu trưởng) đều biết rằng khẩu lệnh của Tư lịnh không thực hiện được…
+ Đối thủ của tướng Hinh : Thượng tá Phan Hoan
Theo tài liệu của Phòng 2, Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà là thượng tá Phan Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam là Hồ Hữu Phước (tự Hồ Nghinh).
Tướng Hinh ra lệnh cho Phòng 2 trình cho ông đầy đủ chi tiết về lý lịch các nhân sự nòng cốt trong Mặt trận 44 và trong Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng.
Nhưng Phòng 2 chỉ cung cấp vắn tắt :
“Thượng tá Phan Hoan, người Quảng nam, hơn 50 tuối. Trước năm 1954 là tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn chủ lực của tỉnh Quảng Nam, tập kết ra Bắc, trở lại miền Nam chiến đấu sau năm 1960…”
Trong 1 buổi họp đặc biệt, Phòng 2 đã cho chiếu các Slide chân dung của các nhân vật cao cấp thuộc Trung ương Cục miền nam và Quân khu 5.
Riêng với Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Phòng 2 Sư đoàn 3 chỉ tìm được ảnh của trung tướng Chu Huy Mân - Tư lệnh trưởng, và Trung tướng Võ Chí Công (Võ Toàn) – Chính ủy Quân khu 5 kiêm Chủ tịch Mặt trận dân tộc giải phóng miền Trung Trung bộ…
Mỗi lần khai thác tù binh, viên sỹ quan thẩm vấn của Phòng 2 đều hỏi :
“Anh có biết Thượng tá Phan Hoan không? Có bao giờ nghe nhắc đến tên ông ta không? Đã gặp ông ta lần nào chưa?...”
Đối thủ của tướng Hinh vẫn là một con người bí mật. Mãi đến ngày giải phóng Đà Nẵng, các sỹ quan Tham mưu Sư đoàn ra trình diện mới thấy tên thượng tá Phan Hoan và Bí thư Tỉnh ủy Hồ Nghinh trong danh sách Ủy ban Quân quản.
10- Những trận đánh không cân sức
+ Từ “Bàn cờ” của tổng thống đến “Bàn cờ” của Tư lịnh
Ngày 6-1-1975, 4 ngày sau cuộc họp tổng kết của Bộ Tham mưu Sư đoàn 3, Phước Long đã rơi vào tay giải phóng quân.
Tướng Hinh được báo tin này ngay trong giờ điểm tâm. Buổi họp 8 giờ sáng hàng ngày vắng mặt Tư lịnh, Trưởng phòng 2, Trưởng phòng 3. Đại tá H thay mặt, cho chỉ thị các phòng, rồi sau đó vào phòng họp riêng của Tư lịnh
Hôm nay Tư lịnh ít nói. Ông lắng nghe trung tá P, Trưởng phòng trình bày kế hoạch bố phòng, Nghe Trưởng phòng 2 ước đoán tình hình trong những ngày đến…
Riêng đại tá H Tham mưu trưởng, tin Phước Long mất không làm ông băn khoăn bằng tin ông lên làm Tư lịnh phó. Đại tá B Tham mưu phó lên thay ông. Chức phó đồng nghĩa “ngồi chơi xơi nước”, đâu có quyền bằng Tham mưu trưởng.
Với tướng Hinh, Phước Long mất, Tỉnh trưởng bị bắt sống, đó mới là vấn đề. Trong phòng họp thu hẹp, ông nhận xét :
“Quảng Nam tuy không bị như Phước Long, nhưng CS có thể đánh Hội An, đột kích Hòa Vang, đánh Đại Lộc… Tôi sẽ gặp đại tá Chung – Tỉnh trưởng Quảng Nam lưu ý gia tăng phòng thủ…”
Nếu tại trung ương, Tổng tư lịnh Nguyễn Văn Thiệu cho lệnh tướng Viên bố phòng kỹ Biệt khu Thủ đô, thay đổi một số tư lệnh quân đoàn và sư đoàn để nhằm trẻ hóa hàng ngũ tư lệnh chiến trường, thì tại Quảng nam Đà Nẵng, tướng Hinh yêu cầu đại tá Chung sắp xếp lại nhân sự. Riêng các tiểu đoàn trưởng, một số bị thay thế. Tướng Hinh mạnh dạn đưa một số đại úy nắm quyền tiểu đoàn trưởng thay cho một số thiếu tá, trung tá mà theo ông là bất lực.
Tướng Hinh lo xa hơn, ông sợ Bộ Tư lệnh có thể bị tấn công, điều ngay 1 tiểu đoàn vào căn cứ Hòa Khánh, vừa tái huấn luyện, vừa ứng chiến Đại La ngay Bộ Tư lệnh, 1 chi đoàn (22 chiếc xe tăng) được gọi về ứng chiến… Trung đoàn 57 từ lâu hoạt động ở Hương An, Đá Tịnh, rút về án ngữ Hoà Cầm. Trung đoàn 2 và Trung đoàn 56 giăng kín phòng tuyến Đại Lộc, Dục Đức…
Ban Báo chi Khối Chiến tranh Chính trị mỗi buổi sáng thâu băng đầy đủ các nguồn tin của BBC, VOA… các bản tin viễn ấn của Reuter, AP, AFP, được dịch và trình mật. Không khí chuẩn bị đánh lớn bao trùm cả Bộ Tư lệnh.
Biệt đội kỹ thuật Phòng 7 TTT, Biệt đội tác chiến điện tử, Biệt đội quân báo, Đại đội trinh sát được lịnh nắm bắt kịp thời các biến động. Các chùm điện tử được chôn trêbn những đường mòn từ Cận Sơn xuôi về đồng bằng để giải đoán sự chuyển quân. Các đài kỹ thuật Phòng 7 được điều động thu các làn sóng thông tin để giải đoán tình hình. Bàn cờ của tướng Hinh sắp sẵn chờ khai cuộc
+ Thung lũng Xuyên Trà và trận đột kích đêm
“Phải tìm một chiến thắng để lấy lại niềm tin của binh sỹ và dư luận” – Đại tá H, TMT trình bày với tướng Hinh trong cuộc họp thu hẹp.
Trong Bộ Tư lệnh, tướng Hinh thường đi sâu vào công táv tham mư bằng những khẩu lệnh có tính cách quyết đoán, nhưng trong lĩnh vực hành quân, mặc cảm “tướng tham mưu”, “tướng văn phòng” vẫn đè nặng trong quyết định của ông, trong đời sống “tư lệnh” của ông… Do đó về mặt này ông thường đề nghị hơn là quyết định.
(Thời kỳ này tại Quân đoàn 1, trong 3 tư lệnh sư đoàn chỉ có mình ông là chưa hề làm tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng bộ binh, khác với tướng Điềm - Sư đoàn 1 hay tướng Nhựt - Sư đoàn 2)
Và Xuyên Trà, một thung lũng của vùng Cận Sơn Quảng nam, nơi mà theo tin Phòng 2 ghi được, đương là căn cứ huấn luyện của 1Tiểu đoàn thuộc mặt trận 44… Đại tá H và trung tá P sau khi bàn bạc đề nghị với tướng Hinh giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 2 dứt điểm. Để cho chắc ăn, Sư đoàn điều thêm 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 57 tạo thành thế gọng kềm, đúng 13 giờ đêm ngày N… tháng 1-1975 tấn công vào căn cứ tại Xuyên Trà.
Nhưng cả 4 tiểu đoàn không đụng độ lớn, chỉ có những cuộc chạm súng cấp trung đội và đại đội. Sau 24 giờ hành quân, 1 tiểu đoàn tiến chiếm điểm nóng Xuyên Trà không gặp sức kháng cự mạnh, chỉ có hơn 10 dãy nhà tranh bỏ hoang.
Dưới cái nhìn của một nhà quân sự, thì trận đánh Xuyên Trà chỉ được xếp loại “giao tranh nhỏ”, nhưng Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 tìm cách để đề cao chiến thắng, điều mà trước đây chính tướng Hinh không thích, nhưng “thực tế chiến trường” buộc Tư lệnh và Bộ Tham mưu phải đi tìm “chiến thắng dự tưởng”.
… Khi Tham Mưu trưởng trình tướng Hinh kế hoạch “Lễ mừng chiến thắng” tổ chức tại Hương An với đủ chi tiết : tặng vòng hoa, gắn huy chương, triển lãm chiến lợi phẩm… tướng Hinh gật đầu, không có ý kiến.
Theo lệnh của Tham mưu trưởng :
Phòng 2 lấy thêm vài chục súng lớn thu được trong các cuộc hành quân trước, cùng với số súng có được, tổng cộng hơn 80 vũ khí đủ loại.
Phòng tâm lý chiến sửa lại bản tin hành quân : Cả 1 tiểu đoàn địch bị đánh tan, gần 100 thương vong. Ban Báo chí liên hệ với Tổng cục Chiến tranh Chính trị tại Sài Gòn mời phái đoàn báo chí dự lễ gắn huy chương.
Tiểu khu Quảng nam vận động mời thân hào nhân sỹ, học sinh đi dự lễ và quàng vòng hoa…
Tướng Hinh và đại tá Chung, Tỉnh trưởng Quảng Nam đã đến chủ toạ lễ tuyên dương và khai mạc triển lãm. Báo chí sài Gòn không ra được. Báo chí Quân đoàn mời giúp một số thông tín viên có mặt tại Đà Nẵng lên Hương An dự…
+ Trận đánh “Rửa mặt Tiểu đoàn 3/56”
Trong số 9 tiểu đoàn bộ binh của Sư đoàn 3, Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 56 được ghi nhận là yếu kém nhất. Nguyên trong năm 1974, 2 lần bại trận, 1 tiểu đoàn trưởng chết, 1 tiểu đoàn trưởng bị thương và 2 tiểu đoàn trưởng bị thay thế vì kém khả năng. Đây cũng là tiểu đoàn có quân số đào ngũ cao nhất. Từng đợt tân binh và quân phạm phục hồi không lấp trống những lỗ hổng về quân số.
Theo quân số, tiểu đoàn phải từ 700 trở lên, nhưng trên thực tế có nhiều khi Tiểu đoàn 3/56 chỉ thực hiện được 50% so với lý thuyết vì thương vong và đào ngũ…
Bộ chỉ huy Trung đoàn 56 điên đầu về sự xuống dốc của Tiểu đoàn, ảnh hưởng dây chuyền đến các tiểu đoàn khác. Tướng Hinh đưa trung ta T, nguyên Trưởng Phòng 3 về nắm Trung đoàn trưởng, cử thiếu tá P giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3/56 với chỉ thị :
- “Phải làm một cú rửa mặt cho Tiểu đoàn 3/56 để kéo nó khỏi tuột dốc”.
Tin tình báo ghi nhận 1 đại đội giải phóng quân về hoạt động tại tây nam quận lỵ Đại Lộc khoảng 10 km để nhận tiếp tế và gây cơ sở tuyển quân. Tướng Hinh chỉ thị Phòng 3 làm kế hoạch hành quân. 2 Tiểu đoàn 1/56 và 2/56 đánh gọng kềm. Còn Tiểu đoàn 3/56 là mũi nhọn. Có vẻ nghịch lý khi giao nhiệm vụ “nỗ lực chính” cho 1 tiểu đoàn yếu kém nhất, nhưng Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 đã nghiên cứu nước cờ. 2 Tiểu đoàn 1 và 2 mới là nỗ lực chính “giả” có nhiệm vụ dứt điểm cuối cùng.
Khi hàng loạt pháo của pháo đội Tiểu đoàn pháo binh Sư đoàn khai hỏa, các cánh quân tiến bao vây với chủ đích tiêu diệt và bắt sống trọn Đại đội, nhưng sự thật, Đại đội đã rút đi quá nửa, chỉ còn lại khoảng 2 trung đội phân tán mỏng thành những chốt chặn trên đường tiến quân của Trung đoàn 56. Dù sao thì Tiểu đoàn 3/56 cũng vào được mục tiêu nhờ sự tiếp tay hữu hiệu của 2 tiểu đoàn bạn, thu được hơn 10 cây súng.
Tin báo về Bộ Tư lệnh Sư đoàn. Tướng Hinh cho lệnh làm lễ chiến thắng ngay tại quận lỵ Đại Lộc, triển lãm chiến lợi phẩm bằng số vũ khí của Phòng 2 cho mượn để có được một “bề ngoài cần thiết”
Tuy không tổ chức rầm rộ như chiến thắng Xuyên Trà, nhưng Bộ Tư lệnh Sư đoàn, Bộ chỉ huy Trung đoàn cũng làm đủ nghi lễ cho buổi rửa mặt Tiểu đoàn 3/56, hy vọng đem lại sinh khi chiến đấu cho quân sỹ đơn vị này.
Sau khi tan lễ, trên chuyến xe đò từ Đại Lộc về Đà Nẵng, quân cảnh bắt được 1 toán lính Tiểu đoàn 3/56 chuồn về gia đình, mà hầu hết là gốc miền Nam…
Còn tướng Hinh dặn dò trung tá T : “Đừng để xảy ra một Tân Lâm thứ 2” trước khi ông về lại Hòa Khánh.
+ Những ngày giáp Tết chờ đợi
Những ngày giáp Tết (hạ tuần tháng giêng dương lịch) chiến trường Quảng Đà trở nên yên lặng… Chính sự yên lặng đáng sợ này khiến cho tướng Hinh lo lắng, có thể xảy ra một Mậu Thân thứ hai, hoặc 1 mùa hè 1972 nữa chăng?
Tướng Hinh bị ám ảnh về sự kiện đại tá Lê Đức Đạt, quyền Tư lệnh Sư đoàn 22 bị bắt sống tại Tân Cảnh trong trận tiến công mùa hè 1972 tại chiến trường cao nguyên… ông lo ngại nội tuyến… ông nghi ngờ trung đội bảo vệ tư dinh Tư lệnh… Do đó ông ra lệnh cho Phòng An ninh quân đội rà lại lý lịch toán cận vệ, kể cả toán phục vụ tư dinh tại căn cứ Hòa Khánh cũng như tại biệt thự ở Đà Nẵng và ở Sài Gòn.
Đại tá H, Tham mưu trưởng thì khác hẳn. Ông mong chờ những trận đánh để may ra có dịp thi thố tài năng và kinh nghiệm. Viên đại ta này đã đạt đủ các tiêu chuẩn của ngành bộ binh : làm đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng trước khi về làm Tham mưu trưởng. Ông đã làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 “Sư đoàn bảnh nhất của Quân lực VNCH”.
Nhưng chiến trường vẫn yên lặng. Tin Phòng 2 ghi nhận sự chuyển quân của các sư đoàn chính quy Quân khu 5 các trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực Mặt trận 44, các đại đội thuộc các huyện đội Đại Lộc, Duy Xuyên, Thượng Đức, Quế Sơn…những ngày cuối tháng đợi chờ…
M79:
11- Phòng tuyến bê tông của tướng Trưởng, tướng Hinh
+ Phòng tuyến bê tông trên vòng cung “Nam – Tín”
Đầu tháng 2-1975 (hạ tuần tháng chạp âm lịch), tướng Trưởng thị sát khu vực hành quân của Sự đoàn 3 trải dài từ phía nam đèo Hải Vân đến gần Thăng Bình. Tại các căn cứ hỏa lực, cột trụ của phòng tuyến, tướng Trưởng ra lại các hệ thống phản pháo và hệ thống phòng thủ quanh căn cứ.
Một buổi chiều đầu tuần, tướng Trưởng xuống căn cứ Hoà Khánh, bản doanh của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3. Tướng Hinh họp kín với tướng Trưởng, không một sỹ quan tham mưu nào được phép dự, kể cả Tham mưu trưởng. Sau hơn nửa giờ, tướng Hinh tiễn tướng Trưởng ra sân bay trực thăng, cạnh dinh tướng Hinh. Bắt tay từ giã người Gia trưởng Sư đoàn 3, tướng Trưởng nói :
- “Phải thường xuyên kiểm tra hệ thống phòng thủ và xem lại phối trí các đơn vị như tôi đã bàn…”
Buổi tối hôm đó, tướng Hinh ở lại Bộ Tư lệnh. Ngay trong phòng Tư lệnh, tướng Hinh, đại tá Tham mưu trưởng, các trưởng Phòng 2, 3 thảo luận chỉ thị của tướng Trưởng. Theo lời tướng Hinh, đã đến lúc phải thay đổi kế hoạch phòng thủ, thay vì phải trải rộng, rải khắp, để kiểm soát đất đai thì bây giờ chỉ cần xây dựng những trọng điểm vững chắc như bê tông theo hình vòng cung, tạo thế liên hoàn bổ trợ cho nhau… Các trung đoàn bố trí tập trung thay vì phân tán mỏng. Bài học Long Bình là bài học về phối trí lực lượng.
Theo chỉ thị của tướng Hinh, Bộ chỉ huy của Trung đoàn 57 được chuyển từ căn cứ Chi Lăng về đóng gần Hòa Cầm sẵn sàng ứng chiến cho Bộ Tư lệnh và là lực lượng tăng viện cho các trung đoàn bạn khi có giao tranh.
Trung đoàn 56 tạo phòng tuyến vòng cung quanh quận Dục Đức.
Trung đoàn 2 (Trung đoàn anh cả của Sư đoàn) đảm trách vòng đai Đại Lộc.
Bấy giờ quận Thượng Đức ở trong tay quân Giải phóng, phòng tuyến Cận Sơn giao cho Liên đoàn Biệt động quân biên phòng tăng phái.
Lữ đoàn Dù phụ trách các cứ điểm trọng yếu từ Duy Xuyên đến Hiếu Đức.
Phía đông quốc lộ 1 là trách nhiệm của 2 liên đoàn Địa phương quân thuộc tỉnh Quảng Nam, 1 liên đoàn đảm trách phía bắc từ Đéo Hải Vân trở vào. 1 liên đoàn chịu trách nhiệm phòng tuyến Điện Bàn, Hội An, Duy Xuyên.
Dưới tay tướng Hinh có quân số bằng 2 sư đoàn bộ binh :
- 3 trung đoàn
- 3 liên đoàn
- 1 lữ đoàn
- 1 thiết đoàn kỵ binh (hơn 70 chiến xa)
- 5 tiểu đoàn pháo (trong đó có 1 tiểu đoàn pháo binh dù của Lữ đoàn Dù, không kể các đơn vị yểm trợ trực thuộc)
Tôi không muốn trở thành một De Castries
So với 10.000 quân lính Pháp ở phòng tuyến Điện Biên phủ vào tháng 1-1954 thì phòng tuyến bê tông của tướng Hinh có chu vi rộng hơn và quân số đông gấp đôi. Tỉ số De Castries / Việt Minh là 1/3. Còn bây giờ tỉ số Sư đoàn 3 / Giải phóng quân là 2/3 (theo Phòng 2 vào đầu năm 1975, lực lượng Giải phóng quân tại chiến trường Quảng nam gần 3 sư đoàn)…
Tướng Hinh tâm sự với các cộng sự viên :
- “Chúng ta không thể chịu số phận như De Castries ở Điện Biên Phủ. Hoặc là chúng ta giữ được, hoặc là chúng ta sẽ chết ở đây, chứ không đầu hàng”
Lời nói có vẻ tự tin của tướng Hinh không giấu được những lo lắng lộ hẳn trên khuôn mặt ông. Các cộng sự viên đều hiểu rằng đó chỉ là cách nói động viên tinh thần.
Từng sống, từng chia xẻ với tướng hinh những buồn vui chiến trường, các sỹ quan thân cận có chung một nhận xét :
“Tướng Hinh không thuộc loại tướng võ biền như kiểu tướng Nhựt Sư đoàn 2 hay thuộc loại “chịu đấm ăn xôi” như tướng Điềm Sư đoàn 1. Tướng Hinh là đại biểu cho hàng tướng lãnh – “tham mưu, văn phòng”, không phải là tướng tác chiến. Do đó khi ông nói : “Tôi không muốn trở thành một De Castries”, thì hãy hiểu dùm là ông không muốn bị bắt, cũng không muốn tự sát để bảo vệ danh dự của một người làm tướng”.
+ “Mặt trời Nguyễn Văn Thiệu” về thăm Sư đoàn 3 lần cuối.
25-2-1975, Nguyễn Văn Thiệu thị sát chiến trường Quân khu 1. 15 giờ chiều phi đội trực thăng đặc biệt chở “Tổng tư lệnh” và các tướng lãnh đạo cao cấp của Bộ Tổng Tham mưu đáp xuống sân bay đặc biệt của Sư đoàn 3 trong căn cứ Hòa Khánh. Tổng thống ghé thăm Bộ Tư lệnh Sư đoàn để nghe tướng Hinh thuyết trình. Đây chỉ là nghi thức vì trước khi đến Sư đoàn 3, tướng Trưởng đã báo cáo chi tiết về hoạt động quân sự toàn quân khu cho ổng thống nghe tại Bộ Tư lệnh quân đoàn.
Nhìn thẳng vào tướng Hinh, Nguyễn Văn Thiệu hỏi :
- Nếu địch tấn công như đã tấn công ở Bình Long vừa rồi, hay như năm 1972, Sư đoàn 3 của anh liệu có bỏ chạy như ở Quảng Trị nữa không?
Tướng Hinh điềm đạm trả lời (có lẽ ông đã chuẩn bị câu hỏi này trước khi Tổng Tư lệnh tối cao đến) :
- Kính thưa Tổng thống, mặc dù đa số quân sỹ Sư đoàn 3 thuộc các thành phần “không tốt” do các đơn vị khác chuyển đến, nếu không muốn nói là thành thần “vô kỷ luật”, nhưng với sự cố gắng của Bộ tư lệnh, giờ đây Sư đoàn 3 nhìn chung tương đối vững vàng, có khả năng bảo vệ được Quảng Đà khi bị tấn công…
Nửa giờ sau, tướng Hinh lái xe Jeep đưa Tổng Tư lệnh đến Hội trường lộ thiên Đại La, cách văn phòng Tư lệnh 2 km, tại đây có 3 tiểu đoàn đại diện chi Sư đoàn 3, Lữ đoàn Dù Địa phương quân Quảng Nam tập hợp từ 12 giờ trưa, để nghe nhật lệnh của “Mặt trời Lớn” từ Sài Gòn về đây…
Giữa hàng quân là một khán đài nhỏ để 3 hàng ghế dành cho tướng Hinh, chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh Sư đoàn Dù, đại tá Chung tỉnh trưởng Quang nam, đại tá Tường thị trưởng Dà Nẵng. Chính giữa khán đài là tấm băng “Chào mừng Tổng thống, Tổng Tư lệnh Tối cao Quân lực VNCH”. Đối diện với khán đài nhỏ và hàng quân là khán đài danh dự dành cho Tổng Tư lệnh.
Khác với năm trước, tết đến nay, tướng Cao Văn viên không tháp tùng Nguyễn Văn Thiệu mà thay vào đó là 2 trung tướng cũng mang kính trắng và có ngoại hình khá giống nhau : trung tướng Lê Nguyên Khang phụ tá hành quân, và trung tướng Trần Văn Trung phụ tá Chiến tranh Chính trị Tổng Tham Mưu trưởng.
Tướng Trưởng đứng cạnh Tổng Tư lệnh mắt đăm chiêu, ông không nhìn hàng quân trước mặt… khuôn mặt “hao gầy” nhìn về phía đèo Hải Vân… mây trắng vẫn hồn nhiên bay qua lưng đèo.
+ Bản nhật lệnh cuối cùng
Tướng Nguyễn Duy Hinh đại diện cho tướng lĩnh sỹ quan có mặt chúc Tết Tổng thống và hứa với Tổng Tư lệnh tối cao :
“Chiến sỹ Sư đoàn 3 và các đơn vị tăng phái xin hứa vững vàng tay súng đánh tan mọi cuộc tấn công của đ5ch, bảo vệ vũng vàng Quảng Đà thân yêu”
Bằng giọng nói chậm rãi, sau khi trình bày những biến động trong và ngoài nước, sau những câu động viên và kêu gọi quân sỹ, Nguyễn Văn Thiệu cho biết :
“Nếu bị cúp viện trợ, quân đội VNCH đủ lương thực đạn dược để tự chiến đấu trong 2 năm trong chờ đợi một giải pháp chính trị cho lợi cho VNCH”.
Cuối cùng Tổng thống hứa :
“Năm tới, cũng vào dịp này, tôi lại về thăm các chiến hữu”.
Rồi trực thăng chở Tổng Lư lệnh về Đà Nẵng. Máy bay đảo quanh hội trường lộ thiên Đại La 2 vòng. Tổng Tư lệnh vẫy tay giã từ chiến hữu và những người lính dưới đất cũng vẫy tay theo, lòng không mấy vui. Họ đâu biết rằng đó là lần vẫy chào cuối cùng của Nguyễn Văn Thiệu.
Từ biệt Tổng thống, từ biệt Tổng Tư lệnh, tướng Hinh về nhà. Khuôn mặt ông thoáng buốn, không phải vì ông sợ mất chức, không phải vì ông sợ Thiệu chê là kém tài, ngược lại ông là một trong những cấp tướng được lòng Nguyễn Văn Thiệu. Điều ông lo ngại là những trận đánh lớn đương chờ ông ở một ngày không xa.
Có thể trong đáy lòng ông, một bài toán, một sự so sánh giữa ông và viên Tư lệnh cũ. Dù bị giáng xuống binh 2, nhưng tướng G vẫn được cấp chỉ huy thuộc quyền nể mặt vì tướng G là “tướng chiến trường”. Tướng G đã đi từ những nấc thang theo cấp số cộng : Đại đội trưởng, Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn trưởng, Tư lệnh phó trước khi làm Tư lệnh…
Nỗi buồn vây kín tâm hồn Tư lệnh chiều nay!
M79:
12- Một ngày không chiến tranh và chiến trường thầm lặng.
+ Đêm Giao thừa trên chiến hào Hòa Khánh.
Chiều 30 tết (10-12-1975) chiến trường Quảng Đà im tiếng súng. Chính sự im lặng này khiến cho một số binh sỹ nghĩ rằng “đây là một điềm gở”. Chắc năm mới sẽ có nhiều biến đổi. Nhưng với tướng Hinh và Bộ Tham mưu, kinh nghiệm tết Mậu Thân vẫn còn đó, một ngày im lặng để tiếp nối bằng những ngày khói lửa.
12 giờ đêm Giao thừa, Bộ Tham mưu do đại tá H Tham mưu trưởng hướng dẫn lên “Biệt thự trên đồi” để chúc Tết Tư lệnh… chai rượu mừng Xuân nổ tung từ tay Tư lệnh trong nụ cười không tươi tắn như nụ cười Xuân 1973, 1974, nhưng Tư lệnh “bình dân” hơn mọi năm, rót từng ly rượu mời các cộng sự viên, đưa đĩa bánh mời từng người…
Đầu năm kiêng cữ nói chuyện chiến tranh, Tư lệnh hỏi chuyện gia đình, đại tá H có dịp trổ tài về sự lịch lãm của ông cũng như sự hiểu biết của ông về “tình dân, thế nước”.
Tướng Hinh lắng nghe, cuối cùng ông nói :
- “Dù thế nào thì cũng không nên chểnh mảng… chúc mọi người vui Tết, năm mới ta đón một cái Tết vui hơn năm nay!”
Pháo giao thừa từ xa vọng lại, một vài đơn vị tự động bắn súng thay pháo. Sỹ quan tùy viên gọi điện khiển trách nhưng Tư lệnh cản lại :
- “Đầu năm không nên la, rồi để Tân niên rồi khiển trách cũng không vội”
Trung tâm hành quân ứng chiến 100%, quân sỹ ứng chiến 100%, các Trưởng phòng Tham mưu có mặt tại phòng 100%, đó là lệnh của Tư lệnh. Nhưng nếu Tư lệnh bất thần điểm danh thì chỉ có khoảng 30% có mặt trong đêm giao thừa này…
Tư lệnh gọi máy hữu tuyến chúc Tết các Trung đoàn trưởng, các đơn vị trưởng biệt lập ở xa, nhưng không quên nhắc kéo : “cẩn thận”.
Cả một phòng tuyến dài hơn 60 cây số. Yên lặng, không một tiếng súng, các máy truyền liên lạc không còn xôn xao như những ngày giáp năm…
Đêm Giao thừa cuối cùng nào ai có hay?
+ Những đòn bánh chưng gửi về phía bên kia
Cũng đêm này, tại những xóm làng Cận Sơn, dân chúng đi ngủ sớm, nhưng có ai biết đâu tại một số nhà cơ sở, dưới những căn hầm bí mật, dân và Mặt trận đang đón giao thừa.
Phòng 2 ước đoán trước sẽ có những cuộc hội ngộ dưới hầm sâu. Biết nhưng đành chịu, vì những ngôi nhà cơ sở, dân chúng cũng dự đoán trước tình huống có thể xảy ra nên họ đã ngụy trang rất khéo, hơn nữa vào giờ đó, các mật báo viên Phòng 2, các toán trinh sát đang liên hoan đêm trừ tịch. Sự kiện này được ghi nhận qua lời khai của một tù binh sau Tết : “Chúng tôi được đồng bào dấu kín dưới hầm và cho ăn Tết đầy đủ”.
Tại thành phố Đà Nẵng, tuy không có truyền đơn rải, không có những tiếng nổ ở các khu biệt thự của Mỹ và các nhân vật cao cấp… Hình như, Biệt động thành Đà Nẵng yên lặng trong đêm giao thừa… Điều đó không ai giải thích được nhưng miệng truyền miệng, người này nói với người kia : “Sau Tết, các ông Việt Cộng thế nào cũng đánh lớn như mùa hè 1972…”
Dân Đà Nẵng ăn Tết như mọi năm, riêng đối với thương gia, công chức quân nhân, không dấu nổi lo âu trước những biến động trên toàn quốc. Nixon rớt đài, chỗ dựa vững chắc của Tổng thống Thiệu đã bị sụp đổ, Mỹ giảm viện trợ và có thể cắt luôn, Mỹ sẽ thay ngựa…?
Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu băn khoăn, những nét buồn thoáng hiện trên khuôn mặt của những cán bộ, sỹ quan trung cấp và cao cấp, những thương gia cỡ bự…
“Những tháng ngày êm ả” còn hay mất sau mùa xuân này?
+ Có một mùa Xuân sau?
Một số thương gia tìm cách chuyển vào Sài Gòn buôn bán. Họ tin rằng Sài Gòn không thể mất. Nhưng có một số khác nhận định : “Nếu Đà Nẵng mất thì trước sau Sài Gòn cũng mất, cứ ở lại sinh sống Đà Nẵng, cái gì đến thì cứ đến”.
Trong hàng ngũ sỹ quan tại Quân khu 1 cũng như riêng tại Sư đoàn 3, một số sỹ quan tìm cách xin giải ngũ. Nhân có lệnh của Bộ Quốc phòng cho giải ngũ các nhân viên đủ niên hạn 7 năm không thăng cấp đối với cấp tá, đây là dịp để gác kiếm về vườn tìm cách chuồn khỏi nơi bom đạn.
Nếu trong năm 1973, 1974, các chức vụ Tiểu đoàn trưởng là những món hàng giá cao, thì từ tháng 1-1975 sau khi Bình Long thất thủ, có nhiều sỹ quan vận động với cấp trên để khỏi bị Tư lệnh gọi lên cho làm Tiểu đoàn trưởng.
Không khí bi quan, ngán đánh nhau như một chất rượu nấm dần vào cơ thể của nhiều sỹ quan chỉ huy.
+ Lời chúc Tết cuối cùng của Tổng thống
Buổi chiều mồng một tết, khối Chiến tranh Chính trị, Phòng 2, Phòng 3 chuẩn bị bản thuyết trình đầu năm âm lịch, dự định họp vào 8 giờ sáng 12-2 (tứ mồng 2 Tết). Phòng 2, Phòng 3 không có nhiều sự kiện, nhưng khối Chiến tranh Chính trị thì ngán nhất là phải phát thanh lại “Lời chúc tết của Tổng thống trong đêm Giao thừa” vào 7 giờ sáng mồng 2 Tết nhân buổi chào cờ đầu năm.
Cái lo của đại tá B là trục trặc kỹ thuật. Tư lệnh sẽ quạt không thương tiếc, dù là đầu năm.
Và điều lo ngại đã đến. Giữa 3 quân, có Tư lệnh, có Tham mưu trưởng, đông đủ các tham mưu phó, Trưởng phòng, đơn vị trưởng, lời “chúc Tết của Tổng thống” chỉ phát đến 1/3 cuộn băng thì bị hỏng… Cả toán kỹ thuật mặt mày tái mét. Đại tá B không dám nhìn Tư lệnh. Tham mưu lo lắng không phải vì cơn thịnh nộ Tư lệnh sắp giáng xuống. Họ lo lắng vì đó là điềm không lành.
“Chắc là Tổng thống ra đi… Chắc Cộng Hòa đến thời mạt vận".
+ Những giông bão lại trở về
8 giờ Bộ Tham mưu họp (sau buổi lễ chào cờ đầy bi kịch). Không có nhiều sự kiện để báo cáo. Phòng họp chờ đợi Tư lệnh thịnh nộ… Nhưng không, tướng Hinh chỉ buồn, bằng giọng chậm rãi, ông nói với đại tá B :
- “Phạt 15 ngày trọng cấm chuyên viên kỹ thuật. Dù sao cũng không thể bỏ qua”
Rồi sau đó Tư lệnh bắt đầu nói về những lo lắng của mình sau khi nhìn kỹ tình hình địch trên bản đồ :
-“Các anh đừng thấy ngày mồng 1 Tết im tiếng súng, như thế là có dấu hiệu tốt đẹp! Không đâu! Tình hình không sáng sủa như ta nghĩ. Chúng ta sắp đón những giông bão xô ngã chúng ta…
Sự nghiệp 20 năm chống Cộng sẽ là mây khói nếu chúng ta bi quan và dừng lại, chấp nhận thua cuộc”
Nét mặt của Tư lệnh buồn hơn sau câu nói đó, không biết vì giận hay vì lo sợ… Chỉ biết rằng ông về phòng riêng sớm hơn mọi lần, và dặn tùy viên “Tư lệnh không tiếp khách”. Mình ông với văn phòng làm việc bề thế dành cho Tư lệnh. Tấm bản đồ sau lưng ông, sau bàn làm việc có gắn “Tướng Kỳ 2 sao”, những chấm đỏ nhiều hơn năm qua, dấu hiệu của áp lực địch gia tăng…
Tư lệnh chờ trận đánh quyết định trong những ngày sắp đến… xảy ra vào lúc nào… kéo dài bao lâu… và cuộc đời binh nghiệp của ông cũng gắn liền với kết quả trận đánh quyết định cuối cùng vào tuần lễ cuối cùng…
Tuần lễ dài nhất bao giờ sẽ đến?
M79:
CHƯƠNG III
THÁNG 3 : NHỮNG NGÀY HẤP HỐI
13 – trận địa pháo phía nam đèo Hải Vân
+ Lời phán truyền của Tư lệnh : “Phải dập tắt pháo địch khi bị tấn công”
… Với 54 khẩu pháo 105 ly, 18 khẩu pháo 155 ly, 4 tiểu đoàn pháo binh cơ hữu, lực lượng pháo binh của tướng Hinh không kém dàn pháo của De Castries Điện Biên Phủ năm 1954. Tướng Hinh xuất thân là sỹ quan thiết giáp, ông không thạo về pháo nhưng đã có trung tá C, chỉ huy trưởng pháo Sư đoàn, người tự ví mình là “Nguyễn Đức Thắng thứ 2” của VN (Nguyễn Đức Thắng là 1 sỹ quan cấp tướng được cố vấn Mỹ đánh giá là giỏi pháo binh).
Dàn pháo của Sư đoàn 3 giăng từ phía Nam đỉnh đèo Hải Vân đến gần Thăng Bình. Tại mỗi cứ điểm có từ 6 đến 12 khẩu pháo… Tuy là dân “xe tăng” nhưng tướng Hinh không mấy tin tưởng ở 70 xe tăng của Thiết đoàn 11 kỵ binh. Mọi ưu ái của Tư lệnh đều dành cho pháo.
Những ngày cuối tháng 2, đầu tháng 3, chiến trường sôi động trở lại khi các đại pháo của giải phóng quân Quân khu 5 bắt đầu tham chiến bằng những trận tấn kích vào căn cứ Chi Lăng, Đa Tịnh, Đại Lộc, Dục Đức. Hàng ngày các căn cứ trọng yếu của Sư đoàn đều lãnh không dưới 10 quả pháo của đối phương.
“Phản pháo ngay khi bị tấn công!”. Tướng Hinh nhắc trung tá C nhiều lần mỗi khi nhận được tin các căn cứ bị pháo kích.
Nhưng điều lo lắng của tướng Hinh không phải là Sư đoàn 3 bị pháo nhiều hay ít, với Tư lệnh, câu hỏi mà Phòng 2 vẫn chưa giải đáp được :
- Pháo của địch bắn trong thời gian qua là thuộc Quân khu 5 hay thuộc Sư đoàn pháo chính quy? Nếu là pháo của Quân khu 5 thì không đáng lo ngại. Còn nếu là pháo binh chính quy thì coi chừng, một Quảng Trị thứ hai sẽ sảy ra…
Dù Tư lệnh lo lắng, nhưng pháo của Sư đoàn 3 vẫn phản pháo chậm khi bí tấn kích, do đó không chế ngự được chiến trường.
+ Các trung đoàn Quảng Đà trở lại chiến trường
Tuần lễ cuối tháng 2 và đầu tháng 3 sôi động với những trận giao tranh cấp tiểu đoàn. Các tiểu đoàn chủ lực Mặt trận Quảng Đà giao chiến với các tiểu đoàn bộ binh Sư đoàn 3, không còn đánh ban đêm, đánh ban ngày, đánh cường tập, thế là mặt đối mặt, các K của Mặt trận ra quân sau một thời gian nghỉ ngơi… Từ khi chiến trường Thượng Đức sôi động trong mùa đông 1974, từ khi những quả C.B.U theo lệnh tướng Trưởng thả xuống các cao điểm Cận Sơn để kết thúc trận đấu giữa lữ đoàn Dù và 1 trung đoàn chính quy Giải phóng quân.
3 tháng sau, chiến trường Quảng Đà lên cơn sốt sau nhữngày tháng đợi chờ… Trong 1 báo cáo của Phòng 2 đã ghi :
“Nhiều trục lộ giao thông từ Cận Sơn về đồng bằng bị đối phương phá hủy. các trận đánh cấp tiểu đoàn diễn ra liện tục. Những trận đụng độ đáng ghi nhận giữa các tiểu đoàn của Trung đoàn 2, rung đoàn 57 với các tiểu đoàn chính quy của Quân khu 5, mang dấu hiệu sắp có những trận đánh từ cấp trung đoàn đến Sư đoàn”.
Đại đội vận tải Sư đoàn 3 không đủ số lượng xe để thỏa mãn nhu cầu chuyển quân. Hàng ngày Quân đoàn 1 tăng viện 2 đại đội vận tải Liện đoàn 1 quân vận Đại Lộc, một Đông Hà thứ 2 của Quảng nam, thị trấn, đồng thời là quận lỵ đầy lính Sư đoàn 3 qua lại… Các đại đội quân y Sư đoàn hoạt động vất vả vì số thương vong ngày càng tăng. Mỗi ngày Tổng y viện Duy Tân tiếp nhận nhiều thương binh từ nmặt trận của Sư đoàn 3 gởi về. Bóng dáng các tuyên úy, các nữ trợ tá xã hội lại xuất hiện thường xuyên, nhưng không tạo được niềm tin cho những người từ phòng tuyến trở về…
+ Khi Tư lệnh giải thế cờ “bí”
Trong tuần lễ đầu tháng 3, ít khi Tư lệnh có mặt ở văn phòng, dù “Tướng Kỳ 2 sao” vẫn phất phới trước Bộ Tư lệnh… Với chiếc trực thăng chỉ huy ông bay thị sát chiến trường suốt ngày… Tại mỗi phòng tuyến, Tư lệnh đôn đốc, đặc biệt là pháo binh, vì đây chính là những đứa con cưng của chiến trường. Trong những trận đánh sắp đến, pháo binh quyết định hơn 50% kết quả…
Ông chỉ thị các pháo đội trưởng nghiên cứu kế hoạch bắn trực xạ (bắn thẳng) khi bị tấn công cường tập… Ở đâu ông cũng nhắc lại trường hợp Tống Lê Chân, và xa hơn nữa, các trận đánh của mùa hè 1972 tại căn cứ Tân Cảnh và cả bi kịch Quảng Trị của Trung đoàn 56 (đứa con 2 lần chết của Sư đoàn Trừng giới)
Riêng hệ thống phòng thủ, ông lo ngại những trận đánh đặc công mà trường hợp Tiểu đoàn 3/56 và Tiểu đoàn Biệt động quân bịên phòng là 2 điển hình thảm khốc… Chính hình ảnh thiếu tá Nam, Tiểu đoàn trưởng chết không toàn thây ám ảnh Tư lệnh… Không biết Tư lệnh thương người chiến hữu bạc phận hay ray rứt. Cứ mỗi lần nhắc đến cái chết của thiếu tá Nam, giọng ông trầm xuống và đôi mắt buồn xa vắng
Ông thạo đánh cờ tướng, hay nghiên cứu các thế cờ, và ở chiến trường phá để đánh “chốt tấn, pháo tập” của đối phương. Ông cho công binh kiểm tra lại hệ thống mìn, các đài quan sát kịp thời phát hiện các vị trí xuất phát pháo (départ) để pháo binh 105 của Sư đoàn 3 có nhiệm vụ “dập” tắt như pháo triệt pháo trong bàn cờ
+ Mây “khói pháo” trên đèo Hải Vân.
Phòng thủ đèo hải vân là một tiểu đoàn Địa phương quân tăng cường một pháo đội và một chi đội chiến xa… Con đèo dài hơn 10 cây số là con đèo chiến lược của mặt trận Quân khu 1. Hàng ngày từ đỉnh đèo nơi đặt vị trí pháo – hàng đợt pháo gầm thét, khói đạn hòa lẫn với khói mây, đỉnh đèo Hải vân như một vùng “Sương khói pháo”, hành khách qua đèo không còn ngắm cảnh, nhìn mây bay, mà luôn luôn nơm nớp lo sợ. Không khí chiến tranh bao trùm từ chân đèo phía bắc (Lăng Cô) đến chân đèo phía Nam (Nam Ô).
Cứ vài ngày Tư lệnh Sư đoàn 3 hoặc Tư lệnh Quân đoàn 1 hạ trực thăng chỉ huy trên đỉnh đèo để quan sát thế trận, tướng Hinh không tin tưởng ở khả năng tác chiến của Tiểu đoàn Địa phương quân. Ông có ý định điều 1 tiểu đoàn Dù tăng phái lên tăng cường khi có những tín hiệu “Đèo Hải Vân có thể bị tấn công”. Cái thơ mộng của 1 giờ qua đèo ngắm cảnh không còn nữa. Trong khi căn cứ Gia Lê (Sư đoàn 1), căn cứ Chu Lai (Sư đoàn 2) thường bị pháo kích, thì căn cứ Hòa Khánh chưa nếm khói đạn của pháo binh Giải phóng. Có lẽ do địa thế…
Tuy nhiên, tướng Hinh vẫn lo ngại. Từ ngày về nắm quyền Tư lệnh Sư đoàn 3, tướng Hinh ra lệnh cho tất cả các đơn vị phải tranh bị cho mỗi binh sỹ “xẻng cá nhân” để đào “hố cá nhân” khi dùng quân. Mỗi người lính Sư đoàn 3 khi rời khỏi vị trí đều phải đội nón sắt 2 lớp và mang “bao đựng xẻng cá nhân”, ngoài vũ khí.
Tư lệnh nói :
- Điều lo ngại nhất là bị thương vong pháo kích, để làm giảm tối đa mức tổn thất. Nón sắt 2 lớp che chở, xẻng cá nhân để đào hố tránh pháo kích là 2 điều kiện cần khi bị tấn công bằng pháo.
Ông ra lệnh cho Đại đội Quân cảnh bắt giữ tất cả quân nhân (kể cả sỹ quan) không đội nón sắt, không mang xẻng cá nhân khi di chuyển đến vùng hành quân cũng như ở hậu cứ. Chính ông cũng được trang bị như mọi sỹ quan khác. Tư lệnh cao không quá 1 m 60,… chiếc xắc đựng xẻng cá nhân mang bên hông tạo cho Tư lệnh dáng dấp một hiệp sỹ lùn…
+ Đồng bằng không còn yên lặng
Từ quốc lộ 1 xuôi về phía đông, các xóm làng thuộc các quận Hòa Vang, Điện Bàn, Duy Xuyên, Hiếu Nhơn cũng không còn yên lặng, hình ảnh đồng quê mang bóng dáng chiến tranh. Những cuộc chạm súng giữa các đại đội địa phương quân, trung đội nghĩa quân với các B, các C của Huyện đội, Tỉnh đội Quảng nam… Có nhiều xã ở gần quốc lộ 1 cũng bị tấn công. Ban đêm xã trưởng, xã phó về quận lỵ nghỉ ngơi, giao cơ quan cho Trung đội nghĩa quân bảo vệ… và sáng hôm sau, xã trưởng trở lại chốn cũ, quê xưa…
Tại đồng bằng, hoạt động tuyên truyền của mặt trận gia tăng. Nhiều nơi truyền đơn rải ngay ban ngày, các buổi phóng thanh từ bên này sông Thu Bồn gởi qua bên kia sông Thu Bồn, nội dung kêu gọi “Nhân dân nổi dậy, giành lấy chính quyền”.
Những ngày thượng tuần tháng 3, số thanh niên ở thành phố Đà Nẵng trốn lính về tạm trú ở quê nhà ngày càng tăng. Nhưng khác với thành phố, thị xã, người dân ở nông thôn không hoảng hốt, họ bình thản với luống cày, đồng ruộng, lũy tre thân thương…
+ Khi người “Bạn lớn” thăm chiến trường
Cũng vào thời gian này phái đoàn D.A.O (Tùy viên quân sự đại sứ quán Mỹ) thường xuyên đến kiểm tra các hoạt động Sư đoàn. Sau hiệp định Paris 27-1-1973, hệ thống cố vấn Mỹ (MACV) tại các đơn vị VN bị giải tán, thay vào đó là hệ thống D.A.O (Defense Attache Office) được tổ chức trong khuôn khổ các lãnh sự quán tại Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Pleiku, Nha Trang, Cần Thơ. Riêng tại Sài Gòn, phái bộ D.A.O hoạt động cạnh sứ quán do tướng Smith chỉ huy. Các nhân viên phái bộ D.A.O mặc thường phục, và đa số đều nói tiếng Việt khá thạo, không cần thông dịch viên.
Vào thượng tuần tháng 3, tướng Smith từ Sài Gòn ra gặp tướng Trưởng để thảo luận về tình hình chiến sự tại Quân khu 1, sau đó tướng Smith cùng với tướng Trưởng ghé thăm (không chính thức) tướng Hinh. Tại phòng họp riêng, tướng Hinh đã trình bày cho tướng Smith về thực trạng Sư đoàn 3. Sau hơn 1 giờ hội kín, tướng Hinh tiễn tướng Smith và tướng Trưởng ra về. Trước khi lên trực thăng tướng Smith vỗ vai tướng Trưởng như muốn gởi cho Tư lệnh một niềm “Người Mỹ không bỏ rơi các bạn đâu”.
Người “Bạn lớn” mang đến cho Tư lệnh một hy vọng… từ trong tâm thâm, Tư lệnh vẫn mong “Đừng có gì xảy ra như năm 1972…Một giải pháp chính trị tốt đẹp sẽ xảy ra… Với Quân lực VNCH ở thế mạnh… Đà Nẵng, Quảng nam đương lên cơn sốt… nhưng những gì tướng Smith nói với Tư lệnh… là những liều thuốc hồi sinh”
Khác với mọi lần… buổi chiều sau khi Smith đến thăm… Tư lệnh nở nụ cười tươi tắn khi sỹ quan chánh văn phòng vào báo tin : “Kính thiếu tướng Tư lệnh, 5 giờ chiều nay, thiếu tướng dùng cơm tại lãnh sự quán Hoa Kỳ”.
Khi chiếc xe quân cảnh hộ tống Tư lệnh về thành phố Đà Nẵng… cũng ngay giây phút đó… một tiểu đoàn của Trung đoàn 2 ở Đại Lộc bị tấn công… và khi Tư lệnh đương nâng cốc thì trận chiến đã đi vào đêm tối. Một đại đội bỏ phòng tuyến rút về phía sau, đợi chờ.
M79:
14- Đà Nẵng không phải là Buôn Mê Thuột
+ Buôn Mê Thuột : Mục tiêu đầu tiên của trận chiến
02 giờ ngày 10-03-1974, Buôn Mê Thuột, nơi đặt bản doanh của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 và là tỉnh lỵ của tỉnh Daklak bị tấn công.
05 giờ sáng cùng ngày tướng Hinh bị đánh thức để nghe thông báo về “tin dữ” này.
06 giờ sáng, Bộ Tư lệnh Sư đoàn được Bộ Tổng tham mưu thông báo đầy đủ chi tiết về cuộc tấn công thị xã Buôn Mê Thuột :
-“3 sư đoàn đối phương tấn công thị xã Buôn Mê Thuột trong khi lực lượng phòng thủ chỉ có 2 tiểu đoàn tại thị xã và 2 tiểu đoàn ở phía bắc thị xã, 1 trung đoàn ứng chiến gần thị xã bị chặn lại, không giải vây cho các lực lượng bên trong được”.
Buổi họp thường lệ của Bộ tham mưu Sư đoàn bị hủy bỏ. “Lệnh báo động đỏ” phổ biến khẩn cho tất cả các đơn vị thuộc khu vực Quảng Đà… Tướng Hinh và Bộ Tham mưu ra soát lạ kế hoạch phòng thủ, sỹ quan báo chí và Trung tâm hành quân theo dõi tin tức của trung ương.
11 giờ ngày 11-3, tướng Hinh nhận bản thông báo cuối cùng :
- “Việt Cộng chiếm trọn vẹn thị xã Buôn Mê Thuột, bắt sống đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn và đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng tỉnh Daklak”
(Trong khi lực lượng giải phóng quân đánh Buôn Mê Thuột, chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 đương chỉ huy mặt trận Pleiku – Kontum với 2 trung đoàn trực thuộc)
Buổi trưa 11-3, tướng Hinh bỏ bữa cơm thường lệ tại “Hội quán sỹ quan”. Một mình ông với đại tá Tham mưu trưởng cùng 2 Trưởng Phòng 2, Phòng 3 họp riêng tại phòng tư lệnh.
Tướng Hinh hỏi trung tá Q, Trưởng Phòng 2 :
- Liệu địch có thể tấn công chúng ta như ở Buôn Mê Thuột?
- Thưa thiếu tướng, vị trí của Buôn Mê Thuột và Đà Nẵng khác nhau, tình hình chiến trường cũng khác nhau. Đà Nẵng có thể bị tấn công nhưng không thể mất dễ dàng như ở Buôn Mê Thuột.
Đại tá H thêm vào :
- Địch nghi binh, tạo áp lực quanh Kontum, Pleiku để tướng Phú phải điều Sư đoàn 23 lên khu vực này, chỉ để lại 1/3 quân số. Địch nắm được những yếu tố này nên đã tấn công bất ngờ.
Qua lời trình bày của đại tá H, tướng Hinh không đồng ý, theo ông “lực lượng địch đã chọn Buôn Mê Thuột làm mục tiêu chính, đã chuẩn bị kỹ để tấn công. Còn kế hoạch nghi binh giam chân Sư đoàn 23 tại Pleiku – Kontum cũng nằm trong toàn bộ kế hoạch chung tấn công Buôn Mê Thuột”. Tướng Hinh đánh giá cao chiến lược của Giải phóng quân.
Trong giờ phút căng thẳng này, kiến thức của người tốt nghiệp “Trường Cao đẳng Quốc phòng” được tận dụng cho chính bản thân ông.
Tướng Hinh kết luận :
- Có thể địch sẽ gây áp lực ở Hội An, ở tam Kỳ, ở các quận Đại Lộc, Duy Xuyên, Thăng ình để cầm chân ta, rồi xuất kỳ bất ý đánh thẳng vào Đà Nẵng. Phải điều ngay một trung đoàn bộ binh về ứng chiến Hoà Cầm. kế hoạch phòng thủ Đà Nẵng còn tùy thuộc tướng Trưởng và Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1, cả Hải quân và Không quân cũng nằm trong khu vực Đà Nẵng. Nhưng tôi tin rằng Đà Nẵng không phải là Buôn Mê Thuột…
Khi tướng Hinh lên xe trở về tư dinh để nghỉ ngơi sau 1 ngày căng thẳng, nỗi lo âu thoáng qua đôi mắt Tư lệnh như nỗi lo âu của đêm giao thừa đầu năm.
Một sỹ quan thân tín nói đùa :
- Tư lệnh sinh ra để suốt đời lo âu.
+ Đà Nẵng 2 ngày sau biến cố Buôn Mê Thuột - Một đoạn phim hâm nóng niềm tin
Tối 13-3-1975, giữa một Đà Nẵng ngột thở vì không khí chiến tranh, Đài truyền hình phát đi một đoạn phim “Giải tỏa Buôn Mê Thuột”, qua màn ảnh nhỏ, khán giả thấy tướng Phú ra tận điểm xuất phát để động viên quân sỹ. Phóng viên Đài truyền hình phỏng vấn một số quân nhân sắp trở lại “thị trấn Buôn Mê Thuột muôn thuở” ngay tại trực thăng trở quân… Những người được phỏng vấn không che dấu được nỗi lo sợ một cái chết đương chờ họ.
Họ trả lời với một giọng trầm buồn :
“Tôi mong gặp lại vợ con tôi bị kẹt ở đó”.
Đoạn phim 15 phút muốn hâm nóng lại niềm tin “Buôn Mê Thuột sẽ được giải tỏa, tình hình miền Nam sẽ sáng sủa”
Nhưng với sỹ quan tham mưu, những người dân có tầm nhìn xa thì thất vọng :
“Tình hình bi đát rồi, 2 trung đoàn làm sao giải vây nổi một thị xã bị 3 sư đoàn chiếm giữ, chỉ là công dã tràng”
Đúng như thế, chỉ sáng hôm sau, các đài ngoại quốc loan tin Pleiku di tản
Và tới 14-3-1975, nguồn tin chính thức ghi nhận :
“Tổng thống cho lệnh Quân đoàn 2 di tản chiến thuật về Duyên Hải”.
Suốt ngày 14 và ngày 15, dân chúng theo dõi tình hình chiến sự những tin “nóng hổi” được phát đi qua đài BBC, VOA…:
“Bộ Tư lệnh tướng Phú chuyển về Nha Trang – Địch quân đánh tan cuộc di tản bằng đường bộ của tướng Tất, chỉ huy biệt động Quân khu 2”.
Ngày 17-3-1975, trung tá Lê Trung Hiển, phát ngôn viên “Quân lực VNCH” buồn bã loan báo :
“Cuộc di tản chiến thuật đã hoàn tất”.
+ Từ đồi Hòa Khánh đến Sơn Trà
Sáng 17-3-1975 tại Bộ tư lệnh Quân đoàn 1, tướng Trưởng họp với các tướng Lĩnh Quân khu 1. Tham dự có :
Tướng Hinh (Tư lệnh Sư đoàn 3),
Tướng Điềm (Sư đoàn 1),
Tướng Nhựt (Sư đoàn 2),
Tướng Khánh (Sư đoàn 1 không quân),
Phó đề đốc Thoại (Hải quân),
Tướng Thi (Tư lệnh tiền phương),
Tướng Lạc (Tư lệnh phó Quân khu 1),
Và các tỉnh tưởng thuộc Quân khu 1.
Buổi họp đầu tuần… Đây là buổi họp cuối cùng của Tư lệnh Quân đoàn 1 với các tướng lĩnh, tỉnh trưởng tại Quân khu 1. Tại buổi họp, tướng Trưởng cho lệnh các Tiểu khu trưởng tùy nghi bố phòng. Trọng điểm là tỉnh lỵ, nếu cần bỏ các quận miền núi không cần phòng thủ.
(Trước cuộc họp vài ngày, quận Tiên Phước bị tấn công, Quân giải phóng làm chủ chiếm chọn vẹn quận lỵ sau 2 giờ giao tranh).
Riêng tại Đà Nẵng, tướng Hinh có trách nhiệm bảo vệ vòng đai ngoài,
Sân bay Đà Nẵng do tướng Khánh chịu trách nhiệm
Cảng Đà Nẵng và khu Sơn Trà do Phó đô đốc Thoại đảm trách.
1 phi đoàn trực thăng chiến đấu trong tư thế sẵn sàng yểm trợ Sư đoàn 3 khi Đà Nẵng bị tấn công…
Buổi họp cuối cùng của Quân khu 1 kết thúc bằng khẩu lệnh ngắn gọn :
“Sẵn sàng để đối phó với tình thế”.
Chia tay nhau, tướng Điềm trở lại Trị Thiên, ở đó 5 sư đoàn của Giải phóng quân đương chờ ông và Sư đoàn 1.
Tướng Hinh trở về với Hoà Khánh…
Người bạn đáng tin cậy của tướng Hinh và tướng Điềm là tướng Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh Sư đoàn Dù đã từ giã Quân khu 1 để cùng 3 lữ đoàn dù về Sài Gòn theo lệnh của Tổng thống Thiệu. Dù tướng Trưởng phản đối quyết định này, nhưng ý Tổng thống là ý trời.
2 lữ đoàn Thủy quân lục chiến sẽ đến tiếp tay với Sư đoàn 3 trong những ngày quyết định… Khi những cánh quân của 1 lữ đoàn Thủy quân lục chiến đến Đà Nẵng thì một số chốt tiền tiêu bị mất… Đây là chốt “điểm” để bảo vệ “Diện”, các chốt quan sát và báo động.
Nhưng sự có mặt của các đơn vị Thủy quân lục chiến khôbng làm giảm bớt sự căng thẳng của tình hình. Hàng ngày, những chấm đỏ (hoạt động địch) càng nhiều hơn trên bản đồ… Các chấm xanh giảm bớt (vì thất thủ). 2 lữ đoàn Thủy quân lục chiến án ngữ mặt trận phía tây nam Đà Nẵng … cũng lo ngại cho số phận của mình.
+ “Quảng Trị 1972” trong “Đà Nẵng 1975”
Không khí Đà Nẵng vào những ngày thượng tuần tháng 3-1975 không khác gì Quảng Trị 1972. Ở các trục lộ giao thông, xe GMS chở lính nhiều hơn hàng chở dân… Một số gia đình công chức và sỹ quan, hạ sỹ quan địa phương quân ở các huyện di chuyển về Đà Nẵng, các cơ quan chuyên môn tại các quân đóng cửa…
Trưởng chi, nhân viên bỏ về Đà Nẵng… Có người bỏ nhiệm sở vào Sài Gòn… Tại thành phố, học sinh đến trường trong nỗi hoang mang, không biết có phải “chạy” trước mùa thi hay không? Một số cửa hàng lớn, xuất nhập cảng đóng cửa, chủ nhân và gia đình vào Sài Gòn bằng đường hàng không… Trụ sở Việt nam Quốc dân đảng, Đại Việt, Đảng Dân chủ, Phong trào Quốc gia cấp tiến đóng cửa. Các thủ lĩnh của các đảng này tại Đà Nẵng đã chạy vào Sài Gòn.
Hàng ngày trụ sở Chi nhánh hàng không Air Việt Nam đông nghẹt người. Công xa, quân xa của các cấp lớn đậu dọc lề đường, thân nhân của họ đương tìm cách chạy vé máy bay, giã từ Đà Nẵng càng sớm càng hay… Sài Gòn chờ họ…
2 ngày trước khi Buôn Mê Thuột bị tấn công, 1 đơn vị Sư đoàn 3 bắt được 1 tù binh. Qua lời khai, Phòng 2 ghi nhận vòng đai Đà Nẵng đã bị khép kín, các lực lượng chính quy của Quân khu 5 đã tiến sát về Đại Lộc, Dục Đức. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1, Sư đoàn 3, căn cứ không quân, hải quân Đà Nẵng nằm trong tầm pháo…
Cũng từ ngày đó cho đến ngày ra đi… Buổi tối, Tư lệnh không còn hóng mát quanh biệt thự trên ngọn đồi Hòa Khánh, không còn ngủ ở phòng riêng mà ngủ ở hầm chống pháo với đầy đủ phương tiện liên lạc…
Tư lệnh đang chờ một tuần lễ dài nhất …
15- Vĩ tuyến 16 lửa đạn
+ Khu phi chiến không còn nữa
Ngày 19-3-1975, các chi khu Mai Lĩnh, Triệu Phong, Hải Lăng hoàn toàn nằm trong tay quân giải phóng. Đại tá Đỗ Kỳ, tỉnh trưởng Quảng Trị và Bộ Tham mưu chạy thoát về Huế bị tướng Lâm Quang Thui xỉ vả thậm tệ. Trong hàng tướng lĩnh, tướng Thi hay chưởi thề và hay dùng lời cộc cằn nhất… Thi chê Kỳ và các chi khu trưởng là “đám ăn hại, phá hoại chế độ Cộng Hòa…”.
Thi nói với Đỗ Kỳ :
“Các anh không xứng đáng mang lon đại tá… tôi đề nghị lột lon anh”
Tướng Hinh và Bộ Tham mưu Sư đoàn 3 không ngạc nhiên về tin dữ này. Tướng Hinh đã đoán trước Quảng Trị sẽ chạy làng như đã chạy năm 1972. Có điều khác là tướng Hinh không cùng số phận như tướng G. Quảng Trị thất thủ, dân Quảng Trị chạy vào Huế, dân Huế chuẩn bị vượt đèo Hải Vân về Đà Nẵng…
Quảng Trị, khu phi chiến của 30 năm trước đó, bây giờ thuộc về Mặt trận giải phóng…
Và đèo Hải Vân, vĩ tuyến 16 chuẩn bị chờ chiến tranh lớn, những trận đánh cuối cùng…
+ Trận đánh vào bình minh.
05 giờ sáng ngày 20-03-1975, Bộ chỉ huy Trung đoàn 56 bị tấn kích bằng pháo … các đơn vị của Trung đoàn ở phía tâ và bắc của căn cứ Đức Dục cũng lãnh những đợt pháo “hỏa tiễn 122 ly”…
Riêng phòng tuyến của 1 đại đội án ngữ gần Đức Dục bị tấn công ngay cùng lúc với đợt tấn kích pháo… Trung úy đại đội trưởng, 1 sỹ quan độc thân bị thương sau 15 phút giao tranh… Viên thiếu úy đại đội phó cho lệnh rút về tuyến sau… Phòng tuyến Đại đội bị tràn ngập… Gần nửa quân số thương vong và bị bắt… Số còn lại chạy thẳng về Đại Lộc…
Thiếu úy đại đội phó lãnh 15 ngày trọng cấm của tướng Hinh, nếu gặp lúc bình yên thì có lẽ 1 phiên tòa quân sự đặc biệt sẽ được mở để xét tội viên sỹ quan này. Nhưng tướng Phú không bị ra tòa, huống hồ đây chỉ là một sỹ quan cấp thấp… Lệnh phạt chỉ có tính cách răn đe…
Phía tây bắc Đại Lộc cách quân lỵ không quá 5 km, 1 tiểu đoàn bộ binh bị pháo kích suốt 1 giờ liền…
Ngày 20-03-1975 toàn Sư đoàn báo động đỏ… Trong văn phòng Tư lệnh, tướng Hinh điện thoại gặp lần lượt trung tá T (trung đoàn trưởng Trung đoàn 2), đại tá V (trung đoàn trưởng 57), để kiểm tra tình hình. Tư lệnh chưa bay thị sát vì các vị trí đóng quân đương lãnh những quả rốckét từ các đơn vị pháo của giải phóng quân bắn hỏa tập… Các tiểu đoàn pháo binh của Sư đoàn 3 vào các vị trí nghi ngờ. Trận pháo chiến giữa 2 bên căng thẳng từ bình minh kéo dài đến gần 10 giờ sáng…
02 giờ chiều cùng ngày, Tư lệnh thị sát chiến trường. Tại căn cứ chỉ huy Trung đoàn 56, Trung đoàn 57, Tư lệnh chỉ biết chia xẻ với các trung đoàn trưởng về những âu lo.
Đại tá V nói :
“Nếu tấn công lớn, chúng tôi có khả năng giữ được 24 giờ. Sau đó, hoặc là rút lui, hoặc là phải có tăng viện. Các tiểu đoàn trưởng và đại đội trưởng tương đối vững vàng, nhiều kinh nghiệm, nhưng binh sỹ thì không tin tưởng, nhiều cậu nhát quá, chưa đánh đã muốn bỏ chạy…”
Riêng tại căn cứ Trung đoàn 2 có biệt danh là Trung đoàn Hà Mã, đại tá H mới thăng cấp chưa đầy 1 tháng nên rất hăng. Ông muốn làm 1 đại tá Langlais của Điện Biên Phủ.
Đại tá H bốc phét với Tư lệnh :
“Thiếu tướng yên tâm, Trung đoàn 2 chưa bao giờ đầu hàng. Thằng H này không ngán… Có đánh lớn thì H này mới có dịp lập công với thiếu tướng”.
Buổi chiếu 20-03-1975, buổi chiều đáng nhớ của Tư lệnh. Khuôn mặt buồn bã lo âu của 2 Trung đoàn trưởng 56, 57, lời cam hứa của đại tá H không làm cho Tư lệnh yên tâm… Tư lệnh cho phi cơ lượn quanh đèo Hải vân.
“Quốc lộ 1 bây giờ mang hình ảnh của quốc lộ 13 hai tuần trước”
+ Đoàn người vượt đèo Hải Vân tìm nơi tạm trú
Từ đỉnh đèo Hải Vân nhìn xuống chân đèo ở phía nam, cả đoàn người và đoàn xe dài hơn 5 cây số nối đuôi nhau vượt đèo…
Những chiếc xe tải chở đầy người, lên đèo với tốc độc chậm hơn đi bộ, xe Honda, cả xe đạp… Họ từ Quảng Trị chạy vào, từ Huế đi ra trong nỗi bàng hoàng và hoảng hốt. Hình ảnh quốc lộ 13 với đoàn người từ Pleiku – Kontum qua Cheo Reo xuôi về Tuy Hòa 3 ngày trước, được báo chí, truyền thanh, truyền hình thuật lại như 1 cuộc di tản đầy bi thảm, chiều nay gặp lại ở đây… Họ ra đi để tránh bom đạn.
Tác giả viết bài này gặp lại 1 người bạn vượt đèo bằng xe Honda : Anh ta là 1 giáo viên toán ở 1 trường trung học tại Huế… Anh cho biết từ chân đèo Lăng Cô lên đến đỉnh đèo phải mất 2 giờ. Hỏi vì sao anh bỏ Huế ra đi, anh cười buồn đáp :
“Không sợ Việt Cộng, nhưng sợ bom đạn của cuộc giao tranh, không chừng bị chết oan…”
Không có 1 thống kê nào ghi rõ, trên đèo Hải Vân hàng vạn người dân di tản vì lo sợ chiến tranh.
Họ vượt vĩ tuyến 16 để tìm “Sinh lộ” trong “Tử lộ”…
+ Buổi họp “cuối tuấn” cuối cùng
Sáng 22-3-1975, giữa tình hình sôi động, như thường lệ tại phòng họp Tư lệnh Sư đoàn có cuộc họp hàng tuần thường lệ. Khác với lần trước, ngoài Bộ Tham mưu và cá tiểu đoàn trưởng yểm trợ, các chỉ huy hậu cứ trung đoàn, trong buổi họp này có cả các trung đoàn trưởng yểm trợ.
Buổi họp rút ngắn, sau phần trình bày tình hình “địch” của phòng 2 là chỉ thị Tư lệnh… Sáng nay, Tư lệnh ít nói. Sau vài lời dặn dò, Tư lệnh giao quyền điều khiển cho Tham mưu trưởng, sau đó cùng 3 trung đoàn trưởng, 2 trưởng phòng 2, trưởng phòng 3 vào phòng riêng họp kín.
Tư lệnh buồn bã nói với trung tá P :
“Anh phải có mặt 100%, cần tôi gọi… Tình hình nguy kịch, Sư đoàn 1 rất khó đứng vững từ khi Sư đoàn Dù rút khỏi Quân khu 1. Thuỷ quân lục chiến không đỡ nổi cho tướng Điềm đâu! Có thể đèo Hải Vân là vĩ tuyến 16 trong khi chờ đợi 1 giải pháp chính trị. Sư đoàn 3 chúng ta sẽ là nỗ lực chính của Quân đoàn, chứ không phải Sư đoàn 1. Tướng Tư lệnh Quân đoàn chỉ còn tin cậy vào Sư đoàn 3 dù trước đây Sư đoàn mang tiếng là Sư đoàn Trừng giới, Sư đoàn kém của quân đội…”
Chiều hôm đó, Khối Chiến tranh Chính trị của đại tá B, theo khẩu lệnh của tướng Hinh, tập trung nỗ lực để lập kế hoạch di tản gia đình binh sỹ khi có đánh lớn…
Vĩ tuyến 16 không là nơi cư ngụ cuối cùng…
Đèo Hải Vân không chận được những cơn gió “lo âu”,
và phòng tuyến thép Sư đoàn 3 không đủ mạnh để cho gia đình quân sỹ 1 niềm tin, dù là mong manh...
M79:
16- Thứ Bảy cuối cùng tại “thị trấn nhà binh” Hòa Khánh
+ Người con gái về đây trong đêm
Hội quán sỹ quan Sư đoàn tối thứ Bảy không có những chương trình văn nghệ bỏ túi như thường lệ. Từ khi Buôn Mê Thuột thất thủ, mọi cuộc vui “tốp” tại… Người con gái duy nhất phục vụ giải khát cho sỹ quan đã “chuồn” về Đà Nẵng”… Trung úy Ch, quản lý Hội quán “lặn” từ 2 ngày nay…
Chiều nay, B.H cô học trò trường nữ trung học Đà Nẵng, ca sỹ thường trực của Hội quán, tiếng hát được Tư lệnh ưa thích đã từ Đà Nẵng chạy lên Hòa Khánh năn nỉ Trưởng phòng 5 can thiệp xin cho ông anh rể ở Trung đoàn 57 về phép với lý do “mẹ đau nặng”.
- “Anh rán xin giúp em, can thiệp cho anh em về, mẹ em đau nặng, vợ anh ấy cũng bị sốt…
- “Thôi đi cô ơi! Tìm cách cho ông anh “chuồn” thì cứ nói thẳng… để anh tìm cách giúp”.
- “Chịu thua anh. Ba em nói lên đây nhờ anh “rút” anh ấy về gấp… ở lại hành quân ngày nào gia đình lo sốt vó ngày đó…”
- “Nói vậy thôi, chứ anh đâu có quyền gì… Em được Tư lệnh thích… Em cứ lên thẳng gặp ông… Chỉ có ông mới giúp được em… Tư lệnh ra lệnh thì trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng mới nghe!”
- “Em lên rủi gặp bà Tư lệnh thì chết, nghe nói bà ghen lắm”
- “Bà ở Sài Gòn đâu có ở đây mà em sợ. Vả lại ông tướng năm nay 46 tuổi, còn em mới 17 tuổi. Ông khoái em là khoái tiếng hát… chứ chuyện khác thì em khỏi lo… em bằng tuổi con ông…”
Nghe nói thế, B.H bỏ ra về, không thèm chào từ biệt.
+ Những người khách cô độc trong Hội quán
3 sỹ quan độc thân của khối CTCT cùng với 2 sỹ quan Phòng 3 ngồi đấu hót ở góc hội quán… Họ đang tranh cãi về tình hình. Các ông trung úy, thiếu úy chưa quá 25 tuổi giải đoán tình hình như đoán nước cờ trong bàn cờ tướng.
- Thế nào cũng có giải pháp
- Mỹ không bỏ rơi ông Thiệu đâu!
- Ban Mê Thuột tan hàng, ông Phú về Nha Trang tắm biển.
Viên trưởng Phòng 5 nói chuyện với 1 đại úy ở Phòng 1, quay sang “top” chương trình “bình luận thời sự” của sỹ quan trẻ :
- Anh xin can mấy chú… hãy để tâm trí mà nghĩ đến chuyện bây giờ gia đình như thế nào? Bồ mấy chú liệu có nóng ruột chờ mấy chú không? Đại loại là như vậy, còn chuyện đại sự để cho Tư lệnh, Tham mưu trưởng…
- Để cho thẩm quyền chứ…
- Anh mà quyền hạn gì, một thứ để cho Tư lệnh sai vặt. rưởng phòng cũng chẳng quyết định được gì…
Câu chuyện ngưng vì điện thoại của ham mưu trưởng gọi trưởng phòng 5 lên gặp ông
… Tối nay, đại tá H không có ở tư dinh vui đùa với 2 quý tử. Ông chỉ ghé nhà cách văn phòng không quá 100 mét để dùng cơm, rồi trở lại văn phòng… Sáng mai, bà đại ta và 2 con sẽ vào Sài Gòn… một mình ông rảnh rang… đối phó với bao nhiêu việc chờ ông và chờ “Sư đoàn trừng giới”
Vừa thấy người cộng sự đã từng chia sẻ với ông những buồn vui khi còn ở Trị Thiên, đại tá H nói ngay :
- Cậu qua trại gia binh chuẩn bị kế hoạch để ngày mai đón khoảng hơn một nghìn người gia đình binh sỹ của Sư đoàn 1 đi tàu hải quân vào đây… Đại tá L ở Huế gọi điện thoại nhờ mình cho họ tá túc.
- Chỗ đâu ở, đại tá?
- Cậu tối dạ quá! Mỗi gia đình Sư đoàn 3 nhận gia đình Sư đoàn 1… 3 hay 1 gì cũng là anh em cả… Không cần hỏi ý kiến gì… Cậu chuyển lệnh tôi cho đại úy trưởng trại gia binh phải thi hành… Cứ thế mà làm!
+ Trận đánh hôm sau :
Thiếu tá N là sỹ quan tổng trực căn cứ Hòa Khánh đêm nay… ông cùng với sỹ quan trực đi tuần tra các chốt phòng thủ gần tư dinh Tư lệnh…
Tại mỗi vọng gác, ông dăn viên hạ sỹ quan trưởng toán :
- Tụi bây cẩn thận… cho gác đôi… tao sẽ cho tăng cường đại đội trinh sát… lơ mơ sẽ bị lãnh đủ …
Trở lại phòng trực, ông điện thoại cho sỹ quan trực của các tiểu đoàn yểm trợ, dặn dò cùng 1 điệp khúc :
- Cẩn thận nghe các cha! Cứ 2 giờ mấy cha chịu khó đi tuần cho tôi với… Tôi nhắc lại cho gác đôi… cái gì, thiếu quân số… trình đơn vị trưởng tăng cường… tình hình này không thể tà tà như trước…
Dặn dò kỹ lưỡng, viên thiếu tá tổng trực tạt sang Câu lạc bộ Đại đội Tổng hành dinh uống bia… Mấy tuần trước vào những buổi tối cuối tuần như tối nay, câu lạc bộ không còn chỗ ngồi… Còn bây giờ thì vắng hoe… Ở góc bàn gần quầy, 1 thiếu úy ngồi uống bia… Cô gái, con người thầu câu lạc bộ than vãn :
- Cả tuần nay, bán ế quá thiếu tá… Chắc đầu tháng xin đại đội giảm tiền… chứ tiền lời không đủ sở hụi.
Viên thiếu úy hỏi nhỏ :
- Liệu có yên đến 1 tuần không? Biết đâu tuần sau mình cũng chạy như Ban Mê Thuột, như Pleiku?
- Thôi đi cha, nói bậy An ninh quân đội nó mời vô khám bây giờ…
- Thiếu ta nhậu với em út một tí đi… Cách đây 1 giờ gặp thằng bạn ở căn cứ Chi Lăng chồn về, đã nhậu với nó mấy chai rồi! Nghe thằng bạn nói, ớn quá.
- Nó nói cái gì?
- Nó kể tình hình ở đơn vị nó… lính hoang mang dữ lắm từ khi Quân đoàn 2 vỡ tuyến
- Quân đoàn 2 khác, Quân đoàn 1 khác.
- Khác cái gì thẩm quyền?
- Cậu không biết khác cái gì à! Ở Quân đoàn 1 có ông tướng Trưởng ngon lành
Nhìn thiếu tá N, viên thiếu úy cười tinh quái :
- Thiếu ta chưa làm lính tướng Trưởng, còn tôi trước khi là sỹ quan, đã từng là trung sỹ của lính Sư đoàn 1… Tụi nó bố ông Trưởng quá.
- Thế cậu cho ông ta không giỏi à?
- Tôi không dám nói điều đó, nhưng ai từng là lính của ông đều cói chung 1 nhận xét : “Ông gặp hên và được các tướng Mỹ đỡ đầu… Nếu ông không rời Sư đoàn 1 sớm, ở lại Huế chio đến mùa hè 1972, biết đâu ông cũng thân bại danh liệt như tướng G nhà mình!”
Sau này, trong 1 lần hàn huyên chuyện cũ, viên thiếu úy kể lại với bạn bè :
“Cái ông thiếu tá N khờ bỏ cha… cứ tưởng ông Trưởng ngon lắm! rút cuộc cũng di tản chiến thuật…”
Trong đám thính giả lần đó, có cả viên sỹ quan trực đêm cuối tuần với thiếu tá N… anh nhái giọng và diễn lại điệu bộ của viên sỹ quan tổng trực… tất cả đều cười ồ… nhưng rồi sau đó… lặng yên… hình ảnh căn cứ Hòa Khánh hẳn trở lại trong trí tưởng như 1ám ảnh nặng nề…
Trưởng phòng 5 từ trại gia binh trở về… ngày mai, trại gia binh Sư đoàn sẽ là 1 phiên chợ… hơn 1 nghìn người từ Huế vào bằng đường biển… điều đó không phải là nỗi lo của anh… nỗi lo chính là tình hình “đối phương” mà anh nhận được qua báo cáo của các toán chiến tranh chính trị… Các xã thuộc các quận Duy Xuyên, Đại Lộc, Điện bàn có nhiều dấu hiệu ghi nhận sự xâm nhập từ “rừng” về đồng bằng…
Trung tá Q, Trưởng phòng 2 đã có lần nói với anh :
- Chúng ta ở thế bị động… địch thì chủ động… Chúng ta như những con bệnh ngồi chờ chết… Còn cái sư đoàn này… đã tan 1 lần… Hiện giờ quanh ta lực lượng địch “gác” ta về quân số… chúng ta cứ ở trong tình trạng “Chờ trận đánh hôm sau”.
M79:
17 – Đêm cuối cùng của người lính truyền tin tiền đồn
Chúng tôi bị đánh thức vào nửa đêm… Trực thăng chờ sẵn, chở chúng tôi đến ngay căn cứ ĐT để thực hiện chỉ thị của đại tá H…
“Tư lịnh muốn các cậu lên ngay đó để thực hiện kế hoạch P2… cần bàn kỹ với đại tá Trung đoàn trưởng… Trực thăng sẽ ghé ngang Chi Lăng để bốc ông V… Thật thận trọng và kỹ lưỡng”
Đáp xuống 1 tiền cứ vào ban đêm bằng trực thăng là 1 điều tối kỵ… Chỉ trong trường hợp khẩn cấp mới thực hiện phi vụ đêm… Theo tín hiệu hướng dẫn, trực thăng hạ cánh xuống bãi đáp dã chiến gần ngọn đồi của ban chỉ huy tiểu đoàn… Đại tá V và đoàn chúng tôi lao nhanh khỏi cửa trực thăng khi còn mặt đất khoảng 1 mét. Những quả pháo của đối phương có thể đón chào chúng tôi không hẹn trước… Khi chúng tôi bò lên đồi, trực thăng đã lên cao… trở về căn cứ Hòa Khánh.
Trong hầm chỉ huy, toán công tác đặc biệt của Sư đoàn cùng đại tá V và viên thiếu ta Tiểu đoàn trưởng thảo luận kế hoạch phá hủy căn cứ trong trường hợp Tiểu đoàn phòng thủ rút về tuyến sau…
Do đã chuẩn bị trước, nên buổi họp kín diễn ra trong 1 khoảng thời gian rất ngắn, chừng 15 phút… trong khi đại ta V và các sỹ quan khác ngả mình trên những chiếc võng dã chiến… Chúng tôi tạt qua căn hầm T.O.T tiểu đoàn để liên lạc với T.O.T của sư đoàn. Bấy giờ trong T.O.T chỉ có 3 người : 1 sỹ quan Ban 3, 2 binh sỹ trực máy, 1 máy liên lạc với trung đoàn, 1 máy liên lạc với đại đội…
Thiếu úy P mừng rỡ khi thấy chúng tôi bước vào hầm :
- Trời! Thẩm quyền! Mấy lần về Sư đoàn ghé thăm thẩm quyền nhưng không gặp… Tình hình Huế mình ra sao thẩm quyền?
Nhìn viên sỹ quan trẻ, tuổi đời chưa quá 25, còn độc thân, tôi hiểu được anh ta không hay biết tình hình bên ngoài… “Huế” đã chạy vào “Đà Nẵng”… Cả gia đình anh cùng di chuyển xe với mẹ và 2 đứa em chúng tôi… Có nên nói cho anh ta biết hay không?...
- Thẩm quyền yên lặng như vậy… Chắc là “Huế” mất rồi phải không?
Không đợi trả lời, P đứng dậy, 2 tay giữ lấy vai chúng tôi, giọng thảng thốt :
- Thẩm quyền cho tôi biết : “Huế” chạy rồi phải không? Sao thẩm quyền yên lặng…?
Chúng tôi nhìn P, nhìn 2 người lính ngồi ở góc hầm bên cạnh những chiếc máy bay PRC 25… có lẽ tất cả ba chờ “xác nhận” để họ chuẩn bị cho ngày mai của chính mình…
Ngồi xuống bên P… Chúng tôi tóm tắt tình hình chiến sự cho họ nghe – dĩ nhiên là dấu bớt đi rất nhiều – và câu cuối hình như không là lời nói của chính mình… mà là lời nói dối trong đêm chờ sáng :
“Tình hình không đến nỗi nào đâu, dân hoảng thì dân chạy, còn tại Quân khú, tình hình quân sự không có gì căng thẳng, pháo kích lai rai”
Dù sao thì những lời nói dối đó cũng trấn an được P và 2 người lính…
- Ở Quảng Trị ra sao, thẩm quyền? - Người lính trẻ đương giữ máy liên lạc với các đại đội quay sang hỏi chúng tôi.
- Cậu người Quảng Trị… Quảng Trị dân chạy, chứ lính vẫn còn…
- Sài Gòn ra sao, thẩm quyền?
Anh lính truyền tin miền Nam cũng nôn nóng không kém gì bạn mình…
- Sài Gòn của cậu vẫn tà tà… cứ yên tâm đi.
Bấy giờ đã hơn 1 giờ sáng… Anh lính người Nam gởi máy cho người bạn trở về phòng riêng… Chỉ mấy phút sau trở lại với bi đông nước nóng… Như để giải thích cho sự vắng mặt của mình, anh nói :
- Tối nay em trực thay cho đứa bạn, nhưng bù lại nó phải nấu cho em 1 loong gô nước nóng, bỏ trà… uống để khỏi buồn ngủ… em mờ 2 thẩm quyền uống cho ấm bụng… ra ngoài hầm lạnh quá…
Nói xong, anh lính rót vào 3 cái cốc dã chiến, còn P lục 2 túi quần, lấy ra 1 gói thuốc và loong bánh quy mặn (thuộc khẩu phần lương khô).
Chúng tôi chia sẻ nhau từng chiếc bánh, điếu thuốc, và kể chuyện nhà… P nhắc lại cô bạn gái học Văn khoa Huế đã làm khổ sở P những lần về phép. Hình như bóng dáng người con gái đã làm cho P quân mất hiện tại, quên mất chiến trường. P say sửa kể… qua lời P… Chúng tôi hiểu trong tận cùng lòng anh, vẫn sáng ngời khuôn mặt của người bạn gái… và lời kết vẫn buồn vời vợi :
“Chắc là cô đó không chờ em đâu, ra trường thế nào cũng có 1 cha nội nào đó cùng lớp cuỗm mất…”
Còn người lính Quảng Trị, tên D, anh đã có gia đình, đứa con gần tròn 1 tuổi. Ước mong của anh là được nghỉ phép 4 ngày để dự ngày 1 năm của con… Nếu vào dịp khác, chúng tôi sẽ can thiệp cho anh được đi… Nhưng trong đêm đó… nghe và yên lặng. Gia đình anh đã phiêu bạt nơi nào khi Quảng Trị đạ “chạy” từ 3 ngày nay…?
Chỉ có N, anh lính người Nam vẫn còn 1 chút lạc quan. Bạn gái N bán chè ở gần chợ Bàn Cờ, rất thương N dù N là “lính chiến”… Trong 1 phút cao hứng, N rút bóp, lấy ra tấm ảnh người bạn gái rồi đưa cho chúng tôi xem :
- Thẩm quyền xem, bồ em đó…! “mát” không? Hoa khôi Bàn Cờ đó, thẩm quyền!
- Cậu ở xa vậy, không sợ “xa mặt cách lòng”?
- Em biết chứ. Những lần về phép cách đây mấy tháng, bồ em dám bỏ hàng chè 1 ngày đi chơi với em… Khi em ra phi trường tân Sơn Nhất về đơn vị, cô cũng đi tiễn em, khóc quá xa! Em nhận được thư đều đều… Cô xúi em đào ngũ…
- Thế cậu dám đào ngũ không?
- Cũng có lúc nghĩ đến… nhưng 1 phần sợ trốn không xong, bị quân cảnh bắt… lại lao động đào binh, thôi đành quay lại đơn vị… dù sao tụi em ở trong toán truyền tin cũng đỡ…!
- Cậu nói vậy không sợ tôi nhốt cậu vì dám nói ý nghĩ đào ngũ cho sỹ quan nghe?
- Thẩm quyền nói chơi, chứ tụi em cũng biết quá, bất đắc dĩ thẩm quyền, thiếu úy P, thằng D, tụi em mới phải vào lính…
Không hiểu đây có phải là sự gặp gỡ tình cờ khi trong 4 chúng tôi ngồi bên nhau đêm đó thuộc 3 miền : P gốc người Bắc, tôi và D người Trung, còn N người Nam… Và cũng không ngờ được rằng đó là lần đấu tôi gặp D, gặp N, và cũng là lần cuối cùng…
M79:
18- Chờ sáng trên chiến hào
Khoảng 3 giờ sáng, thiếu tá Th… tiểu đoàn trưởng cầm đèn bấm đi tìm chúng tôi… Th và chúng tôi quen nhau từ những ngày còn ở Sư đoàn 1… Theo Th trở về hầm riêng của tiểu đoàn trưởng, chúng tôi không quên để lại tất cả khẩu phần mang theo cho P và 2 người lính :
“Mai tôi về lại Sư đoàn… Chúc các cậu khỏe… Có dịp về Bộ Tư lịnh, nhớ ghé qua tôi”…
Lặng lẽ nhìn nhau, rồi thôi là chia tay…
Th cho “ta-lọoc" đốt lửa để chống rét, căn hầm chữ S nên ánh sáng không thể lọt ra ngoài…
Th nhường cho tôi chiếc võng, còn anh ngồi tựa lưng vào góc hầm…
- Ông thấy đấy… tụi này đã sống như thế này hằng tháng!
- Thế đại tá V và mấy ông kia còn thức hay đã ngủ rồi?
- Ngủ ở hầm “thuyết trình”,… Họ ngủ say rồi! Tôi mời ông vào đây là để hỏi thật ông vài chuyện…!
- Chắc ông muốn biết tình hình?
- Tình hình tôi rất rõ… chỉ có đám lính, sợ chúng hoang mang, tôi cấm không cho ai mang radio theo, để ở hậu cứ hết… nghe đài tụi nó nhụt chí… Chỉ có nước thua mà thôi…
- Thế thì ông còn hỏi tôi làm gì?
- Ông là người thân cận của tướng Hinh, tôi muốn biết xa hơn… Liệu Quân khu 1 có cùng cảnh ngộ như Quân khu 2
- Tôi cũng như ông và kể cả thiếu tướng Hinh chắc cũng không biết được… Cái đó chỉ có ông đại tướng Viên, trung tướng Trưởng may ra mới trả lời được…
- Chán cả, suốt ngày cứ thủ ở đây, chỉ có hứng pháo kích… Khi nãy tôi báo cáo cho ông đại tá V là quân số còn hơn 400, thật sự còn chưa đến 200… Ông ở tham mưu thì ông biết, 1 tiểu đoàn phải trên 700, tệ lắm cũng được 500 thì mới đánh đấm được, còn chưa đến 200… Chỉ bằng quân số 1 đại đội theo lý thuyết Lính chỉ chờ dịp là chuồn, là đào ngũ… Kể ra cũng tội nghiệp…
Chúng tôi an ủi Th… động viên anh… dù biết rằng những lời nói của chúng tôi không đem lại th 1 chút lạc quan nào
Như chợt nhớ ra điều gì, Th hỏi chúng tôi :
- Hình như quân khu 2 có binh biến, lính quay súng bắn cấp chỉ huy rồi bỏ đơn vị theo Việt Cộng?
- Tôi không rõ… nhưng ở Sư đoàn 3 này… tướng Hinh đã chỉ thị cho an ninh quân đội theo dõi k4… ngăn ngừa! Còn tiểu đoàn ông?
- Cũng có ngày lính nó chịu không nổi, tôi là thằng bị chúng nó “phơ” trước tiên… nhưng hy vọng… trong thời gian chỉ huy tiểu đoàn này… tôi không làm gì ác với lính… Chắc không có tình trạng đó …
- Ông lại mâu thuẫn rồi đấy, vừa nghĩ là có, vừa bảo là không?
Không hiểu sao chúng tôi lại muốn thăm 1 vọng gác trong đêm nay tại tiền đồn… Khi nói ý nghĩ đó cho Th nghe… Th cười :
- Không, tôi không lãng mạn đâu, tôi muốn nhờ ông hướng dẫn tiếp xúc với họ… tôi cần muốn biết giờ phút này họ nghĩ gì?...
- Trong lúc chúng nó gác, làm sao ông nói chuyện được… nhưng ông muốn đi kiểm tra thì tôi dẫn ông đi… Chỉ hỏi vài câu thôi, và hỏi thật nhỏ… để “bảo mật”… Chớ tôi để ông đứng nói chuyện trong khi chúng nó gác là tôi xui tụi nó vi phạm điều lệnh lính gác… Ông rõ điều đó qua!
Chúng tôi rời hầm, theo thiếu ta tiểu đoàn trưởng đi kiểm tra tuyến phòng thủ do Đại đội chỉ huy phụ trách… có tất cả 5 vọng gác… Mỗi vọng gác đôi “2 người”… Dù lính biết là cấp chỉ huy đi tuần nhưng họ vẫn dùng mật lệnh để hỏi đáp… Tại vọng gác cuối là 1 lô cốt… 2 người lính vừa đổi phiên gác trở về hầm ngủ… 2 người lính “thượng phiên” nét mặt còn ngái ngủ…
Chúng tôi gọi 2 người lính “hạ phiên” trở lại hầm của Th để hỏi chuyện… Họ không giấu được ngạc nhiên trước hành động này… Th đã kéo họ đi sang căn hầm của chỉ huy… Chỉ còn lại chúng tôi và 2 người lính…
- Gia đình 2 anh ở đâu?
- Dạ em gia đình ở Quy Nhơn
- Còn em gia đình ở Tam Kỳ
- Anh bạn người Quy Nhơn đã có vợ con gì chưa?
- Dạ em còn độc thân
- Còn anh bạn Quảng Ngãi?
- Dạ, có vợ 2 con rồi thẩm quyền! Vợ em thợ may.
- Đã bao lâu rồi chưa nghỉ phép?
- Dạ, gần 1 năm rồi - Người lính Quảng Ngãi trả lời
- Còn em thì đã hơn 1 năm!
- Hai anh đào ngũ lần nào chưa?
- Em thì chưa, còn thằng này đào ngũ mấy lần rồi… trước nó ở Dù… đào ngũ… rồi Biệt động quân… đào ngũ, rồi về Sư đoàn này.
- Anh còn trẻ sao có vợ sớm vậy…
- Dạ, em lấy vợ khi 19 tuổi, năm nay 25 rồi… em thì không đào ngũ… nhưng trốn lính… bị bắt đưa ra Đống Đa… rồi về Sư đoàn 3…
- Sao không xin về Sư đoàn 2 cho gần nhà!
- Khi mãn khóa tân binh, em xin cũng được, nhưng nghe nói Sư đoàn 2 đánh ác liệt hơn ở Sư đoàn 3… nên cắt đâu em về đó, không xin xỏ…
- Thẩm quyền ở Sư đoàn về công tác?
- Về thăm các anh!
- Nửa đêm nghe trực thăng bay qua, em đoán thế nào cũng có các thẩm quyền Sư đoàn về… chắc tụi em thay quân… tiểu đoàn khác lên thế có phải không, thẩm quyền?
- Điều đó tôi không biết được… chỉ biết là lên đây, thăm các anh, tìm hiểu nguyện vọng… và đời sống các anh.
- Nguyện vọng của tụi em là giải ngũ, nhưng chắc còn lâu…
Nghe 2 người lính nói, chúng tôi cảm thấy ray rứt… Ngay chính chúng tôi cũng muốn giải ngũ, cũng muốn trả súng đạn, nón sắt, ba lô lại cho quân đội, để trở về với gia đình, nhưng cũng như 2 người lính nói :
- “Chắc còn lâu”.
Khi đưa 2 người lính ra khỏi hầm, chúng tôi hứa với họ sẽ can thiệp với tiểu đoàn trưởng để họ được đi phép khi đơn vị trở về hậu cứ… Chúng tôi cảm thấy ngượng khi chính mình đã nói dối… đã nói những điều không bao giờ có được vì theo kế hoạch có thể 1 ngày rất gần đây, khi áp lực đối phương gia tăng… để tránh bị bao vây… Tiểu đoàn có thể rút đi… căn cứ sẽ bị phá hủy như Quân khu 2 đã phá hủy Pleiku, Kontum và 1chiến trường khốc liệt khác chờ đón tất cả… và có ai sẽ không bao giờ trở lại với gia đình?...
Bình minh về trên chiến hào Đ.T… Cả phòng tuyến đón chào 1 ngày mới. Những người lính “hạ phiên” cuối cùng trở về chốt của tiểu đội, trung đội… Bạn bè họ đã thức dậy khi trời hừng sáng… Những loong gô nước sôi… Những bao gạo sấy… điểm tâm của người lính ngoài chiến trường quanh năm chỉ có thế!
Nhìn họ ăn, chúng tôi chạnh nhớ những bữa ăn sáng tại Hội quán Sư đoàn, cà phê sữa… phở mì… hủ tiếu… Trong khi đại ta V và toán công tác ăn sáng tại hầm chỉ huy, những món ăn do đầu bếp tiểu đoàn trưởng nấu từ khuya… Còn chúng tôi ăn sáng với 1 tổ đại liên của Trung đội vũ khí nặng thuộc Đại đội chỉ huy…
Viên trung sỹ khẩu đội trưởng mời chúng tôi ăn cơm gạo sấy đổ nước sôi với xì dầu… Giọng phân bua :
- Ngày mai mới tiếp tế, thịt ba lát tụi tôi ăn hết trơn… Suốt này nay chỉ ăn cơm với xì dầu
Khi nghe chúng tôi trách họ không biết lo xa, viên trung sỹ cười :
- Thẩm quyền thông cảm, chuyến tiếp tế vừa rồi, tôi đi phép lên, mang theo mấy xị rượu thuốc, dấu mấy cấp trên… gần tối… lai rai một chút cho đỡ buồn!
- Vợ con anh ở đâu? Trại gia binh Sư đoàn hay nơi khác?
- Trại gia binh, cách đây khgông lâu vợ tôi nó bỏ 2 đứa con cho bà nội… đi theo thằng khác… chuyến đi phép vừa rồi là đem 2 đứa con về cho ngoại… chứ bà già tôi khó tính… bà ngoại giận con nhưng thương cháu.
- Anh có làm gì để chị buồn?
- Một năm mới đi phép được một hai lần, còn những khi về hậu cứ, thì chỉ chuồn về nhà được vài đêm!... thiếu bổn phận với nó thì nó bỏ mình… Khi nào hết chiến tranh thì mới hết cái cảnh vợ lính bỏ chồng theo người khác…
Chúng tôi yên lặng nhìn nhau… Cả 2 người lính cùng tổ như hiểu được nỗi đau của viên trung sỹ… họ lặng lẽ dọn cơm lên tấm poncho và mời chúng tôi :
- Thôi, trung sỹ quên chuyện ở nhà, sẵn có thẩm quyền ở Sư đoàn về… lại ghé thăm tụi mình… Trung sỹ mời thẩm quyền… Không có gì cả… mong thẩm quyền bỏ qua
Trong những năm ở đơn vị chiến đấu, chúng tôi cũng đã nhiều lần ăn sáng như thế này, nhưng lần này, tại nơi đây, trước 3 người lính, trước viên hạ sỹ quan đương dằn vặt với nỗi đau riêng, chúng tôi có cảm tưởng như hôm đó xì dầu mặn hơn, và những hạt cơm khô hơn, dù cơm sấy vừa ráo nước. Chỉ có chúng tôi biết rằng… đây là bữa điểm tâm cuối cùng của người lính “Sư đoàn trừng giới” tại ngọn đồi Đ.T…
Trực thăng trở lại Đ.T đón chúng tôi về… Ngang qua căn cứ Chi Lăng, đại tá V xuống… còn chúng tôi ghé lên Đại Lộc trước khi trở về lại Hoà Khánh. Tại căn cứ này… chúng tôi được thông báo về tình hình tổng quát… trên các bản đồ tại Trung tâm hành quân của các căn cứ… Những chấm xanh co cụm, những chấm đỏ nhiều hơn… dấu hiệu đối phương gia tăng áp lực… Khi ghé ngang Đại Lộc, chúng tôi gặp lại Q, người bạn cùng khóa, còn lận đận với cái lon đại úy pháo đội trưởng 195 ly… Q cho chúng tôi biết nếu chiến trận kéo dài khoảng 3 ngày, pháo đội của anh sẽ hết đạn.
- Bây giờ chỉ trông cậy vào pháo binh, ở xa thì rót, ở gần thì bắn trực xạ… nhưng vấn đề là phải tiếp tế đạn kịp thời… Tiểu đoàn cũng đã trình bày tình trạng đạn dược với trung tá chỉ huy trưởng pháo binh Sư đoàn, chỉ sợ khi đánh lớn… Không tiếp tế được!
- Lính của cậu có rét vì bị pháo kích nhiều?
- Rét thì không rét nhưng chán lắm… Cứ thụ động như thế này, chỉ có nước thua… Cậu ở Sư đoàn, cậu có thấy chán không?
Chúng tôi cũng muốn nói với Q nỗi chán chường đương gặm nhấm chúng tôi từng tháng từng ngày… nhưng hình như trong cương vị 1 sỹ quan tham mưu chính của Tư Lịnh, chúng tôi chỉ biết nói dối…
Tạm biệt Đ.T, tạm biệt Đại Lộc, tạm biệt bạn bè đã gặp trong 1 đêm, trong 1 buổi sáng… để trở về Hòa Khánh… Những buổi họp đương chờ… Viên Tư lịnh Sư đoàn giờ này có lẽ đã tạm quên những ngày Chủ nhật picnic ở Nam Ô… trước mặt ông là những tấm bản đồ… những dấu xanh… dấu đỏ… Đêm qua, tại phòng tuyến Đ.T… bóng dáng của 1 cuộc chiến lụi tàn như chập chờn trong từng khoảnh khắc của giấc ngủ từng người lính ngoài mặt trận… Còn thiếu tướng Hinh, 1 tuần lễ căng thẳng đã đi qua! Cái gì chờ đón ông trong Chủ nhật này… Biết đâu là Chủ nhật dài nhất của một tư lịnh chiến trường!
M79:
19 – Tuần lễ dài nhất
.
+ Chủ nhật dài nhất của Tư lệnh chiến trường
23-3-1975 – Chủ nhật.
Tướng Hinh thức dậy từ 4 giờ sáng. Ông chỉ chợp mắt được 3 tiếng đồng hồ sau 1 ngày thứ Bảy quá mệt nhọc…
Ông lo âu nhưng vẫn tin vào số tử vi :
“Có bùa hộ mạng, khó khăn nào rồi cũng vượt qua, tiền hung hậu kiết”.
Năm Mậu Thân 1968, bấy giờ ông là đại tá Tư lệnh phó Vùng 1 chiến thuật (sau này là Quân khu 1) kiêm chỉ huy trưởng địa phương quân, nghĩa quân… Đêm giao thừa, ông trực ở Bộ tư lệnh thay tướng Lãm. 3 giờ sáng 30-1-1968 (mồng 1 Tết), Tổng hành dinh Quân đoàn bị 1 đơn vị quân giải phóng tấn công… Đại tá Hinh trình báo cho trung tướng Lãm, nhưng tướng Lãm không tin và nói “Chuyện vô lý thật”.
Đã 7 năm qua rồi, cái vô lý của tướng Lãm đối với ông luôn có lý, do đó ông không chủ quan… Đêm qua ông mất ngủ, sáng nay dậy thật sớm, hy vọng bên chén trà trong sương sớm giúp ông sáng suốt trong nhận định, để đưa Sư đoàn 3 ra khỏi sự khốn quẫn chờ đợi…
Ngày Chủ nhật, bộ Tư lệnh Sư đoàn nghỉ việc, nhưng ông chỉ thị các Phòng 2, Phòng 3, Phòng 4, Khối Chiến tranh chính trị phải ứng chiến…
Chỉ có trung tá Q, trung tá P, thiếu ta K ở lại với Tư lệnh, tất cả chuồn về Đà Nẵng, tìm cách đưa gia đình chuồn vào Sài Gòn…
Suốt buổi sáng ông ở phòng riêng với tấm bản đồ trước mắt, tư lự.
Từng giờ một, sỹ quan viên báo cho ông biết tình hình chiến sự…
May mắn cho ông, trong ngày Chủ nhật chỉ có những đợt tập kích bằng pháo… nhưng một ngày ngưng tiếng súng đối với Tư lệnh là 1 ngày chờ đợi cho 1 trận đánh lớn hôm sau….
Buổi chiều hôm đó, sỹ quan báo chí trình cho Tư lệnh những nguồn tin nước ngoài :
Tướng Weyand sẽ có mặt ở sài Gòn để hứa với tổng thống Thiệu, Mỹ sẽ không bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa, 700 triệu USD viện trợ quân sự vẫn còn tiếp tục
Những chiếc máy bay khổng lồ chở các khẩu pháo và chiến xa hạ cánh phi trường Tân Sơn Nhất…Truyền hình phát lại những hình ảnh này trong phóng sự cuối tuần
Tướng Phú tiếp phái đoàn “hậu phương yểm trợ chiến trường” từ Sài Gòn
Thủ tướng Khiêm có thể từ chức
Tướng Minh có thể thay thế phó đô đốc Cang nắm tư lệnh Quân khu thủ đô…
Những bản tin không làm cho Tư lệnh nở nụ cười.
Thứ Hai : màn mở đầu của “Khúc ca bi tráng” – Tam Kỳ tan vỡ
12 giờ trưa ngày 24-3-1975 (thứ Hai) giữa cái ngột ngạt bao trùm lên cả chiến trường Quảng Đà… giữa khi Tư lệnh đương ngả mình trong chiếc ghế bành, thiếu tá Chánh văn phòng hốt hoảng báo tin :
- Việt cộng chiếm Tam Kỳ, tỉnh trưởng Quảng Tín bỏ chạy.
Tư lệnh kinh hoàng hỏi lại :
- Từ bao giờ? Tại sao trước đây 1 giờ ghi nhận là vô sự? Tại sao? Tại sao?
Viên Chánh văn phòng đứng lặng yên. Lần đầu tiên Tư lệnh thịnh nộ.
Câu hỏi của Tư lệnh đã được giải đáp 2 giờ sau.
Tại căn cứ Chi Lăng, cách Đà Nẵng khoảng 30 cây số, Tư lệnh gặp đại tá Long, tư lệnh phó Sư đoàn, đại tá Xuân, tỉnh trưởng Quảng Tín, đại ta trung đoàn trưởng Trung đoàn 5 Sư đoàn 2… tất cả từ Tam Kỳ leo lên chiến xa M113 chạy thẳng ra Hương An (can cứ Chi Lăng).
Một viên sỹ quan Phòng 3 tham mưu của đại tá Long thay mặt 3 đại tá trình bày tóm tắt :
“Gần 12 giờ trưa, chúng tôi chuẩn bị nghỉ ngơi thì 1 chiếc PT 76 có cắm cờ Việt Cộng chạy thẳng vào hậu cứ Trung đoàn 5…
Lính gác hốt hoảng la lớn : “Việt Cộng! Việt Cộng!”
Cả Trung đoàn và Bộ tham mưu nhẹ của Sư đoàn vọt lên xe tháo chạy…
Tại quốc lộ 1 đi ngang qua thị xã, cũng 1 xe PT 76 chạy nghênh ngang trên đường phố
Lính địa phương quân la lên : “Việt Cộng chiếm thị xã…”
Thế là Bộ chỉ huy Tiểu khu cũng bỏ chạy.
Riêng đại tá tư lệnh phó và đại tá tỉnh trưởng ra đây bằng M113”
Tướng Hinh lặng lẽ không nói… Ông hiểu ngay sự việc…
Có thể 2 chiếc PT 76 chỉ là đợt tấn công thăm dò, nhưng quá khiếp sợ nên từ tư lệnh phó, tỉnh trưởng, trung đoàn trưởng, tá, úy, lính đạp nhau mà chạy…
Nhớ lại mỗi lần thăm các đơn vị, ông hay căn dặn các tiểu đoàn trưởng : “Phải huấn luyện cho binh sỹ tập thuần thục súng M72 để chống tăng Việt Cộng, chỉ cần bắn trúng đích, 1 phát M72 đủ khả năng đốt cháy 1 xe tăng…”
Trước khi ra về, ông quay lại bắt tay các đại tá Long, Xuân và nói :
- Chỉ cần 2 tay súng M72 đủ ngăn chặn đợt tấn công 2 chiếc PT 76… Ấy thế mà các anh không làm nổi!...
Lại báo động từ khi Tam Kỳ thất thủ.
Chiều hôm đó, tại bến xe Đà Nẵng, hàng chục xe tải từ Tam Kỳ chạy ra, chở theo hàng nghìn người hốt hoảng di tản…Tin Tam Kỳ thất thủ loan truyền rất nhanh.
Chiều hôm đó, tại chợ Cồn hàng hóa tăng vọt, từ đoàn người từ Huế vào, Từ Tam Kỳ đổ về chợ để mua thực phẩm dự trữ cho những ngày sắp đến… Trường học bị dân di tản xông vào chiếm nghụ. Các phòng học trở thành phòng ở, và sân trường ngổn ngang đồ đạc…
+ Ngày 25… “Những người bạn của Sư đoàn Trừng giới không còn nữa”
Buổi họp hàng ngày bị hủy bỏ, tướng Hinh và đại tá H không còn giữ nổi bình tĩnh… Giải phóng quân đã chiếm được Huế, Quảng Ngãi, bao vây cứ điểm cuối cùng của Sư đoàn 1 tại Thừa Thiên và của Sư đoàn 2 tại Quảng Ngãi.
Riêng tại Quảng nam, tướng Hinh điều 1 trung đoàn vào giữ phòng tuyến phía nam Thăng Bình để ngăn chặn các đợt tấn công của giải phóng quân từ Tam Kỳ đánh ra… Một số quân miền núi Quảng Nam được lệnh di tản… Trung đoàn 56, Trung đoàn 2 chuẩn bị rút về tuyến sau bảo vệ vòng đai Đà Nẵng… Trung đoàn 5 Sư đoàn 2 tạm thời thuộc quyền điều động của tướng Hinh…
Giao cho đại tá H điều động Bộ tham mưu, tướng Hinh vào căn cứ Chi Lăng để điều động Trung đoàn 57 giữ phòng tuyến Thăng Bình, phòng tuyến cực nam của Sư đoàn 3 và của Quân đoàn 1.
Trước đây, khi còn đại tá Ch, tư lệnh phó – tướng Hinh giao cho viên đại tá thâm niên này mọi công tác liên quan đến hành quân, nhưng bây giờ Tư lệnh đảm trách lấy. Tiểu đoàn của đại tá Th được đánh giá là thiện chiến nhất. Trong suốt 25 ngày giao tranh lớn với 1 đơn vị chính quy của Quân khu 5… Tướng Hinh chỉ hy vọng ở Trung đoàn 57 và Trung đoàn 2. Sư đoàn 1 tan rã, Sư đoàn 2 cùng chung số phận…
Cùng ngày 25-3, thiếu tướng Nguyễn Xuân Trang ra Đà Nẵng để kiểm tra lại tổng kho tiếp vận ở đây… mà Sư đoàn 3 giờ phút đó trở nên nỗ lực chính của Quân đoàn và của quân lực Việt Nam Cộng Hòa…
Ở tuyến đại Lộc, đại tá H hết bốc phét. Ông lo sợ, số phận Trung đoàn 2 biết đâu cũng như số phận của Trung đoàn 56 ba năm về trước tại chiến trường Trị Thiên…
Tinh thần lính suy sụp, ngoại trừ tân binh người Nam còn trụ lại với đơn vị, một số đông binh lính gốc người Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam chuồn về nhà để lo di tản gia đình.
Sáng ngày 25-3, tướng Smith và tướng Lâm Ngươn Tánh gửi ra Đà Nẵng hơn 10 chiếc tàu vận tải để lập cầu hải vận Đà Nẵng – Sài Gòn. Các phi đoàn vận tải của Sư đoàn 3, Sư đoàn 5 không quân được gửi ra Đà Nẵng để thếit lập c6àu hàng không di tản…
Nhiều đơn vị địa phương quân bỏ tuyến phòng thủ, tự động rút về Đà Nẵng, rồi sau đó tan hàng, mỗi người một ngả...
+ 26-3… Tuyến phòng thủ cuối cùng hấp hối
Lại 1 buổi họp thường lệ bị hủy bỏ. Tướng Hinh về Quân đoàn để họp khẩn. Tại đây, ông gặp lại tướng Điềm, tướng Nhựt… và cả tướng Lân, Tư lệnh Thủy quân lục chiến… Theo kế hoạch của tướng Trưởng, phòng tuyến cuối cùng của Sư đoàn Trừng giới đồng thời là phòng tuyến của cả Quân đoàn 1 sẽ thu hẹp từ nam đèo Hải Vân đến cầu Vĩnh Điện (Điện Bàn). Quân của Sư đoàn 1 sẽ tập trung tại Hòa Cầm án ngữ phía tây, Trung đoàn 2 và Trung đoàn 57 giữ phòng tuyến từ Điện Bàn đến Hòa Vang, Trung đoàn 56 ứng chiến, 2 lữ đoàn Thủy quân lục chiến bảo vệ vòng đai Đà Nẵng…
Trong khi tướng Trưởng đương rối đầu vì sự co rúm của Quân đoàn, đài phát thanh Sài Gòn loan tin :
“Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa chỉ thị cho chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 và đại ta Nguyễn Hưu Duệ, Tỉnh trưởng Thừa Thiên trở lại Huế để chỉ huy phản công”…
Nhưng quân lính còn đâu nữa?
Chiều 26, Bộ tham mưu Sư đoàn đến làm việc với Ban chỉ huy Trung đoàn 5 vừa ở Tam Kỳ chạy về hôm 24-3. Đại tá H muốn hồi sinh Trung đoàn này, may ra có thêm lực lược tăng cường phòng thủ… Nhưng lấy đâu lính để bổ sung? Đại tá H không tìm được câu trả lời…
Chiều 26, các xe phóng thanh của Tiểu đoàn 10 chiến tranh chính trị chạy khắp thành phố đọc quân lệnh của tướng Điềm :
“Các quân nhân Sư đoàn 1 về tập trung tại Nam Ô để nhận công tác…”
Một số sỹ quan cao cấp của Sư đoàn 1 đã đến Bộ tư lệnh Sư đoàn 3 để mượn xe tìm cách đưa gia đình ra phi trường hay ra cảng Tiên Sa… Những chiếc Jeep của họ đã gửi lại tại cửa Thuận An…
Trên đường tháo chạy, lính Sư đoàn 1 không còn tuân lệnh sỹ quan. “Tại Sư đoàn Trừng giới, tướng Hinh còn, kỷ cương vẫn còn, dù là không được như xưa.” Văn phòng đại tá Tham mưu trưởng đông khách. Sỹ quan chánh văn phòng phải vất vả tiếp họ thay đại tá Tham mưu trưởng, đó là khách từ Huế vào gặp đại ta để mượn phương tiện hay xin nhà tạm trú…
Cũng vào những giờ phút đó, trên các tuyến phòng thủ cuối cùng ụ pháo súng vẫn nổ rền… dù cuộc chiến chưa đến cao điểm… pháo binh phản pháo vào những mục tiêu mà trước đây là các căn cứ của Sư đoàn 3…
6 giờ chiều, tướng Hinh được báo cáo :
“Trung đoàn 57 rút toàn bộ về phòng thủ Điện Bàn… Các trung đoàn còn lại bố trí theo kế hoạch… Tướng Điềm được cử làm quân trấn trưởng Đà Nẵng, phụ giúp tướng Hinh ổn định tình hình…”
Tối 26-3, tướng Hinh mời tướng Điềm dùng cơm và sau đó vị Tư lệnh Sư đoàn 1 ngủ lại ở phòng riêng tướng Hinh bù cho những đêm mất ngủ ở căn cứ Giạ Lê…
20- Ngày N-1
.
+ 27-3 Buổi họp cuối cùng… Nhật lệnh cuối cùng
.
… “Buổi tối hôm qua, tướng Điềm tâm sự với tôi : Bảo vệ được đèo hải Vân là bảo vệ được Đà Nẵng”
Tư lệnh đã mở đầu cuộc họp tham mưu bằng lời tâm tình trên…
Hôm nay, trên bản đồ thuyết trình của Phòng 2 và Phòng 3 chỉ còn lại những chấm xanh từ Hải vân đến Điện Bàn, và những chấm đỏ chiếm cả vùng rộng lớn từ Quảng Trị vào đến Quảng Ngãi. Trưởng phòng 2 lặng lẽ chỉ những điểm đóng quân của đối phương cho Tư lệnh và Bộ tham mưu xem rồi sau đó rời bục thuyết trình. Trung tá P, Trưởng phòng 3 cũng không nói gì. Tấm bản đồ không còn nhiều chấm xanh đã thay bài thuyết trình thường lệ…
Tướng Hinh quay lại nhìn từng sỹ quan tham mưu… rồi chậm rãi nói :
“Chúng ta đã buớc vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3, tuần lễ dài nhất của tháng, và chắc là của cả năm 1975 : Phòng tuyến thu hẹp nhưng chúng ta có đến 6 chục ngàn quân từ các nơi com lại, tất cả đều thuộc quyền chỉ huy của Tư lệnh Sư đoàn 3. Tướng Trưởng đã giao cho tôi toàn quyền chỉ huy phòng tuyến cuối cùng của Quân đoàn. Giờ phút này Sư đoàn 3 đảm trách nhiệm vụ người con trưởng”.
Cùng buổi sáng đó tại chi khu Điện Bàn, 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 57 ra sức đào hố chiến đấu để bảo vệ tuyến đầu của mặt trận.
Thị xã Hội An, thành phố cổ và cũng là thành phố chết… Một số dân chạy về Đà Nẵng hoặc về quê – Họ ra đi để tránh những cuộc giao tranh sắp sảy ra…
Tại thành phố Đà Nẵng, xe phóng thanh của Ty Thông tin loan báo :
“Đồng bào di tản chuẩn bị túi xắc, sẽ có tàu chở về Nam, không được mang theo đồ đạc cồng kềnh”
Tin đó càng làm nản lòng những người lính Sư đoàn Trừng giới, những cột xương sống của cả Quân đoàn 1 trong những ngày hấp hối.
.
Buổi chiều 27, trên chuyến bay trực thăng thị sát Đà Nẵng, tướng Hinh chứng kiến cảnh đau lòng :
Hàng vạn người đổ xô ra cảng Tiên Sa và phi trường Đà Nẵng đợi tàu hoặc máy bay, và nếu dùng viễn kính, ông sẽ thấy có cả một số sỹ quan thân yêu của Bộ tư lệnh Sư đoàn 3, nhưng người đã được ông ưu ái, ban ơn. Họ bỏ đi không chia xẻ với ông trong những giờ phút nguy kịch này…
+ Khi Tư lệnh tâm tình với chiến hữu Sư đoàn Trừng giới.
.
19 giờ ngày 27-3, tại phòng làm việc của Tư lệnh, tướng Hinh gọi Trưởng phòng 5 lên…
Ông hỏi han tin tức gia đình của người cộng sự trẻ tuổi… hỏi tình hình Đà Nẵng…
Viên Trưởng phòng buồn bã nói :
“Thưa thiếu tướng, Đà Nẵng quá rối loạn. Toà thị chính ước đoán hiện nay có 500.000 người từ các nơi đổ về Đà Nẵng, giá sinh hoạt tăng vọt, ngoài đường lính nhiều hơn dân, cướp bóc đã xảy ra… Dù quân cảnh đã cố gắng ngăn chận, nhưng vô ích… Tình trạng quá bi đát”
Tướng Hinh yên lặng… Cả ông và viên Trưởng phòng nhìn nhau…
Một lát sau, Tư lệnh nói :
“Tôi đã thị sát tình hình Đà Nẵng qua trực thăng… quá rối loạn. Tôi đã yêu cầu tướng Trưởng lên đài phát thanh trấn an dân chúng… nhưng tướng Trưởng lặc đầu trả lời : “Tổng thống nói dân chúng cũng không tin, huống hồ là Tư lệnh Quân đoàn”… Bay giờ thì chúng tôi lên tiếng… Tôi đọc cho cậu chép nhật lệnh của tôi… cho in gấp gởi đến từng quân sỹ, may ra lấy lại niềm tin chủa anh em…”
Bản nhật lệnh ngắn, khoảng 20 dòng, đoạn kết ông nhấn mạnh :
“Sự nghiệp chống cộng sẽ tiêu ta nếu chúng ta nản lòng… trong giờ phút nghiêm trọng của lịch sử, tôi kêu gọi các chiến hữu hãy giữ vững niềm tin để tiếp tục chiến đấu… Quân đội không bao giờ quên công lao của các chiến hữu”.
Viên trưởng phòng 5 đứng dậy… trong tư thế nghiêm, anh nói với tướng Hinh
- Giờ phút này xin phép thiếu tướng cho tôi được trình bày ý kiến riêng… Đúng ra điều này tôi phải nói trong phiên họp tham mưu buổi sáng, nhưng thấy thiếu tướng quá mệt mỏi nên tôi muốn trình bày riêng…
- Cậu cứ nói, kể cả những điều không tốt đẹp!
- Kính thiếu tướng, theo tôi chúng ta không giữ nổi Đà Nẵng không phải vì đại quân của tướng Chu Huy Mân, mà còn vì sự nổi dậy của quân chúng…
Tướng Hinh kinh ngạc trước lời trình bày của người cộng sự :
- Cậu nói sao, dựa vào đâu cậu có nhận định như thế?
- Thưa thiếu tướng, tin tình báo chiến tranh chính trị ghi nhận, Ban Binh vận và Thị ủy Đà Nẵng, Tỉnh Ủy Quảng nam đã có những bộ phận xâm nhập vào Đà Nẵng. Họ đương chỉ đạo quần chúng nổi dậy giành chính quyền… Thêm vào đó, nạn cướp bóc mà thủ phạm không ai khác là lính từ các nơi chạy về, Sư đoàn 3 thì ít thôi… Dân chúng than oán chế độ, không tin những gì tổng thống nói… Về phía quân sỹ, như thiếu tướng đã biết, gần nửa quân số rã ngũ về với gia đình. Chỉ có Trung đoàn 57 là có quân số hơn 2/3 tại hàng… Tình hình nguy mất…
Nét mặt Tư lệnh như tái đi, sau lời trình bày của viên trưởng phòng tâm lý chiến…Gian phòng yên lặng… Tư lệnh đứng dậy đến bên viên trưởng phòng mà Tư lệnh thương nhất… Đặt tay lên vai người sỹ quan thân tín, Tư lệnh nói:
- Có lúc tôi cũng đã nghĩ đến tình huống như cậu trình bày… Nhưng làm thế nào được, tình hình đã quá nguy kịch… chỉ còn mong Mỹ nhảy vào, gỡ thế bí cho chúng ta!
- Kính thiếu tướng, những quả bom B52 không giải quyết được tình thế… vận nước đã đến lúc đổi thay!...
- Thôi, cậu về, cố gắng cho in gấp nhật lệnh của tôi… Còn nước còn tát
Đứng nghiêm chao Tư lệnh, ra khỏi phòng, viên trưởng phòng nói với sỹ quan tùy viên Tư lệnh:
- Thiếu tướng ra nhật lệnh, yêu cầu quân sỹ giữ vững niềm tin, nhưng thiếu tướng quên mất họ đã mất lòng tin…
M79:
21- Ngày cuối cùng của một cuộc chiến
Sáng 28-3, Tư lệnh gặp riêng các trung đoàn trưởng. .. Tất cả đều khuyên Tư lệnh nên hủy bỏ bản nhật lệnh mà phòng tâm lý chiến định phổ biến…
Đại tá V nói thẳng với Tư lệnh :
- Kính thưa thiếu tướng, giờ phút này chúng ta nên im lặng là tốt nhất, tổng thống kêu gọi binh lính cũng không nghe… niềm tin đã mất… Tout est perdu… Đúng ra chúng tôi cũng muốn bỏ đơn vị về lo gia đình… Nhưng vì danh dự của 1 cấp chỉ huy… chúng tôi ở lại… Các đơn vị Sư đoàn 3 giờ này chưa bỏ chạy chỉ vì họ còn thương thiếu tướng… chớ tổng thống Thiệu thì khỏi nói… ở lại không phải vì “chính nghĩa quốc gia”… mà vì tình người… không nỡ bỏ nhau vào lúc này…
Nếu 1 dịp khác, đại tá V sẽ bị ra tòa vì xúc phạm đến tổng thống, nhưng giờ phút này, sự bất mãn của các sỹ quan cao cấp đối với tổng thống đã biểu lộ rõ rệt…
Trung tá T mới nắm quyền trung đoàn trưởng chưa đầy 3 tháng, yên lặng và tiếc nuối cái lon đại tá mà ông mong chờ, có lẽ sẽ không đến với ông. Còn đại tá H, không còn hùng hổ… mặt ông ta tím lại… không hiểu vì giận hay vì lo sợ…
+ Những giờ phút cuối cùng tại Trung tâm hành quân
Ngày thường tại Trung tâm hành quân nhộn nhịp vì cường độ hoạt động… nhưng sáng nay, ngoài viên hạ sỹ quan quân cảnh kiểm soát cửa ra vào, chỉ còn lại 3 sỹ quan và 5 hạ sỹ quan. Nhân viên trung tâm hành quân đã chạy về Đà Nẵng, ra phi trường hoặc về Tiên Sa để chạy chọt 1 vé tàu cho gia đình di tản…
Từng tin tức ở mặt trận gởi về báo tin các phòng tuyến bị pháo kích dữ dội… yêu cầu tải thương… Viên thiếu tá trung tâm trưởng đứng ngồi không yên, anh đương tìm cách chuồn để về lo gia đình… Qua máy liên lạc, anh nhận được những “hung tin” từ các trung đoàn gởi về… Quân sỹ đào ngũ… Một số đại đội trưởng, trung đội trưởng bỏ đơn vị… có nhiều đại đội không còn sỹ quan, chỉ có viên thượng sỹ già, ở thường vụ đại đội…
Viên thiếu tá nói với 1 trung úy sỹ quan ứng trực :
“Chắc Sư đoàn không thọ nổi quá 1 ngày… Ở Đà Nẵng, đủ các thứ lính cùng với gia đình ra bến Bạch Đằng… phi trường… cảng Tiên Sa để chuẩn bị chạy… Cậu chưa vợ, gia đình ở xa thế mà yên thân…”
+ Bữa cơm cuối cùng tại hội quán
12 giờ trưa ngày 28-3, hội quán sỹ quan Sư đoàn chỉ còn lại không quá 10 sỹ quan…
Tướng Hinh, đại tá H dùng cơm tại phòng riêng không đến hội quán như thường lệ, đại tá B đã xin phép Tư lệnh “nghỉ phép” trước hạn định thay vì nghỉ từ 1-4-1975… Ông xin Tư lệnh cho ông "gác kiếm" từ ngày 27-3… Giờ này ông ở Đà Nẵng chạy vé máy bay chuồn gấp vào Sài Gòn.
Trong bữa cơm buồn tẻ, thiếu úy A thuộc khối CTCT tường thuật lại cảnh tượng ở Đà Nẵng mà anh đã chứng kiến sáng nay …
“Theo lệnh tướng Điềm, quân trấn cử 1 đoàn tuần tra gồm có 1 “command car” do quân cảnh mở đường, 2 chiếc GMC chở 2 đội tuần tiễu ngang qua Chợ Cồn. Người quân cảnh vẫy tay gọi 3 người lính đang đi lang thang trên đường Hùng Vương, nhưng họ không đứng lại… bỏ chạy. Một hạ sỹ quan quân cảnh dùng súng M16 bắn theo làm chết 1 binh sỹ… Cả Chợ Cồn hỗn loạn sau tiếng súng… Tướng Điềm cho lệnh bắn bỏ những quân nhân đi hôi của ở các đường phố…”
Cùng ngồi bàn ăn với A có 2 sỹ quan trẻ của Trung đoàn 2 và Trung đoàn 56 từ mặt trận chuồn về để tìm cách dọt về Sài Gòn.
Có người hỏi họ:
- “Thế các cậu không sợ đại úy T, đại đội trưởng quân cảnh dẫn độ các cậu ra tòa vì tội bỏ ngũ trong đơn vị hành quân?”
- “Thẩm quyền nói vậy, chứ giờ này đại uý T đang ở phi trường Đà Nẵng, còn các trung đoàn cũng làm lơ cho tụi em dọt… Đứa nào ở thì ở, đứa nào lặn thì lặn… Thẩm quyền biết không… Giờ đây ở Trung đoàn 56 của em, cao lắm là còn lại chừng 1/3 quân số. Sỹ quan thì lặn đến 2/3. Còn lại rất ít…”
+ Tờ trình quân số cuối cùng của trung tá trưởng Phòng 1
2 giờ chiều, trung tá Ch, trưởng Phòng 1 và chúng tôi đi kiểm tra quân số phòng thủ quanh vòng đai Hòa Khánh. Tại mỗi nơi, thay vì tập hợp điểm danh theo chỉ thị của Tư lệnh, trung tá Ch gặp sỹ quan quân số đơn vị, ghi nhận theo báo cao miệng. Riêng quân số các trung đoàn được ghi nhận qua điện thoại…
Tại các đơn vị yểm trợ: pháo binh, thiết giáp, truyền tin, công binh, quân y… doanh trại vắng hoe, nếu cho lệnh tập họp điểm danh theo đầu người, chắc quân số tại hàng không quá 1/5, nhưng sỹ quan nâng quân số lên 4/5 để khỏi bị khiển trách.
5 giờ chiều, trung tá Ch và chúng tôi trình với Tư lệnh :
“Quân số tại hàng có hơn 12.000 đủ khả năng để bảo vệ phòng tuyến khi bị tấn công…”
Nghe xong, Tư lệnh nói:
“Thế là 48.000 quân đương chiến đấu tại phi trường, cảng và bến Bạch Đằng”.
Sau câu nói đó là tiếng thở dài của Tư lệnh, vị tướng duy nhất còn nắm quân trong tay… Nhưng 12.000 quân đó, chỉ là con số qua báo cáo…
- Trung tá C, chỉ huy trưởng pháo binh không có mặt, cả bộ cỉ huy pháo binh chỉ còn lại 2 sỹ quan, 1 đại úy và 1 trung úy.
- Trung tá L, thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 11 có mặt, người có cấp bậc cao nhất tại thiết đoàn là 1 thiếu úy.
- Đại tá H… trung đoàn trưởng Trung đoàn 5 không có mặt, bộ chỉ huy trung đoàn chỉ còn lại 1 sỹ quan trực…
Tư lệnh không ngạc nhiên trước “báo cáo” này… Ông chỉ than :
“Tất cả chuồn ra cảng và phi trường rồi…”
Tư lệnh cho gọi các trưởng phòng chỉ còn lại trung tá Q, trung tá P, thiếu tá K và đại tá H, tham mưu trưởng…
Tất cả đã đi rồi…
+ Nửa giờ cuối cùng với tướng Trưởng
18 giờ 15 (chiều 28-3), tùy viên báo trung tướng Trưởng ghé thăm bộ tư lệnh…
Tướng Hinh đón tướng Trưởng tại sân bay trực thăng. Chiếc xe quân cảnh mở đường đưa vị tư lệnh Quân đoàn về văn phòng tư lệnh không còn hụ còi như thường lệ… Đoàn xe buồn bã đi qua căn cứ… Sau xe quân cảnh, xe chở tướng, tướng Trưởng và 1 xe chở 2 sỹ quan cấp tá của Quân đoàn…
Tại sân cờ, hàng rào sỹ quan danh dự không đủ mặt như những ngày trước, chỉ có đại ta H tham mưu trưởng và 3 sỹ quan dàn chào Tư lệnh.Tướng Trưởng bắt tay vội vã từng người rồi cùng tướng Hinh vào phòng riêng. Chúng tôi có mặt trong những giây phút im lặng đáng nhớ này. Ly cà phê đậm rót mời tướng Trưởng, yên lặng bên bao thuốc lá còn nguyên, 2 tư lệnh nói chuyện với nhau :
- Tôi đã báo cho tổng thống tình hình Đà Nẵng… có lẽ rồi cũng đến như Quân đoàn 2…
- Thưa trung tướng, chúng ta rút về đâu?
Tướng Trưởng nói nhỏ với tướng Hinh. 2 người thầm thì… Sau đó tướng Trưởng gọi trung tá Trưởng phòng 3 ra lệnh chẩn bị bay… Không còn vẻ mặt lạnh lùng, tướng Trưởng bắt tay thật chặt từng sỹ quan…
Vài phút sau trực thăng mất hút…
Mãi đến hôm tôi mới biết đó là cái bắt tay vĩnh biệt của tướng Trưởng dành cho chúng tôi…
+ Ngọn lửa thiêu đốt lý lịch một sư đoàn
10 giờ tối, Tư lệnh trở về… gọi chúng tôi lên, ra lệnh :
“Các phòng đốt toàn bộ hồ sơ, gọi thiếu tá Đào Thương cho lệnh phá hủy tổng đài… Báo cho các đơn vị ngừng liên lạc với Sư đoàn… Mật hiệu về hướng Đông, nói thế là các trung đoàn hiểu… Chúng ta di tản vào Nam…”
Dù đã biết trước “cái gì đến phải đến” nhưng cả bộ tham mưu còn lại bên Tư lệnh giờ cuối, tất cả đều bàng hoàng.
Những ngọn lửa đốt vội vàng, bập bùng trong đêm tối, thiêu hủy lý lịch 1 sư đoàn chỉ vỏn vẹn có 3 tuổi chiến trường đầy gian nan và thử thách. Tiếng súng nổ chát chúa từ tổng đài truyền tin vọng lại… Không đủ thức tỉnh cả ngọn đồi Hòa Khánh ngủ say trong đêm…
Khi trực thăng chở Tư lệnh, tham mưu trưởng và các sỹ quan thân tín cất cánh, số quân nhân còn lại ở Bộ tư lệnh không quá 100 người, vội vã dùng mọi phương tiện phóng nhanh về Đà Nẵng để tìm gia đình.
Trực thăng bay cao… Hòa Khánh chìm trong đêm… Cũng vào giây phút đó, phi trường Đà Nẵng bốc lửa vì đạn 122 ly từ Nam Ô rót vào… Đà Nẵng “ngày trong đêm”, từng đoàn người, đoàn xe nối đuôi nhau vượt cầu Trịnh Minh Thế qua Tiên Sa. Con đường hàng không quân sự bị tắc nghẽn, chỉ còn con đường biển của hải quân là niềm hy vọng cuối cùng của những người di tản. Giữa những người ra đi, hàng ngàn quân nhân đủ các loại binh chủng, từ trung tá, thiếu tá cho đến anh binh nhì chen lấn, giành nhau tìm đường ra quân cảng…
Riêng Tư lệnh và Bộ tham mưu chính dùng tiểu đĩnh tra tàu lớn…
Từ 12 giờ đêm đến 12 giờ sáng hôm sau, các phòng tuyến của các trung đoàn 2, 56, 57 tự động tan rã… Đạp về hướng Đông có nghĩa là chạy về biển cả… Gần trưa, các phượng hoàng (trung đoàn trưởng) hớt hải trên bờ biển Đà Nẵng tìm đường vào Nam.
Đà Nẵng rợp cờ giải phóng vào lúc 11 giờ 30 ngày 28-3-1975, quần chúng nội thành đã nổi dậy cùng với cơ sở hạ tầng…
M79:
22- Thay lời kết “gởi người tư lệnh”
.
…Không biết những dòng chũ này có đến tay Tư lệnh hay không. Từ giây phút chúng tôi đứng nghiêm chào “vĩnh biệt” Tư lệnh tại quân cảng Tiên Sa, quay về với gia đình… ấy thế mà đạ 15 năm, thảm kịch về các tiểu đoàn của 3 trung đoàn chắc Tư lệnh đã rõ… 7 trong 9 tiểu đoàn ở lại Đà Nẵng vì không tìm được hướng đi… 1/3 số trưởng phòng và đơn vị trưởng yểm trợ ở lại gia đình… Chúng tôi không ở bên Tư lệnh trong những ngày tháng lưu lạc ở Vạn Kiếp, rồi ở Guam trong tháng 4-1975.
Như Tư lệnh đã nói “Sư đoàn Trừng giới” sẽ trải qua những tuần lễ dài nhất, và tuần lễ dài nhất cuối cùng đã đến trong mồ hôi, trong âu lo, trong sợ hãi… và trong máu thịet của những người ngã xuống vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh…
Gợi lại chuyện cũ, chúng tôi muốn quên đi những dấu vết chiến trường… quên đi tất cả… còn nhớ lại chăng là hình ảnh ngọn đồi Hòa Khánh đầy trong sương mùa đông, đẹp và quyến rũ… là con đường xuôi về Đại Lộc, Thượng Đức, ngược về Quế Sơn, Tiên Phước với lúa trổ bông 2 bên đường trong mùa gặt… là cơn lạnh giá buốt miền Trung những ngày tháng Chạp, là gió Tây Nam vào những ngày hè – thu.
Xin giữ lại trong nhau tình người và tình tự quê hương. Xin gửi lại cho Tư lệnh và bạn bè ở Mỹ những dấu vết chiến tranh, những tháng ngày bom đạn, những phòng tuyến máu lửa của 2 mùa hè 72, 75…
15 năm trôi qua kể từ ngày Tư lệnh ra đi… Với chúng tôi, ở lại đất nước này chỉ vì yêu thương quê hương. Quê hương rất nghèo nhưng giàu tình thương đã che chở chúng tôi trong những ngày tháng gian khó, để hôm nay, gởi đến Tư lệnh những dòng thư của người cộng sự mà 15 năm trước được Tư lệnh yêu thương và nâng đỡ.
Gởi đến Tư lệnh và bạn bè tia nắng ấm của quê hương vào những ngày đầu hè
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro