
Nêu các phẩm chất đạo đức cách mạng theo quan điểm Hồ Chí Minh (2)
Trong di sản HCM, chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều những ý kiến đánh giá về người, về việc, về tập thể cũng như về cá nhân. Đó là những lời khen ngợi biểu dương hay phê bình nhắc nhở. Đó là những lời phân tích phải trái, đúng sai, hay dở, hay đó là những lời khuyên nên tránh hay nên làm, cần xây hay cần chống. Bao giờ Người cũng phân biệt mặt tốt với mặt xấu, mặt thiện với mặt ác trong động cơ cũng như trong hành vi của con người, trong mối quan hệ xã hội vô cùng đa dạng, để làm rõ những phẩm chất đạo đức cần phải xây dựng Người làm công việc ấy rất thường xuyên, gần như một người làm vườn cần mẫn hàng ngày bắt sâu nhặt cỏ, tỉa lá cắt cành, vun xới cho những mầm cây. Phải chăng bất cứ người Việt Nam nào cũng có thể tìm thấy những vấn đề đạo đức mà HCM đặt ra rất gần gũi với mình, những phẩm chất cần tu dưỡng, những định hướng để vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ của cuộc sống con người. Đó là những vấn đề đạo đức Người rút ra từ cuộc đời thực của con người và xã hội Việt Nam, khái quát thành tư tưởng, lý luận đạo đức, từ đó trở lại cải tạo con người, làm biến đổi hiện thực xã hội.
Trong TTĐĐ HCM, những phẩm chất đạo đức được nêu ra là phù hợp với từng đối tượng, hơn nữa Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ nhất định. Từ đó Người đã khái quát thành những phẩm chất chung cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới. Nói cách khác, đó là những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức mới ĐĐCM Việt Nam.
Dưới đây là bốn phẩm chất chung, cơ bản nhất:Trung với nước, hiếu với dân; Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
Phân tích Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi người. Vì vậy HCM đã đề cập chuẩn mực này nhiều nhất, thường xuyên nhất, từ Đường Kách mệnh cho đến bản Di chúc cuối cùng.
Đối với mọi người, phẩm chất này có hay không, có nhiều hay ít đều được thể hiện qua hoạt động thực tiễn, trong đời công cũng như đời tư, trong sinh hoạt cũng như trong công việc người đó làm, những cương vị người đó đảm nhiệm. Trong cuộc sống nếu sự dối trá vẫn còn tìm được nhiều chỗ ẩn náu thì những thói lười biếng, xa phí, bất liêm, bất chính, hủ bại, sa đọa, thu vén lợi ích riêng tư làm hại lợi ích chung... thì khó che giấu được con mắt của những người bình thường.
- Nội dung của chuẩn mực:
HCM đã sử dụng những khái niệm cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam. Người đã giữ lại những gì tốt đẹp của quá khứ, lọc bỏ những gì không còn phù hợp và đưa vào những nội dung mới, do sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra.
Mỗi chữ cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đã được HCM giải thích rất rõ, rất cụ thể, rất dễ hiểu đối với mọi người. Nếu phẩm chất này đã cần thiết đối với con người Việt Nam khi đất nước còn phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược rất tàn bạo do chủ nghĩa thực dân đế quốc gây ra, thì lại càng cần thiết khi đất nước phát triển trong xây dựng hoà bình. Đây không phải chỉ là yêu cầu về đạo đức mà còn là yêu cầu của chính sự phát triển kinh tế. Theo HCM thì:
+ Cần: tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo. có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
+ Kiệm: tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
+ Liêm: tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá.
Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ".
Người đã chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm, như:
"...cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư...".
"Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm).
Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham vật uý lạo.
Gặp giặc mà rút ra, không dám đánh là tham sinh uý tử".
Người đã nhắc lại một số ý hay của Khổng, Mạnh:
"Cụ Khổng Tử nói: "Người mà không Liêm, không bằng súc vật".
Cụ Mạnh Tử nói: "Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy".
+ Chính: "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đúng đắn".
Đối với mình - không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người - không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà; không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc - để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm; việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước, cho dân.
+ Chí công vô tư: Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc" "Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau"; "phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ" (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc).
Đối lập với "chí công vô tư" là "dĩ công vi tư"; đó là điều mà đạo đức mới đòi hỏi phải chống lại.
Chí công vô tư, về thực chất là nối tiếp Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người giải thích: "Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ công vi tư".
Như vậy, Chí công vô tư phản ánh 3 vấn đề cơ bản đó là:
> Chí công vô tư đối lập với chủ nghĩa cá nhân;
> Chí công vô tư đề cao chủ nghĩa tập thể;
> Chí công vô tư là sự thống nhất giữa lợi ích chung với lợi ích riêng.
- Mối quan hệ giữa các yếu tố:
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Có khi HCM coi cần kiệm như hai chân của con người phải đi đôi với nhau. Cần mà không kiệm thì chẳng khác nào "gió vào nhà trống", "nước đổ vào chiếc thùng không đáy", "làm chừng nào xào chừng ấy", rất cuộc "không lại hoàn không". Còn kiệm mà không cần thì sản xuất được ít, không đủ dùng, không có tăng thêm, không có phát triển. Có khi Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức của con người.
"Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người".
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng, thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính, và có được nhiều tính tốt khác. "Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm.
Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm".
Bồi dưỡng phẩm chất cần kiệm liêm chính, chí công vô tư sẽ làm cho con người vững vàng trước mọi thử thách: "Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục", và có thể "Trợn mắt coi khinh nghìn lực sĩ, cúi đầu làm ngựa đám nhi đồng".
Nhưng đây lại là vấn đề rất phức tạp, nói dễ làm khó, và trong cuộc sống vẫn thường hay vi phạm. Bởi vì nó đụng chạm đến nhiều mặt lợi ích cá nhân, tập trung nhất là chức, quyền, danh, lợi, mà nếu không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân thì bất cứ ai cũng có thể sa vào những hành vi vô đạo đức.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro