Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Tu tuong Ho Chi Minh

TÀI LIỆU

Hỏi - đáp chuyên đề Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về tiết kiệm và thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu.

Câu hỏi 1: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh tiết kiệm là gì và bao gồm những nội dung nào?

Trả lời: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh "Tiết kiệm là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", "Tiết kiệm không phải là bủn xỉn"; "Tiết kiệm là tích cực".

Khi không nên tiêu thì một xu cũng không tiêu. Khi có việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc thì tốn bao nhiêu công, của cũng vui lòng.

Tiết kiệm không phải ép bộ đội, cán bộ, nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Mục đích của tiết kiệm là để nâng dần mức sống của bộ đội, cán bộ, nhân dân.

Tiết kiệm gồm 3 nội dung cụ thể sau:

- Một là, tiết kiệm sức lao động.

Phải tổ chức sắp xếp sản xuất cho hợp lý, để nâng cao năng suất lao động, "1 người làm bằng 2,3 người".

- Hai là, tiết kiệm thời giờ.

Tiết kiệm thời giờ của mình và tiết kiệm thời giờ của người khác.

- Thứ ba là tiết kiệm tiền của.

Tiết kiệm tiền của của Nhà nước, của nhân dân và của chính mình.

Câu hỏi 2: Vì sao phải tiết kiệm và ai cần phải tiết kiệm?

Trả lời: Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định mục đích của tiết kiệm là:

+ Để phục vụ cho kháng chiến và kiến quốc.

+ Để tăng thêm tiền vốn xây dựng đất nước.

Nước ta là nước dân chủ nhân dân, nên không thể tích lũy vốn theo kiểu thực dân, đế quốc bằng cách cướp bóc thuộc địa, bóc lột công nhân, nông dân, vay nợ nước ngoài...

+ Tiết kiệm để nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, hậu quả của 80 năm đô hộ, vơ vét của đế quốc Pháp rồi đến phát xít Nhật, và sau này là hậu quả của 2 cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Tất cả mọi người đều phải tiết kiệm.

+ Trước hết là các cơ quan, quân đội, các xí nghiệp.

+ Nội dung tiết kiệm phải cụ thể, thiết thực ngay trong vị trí công tác của mình.

Bộ đội, chiến sỹ thì tiết kiệm đạn dược, quân nhu, chiến lợi phẩm...; cán bộ cơ quan hành chính thì tiết kiệm thời gian, giấy, mực...; cán bộ tư pháp tiết kiệm thời giờ cho dân khi triển khai nhanh công việc,..v.v..

Câu hỏi 3: Vì sao nói Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực thực hành tiết kiệm?

Trả lời: Ra đi tìm đường cứu nước, chỉ với hai bàn tay lao động, anh Ba, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh đã tranh thủ đi được nhiều nơi, học tập được nhiều điều, tìm ra con đường cứu nước. Người đã làm nhiều nghề để kiếm sống và hoạt động cách mạng. Người đã tiết kiệm những đồng tiền làm ra để dùng cho các hoạt động của tổ chức, của đoàn thể.

- Khi đã trở thành người đứng đầu Đảng và Nhà nước, dù ở chiến khu hay tại Thủ đô Hà Nội, Người vẫn sống giản dị, tiết kiệm như một lẽ tự nhiên trong sinh hoạt hàng ngày.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tiết kiệm tiền của, thời gian của cán bộ, nhân dân.

- Cả cuộc đời Bác sống giản dị, tiết kiệm tiền của của Nhà nước, của nhân dân. Đã có biết bao câu chuyện cảm động về tấm gương mẫu mực đó, từ những việc nhỏ như sử dụng chiếc phong bì vài lần, đi đôi dép lốp đã cũ, mặc chiếc áo đã sờn cổ..., đến chiếc ôtô, ngôi nhà sàn Bác ở..

- Để tiết kiệm thời gian của cán bộ, nhân dân, Người chủ động đến dự lớp học, thăm cán bộ, thăm nhân dân, chiến sĩ. Những câu chuyện cảm động như Bác đội mưa đến dự hội nghị đúng giờ để nhiều người không phải chờ đợi; Bác chủ động đến chúc tết cán bộ Hà Nội khi đoàn đang chuẩn bị lên chúc tết Bác nhưng chưa đi được vì gặp cơn mưa bất chợt,..v..v..

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hành tiết kiệm

- Bác viết nhiều tài liệu để giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hành tiết kiệm. Người kêu gọi, trong mọi hoạt động, trong mọi lĩnh vực, mỗi người đều phải tiết kiệm.

- Người đặc biệt yêu cầu phải triệt để tiết kiệm của công, của dân, của nước, vì đó là mồ hôi của dân, xương máu của bộ đội, chiến sĩ...

- Người yêu cầu phải tiết kiệm thời gian, giảm họp hành, tổ chức họp phải đúng giờ. Chuyện kể về lời nhắc của Bác với một vị tướng chủ trì hội nghị khi đồng chí này đến chậm để hội nghị phải chờ 5 phút, Bác nói: phải "nhân 5 phút đến chậm đó với 500 người chờ đợi".

- Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi mọi người tiết kiệm để xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Người nói, tiết kiệm là yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.

- Về phần mình, Người tiết kiệm để dành cho nhân dân.

+ Những năm đầu cách mạng mới thành công khi nhân dân đang phải gồng mình chống chọi với nạn đói, Người gương mẫu, mỗi tuần nhịn ăn một bữa để dành gạo cho dân đang đói.

+ Người dùng tiền tiết kiệm của riêng mình để tặng bộ đội.

+Hồ Chí Minh không muốn vì mình mà nhân dân lãng phí tiền bạc, thời gian. Trước lúc vĩnh biệt chúng ta, Người dặn: "Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân".

Tấm gương đạo đức sống trong sạch, tiết kiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được báo chí nước ngoài nhiều lần nhắc đến. Nhà báo Mỹ Đa-vít Han-bơc-stơn viết: "Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại này - hơi giống Găngđi, hơi giống Lênin, hoàn toàn Việt Nam... Ông là người Việt Nam lịch sự, khiêm tốn, nói năng hòa nhã, không màng địa vị, luôn luôn mặc quần áo giản dị nhất, một phong cách mà phương Tây coi là "thiếu nghi thức quyền lực", "không theo thời trang"... cho đến ngày họ nhận thấy chính cái tính giản dị ấy, cái khả năng hòa mình vào nhân dân ấy là cơ sở cho sự thành công của ông...".

Câu hỏi 4. Tham ô là gì?

Trả lời: Theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham ô "là trộm cướp, là hành động xấu xa nhất, tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội".

+ Đối với cán bộ, tham ô là "ăn cắp của công làm của tư"; "đục khoét của nhân dân"; "ăn bớt của bộ đội"; "tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình...".

+ Đối với nhân dân, tham ô là ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế.

- Những nguyên nhân dẫn đến tham ô là:

+ Thiếu lương tâm. "Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ công vi tư".

+ Là thiếu tinh thần trách nhiệm. Đứng núi này trông núi nọ, làm việc chậm chạp, không hoàn thành nhiệm vụ là "ăn cắp (thời) giờ của Chính phủ, của nhân dân".

Câu hỏi 5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về lãng phí được biểu hiện cụ thể qua những nội dung nào?

Trả lời: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh lãng phí được biểu hiện cụ thể qua 3 nội dung sau:

- Một là lãng phí sức lao động: Khi công việc ít người cũng làm được mà vẫn dùng nhiều người. Hoặc do tính toán không sát, điều động hàng trăm người đến công trường, nhưng chưa có việc làm hay người nhiều việc ít. Bố trí nhân sự không đúng, "người quản lý quá nhiều, người trực tiếp sản xuất lại ít"...

- Hai là lãng phí thì giờ: Công việc có thể làm trong một ngày, một buổi cũng kéo dài đến mấy ngày.

- Ba là lãng phí tiền của của Nhà nước, cơ quan và bản thân mình. Cụ thể là:

+ "Ăn tiêu xa xỉ, liên hoan, sắm sửa lu bù, xài tiền như nước", sử dụng vật liệu một cách phí phạm.

+ Trong hoạt động của mình làm cản trở sản xuất. Ví dụ, như Ngân hàng sử dụng tiền bạc không khéo, để tiền ứ đọng, không góp ích cho sản xuất; cơ quan kinh tế làm kế hoạch không thiết thực, không sát với hoàn cảnh, để Chính phủ lỗ vốn.

+ Lãng phí là tiêu xài không hợp lý. Bộ đội không biết quý trọng, giữ gìn quân trang, quân dụng. Nhân dân bỏ hoang ruộng đất, đốt vàng mã, bán trâu, cầm ruộng để làm đám cưới, đám ma.

- Lãng phí là mắc phải bệnh "Phô trương hình thức", gây tốn kém không cần thiết.

Lãng phí có khi còn tai hại nhiều hơn tham ô, vì "lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ".

Câu hỏi 6. Bệnh quan liêu là gì, bệnh quan liêu thể hiện qua các mối quan hệ nào?

Trả lời: Quan liêu là "xa rời thực tế, xa rời quần chúng nhân dân, xa rời mục tiêu lý tưởng của Đảng". Bệnh quan liêu là nguy cơ của Đảng cầm quyền, là nguyên nhân của nhiều căn bệnh khác nhau.

- Đối với cán bộ, đảng viên, công chức, Bác Hồ chỉ rõ, bệnh quan liêu thể hiện qua 3 mối quan hệ sau:

Một là, đối với người: "Chỉ biết dùng mệnh lệnh, không biết giải thích, tuyên truyền, không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng". Không xây dựng, phát động được lòng tự giác, tự nguyện trong nhân dân

Hai là, đối với công việc: Chỉ trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. "Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn".

Ba là, đối với mình: Là chậm chạp, làm cho qua chuyện. Chỉ biết lo cho mình, không quan tâm đến nhân dân, đến đồng chí.

+ Nói một đường, làm một nẻo. Tham ô, hủ hóa.

+ Trước mặt dân chúng thì lên mặt "quan cách mạng". Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì theo lối "quan" chủ. Miệng thì nói "phụng sự quần chúng", còn thực tế thì "chỉ biết ăn sang, mặc diện; chẳng những không lo phụng sự nhân dân, mà còn muốn nhân dân phụng sự mình".

+ Là làm trái với lợi ích của quần chúng, trái với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ.

- Hậu quả của bệnh quan liêu:

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:

+ "Bệnh quan liêu mệnh lệnh chỉ đưa đến một kết quả là hỏng việc";

+ Gây tác hại lớn đến tổ chức: "thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí".

- Nguyên nhân của bệnh quan liêu là: do "xa nhân dân; khinh nhân dân; sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không yêu thương nhân dân".

Câu hỏi 7. Tham ô, lãng phí, quan liêu đem đến những tác hại như thế nào cho nhân dân, đất nước?

Trả lời: Trước hết phải khẳng định: Tham ô, lãng phí, quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của quân đội và của Chính phủ.

+ Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là "kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta".

+ Tham ô, lãng phí, quan liêu là "bạn đồng minh của thực dân và phong kiến. Vì nó làm chậm trễ công cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta. Nó làm hỏng tinh thần đấu tranh và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta".

- Tham ô, lãng phí, quan liêu là tội ác:

Bác viết: "Chiến sỹ thì hy sinh xương máu, đồng bào thì hy sinh mồ hôi nước mắt để đóng góp. Mà những kẻ tham ô, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và nhân dân".

Tham ô, lãng phí quan liêu là một tội lỗi nặng. Người nói, "tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám".

* Tham ô, lãng phí, quan liêu làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà, hại đến công việc cải thiện đời sống nhân dân; hại đến đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.

+ Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bệnh quan liêu ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí, nuôi dưỡng cho tham ô, lãng phí nảy nở. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu.

Câu hỏi 8. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc chống tham ô, lãng phí, quan liêu?

Trả lời: Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là cách mạng.

+ Tham ô, lãng phí, quan liêu là nọc độc xấu xa của chế độ cũ. Muốn xây dựng một xã hội mới phải tẩy cho sạch hết những thói xấu của xã hội cũ.

Bác viết: có những người trong lúc tranh đấu thì trung thành, hăng hái, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng. Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác, mà biến thành người có tội với cách mạng. "Chúng ta phải cứu vãn họ, giúp họ khôi phục đạo đức cách mạng"; "giáo dục họ, đưa họ vào con đường cách mạng".

+ Cách mạng là để xây dựng xã hội mới. Đó là một xã hội tự do, bình đẳng, một xã hội cần, kiệm, liêm, chính. Cho nên phải tẩy cho sạch hết những thói xấu của xã hội cũ, phải chống tham ô, lãng phí, quan liêu.

- Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ.

+ Tất cả mọi người, từ bộ đội đến đồng bào ủng hộ Chính phủ, Đoàn thể để kháng chiến kiến quốc là một hình thức dân chủ tập trung. Không ai có thể lợi dụng quyền lực, vị trí công tác để tham ô, lãng phí của công, quan liêu, hách dịch với người khác.

+ Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là để xây dựng tổ chức, đoàn thể vững mạnh. Cán bộ được giao quyền điều khiển bộ đội, chăm nom chiến sĩ... Đồng thời chiến sĩ và đồng bào có quyền đòi hỏi cán bộ phải làm tròn nhiệm vụ, có quyền chỉ trích những cán bộ nào không làm tròn nhiệm vụ đó.

+ Chống tham ô, lãng phí, quan liêu phải dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng. "Cho nên phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công".

+ Phải thực hành dân chủ để động viên được quần chúng tham gia và nhiệm vụ của quần chúng là phải hăng hái tham gia phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu. "Tham ô, lãng phí, quan liêu là giặc ở trong lòng. Nếu chiến sỹ và nhân dân ra sức chống ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình". Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng.

- Chống tham ô, lãng phí, quan liêu sẽ giúp chúng ta hoàn thành đầy đủ kế hoạch.

+ Thắng lợi trong cuộc chiến chống tham ô, lãng phí, quan liêu sẽ giúp chúng ta đoàn kết hơn nữa, nâng cao năng suất hơn nữa.

+ Giúp cho mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần làm chủ, ý thức bảo vệ của công, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, để nâng cao đời sống của nhân dân.

+ Giúp cán bộ cải tạo tư tưởng, nâng cao giác ngộ, thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật thà phụng sự bộ đội và nhân dân.

+ Giúp chính quyền ta thành một chính quyền trong sạch, vững mạnh xứng đáng với lòng tin tưởng và sự hy sinh của chiến sĩ và đồng bào.

Câu hỏi 9. Những biện pháp chống tham ô, lãng phí, quan liêu được thể hiện như thế nào?

Trả lời: Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu trước hết phải tạo nhận thức chung và quyết tâm chống tham ô, lãng phí, quan liêu, để mọi người đều coi chống tham ô, lãng phí, quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận

- Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị. Cũng như ở các mặt trận khác, muốn thắng ở mặt trận này, phải có chuẩn bị, có kế hoạch, tổ chức, phải có lãnh đạo và lực lượng trung kiên nòng cốt.

- Đây là cuộc cách mạng nội bộ, một cuộc đấu tranh gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái mới, giữa đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư và kẻ địch là tệ tham ô, lãng phí, quan liêu.

- Phải kết hợp giữa xây và chống. Có thể ví xây và chống như hai bánh xe vững chắc. Chống triệt để bảo đảm cho công việc xây thành công. Xây phát triển mạnh mẽ thì đối tượng chống sẽ được xóa bỏ tận gốc.

- Phải đồng tâm nhất trí, mạnh bạo xung phong, huy động được sự tham gia của nhân dân.

+ Nhân dân và báo chí rất quan trọng. Báo chí phải nêu những việc kiểu mẫu, đăng những lời phê bình của quần chúng; làm cho mọi người thấy rõ tham ô, lãng phí, quan liêu là tội ác. Và những ai, những cơ quan nào được nhân dân và báo chí phê bình, thì phải thật thà tự phê bình trước nhân dân trên báo chí.

+ Các ban Thanh tra phải chú ý kiểm tra chống lãng phí, tham ô, chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Làm nghiêm chỉnh, kịp thời trong công tác xét các vụ khiếu nại, tố giác.

- Phải làm thường xuyên nhiệm vụ chống tham ô, lãng phí, quan liêu.

- Phải công khai, dân chủ, minh bạch. Cán bộ, đảng viên ở địa vị càng cao thì càng phải làm gương. Lấy giáo dục là chính, trừng phạt là phụ. Thưởng phạt nghiêm minh. Coi trọng tự phê bình và phê bình, chống thói " cả vú lấp miệng em", ngăn cản quần chúng phê bình.

- Phải đấu tranh từ trong chi bộ, xác định rõ chi bộ là một tổ chức lãnh đạo chính trị chứ không phải là một tổ chức hành chính.

Câu hỏi 10. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các giải pháp chống bệnh quan liêu?

Trả lời: Về các giải pháp chống bệnh quan liêu, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh có một nguyên tắc là "Theo đúng đường lối nhân dân" và thực hiện 6 điều là:

- Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết.

- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân.

- Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ.

- Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình.

- Sẵn sàng học hỏi nhân dân.

- Tự mình làm gương mẫu cần, kiệm, liêm, chính, để nhân dân noi theo.

-------------

Câu 1: Những điều kiện lịch sử xã hội hình thành tư tưởng HCM.

1. Tình hình thế giới:

Giữa thế kỷ 19, Chủ nghĩa Tư bản từ tự do cạnh tranh đã phát triển sang giai đoạn Đế quốc Chủ Nghĩa, xâm lược nhiều thuộc địa (10 Đế quốc lớn Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan... dân số: 320.000.000 người, diện tích: 11.407.000 km2).

Bên cạnh mâu thuẫn vốn có là mâu thuẫn giữa Tư sản và Vô sản, làm nảy sinh mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa các nuớc thuộc địa và các nước Chủ nghĩa Đế quốc, phong trào giải phóng dân tộc dâng lên mạnh mẽ nhưng chưa ở đâu giành được thắng lợi.

Chủ Nghĩa Tư bản phát triển không đều, một số nước Tư bản gây chiến tranh chia lại thuộc địa làm đại chiến Thế giới 2 nổ ra, Chủ Nghĩa Đế Quốc suy yếu, tạo điều kiện thuận lợi cho Cách Mạng Tháng 10 nổ ra và thành công, mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ Chủ Nghĩa Tư Bản lên Chủ Nghĩa Xã Hội, làm phát sinh mâu thuẫn mới giữa Chủ Nghĩa Tư Bản và Chủ Nghĩa Xã hội.

Cách mạng Tháng 10 và sự ra đời của Liên Xô, của quốc tế 3 tạo điều kiện tiền đề cho đẩy mạnh Cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa phát triển theo xu hướng và tính chất mới.

2. Hoàn cảnh Việt Nam:

Trước khi Pháp xâm lược, nước ta là một nước phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chính quyền phong kiến suy tàn, bạc nhược khiến nước ta không phát huy được những lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên, trí tuệ, không tạo đủ sức mạnh chiến thắng sự xâm lược của thực dân Pháp.

Từ giữa 1958 từ một nước phong kiến độc lập, Việt Nam bị xâm lược trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Với truyền thống yêu nước anh dũng chống ngoại xâm, các cuộc khởi nghĩa của dân ta nổ ra liên tiếp, rầm rộ nhưng đều thất bại.

Các phong trào chống Pháp diễn ra qua 2 giai đoạn:

Từ 1858 đến cuối Thế kỷ 19, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra dưới dự dẫn dắt của ý thức hệ Phong kiến nhưng đều không thành công: như Trương Định, Đồ Chiểu, Thủ Khoa Huân. Nguyễn Trung Trực (Nam Bộ); Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn (Trung Bộ); Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quy Binh, Hoàng Hoa Thám (Bắc Bộ).

Sang đầu thế kỷ 20, xã hội Việt Nam có sự phân hóa sâu sắc: giai cấp CN, Tư sản dân tộc, tiểu tư sản ra đời, các cuộc cải cách dân chủ tư sản ở Trung Quốc của Khang Hiểu Vi, La Khải Siêu (dưới hình thức Tân Thư, Tân Sinh) tác động vào Việt Nam làm cho phong trào yêu nước chống Pháp chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản gắn với phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Duy Tân của Phan Chu Trinh,... do các sĩ phu phong kiến lãnh đạo. Nhưng do bất cập với xu thế lịch sử nên đều thất bại (12/1907 Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, 4/1908 cuộc biểu tình chống thuế ở miền Trung bị đàn áp mạnh mẽ, 1/1909 căn cứ Yên Thế bị đánh phá; phong trào Đông Du bị tan rã, Phan Bội Châu bị trục xuất khỏi nước 2/1909, Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi lãnh tụ phong trào Duy Tân ở miền Tây bị chém đầu... Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cần bị đày ra Côn Đảo,... Tình hình đen tối như không có đường ra.

Trước bế tắc của Cách Mạng Việt Nam và bối cảnh thế giới đó, Nguyễn Tất Thành tìm đường cứu nước, từng bước hình thành tư tưởng của mình, đáp ứng những đòi hỏi bức xúc của dân tộc và thời đại.

Câu 2: Nguồn gốc ra đời tư tưởng HCM.

Tư tưởng HCM bắt nguồn từ những nhân tố cơ bản sau đây:

1. Truyền thống lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam:

Là người con ưu tú nhất của dân tộc, Tư tưởng HCM bắt nguồn trước hết từ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc; quê hương gia đình.

Chủ Nghĩa yêu nước Việt Nam:

Tinh thần anh hùng bất khuất trong công cuộc dựng nước và giữ nước là dòng chảy xuyên suốt lịch sử, là nhân tố đứng đầu, là giá trị tinh thần con người Việt Nam, là đạo lý làm người, là niềm tự hào dân tộc, là bản sắc văn hóa tạo thành động lực, thành sức mạnh tồn tại và phát triển của dân tộc suốt 4000 năm.

ĐH 2 (2/1957) HCM khẳng định: "Dân tộc ta có một lòng yêu nước nồng nàn, đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước".

Truyền thống đoàn kết tương thân tương ái:

Nhân nghĩa, thủy chung, cưu mang đùm bọc, lá lành đùm lá rách,... truyền thống này bắt nguồn từ yêu cầu chống thiên tai thường xuyên của dân tộc. Kế thừa nâng cao truyền thống này trong quá trình Cách mạng, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ, Đảng viên, Nhân dân ta phải thực hiện bốn chữ: Đồng lòng, Đồng sức, Đồng tình, Đồng minh.

Truyền thống thông minh, sáng tạo, cần cù, nhẫn nại:

Trong lao động sản xuất và chống xâm lược

Truyền thống hiếu học, cầu tiến, hòa hợp, lạc quan yêu đời:

Luôn sẵn sàng đón nhận những tinh hoa văn hóa của nhân loại, những tư tưởng bài ngoại, thủ cựu, hẹp hòi, cực đoan đều xa lạ với truyền thống con người Việt Nam, Bác Hồ là biểu hiện sống động của truyền thống tốt đẹp này.

Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc bắt đầu từ truyền thống quê hương, gia đình.

Nghệ Tĩnh, quê hương người là mãnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, là vùng địa linh, nhân kiệt, nơi sản sinh nuôi dưỡng nhiều anh hùng dân tộc như Mai Thúc Loan (chống nhà Đường, xây thành Vạn An 722), Nguyễn Biễu, tướng nhà Trần, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phạm Hồng Thái, Trần Phú; nơi có thành quách, đại vạc, đại huệ do Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương xây dựng, có di tích thành Lục Niên do Lê Lợi xây dựng.

Là nơi con người hiếu học: sự học như một nghề luôn được quan tâm, lo lắng, hãnh diện, tự hào, luôn hướng tới sự thành đạt bằng nghề đèn sách, khoa bảng.

Nơi sinh đại thi hào, danh nhân Nguyễn Du, từ 1635 - 1901 có 193 người đậu tú tài, cử nhân, có một Nguyễn Sinh Sắc đậu đại khoa phó bảng.

Truyền thống gia đình: Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn trước hết từ truyền thống gia đình bên nội, ngoại, nhất là Tư tưởng, phong cách của Nguyễn Sinh Sắc_ Thân sinh Hồ Chí Minh.

Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là người bị mồ côi cha, mẹ từ nhỏ, nhà nghèo, thông minh, có ý chí kiên cường, nghị lực quả cảm phi thường, khắc phục mọi khó khăn quyết thực hiện bằng được chí hướng của mình, chiếm lĩnh đỉnh cao của trí tuệ, là người sống gần gũi với dân, có lòng thương dân sâu sắc, ông chủ trương dựa vào dân để thực hiện mọi cải cách Chính trị, xã hội, thường xuyên trăn trở con đường cứu nước, cứu dân, luôn liên hệ với Phan Bội Châu, Nguyễn Thiệu Quý, Trần Thâu, ... những người có tư tưởng yêu nước mưu đại sự.

Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu sắc lòng vị tha, nhân hậu, thủy chung cần mẫn của người mẹ, tình yêu thương nhân hậu sâu nặng của ông bà ngoại,...

Tất cả những nhân cách gần gủi, thân thương đó là tác động mạnh mẽ tới việc hình thành nhân cách Hồ Chí Minh từ tấm bé.

2. Tinh hoa văn hóa nhân loại:

Tinh hoa văn hóa phương Đông:

Trước hết là Nho giáo: Hồ Chí Minh coi trọng kế thừa và phát triển những mặt tích cực của Nho giáo. Đó là thứ triết học hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời, triết lý nhân sinh: tu thân, dưỡng tính, đề cao văn hóa, đạo đức, lễ giáo, nhân nghĩa, Trí, Tín, Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người phê phán những hạn chế, tiêu cực của Nho giáo như tư tưởng đẳng cấp, quân tử, tiểu nhân, chính danh định phận, coi khinh phụ nữ, lao động chân tay, thuế nghiệp doanh lợi,...

Với Phật giáo, người tiếp thu tư tưởng vị tha, chân, thiện, từ bi, cứu nạn, cứu khổ, thương người như thể thương thân, lối sống đạo đức, trong sạch giản dị, chăm làm điều thiện (không nói dối, không tà dâm, không sát sinh, không trộm cắp, không uống rượu,...)

Phật giáo Thiền tông vào Việt Nam đề ra luật chấp tác: Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực, thiền phái Trúc Lâm Việt Nam chủ trương nhập thế gắn với dân chống kẻ thù xâm lược.

Người tiếp thu lòng nhân ái, hi sinh cao cả của Thiên chúa giáo.

Người tiếp thu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc)

Người viết:

Đức Phật là đấng từ bi cứu nạn cứu khổ.

Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là tu dưỡng đạo đức cá nhân.

Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phép biện chứng.

Chủ Nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách Tam dân thích hợp với ta. Khổng Tử, Giê Su, Mác, Đức Phật, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm đó sao? Các vị ấy đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, cho xã hội. Nếu các vị ấy còn sống trên cõi đời này, nếu các vị ấy hợp lại một chỗ, tôi tin rằng các vị ấy nhất định sẽ sống với nhau hoàn mỹ như những người bạn thân nhất.

Tôi nguyện là học trò nhỏ của các vị ấy.

Tinh hoa văn hóa Phương Tây:

Xuất thân từ gia đình khoa bảng, tư chất thông minh, trình độ quốc học, hán học vững vàng, người học hỏi không ngừng khi bôn ba năm châu bốn biển, đã thông thái những ngôn ngữ tiêu biểu cho nền văn minh của nhân loại, người am tường văn hóa Đông, Tây, kim cổ, người tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông Tây.

Nguyễn Sinh Sắc (1863 - 1929) 66 tuổi: mồ côi cha lúc 3 tuổi, mồ côi mẹ lúc 4 tuổi, ở với người anh nhà nghèo lao động vất vả.

Ông được cụ Hoàng Đường (ông Đồ) ở Hoàng Trù xin về nuôi dạy cho ăn học và gã con gái (Hoàng Thị Loan 1868 - 1901).

Ông rất thông minh, có chí lớn học hành vào loại tứ hổ trong vùng (uyên bác bất như San, tài hoa bất như Quý, chường ký bất như Lương, thông minh bất như Sắc: nghĩa là uyên bác không ai bằng Phan Văn San, tài hoa không ai sánh bằng Nguyễn Thúc Quý, tài giỏi không ai qua Trần Văn Lương, thông minh không ai địch nổi Nguyễn Sinh Sắc).

1883: Xây dựng gia đình: 1884 sinh Nguyễn Thị Thanh (Bạch Liên).

1888 sinh Nguyễn Tất Đạt _ Nguyễn Sinh Khiêm.

1890 sinh Nguyễn Tất Thành _ Nguyễn Sinh Cung

1893 cụ Hoàng Đường mất.

1894 thi hương đậu cử nhân.

1895 vào Huế thi đại khoa không đậu.

1896 vào Huế học ở Quốc Tử Giám (cả nhà vào Huế, cuộc sống rất khó khăn: Khiêm Cung = Khơm Công = Không Cơm).

1898 thi lần 3 không đậu.

Tháng 8/1900 đi làm thư kí hội đồng thi hương ở Thanh Hóa, ở Huế bà Loan sinh con thứ 4 và mất 22 tháng chạp. 10 tuổi, Nguyễn Sinh Cung phải chịu mất mát quá lớn. Tết năm đó một mình bé bồng bế người em út mẹ mới sinh thờ cúng mẹ trong tang thương, hương khói, hoa huệ trên bàn thờ, trên mộ. Trong lúc bố và các anh chị xa vắng, ấn tượng đó khắc sâu tâm khảm, người đi suốt đời.

5/1901 lo tang cho vợ con xong, ông vào Huế thi và lần này đậu phó bảng. Sau mấy thế kỷ mới có người đỗ đạt cao như vậy. (Dân mang kèn trống, võng lọng, cờ biển ra rước, nhưng ông nói (tôi đậu cũng chẳng có ích gì cho bà con hàng xóm mà bà con phải đón rước); 200 quan , không lên đài lễ lấy lý do vợ con mới mất, lấy tiền, lấy gạo chia cho dân nghèo làm vốn sản xuất, có người giữ được vốn đó đến 1945.

Có người gọi ông là "quan phó bảng" ông viết: vật dĩ quan gia, vi ngô phong dạng...

1905 sau nhiều lần từ chối (1902, 1903, 1904) ông phải vào Huế làm việc ở triều đình với chức "THỪA BIỆN BỘ LỄ" (Bộ lễ lo lễ nghi, thiên văn, bói toán, học hành, bình thơ)

Nhất là bộ lại bộ binh

Nhì thì bộ hộ, bộ hình

Thứ ba thì đền bộ công

Nhược bằng bộ lễ lạy ông tôi về.

Người ta nói: người khác vào triều để vinh thân phì gia, còn Nguyễn Sinh Sắc vào làm quan là để che thân.

Có người xin theo ông nói:" Quan trường thị nô lệ, trong chi nô lệ, hựu nô lệ"

1908 ông bị triều đình khiển trách vì để Nguyễn Tất Thành, Đạt tham gia biểu tình chống thuế.

1909 Triều đình điều ông đi làm tri huyện Bình Khê: ông thường bỏ huyện đường đi (không mang theo lính lệ) dàn xếp đất đai, ông thừơng phàn nàn: nước mất không lo,..., ông tìm cách thả tù chính trị.

Giữa 1910, Nguyễn Tất Thành lên Bích Khê. Ông hỏi: "Con lên đây làm gì? Con lên tìm cha, ông trìu mến nói: nước mất không lo tìm, tìm cha phỏng có ích gì"

Sau đó cha con chia ly lịch sử ở cầu Bà Đi của hai cha con.

Sau đó ông bị Triệt hồi chức Tri huyện do lơ là công việc ở huyện đường, thả tù chính trị, xử tù địa chủ Tạ Đức Quang, đánh đòn hắn, sau hai tháng hắn chết, vợ hắn kiện, ông bị bắt giam, bị xử đánh 100 trăm trượng, nhưng xét không có thù oán gì nên tha tội.

Ba mươi (30) năm sống ở nước ngoài, chủ yếu ở Châu Âu, người chịu ảnh hưởng sâu rộng những giá trị văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây.

Người tiếp thu tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của đại Cách mạng Pháp ( Khi học ở Vinh, ở Huế, người đã chủ tâm tìm hiểu những tư tưởng này, sau này khi trở lại Pháp 1917, người tiếp thu tận gốc những phương pháp này trong các tác phẩm của các nhà khai sáng Pháp: Mông Teskiô, Rút xô, Vin Tie)

Nghiên cứu Cách mạng Tư sản Mỹ 1776, người tiếp thu tư tưởng tự do, nhân quyền. Trong tuyên ngôn độc lập của Mỹ, người gia nhập công đoàn thủy thủ và tham gia các cuộc đấu tranh của chủ nghĩa chống Tư bản (lần đầu bước vào hoạt động chính trị)

Cuộc sống, lao động và hoạt động Cách Mạng của Người gắn liền với những người lao động, giai cấp Công nhân ở các nước chính quốc, thuộc địa đã mang lại cho Người tình yêu thương giai cấp, yêu thương những người lao động, những người cùng khổ một cách sâu sắc.

Vận dụng những tư tưởng tiến bộ và Cách mạng của Cách mạng Pháp, Mỹ vào các cuộc sinh hoạt ở câu lạc bộ "Gia cô Banh" (xuất hiện lúc đại Cách mạng Pháp 1789, ở đó người ta trao đổi đủ thứ: từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, thiên văn, địa lý, thôi miên, trồng cải soong, nuôi ốc sên,..., siêu hình thuyết mộng du, luân hồi, Người thường lái những cuộc tranh luận đó sang vấn đề Việt nam, vấn đề thuộc địa,..) ở câu lạc bộ "Phô Bua" (do Đảng xã hội Pháp tổ chức, là tổ chức duy nhất bênh vực các dân tộc thuộc địa): Người phê phán Phong Kiến Việt Nam, khẳng định phê phán toàn quyền Đông Dương An Be Xa Rô; Liôtây. Varen,... Thông qua sinh hoạt phong cách dân chủ của người điển hình trong thực tiễn, là cơ sở để hình thành chính kiến trong Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua 1920 và trở thành người Cộng Sản.

Nhờ tiếp thu tư tưởng dân chủ Cách mạng, phương pháp, phong cách làm việc khoa học và được rèn luyện trong phong trào CN, sinh hoạt ở Đảng xã hội, Đảng Cộng Sản Pháp, được sự dìu dắt của các nhà văn hóa, khoa học, lịch sử, trí thức Pháp như M Ca Sanh, P.Cuturie, G Mông Mut Xê, Long Ghê, Lion Blum,... Nguyễn Ái Quốc trưởng thành dần về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

. Chủ nghĩa Mác Lê Nin - Thế giới quan, phương pháp luận của tư tưởng HCM

Chủ nghĩa Mác Lê Nin là đỉnh cao trí tuệ nhân loại bao gồm 3 bộ phận cấu thành:

Triết học giúp Hồ Chí Minh hình thành thế giới quan, phương pháp biện chứng, nhân sinh quan, khoa học, Cách Mạng, thấy được những quy luật vận động phát triển của thế giới và xã hội loài người.

Kinh tế chính trị học vạch rõ các quan hệ xã hội được hình thành phát triển gắn với quá trình sản xuất, thấy được bản chất bốc lột của chủ nghĩa Tư bản đối với CN, xóa bỏ bốc lột gắn liền với xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản

Chủ Nghĩa xã hội KH vạch ra quy luật phát sinh, hình thành, phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, những điều kiện, tiền đề, nguyên tắc, con đường, học thức, phương pháp của giai cấp CN, nhân dân lao động để thực hiện sự chuyển biến xã hội từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cộng sản.

Như vậy, chủ nghĩa Mác Lê Nin với bản chất Cách mạng và khoa học của nó giúp Người chuyển biến từ Chủ nghĩa yêu nước không có khuynh hướng rõ rệt thành người cộng sản, chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thấy vai trò của quần chúng nhân dân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN, liên minh công nông trí thức và vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản trong cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, bảo đảm thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

Hồ Chí Minh đã vận động sáng tạo Chủ nghĩa Mác Lê Nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, giải đáp được những vấn đề thực tiễn đặt ra, đưa cách mạng nước ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.

4. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh:

Là người có đầu óc thông minh sáng suốt, năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, học vấn uyên bác, năng lực phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp sâu sắc.

Có sự khổ công học tập, rèn luyện nhằm chiếm lĩnh vốn trí thức đồ sộ của nhân loại, tiếp thu kinh nghiệm, bề dày của phong trào cộng sản và chủ nghĩa quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc.

Có tấm lòng yêu nước, thương dân, thương yêu những con người cùng khổ vô bờ bến, một chiến sĩ cộng sản quả cảm, nhiệt thành sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc, nhân dân, dân tộc và nhân loại.

Có ý chí nghị lực kiên cường, những phẩm chất được tôi luyện đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc, chuyển hóa, phát triển những tinh hoa của dân tộc, thời đại thành những tư tưởng đặc sắc độc đáo của mình.

Câu 3: HCM quan niệm thế nào là vấn đề dân tộc. Vận dụng tư tưởng của Người về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay.

A. TTHCM về vấn đề dân tộc

1. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc:

Là dân nước nô lệ đi tìm đường cứu nước, nhiều lần chứng kiến tội ác dã man của CN thực dân đối với đồng bào mình và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, người thấy rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng vì dân tộc đó mất độc lập, tự do.

Muốn có bình đẳng dân tộc thì các dân tộc thuộc địa phải được giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân. Nên độc lập dân tộc phải thể hiện ở 3 điểm sau:

Dân tộc đó phải được độc lập toàn diện về chính trị, kinh tế, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ và quan trọng nhất là độc lập về chính trị.

Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia phải do người dân nước đó tự quyết định.

Nền độc lập thực sự phải được thể hiện ở cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của người dân.

Vì thế, nền độc lập của Việt nam phải theo nguyên tắc nước Việt nam của người Việt Nam, mọi vấn đề về chủ quyền quốc gia phải do người dân Việt Nam tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài.

Quyền độc lập, bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, quý giá nhất và bất khả xâm phạm. "Không có gì quý hơn độc lập tự do" là lẽ sống, là triết lý Cách mạng Hồ Chí Minh và của dân tộc VIệt Nam. Đó cũng là nguồn cổ vũ to lớn đối với các dân tộc bị áp bức, đấu tranh cho một nền độc lập tự do, thống nhất đất nước, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của người dân.

2. Vấn đề dân tộc kết hợp nhuần nhuyễn với vấn đề giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH:

CN Mác Lê Nin đã giải quyết triệt để vấn đề này: (vấn đề dân tộc luôn gắn với vấn đề giai cấp, phụ thuộc vào vấn đề giai cấp, và dân tộc bao giờ cũng do một giai cấp đại diện, quan hệ này là quan hệ lợi ích, giai cấp phong kiến và tư sản đã từng đại diện cho dân tộc và giải quyết quan hệ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc nhưng không triệt để, còn nhiều mâu thuẫn ví dụ vua quan Nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, bảo vệ lợi ích của dòng tộc, Pháp đầu hàng Đức,...)

Ngày nay với tính chất, đặc điểm và địa vị lịch sử của mình chỉ có giai cấp CN mới có thể đại diện cho dân tộc và giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích này. Chỉ có giai cấp CN mới xóa bỏ triệt để nạn người bóc lột người, nhờ đó xóa bỏ tình trạng dân tộc này nô dịch dân tộc khác, giải phóng giai cấp công nhân cũng là giải phóng mọi giai tầng, xã hội khỏi sự phân chia thành giai cấp, mâu thuẫn xung đột giai cấp, vì thế giai cấp CN phải giành lấy chính quyền, tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc.

Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm nêu trên của chủ nghĩa Mác Lê Nin vào Cách mạng giải phóng dân tộc, Người chỉ rõ 2 điểm:

Các nước Đế quốc xâm lược cướp bóc thuộc địa làm cho mâu thuẫn giữa CN Đế quốc và thuộc địa nổi lên gay gắt. Giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải tập hợp đoàn kết mọi lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc. Ngày nay chỉ có giai cấp Công nhân mới có thể đoàn kết và lãnh đạo được mọi giai tầng làm Cách mạng giải phóng dân tộc.

Ở các nước thuộc địa, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc là một động lực to lớn, đây là chủ nghĩa dân tộc chân chính. Vì thế, khi cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, thì chủ nghĩa dân tộc ở đó nhất định sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế (thành chủ nghĩa Cộng sản).

Vì thế, những người cộng sản ở các nước thuộc địa phải tự nắm lấy ngọn cờ dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của giai cấp CN.

Như vậy, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp CN và của CM thế giới. Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu loài người đem lại cho mọi người, không phân biệt nguồn gốc, chủng tộc sự tự do, bình đẳng, bác ái thật sự.

3. Chủ nghĩa yêu nước gắn liền với nghĩa vụ quốc tế:

Chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế không đối lập mà thống nhất với nhau. Vì thế:

Mỗi dân tộc phải đấu tranh giành và giữ độc lập cho dân tộc mình đồng thời phải ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc khác. Đây là sự gắn bó giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, giữa tinh thần dân tộc tự quyết với nghĩa vụ quốc tế.

Sau cách mạng tháng 8, trả lời nhà báo Mỹ "Êly Mây si" về chính sách đối ngoại của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: . . .Việt nam can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, đồng thời kiên quyết chống lại mọi âm mưu, hành động xâm phạm quyền tự do, độc lập của Việt Nam,...

Với những nước xâm lược Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn chủ động tìm biện pháp ngăn chặn, nếu chiến tranh xảy ra thì luôn tìm cách kết thúc chiến tranh có lợi cho 2 dân tộc như tạo dư luận, áp lực quốc tế, chỉ đường cho bọn xâm lược rút khỏi Việt Nam trước khi bị tiêu diệt,...

Như vậy, ở Hồ Chí Minh, dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH gắn bó thống nhất với nhau, vì thế, mỗi Đảng cộng sản phải chịu trách nhiệm trước dân tộc của mình, Cách mạng mỗi nước phải do người dân nước đó tự giành lấy, nhưng người nêu khẩu hiệu: giúp bạn là tự giúp mình, người luôn quan tâm giúp đỡ CM các nước Xiêm, Lào, Campuchia, Trung Quốc chống Nhật, phải bằng thắng lợi của Cm mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của CM thế giới.

B. Vận dụng vào công cuộc đổi mới

1. Khơi dậy CN yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn lực mạnh mẽ nhất để xây dựng và bảo vệ tổ quốc:

Trong đổi mới Đảng ta luôn khẳng định tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế độc lập dân tộc và CNXH nhằm tạo ra nguồn lực mới để phát triển đất nước. Trong đó cần phát huy tối đa nguồn nội lực, nhất là nguồn lực con người (trí tuệ, truyền thống dân tộc, vốn, tài nguyên) kiên quyết không chịu nghèo hèn, thấp kém, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vững bước tiến lên CNXH.

2. Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm của giai cấp CN:

Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao chủ nghĩa yêu nước nhưng luôn vững vàng trên lập trường giai cấp CN trong giải quyết vấn đề dân tộc.

Đảng ta luôn khẳng định: Giai cấp CN Việt Nam là giai cấp độc quyền lãnh đạo CM Việt Nam từ khi có Đảng . Đại đoàn kết nhưng phải trên nền tảng liên minh công nông trí thức do giai cấp CN lãnh đạo. Trong giành, giữ chính quyền phải sử dụng bạo lực CM của quần chúng chống lại bạo lực phản CM.

Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH: Đây là nguyên tắc bất biến cần vận dụng mọi hoàn cảnh.

(Phong trào CM thế giới có lúc tả, có lúc hữu, lúc nhấn mạnh lợi ích giai cấp coi nhẹ lợi ích dân tộc, gần đây lại gạt bỏ lợi ích giai cấp, tuyệt đối hơn lợi ích dân tộc, từ bỏ CM, từ bỏ CN quốc tế vô sản. Đảng ta vẫn khẳng định: Dù Liên Xô, Đông Âu tan rã, thế giới biến động, đấu tranh giai cấp dân tộc diễn ra dưới nhiều hình thức khác, nhưng không được buông lơi quyền lợi giai cấp, nhấn mạnh lợi ích dân tộc làm suy yếu phong trào CM thế giới, tan rã CNXH, bùng phát xung đột dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ là làm giàu cho bọn lái súng,...)

Cần chống lại quan điểm cho rằng đất nước đi theo con đường nào cũng được, không nhất thiết độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, CNXH là lý tưởng nhưng là không tưởng, ép ta từ bỏ CNXH, đa nguyên chính trị, từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng để có tự do tư sản.

Đảng ta khẳng định xây dựng CNXH vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" không chỉ là vấn đề giai cấp mà còn là vấn đề dân tộc, ở Việt Nam chỉ có Đảng CS Việt Nam mới là đại biểu cho lợi ích giai cấp CN,nhân dân lao động và dân tộc, mới xây dựng được khối đại đoàn kết thực hiện mục tiêu nêu trên những lệch lạc tư tưởng tả hoặc hữu đều trái với tư tưởng Hồ Chí Minh.

3. Chăm lo xây dựng khối đại đòan kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam:

Trong đổi mới, Đảng ta lấy mục tiêu dân giàu nước mạnh... làm điểm tương đồng, đồng thời cũng chấp nhận những điểm khác nhưng không trái với lợi ích dân tộc (5 ngón tay có ngón dài ngón vắn, nhưng dù dài vắn đều hợp lại nơi lòng bàn tay), giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh để hoàn thành mục tiêu trên.

ĐH 9 chỉ rõ: vấn đề dân tộc và đại đoàn kết luôn có vị trí chiến lược trong CM Việt Nam. Bác Hồ chỉ rõ: Đồng bào miền núi có truyền thống cần cù trong CM và kháng chiến, đã có nhiều công trạng vẻ vang và oanh liệt. Người chỉ thị phải chăm lo phát triển KT-XH vùng dân tộc miền núi, thực hiện đền ơn đáp nghĩa với đồng bào.

Những năm đổi mới vừa qua, đời sống các vùng dân tộc có những chuyển biến rõ rệt, song nhìn chung còn nghèo, khó khăn còn nhiều, sắp tới phải đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế hàng hóa , xóa đói nghèo, nâng cao dân trí, đào tạo cán bộ, chống kì thị dân tộc, tự ty dân tộc, dân tộc hẹp hòi.

Câu 4: Tư tưởng HCM về cách mạng giải phóng dân tộc.

Là hệ thống các quan điểm về con đường cứu nước, về tổ chức lực lượng, chiến lược, sách lược và những nhân tố bảo đảm thắng lợi của CM giải phóng dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa khỏi chủ nghĩa thực dân đế quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,... Đây là đóng góp xuất sắc nhất của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác Lê Nin... Vì vậy được suy tôn là anh hùng giải phóng dân tộc.

1. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường CM vô sản:

Trước những thất bại và bế tắc của các phong trào chống Pháp, Nguyễn Tất Thành tìm đường cứu nước, Người nghiên cứu 3 cuộc CM điển hình: CM Mỹ 1776, CM tư sản Pháp 1789 và CM tháng 10 Nga, Người rút ra kết luận:

CM Pháp cũng như CM Mỹ đều là CM tư sản, CM không đến nơi, tiếng là Cộng hòa dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa, chúng ta đã hi sinh làm CM thì làm đến nơi, làm sao khi CM rồi thì quyền giao lại cho dân chúng số nhiều, thế thì dân chúng khỏi phải hi sinh nhiều lần, dân chúng mới hạnh phúc.

Trong thế giới bây giờ chỉ có CM tháng 10 là thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng hạnh phúc tự do bình đẳng thật sự.

Tiếp xúc với luận cương của Lê Nin, Người tìm thấy ở đó con đường giải phóng dân tộc và chỉ rõ: Các đế quốc vừa xâu xé thuộc địa, vừa liên kết nhau đàn áp CM thuộc địa; Thuộc địa cung cấp của cải và binh lính đánh thuê cho đế quốc để đàn áp CM chính quốc và thuộc địa. Vì thế giai cấp vô sản chính quốc và thuộc địa có chung kẻ thù và phải biết hỗ trợ nhau chống Đế quốc.

Người ví CN đế quốc như con đỉa 2 vòi, 1 vòi cắm vào chính quốc, 1 vòi vươn sang thuộc địa, muốn giết nó thì phải cắt 2 vòi, phải phối hợp CM chính quốc với thuộc địa. CM giải phóng thuộc địa và CM chính quốc là 2 cánh của CM vô sản, muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường CM vô sản.

2. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp CN lãnh đạo:

Trong các phong trào chống Pháp trước 1930 ở nước ta đã xuất hiện các đảng phái, hội, đoàn thể như Duy Tân Hội, Việt Nam Quang Phục Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng,... nhưng những Đảng này thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ, thiếu cơ sở rộng rãi trong quần chúng nên không thể lãnh đạo kháng chiến thành công và bị tan rã với các khuynh hướng cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, tư sản.

Từ thắng lợi của CM Tháng 10 Nga do Đảng CS lãnh đạo, người khẳng định: CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi, trước hết phải có Đảng lãnh đạo, không có Đảng chân chính lãnh đạo CM không thể thắng lợi. Đảng có vững CM mới thành công, người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có CN làm cốt. Không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, không có kim chỉ nam. Đảng phải xác định rõ mục tiêu, lý tưởng CNCS, phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng theo học thuyết Đảng kiểu mới của Lê Nin.

3. CM giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông:

CN Mác Lê Nin khẳng định CM là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân lao động là người sáng tạo và quyết định sự phát triển lịch sử.

Người chủ trương đưa CM Việt Nam theo con đường CM vô sản, nhưng chưa làm ngay CM vô sản, mà thực hiện CM giải phóng dân tộc, giải quyết mâu thuẫn dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai. Mục tiêu là giành độc lập dân tộc. Vì vậy CM là đoàn kết dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản bản xứ,... ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu gom toàn lực đem tất cả ra giành độc lập tự do, đánh tan giặc Pháp Nhật xâm lược nước ta.

Tập trung mọi lực lượng trong mặt trận để chống cường quyền, nhưng phải lấy công nông làm gốc. Đây là lực lượng đông đảo, nhưng lại bị 2, 3 tầng áp bức, là lực lượng có tinh thần CM triệt để nhất.

* Khác Phan Bội Châu tập hợp 10 hạng người: phú hào, quý tộc, sĩ phu, du đồ, hội đảng, nhi nữ, anh sỹ, thông ngôn, ký lục, bồi bếp mà không có công, nông.

4. CM giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CM vô sản chính quốc:

Khi CN Đế quốc xâm lược thuộc địa, CM giải phóng dân tộc có khuynh hướng phát triển, nhưng lúc đó quốc tế CS lại đánh giá thấp CM giải phóng thuộc địa.

Nghiên cứu luận cương của Lê Nin về CM thuộc địa và xuất phát từ áp bức của CN Đế quốc với thuộc địa, Hồ Chí Minh lập luận về nguyên nhân của CM thuộc địa : " Người Đông Dương không được học, nhưng đau khổ, đói nghèo và sự bạo ngược của CN Thực Dân là người thầy dạy mầu nhiệm của họ; người Đông Dương sẽ tiến bộ một cách nhanh chóng khi thời cơ cho phép và họ biết tỏ ra xứng đáng với những người thầy dạy của họ.""Không, người Đông Dương không chết, người Đông Duơng sống mãi. Bên cạnh sự phục tùng tiêu cực, Người Đông Dương sống âm ỷ và sẽ bùng nổ mãnh liệt khi thời cơ đến."

Tại ĐH V Quốc tế CS (6/1924): Nguyễn Ái Quốc lập luận về vai trò của CM thuộc địa: "Vận mệnh của giai cấp vô sản ở các chính quốc gắn chặt với vận mệnh các giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa. Nọc độc và sức sống của rắn độc TBCN đang tập trung ở các thuộc địa, nếu khinh thường CM thuộc địa là muốn đánh rắn chết đằng đuôi."

(CM thuộc địa đánh dập đầu rắn độc TBCN).

Hồ Chí Minh chỉ rõ tính chủ động của CM thuộc địa: Thuộc địa là mắc xích yếu nhất trong hệ thống CNĐQ, trong khi đó nhân dân thuộc địa luôn có tinh thần yêu nước, căm thù xâm lược, họ sẽ vùng lên khi thời cơ đến. Vì vậy, năm 1924 Nguyễn Ái Quốc khẳng định: CM thuộc địa không những không phụ thuộc vào CMVS chính quốc mà có thể nổ ra và giành thắng lợi trước CM chính quốc và khi hoàn thành CM thuộc địa họ có thể giúp đỡ giai cấp vô sản chính quốc phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.

CM thuộc địa phải chủ động giành thắng lợi trước CMVS chính quốc, CM thuộc địa chỉ có thể dựa vào sự nỗ lực của nhân dân thuộc địa, phải đem sức ta tự giải phóng cho ta.

5. CM giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng nhân dân:

Theo CN Mác Lê Nin, có nhiều phương pháp giành chính quyền từ tay giai cấp thống trị. Những kẻ thù không bao giờ tự nguyện giao chính quyền cho nhân dân. Vì vậy CM muốn thắng lợi phải dùng bạo lực của quần chúng nhân dân để giành chính quyền.

Hồ Chí Minh khẳng định: Ở các nước thuộc địa, CN thực dân dùng bạo lực phản CM đàn áp các phong trào yêu nước. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải dùng bạo lực CM chống lại bạo lực phản CM. Bạo lực phản CM là bạo lực của quần chúng gồm lực lượng "chính trị" của quần chúng và lực lượng "vũ trang" với 2 hình thức đấu tranh chính trị và vũ trang kết hợp với nhau.

Để giành chính quyền phải bằng bạo lực, trước hết là khởi nghĩa vũ trang của quần chúng. Trong thời đại mới, thời đại CM vô sản thì cuộc khởi nghĩa vũ trang phải có sự ủng hộ của CM vô sản thế giới, CM Nga, thậm chí với CM vô sản Pháp.

Tư tưởng về CM bạo lực gắn liền với tư tưởng về xây dựng lực lượng vũ trang được Hồ Chí Minh suy nghĩ từ sớm và khi trở thành chủ trương của Đảng tại hội nghị trung ương 8 (5/1941), Người kết luận: cuộc CM Đông Dương được kết liễu bằng khởi nghĩa vũ trang. Căn cứ vào tương quan so sánh lực lượng vào thiên thời, địa lợi. Hồ Chí Minh bàn tới khởi nghĩa từng phần, mở rộng cho cuộc tổng khởi nghĩa to lớn giành chính quyền trong cả nước.

Từ sau Hội nghị trung ương 8, Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, lực lượng vũ trang, lực lượng Chính trị, chuẩn bị tổng kết khởi nghĩa. Thắng lợi CM tháng 8 chứng minh tính đúng đắn của TTHCM về con đường bạo lực CM.

Câu 5: Những quan niệm cơ bản của HCM về đại đoàn kết dân tộc.

1. Đại đoàn kết là vấn đề chiến lược, quyết định thành công của cách mạng

Tư tưởng ĐĐK không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời, không phải là sách lược mà là vấn đề mang tính chiến lược. Người xác định "đoàn kết là lẽ sinh tồn dân tộc ta, lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do, trái lại thì nước ta bị xâm lấn"

Từ khi Đảng ra đời, đoàn kết theo TTHCM thực sự là bộ phận hữu cơ trong đường lối CM của đảng, chỉ có đoàn kết mới có sức mạnh đưa CM tới thành công.

CM là cuộc chiến đấu khổng lồ, không tập hợp được rộng rãi lực lượng quần chúng thì sẽ không thể thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân thực hiện âm mưu chia để trị, vậy ta phải đoàn kết muôn người như một, phải thực hiện chữ "đồng" thì mới thành công.

2. Đại đoàn kết là đại đoàn kết toàn dân

Khái niệm "dân" của HCM: "Dân" theo HCM là đồng bào, là anh em một nhà. Dân là không phân biệt già trẻ, trai gái, giàu, nghèo. Dân là toàn dân, toàn thể dân tộc Việt Nam, bao gồm dân tộc đa số, thiểu số, có đạo, không có đạo, tất cả những người sống trên dải đất này. Như vậy dân theo HCM có biên độ rất rộng, vừa được hiểu là mỗi cá nhân, vừa được hiểu là toàn thể đồng bào, nhưng dân không phải là khối đồng nhất, mà là một cộng đồng gồm nhiều giai tầng, dân tộc có lợi ích chung và riêng, có vai trò và thái độ khác nhau đối với sự pháp triển XH. Nắm vững quan điểm giai cấp của Mác-Lênin, HCM chỉ ra giai cấp công nhân, nông dân là những giai cấp cơ bản, vừa là lực lượng đông đảo nhất, vừa là những người bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, có tinh thần cách mạng triệt để nhất, là gốc của CM.

Vai trò của dân: HCM chỉ rõ dân là gốc của CM, là nền tảng của đất nước, là chủ thể của ĐĐK, là lực lượng quyết định mọi thắng lợi của CM.

Phương châm: ĐĐK theo HCM là ai có tài, có đức, có lòng phụng sự tổ quốc và nhân dân, thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì ta thật thà đoàn kết với họ.

Ba nguyên tắc đoàn kết:

Muốn đoàn kết thì phải hiểu dân, tin dân, dựa vào dân, tránh phân biệt giai cấp đơn thuần, cứng nhắc, không nên phân biệt tôn giáo, dân tộc, cần xóa bỏ thành kiến, cần thật thà đoàn kết rộng rải. Người thường nói: Năm ngón tay có ngón vắn ngón dài, nhưng vắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy mươi triệu người cũng có người thế này người thế khác, dù thế này, thế khác cũng đều là dòng dõi của tổ tiên ta.

Muốn ĐĐK phải khai thác yếu tố tương đồng, hạn chế những điểm khác biệt giữa các giai tầng dân tộc, TG. . . Theo HCM, đã là người Việt nam (trừ Việt gian bán nước) điều có những điểm chung: Tổ tiên chung, nòi giống chung, kẻ thù chung là CN thực dân, nguyện vọng chung là độc lập, tự do, hòa bình thống nhất. . . . giai cấp và dân tộc là một thể thống nhất, giai cấp nằm trong dân tộc và phải gắn bó với dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân là giải phóng cho cả dân tộc.

Phải xác định rõ vai trò, vị trí của mỗi giai tầng XH, nhưng phải đoàn kết với đại đa số người dân lao động (CN, ND, Tri thức, các tầng lớp lao động khác . . .), đó là nền, là gốc của ĐĐK, nòng cốt là công nông.

3. Đại đoàn kết phải có tổ chức, có lãnh đạo

Đoàn kết là vấn đề chiến lược, sống còn, không phải là tập hợp ngẫu nhiên, cảm tính, tự phát, mà được xây dựng trên một cơ sở lý luận khoa học. Do đó phải có tổ chức, lãnh đạo để hoàn thành mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.

Sau khi tìm ra con đường cứu nước, HCM luôn quan tâm tới việc hình thành các tổ chức để tập hợp mọi lực lượng, giai tầng cho phù hợp với yêu cầu của CM, trong đó Mặt trận Dân tộc Thống nhất là tổ chức rộng rãi nhất.

Đây là điểm khác nhau về cơ bản so với mọi phong trào chống pháp trước đây. Cụ thể :

Mặt trận Dân tộc Phản đế Đông Dương 1930-1931.

Mặt trận Dân chủ Đông Dương 1936-1939.

Mặt trận Việt Minh 1941-1951, Mặt trận Liên Việt (Hội Liên hiệp Quốc dân VN) 29.5.1946 (gồm những người yêu nước không đảng phái lập liên minh yêu nước: Bùi Bằng Đoàn, Huỳnh Thúc Kháng). 07-03-51, V-Minh và Liên Hiệp ĐH hợp nhất lấy tên Liên Việt.

Mặt trận Tổ quốc Việt nam 09.55

Ở Miền Nam

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam 20.12.1960 ( Nguyễn Hữu Thọ chủ tịch).

Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam (luật sư Trịnh Đình Thảo, chủ tịch).

Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam 6-1969 (Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, chủ tịch).

Năm 1976, Mặt trận Tổ quốc VN ( miền bắc) + với MT dân tộc giải phóng MNVN + Liên minh các lưc lượng dân tộc dân chủ & HBVN đại hội, thống nhất thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Năm nguyên tắc xây dựng Mặt trận:

Nền tảng là liên minh công nông

Lấy lợi ích tối cao của dân tộc gắn với lợi ích của các tầng lớp lao động làm cơ sở. Đó là độc lập, thống nhất tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho người dân, dân giàu, nước mạnh. Đồng thời quan tâm tới lợi ích chính đáng của cá nhân, bộ phận, giải quyết thỏa đáng lợi ích chung và riêng.

ĐĐK là lâu dài, chặt chẽ, thiết thực, rộng rãi, vững chắc.

ĐĐK phải gắn bó với đấu tranh, đấu tranh để củng cố tăng cường đoàn kết, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, chống cô độc, hẹp hòi, đoàn kết một chiều

Mặt trận phải do Đảng lãnh đạo, đây là nguyên tắc quan trọng nhất của ĐĐK.

- Đảng là thành viên của mặt trận, nhưng là lưc lượng lãnh đạo Mặt trận, là linh hồn khối ĐĐK, Đảng là đảng giai cấp CN VN, vừa là đảng của nhân dân lao động và của dân tộc VN.

- Đảng vừa là đạo đức, vừa là văn minh, Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc.

- Đảng phải là bộ phận trung thành nhất, có năng lực lãnh đạo, có đường lối đúng mới xứng đáng địa vị lãnh đạo mặt trận. Đảng cần tuyên truyền giáo dục, nêu gương, lấy lòng chân thành để cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác, có thái độ tôn trọng các tổ chức đoàn thể mặt trận, biết lắng nghe người ngoài Đảng. Trong Đảng phải xiết chặt đoàn kết, Đảng viên phải biết giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.

4. Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế

Đoàn kết trên lập trường giai cấp CN nghĩa là bao hàm cả đoàn kết quốc tế, tạo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc với lợi ích quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

CM giải phóng dân tộc và CM XHCN ở nước ta muốn thành công đòi hỏi phải đoàn kết quốc tế để tạo sức mạnh đồng bộ và tổng hợp.

Thực hiện đoàn kết quốc tế, HCM quan tâm đoàn kết cách mạng nước ta với các phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, với các phong trào giải phóng dân tộc ở các nước trên thế giới, các phong trào đấu tranh cho hòa bình, dân chủ tiến bộ. Người đặc biệt chú trọng xây dựng khối đoàn kết 3 nước đông dương, mặt trận VN -LÀO -CPC, mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với VN.

Quan điểm "đức là gốc" trong tư tưởng đạo đức hồ chí minh

________________________________________

Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng hàng đầu về đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng. "Đức là gốc" là quan điểm cơ bản, xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Với Hồ Chí Minh, đạo đức không chỉ là "gốc", là nền tảng, là nhân tố chủ chốt của người cách mạng mà còn là thước đo lòng cao thượng của con người. "Đức là gốc" còn vì có đức sẽ có trí. Vì thế, Đảng cũng phải lấy "đức làm gốc", Đảng phải "là đạo đức, là văn minh". Xây dựng Đảng trước hết phải bắt đầu từ nền tảng đạo đức.

Trong lịch sử thế giới hiện đại, Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ cách mạng và nhà tư tưởng quan tâm hàng đầu đến vấn đề đạo đức. Trước Hồ Chí Minh, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin đã xây dựng lý luận khoa học về đạo đức, nhưng chưa có điều kiện bàn nhiều về đạo đức của những người cách mạng. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực đạo đức nhất là đạo đức cách mạng. Tư tưởng đạo đức của Người bao quát mọi đối tượng, đề cập đến mọi lĩnh vực hoạt động của con người, trên mọi quan hệ xã hội với phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Phương pháp luận của Hồ Chí Minh là quy tất cả thành ba mối quan hệ chủ yếu của mỗi người - đó là đối với mình, đối với người, đối với việc. Xuyên suốt trong các mối quan hệ đó là quan điểm "Đức là gốc", một quan điểm cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đã có nhiều bài viết, nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và đi sâu phân tích quan điểm "Đức là gốc" của Hồ Chí Minh, nhưng theo chúng tôi, vẫn còn một số khía cạnh xung quanh quan điểm này cần phải được làm sáng tỏ thêm. Bài viết này là một cố gắng nghiên cứu của tác giả theo tinh thần đó.

Nội dung cơ bản của quan niệm "Đức là gốc" trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh không để lại những trước tác đạo đức lớn [xét về dung lượng tác phẩm] nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức lại hiển hiện rất rõ trong những bài nói, bài viết ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, theo phong cách lý luận phương Đông và rất quen thuộc với con người Việt Nam. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, đồng thời kế thừa những tư tưởng đạo đức phương Đông, những tinh hoa đạo đức của nhân loại và đặc biệt quan trọng là tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh có sử dụng một số khái niệm và mệnh đề tư tưởng đạo đức của Nho giáo, nhưng trên cơ sở mới, chuyển tải những nội dung mới, và vì vậy, về thực chất, đó là đạo đức mới - đạo đức cách mạng.

Quan điểm "đức là gốc" của con người đã xuất hiện từ xa xưa trong học thuyết "đức trị" của Nho giáo. Rõ ràng, quan điểm "đức là gốc" của Nho giáo chứa đựng những yếu tố hợp lý nhất định, nhưng vấn đề ở đây là "đức" mà Nho giáo nói đến lại là những chuẩn mực đạo đức phong kiến trói buộc con người vào những lễ giáo hủ bại, phục vụ cho chế độ đẳng cấp, tôn ti trật tự hết sức hà khắc của giai cấp phong kiến. "Đức là gốc" trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo đức mới - đạo đức cách mạng mang bản chất giai cấp công nhân, kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa của đạo đức nhân loại. Sự khác biệt giữa đạo đức cũ với đạo đức mới đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Có người cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững dưới đất, đầu ngẩng lên trời"[1]. Đó quyết không phải là đạo đức thủ cựu. "Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người"[2].

Xét về lý luận, quan điểm "đức là gốc" của Hồ Chí Minh có nội dung phong phú, bao trùm và xuyên suốt toàn bộ tư tưởng đạo đức cách mạng của Người. Theo chúng tôi, bước đầu, có thể hiểu quan điểm "đức là gốc" của Hồ Chí Minh gồm những nội dung cơ bản như sau:

Thứ nhất, đạo đức là "gốc", là nền tảng của người cách mạng. Giống như cây phải có gốc, sông, suối phải có nguồn, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được sự nghiệp cách mạng cực kỳ gian khổ khó khăn. Không phải ngẫu nhiên mà khi Lênin mất, Hồ Chí Minh đã viết những dòng đầy xúc động trước tấm gương đạo đức trong sáng mẫu mực của người thầy vĩ đại : "Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về người, không gì ngăn cản nổi"[3]. Còn trong "Đường kách mệnh" tác phẩm "gối đầu giường" của những người cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã giành chương đầu tiên để bàn về tư cách người cách mệnh, sau đó mới nói về lý luận và đường lối cách mạng. Với Hồ Chí Minh, "đức là gốc" cho nên, đạo đức cách mạng không chỉ giúp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới mà còn giúp người cách mạng không ngừng cầu tiến bộ và hoàn thiện bản thân mình. Người có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại tạm thời... cũng không rụt dè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công, vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, chất phác, không công thần, địa vị, kèn cựa hưởng thụ, thật sự trở thành người "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Vì "đức là gốc" cho nên đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động cách mạng, mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng bất cứ ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.

Thứ hai, trong mối quan hệ giữa đức và tài thì "đức là gốc" nhưng đức và tài phải đi đôi với nhau, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia được. Bởi người nào có đức mà không có tài thì chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai, nhưng cũng chẳng ích gì, còn nếu có tài mà không có đức thì chỉ có hại cho dân cho nước còn sự nghiệp bản thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ. Hồ Chí Minh yêu cầu: tài lớn thì đức càng phải cao. Vì khi đã có cái trí thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận và lựa chọn tin theo. Chính vì thế, Hồ Chí Minh khẳng định: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì"[4]. "Đức là gốc" vì trong đức đã có tài, có cái đức sẽ đi đến cái trí. Bởi người thật sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, rèn luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Và khi đã thấy sức không vươn lên được thì sẵn sàng nhường bước, học tập và ủng hộ người tài đức hơn mình, để họ gánh vác việc nước việc dân. Như vậy, "đức là gốc" ở đây phải là "đức lớn" - đức tận tâm, tận lực phấn đấu hy sinh vì cách mạng, vì nước vì dân, nó không đồng nhất với những phẩm chất đạo đức thông thường cụ thể, như hiền lành, ngoan ngoãn, tốt bụng... trong đời sống hàng ngày.

Thứ ba, "Đức là gốc" trong xây dựng Đảng là Đảng phải "là đạo đức, là văn minh".

Phát triển tư tưởng của Mác, Ăngghen, Lênin về Đảng của giai cấp công nhân, trong bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng ta, Hồ Chí Minh đã đưa ra một hình tượng về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản:

"Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,

Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.

Đảng ta là đạo đức, là văn minh"[5]...

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải "là đạo đức, là văn minh" trong đó đạo đức là "gốc", vẫn là vấn đề được Hồ Chí Minh đặt lên trên hết, trước hết. Bởi Đảng cộng sản muốn đóng được vai trò tiên phong thì trước hết phải là một đảng tiêu biểu cho đạo đức cách mạng, tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc và nhân dân. Có lẽ trong lịch sử phong trào cách mạng thế giới, hiếm có một lãnh tụ cách mạng nào coi trọng vấn đề đạo đức đến tầm mức như Hồ Chí Minh, đã đặt đạo đức lên vị trí hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng. Bởi thế, một đảng nếu xa rời mục tiêu lý tưởng cách mạng, nếu thoái hóa về đạo đức thì tức là đã hỏng từ "gốc" và cuộc cách mạng nếu được tiếp tục, tất yếu sẽ bị biến chất và không còn ý nghĩa. Tất nhiên, một đảng tiên phong cách mạng nếu chỉ có đạo đức cách mạng thì chưa đủ mà Đảng còn phải "là văn minh", phải tiêu biểu cho trí tuệ của cả dân tộc. Ngoài đạo đức cách mạng là yêu cầu tiên quyết, Đảng còn phải có trí tuệ, có năng lực nhận thức quy luật và hành động cách mạng đúng đắn, biết phân tích chính xác tình hình, đề ra đường lối, chủ trương sát đúng, đưa cách mạng tiến lên từng bước.

Có thể nhận thấy, quan niệm "Đảng ta là đạo đức, là văn minh", đạo đức là "gốc" trong xây dựng Đảng là một tư tưởng xuyên suốt, nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo và không được nhân dân tín nhiệm nữa nếu Đảng yếu kém, không trong sạch, suy thoái về đạo đức. Người cảnh báo: "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"[6]. Do đó, thường xuyên tự đổi mới và tự chỉnh đốn Đảng là một yêu cầu khách quan của chính sự nghiệp cách mạng trong tất cả các thời kỳ. Trong di chúc của mình, phần nói về những công việc phải làm sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: "việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi"[7]. Và, không chỉ trong Di chúc, mà chính trong bài viết cuối cùng mà Hồ Chí Minh để lại cũng là bài viết về đạo đức. Phải chăng, Người muốn dành bài viết cuối cùng cho điều mà Người tâm huyết nhất và cũng là điều mà Người trăn trở nhất trong sự nghiệp cách mạng - Đó là vấn đề "nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân", là "thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân".

Kết luận

"Đức là gốc" là quan điểm cơ bản, xuyên suốt trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Với những nội dung sâu sắc, chứa đựng chiều sâu tư tưởng lớn, quan điểm "đức là gốc" của Hồ Chí Minh không chỉ tiếp nối và nâng cao quan niệm đạo đức truyền thống của phương Đông và Việt Nam mà còn là một cống hiến quan trọng của Người đối với kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối với dân tộc ta, di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về đạo đức cách mạng là tài sản tinh thần vô giá, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Mà không chỉ là tư tưởng, cuộc đời cách mạng không một gợn một chút riêng tư của chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những bài học lớn về đạo làm người. Xét đến cùng, triết lý lớn về con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là triết lý về đạo làm người được tóm gọn trong sáu chữ: Thành người, làm người và ở đời. Và phải chăng, "tầm cỡ của một hiền triết chưa chắc ở chỗ giải đáp mối tương quan giữa tồn tại và tư tưởng... ở chỗ lựa chọn giáo điều quen thuộc hay sáng tạo mới lạ, mà chung quy là ở mức quan tâm đến con người, con người thật đang phải sống trên quả đất này và chắc còn sống lâu dài đến vô tận thời gian, lấy đó làm trung tâm của mọi suy tư và chủ đích của mọi hành động. Cụ Hồ thuộc loại hiền triết đó"

Vì sao đảng ta tiến hành cuộc vận động "học tập và làm theo tấm gương đạo đức hồ chí minh"?

________________________________________

Chúng ta nhận thức rằng, qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân ta đã giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh và ngoại giao đã tạo thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam. Có thể nói, chưa bao giờ thế và lực của đất nước ta mạnh như hiện nay, vị thế của nước ta cao như hiện nay. Chính những thắng lợi to lớn đó là nhân tố quyết định tạo ra thời cơ lớn cho nước ta phát triển nhanh hơn trong thời gian tới.

Trên trường quốc tế, chưa bao giờ nước ta bình thường hoá quan hệ với tất cả các nước như hiện nay; đặc biệt là bình thường hoá và có vị thế cao trong quan hệ với tất cả các cường quốc trên thế giới như Nga, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, và Liên minh châu Âu (EU). Việt Nam đã góp phần thúc đẩy xu thế chung của thế giới hiện nay, đó là xu thế hoà bình, hợp tác phát triển, xu thế toàn cầu hoá và phát triển mạnh mẽ cách mạng khoa học và công nghệ. Chính vì thế, Đại hội X của Đảng ta nhận định cách mạng Việt Nam đang đứng trước thời cơ lớn. Từ đó, Đại hội X cũng đi đến quyết định trong 5 năm tới đưa Việt Nam thoát khỏi một nước nghèo và đến 2020 Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Như vậy, hiện nay Đảng ta đang đứng trước một sứ mệnh lịch sử mới là lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện khát vọng ngàn đời là xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lịch sử giao cho Đảng ta nhiệm vụ rất nặng nề. Để đủ sức hoàn thành sứ mệnh lịch sử nặng nề và đầy vinh quang trên, đòi hỏi Đảng ta phải nâng cao cho được năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Bác Hồ - Người sáng lập và rèn luyện, lãnh đạo Đảng ta từng nói: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh". Như vậy, Bác khẳng định thành tố đầu tiên tạo nên năng lực lãnh đạo của Đảng là đạo đức. Vì vậy, yêu cầu xây dựng cho được nền tảng đạo đức vững vàng của Đảng là yêu cầu đầu tiên, cơ bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đó là lẽ thứ nhất.

Thứ hai, Đảng ta phát động cuộc vận động này trên cơ sở sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có bước trưởng thành trong điều kiện mới, nhưng cũng đối mặt với những nguy cơ và thách thức rất lớn. Đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị và cả về đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Trước đây, Đảng ta đã mở cuộc vận động đẩy mạnh việc nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh (theo tinh thần Chỉ thị 23-CT/TW, Bộ Chính trị khoá IX). Đại hội X đã tổng kết, đánh giá là cuộc vận động đã đạt được kết quả bước đầu, nhưng trong Đảng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn và đẩy lùi mà ngày càng diễn biến phức tạp. Tình hình trên là rất nghiêm trọng nên Đại hội X của Đảng nhận định, nếu chúng ta không ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW6 (lần 2) khoá VIII đạt một số kết quả nhất định, nhưng Đại hội X đánh giá là không đạt yêu cầu đề ra. Xuất phát từ yêu cầu sứ mệnh lịch sử của Đảng ta trong giai đoạn mới và rút kinh nghiệm từ hai cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đẩy mạnh nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc vận động chính trị "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" với quyết tâm cao nhất là ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tham nhũng trong cán bộ, đảng viên; nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong giai đoạn mới.

Mối quan hệ giữa đạo đức cách mạng và chủ nghĩa cá nhân trong tư tưởng hồ chí minh

________________________________________

Chủ tịch Hồ Chí minh là lãnh tụ cách mạng quan tâm nhiều nhất đến vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Đặc biệt, từ khi Đảng cầm quyền, Bác càng quan tâm đến vấn đề này hơn. Trong di sản mà Bác để lại cho toàn Đảng, toàn dân, có nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chỉ bàn về đạo đức cách mạng và mặt đối lập với đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá nhân.

Theo Bác Hồ, chủ nghĩa cá nhân hoàn toàn trái với đạo đức cách mạng. Định nghĩa về chủ nghĩa cá nhân, Bác Hồ viết: "Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích của tập thể, miễn mình béo, mặc thiên hạ gầy".

Hay "chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: Tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, độc quyền, quan liêu, mệnh lệnh, lười biếng v.v...

Vì vậy, để giữ vững đạo đức cách mạng, thì bất cứ trong điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. "Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa, cho nên, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh từ bỏ chủ nghĩa cá nhân".

Xét mối quan hệ này, chúng ta cần nhận thức thống nhất giữa lợi ích chung và lợi riêng. Cần phân biệt đúng đắn giữa chủ nghĩa cá nhân và lợi ích cá nhân. Như nói ở trên, theo Bác Hồ, chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo "mình vì mọi người" mà chỉ muốn "mọi người vì mình". Cho nên, phải "quét sạch chủ nghĩa cá nhân". "Nhưng đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là gây xéo lên lợi ích cá nhân. Vì mỗi người đều có đời sống riêng. Mỗi người đều có quyền làm giàu cho bản thân và gia đình mình; nhưng những lợi ích đó không trái với lợi ích của tập thể, lợi ích của Đảng, của tổ quốc, dân tộc".

Nếu để chủ nghĩa cá nhân phát triển thì sẽ ảnh hưởng xấu đến Đảng, dân tộc. Bác chỉ rõ: "Một dân tộc, một Đảng và một con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất thiết hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".

Cho nên, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của đạo đức cách mạng, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng, cán bộ, đảng viên phải "quét sạch" nó.

Học tập và vận dụng tư tưởng đạo đức hồ chí minh vào giai đoạn hiện nay

________________________________________

Đất nước ta đang diễn ra quá trình CNH, HĐH nhằm xây dựng một nền kinh tế tiên tiến, một xã hội văn minh, hiện đại và những con người mới - con người XHCN. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng soi sáng việc rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng của mỗi người, mỗi tập thể cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân gắn liền với việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước theo lời gọi của HỒ CHÍ MINH, càng tăng thêm sức sống và hiệu quả trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

+Tiếp tục quá trình bồi dưỡng, rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chân chính, cách mạng, trong sáng cho các thế hệ công dân Việt Nam hôm nay và mai sau.

+ Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân và những chứng bệnh khác do chủ nghĩa cá nhân gây ra.

+ Khẳng định và phát huy những tư tưởng đạo đức đúng đắn, lành mạnh cho mọi người và cho mỗi người vì một mục tiêu cao cả là bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và xây dựng thành công CNXH.

+ Mở rộng và tăng cường việc giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh cho mọi người trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn viên.

+ Phát huy những truyền thống tốt đẹp của nền đạo đức, đạo lý người Việt Nam đi đôi với học tập, vận dụng những tinh hoa đạo đức và các giá trị văn minh của nhân loại.

+ Tiếp tục quán triệt và ra sức thực hiện những nội dung, yêu cầu về văn hóa, giáo dục, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.

+ Kiên trì đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi những mặt trái, những tệ nạn tiêu cực của cơ chế thị trường, của quá trình mở cửa hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế nhằm bảo vệ phát huy những phẩm giá đạo đức tốt đẹp của dân tộc.

Tại sao nói đạo đức là nền tảng, sức mạnh của người cách mạng

________________________________________

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc chân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ của thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Người luôn có cách nhìn toàn diện, sâu sắc, có tầm chiến lược và định hướng lâu dài. Những lời dạy của Người không những có giá trị ở hiện tại mà có tầm bao quát đến tương lai, trong mọi thời đại.

Bằng sự kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo Cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ cùng với việc thể nghiệm của chính bản thân mình qua hoạt động cách mạng thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định: yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Do đó, trong tư tưởng của Người luôn chứa đựng lòng yêu thương con người bao la sâu sắc. Chính vì vậy, trong mỗi lời dạy, Người luôn chú trọng đến yếu tố đạo đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh quan niệm: đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Người Cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" (1947), Người viết: "Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh và là nhân tố quyết định thắng lợi của công việc: "Công việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém". Người luôn quan niệm lấy đức làm gốc.

Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin: "Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc, những chuẩn mực, những định hướng, giá trị được xã hội thừa nhận và có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người". Đạo đức gồm 2 mặt: ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức.

Với Bác, người Cách mạng phải lấy đức làm gốc. Nhưng đạo đức ở đây đã được nâng lên một tầm cao mới. Đó là đạo đức Cách Mạng. Theo Bác, những chuẩn mực chung nhất, đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:

Một là, trung với nước hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.

Kế thừa tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông "Trung với vua, hiếu với cha mẹ". Người đã đưa vào những nội dung mới, nâng nó lên thành: "Trung với nước, hiếu với dân". Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Hiếu với dân là phải yêu thương nhân dân, phục vụ hết lòng, là "đầy tớ của nhân dân".

Đối với cán bộ đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng "điều chủ chốt nhất" của đạo đức cách mạng là "Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân", là "Trung với nước, hiếu với dân", hơn nữa phải là "tận trung, tận hiếu" thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Hai là, yêu thương con người. Hồ Chí Minh xác định: yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Tình yêu thương đó thể hiện ham muốn tột bật của Người là làm cho đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tình yêu thương con người còn thể hiện trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí với mọi người trong sinh hoạt đời thường. Đặc biệt, tình yêu thương còn được thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm nhưng đã nhận rõ sai lầm và cố gắng sửa chữa. Trong di chúc thiêng liêng, Người căn dặn Đảng: "Phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ Đảng viên luôn luôn chú ý phẩm chất yêu thương con người".

Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Cần, tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không dựa dẫm, không ỷ lại, phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".

Kiệm, tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình. "Không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức.

Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắng, đứng đắn". Chính thể hiện trong các mối quan hệ:

Đối với mình: Không tự cao tự đại, chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm, phát triển điều hay, sửa đổi điều dở.

Đối với người: Không nịnh hót người trên, không xem thường người dưới, không dối trá lừa lọc.

Đối với việc: Để công việc lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì phải làm cho đến nơi đến chốn.

Chí công vô tư, Bác nói "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người với việc", "khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau", "phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".

Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.

Thời đại ngày nay, đạo đức cách mạng còn được thể hiện ở sự năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm.

Được hình thành trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tư tưởng lấy dân làm gốc. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân. Người chỉ rõ: Nhân dân giúp đỡ ta ít thì thắng lợi ít, giúp đỡ ta nhiều thì thắng lợi nhiều, nhân dân giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn. Là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội, là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sự phát triển xã hội. Người khẳng định: "Trong bầu trời này không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới này không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân". Người tin tưởng rằng sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được bằng chính sự nỗ lực và quyết tâm của nhân dân. Tiến hành kháng chiến hay xây dựng, đổi mới đều phải dựa vào dân. Vì vậy, phải gần dân, gắn bó với nhân dân, kính trọng và học tập nhân dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo phải nắm vững dân tình, tìm hiểu rõ dân tâm, phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước. Có như vậy, người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính trọng và lãnh đạo được nhân dân. Muốn làm được điều đó, đòi hỏi người Cách mạng phải lấy đạo đức cách mạng làm gốc. Người chỉ rõ: Trước mắt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ "Cộng sản" mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân phải làm mực thước cho nhân dân noi theo.

Ngược lại, nếu không có đạo đức cách mạng, người lãnh đạo dễ sa vào mười hai căng bệnh: tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hữu danh vô vị, tự do chủ nghĩa, hẹp hòi, cục bộ địa phương, đố kỵ, a dua xu nịnh, kéo bè kéo cánh, cận thị (thấy gần không thấy xa), quan liêu vô cảm trước những bức xúc của nhân dân (xa dân). Những điều đó sẽ làm cho nhân dân mất lòng tin, khó lãnh đạo được nhân dân. Do đó, mỗi người lãnh đạo phải tự rèn luyện cho mình đạo đức cách mạng; việc rèn luyện đạo đức cách mạng phải thường xuyên, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Việc rèn luyện đạo đức cách mạng phải quán triệt quan điểm: Nói đi đôi với làm, xây đi đôi với chống.

Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng: có tài mà không có đức là người vô dụng, nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng

PHẠM TRÙ TRUNG - HIẾU TRONG TRIẾT LÝ PHƯƠNG ÐÔNG

VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI VẤN ĐỀ

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG HIỆN NAY

"Trung" là khái niệm chính trị - đạo đức, xuất hiện trong các tác phẩm kinh điển của Nho giáo và thường được dùng để chỉ hành động hết lòng với vua, mà theo đó, khái niệm "trung quân" (trung với vua) xuất hiện. Khi quyền lợi của ông vua ấy thống nhất với quyền lợi của dân tộc thì "trung" đó cũng đồng thời là trung với nước.

Trong mối quan hệ quân - thần (vua - tôi), Khổng Tử đã nhận thấy ở đó mỗi bên đều phải có trách nhiệm với nhau, đều phải có cách đối xử cần thiết, và cách đối xử của bên này là điều kiện để bên kia có cách đối xử tương ứng. Khổng Tử nói : "Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung" (Nhà vua sai khiến bề tôi thì dùng lễ, bề tôi phụng sự nhà vua thì giữ đạo trung).

Xuất phát từ thực tiễn Trung Quốc, Khổng Tử cho rằng nguyên nhân dẫn đến loạn lạc trong thời Xuân Thu là do vua không ra vua, bề tôi không ra bề tôi và do vậy đưa đến tình trạng giành địa vị của nhau, vương hầu lấn át quyền "thiên tử". Khổng Tử không chủ trương "ngu trung", không bắt buộc bề tôi phải phục tùng bề trên một cách vô điều kiện như quan niệm về chữ "trung" của các nhà Nho sau này. Mạnh Tử và Tuân Tử cũng đều cho rằng, trung không phải là tuyệt đối, khi vua không ra vua thì thần dân không nhất thiết phải trung.

Đến chế độ phong kiến trung ương tập quyền thì nội dung của "trung" đã có khác. Khi đó, nhà vua và triều thần đều cần người bề tôi tuyệt đối phục tùng vua, trung thành với vua vô điều kiện. Trong lịch sử xã hội phong kiến phương Đông đã có biết bao người chết cho sự nghiệp của một ông vua. Việc làm đó do tư tưởng trên chi phối, đồng thời nó cũng làm cho tư tưởng trên mang ý nghĩa hiện thực và được củng cố.

Ở Việt Nam, quan niệm về "trung" không hoàn toàn như thế. Khi một triều đại đang lên thì trung gắn liền với lòng yêu nước, với lợi ích của dân tộc. Trong thời kỳ dựng nước, quan hệ vua tôi là quan hệ quân thần ; họ cùng chung một lý tưởng yêu nước, chống ngoại xâm, giành độc lập cho dân tộc. Đã có nhiều tấm gương tiêu biểu cho lòng trung thành với người lãnh đạo. Chẳng hạn, vì sự nghiệp chung mà Lê Lai đã chết thay Lê Lợi ; Dã Tượng, Yết Kiêu đã liều chết để bảo vệ Trần Hưng Đạo... Nhưng khi triều đại ấy đã suy đồi, vua chúa trở thành kẻ phản động, bán nước như Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, Nguyễn ánh cầu cứu thực dân Pháp, triều đình có những kẻ ngu quân thì nhân dân ta lại quyết tâm vùng dậy chống lại chế độ phong kiến, lật đổ vua này lập vua khác, như thời kỳ cuối Lê đầu Nguyễn. Truyền thống của người Việt Nam như Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói, là "Trung với nước, hiếu với dân". Tư tưởng chủ đạo của người Việt Nam là yêu nước. Bởi trong quan niệm của họ, vua đến rồi lại đi, triều đại dựng lên rồi lại đổ, chỉ đất nước của muôn dân là còn mãi. Do vậy, lời dạy "Trung với nước, hiếu với dân" của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào tâm trí mỗi người chúng ta một cách tự nhiên.

"Hiếu" cũng là một phạm trù đạo đức - chính trị quan trọng trong lịch sử tư tưởng phương Đông. Song, trước tiên, nó hình thành trong gia đình, ở mối quan hệ con cháu đối với ông bà cha mẹ, nêu lên nghĩa vụ của con cháu đối với ông bà cha mẹ. Dưới chế độ mẫu hệ hay chế độ thị tộc phụ hệ, người ta chưa biết đến hiếu. Khái niệm hiếu chỉ xuất hiện dưới chế độ chủ nô, khi người ta đã có ý thức về dòng giống.

"Hiếu" trong quan niệm của Nho giáo có nội dung khá phong phú. Trước hết, đó là con cái phải phụng dưỡng bố mẹ khi già và tế tự họ khi mất. Khổng Tử nói : "Sống thì phải phụng dưỡng thân thể, chết thì an táng theo lễ" (Luận Ngữ).

Đánh giá học thuyết Nho giáo về chữ "hiếu", Tôn Trung Sơn cho rằng : "So với các dân tộc khác, quan niệm về hiếu của dân tộc ta đã tiến bộ hơn họ rất xa... Bởi vậy, chỉ nói đối với vấn đề hiếu, mặc dù là những nước văn minh nhất trên thế giới ngày nay, không có một quốc gia nào mà người dân của họ có được một khái niệm hoàn toàn giống như đồng bào ta. Như vậy vấn đề hiếu càng không thể không cần và càng phải bảo tồn" (1).

Theo dòng chảy của thời gian, Trung và Hiếu đã thâm nhập vào nước ta và đã trở thành một trong những chuẩn giá trị của các triều đại phong kiến. Bác Hồ tiếp nhận trung - hiếu ở một tầm nhận thức mới. Bác đã gọt bỏ nội dung cũ của Nho giáo là trung với vua và đưa vào đó nội dung mới : Trung là trung với nước. Ở Người, chữ hiếu không còn bó hẹp trong phạm vi trọn đạo làm con đối với ông bà cha mẹ mình, mà hiếu còn là hiếu thảo với nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ ; không chỉ thương yêu ông bà cha mẹ mình, mà còn phải thương yêu ông bà cha mẹ người (2).

Người khẳng định : "Người kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình chí hiếu nhất. Vì sao ? Nếu không làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hàng triệu bố mẹ người khác cũng bị đế quốc phong kiến dày vò". Người cách mạng "không những cứu bố mẹ mình mà còn cứu bố mẹ người khác, bố mẹ của cả nước nữa" (3). Chính với ý nghĩa rộng lớn ấy, "hiếu thảo" vẫn gắn liền với "hiếu trung", như trong bức điện gửi họ Nguyễn Sinh sau khi nghe tin anh ruột qua đời, Hồ Chí Minh đã viết : "Một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước" (4).

Khi xác định nội dung trung, hiếu cho mỗi đối tượng, bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặt nội dung ấy trong sự phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng.

Đối với lực lượng vũ trang, khi xác định bản chất đạo đức cách mạng của quân đội ta - quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng, anh dũng trong kháng chiến và cũng anh dũng trong hòa bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng ... Cán bộ và chiến sỹ thương yêu nhau như ruột thịt, chia sẻ ngọt bùi. Quân với dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau" (5).

Ngày 26-5-1946, lần đầu tiên, Người đưa ra khẩu hiệu sáu chữ vàng "Trung với nước, hiếu với dân" và ghi trên lá cờ trao tặng Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (trường đào tạo sĩ quan quân đội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa) nhân dịp khai giảng khóa I.

Đối với cán bộ cao cấp trong quân đội, Người dạy : "Tướng là kẻ giúp nước. Tướng giỏi (đủ cả : trí, tín, nhân, dũng, liêm) thì nước mạnh. Tướng xoàng thì nước hèn... Biết sức ta, biết sức địch thì trăm trận đều thắng. Biết sức ta, mà không biết sức địch thì 1 thắng 1 bại. Không biết ta, không biết địch thì trận nào cũng thua" (6). Trong quân đội, nhiệm vụ của người tướng là phải : "trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung ... Trung là trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng, với Đảng" (7).

Sáu chuẩn mực đạo đức đó, theo Người, mọi cán bộ quân sự đều phải có. Mỗi chuẩn mực ấy có nội dung riêng, nhưng tất cả đều liên hệ với nhau, trong đó chữ trung là nền tảng. "Trung với nước, hiếu với dân" đã tạo nên sức mạnh vô địch của quân đội ta, giúp quân đội ta vượt qua mọi khó khăn và đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Đối với công an nhân dân, ngay trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ bản chất của công an nhân dân : "Công an của ta là công an nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ và dựa vào dân mà làm việc" (8). Để làm rõ bản chất của người công an nhân dân, Người phân biệt công an ta với công an đế quốc : "Công an nhân dân hoàn toàn khác công an đế quốc. Công an đế quốc là nanh vuốt của đế quốc để hà hiếp, áp bức đa số nhân dân... chúng nó là bọn đầu trâu mặt ngựa... Công an nhân dân phải thực sự phục vụ nhân dân". Và Người khẳng định : "Làm công tác chính quyền, ở công an hay ở quân đội, đều là làm đầy tớ cho nhân dân cả, vì chính quyền dân chủ, có nghĩa là chính quyền do người dân làm chủ". Muốn hoàn thành nhiệm vụ của mình, công an nhân dân "phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Nếu không thế thì sẽ bị thất bại. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn" (9). Người yêu cầu công an phải nắm vững đường lối, thấu suốt chính sách của Đảng và Chính phủ, tuyệt đối trung thành với Đảng.

Hồ Chí Minh còn nêu lên sáu điều đạo đức, tư cách mà người công an cách mạng cần phải có và phải giữ cho đúng. Đó là :

"Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính

Đối với đồng sự, phải thân ái, giúp đỡ

Đối với chính phủ, phải tuyệt đối trung thành

Đối với nhân dân, phải kính trọng lễ phép

Đối với công việc, phải tận tụy

Đối với địch, phải kiên quyết, khôn khéo" (10).

Đối với thanh niên, Bác Hồ yêu cầu "Thanh niên phải luôn luôn rèn luyện đạo đức cách mạng... Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp" (11). Trong thư gửi thanh niên ngày 2-9-1965, Người căn dặn thanh niên : "Phải luôn nâng cao chí khí cách mạng "trung với nước, hiếu với dân" nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Không sợ gian khổ, hy sinh, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước" (12).

Đối với các thầy, cô giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn : "Thầy và trò phải luôn nêu cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho... Dù khó khăn gian khổ đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt" (13).

Đối với Đảng, Hồ Chí Minh cho rằng, để xứng đáng là người lãnh đạo, mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ và năng lực để làm tròn nhiệm vụ. Một trong những lời dạy quan trọng mà Người nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhất là từ khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, đó là : "Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".

Lãnh đạo nhân dân và làm người đầy tớ trung thành của nhân dân có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trên cơ sở thống nhất để thực hiện được đường lối, nhiệm vụ của Đảng. Lãnh đạo tốt mới làm người đầy tớ tốt. Bởi lẽ, có lãnh đạo tốt mới làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh. Nhiệm vụ làm người đầy tớ trung thành của nhân dân thể hiện trước hết ở chính ngay trong nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng. Đó là mục tiêu phấn đấu của Đảng, trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân, như Hồ Chí Minh đã từng nói : "Hễ còn một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ". Cho nên, Đảng vừa phải lo tính công việc lớn như phát triển kinh tế, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đồng thời lại phải luôn quan tâm đến đời sống hằng ngày của nhân dân.

Để xứng đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng phải vạch ra đường lối chủ trương, chính sách đúng đắn, đem lại lợi ích cho nhân dân. Mọi tổ chức Đảng, lãnh đạo các cấp phải luôn quan tâm đến đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, từ những việc nhỏ đến việc lớn, phải luôn ghi nhớ lời căn dặn của Người : "Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét thì Đảng và Chính phủ có lỗi ; nếu dân dốt thì Đảng và chính phủ có lỗi" (14). Trong Di chúc, Người còn căn dặn Đảng ta "cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân".

Thấm nhuần lời dạy của Người, trong giai đoạn cách mạng mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mỗi đảng viên và cán bộ thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Kinh nghiệm lịch sử của hằng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cũng như kinh nghiệm đấu tranh giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng Tổ quốc trong thời hiện đại đã khẳng định rằng đạo đức là một trong những nhân tố hàng đầu, có ý nghĩa sống còn đối với dân tộc Việt Nam chúng ta.

Để dựng nước và giữ nước trong điều kiện đất không rộng, người không đông, lại phải nhiều phen đấu tranh để lật đổ ách thống trị, có khi kéo dài cả ngàn năm, cũng như để đánh bại các cuộc xâm lược vũ trang, các âm mưu thôn tính, nô dịch của những kẻ thù lớn mạnh, giàu có hơn mình gấp bội, dân tộc ta phải thường xuyên phát huy đến tối đa các yếu tố tinh thần, chuyển hóa chúng thành sức mạnh vật chất để chiến thắng.

Đạo đức là một trong các yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh tinh thần của dân tộc ta. Cốt lõi của đạo đức truyền thống là lòng trung thành với Tổ quốc và dân tộc. Trong thời phong kiến, trung với nước thống nhất với trung với vua, tuy nhiên trung với vua là có điều kiện, điều kiện ấy là phải trung với nước. Tư tưởng đạo đức truyền thống của dân tộc ta đặt nước cao hơn vua, xoay quanh phạm trù "trung" với nội hàm như vậy và một loạt phạm trù khác thuộc hệ tư tưởng phong kiến. Các phạm trù đạo đức ấy được xác lập trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước gắn bó chặt chẽ với lòng thương dân và lòng nhân ái truyền thống qua các cuộc đấu tranh, thành văn hay không thành văn, bác bỏ các quan điểm tư tưởng phản đạo đức của bọn xâm lược và của bè lũ bán nước. Ngày nay chúng ta cần phải kế thừa những tinh hoa tư tưởng đạo đức truyền thống của dân tộc đồng thời hòa quyện với tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là nguồn sức mạnh tinh thần vĩ đại cho nhân dân ta làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thắng lợi, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Trong hơn mười lăm năm đổi mới, đường lối của Đảng đã đi vào cuộc sống, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện, đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân về vai trò lãnh đạo của Đảng, uy tín của Đảng được nâng cao.

Tuy nhiên, những mặt trái của kinh tế thị trường cũng tạo ra cơ hội cho những hiện tượng tiêu cực nảy sinh. Đó là nạn tham nhũng, buôn lậu bất chấp đạo lý và pháp luật để làm giàu bất chính. Sự biến chất của một số cán bộ, đảng viên đang làm giảm sút uy tín của Đảng, của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu trong nhân dân. Kinh tế thị trường kích thích chủ nghĩa cá nhân phát triển, không ít người vì lợi, quên nghĩa, coi đồng tiền là trên hết. Chủ nghĩa cá nhân thời kinh tế thị trường nối tiếp những biểu hiện xấu xa của chủ nghĩa cá nhân thời bao cấp cũ, gây nên tác hại to lớn và nghiêm trọng, nhất là nạn tham nhũng. Tham nhũng và tệ quan liêu đã trở thành một trong bốn nguy cơ của đất nước, là môi trường tốt cho các thế lực thù địch thực hiện "âm mưu diễn biến hòa bình".

Ngày nay, trên đất nước ta vẫn còn diễn ra cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu ; giữa cái thiện và cái ác ; giữa cái hợp pháp và cái phạm pháp ; giữa lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, thủy chung với lối sống thực dụng, dối trá ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền... Trong cuộc đấu tranh đó, đòi hỏi phải có đạo đức cách mạng mới thắng được.

Mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, của công cuộc đổi mới mà Đảng ta đề ra là "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Mục tiêu đó nằm trong lý tưởng cách mạng, lý tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, trong khẩu hiệu : "Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh" mà Người đã nêu lên, trong niềm tin của Người là thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng lại đất nước ta "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".

Trước đây, trong thời kỳ cả nước làm cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, giải phóng đất nước, cán bộ đảng viên và nhân dân ta phải thực hiện đạo đức cách mạng Trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm liêm chính ... thì ngày nay vẫn cần, thậm chí càng phải thực hiện đạo đức cách mạng đó. Bởi lẽ ngày nay, kẻ thù của nhân dân ta đang tìm mọi cách để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, biến nước ta thành một nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa bằng cách thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" rất tinh vi và nguy hiểm. Hơn bao giờ hết, cán bộ, đảng viên lại càng phải "Trung với nước, hiếu với dân", "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư"..., ra sức thực hiện "chống tham ô, chống lãng phí, chống quan liêu". Chúng ta phải thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc của Người "chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng" cho tất cả cán bộ, đảng viên, nhân dân, trong đó đặc biệt chú trọng đến thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí

Tiết kiệm là làm giảm bớt hao phí sức lực, của cải, thời gian, v.v... trong sản xuất hoặc sinh hoạt; tham ô là lợi dụng quyền hành hoặc chức trách để ăn cắp của công; lãng phí là làm tốn kém hao tổn một cách vô ích.

Những nội dung trên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích, khái quát từ những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám (1945), khi chính quyền dân chủ nhân dân non trẻ mới ra đời. Vì sao Người lại sớm quan tâm và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí? Đó là vì, tham ô, lãng phí vốn là căn bệnh "tứ chứng nan y" của mọi nhà nước. Dù nhà nước phong kiến, nhà nước tư bản hay nhà nước xã hội chủ nghĩa... nếu không có sự giáo dục sâu sắc và mọi hoạt động của nhà nước không được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân thì khó tránh khỏi tình trạng tham ô, lãng phí. Có một thời gian, có người ngộ nhận rằng, Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên không có tình trạng tham ô, lãng phí nghiêm trọng như ở các nước tư bản. Người ta quên cả những lời dạy, những biện pháp giáo dục, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh tệ tham ô, lãng phí... mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở và áp dụng ngay trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trong nhiều tác phẩm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không dừng lại ở sự phân tích hết sức sâu sắc về bản chất, tác hại của tệ tham ô, lãng phí, mà người còn chỉ rõ các nguyên nhân và kèm theo những biện pháp mạnh mẽ, kiên quyết chống tham ô, lãng phí và thực hành chính sách triệt để tiết kiệm.

Như thế náo là thực hành tiết kiệm?

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm rất nhất quán và đã được đặt ra ngay từ khi đất nước mới thoát khỏi ách kìm kẹp của thực dân, phong kiến: Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống. Đến khi miền Bắc được giải phóng (1954) Bác nhấn mạnh: Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là hai việc mấu chốt để khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, để cải thiện đời sống nhân dân, Bác căn dặn cán bộ, đảng viên phải nêu gương "cần, kiệm, liêm, chính" và luôn có sự tính toán, cân nhắc thận trọng: khi nào không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu, khi có việc đáng làm, việc ích nước, lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc thì dù hao bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng. Như thế mới đúng là tiết kiệm, Bác quan niệm tiết kiệm một cách toàn diện, hoàn chỉnh: tiết kiệm của riêng, tiết kiệm của công. Nếu chỉ tiết kiệm của riêng mình còn của công thì phung phí là không đúng nghĩa.

Người luôn coi tiết kiệm là một quy luật, một phương pháp của một chế độ kinh tế, không phải chỉ đặt vấn đề tiết kiệm khi đất nước còn nghào mà ngay cả khi giàu có cũng phải thực hành tiết kiệm. Tư tưởng đó ngày nay càng được sáng tỏ. Ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển, thu nhập GDP bình quân đầu người khá cao vẫn đặt vấn đề tiết kiệm là quốc sách. Còn các nước đang phát triển, mức GDP bình quân đầu người thấp như ở nước ta theo tôi phải bình đặt tiết kiệm hơn một ngàn lần là quốc sách.

Tham ô là gì?

- Đứng về phía cán bộ mà nói tham ô là:

Ăn cắp của công làm của tư

Đục khoét của nhân dân

Ăn bớt của bộ đội

Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình, cũng là tham ô. Hay nói cách khác, tham ô, lãng phí tài sản của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân là hành động trộm cắp mà ai cũng phải thù ghét, phải từ bỏ.

Lãng phí là gì?

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì lãng phí bao gồm nhiều mặt: lãng phí sức lao động, lãng phí thời gian, lãng phí của cải vật chất, tài nguyên thiên nhiên của nhân dân, của đất nước. Lãng phí có thể do nhiều nguyên nhân: về trình độ non kém, thiếu kiến thức nghiệp vụ chuyên môn, độc đoán đưa ra những quyết định sai lầm gây tốn kém hàng chục, hàng trăm tỉ đồng công quỹ của Nhà nước hoặc do chủ ý "ném tiền qua cửa sổ", coi của công là "của chùa", ăn uống, biếu xén, tiêu xài xa hoa lãng phí. Để nhấn mạnh tính chất nghiêm trọng của tệ lãng phí, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Tham ô là trộm cướp. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô". Hơn nữa trong thực tế hiện nay có đẩy lùi được tệ tham ô, lãng phí trong các cơ quan nhà nước mới tạo cơ sở vận động nhân dân thực hành tiết kiệm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không những làm rõ khái niệm nội dung của tệ tham ô, lãng phí mà còn đi sâu phân tích những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh này.

Nguyên nhân sâu xa, bao trùm nhất, đó là chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Chủ nghĩa cá nhân như một thứ vi trùng rất độc, nảy sinh ra các bệnh nguy hiểm như lười biếng, ngại gian khổ, khó khăn, tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành, tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa... Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tích tổ chức, tích kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm.

Bệnh quan liêu là nguồn gốc sinh ra tệ nạn tham ô, lãng phí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Có tham ô, lãng phí là vì bệnh quan liêu. Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, bộ đội và Chính phủ. Nó là kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang súng và nằm trong các tổ chức của ta để làm hỏng công việc của ta, làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí vượt khó của cán bộ ta, phá hoại đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính... Nó là một thứ giặc trong lòng, "giặc nội xâm"...

Bệnh quan liêu hình thành từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và gắn với một cấu trúc thượng tầng cồng kềnh, hình thức, với một đội ngũ công chức vốn quen sống bao cấp, phần lớn nói nhiều hơn làm, kém kiến thức và năng lực hành động thực tế. Tầng lớp quan liêu chỉ quan tâm đến lợi ích riêng, tạo ra và tìm ra cách hưởng đặc quyền đặc lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Vì những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí". Tầng lớp quan liêu đã làm "tha hóa" bộ máy nhà nước, biến nó từ chỗ sinh ra để gánh vác việc chung "cho dân" "làm công bộc cho dân", vì lợi ích của nhân dân, trở thành bộ máy đứng trên dân, thoát ly nhân dân, đục khoét của nhân dân và trong trường hợp cụ thể có nơi, có lúc họ còn đối lập với nhân dân. Vì vậy: "Chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng qun trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị".

Tham ô, lãng phí còn do trình độ hiểu biết, trình độ văn hóa và trình độ tổ chức quản lý nhà nước yếu kém. Vấn đề này đã được Chủ tịch Hồ Chí minh nhắc nhở từ lâu. Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đừng tưởng mình ở cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi, coi khinh nhân dân, cứ lúc nào cũng vác mặt "quan cách mệnh". Họ tự cho mình cái gì cũng giỏi. Họ xa rời quần chúng và chỉ muốn làm thầy quần chúng. Nói chuyện với cán bộ, đảng viên, Bác nhắc nhở mọi người phải ghi nhớ và làm theo câu nói của Lê-nin là "học, học nữa, học mãi". Cán bộ ở cấp càng cao càng phải học nhiều, học văn hóa, học chuyên môn, học đạo đức, học cách cư xử và cách sống làm người... Do trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, trình độ khoa học kỹ thuật thấp, thiếu hiểu biết thực tiễn, quen chỉ đạo, giáo huấn chung chung lại không chịu rèn luyện tu dưỡng nên một số cán bộ, đảng viên đã rơi vào tình trạng tham ô, lãng phí, suy thoái phẩm chất đạo đức... gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.

Từ những nguyên nhân cơ bản như đã trình bày ở trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biện pháp chống tham ô, lãng phí và thực hành tiết kiệm.

- Muốn chống tham ô, lãng phí và thực hành tiết kiệm trước hết và quan trọng nhất là phải chống chủ nghĩa cá nhân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm chăm lo đến lợi ích cá nhân của mọi người. Bác nói: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là "giày xéo lên lợi ích cá nhân". Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình". Bác khuyên dạy cán bộ, đảng viên, quân đội... không xâm phạm cái kim sợi chỉ của dân, lên án những cán bộ, đảng viên nặng đầu óc cá nhân chủ nghĩa, chỉ biết chăm lo thu vén cho bản thân mình, không quan tâm đến lợi ích của tập thể cộng đồng và của những người xung quanh mình.

Nhìn chung, trên thế giới ngày nay chủ nghĩa cá nhân ở nước nào cũng mang bản chất giống nhau là chỉ vì lợi ích của bản thân mình, không quan tâm đến lợi ích của người khác, thậm chí còn hại người để lợi mình. Nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế chủ yếu sản xuất nhỏ, kém phát triển do đó, sự biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân cũng có sắc thái riêng. Nét tiêu biểu của chủ nghĩa cá nhân trong xã hội ta hiện nay là, chạy theo dòng xoáy của đồng tiền, ham muốn vật chất, ham chuộng hư vinh, quyền vị, độc đoán chuyên quyền, tự cao, tự đại, giả nhân giả nghĩa, coi khinh quần chúng lao động. Một số cán bộ, đảng viên mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa thì sinh ra cơ hội, tham nhũng, khi chưa có địa vị thì dùng mọi thủ đoạn, cố chen lấn để có địa vị, khi có rồi thì tìm mọi cách lôi bè kéo cánh để củng cố vị trí cao hơn. Những người mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa thường thổi phồng những việc làm của cá nhân, lấy của công để phục vụ cho việc khuyếch trương thanh thế cá nhân, mạo danh thành tích, nịnh cấp trên, lòe cấp dưới, công thần vỗ ngực khoe khoang, ưa người khác khen, thù ghét, định kiến với người thẳng thắn phê phán khuyết điểm của mình.

Chủ nghĩa cá nhân rất nguy hiểm cho cách mạng, cho nhân dân. Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏ rõ tinh thần đấu tranh không khoan nhượng: phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong bộ máy của Đảng, của Nhà nước thì Đảng mới thực sự trong sạch và vững mạnh, mới giành được sự tin yêu thực sự của nhân dân. Trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường hiện nay, chủ nghĩa cá nhân đang nấp dưới nhiều hình thức tinh vi và xảo quyệt. Muốn chống nó, chúng ta không thể chỉ dừng lại ở những quan điểm nhận thức chung chung, cũng không thể do ý muốn chủ quan hô hào vứt bỏ chủ nghĩa cá nhân là nó sẽ biến mất. Vấn đề quan trọng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: công khai và mạnh dạn gạt bỏ cho thật sạch các ung nhọt ấy thì thân thể càng khỏe mạnh. Và: "Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật". Điều đó có nghĩa là Đảng phải thực hành kỷ luật nghiêm minh, Nhà nước phải có thể chế cụ thể, rõ ràng và quan trọng hơn là phải biết dựa vào lực lượng quần chúng đấu tranh, phê bình, giáo dục và xử lý nghiêm minh những cán bộ đảng viên mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa, tham ô, lãng phí gây nguy hại cho Đảng, cho Nhà nước, cho nhân dân.

- Muốn chống tham ô, lãng phí và thực hành tiết kiệm phải phát huy quyền làm chủ tối đa của nhân dân, phải biết dựa vào dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng. Thực hiện dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn.

Phát huy quyền dân chủ của nhân dân dưới hai hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp:

Thực hiện dân chủ gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện thì trước hết phải làm cho các cơ quan đại diện nhân dân như: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp... thật sự là cơ quan quyền lực của nhân dân. Những người nằm trong các cơ quan này phải thực sự là người tiêu biểu cho lợi ích của đa số nhân dân lao động mà đề xướng những vấn đề thực sự có lợi cho dân, cho nước. Muốn vậy trước hết họ phải là người có đạo đức, có trí tuệ, am hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân, dám phát biểu những chính kiến của mình, chứ đó quyết không phải là những ông "nghị gật". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Nhà nước ta ngày nay là nhà nước của tất cả mọi người lao động. Trong bất cứ trường hợp nào, sự tách rời giữa bộ máy nhà nước với nhân dân, tách rời quyền lực chấp hành, thực hiện với quyền lực của nhân dân đều đưa đến kết quả là nhà nước ngày một xa dân, và trở thành nhà nước quan liêu mà như trên đã nói quan liêu là nguồn gốc sinh ra bệnh tham ô, lãng phí... Hình thức dân chủ gián tiếp chỉ thực sự được thực hiện trên cơ sở bảo đảm vai trò, vị trí và thực quyền của các cơ quan quyền lực của nhân dân; xác lập một cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự kiểm tra giám sát có hiệu lực của nhân dân.

Bên cạnh hình thức dân chủ gián tiếp cần mở rộng hình thức dân chủ trực tiếp để thu hút đông đảo nhân dân tham gia trực tiếp vào việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Chỉ khi nào toàn thể nhân dân đều tham gia vào quản lý thì khi ấy mới có thể đã phá tận gốc chủ nghĩa quan liêu. Trên thực tế, nếu các cơ quan nhà nước thực hiện nghiêm chỉnh và đồng bộ phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" cũng là một biện pháp chống chủ nghĩa quan liêu, chống tham ô lãng phí một cách tích cực, có hiệu quả.

- Tiếp tục hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ. Hướng tới việc hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: nhà nước đó phải thể hiện và thực hiện trên thực tế quyền lực của nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân; thực hiện dân chủ hóa, công khai hóa sự quản lý của nhà nước. Việc hoàn thiện bộ máy quản lý gọn, nhẹ, có hiệu lực, bảo đảm cho bộ máy đó phải đi sâu đi sát thực tế, gắn quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tất cả niềm tin vào nhân dân. Nhân dân là tất cả, sức mạnh đoàn kết của nhân dân là tất thắng. Từ quan điểm đó, mặc dù khi đất nước ta còn nằm trong màn đêm của chủ nghĩa thực dân Pháp, Bác đã nhìn thấy trước và khẳng định rằng: "Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến". Và Bác nói: "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc". Sau khi đã giành được chính quyền cách mạng Bác khuyên bảo cán bộ, đảng viên đừng: "Cậy thế mình ở trong ban này, ban nọ, rồi ngang tàng muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân". Theo quan điểm của Bác, những cán bộ, đảng viên nằm trong bộ máy nhà nước nếu: là đầy tớ thì phải trung thành, tận tuỵ, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ... Nếu là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi người trí, trọng dụng người tài... Như vậy, để làm người thay mặt dân phải gồm đủ đức và tài, vừa "hiền" lại vừa "minh". Muốn có được những đức tính này đòi hỏi người cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện phấn đấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".

Vấn đề đào tạo và rèn luyện cán bộ phải trên qua điểm toàn diện: đức, trí, lao động, thể, mỹ... Phải tạo ra những con người có lối sống lành mạnh, giản dị, phong cách làm việc khoa học, trung thực, hết lòng vì nước, vì dân. Vì như Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: cán bộ là "tiền vốn" của đoàn thể, có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công việc gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt sẽ hỏng việc, tức là lỗ vốn. Huấn luyện cán bộ là công việc "gốc" của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Nhìn vào thực tế tình trạng tham ô, lãng phí ngày nay chúng ta càng thấy những lời dạy bảo của Bác là vô cùng sâu sắc và hết sức quý báu. Chúng ta mong rằng các cơ quan có trách nhiệm của Đảng và Nhà nước ngày càng thực hiện tốt hơn những lời dạy nghiêm túc và chí tình chí lý của Người về thực hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh "cần, kiệm, liêm,chính, chí công vô tư" trong tình hình hiện nay

(ĐCSVN) - Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức truyền thống của phương Đông, được ông cha ta đặc biệt coi trọng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dùng những khái niệm đạo đức truyền thống, nhưng lược bỏ đi những nội dung đã lạc hậu, giữ lại những gì tốt đẹp và thêm vào những nội dung mới phù hợp với thời đại.

Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính, là bốn đức cơ bản của con người. Bác nói: Trời có 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông; Đất có 4 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc; Người có 4 đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính; Thiếu một mùa, không thành trời; Thiếu một phương, không thành đất; Thiếu một đức, không thành người. Như vậy đạo đức là một vấn đề cực kỳ quan trọng đối với con người.

Người giải thích nội dung cần, kiệm, liêm, chính rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ. Mặc dù bận trăm công nghìn việc, song Người đã dành thời gian viết hẳn một cuốn sách giải thích 4 chữ "Cần, kiệm, liêm, chính", với bút danh Lê Quyết Thắng vào năm 1949.

Cần: Người phân tích cả nghĩa rộng, nghĩa hẹp. Chỉ ra rằng cần không chỉ là cần cù, siêng năng, chăm chỉ, dẻo dai, mà còn là phải biết làm việc có kế hoạch, có sự phân công, tính toán một cách khoa học, là phải biết lao động có năng suất cao, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động. Vì xét cho đến cùng, như Lênin nói, cái quyết định thắng lợi của chế độ mới đối với chế độ cũ là ở chỗ nó đưa ra được năng suất lao động mới cao hơn.

Đối với cán bộ công nhân viên chức, Người cho rằng: Cần là làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến muộn, về sớm, làm việc mau chóng, chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để đến ngày mai. Phải nhớ rằng dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta, trong những thời giờ đó, ai lười biếng tức là lừa gạt dân.

Nhìn trên tầm vĩ mô, cả nước cần cù siêng năng có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Mỗi người siêng năng thì ắt sẽ tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc chắn ấm no. Cả làng siêng năng thì làm phồn thịnh. Cả nước cần cù siêng năng thì dân giàu nước mạnh.

Theo Hồ Chí Minh, cần cù, siêng năng phải đi liền với kế hoạch thì cần cù, siêng năng mới có tác dụng to lớn. Công việc bất kỳ to nhỏ đều có điều nên làm trước, điều nên làm sau. Nếu không có kế hoạch, thì sẽ hao tổn thì giờ, mất công nhiều mà kết quả ít.

Cần và chuyên phải đi đôi với nhau. Chuyên nghĩa là dẻo dai bền bỉ. Nếu không chuyên, nếu một ngày cần mà 10 ngày không cần thì cũng vô ích... cần là luôn luôn cố gắng, chăm chỉ, cả năm, cả đời. Nhưng không làm quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình để làm việc cho lâu dài.

Kiệm: được hiểu, đó chính là sự tiết kiệm: Tức là tiết kiệm sức lao động; tiết kiệm thì giờ; tiết kiệm tiền của dân, của đất nước, của ngay cả chính mình; phải biết tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Tiết kiệm thì phải kiên quyết chống xa xỉ, ăn chơi, ăn không ngồi rồi, mà hãy tự mình lo chính cuộc sống của mình và xã hội v.v...

Liêm: Tức là trong sạch; không tham lam, không tham tiền của, địa vị, lợi danh, không tham ăn ngon, mặc đẹp, sống yên, không ham người tâng bốc mình... những cán bộ ở các công sở, từ xã, phường cho đến Trung ương phải luôn lấy chữ Liêm làm đầu.

Khổng tử nói: "Làm sỹ mà không liêm không bằng con vật".

Bác nói: "Liêm là thước đo có tình người hay không"; "Nếu tham tiền của, địa vị, danh tiếng là bất liêm". Cán bộ phải thực hành - chữ liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân "Quan tham vì dân dại" bởi lẽ nếu dân hiểu biết không chịu đút lót, thì quan dù không liêm cũng phải hoá liêm. Chính vì thế dân phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ liêm. Mỗi người phải nhận thấy rằng tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước với dân. Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ.

Thực tiễn trong cuộc sống hôm nay chúng ta đã mất những cán bộ cách mạng đã từng vào sinh ra tử, chỉ vì một chốc lát họ không làm chủ bản thân đã đánh mất chữ liêm trong lòng mình.

Chính: là không tà, thẳng thắn, đúng đắn v.v... đều là những đức tính cần thiết cho con người, mỗi gia đình, mỗi tập thể, mỗi cơ quan, địa phương cũng như của cả dân tộc. Là người làm việc công, phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn, mà kéo vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình. Phải trung thành với chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm "quan cách mệnh".

Theo Hồ Chí Minh mỗi người cần thực hiện đạo đức trên 3 mặt:

Đối với mình: Không tự cao tự đại, vì tự cao tự đại thì thất bại. Thất bại vì kiêu ngạo vừa cạn lại bé như đĩa như chén, còn người khiêm tốn thì rộng lại sâu như biển như sông.

Đối với người: Không nịnh trên nạt dưới, vì nịnh hót là đánh mất mình, mà đánh mất mình là sai lầm lớn nhất của đời người; vì đối với loài người, lễ vật lớn nhất là sự bao dung.

Đối với công việc: Không dối trá lọc lừa, vì dối trá lọc lừa cũng như "tiền giả", "thuốc độc" nó vô cùng nguy hiểm. Việc công đặt trên việc tư. Việc thiện việc đúng dù nhỏ mấy cũng làm, khó mấy cũng làm, việc ác việc sai trái dù nhỏ mấy cũng tránh, lợi mấy cũng không làm.

Chí công vô tư: Có nghĩa là hết sức lo cho việc chung không màng tư lợi. Hết sức về sự công bằng, đặt lợi ích của tập thể, của Đảng, của cách mạng, của nhân dân, của Tổ quốc lên trên các lợi ích riêng tư. Thực hiện chí công vô tư cũng có nghĩa như thực hiện đạo đức, mình vì mọi người, mọi người vì mình, theo tinh thần của chủ nghĩa tập thể.

Hồ Chí Minh đã nêu ra một quan điểm cơ bản là: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bởi vì, theo người: Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ thù nguy hiểm của đạo đức cách mạng XHCN. "Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng CNXH. Cho nên thắng lợi của CNXH không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ gian ngoan, xảo quyệt, nó khéo léo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là nguyên nhân sinh ra căn bệnh tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tự kiêu, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, mệnh lệnh v.v...

Một người mà cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư thì đó là một con người đáng kính. Vì đó là những người: "Giàu sang không thể quyến rũ; nghèo khó không thể chuyển lay; uy vũ không thể khuất phục".

Đó là những con người trọng đạo lý, vì đạo lý, tôn thờ đạo lý, vì lẽ công bằng, không khuất phục quyền uy. "Trợn mắt coi khinh ngàn lực sĩ; cúi đầu làm ngựa đám nhi đồng".

Khi nghiên cứu Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư chúng ta thấy lung linh chữ Nhân của Hồ Chí Minh.

Chữ Nhân theo Hồ Chí Minh được hiểu:

"Trung với nước hiếu với dân là Nhân; cần, kiệm, liêm, chính là Nhân; yêu Tổ quốc yêu đồng bào là Nhân; Nhân là phải đồng cam cộng khổ; Nhân là phải yêu quí săn sóc bộ đội và nhân dân; Nhân với cả kẻ thù v.v...

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, cơ bản kinh tế - xã hội đất nước trong những năm qua được ổn định, giữ vững và phát triển. Tuy nhiên do tác động tiêu cực trong quá trình mở cửa, hội nhập đổi mới đất nước, nên thực tiễn xã hội nước ta vẫn đang tồn tại một số hạn chế khuyết điểm. Nếu soi trong góc độ đạo đức xã hội thì chúng ta có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức - Đây là cơ hội cho kẻ thù khoét sâu để chống phá hòng làm giảm uy tín của Đảng, Nhà nước ta với nhân dân.

Bởi vậy, việc nâng cao giáo dục đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tình hình hiện nay là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Vì vậy cần phải tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên; đồng thời xây dựng chỉnh đốn Đảng cốt nhằm cho Đảng luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong thời kỳ mới. Đặc biệt nâng cao bản lĩnh chính trị, khả năng trí tuệ, năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên. Đồng thời nắm vững và có khả năng vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Hiểu rõ những vấn đề cơ bản về quản lý kinh tế, xã hội. Đồng thời xây dựng ý chí cách mạng cao, rèn luyện đạo đức cách mạng theo Di chúc và gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh.

Xây dựng lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác; sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Cổ nhân thường nói: "Danh chính thì ngôn thuận" xem xét từ chức trách, nhiệm vụ của cá nhân mỗi người. Đối với mỗi chúng ta, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là xử lý mối quan hệ hằng ngày "mình đối với mình", tức là bản thân mình làm đối tượng. Những tiêu chí này gắn liền với hoạt động thực tiễn hàng ngày mà chúng ta là cái thấy được của đạo đức. Nó cần trước cho bản thân mình, gia đình mình. Vì nó làm cho tâm ta sáng, lòng ta trong lời ta thanh. Vì ai cũng để Nhân để Đức lại cho con cháu. Chúc cho tất cả chúng ta, ai cũng dành cho con cháu nhiều Nhân nhiều Đức. Chúc cho tất cả chúng ta ai cũng Chí công vô tư./.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #truyện