Chương 5: Nuôi trò họa nhạc đã mười lăm
Phần I: Châu Mùa
Chương 5: Nuôi trò họa nhạc đã mười lăm
Ai nhung nhớ hoài màu nắng hạ
Vào thuở trăng tròn dạ thầm thương
Đông rồi cũng vướng tơ vương
Hạ rồi cũng vướng đoạn đường năm nao
-----
Giữa tháng bảy, lúa gieo từ tháng tư đã ngậm sữa, sắc xanh trên đồng dần nhạt đi mấy phần. Trên con đê đắp ngang từng thửa ruộng, có những cô chú ngồi nghỉ ngơi sau một sớm chăm bón vất vả. Còn phía mảnh đất trống đằng xa, là sắp trẻ nghịch đùa cùng nhau, để mặc bầy trâu ăn cỏ. Khoảng trời làng quê hữu tình của nhà nông cứ vậy mà tròn.
Vũ Bích ngồi trong căn chồi lá, cặm cụi dạy lứa trẻ chăn trâu đang mày mò học chữ.
- Đối ngưu đàn cầm cũng tức là *đờn gẩy tai tru!
*đờn gẩy tai tru (Phương ngữ miền Trung): Đàn gảy tai trâu.
Vũ Bích từ tốn đáp lại câu hỏi của cậu nhóc ngồi ở vách chồi. "Đờn gẩy tai tru" là câu thành ngữ rất đỗi quen thuộc ở Trâm Khuyến, bởi nếp mắng la con cái của người dân. Tuy vậy, nhưng "đối ngưu đàn cầm" lại là một câu khá lạ, do nó thường xuất hiện trong sách chứ người dân không dùng, nên mấy đứa nhỏ mới hỏi.
Nghe xong lời giải, một đứa nhóc khác lại giơ tay:
- Đờn gẩy tai tru là mô ạ?
*mô (Phương ngữ miền Trung): sao
Vũ Bích nghe hỏi, cười khẽ:
- Con tru (1)nỏ nhận thức, nó chỉ biết những (2)cấy gần gũi với nó. (3)Rứa nên những thứ như tiếng đờn xa xỉ nỏ nằm trong nhận thức của nó, cho nên dù đờn cho nó những bài nhạc hay như rứa nào đi nữa cũng chả quan trọng đối với nó được! Hoặc là con biết chú Phương nỏ?
(1)Nỏ (Phương ngữ miền Trung): không.
(2)Cấy (Phương ngữ miền Trung): cái.
(3)Rứa (Phương ngư miền Trung): thế.
- Biết ạ!
- Hôm qua, chú Phương ngồi ở trên đồng đờn với mấy con tru là đờn gẩy tai tru đó!
*Lấy cảm hứng từ câu truyện "đàn gảy tai trâu".
- Nhưng cô Bích ơi! Anh La ảnh thổi sáo con tru nghe được ạ!
Tiếng đứa trẻ vừa dứt, bãi đất trống bên hông chồi vừa đúng lúc vang lên tiếng sáo. Sự chú ý của lớp nhỏ từ buổi học chữ cũng chuyển dời sang âm thanh kia. Vũ Bích lắc đầu ngao ngán, lấy cây roi đập lên bàn nhằm kéo sự chú ý của mấy đứa nhỏ lại rồi tiếp tục buổi dạy. Dần dà, tiếng trẻ đọc chữ hòa cùng tiếng sáo chiều tà, ru thửa ruộng ngậm sữa nương theo gió chiều ủ ê.
Giáng Danh Phương nhìn mấy con trâu bị nhốt trong chuồng chăm chú lắng nghe tiếng sáo, mặt mày nhăn nhó khó coi. Lão quay ra thằng học trò đứng cạnh, trong lòng chỉ muốn đạp cho nó té ruộng mới vừa dạ. Nhưng ngẩm lại, sau khi về phải giặc đồ cực quá, nên gắng kiềm chế bản thân. Thay vào đó, lão chuyển sang chửi thầm mấy con trâu chết dằm. Giáng Danh Phương là Tài nhân, tiếng đờn của lão không thể mua bằng tiền, phải may mắn lắm mới được nghe thế nhưng chúng chẳng biết thưởng thức gì sất! Tức hơn là thằng học trò được lão dạy nghề, suốt mười lăm năm trời ngoài vài câu nhạc tầm thường ra nó chẳng học được mô tê gì, vậy mà nó thổi có mấy câu sáo bọn trâu lại chăm chú đến lạ. Chúng làm cho lão tức đến mức nổ cả đom đóm mắt thế nhưng chẳng thay đổi được hiện thực gì cả.
Giáng Thanh La trông thấy thầy đang chứa một bụng khó chịu, không dám tỏ ý trêu chọc đến người, bèn nhanh chóng kết thúc bài nhạc đang thổi. Tiếng sáo cao vút của anh dần thấp xuống vài quãng, rồi kết thúc bằng âm trầm ấm nhẹ. Bài nhạc thổi cho trâu nghe vừa kết thúc thì mấy đứa nhỏ cũng hoàn thành buổi học. Chúng tràn vội đến chỗ Giáng Thanh La tít mắt khen tiếng sáo của anh.
Vũ Bích thu xếp mấy quyển sách xong xuôi rồi đi ra khỏi chồi, liếc thấy mấy nhỏ nháo nhào nhiều quá, bèn lên tiếng nhắc nhở chúng về nhà tránh bị cha mẹ mắng la.
Sau khi sấp nhỏ rời khỏi rồi, Vũ Bích bèn khoanh tay chỉ mặt hai thầy trò họ Giáng:
- *Iêm nói anh Phương với La, lúc iêm dạy mấy đứa nhỏ hai người đừng tụm lại phá iêm được nỏ? Iêm chả dạy được chi cả!
*Iêm, iêm (Phương ngữ miền Trung): Em.
Giáng Danh Phương không nhân nhượng, cũng khoanh tay:
- Rứa nỏ phải cô mới lấy tuôi ví von mấy câu thành ngữ đó mô?
- Ai bảo anh *mần mần chi rồi giờ anh nỏ cho nhắc chứ? Với lại iêm nhắc chớ có chê trách chi anh đâu mà phá iêm!
*Mần (Phương ngữ miền Trung): Làm.
- Ai bảo cô dạy học ở đây mần chi rồi la tuôi chứ? Tuôi đang dạy học trò chứ liên quan chi đến cô?
- Vậy thôi sẵn anh dạy mấy đứa luôn đi!
Giáng Danh Phương liếc mắt nhìn Vũ Bích, sau đó ngẩng cao đầu quay đi phía khác rồi rời đi mà chẳng nói lời nào. Giáng Thanh La hơi cười cười, cúi đầu tỏ ý tạm biệt rồi chạy theo thầy.
Sau trận chạy giặc và nhận trò của Giáng Danh Phương tại châu Hoán Đảo. Giáng Thanh La cũng tức là thằng Tí khi đó được lão đưa đến Kiếm Bạc nuôi dạy. Vốn cha của Giáng Danh Phương là thầy, cho nên lão cũng có một phần duyên với điều đó, nhưng lão chỉ dạy đờn cho Giáng Thanh La mà không dạy cái khác do lão biết mình không phù hợp. Cha của Giáng Danh Phương biết rõ điều đó hơn cả con mình, cho nên thay vì bắt con noi gương làm việc nó không thích, thì ông truyền dạy cho người quý trọng nó, cũng tức là học trò cưng của ông - Vũ Bích.
Vũ Bích là một đứa trẻ mồ côi mẹ, cha của cô ấy phải gà trống nuôi con. Do Giáng Duy Nhân cũng cùng chung một hoàn cảnh với cha của Vũ Bích, vì thế ông thương Vũ Bích cũng ngang ngửa con mình. Thấy Vũ Bích ham học, thế rồi dạy dỗ, đến khi ông mất thì nối nghề ông dạy lại lớp trẻ sau. Còn Giáng Danh Phương thì muốn làm gì sẽ làm đó, bởi có Vũ Bích đã giúp ông giữ nghề, Giáng Danh Phương không cần phải chịu gánh nghề cha.
Có lẽ bởi khi sống, ông Giáng Duy Nhân tốt tính. Vì thế cho nên sau khi ông mất, gia cang ông rất êm đềm. Mà đứa con trai của ông cũng không phải chịu khó khổ. Sau khi Giáng Duy Nhân mất, ngoại trừ Vũ Bích nối nghiệp, ông còn một đứa con trai nhận nuôi tên là Trần Thanh Tú. Trần Thanh Tú lúc nhỏ cha mẹ mất sớm, do nhà nghèo khó không có tiền chôn cất nên muốn bán mình để làm lễ cho cha mẹ, ông thấy thương nên mang về nuôi. Mà Trần Thanh Tú ở với ông dần dà cũng học được nhiều thứ. Giáng Danh Phương hiểu ý cha, nên không bao giờ nặng lời của người con nuôi này mà rất quan tâm đến cậu. Nên trong nhà không có tranh cãi hay tranh giành gì, còn cậu con trai kia chịu phần ơn, lẫn phần hiếu nên ở trong nhà lo phần khói hương cho Giáng Duy Nhân. Còn Giáng Danh Phương ấy à? Cứ ở nhà với học trò, sau đó thì dẫn đi đây đó vài hôm rồi lại về nhà. Chẳng gánh vác trọng trách gì sất, chỉ sống nốt phần đời còn lại một cách thư thả đến khó tin.
Người thì cũng có chuyện khó thành. Đúng là cuộc sống Giáng Danh Phương rất thư thả. Nhưng được cái này thì mất cái kia, Giáng Danh Phương mang danh con của người thầy có tiếng, thế mà lại không dạy được cậu học trò của lão. Suốt mười lăm năm nuôi dạy, cậu ta vẫn chẳng học được chút nghề gì của lão làm lão đau đầu bức tóc, đụng gà mắng chó làm xóm làng cũng nhứt đầu dùm cả Giáng Thanh La. Nhưng dù vậy cũng chẳng thay đổi được gì, Giáng Thanh La chỉ biết nghe đờn, sửa dây đờn chứ không đờn được gì cả. Đau đầu là thế, thế nhưng Giáng Danh Phương tuy thường bực bội, nhưng chưa từng quá lời với anh, cũng chưa từng có ý đuổi anh đi, dần rồi sau mười lăm năm, không một lời công nhận nhưng lại lờ mờ như người một nhà.
Giáng Danh Phương ngồi chồm hỗm trên cái chõng tre đặt trước cái chồi, nhìn ruộng lúa thơm, bảo với học trò:
- Tính ra thì ở Hoán Đảo cũng hết chiến tranh hai năm rồi. *Lịch năm tháng nước non cũng đang giữa tháng hai châu Mùa, chớp cái tháng ba ở đó cũng đến hội. Có muốn về quê chơi hội không?
*Lịch năm tháng nước non lấy cảm hứng từ hai cách tính lịch là âm lịch và dương lịch. Lịch của Tự Ngôn sẽ được tính theo dương lịch gồm 365, 366 ngày, còn lịch của một vài nước lẻ khác sẽ tính theo âm lịch gồm 360 ngày.
Năm đó, Giáng Thanh La tám tuổi, tuy chỉ tám tuổi nhưng anh vẫn có những phần kí ức đáng nhớ nhất định, dù chúng rất ít nhưng cũng đủ để anh hoài niệm về chúng. Trong kí ức năm tám tuổi đó của anh, Giáng Thanh La nhớ rất rõ cái tên bố mẹ đã đặt cho mình, nhớ rất kĩ người chị cứu mình lúc chạy giặc và còn nhớ đến cả mấy ngày đông đúc người qua lại trên chợ hay đường làng trong mấy ngày hội lớn.
Giáng Thanh La nghe thầy nhắc hội, lục lọi kí ức xem có ngày hội nào vào tháng ba không mất một lúc rồi hỏi:
- Ý thầy là lễ hội Hoán Đảo ạ?
Giáng Danh Phương uống hết tách trà rồi mới đáp:
- Ừ!
Lễ hội Hoán Đảo là một ngày lễ truyền thống của châu Hoán Đảo cũng tức là quê Giáng Thanh La, ngày ấy được hình thành nhằm để cúng ơn cho vị vua lập nước. Trong trí nhớ của Giáng Thanh La, hội này không đọng lại nhiều, bởi cậu ở với bố mẹ suốt, không dám đi chơi xa như đoàn người cúng lễ nên chỉ thấy đoàn người theo bước nhau đi thôi. Thật lòng thì anh cũng muốn đến đó xem thử ngày lễ ấy phải làm những gì, nhưng chỉ là lúc thấy lễ thôi. Còn bình thường thì không nhớ đến. Anh còn nghĩ đó là lễ trong châu nên người ở châu khác sẽ không biết, nào ngờ thầy cũng biết đến ngày này.
Nghĩ ngợi một lúc, Giáng Thanh La bèn cúi đầu dạ thưa:
- Dạ thưa thầy, con muốn ạ!
Con người ai rồi cũng phải có một lần nào đó nhớ quê hương. Giáng Danh Phương đi tương đối nhiều, trước đây do sợ bảo đi nhiều thì Thủy Diệp sẽ đi theo, thế nên ông mới bảo đã ngừng đi do Tự Ngôn phức tạp, nhưng sau này Thủy Diệp cũng đi khắp nơi theo lão rồi, cho nên chuyện đi nhiều trở thành chuyện bình thường với lão. Cũng chính vì đi nhiều và thường xa quê như thế nên Giáng Danh Phương hiểu được ít nhiều về nỗi nhớ nhà, nhớ quê dù chỉ đi chơi thôi.
Mười lăm năm trước, châu Hoán Đảo có chiến tranh, Giáng Danh Phương nhận Giáng Thanh La làm học trò, do sợ chiến tranh hiểm nguy nên mang cậu về Kiếm Bạc nuôi dạy. Lão biết Giáng Thanh La cũng nhớ quê và bố mẹ chứ, nhưng chiến tranh nơi đó mãi chẳng thấy kết thúc. Ba năm trước kết thúc nhưng nạn đói, dịch bệnh hoành hành, cho nên Giáng Danh Phương không thể đưa Giáng Thanh La về lại cố hương thăm được. Nay vừa nghe tin Hoán Đảo ngày nay đã yên ổn dần, thế là ngỏ ý muốn đưa Giáng Thanh La về thăm lại nơi bản thân được sinh ra cho thõa nỗi nhớ mong của anh.
-----
Năm đó, sau chuyến trải nghiệm giông tố do muốn thử đi xa của Thủy Diệp hoàn thành, hắn đã chạy hẳn về nhà mà không muốn đi đến một nơi nào khác nữa. Hắn công nhận luôn là do hắn sợ, có thể nói chúng là sự ám ảnh rất lớn dành cho hắn.
Thế nhưng được vài tháng sau đó, Thủy Diệp dần lấy lại được bình tĩnh, ngẩm nghĩ mấy hồi thì lại xách cái chân đi tiếp. Đi xong rồi lại về do ám ảnh, sau đó để thời gian làm dịu rồi lại đi. Dần dà thành một sở thích của hắn lúc nào không hay.
Tuy rằng Thủy Diệp hay đi, thế nhưng khác với Trình Phương bởi do ba mẹ cậu cũng đã mất, cậu phải lo chuyện nhà cửa nên thường ở nhà nhiều. Nếu có đi thì cũng không quá lâu do không ai trông nhà, sợ sẽ thiếu hương quả làm nhà cửa lạnh lẽo. Dù là vậy, nhưng đó chỉ là sợ thôi, Thủy Diệp vẫn đi khá thường xuyên. Có khi Trình Phương đi xa sẽ ghé nhà hắn hoặc không thì khi hắn xong việc và muốn đi đây đó thì ghé đến nhà lão trước rồi mới đi. Cứ vậy đó mà thoắt cái mười lăm năm.
Đầu tháng bảy, sau khi ổn định phần hương khói cho cha mẹ lẫn quản lí tôi tớ làm việc xong xuôi, thì Thủy Diệp nhanh chóng thu xếp đồ đạc ghé đến nhà Trình Phương ngay. Bởi vài hôm trước, hắn nhận được thư của Xuân Thủy với ý muốn rủ hắn đi uống *rượu Tài và hẹn gặp ở châu Mùa. Sẵn đó, Thủy Diệp nghe tin Trình Phương cũng ghé đến châu Mùa chơi hội, nên đến nhà Trình Phương để đi đến đảo cùng với lão luôn.
*Uống rượu Tài: Có hai nghĩa, một là tiệc mừng cho một người nào đó được vang Tài; một là buổi hội hợp cho những người vang Tài giao lưu trà rượu.
Mười lăm năm trước, Thủy Diệp không biết đường đi nước bước của Tự Ngôn, cho nên tìm đường rất gian khó do không biết lần đường gần mà đi. Còn bây giờ thì đã quen đường, nên hắn chỉ mất khoảng một tháng đi đường để đến nhà Trình Phương.
Nhắc về chuyến đi mười lăm năm trước, cái mà Thủy Diệp nhớ nhất đó là đoạn đường biển chông chênh làm hắn bị say sóng, tái mét mặt mũi. Nay do đã đi được nhiều, hắn được người ta mách cho vài cách chống say sóng, say thuyền dần rồi cũng quen. Bây giờ, thậm chí ở trên thuyền hẳn một hai tháng cũng chẳng khó khăn gì với hắn.
Đường bộ đến Kiếm Bạc thường khó đi do thành trì, núi hiểm, rừng nguy nên người ta thường đi đường sông đến đó. Bởi bây giờ Thủy Diệp đã quen với sông nước, cho nên đã quyết định đi nhờ thuyền đến đó.
Thủy Diệp trông sắc trời cũ dần buông rèm đón trăng. Thư thả ngồi trên thuyền cùng mâm trà bánh nhâm nhi. Bất chợt nhớ về những câu hò trưa nắng, bèn lấy cây đàn mang theo đệm vài điệu nhạc.
Nhân gian là một từ có hình nhưng lại nặng mang nhiều phần nghĩa từ thư sinh, học sĩ hay cả những người đã trải. Trong lòng bất kì ai, không nhắc đến nhưng họ đều có một phần gì đó hiểu về nó, dù nông hay sâu. Tiếng đờn nguyệt lả lướt giữa trời ảm đạm, nước nghe rồi dần hát theo từng âm vang. Đối với Thủy Diệp, định hình con nghĩa cho một từ nào đó là phép hiểu đời cạn nhất, vì thế hắn chưa bao giờ định hình nó mà chỉ đem những cái gần gũi nhất để người ta sẽ nhớ đến nó. Ví như là tiếng mẹ ru con giữa trưa nắng cháy da lưng.
Có lẽ nước cũng cảm nhận được như vậy, nên bóng trăng đang lên soi rọi mặt nước mới dịu dàng hòa cùng tiếng đờn nguyệt như thế. Trăng soi bóng nước, đờn soi bóng đời. Tiếng đờn đầy những thư thả, ngày càng thấm chặt từng thướt cảnh.
Tức cảnh sinh tình, Thủy Diệp vừa đờn, nàng lái thuyền cũng cất tiếng hò:
"Hò ơ ới ơi ới ơi,
*Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non..."
*Một câu hò mái nhì của Huế với lời thơ nổi tiếng của cụ Ưng Bình, nguyên câu hò rằng:
"Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non."
Giang Hà vừa xuôi mái chèo vừa hò trong tiếng đờn của Thủy Diệp, đưa một đêm trăng e lệ suốt khoảng trời.
Giang Hà là một cô thợ gốm đã vang Tài. Ở Tự Ngôn, người vang Tài và người thường chẳng khác gì cả. Họ vẫn sống, vẫn cười, vẫn khóc và vẫn biết rõ cái danh ấy không phải là thứ đáng để bỏ hết mọi người xung quanh ở phía sau. Giang Hà cũng thế, tuy chỉ mới mười chín tuổi, cũng không cao ngạo đến mức kiêu.
Thủy Diệp không quen Giang Hà dù là người cùng một nước, nhưng thằng học trò của Trình Phương quen cô nhóc này, thế là hai người được dịp cùng nhau xuôi dòng đến nhà Trình Phương. Tối nay, cả hai đờn hát dường như tạo nên một sự gần gũi rất êm lòng.
- Mà sao cháu với thằng nhóc khờ căm đó quen nhau nhỉ?
Thủy Diệp ngờ vực nhìn Giang Hà đang ngồi trên chiếc võng được buộc giữa hai vách mái thuyền, chợt thắc mắc về hai đứa, bèn hỏi. Tính tuổi tác thì cô nhóc này cũng có thể gọi hắn là anh, tại hắn cũng gọi Trình Phương như thế. Nhưng dù sao thì Trình Phương là thầy của Giáng Thanh La, nếu gọi bạn của hậu bối là em thì không phải lắm, bèn gọi là cháu.
- Tại con với anh La có duyên nên gặp nhau thôi! Với con cũng thích xuôi chèo đón đất, nên đưa anh với bác Phương về nhà sẵn đó thăm thú cũng vui.
Giọng nói của Giang Hà rất ngọt và êm tai, nên khá nịnh hảo cảm người nghe những lời cô nói. Thủy Diệp thầm khen giọng của cô bé này vài câu trong lòng. Thật ra thì Song Thanh là một nước chuyên hát ca diễn xướng, nên tiếng nói của người ở Song Thanh dễ nghe và ngọt là chuyện thường. Nhưng dù nó là chuyện thường, thì mỗi lần nghe giọng nói ấy cất lên Thủy Diệp cũng vẫn cảm thán từng câu từ một của người ta.
Nghĩ về giọng nói, Thủy Diệp lại lên tiếng:
- Tính ra con cũng gan! Ta mới nói một hai câu quen biết con đã cho ta đi nhờ, con không sợ chú là người xấu sao?
Giang Hà không giấu đi nét cười của bản thân mà đáp:
- Chú đi nhờ thuyền, chú biết bơi thì con nhảy sông, chú không biết bơi thì con đạp chú xuống sông thôi! Có chi phải sợ!
Thật ra ban đầu Giang Hà không tin người đi nhờ là Thủy Diệp. Chỉ do thấy người này nôn nóng gấp gáp vì trễ chuyến thuyền cuối tháng trăng tội nghiệp, sẵn đó Giang Hà thuận đường nên nảy ra ý tốt giúp đỡ. Cho đến khi ngồi lại nói chuyện với người này, cô mới biết hắn là Thủy Diệp. Mà khi biết hắn là Thủy Diệp thì tâm thế cô thoải mái hẳn, bởi trong lời kể của những người biết hắn, ai cũng xem trọng sự ngay thẳng của hắn, vì thế nên càng đáng tin hơn.
Thủy Diệp nhìn mặt nước, cười cười đáp lại:
- Thế con không sợ nếu con nhảy sông thì chú nhảy theo túm con sao?
- Vậy chú nhảy xuống sông trước đi!
Thủy Diệp nhấp vội ngụm trà, cười trừ. Giang Hà bèn nói:
- Con nghe những người biết chú hay kể là chú hay nói xóc óc người ta, nay chú hiền như thế này làm con khó mà tin lời người ta nói!
Thủy Diệp thấy cô bé còn nhỏ, chỉ cười mà không đáp lại. Thật ra thì xóc cô bé này không khó. Chỉ là nước sông sâu quá, lỡ bị quăng xuống thật thì khó mà nổi lên...
Ngày hôm sau, khi mặt trời qua trưa thì họ cũng đến Giao Phú sau một tháng đi dài. Trình Phương đã ở bến đò đợi Thủy Diệp từ sớm, vừa gặp hắn lão đã vội kéo lên bờ. Sau khi thấy Giang Hà lên bờ, thì bắt chuyện với cô bé trước:
- Con lên nhà nghỉ ngơi trước đi, nay thằng La nó đi chăn trâu chưa có về nên không có ra đón con được!
Cha của Giáng Danh Phương là thầy, nhưng ông không bán chữ mà chỉ dạy chữ thôi. Thế nên ngoại trừ dạy học, ông còn có thửa ruộng và mấy con trâu làm nghề chính đặng kiếm tiền chi tiêu. Sau này, ông ấy mất thì truyền lại chúng cho đứa con trai nuôi Trần Thanh Tú, bởi Giáng Danh Phương quá ham chơi nên không giỏi chuyện chăm ruộng đồng này. Dẫu là vậy, thế nhưng do chúng cũng là cơ ngơi trong nhà của lão Phương, lão muốn lơ thật rất khó, nên cũng thường xuyên phụ giúp đứa em trai nuôi.
Nói ra thì cũng tức, Giáng Danh Phương là dân đờn, xét về tài nghệ thì hơn hẳn Thủy Diệp, thế nhưng mỗi lần lão đờn mấy con trâu nó không có thèm nghe. Thế là lão giận rồi lão lơ luôn. Tưởng để cho chuyện êm, ai ngờ thằng học trò không biết đờn của lão thổi mấy câu sáo lại thu hút được mấy con trâu làm lão giận gấp chục lần nữa.
Giáng Thanh La cũng không biết mấy con trâu biết lựa nhạc, nên tính làm vui cho thầy anh thôi. Ai mà ngờ làm ông thầy tức càng thêm tức. Thế là cũng từ đó mà bị bắt chăn trâu cho lão. Dù sao thì tự làm tự chịu, dù có ý tốt thì vẫn phải chịu.
Giáng Danh Phương đưa Thủy Diệp và Giang Hà về nhà. Rồi bảo người làm nấu cho họ mâm cơm để lấy sức trước. Nói là người làm thế thôi, chứ cũng chỉ có hai người: một là cô họ không chồng không con ở trong nhà lo bếp núc; một là thằng tớ ham học phụ được việc gì thì phụ. Mấy lúc mà Giáng Danh Phương đi thì hai người đó sẽ phụ Trần Thanh Tú, đỡ đương cho cậu ta phần nào chứ không phải xa hoa nuôi ở đợ gì cả.
Thủy Diệp và Giang Hà ăn xong buổi cơm nhà thì Giáng Thanh La cũng vừa về. Sau khi lật đật chạy đi nốc cơm xong xuôi hết, rồi mới ra tiếp bạn. Đợt trước, hai thầy trò Giáng Danh Phương xuôi xẻo bị mất tiền, sau đó thì không về được, may nhờ có Giang Hà thương tình đưa về, nên từ đó biết nhau. Giáng Thanh La quý Giang Hà cũng bởi tính của cô bé này rất ngoan hiền, còn giỏi gian nên khi ở nhà hay rủ cô đến học chữ. Bởi nhà Giang Hà không phải nhà giàu có, mà chỉ là một nhà nghề bình thường, nên chuyện ăn học của cô người nhà không đề cao, vì thế cô không được đi học. Tuy vậy, Giang Hà lại thích được học chữ, nhưng cô biết ý mẹ cha nên không đòi hỏi. Khi quen được Giáng Thanh La biết chữ và thường dạy chữ cho cô làm cô rất thích điều đó, nên cứ rảnh rỗi là cô lại chèo thuyền từ xa đến để học chữ, dần rồi thành quen.
Thủy Diệp nhìn hai đứa hậu bối ngồi nói chuyện trời đất, chép miệng:
- Này Giáng huynh nên chuẩn bị tiền sính lễ sớm là vừa. Em thấy chừng sớm muộn gì cũng dính.
Giáng Danh Phương nhìn hai đứa nhỏ rồi kí đầu Thủy Diệp cái cốc:
- Ăn nói tào lao! Khi nào mi với Dạ Ngọc cưới thì tau tin!
Giáng Danh Phương không phản đối gì mấy chuyện yêu đương nhăn nhít. Nhưng hai đứa hậu bối đang là anh em thân thiết, sau này còn chưa biết thế nào mà nay gán ghép như thế. Ngoài làm tổn hại thanh danh của cả hai và gây khó xử khi nói chuyện với nhau ra thì chẳng có gì vui cả. Với lại Giáng Thanh La là con trai thì không sao, chứ Giang Hà là con gái, tổn hại đến danh tiết thì tương lai sao yên bề được.
- Em chưa vội, em còn đợi anh yên bề gia thất đã.
Thủy Diệp cười khoái chí sau khi Giáng Danh Phương nhăn nhó khó chịu. Giáng Danh Phương nay cũng năm mươi rồi, nằm ở nhóm lão rồi mà chẳng thấy bóng hồng nào bên cạnh. Thủy Diệp mới ba lăm thì lo lắng gì. Giáng Danh Phương chưa lấy vợ ngày nào thì Thủy Diệp còn thư thả ngày đó.
Giáng Danh Phương rất ngạo mạn, vì thế ăn nói không có êm tai nên khó lấy lòng người khác. Thế nên lão vẫn luôn một mình dù gia cảnh của lão rất đàng hoàng đoan chính. Thủy Diệp biết rõ điều này hơn ai hết, nên mỗi lần kháy đến là Giáng Danh Phương câm nín ngay. Dù sao thì càng nói lại càng quê, nên lão nín trước khi quê nhiều hơn ban đầu.
Nói chứ Giáng Danh Phương cũng vừa lòng với cuộc sống hiện tại. Tuổi tác đã lớn cũng không mong gì chuyện gia cang, với lão thì có thằng học trò với Thủy Diệp bầu bạn là đủ rồi. Nên không có cũng không sao... Bị nói kháy thì bực.
Giang Hà ở lại chơi được tầm năm ngày thì về lại Song Thanh. Bởi cô biết hai thầy trò Giáng Danh Phương chuẩn bị đi xa nên không có nán lại. Dù tốn hẳn một tháng đến nhà Giáng Thanh La chỉ để ở lại năm ngày đặng học chữ, nhưng Giang Hà không tiếc chi những ngày đi rồi về, bởi đối với cô nơi này như một ngôi nhà thứ hai của cô vậy. Cho nên mình về nhà mình thì dù xa bao lâu cô cũng không tiếc.
Sau khi tiễn Giang Hà đi xong thì ba người Thủy Diệp, Giáng Danh Phương và Giáng Thanh La cũng sửa soạn lên tàu đến châu Mùa thăm thú.
Sau khi chiến tranh châu Hoán Đảo và nạn đói kết thúc, bốn đất nước của châu Hoán Đảo đổi tên thành bốn mùa trong năm gồm: Xuân; Hạ; Thu và Đông. Cái tên châu Mùa cũng từ đó được đảo Ánh Sóng đặt nên để làm một cột mốc trên đảo.
Tuy nó được gọi là châu Mùa, nhưng với những người tha hương trong lúc chiến tranh thì họ vẫn gọi nơi đây là Hoán Đảo. Bởi do cái tên đó đã đi với họ từ những ngày chào đời cho đến khi thoát chết, nên người ta chỉ nhớ đến hai chữ Hoán Đảo.
Suốt đoạn đường biển đến châu Mùa, ba người cũng thường xuyên bắt gặp những con tàu chở khách khác. Cảm tưởng như một chuyến đi thăm thú, lại mang cảm giác về quê của những người nhớ nhà. Năm đó chiến tranh họ buột phải đi, nay đã yên ắng nên họ quay về chăm đất. Giáng Thanh La cũng quay về để thăm mảng non sông ngày trẻ thơ.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro