Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

tt

wLập phương Rubik (Khối Rubik hay đơn giản là Rubik) là một trò chơi giải đố cơ học được phát minh vào năm 1974 bởi giáo sư kiến trúc, điêu khắc gia người Hungary Ernő Rubik. Các tên gọi sai thường gặp của trò chơi này là Rubix, Rubic và Rubick.

Mỗi mặt của phiên bản này có 9 ô vuông và được sơn phủ một trong sáu màu khác nhau, thông thường là trắng, đỏ, vàng, cam, xanh lá cây và xanh dương. Bài toán bắt đầu bằng việc xáo trộn tất cả vị trí các ô vuông ở mỗi mặt, tức là các màu sắc xen kẽ nhau. Bài toán chỉ được giải quyết khi mà mỗi mặt của khối là một màu đồng nhất.

Có thể nói khối Rubik là một trong những loại đồ chơi bán chạy nhất thế giới. Riêng trong năm 2005, đã có khoảng 300.000.000 khối Rubik được bán ra[1].

Rubik hiện đại thường làm bằng nhựa, có bốn phiên bản chính là: 2×2×2 ("Khối bỏ túi"), 3×3×3 (Khối tiêu chuẩn), 4×4×4 ("Rubik báo thù") và 5×5×5 ("Rubik giáo sư"). Gần đây các khối lớn hơn đã xuất hiện trên thị trường như khối 6×6×6 và 7×7×7 (V-Cube 6 và V-Cube 7).

Từ khối Rubik tiêu chuẩn, người ta đã tạo ra các khối có dạng hình học khác như tứ diện (Pyraminx), bát diện (Skewb Diamond), khối 12 mặt (Megaminx) và khối 20 mặt (Dogic); hoặc các khối không lập phương như 2×3×4, 3×3×5, 1×2×3. Thậm chí hiện nay với máy tính, người ta đã có thể mô phỏng các khối Rubik trong không gian n chiều mà bình thường không thể tạo ra ngoài thực tế.

Quá trình phát triển[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1970, Larry Nichols tạo ra khối 2×2×2 "Trò chơi với các miếng có thể xoay theo khối", các khối được liên kết với nhau bằng nam châm và sáng tạo này đã được cấp bằng sáng chế 3 655 201 của Mỹ vào ngày 11 tháng 04 năm 1972.

Ngày 16 tháng 1 1971, Frank Fox được cấp bằng sáng chế của Anh số 1 344 259 cho "khối 3×3×3 hình cầu".

Bản tin Rubik của Ideal Toys trong các năm 1982, 1983

"Lập phương Ma thuật" được Ernő Rubik phát minh vào năm 1974 bằng sự đam mê hình học và nghiên cứu những mẫu dạng ba chiều. Rubik được cấp bằng sáng chế của Hungary số HU170062 vào năm 1975 nhưng không đăng ký phát minh này ở các nước khác. Lô hàng đầu tiên được sản xuất vào năm 1977 và được bán ở Budapest. Khối của Rubik được làm bằng cách gắn các mảnh nhựa rời với các khe có thể trượt trên nhau nên rẻ hơn thiết kế bằng nam châm của Nichols. Tháng 9 năm 1979, Ideal Toys ký hợp đồng để mang trò chơi này đến với các nước phương Tây, trò chơi ra mắt ở Luân Đôn, Paris, Nürnberg và New York trong tháng 1 và 2 năm 1980.

Sau đó ít lâu, nhà sản xuất quyết định đổi tên cho nó. Hai tên "The Gordian Knot" và "Inca Gold" được đề xuất, nhưng cuối cùng công ty quyết định lấy tên "Khối Rubik", và lô hàng đầu tiên được xuất khẩu từ Hungary vào tháng 5 năm 1980.

Tận dụng sự "cháy hàng" ban đầu của món đồ chơi này, nhiều sự bắt chước xuất hiện. Năm 1984, Larry Nichols thông qua Moleculon Research kiện Ideal Toys vì đã vi phạm bằng sáng chế số US3655201. Vụ kiện thành công với khối 2×2×2 nhưng thất bại với khối 3×3×3.

Một người Nhật tên Terutoshi Ishigi cũng nhận một bằng sáng chế của Nhật cho một cơ chế tương tự Rubik, trong khi bằng sáng chế của Rubik đang được duyệt (bằng sáng chế JP55-0081912 vào năm 1976, năm thứ 55 triều Showa). Vào thời gian này, Nhật cấp bằng sáng chế cho các công nghệ chưa được biết đến ở Nhật[2]. Do đó, phát minh của Ishigi được coi là độc lập với các phát minh trên.

Gần đây, nhà phát minh người Hy Lạp, Panagiotis Verdes đã nhận được bằng sáng chế cho phương thức sản xuất có thể tạo ra các khối Rubik lớn tới 11×11×11. Nó bao gồm những cơ chế cải tiến từ 3×3×3, 4×4×4 và 5×5×5 để có thể xoay nhanh hơn mà không bị vỡ như thiết kế hiện tại. Từ 19 tháng 6 năm 2008, các khối 5×5×5, 6×6×6 và 7×7×7 đã được bày bán trên thị trường. Ngoài ra còn có nhiều loại rubik khác như rubik hình tròn, rubik tam giác, rubik ma thuật, rubik kim cương, rubik đa chiều, v.v...

Các hình dạng không vuông đã đề cập được tạo ra bởi Mèffert's Puzzles, công ty do Uwe Mèffert sáng lập.

Cơ chế[sửa | sửa mã nguồn]

Rubik được tháo rời

Khối Rubik tiêu chuẩn có chiều dài mỗi cạnh 5,7 cm, được tạo thành từ 26 khối nhỏ hơn. Phần giữa của mỗi mặt trong 6 mặt chỉ là một hình vuông gắn với các cơ chế khung làm lõi, đóng vai trò khung sườn cho cách mảnh khác dựa vào và xoay quanh. Khối Rubik có thể được tháo ra dễ dàng, thường bằng cách xoay một mặt 45° và lắc một khối ở cạnh cho tới khi nó rời ra. Tính chất này thường được dùng để "giải" khối Rubik.

Ở các cạnh của khối Rubik, các mảnh có các màu khác nhau ở các mặt. Tuy nhiên không phải mọi tổ hợp màu đều có trên khối; như với khối Rubik tiêu chuẩn, mặt xanh lá đối diện với mặt xanh dương nên sẽ không có cạnh giáp xanh lá và xanh dương.

Trong số 1982 của tờ Scientific American, Douglas Hofstadter đã chỉ ra cách tô màu khối Rubik để làm nổi bật các cạnh thay vì các mặt như cách tô tiêu chuẩn. Tuy nhiên ý tưởng này hiện vẫn chưa được thương mại hóa.

Số hoán vị[sửa | sửa mã nguồn]

Một khối Rubik tiêu chuẩn (3×3×3) có thể có 8! cách sắp xếp các khối ở góc, 7 khối có thể được xoay tùy ý vì chiều của khối thứ 8 phụ thuộc 7 khối còn lại; tạo ra 3⁷ hoán vị. Các khối ở cạnh có 12!/2 hoán vị. Xem chiều của 1 khối ở cạnh là cố định, chiều của 11 khối có thể độc lập với nhau; tạo ra 2¹¹ hoán vị. Tổng cộng khối Rubik có:

{8! \times 3^7 \times \frac{12! \times 2^{11}}{2}} \approx 4.33 \times 10^{19}[3]

Tức 43.252.003.274.489.856.000, hay hơn bốn mươi ba tỷ tỷ, hoán vị khác nhau. Nói một cách hình tượng, khi coi mỗi khối Rubik tượng trưng cho một cách hoán vị và xếp liên tiếp các khối Rubik này (có kích thước tiêu chuẩn là 5,7 cm) thành một dãy thì dãy Rubik sẽ kéo dài xấp xỉ 261 năm ánh sáng. Nếu xếp sát nhau tạo thành một bề mặt (cong) thì số Rubik này sẽ phủ kín bề mặt Trái Đất 256 lần.

Con số trên chỉ mới là số các trạng thái có thể đạt tới bằng cách xoay các mặt. Nếu tính cả các trang thái có thể có do tháo rời khối Rubik và lắp lại thì con số lên đến:

{8! \times 3^8 \times 12! \times 2^{12}} \approx 5.19 \times 10^{20}

Hay 519.024.039.293.878.272.000 (519 tỷ tỷ) hoán vị hay 12 lần nhiều hơn. Mỗi hoán vị trong tập lớn hơn này có thể xoay về một trong 12 vị trí khác nhau (gọi là "quỹ đạo"). Lời giải bình thường của khối Rubik chính là một trong 12 vị trí này. Để có một khái niệm sâu hơn, xem thêm lý thuyết nhóm.

Tuy có nhiều khả năng nhưng bài toán thường chỉ được quảng cáo đến mức có "hàng tỷ" vị trí, để giảm áp lực tâm lý cho người chơi. Thực tế, đã có tuyên bố rằng mọi hoán vị có thể giải được của khối Rubik có thể được giải trong 22 bước hoặc ít hơn[4].

Cách giải[sửa | sửa mã nguồn]

Các cách giải chính[sửa | sửa mã nguồn]

Xem cách giải cụ thể cho khối 3×3×3 ở Wikibooks (tiếng Anh) How to solve the Rubik's Cube

Xem cách giải cụ thể cho khối n×n×n ở Wikibooks (tiếng Anh) How To Solve Any NxNxN Rubik's Cube

Có rất nhiều cách giải khác nhau đã được tìm ra. Cách giải thông dụng nhất do David Singmaster, một nhà toán học người Anh công bố trong cuốn Notes on Rubik's "Magic Cube" năm 1981[5]. Phương pháp này giải khối Rubik từng tầng một. Trong thực tế, phương pháp này có thể xoay được dưới 1 phút và vẫn phù hợp với người mới bắt đầu. Phương pháp này thường được dạy bằng hình ảnh cùng với hướng dẫn xoay từng bước. Về các phương pháp khác, xem phần thuật toán bên dưới.

Ghi bước đi[sửa | sửa mã nguồn]

Hầu hết các hướng dẫn giải đều dùng cách ghi chú của Singmaster, thường gọi là "Cách ghi chú Singmaster" hoặc "Ghi hướng xoay". Cách ghi chú này quy ước các mặt theo phương nhìn của người chơi và xoay theo chiều kim đồng hồ. Tính tương đối của các ghi chú này so với vị trí các mặt làm cho các lời giải linh hoạt hơn và có thể áp dụng được trong nhiều trường hợp tương tự nhau. Cách ghi chú này được dịch ra tiếng Việt như sau:

Mặt lưng (B)- Rubiks B.svg      Mặt dưới (D) - Rubiks D.svg    Mặt mặt (F) - Rubiks F.svg      Mặt trái (L) - Rubiks L.svg            Mặt phải (R) - Rubiks R.svg     Mặt trên (U) - Rubiks U.svg

Trong tiếng Anh, ký hiệu các mặt trên lần lượt là B - D - F - L - R - U. Khi các kí tự này được viết cùng với dấu nháy đơn ' nghĩa là xoay theo chiều ngược với hình vẽ (xoay ngược chiều kim đồng hồ). Ghi chú của các mặt có thể có một con số theo sau, đó là số lần phải quay mặt này. Ví dụ N2 nghĩa là quay mặt trên 2 lần (quay 180 độ).

Các cách ghi chú khác[sửa | sửa mã nguồn]

Thường dựa trên các ghi chú của Singmaster, với các khác biệt sau:

Dùng x, y, z để chỉ chiều quay theo 3 trục tọa độ thay vì ghi mặt;

Dùng "trái", "phải" để chỉ hướng quay thay vì dấu ';

Dùng +, -, ++, --,... để chỉ hướng quay và số lần quay.

Thuật toán[sửa | sửa mã nguồn]

Trong thuật ngữ của người chơi Rubik, một "thuật toán" (khái niệm này khác với thuật toán trong toán học) là một bộ các bước để thực hiện một công việc nào đó: chuyển từ trạng thái ban đầu đến trạng thái mong muốn. Các phương pháp giải khác nhau sử dụng các thuật toán khác nhau; với mỗi thuật toán cần nắm được công dụng và cách dùng.

Hầu hết thuật toán chỉ ảnh hưởng một phần nhỏ của khối mà không thay đổi các phần khác, chẳng hạn như xoay các khối ở góc, đổi vị trí các khối ở cạnh v.v. Một số thuật toán có tác dụng phụ làm thay đổi vị trí các mảnh khác lại thường đòi hỏi ít nước đi hơn và được dùng nhiều khi bắt đầu giải (chưa cần quan tâm tới vị trí các mảnh khác).

Thuật toán xoay nhanh[sửa | sửa mã nguồn]

Các thuật toán xoay nhanh được tạo ra để giải khối Rubik trong thời gian nhanh nhất có thể. Phương pháp thường dùng nhất được phát triển bởi Jessica Fridrich, là phương pháp giải theo từng lớp có kết hợp các bước so với phương pháp thông thường tuy nhiên đòi hỏi người sử dụng phải nhớ một lượng thuật toán khá lớn (120 thuật toán).

Một phương pháp khác được phát triển bởi Lars Petruss bao gồm việc giải một khối 2×2×2 rồi đến 2×2×3 và các cạnh được giải bởi một bộ thuật toán 3 bước, thường tránh được một thuật toán 32 bước về sau. Do đó phương pháp này được dùng trong các cuộc thi có tính số bước xoay.

Thuật toán căn bản[sửa | sửa mã nguồn]

Hầu hết các phương pháp giải chỉ cần 4 hoặc 5 thuật toán nhưng không hiệu quá, cần tới khoảng 100 lần xoay để giải, trong khi phương pháp của Fridrich chỉ cần khoảng 55 lần xoay.

Philip Marshall đã phát triển thêm phương pháp của Fridrich, cần 65 lần xoay tuy nhiên chỉ cần nhớ 2 thuật toán[6].

Phương pháp phát triển bởi Ryan Heise[7] không dạy cho người chơi một thuật toán nhất định mà chỉ ra các quy tắc của khối để người chơi suy luận; phương pháp này có thể giải khối Rubik trong khoảng 40 lần xoay.

Thuật toán tối ưu[sửa | sửa mã nguồn]

Các thuật toán giải bằng tay đã đề cập tuy dễ học nhưng kém hiệu quả. Từ khi trò chơi được phát minh đã có rất nhiều nỗ lực để tìm các cách giải nhanh hơn.

Năm 1982, David Singmaster và Alexander Frey đã dự đoán rằng số bước cần thiết để giải khối Rubik là "Khoảng dưới 20"

Năm 2007 Daniel Kunkle và Gene Cooperman dùng máy tính và các phương pháp tìm kiểm để cho thấy mọi cấu hình của khối 3×3×3 có thể được giải trong 26 bước[8][9]

Năm 2008, Tomas Rokicki giảm con số này xuống còn 22 bước[4][10]

Để giải rubik tối ưu khoảng trên dưới 20 bước các bạn có thể dùng phần mềm Cube Explorer 4.64.

Cách giải rubik tiêu chuẩn[sửa | sửa mã nguồn]

Bước 1:

Bạn phải quay đúng một mặt, nhưng phải quay đúng luật, nghĩa là khi quay xong 1 mặt thì sẽ hình thành tầng một xung quanh mặt vừa lắp đúng. Đầu tiên phải xoay được một hình chữ thập, sau đó nhét các ô đúng vào 4 góc. Tất cả đều có công thức: Quay tầng 3 của mặt đó về bên trái, cạnh bên phải lên trên. Sau đó quay trở lại: tầng 3 về bên phải, cạnh phải xuống dưới. Cứ làm liên tục như vậy cho tới khi được góc cùng màu trở về vị trí thích hợp

Bước 2:

Sau khi hoàn thành bước 1, bạn lật mặt kề mặt đúng,  tầng 2 bạn hãy để ý cái tâm, bạn phải quay sang phải hoặc trái để cho màu của tâm trùng với màu của tầng một. Sau khi tâm trùng với tầng 1, bạn lấy 1 mặt bất kì làm mặt chính (ngoại trừ mặt đối diện mặt làm đúng ở bước 1). Bạn lấy tầng 3 của mặt chính, quay về một phía sao cho đủ 2 điều kiện: điều kiện 1 là màu giữa tầng 3 mặt chính phải trùng với màu tâm mặt chính, điều kiện 2 là màu kề màu giữa tầng 3 < ở phía mặt dưới > trùng màu với tâm kế bên <phải trùng màu với màu tâm của mặt trái hoặc mặt phải mặt chính>.

Nếu trùng màu tâm mặt phải, công thức: giữ mặt chính, tầng 3 qua trái, cạnh bên phải mặt chính quay xuống, tầng 3 qua phải, cạnh bên phải mặt chính quay lên, tầng 3 qua phải, mặt chính qua phải, tầng 3 qua trái, mặt chính qua trái.

Nếu trùng màu tâm mặt trái, công thức: giữ mặt chính, tầng 3 qua phải, cạnh bên trái mặt chính quay xuống, tầng 3 qua trái, cạnh bên trái mặt chính quay lên, tầng 3 qua trái, mặt chính qua trái, tầng 3 qua phải, mặt chính qua phải.

Bước 3:

Đây là bước khó nhất trong các bước. Sau khi hoàn thành bước 2, bạn quay rubic xuống mặt đối diện mặt đúng ở bước 1 làm mặt chính, bạn nhìn vào 4 góc ở mặt chính, kiếm 2 góc hội tụ các điều kiện: 3 màu của góc phải trùng với 3 màu của 3 tâm gồm: tâm mặt chính, tâm 2 mặt có chứa góc, không nhất thiết 3 màu của góc phải nằm chính xác. Sau khi xác định hai góc hội tụ đủ các điều kiện trên, bạn hãy xác định mặt nào chứa  2 góc đó (nằm phía trên mặt chính) và lấy mặt đó làm mặt chính. Công thức: Mặt bên phải mặt chính quay xuống, tầng 3 quay qua trái, mặt bên phải mặt chính quay lên, mặt chính quay qua phải, tầng 3 quay qua trái (nếu trường hợp 2 góc hội tụ điều kiện thì đáy trái 2 lần), mặt chính quay qua trái, mặt bên phải mặt chính quay xuống, tầng 3 quay qua phải, mặt bên phải mặt chính quay lên, tầng 3 qua trái 2 lần. Sau khi quay xong, bạn lật mặt đáy, nhìn 4 góc, lúc này cả 4 góc sẽ đúng vị trí nhưng chưa hẳn chính xác. Bạn lật trở lại mặt chính vừa quay và thực hiện công thức: mặt bên phải mặt chính quay xuống, tầng 3 quay qua trái, mặt bên phải mặt chính quay lên, tầng 3 quay qua trái, mặt bên phải mặt chính quay xuống, tầng 3 quay qua trái 2 lần, mặt bên phải mặt chính quay lên, tầng 3 quay qua trái 2 lần. Lúc này góc phía dưới bên phải mặt chính (tức là màu nằm bên phải tầng 3 của mặt chính) sẽ trùng màu với tâm mặt chính (nếu không trùng thì cứ thực hiện công thức trên thêm 1 lần nữa) và màu bên phải màu trên sẽ trùng màu với tâm của mặt phải mặt chính. Lúc này ta lấy mặt phải mặt chính làm mặt chính và ta thực hiện công thức trên cho tới khi nào màu tầng 3 bên phải mặt chính phù hợp với điều kiện vừa rồi (có thể mặt chính sẽ đúng màu). Ta lật mặt đối mặt chính làm mặt chính thực hiện công thức trên và điều kiện cũng như trên.

Bước 4:

Đây là bước cuối cùng, bạn hãy chú ý mặt đáy của mặt chính ở bước 3, lúc này nó có thể xuất hiện các hình sau: chữ X, mũi tên, chữ H hoặc mặt đáy sẽ đúng màu.

Nếu là chữ X: Lấy mặt chính(mc) ở bước 3, thực hiện công thức: trái mc lên, phải mc lên, mc quay qua phải 1 cái, trái mc xuống, phải mc xuống, tầng 3 qua trái 2 cái, thực hiện 2 lần như thế. Lúc này mặt đáy mc sẽ ra hình mũi tên hoặc màu đúng

Nếu là mũi tên: Bạn hãy quan sát mặt đáy, quay mặt đáy về chiều 11h (tức chiều phía trên bên trái),lật lên và lấy mặt bên phải đầu mũi tên làm mặt chính, thực hiện công thức chữ X

Nếu mặt đáy đúng màu: Bạn hãy lấy màu bất kì trên mặt đáy làm mặt chính (nếu mặt nào màu đã đúng thì không lấy làm mc) và thực hiện công thức 10 bước: trái mc lên, phải mc lên, mc quay qua phải 1 cái, trái mc xuống, phải mc xuống, tầng 3 qua phải 1 cái, trái mc lên, phải mc lên, mc quay qua phải 1 cái, trái mc xuống, phải mc xuống, tầng 3 qua phải 1 cái, trái mc lên, phải mc lên, mc qua phải 2 cái, trái mc xuống, phải mc xuống, tầng 3 qua phải 1cái, thực hiện thêm 5 lần nữa(nhớ mc chỉ qua phải 1 cái),đếm bước 10 thì tầng 3 qua phải 2 cái.

Chữ H: bạn hãy lấy mặt trên hoặc dưới chữ H làm mc, thực hiện công thức chữ X, cho đến khi 1 trong 2 mặt hai bên chữ H đúng màu, lấy mặt đó làm mc, thực hiện công thức chữ X, thực hiện cho đến khi 2 mặt hai bên chữ H đúng màu hết. Khi đó ta lấy mặt trên hoặc dưới chữ H làm mc, thực hiện công thức 10 bước, lúc này khối rubik sẽ được hoàn thiện.

Thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]

Đã có rất nhiều cuộc thi xoay nhanh được tổ chức để tìm ra người có thể giải khối Rubik nhanh nhất. Số lượng các cuộc thi ngày càng gia tăng. Từ 2003 đến 2006 đã có 72 cuộc thi. Giải đấu đầu tiền được tổ chức bởi Guinness ở München ngày 13 tháng 3 năm 1981. Các khối Rubik được xoay 40 lần và được làm trơn bởi dầu. Người chiến thắng với thành tích 38 giây là Jury Froeschi, người München.

Vô địch thế giới[sửa | sửa mã nguồn]

Minh Thái là người thắng trong cuộc thi vô địch thế giới về xoay Rubik lần đầu tiên được tổ chức tại Budapest vào tháng 6 năm 1982 với thành tích 22,95 giây [11]. Lúc đó anh mới 16 tuổi và là học sinh trung học ở Los Angeles.

Từ năm 2003, điểm của các cuộc thi được tính theo thành tính tốt nhất trong 5 lần thử, tuy nhiên kết quả của mỗi lần đầu được ghi nhận. Liên đoàn Rubik thế giới chịu trách nhiệm theo dõi các thành tích tốt nhất. Kỷ lục thế giới hiện tại (2013) là 5,55 giây lập bởi Mats Valk (người Netherlands) tại giải Zonhoven Open 2013. Thành tích trung bình cao nhất thế giới thuộc về Feliks Zemdegs (người Úc), trung bình 6,54 giây (trung bình 5 lần: 6,91; 6,41; 6,25; 7,30; 6,31) tại giải Melbourne Cube Day 2013.[cần dẫn nguồn]

Các cuộc thi khác[sửa | sửa mã nguồn]

Ngoài giải xoay nhanh, một số hình thức thi đấu khác cũng được tổ chức bao gồm

Giải bịt mắt[12]

Giải đồng đội (một người bị bịt mắt và người còn lại hướng dẫn)

Giải dưới nước (giải trong một lần thở dưới nước)[13]

Giải một tay[14]

Giải bằng chân[15]

Trong đó, liên đoàn Rubik thế giới chỉ chính thức quản lý giải bịt mắt, một tay và giải chân[16].

Phần mềm[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện nay đã có rất nhiều phần mềm mô phỏng khối lập phương Rubik và nhiều chức năng khác. Chúng có thể rơi vào nhiều thể loại trong số các thể loại sau:

Tính giờ (ghi lại các thông số của người dùng khi chơi)

Giải (thường bao gồm cả tính năng xáo trộn khối trước khi chơi)

Minh họa (tạo ra hình minh họa từ bước đi)

Phân tích (đánh giá các bước đi của người dùng)

Hướng dẫn chơi

Các phần mềm này xử lý rất nhiều dạng Rubik khác ngoài 3×3×3, kể cả các dạng không thể xây dựng trong thực tế như Rubik 4 chiều và 5 chiều.

Hướng dẫn chơi rubik cơ bản

Rubik là 1 khối lập fương, có 6 mặt. Khối rubik cơ bản là loại 3x3x3, nghĩa là mỗi mặt sẽ có 9 ô.

Để giải khối rubik thì ko khó như nhiều bạn vẫn nghĩ, tất cả đều có công thức cả. Sau đây là bài hướng dẫn của mình tự viết, dựa theo cách mà bạn mình chỉ, chưa có hình ảnh cụ thể, toàn copy từ web khác thui nên có sai sót gì thì các bạn báo nhé  .

1/

- Đầu tiên, bạn cần phải nắm rõ 1 số khái niệm. Mình sẽ hướng dẫn tại đây, nếu bạn nào ko hỉu gì thì cứ comment, mình sẽ bổ sung sau. (trong phần hướng dẫn bên dưới, chữ nào mình in nghiên là có chú thích trên này đấy  ).

+Tâm: là cục ( tạm gọi như vậy) chỉ có 1 màu duy nhất, nằm ở giữa mỗi mặt của rubik.

+Cạnh: trong khối rubik có 12 cạnh, cạnh là những cục chỉ có 2 màu trên đó.

+Góc: mỗi khối rubik sẽ có 8 góc, như tên gọi của nó, nó chính là cục nằm ở góc và có 3 màu.

+Phía tay trái: khi mình nói phía tay trái nghĩa là nó sẽ nằm bên phía tay trái chứ ko xuất hiện ở mặt chính.

+Bên trái: bên trái ở đây khác phía tay trái ở chỗ bên trái nghĩa là nó vẫn nằm trên mặt chính.

2/

- Nếu mình ghi trong công thức là N thì bạn xoay mặt nắp 90 độ theo chiều kim đồng hồ(wa phải đóa) , nếu ghi là N' thì xoay mặt nắp 90 độ ngược chiều kim đồng hồ(wa trái), nếu ghi N2 nghĩa là bạn xoay mặt nắp 180 độ (xoay 2 lần qua bên nào cũng được).

- Tương tự cho các mặt khác :

+C(chính): xoay mặt C wa fải, C': wa trái, C2: xoay 2 lần;

+S(sau): wa fải, S': xoay mặt sau wa trái, S2: xoay 2 lần;

+T(trái): xoay cạnh trái lên, T': xoay xuống, T2(ko có trong công thức đâu  ) : xoay 2 lần.

+P(fải): xoay cạnh fải lên, P': xoay xuống, P2(cái này cũng ko có lun  ) : xoay 2 lần

+N(nắp): xoay mặt nắp qua phải, N': wa trái, N2: xoay 2 lần.

+D(đáy): xoay mặt đáy wa phải, D' wa trái, N2: xoay 2 lần.

Chú ý: mấy kái này chỉ là chú thích thêm cho mấy bạn xoay ko bị nhầm công thức, ko cần học thuộc, chỉ cần nhớ là xoay theo chiều kim đồng hồ là đc.

Bước 1 :

- Trước hết bạn fải chọn 1 tâm làm nắp, ở đây mình chọn màu xanh lá.

- Bạn fải làm sao cho 4 cục cạnh có màu nắp (ở VD này xanh lá/trắng, xanh lá/đỏ, xanh lá/cam, xanh lá/vàng) nằm vào đúng vị trí ban đầu của nó. Khi xong bước này thì mặt nắp sẽ có hình chữ thập ( + ) và sẽ có màu nối liền đến tâm . Nhìn những cạnh ở hình này bạn sẽ rõ ( chú ý là chỉ xem cạnh. Vì chưa có điều kiện, mình chỉ tìm được hình này dành cho cả bước 1 và 2  , các bạn thông cảm nhá):

- Cách làm thì bạn hãy tự tìm hiểu nhé  , ngùi mò chút sẽ tự tìm ra cách thui.

Đây là 1 cách đơn giản mà mình biết: chỉ cần bạn ko di chuyển mặt nắp. Mình sẽ lấy VD cạnh xanh lá/đỏ, bạn hãy tìm cách xoay cho mặt màu trắng của cạnh này nằm ở mặt đáy, sau đó bạn hãy xoay mặt đáy về đến tâm màu đỏ và xoay mặt đỏ 2 lần thì cạnh xanh lá/đỏ sẽ về đúng vị trí, tiếp tục làm cho các cạnh xanh lá/??? khác mà ko làm hỏng các mặt đã làm rồi ( bạn có thể xoay mặt làm rồi, nhưng nhớ là phải mang nó trả về chỗ cũ)..

Bước 2 :

- Mục tiêu: hoàn thành tầng 1.

- Ở bước này bạn fải làm sao cho các cục góc có màu nắp (ở VD này là màu xanh lá) (xanh lá/đỏ/vàng, xanh lá/đỏ/trắng, xanh lá/cam/vàng, xanh là/cam/trắng) về đúng vị trí ban đầu.

- Bạn hãy tìm các góc có màu nắp nằm ở tầng 3 và có màu trắng ở 1 trong các mặt bên (VD đỏ, cam, trắng, vàng).

- Xem màu nằm kề màu nắp ( bỏ qua màu ở mặt đáy, ko dùng đến) và xoay mặt đáy để màu nằm kề đó về đúng tâm.

- Sau đó hãy để mặt đó làm mặt chính, sẽ có 2 trường hợp:

+Góc có màu đáy lúc nãy sẽ nằm bên trái mặt đó, bạn hãy xoay công thức: Đ' C' Đ C.

+Góc có màu đáy lúc nãy sẽ nằm bên phải mặt đó, bạn hãy xoay công thức: Đ C Đ' C'.

- lặp đi lặp lại cho đến khi đạt đc mục tiêu 

- chú ý: bạn phải tự tìm cách để mang những góc có màu của mặt nắp xuống tầng 3 và thỏa điều kiện như trên thui, cái này ko thể chỉ đc.

Bước 3:

- Mục tiêu: hoàn thành tầng 2.

- Tìm 1 cạnh thỏa mãn điều kiện là cạnh đó nằm ở tầng 3 và ko có màu của tâm đáy (ở VD là màu vàng).

- Sau đó bạn hãy xoay mặt đáy cho đến khi tìm ra chữ "T", kết hợp cả điều trên thì ta sẽ ra đc dạng như hình sau( hình đầu) và bạn cũng sẽ có 2 trường hợp xảy ra:

+Cạnh màu xám sẽ nằm bên trái thì xoay công thức: Đ T Đ' T' Đ' C' Đ C.

+Cạnh màu xám sẽ nằm bên phải thì xoay công thức: Đ' P Đ P' Đ C Đ' C'.

- Còn nếu bạn thật sự gặp trường hợp xui xẻo thì hãy xem cái cạnh xui xẻo ấy như là cạnh màu xám ở hình dưới và xoay công thức.

- Làm cho đến khi xong tầng 2

Bước 4:

- Mục tiêu: làm đc hình chữ thập ở mặt đáy.

- Mình sẽ sắp xếp theo thứ tự từ khó đến dễ ( chỉ là do may mắn của bạn  )

- Đầu tiên sẽ bắt đầu từ trường hợp 3:

+Nếu gặp trường hợp 3 thì bạn hãy xoay công thức: P Đ' S Đ S' P'

- Sau khi xoay xong công thức thì sẽ xảy ra trường hợp 2:

+Lại tiếp tục xoay công thức trên: P Đ' S Đ S' P'.

- Sau khi xoay xong thì sẽ ra trường hợp 1:

+Xoay công thức trên lần nữa sẽ ra kết quả: P Đ' S Đ S' P'.

Chú ý: bạn phải chọn đúng mặt làm chính và xoay, Vd các trường hợp trên: ở trường hợp 3 thì bạn có thể chọn bất kì mặt nào xung quanh làm mặt chính. Trường hợp 2 thì bạn phải chọn mặt nằm trên cái đường thẳng ấy (trong VD là màu vàng hoặc trắng, vì màu trắng cũng có điều kiện tương tự). Trường hợp 1 thì bạn chỉ đc chọn 1 mặt làm chính mà thôi, phải chọn mặt chính nằm ở cạnh bên phải của "nửa chữ thập".

Chú ý: từ đây trở đi, sẽ ko còn các bước tự xoay nữa ( ko cần xoay để tìm góc hoặc cạnh có điều kiện phù hợp), mà tất cả chỉ còn là công thức thui, quan trọng là bạn có hiểu được chúng ko thui.

Bước 5:

- Mục tiêu: làm cho các cạnh ở mặt đáy về đúng vị trí.

- Bạn hãy xoay mặt đáy để tìm dạng chữ "T"(hơi bị niến dị  ), sẽ có 2 trường hợp là liên tục và đối diện. Nghĩa là nếu ko xảy ra trường hợp liên tục thì sẽ xảy ra trường hợp đối diện, bạn hãy xoay tầng 3 cho đến khi tìm ra đc 1 trong 2 trường hợp đó nhé  .

+Nếu là trường hợp đối diện thì bạn hãy để mặt có chữ "T" (1 trong 2) làm chính và xoay công thức: P Đ2 P' Đ P Đ P' .

- Sau khi bạn xoay công thức đối với trường hợp đối diện thì sẽ ra đc trường hợp liên tiếp.

+Nếu là trường hợp liên tiếp thì bạn phải đặt tất cả mặt có chữ "T" qua phía tay trái và xoay công thức : P Đ2 P' Đ P Đ P' Đ.

Bước 6:

- Mục tiêu: làm cho tất cả các góc về đúng vị trí.

- Sau khi hoàn thành bước 5, nếu bạn ko thấy góc đúng vị trí nhưng chưa đúng màu ( gọi tắt là góc gần đúng ) hoặc góc đúng vị trí và đúng màu (gọi tắt là góc đúng) thì hãy xoay công thức: T D T' D' P D T D' T' P'

- Khi bạn xoay xong công thức đó thì sẽ có ngay 1 góc gần đúng hoặc góc đúng.

- Hãy chọn mặt chính sao cho góc gần đúng hoặc góc đúng sang bên trái và xoay công thức: T D T' D' P D T D' T' P' .

- Nếu tất cả các góc chưa về đúng vị trí thì bạn hãy giữ nguyên mặt chính đó và tiếp tục xoay lại công thức trên cho đến khi tất cả các góc về đúng vị trí (tối đa là 2 lần thui).

Bước 7:

- Mục tiêu: hoàn thành 6 mặt  .

- Bạn hãy tìm xem đã có góc ở tầng 3 nào là góc đúng chưa. Nếu chưa thì bạn hãy chọn đại 1 mặt làm chính và xoay công thức: P Đ2 P' Đ P Đ P' T Đ2 T' Đ' T Đ' T'

- Nếu vẫn chưa ra góc đúng thì bạn hãy giữ nguyên mặt chính ấy và xoay lại lần nữa, đừng lo vì lần này nhất định sẽ ra góc đúng thui  .

- Khi đã có 1 hoặc vài góc đúng thì bạn hãy chọn mặt chính là mặt mà bên trái là góc đúng và bên phải là góc gần đúng và xoay công thức trên: P Đ2 P' Đ P Đ P' T Đ2 T' Đ' T Đ' T'.

- Lặp đi lặp lại các bước trên cho đến khi hoàn thành cả 6 mặt  .

Chúc các bạn thành công

Vợt và bóng

Quần vợt là môn thể thao chơi giữa hai người (đánh đơn) hay hai đội mỗi đội hai người (đánh đôi). Người chơi sử dụng vợt lưới để đánh một quả bóng bằng làm bằng cao su bọc nỉ rỗng gọi là bóng quần vợt về phía sân đối phương. Quần vợt hiện nay là một môn thể thao rất phổ biến ở nhiều nước và được thi đấu tại các kỳ Thế vận hội. Trên thế giới có hàng triệu người chơi quần vợt và hàng triệu người hâm mộ. Hàng năm có rất nhiều các giải quần vợt chuyên nghiệp được tổ chức khắp nơi trên thế giới trong đó có 4 giải đấu lớn và danh giá nhất (gọi là các giải Grand Slam) bao gồm giải Úc mở rộng, Pháp mở rộng, Wimbledon và Mỹ mở rộng.

Quần vợt chơi trên sân hình chữ nhật, bề mặt phẳng. Chiều dài sân là 23,77 m, và chiều rộng là 8,23 m với trận đánh đơn và 10,97 m cho trận đánh đôi. Lưới được căng ngang theo chiều rộng sân, song song với đường biên, chia đều 2 bên. Chiều cao lưới 914 mm ở giữa và 1,07 m ở 2 cột lưới.

Có 4 loại sân chính. Tùy vào nguyên liệu làm bề mặt sân, mỗi bề mặt sẽ cho tốc độ và độ nảy khác nhau của bóng, từ đó ảnh hưởng đến người chơi:

Sân đất nện: sân đất nện được làm bằng đá hay gạch nghiền nát. Thường có màu đất đỏ. Loại sân này làm cho bóng nảy chậm và lên cao. Sân này thích hợp cho các tay vợt thích đứng cuối sân thay vì lên lưới và phải có nhiều kiên nhẫn vì một điểm đánh chậm và lâu. Đa số các sân đất nện là ở Châu Âu và Châu Nam Mỹ.

Sân cỏ: sân cỏ ngày nay rất hiếm có vì loại sân này rất tốn kém để gìn giữ. Đa số sân cỏ ngày nay chỉ thấy ở Anh vì người Anh vẫn thích giữ truyền thống quần vợt. Loại sân này làm cho bóng đi nhanh, nảy thấp và không đều. Vì thế nó thích hợp với những tay vợt thích phát bóng và lên lưới (serve and volley).

Sân cứng: sân cứng thật sự có nhiều loại khác nhau. Có thể nó chỉ giản dị là sân xi măng hoặc nó được làm bởi nhiều lớp cao su mỏng trộn với cát rồi đổ lên mặt xi măng. Loại sân này thường làm cho bóng đi nhanh, nảy cao và đều. Nó thường thích hợp với những tay vợt thích phát bóng và lên lưới (serve and volley) nhưng người ta cũng có thể làm cho mặt sân này "chậm" hơn lại bằng cách làm cho mặt sân nhám hơn hay mềm hơn.

Sân thảm: sân bằng thảm thường được dùng khi người ta mượn sân bóng rổ hay các sân thể thao khác trong nhà để tranh giải quần vợt. Ban tổ chức trải một loại thảm đặc biệt chế tạo cho quần vợt lên trên sân và dựng cột và lưới. Sân thảm thường có độ nảy trung bình nên thích hợp cho mọi loại đấu thủ.

Hiện nay các giải Grand Slam đang dùng các bề mặt sân khác nhau: Giải Úc Mở rộng dùng sân cứng nhám hay mềm, giải Pháp Mở rộng dùng sân đất nện, Wimbledon dùng sân cỏ, và giải Mỹ Mở rộng thì dùng sân cứng mặt xi măng.

Vợt và bóng[sửa | sửa mã nguồn]

Bóng quần vợt tròn làm bằng cao su bao nỉ bên ngoài, bên trong thì rỗng. Thường bóng màu vàng, bóng có đường kính giữa 6.35 và 6.6 cm, nặng giữa 56 và 59.4 g.

Vợt có nhiều hình dáng và kích thước khác nhau. Nói chung có 3 cỡ: tiêu chuẩn, cỡ trung, và cỡ lớn. Cỡ vợt được tính theo kích thước của mặt lưới. Ngày xưa vợt được làm bằng gỗ. Ngày nay vợt được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau như nhôm, than chì, hoặc cacbon xợi. Những chất liệu này làm cho vợt cứng hơn mà nhẹ hơn gỗ.

Mặt vợt được căng bằng dây ni lông hoặc dây ruột bò. Ngày nay có nhiều loại dây mới gọi là dây ni lông tổng hợp.

Ngoài ra, nếu người chơi thấy mặt vợt quá rung làm ê tay thì có thể dùng cục chống rung.

Cách thức chơi[sửa | sửa mã nguồn]

Cách chơi bóng và tính điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Chính: Chơi được điểm đơn

Một trận quần vợt gồm có điểm, game, và set để tính chung cho cả trận.Trong những giải nam lớn như Grand Slam, ai thắng trước 3 hiệp thì thắng trận. Trong mỗi hiệp, ai thắng trước 6 ván thì thắng hiệp, nhưng phải hơn đối thủ 2 ván. Nếu đến tỉ số 5-5 thì sẽ chơi tiếp đến khi một đối thủ thắng nhiều hơn đối thủ kia 2 ván để quyết định người thắng hiệp đó. Lưu ý: Nếu tỉ số hiệp là 7-6 thì set cũng kết thúc (nhưng không phải là set cuối cùng khi trước đó cả hai đã hòa 1-1 hay 2-2 tùy theo set của trận đấu) Trong mỗi ván tính điểm như sau: không (0), 15, 30, 40 và thắng ván. Nếu tỉ số đạt 40-40, có nghĩa là lợi đều (deuce) thì thi đấu tiếp đến khi một đối thủ ghi nhiều hơn đối phương 2 điểm.

Mỗi điểm được bắt đầu bằng cách phát bóng. Bên phát bóng đứng sau đường biên, giữa điểm trung tâm và đường biên dọc. Bên nhận có thể đứng ở đâu cũng được bên phía mình.

Phát bóng hợp lệ thì bóng phải đi qua lưới (không chạm) và vào ô phát bóng chéo ở phía bên kia. Nếu bóng chạm lưới và chạm đất ở phần phát bóng, không tính trái này và phải phát bóng lại. Nếu phát bóng bị lỗi lần một: đi quá dài hay không qua lưới, người phát bóng được phát lại lần 2, nhận lỗi 1. Nếu lần phát 2 cũng lỗi, nhận lỗi 2 và bên kia được điểm. Nếu lần 2 phát hợp lệ thì không sao.

Không ai chắc chắn nguồn gốc của môn quần vợt, nhưng nhiều chuyên gia tin rằng năm 1873 một thiếu tá trong quân đội Anh tên là Walter Clopton Wingfield đã phát minh ra bộ môn này. Lúc đó người Anh gọi trò chơi này là "quần vợt trên sân cỏ". Ông Wingfield gọi trò chơi này là Sphairistiké và nói rằng ông đã dựa trên một trò chơi cổ xưa của người Hy Lạp.

Người Anh mang trò chơi sang đảo Bermuda năm 1873, và từ Bermuda nó được đem sang Mỹ năm 1874 và chơi ở Đảo Staten, New York. Như nhiều môn thể thao khác của người Anh, họ đã đem truyền bá chúng đi khắp các thuộc địa của họ trên thế giới làm cho bộ môn này phổ thông nhanh chóng.

Trò thể thao Jeu de paume của Pháp cũng được coi là tiền thân của quần vợt ngày nay.

Các giải quần vợt nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]

Mỗi năm, bốn giải quần vợt lớn nhất là (theo thứ tự trong năm): Úc mở rộng, Pháp mở rộng, Wimbledon và Mỹ mở rộng. Những giải này được tổ chức bởi những hội quần vợt quốc gia của họ (Wimbledon là của Anh). Bốn giải này được gọi chung là Grand Slam và thắng được cả 4 giải trong cùng một năm là thành tích tột đỉnh của một đấu thủ quần vợt. Cho tới nay trong lịch sử chỉ có 2 tay vợt nam (Don Budge-1938 và Rod Laver-1962, 1969) và 3 tay vợt nữ (Maureen Connolly-1953, Margaret Court-1970, và Steffi Graf-1988) đã đạt được thành tích này.

Ngoài 4 giải Grand Slam, các giải quần vợt nam trên thế giới được tổ chức bởi Hiệp Hội Quần Vợt Chuyên Nghiệp (ATP), trong khi các giải quần vợt nữ được tổ chức bởi Hiệp Hội Quần Vợt Phụ Nữ (WTA).

Ngoài những giải này, mỗi quốc gia còn tham dự giải Cúp Davis và FedCup tổ chức hàng năm. Cúp Davis là cho đấu thủ nam, Fed Cup là cho đấu thủ nữ.

Mỗi bốn năm, quần vợt cũng được chơi tại Thế Vận Hội Mùa Hè.

Quần vợt xuất hiện từ những năm cuối thể kỷ 19 và cho đến nay đã trở thành môn thể thao thu hút được rất nhiều người tham gia.

Quần vợt là môn thể thao chơi giữa 2 người (đánh đơn) hay 2 đội mỗi đội 2 người (đánh đôi). Người chơi sử dụng vợt lưới để đánh một quả bóng bằng làm bằng cao su bọc nỉ rỗng gọi là bóng quần vợt về phía sân đối phương. Quần vợt hiện nay là một môn thể thao rất phổ biến ở nhiều nước và được thi đấu tại các kỳ Thế vận hội. Trên thế giới có hàng triệu người chơi quần vợt và hàng triệu người hâm mộ. Hàng năm có rất nhiều các giải quần vợt chuyên nghiệp được tổ chức khắp nơi trên thế giới trong đó có 4 giải đấu lớn và danh giá nhất (gọi là các giải Grand Slam) bao gồm giải Úc mở rộng (Australia Open), Pháp mở rộng (Roland Garros), Wimbledon và Mỹ mở rộng (US Open).

1. Lịch sử

Không ai chắc chắn nguồn gốc của môn quần vợt, nhưng nhiều chuyên gia tin rằng năm 1873 một thiếu tá trong quân đội Anh tên là Walter Clopton Wingfield đã phát minh ra bộ môn này. Lúc đó người Anh gọi trò chơi này là "quần vợt trên sân cỏ". Ông Wingfield gọi trò chơi này là Sphairistiké và nói rằng ông đã dựa trên một trò chơi cổ xưa của người Hy Lạp.

Người Anh mang trò chơi sang đảo Bermuda năm 1873, và từ Bermuda nó được đem sang Mỹ năm 1874 và chơi ở Đảo Staten, New York. Như nhiều môn thể thao khác của người Anh, họ đã đem truyền bá chúng đi khắp các thuộc địa của họ trên thế giới làm cho bộ môn này phổ thông nhanh chóng.

Trò thể thao Jeu de paume của Pháp cũng được coi là tiền thân của quần vợt ngày nay.

2. Kích thước sân

Quần vợt chơi trên sân hình chữ nhật, bề mặt phẳng. Chiều dài sân là 23,77 m, và chiều rộng là 8,23 m với trận đánh đơn và 10,97 m cho trận đánh đôi. Lưới được căng ngang theo chiều rộng sân, song song với đường biên, chia đều 2 bên. Chiều cao lưới 914 mm ở giữa và 1,07 m ở 2 cột lưới.

3. Các loại sân

Có 4 loại sân chính. Tùy vào nguyên liệu làm bề mặt sân, mỗi bề mặt sẽ cho tốc độ và độ nẩy khác nhau của bóng, từ đó ảnh hưởng đến người chơi:

- Sân đất nện: sân đất nện được làm bằng đá hay gạch nghiền nát. Thường có màu đất đỏ. Loại sân này làm cho bóng nẩy chậm và lên cao. Sân này thích hợp cho các tay vợt thích đứng cuối sân thay vì lên lưới và phải có nhiều kiên nhẫn vì một điểm đánh chậm và lâu. Đa số các sân đất nện là ở Châu Âu và Châu Nam Mỹ.

- Sân cỏ: sân cỏ ngày nay rất hiếm có vì loại sân này rất tốn kém để gìn giữ. Đa số sân cỏ ngày nay chỉ thấy ở Anh vì người Anh vẫn thích giữ truyền thống quần vợt. Loại sân này làm cho bóng đi nhanh, nẩy thấp và không đều. Vì thế nó thích hợp với những tay vợt thích phát bóng và lên lưới (serve and volley).

- Sân cứng: sân cứng thật sự có nhiều loại khác nhau. Có thể nó chỉ giản dị là sân xi măng hoặc nó được làm bởi nhiều lớp cao-su mỏng trộn với cát rồi đổ lên mặt xi măng. Loại sân này thường làm cho bóng đi nhanh, nẩy cao và đều. Nó thường thích hợp với những tay vợt thích phát bóng và lên lưới (serve and volley) nhưng người ta cũng có thể làm cho mặt sân này "chậm" hơn lại bằng cách làm cho mặt sân nhám hơn hay mềm hơn.

- Sân thảm: sân bằng thảm thường được dùng khi người ta mượn sân bóng rổ hay các sân thể thao khác trong nhà để tranh giải quần vợt. Ban tổ chức trải một loại thảm đặc biệt chế tạo cho quần vợt lên trên sân và dựng cột và lưới. Sân thảm thường có độ nảy trung bình nên thích hợp cho mọi loại đấu thủ.

Hiện nay các giải Grand Slam đang dùng các bề mặt sân khác nhau: Giải Úc Mở rộng dùng sân cứng nhám hay mềm, giải Pháp Mở rộng dùng sân đất nện, Wimbledon dùng sân cỏ, và giải Mỹ Mở rộng thì dùng sân cứng mặt xi măng.

4. Vợt và bóng

Bóng quần vợt tròn làm bằng cao su bao nỉ bên ngoài, bên trong thì rỗng. Thường bóng màu vàng, bóng có đường kính giữa 6.35 và 6.6 cm, nặng giữa 56 và 59.4 g.

Vợt có nhiều hình dáng và kích thước khác nhau. Nói chung có 3 cỡ: tiêu chuẩn, cỡ trung, và cỡ lớn. Cỡ vợt được tính theo kích thước của mặt lưới. Ngày xưa vợt được làm bằng gỗ. Ngày nay vợt được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau như nhôm, than chì, hoặc cacbon xợi. Những chất liệu này làm cho vợt cứng hơn mà nhẹ hơn gỗ.

Mặt vợt được căng bằng dây ni lông hoặc dây ruột bò. Ngày nay có nhiều loại dây mới gọi là dây ni lông tổng hợp.

Ngoài ra, nếu người chơi thấy mặt vợt quá rung làm ê tay thì có thể dùng cục chống rung.

5. Cách chơi bóng và tính điểm

Một trận quần vợt gồm có điểm (point), ván (game, jeux), và hiệp (set). Trong những giải nam lớn như Grand Slam thường đánh 5 hiệp, ai thắng trước 3 hiệp thì thắng trận, các giải còn lại sẽ đánh 3 hiệp, ai thắng trước 2 hiệp sẽ thắng trận.

Trong mỗi hiệp, ai thắng trước 6 ván thì thắng hiệp, nhưng phải hơn đối thủ 2 ván. Nếu đến 6 ván mà vẫn đều thì thường hay chơi ván giải hòa (tie-break) bằng cách mỗi người giao bóng một lần, ai tới 7 trước sẽ thắng ván tie break và thắng luôn hiệp đó. Đặc biệt ở các giải Grand Slam, nếu hai tay vợt hòa 2-2 và ván thứ 5 hòa 5-5 thì sẽ đánh tie break cho tới khi có một tay vợt thắng cách biệt 2 ván.

Trong mỗi ván tính điểm như sau: không (0), 15, 30, 40. Ai tới 40 trước sẽ thắng 1 ván nhưng nếu 40 đều thì mỗi bên sẽ tiếp tục giao bóng 1 lần, nếu một tay vợt thắng trong cả 2 lần giao bóng đó thì sẽ thắng 1 ván, nếu mỗi người thắng 1 lần giao bóng thì tiếp tục đến khi có người thắng 2 lần giao bóng.

Mỗi điểm được bắt đầu bằng cách phát bóng. Bên phát bóng đứng sau đường biên, giữa điểm trung tâm và đường biên dọc. Bên nhận có thể đứng ở đâu cũng được bên phía mình.

Phát bóng hợp lệ thì bóng phải đi qua lưới (không chạm) và vào ô phát bóng chéo ở phía bên kia. Nếu bóng chạm lưới và chạm đất ở phần phát bóng, không tính trái này và phải phát bóng lại. Nếu phát bóng bị lỗi lần một: đi quá dài hay không qua lưới, người phát bóng được phát lại lần 2, nhận lỗi 1. Nếu lần phát 2 cũng lỗi, nhận lỗi 2 và bên kia được điểm. Nếu lần 2 phát hợp lệ thì không sao.

40 điều chi tiết của luật thi đấu quần vợt.

Điều 1. SÂN

Sân Quần vợt hình chữ nhật dài 23,77m và rộng 8,23m. Lưới chia sân thành 2 phần bằng nhau. Lưới được căng bằng sợi dây hoặc dây kim loại có đường kính tối đa 0,8cm, hai đầu dây được buộc hay căng ngang trên đầu hai cột lưới, 2 cột lưới tròn có đường kính tối đa 15cm hoặc nếu cột lưới vuông có cạnh tiết diện 15cm. Cột lưới không được cao hơn mép trên cạp lưới 2,5cm. Tâm của cột lưới đặt cách mép ngoài đường biên dọc 0,914 m ở mỗi bên, chiều cao của cột lưới sao cho mép trên cạp lưới ở độ cao 1,07m so với mặt sân.

Khi kết hợp sân đánh đôi (xem Điều 34) với sân đánh đơn, lưới phải được nâng lên cách mặt sân 1,07m bằng 2 cọc chống lưới. Cọc chống tròn có đường kính tối đa 7,5cm, cọc chống vuông có cạnh tiết diện tối đa 7,5cm. Tâm của cọc chống đặt cách mép ngoài đường biên dọc của sân đơn là 0,914m ở mỗi bên.

Lưới phải được căng sát đến 2 cột lưới, mắt lưới có kích thước đủ để bóng không lọt qua được. chiều cao của lưới ở giữa sân là 0,914m, ở điểm này có một giải băng màu trắng, bản rộng 5cm, buộc giữ cho lưới ở độ cao quy định. Cạp lưới màu trắng chạy suốt dây căng lưới có bản rộng từ 5cm dến 6,35cm ở hai bên lưới. Không được quảng cáo trên cạp lưới, cọc chống lưới. Được quảng cáo trên lưới nhưng chỉ ở phần 0,914m từ đường biên dọc tới cột lưới sao cho vẫn có thể nhìn qua lưới. Quảng cáo này không được dùng màu vàng hoặc trắng.

Ở cuối 2 bên sân là đường biên ngang, ở 2 bên mép sân là đường biên dọc. Ở 2 bên lưới kẻ 2 đường song song và cách lưới 6,4m gọi là đường giao bóng. Khoảng sân ở mỗi bên lưới giữa đường giao bóng với đường biên dọc kẻ một đường giao bóng trung tâm có độ rộng 5cm kẻ từ chính giữa và song song với đường biên dọc chia thành 2 phần sân bằng nhau gọi là ô giao bóng. Ở chính giữa đường biên ngang kẻ “vạch mốc giao bóng”rộng 5cm, dài 10cm vuông góc với đường biên ngang và hướnh vào trong sân.

Tất cả các đường khác có độ rộng từ 2,5cm đến 5cm, trừ đường biên ngang có độ rộng tối đa 10cm, tất cả các kích thước được tính đến mép ngoài của đường kẻ. Các đường phải được kẻ cùng một màu. Nếu có quảng cáo hay các vật thể khác được đặt ở cuối sân thì chúng không được có màu trắng hoặc vàng. Có thể dùng màu nhạt nếu nó không gây cản trở cho tầm nhìn của đấu thủ.

Ghi chú 1: Trong cup David, Fed Cup hay các giải Vô địch chính thức của Liên đoàn quần vợt Quốc tế, những yêu cầu cụ thể về khoảng trống sau 2 đường biên ngang và ở 2 đường biên dọc được quy định trong điều lệ của những giải đấu đó.

Ghi chú 2: Ở cấp CLB hay khu giải trí, thì khoảng trống ở cuối mỗi đường biên ngang tối thiểu là 5,5m và ở 2 đường biên dọc tối thiểu là 3,05m.

Điều 2. THIẾT BỊ CỐ ĐỊNH

Các thiết bị cố định trên sân không chỉ gồm có lưới, các cột lưới, cọc chống đánh đơn, dây căng lưới, cạp lưới mà còn tường hay lưới chắn xung quanh sân, các quầy hàng, ghế ngồi cố định hay di động quanh sân và cả những người ngồi trên đó, tất cả các vật cố định khác ở quanh sân hay trên sân, trọng tài, trọng tài lưới, trọng tài bắt lỗi bước chân, trọng tài biên và người nhặt bóng đứng ở đúng vị trí của họ.

Chú ý: với mục đích của luật này, từ “trọng tài” bao gồm cả những trọng tài ngồi trên sân và tất cả những người được chỉ định giúp trọng tài điều khiển trận đấu.

Điều 3. BÓNG

Những bóng được chấp thuận để thi đấu theo Luật quần vợt phải đáp ứng những quy định dưới đây:

a. Bóng phải có mặt ngoài đồng dạng  phủ lớp vải (fabric) và có màu trắng hoặc vàng. Nếu có đường chắp nối phải không có mũi khâu.

b. Bóng phải đáp ứng những yêu cầu cụ thể trong phụ lục 1 (quy định kiểm tra cụ thể trong Điều 3) trọng lượng của bóng có thể từ 56gam đến 59,4gam.

c. Có nhiều loại bóng. Mỗi quả bóng phải có độ nảy từ 134,62cm đến 147,32cm khi rơi từ độ cao 254cm xuống mặt sân cứng, phẳng…Bóng kiểu 1 (tốc độ nhanh) có sự biến dạng về phía trước từ 0,495cm đến 0,914cm khi có lực tác động 8,165kg vào bóng. Bóng kiểu 2 (tốc độ trung bình) và bòng kiểu 3 (tốc độ chậm) có sự biến dạng về phía trước từ o,559cm đến 0,737cm và biến dạng về phía sau từ 0,80cm đến 1,080cm. Các biến dạng này là trị số trung bình của ba lần đọc số riêng rẽ theo 3 trục của bóng và các số đọc từng đôi khác biệt tối đa là 0,76cm trong mỗi tình huống.

d. Khi thi đấu ở độ cao trên 1,219m so với mặt biển, có thể sử dụng hai loại bóng bổ sung:

i. Loại thứ nhất dành cho kiểu bóng 1 (tốc độ nhanh) giống như các chỉ tiêu mô tả ở trên trừ trị số độ nảy từ 121,92cm đến 134,62cm và có áp suất trong lớn hơn áp suất ngoài. Loại này thường được gọi là loại bóng có độ nén.

ii. Loại thứ hai dành cho kiểu bóng 2  (tốc độ trung bình) giống như các chỉ tiêu mô tả ở trên trừ trị số độ nảy từ 134,62cm đến 147,32cm và có áp suất bên trong xấp xỉ áp suất bên ngoài và đã được thích nghi với khí hậu trong 60 ngày hoặc hơn nữa tuỳ theo độ cao của giải đấu cụ thể. Loại bóng này được gọi là bóng có độ nén bằng không hoặc bóng không có độ nén. Loại bóng thứ ba được đề nghị sử dụng trong các sân ở độ cao trên 1,219m so với mặt biển là bóng kiểu 3 (tốc độ chậm) với các tiêu chuẩn như đã mô tả ở trên.

e. Tất cả việc kiểm tra về độ nẩy, kích cỡ và sự biến dạng được thực hiện theo quy định trong phụ lục 1.

f. Liên đoàn Quần vợt thế giới có quyền quyết định bóng hay bản mẫu bóng đáp ứng những yêu cầu trên, hoặc chấp thuận cho thi đấu. Quyết định này có thể được đưa ra do sáng kiến của Liên đoàn hay theo đề nghị của bất cứ bên nào có quyền lợi liên quan như đấu thủ, nhà sản xuất, các Liên đoàn quốc gia hoặc thành viên của Liên đoàn đó. Các quy định và đơn phải được thực hiện theo thủ tục báo cáo và thẩm định hiện hành của Liên đoàn Quần vợt Quốc tế (xem phụ lục 3).

Chú ý 1: Bất cứ bóng nào được sử dụng trong một giải thi đấu theo luật Quần vợt đều phải nằm trong danh sách bóng được ITF chính thức thông qua do Liên đoàn Quần vợt Quốc tế ban hành.

Tình huống 1: Kiểu bóng nào được dùng cho loại sân nào?

Quyết định: 3 kiểu bóng được chấp thuận sử dụng trong thi đấu, tuy nhiên:

a. Kiểu bóng 1: (tốc độ nhanh) nên dùng trên mặt sân tốc độ chậm (xem phụ lục 1).

b. Kiểu bóng 2: (tốc độ trung bình) nên dùng trên mặt sân tốc độ trung bình/trung  bình nhanh (xem phụ lục 1).

c. Kiểu bóng 3: (tốc độ chậm) nên dùng trên mặt sân tốc độ nhanh (xem phụ lục 1).

Điều 4. VỢT

Chỉ những loại vợt nào đáp ứng được những yêu cầu dưới đây mới được dùng trong thi đấu:

a. Mặt vợt là một mặt phẳng và gồm những dây đan theo mẫu nối với khung vợt theo kiểu nống một (1 sợi trên, 1 sợi dưới), độ dày mặt lưới không có sự khác biệt, đặc biệt ở vùng trung tâm không được thưa hơn các chỗ khác. Vợt phải được thiết kế và đan lưới sao cho các tính chất ở cả hai bên mặt vợt như nhau. Các dây vợt không được buộc thêm hay có nút lồi ngoài các vật hay các nút sử dụng đơn lẽ nhằm hạn chế hoặc đề phòng đứt hay rung, các vật và nút này phải có vị trí và kích cỡ phù hợp với các mục đích đó.

b. Khung của vợt dài tối đa73,66cm tính toàn bộ chiều dài kể cả cán vợt. Khung vợt có độ rộng tối đa 31,57cm. Bề mặt vợt dài tối đa 39,37cm và rộng tối đa 29,21cm.

c. Vợt kể cả tay cầm, không được buộc thêm bất cứ vật hay dụng cụ gì ngoài nút sử dụng đơn lẻ nhằm hạn chế hay đề phòng đứt, độ rung hoặc để phân phối trọng lượng, các vật và nút này phải có vị trí và kích cỡ phù hợp với các mục đích đó.

d. Cấu trúc của vợt, kể cả cán vợt và dây, không được thêm bất cứ vật gì có thể làm thay đổi cơ bản hình dáng của vợt hoặc làm thay đổi sự phân phối trọng lượng theo trục dọc của vợt hoặc trục ngang, hay cố tình làm thay đổi tính chất có thể tác động đến việc dùng vợt trong khi thi đấu. Không được đưa vào bên trong hay gắn vào vợt bất cứ nguồn lực nào theo bất cứ cách nào để làm thay đổi hay tác động đến tính chất của vợt khi đánh.

Liên đoàn Quần vợt Quốc tế có quyền quyết định vợt hay bản mẫu vợt đáp ứng những yêu cầu trên, công nhận hoặc không công nhận vợt đó được dùng trong thi đấu. Quyết định này có thể được đưa ra do sáng kiến của Liên đoàn hay theo bất cứ bên nào có quyền lợi liên quan như cầu thủ, nhà sản xuất, các liên đoàn quốc gia hoặc thành viên của Liên đoàn đó. Các quy định và đơn phải được thực hiện theo thủ tục báo cáo và thẩm định hiện hành của Liên Đoàn Quần vợt Quốc tế (xem phụ lục 3).

Tình huống 1: Có thể có hơn một bộ dây ở trên mặt vợt không?

Quyết định: Không, luật đã quy định có một kiểu chứ không phải nhiều kiểu dây đan.

Tình huống 2: Mẫu dây đan của vợt có được coi là phẳng và đồng nhất không nếu các dây vợt nằm trên hơn một mặt phẳng?

Quyết định: Không.

Tình huống 3: Có thể gắn vật giảm rung lên dây vợt không, và nếu được thì gắn ở đâu?

Quyết định: Có, nhưng những vật đó chỉ được đặt bên ngoài vùng đan dây.

Tình huống 4: Trong thi đấu, nếu đối thủ vô tình làm đứt vợt, đối thủ có thể tiếp tục thi đấu bằng cây vợt trong điều kiện  đó không?

Quyết định: Có.

Tình huống 5: Có thể gắn bin làm thay đổi tính chất của vợt  vào vợt không?

Quyết định: Không. Cấm dùng bin vì đó là nguồn năng lượng, như bin mặt trời hay các vật khác tương tự cũng bị cấm.

Điều 5. GIAO BÓNG VÀ ĐỠ GIAO BÓNG

Các đối thủ sẽ đứng đối diện nhau qua lưới; đối thủ giao bóng đầu tiên gọi là “ đấu thủ giao bóng”, đấu thủ còn lại là “đấu thủ đỡ bóng”.

Tình huống 1: Trong khi đánh  bóng nếu đối thủ bước qua đường tưởng tượng kéo dài của 2 đầu lưới có bị mất điểm không?

a. Trước khi đánh bóng.

b. Sau khi đánh bóng.

Quyết định: Đấu thủ không bị mất điểm trong cả 2 tình huống nếu đấu thủ đó không vi phạm phần sân chính của đối phương ( điều 20e). Khi bị cản trở, đối phương có quyền yêu cầu trọng tài giải quyết theo Điều 21 và 25 của luật.

Tình huống 2: Đấu thủ giao bóng yêu cầu đấu thủ đỡ giao bóng phải đứng trong sân có các đường biên bao quanh của đấu thủ đó. Điều đó có cần thiết không?

Quyết định: Không. Đấu thủ đỡ giao bóng có thể đứng ở bất kỳ chỗ nào trên phần sân của mình.

Điều 6: CHỌN BÊN VÀ CHỌN GIAO BÓNG

Trước hiệp đấu đầu tiên sẽ tiến hành tung đồng xu để chọn bên sân và chọn giao bóng hay chọn đỡ giao bóng. Đấu thủ thắng được quyền chọn hay yêu cầu đấu thủ chọn:

a. Quyền giao bóng hay đỡ giao bóng, trong trường hợp đấu thủ kia chọn  bên sân.

b. Chọn bên sân, trong trường hợp đấu thủ kia chọn quyền giao bóng hay đỡ giao bóng.

Tình huống 1: Các đấu thủ có quyền chọn lại nếu trước khi bắt đầu trận đấu bị hoãn hoặc đình chỉ?

Quyết định: Có. Vẫn giữ kết quả tung đồng xu nhưng có thể chọn lại bên sân và giao bóng.

Điều 7: GIAO BÓNG

Giao bóng được thực hiện như sau: Ngay trước khi bắt đầu giao bóng, đấu thủ giao bóng đứng cả 2 chân ở phần phía sau đường biên ngang (cách xa lưới hơn) và trong phần đường kéo dài tưởng tượng của mốc đường giao bóng và đường biên dọc. Đấu thủ giáo bóng dùng một tay tung bóng lên cao theo bất kỳ hướng nào và dùng vợt đánh bóng trước khi bóng chạm xuống mặt sân. Quả giao bóng được coi là kết thúc vào thời điểm bóng chạm mặt vợt. Đấu thủ nào chỉ sử dụng được một tay có thể dùng vợt để tung bóng lên cao.

Tình huống 1: Khi đánh đơn, đấu thủ giao bóng có được đứng ở sau đường biên ngang, phần giữa đường biên dọc của sân đơn và sân đôi để giao bóng không?

Quyết định: Không.

Tình huống 2: Nếu khi giao bóng, đấu thủ tung 2 hay nhiều quả bóng lên thay vì chỉ tung một quả, như vậy có tính là lỗi không?

Quyết định: Không. Đấu thủ được giao lại, nhưng nếu trọng tài thấy đó là lỗi cố ý thì có thể sử phạt theo Điều 21.

Điều 8. LỖI KHI GIAO BÓNG

Trong suốt quá trình giao bóng, đấu thủ giao bóng:

a. Không thay đổi vị trí bằng cách đi hoặc chạy. Đấu thủ giao bóng nếu di chuyển bàn chân nhẹ mà không ảnh hưởng đến vị trí ban đầu thì không bị coi là thay đổi vị trí bằng cách đi hay chạy.

b. Không được chạm bàn chân vào bất cứ đâu trừ khoảng sân sau đường biên ngang từ đường tưởng tượng kéo dài của mốc giữa đường cuối sân với các đường biên dọc.

Điều 9: TRÌNH TỰ GIAO BÓNG

a. Trình tự giao bóng: Đấu thủ giao bóng lần lượt từ bên phải rồi từ bên trái sân, khi bắt đầu ván luôn giao bóng từ bên  phải. Nếu phát hiện giao bóng sai vị trí thì kết quả trước đó vẫn được giữ nguyên nhưng phải đổi vị trí giao bóng cho đúng ngay khi phát hiện ra.

b.  Bóng phải bay qua lưới rơi trong ô giao bóng hoặc trên các vạch của ô giao bóng chéo với vị trí giao bóng trước khi đấu thủ đỡ giao bóng đánh bóng trở lại.

Điều 10. LỖI GIAO BÓNG

Giao bóng phạm lỗi:

a. Nếu đấu thủ giao bóng vi phạm điểm nào đó trong Điều 7, 8 hoặc 9 (b).

b. Nếu đấu thủ giao bóng đánh không trúng bóng khi bóng đã được tung lên.

c. Nếu bóng chạm những thiết bị cố định trên sân (trừ lưới hoặc cạp lưới) trước khi rơi vào sân.

Tình huống 1: Sau  khi tung bóng lên cao để chuẩn bị giao bóng, đấu thủ giao bóng quyết định không đánh bóng mà bắt bóng, như vậy có bị coi là lỗi không?

Quyết định: Không.

Tình huống 2: Khi giao bóng đánh đơn trên sân đôi với cột lưới đôi và cọc chống đơn, bóng chạm cọc chống đơn và sau đó chạm sân đúng ô giao bóng. Quả giao bóng đó là lỗi hay giao bóng lại.

Quyết định: Lỗi. Vì cọc chống đơn, cột lưới sân đôi, phần lưới và cạp lưới ở giữa cột với cọc chống đều được coi lad những thiết bị cố định (Điều 2,10 và ghi chú Điều 24).

Điều 11. QUẢ GIAO BÓNG THỨ HAI

Sau một lỗi giao bóng (nếu đó là lỗi thứ nhất) đấu thủ giao bóng được giao quả bóng thứ hai cũng ở vị trí đã giao quả bóng trước, nhưng nếu vị trí đó được phát hiện là nhầm thì khi chuyển vị trí, đấu thủ giao bóng cũng chỉ được giao một quả ở vị trí giao bóng đúng (theo Điêu 9).

Tình huống 1: Đấu thủ giao bóng sai vị trí, đấu thủ đó bị thua điểm và sau đó tuyên bố đó là lỗi vì đứng sai vị trí.

Quyết định: Vẫn giữ điểm và trong quả giao bóng tiếp theo phải đứng đúng vị trí tính theo điểm.

Tình huống 2: Điểm đang là 15 đều, đấu thủ giao bóng do nhầm lẫn đã đứng bên trái sân. Đấu thủ đó thắng điểm. Sau đó đấu thủ lại giao bóng ở bên phải sân và phạm lỗi. Lúc này phát hiện lỗi vị trí. Đấu thủ có được tính điểm quả trước không. Tiếp theo đấu thủ sẽ giao bóng ở vị trí nào?

Quyết định: Điểm trước vẫn được giữ. Quả giao bóng tiếp theo từ phần sân bên trái, điểm số là 30/15 và dấu thủ giao bóng đã giao lỗi một quả.

Điều 12. KHI NÀO THÌ GIAO BÓNG

Đấu thủ giao bóng chỉ được giao bóng khi đối phương đã sẵn sàng đỡ bóng. Nếu đấu thủ đỡ giao bóng tỏ ra cố gắng đánh trả quả giao bóng, coi như dấu thủ đó đã sẵn sàng. Tuy nhiên , nếu đấu thủ đỡ bóng ra hiệu mình chưa sẵn sàng, đấu thủ đó không bị quy lỗi vì bóng không chạm đất trong thời gian ấn định cho việc giao bóng.

Điều 13. QUẢ ĐÁNH LẠI

Trong mọi tình huống có quả đánh lại theo luật hoặc do trận đấu bị gián đoạn thì phải tuân theo những quy định sau:

a. Khi tuyên bố riêng lẻ với một quả giao bóng có nghĩa là chỉ giao lại quả đó

b. Khi tuyên bố trong mọi tình huống khác có nghĩa là điểm đó được đánh lại.

Tình huống 1. Quả giao bóng bị gián đoạn vì lý do ngoài quy định trong Điều 14. Chỉ đánh lại quả giao bóng đó?

Quyết định: Không. Phải đánh lại cả điểm đó.

Tình huống 2: Nếu trong khi đánh bóng bị vỡ, có giao bóng lại không?

Quyết định : Có.

Điều 14. QUẢ ĐÁNH LẠI TRONG GIAO BÓNG

Quả giao bóng được đánh lại:

a. Nếu quả giao bóng đó chạm lưới, cạp lưới, giải băng, hoặc chạm lưới, cạp lưới giải băng lưới rồi lại chạm vào người đỡ giao bóng hay bất cứ vật gì mà người đó mang trên người trước khi bóng chạm đất.

b. Nếu một qua rgiao bóng hoặc một lỗi được thực hiện khi đấu thủ giao bóng chưa sẵn sàng  (theo Điều 12). Nếu giao bóng lại, quả giao bóng cụ thể đó sẽ không được tính, và đấu thủ giao bóng phải giao bóng lại nhưng vẫn tính lỗi trước đó.

Điều 15. THỨ TỰ GIAO BÓNG

Sau ván thứ nhất, đấu thủ đỡ giao bóng đổi thành đấu thủ giao bóng và ngược lại đấu  thủ đỡ giao bóng trở thành đấu thủ giao bóng. Thứ tự này được lặp lại trong tất cả các ván tiếp theo của trận đấu. Nếu phát hiện giao bóng sai thứ tự thì phải điều chỉnh ngay nhưng tất cả các điểm trước đó vẫn được giữ nguyên. Quả giao bóng lỗi trước khi phát hiện sai thứ tự không được tính. Nếu phát hiện giao bóng sai thứ tự khi vừa kết thúc một ván thì thứ tự giao bóng giữ nguyên như đã bị thay đổi.

Điều 16. ĐẤU THỦ ĐỔI BÊN

Đấu thủ đổi bên sau các ván thứ nhất, thứ ba và các ván lẻ tiếp theo của mỗi hệp và ở cuối mỗi hiệp trừ khi tổng số ván của hiệp đó chẵn, trong trường hợp này thì sau khi kết thúc ván thứ nhất củ hiệp sau mới đổi bên.

Nếu phạm lỗi không theo đúng thứ tự nôí tiếp đó, các đấu thủ phải về đúng vị trí của mình ngay khi phát hiện lỗi đó và theo sự nối tiếp ban đầu.

Điều 17. BÓNG TRONG CUỘC

Bóng trong cuộc tính từ lúc quả giao bóng được thực hiện, trừ khi có phạm lỗi hoặc khi có quyết định đánh lại, cho đến khi điểmđó được xác định.

Tình huống 1: Đấu thủ đánh trả đường bóng hỏng nhưng không có tín hiệu gì của trọng tài và bóng vẫn tro ng cuộc. Sau khi kết thúc loạt bóng đối phương đòi thắng điểm?

Quyết định: Không. Nếu như đối phương không bị cản trở thì không được đòi tính điểm đó nếu cả hai đấu thủ tiếp tục thi đấu sau khi bóng hỏng.

Điều 18. ĐẤU THỦ GIAO BÓNG THẮNG ĐIỂM

Đấu thủ giao bóng thắng điểm khi:

a. Nếu quả giao bóng, không phải là quả giao bóng lại theo Điều 14, chạm vào người đối phương hoặc bất cứ thứ gì đấu thủ đó mặt hoặc mang trên người trước khi bóng chạm sân.

b. Nếu đấu thủ đỡ giao bóng bị thua điểm theo quy định của Điều 20.

Điều 19. ĐẤU THỦ ĐỠ GIAO BÓNG THẮNG ĐIỂM

Đấu thủ đỡ giao bóng thắng điểm khi:

a.  Nếu đấu thủ giao bóng giao hỏng liên tiếp cả hai lần.

b. Nếu đấu thủ giao bóng bị thua điểm theo quy định của Điều 20.

Điều 20. ĐẤU THỦ THUA ĐIỂM

Đấu thủ thua điểm nếu:

a. Không đánh trả được bóng qua lưới, để bóng nảy hai lần (trừ trường hợp trong điểm 24a hay 24c).

b. Đấu thủ đánh trả bóng mà bóng chạm đất, chạm thiết bị cố định trên sân, một vật thể, hoặc ngoài các đường biên của sân đối phương (trừ trường hợp trong điểm 24a hay 24c).

c. Đánh trả bóng bằng cách đập trên không (đánh vô lê) nhưng bị hỏng, ngay cả khi đấu thủ đứng ngoài sân.

d. Trong khi đánh đấu thủ cố tình giữ hoặc chạm bóng lâu trên mặt vợt hoặc chạm bóng bằng vợt quá một lần.

e. Đấu thủ hoặc vợt (dù vợt cầm trong tay hay không) hay bất cứ thứ gì mà đấu thủ đó mặt, mang trên người chạm vào lưới, cột lưới, cột chống đơn, dây cáp, cạp lưới, băng vải hoặc sân đối phương bất cứ lúc nào khi bóng còn trong cuộc.

f. Đánh bóng bằng đập bóng trên cao (đánh vôlê) trước khi bóng bay sang lưới phía sân bên mình.

g. Bóng trong cuộc chạm vào đấu thủ hoặc bất cứ thứ gì đấu thủ đó mặt trên người, trừ vợt do đấu thủ đó cầm bằng một tay hoặc hai tay.

h. Đấu thủ quăng vợt của mình về phía bóng và chạm vào bóng.

i. Đấu thủ cố tình làm thay đổi các cấu kiện và hình dáng của vợt trong khi đánh tính điểm.

Tình huống 1: Khi giao bóng, vợt tuột khỏi tay đấu thủ và chạm lưới trước khi bóng đập xuống sân. Đó là lỗi giao bóng hay đấu thủ đó có mất điểm?

Quyết định: Đấu thủ giao bóng thua điểm vì vợt chạm lưới khi bóng trong cuộc (Điều 20e).

Tình huống 2: Trong khi giao bóng, vợt tuột khỏi tay đấu thủ và chạm lưới sau khi bóng đập xuống phần sân không đúng ô giao bóng. Đó là lỗi giao bóng hay đấu thủ bị mất điểm?

Quyết định: Đó là lỗi giao bóng vì khi vợt chạm lưới bóng đã ở ngoài cuộc.

Tình huống 3: A và B thi đấu với C và D, A giao bóng cho D, C chạm lưới trước khi bóng đập xuống sân. Bóng rơi không đúng ô giao bóng bị coi là lỗi giao bóng. C và D có mất điểm không?

Quyết định: Gọi lỗi giao bóng là không đúng. C và D mất điểm trước khi lỗi giao bóng xảy ra vì C chạm lưới khi bóng trong cuộc (Điều 20e).

Tình huống 4: Đấu thủ nhảy sang phần sân đối phương khi bóng trong cuộc mà không bị phạt?

Quyết định: Sai, đấu thủ đó bị mất điểm (Điều 20e).

Tình huống 5: Đấu thủ A cắt bóng sang sân của B Và bóng nảy lại sang phần sân của A. B không với được bóng, quăng vợt đánh bóng, cả bóng và vợy rơi sang phần sân của A. A đánh trả bóng và bóng rơi ngoài phần sân của B. B thắng điểm hay thua điểm?

Quyết định: B thua điểm (điều 20-e và h).

Tình huống 6: Đấu thủ đứng ngoài ô giao bóng và và giao bóng bay sang chạm đấu thủ đó trước khi nảy xuóng sân. Đấu thủ đó được điểm hay thua điểm?

Quyết định: Đấu thủ bị bóng chạm thua điểm (Điều 20-g), trừ trường hợp ngoại lệ trong Điều 14a.

Tình huống 7: Đánh thủ đứng ngoài sân đánh bóng vôlê hoặc bắt bóng bằng tay và tuyên bố bóng đã ra ngoài sân và đòi được điểm?

Quyết định: Trong mọi tình huống đấu thủ đó không có quyền đòi điểm:

1. Nếu bắt bóng bằng tay thì mất điểm theo Điều 20-g.

2. Nếu đánh vôlê mà bóng hỏng thì mất điểm theo Điều 20-c.

3. Nếu đánh vôlê mà bóng tốt thì tiếp tục đánh bóng.

Điều 21. CẢN TRỞ ĐỐI PHƯƠNG

Nếu đấu thủ có hành động cản trở đối phương đánh trảbóng thì đấuthủ sẽ mất điểm nếu đó là hành vi cốtình,nếu là vô tình thì điểm đó được đánh lại.

Tình huống 1: Đấu thủ có bị phạt không nếu khi đánh bóng đấu thủ đó va chạm với đối phương?

Quyết định: Không, trừ phi trọng tài thấy cần sử dụng Điều 21.

Tình huống 2: Khi bóng nảy ngược lại qua lưới, đấu thủ có thể với qua lưới để đánh bóng, nếu đối phương ngăn cản đấu thủ làm việc này thì xử lý sao?

Quyết định: Theo Điều 21, trọng tài có thể cho đấu thủ bị ngăn cản thắng điểm hoặc cho đánh lại điểm đó (tham khảo Điều 25).

Tình huống 3: Khi vô tình xảy ra chạm bóng tay đôi, việc đó có được coi như một hành động cản trở trong phạm vi Điều 21 không?

Quyết định: Không.

Điều 22. BÓNG RƠI TRÊN VẠCH

Bóng rơi trên vạch bao quanh sân cũng được coi như rơi trên sân.

Điều 23. BÓNG CHẠM CÁC THIẾT BỊ CỐ ĐỊNH

Nếu bóng trong cuộc chạm vào thiết bị cố định (trừ lưới, cột lưới, cọc chống đơn, dây cáp, cạp lưới) sau khi đã chạm sân quy định thì cầu thủ đánh bóng đó được điểm, nếu trước khi chạm sân thì đối phương được điểm.

Tình huống 1: Bóng đánh trả chạm trọng tài hoặc ghế trọng tài. Đấu thủ tuyên bố là bóng đang bay vào trong sân.

Quyết định: Đấu thủ đó mất điểm.

Điều 24. ĐÁNH BÓNG TRẢ TỐT

Bóng đánh trả được coi là tốt:

a.  Nếu bóng chạm lưới, cọc chống đơn, dây cáp, cạp lưới chỉ cần bóng đi qua đỉnh các thứ đó và chạm mặt sân theo đúng quy định, hoặc:

b. Nếu bóng được giao hoặc được đánh trả rơi trong sân quy định và nảy lên và bay trở lại qua lưới về sân bên mình, đấu thủ đánh trả quả bóng đó có thể với vợt qua lưới đánh bóng miễn là không vi phạm Điều 20-e, hoặc

b. Nếu bóng được đánh trả bên ngoài các cột hoặc cọc chống đơn dù ở trên hay dưới mức mép lưới trên, thậm chí chạm vào cột hay cọc chống đơn miễn là nó chạm sân đúng quy định, hoặc

c. Nếu vợt của cầu thư vượt qua trên lưới sau khi anh ta đánh bóng miễn là bóng qua lưới trước khi đánh bóng và được đánh trả hợp lệ, hoặc

d. Nếu cầu thủ đánh bóng trả tốt quả bóng giao hoặc bóng trong cuộc mà bóng đập vào quả bóng khác trên sân

 Ghi chú: Trong một trận đấu đơn, nếu vì mục đích thuận tiện, sân đôi được trang bị các cột chống đơn để thi đấu các trận đơn thì lúc đó cột lưới đôi và các phần của lưới, cạp lưới và băng lưới ở phía ngoài cọc chống đơn sẽ được coi là các thiết bị cố định và không được coi là cột lưới hoặc phần lưới của trận đấu đơn.

Bóng đánh trả lại qua phần giữa cọc chống đơn và cột lưới sân đôi mà không chạm vào phần dây cáp lưới, lưới hoặc hai cột lưới sân đôi và rơi trong phần sân đối phương thì được coi là quả đánh trả tốt.

Tình huống 1: Một quả bóng bay ra ngoài sân chạm cột lưới hay cọc chống đơn và rơi trong sân đối phương. Đó có phải quả đánh bóng tốt không?

Quyết định: Nếu là quả giao bóng thì bóng hỏng, theo Điều 10c. Nếu không phải quả giao bóng thì là bóng tốt theo Điều 24a.

Tình huống 2: Đấu thủ đánh trả bóng bằng cách cầm vợt bằng cả hai tay có được coi là tốt không?

Quyết định: Có.

Tình huống 3: Quả giao bóng, hoặc bóng trong cuộc, chạm một quả bóng nằm trên sân, thắng hay mất điểm?

Quyết định: Tiếp tục đánh bóng, trừ khi trọng tài không biết bóng được đánh trả có đúng là bóng trong cuộc không thì cho đánh lại quả bóng đó.

Tình huống 4: Đấu thủ có thể dùng nhiều vợt tại thời điểm bất kỳ trong khi thi đấu không?

Quyết định: Không. Luật quy định chỉ được dùng một vợt trong lúc thi đấu.

Tình huống 5: Đấu thủ có quyền yêu cầu nhặt bóng nằm trên sân đối phương không?

Quyết định: Có, trừ khi bóng đang trong cuộc.

Tình huống 3: Qủa giao bóng, hoặc bóng trong cuộc, chạm một quả bóng nằm trên sân, thắng hay mất điểm?

Quyết định: Tiếp tục đánh bóng, trừ khi trọng tài không biết rõ bóng được đánh trả có đúng là bóng trong cuộc không thì cho đánh lại quả bóng đó.

Tình huống 4: Đấu thủ có thể dùng nhiều vợt tại thời điểm bất kỳ trong khi thi đấu không?

Quyết định: Không. Luật quy định chỉ được dùng một vợt trong thi đấu.

Tình huống 5: Đấu thủ có quyền yêu cầu nhặt bóng nằm trên đối phương không?

Quyết định: Có, trừ khi bóng đang trong cuộc.

ĐIỀU 25. ĐẤU THỦ BỊ CẢN TRỞ

Trong tình huống đấu thủ bị cản trở không đánh được bóng vì lý do gì đó nằm ngoài sự điều khiển của đấu thủ đó, trừ những thiết bị cố định trên sân hoặc trừ nhưng quy định trong Điều 21, thì cho đánh lại.

Tình huống 1: Một khán giả đi vào đường di chuyển của đấu thủ làm đấu thủ đó không đánh trả lại bóng được. Vậy đấu thủ đó có thể yêu cầu đánh lại không?

Quyết định: Được. Nếu trọng tài cho rằng sự cản trở đó do hoàn toàn nằm ngoài khả năng điều khiển của đấu thủ. Không .Nếu đó là các thiết bị cố định trên sân hay sự sắp xếp của sân bãi.

Tình huống 2: Một đấu thủ bị cản trở như ở tình huống 1 và trọng tài cho đánh lại. Đấu thủ giao bóng giao quả thứ nhất trước đó hỏng thì có quyền giao hai quả nữa không?

Quyết định: Có. Theo luật khi đánh lại bóng trong cuộc thì đánh lại cả điểm chứ không chỉ đánh lại quả đang đánh.

Tình huống 3: Đấu thủ có được phép yêu cầu được đánh lại theo Điều 25 vì nghĩ rằng đối phương của mình bị cản trở và do không ngờ là bóng được đánh trả không.

Quyết định: Không.

Tình huống 4: Bóng đánh trả có được coi là tốt không khi chạm một bóng khác cũng đang bay trên không?

Quyết định: Sẽ cho đánh lại trừ khi một bóng khác được tung lên không do hành động của một trong các đấu thủ tạo ra thì trọng tài sẽ quyết định theo Điều 21.

Tình huống 5: Nếu trọng tài chính hoặc trọng tài khác nhầm lẫn hô “lỗi” hoặc “ngoài” và sau đó tự sửa khẩu lệnh thì khẩu lệnh nào sẽ được tuân theo?

Quyết định: Tuyên bố đánh lại, trừ phi theo ý kiến của trọng tài chính thì không có đấu thủ nào bị cản trở và việc sửa lại khẩu lệnh là đúng.

Tình huống 6: Nếu quả giao bóng thứ nhất bị hỏng, bật trở lại ngăn trở việc đỡ quả giao bóng thứ hai thì đấu thủ đỡ giao bóng có quyền yêu cầu đánh lại không?

Quyết định: Được. Nhưng nếu đấu thủ này có khả năng gạt quả bóng ra khải sân  nhưng lơ là không làm điều đó thì không được đòi đánh lại.

Tình huống 7: Nếu bóng chạm vào các vật thể tĩnh hoặc di động trên sân thì bóng có được coi là đánh tốt không?

Quyết định: Bóng được coi là đánh tốt trừ phi các vật thể tĩnh được đưa vào sân sau khi bóng đã vào cuộc và trong trường hợp này phải tuyên bố đánh lại. Nếu bóng trong cuộc chạm vật một đang di chuyển dọc theo sân hoặc trên mặt sân thì phải tuyên bố đánh lại.

Tình huống 8: Luật sẽ xử lý như thế nào nếu quả giao bóng đầu tiên bị hỏng, quả thứ hai giao bóng tốt và cần phải cho đánh lại theo Điều 25 hoặc do trọng tài không quyết định được điểm?

Quyết định: Lỗi sẽ được huỷ bỏ và toàn bộ điểm được đánh lại .

Điều 26. TÍNH ĐIỂM TRONG VÁN

a. Nếu đấu thủ thắmg điểm thứ nhất, điểm sẽ được tính 15 cho đấu thủ đó; thắng điểm thứ hai tỷ số 30 cho đấu thủ đó; thắng điểm thứ ba , tỷ số là 40 và thắng điểm thứ tư là thắng ván đó. Trừ các trường hợp sau:

Nếu cả hai đấu thủ cùng thắng ba điểm, tỷ số là 40 đều và đấu thủ nào thắng điểm tiếp theo sẽ được lợi điểm. Nếu đấu thủ đó thắng điểm tiếp theo thì sẽ thắng ván. Nếu đối phương thắng điểm tiếp theo thì tỷ số lại 40 đều. Và cứ như vậy cho đến khi một đấu thủ thắng hai điểm liên tiếp sau tỷ số đều sẽ thắng ván đó.

b. Lựa chọn hệ thống tính điểm không bắt buộc:

Hệ thống tính điểm không tính lợi điểm (no-ad) có thể được áp dụng thay cho hệ thống tính điểm truyền thống trong phần (a) của điều luật này, nhưng quyết định này phải được thông báo trước khi thi đấu.

Trong trường hợp này, các điều luật sau sẽ có hiệu lực:

Nếu đấu thủ thắng điểm thứ nhất, điểm sẽ được tính 15 cho đấu thủ đó; thắng điểm thứ hai tỷ số 30 cho đấu thủ đó; thắng điểm thứ ba tỷ số là 40 và thắng điểm thứ tư là thắng ván đó. Trừ các tình huống sau:

Nếu cả hai đấu thủ cùng thắng ba điểm, tỷ số là 40 đều, sẽ đánh tiếp điểm quyết định và đấu thủ đỡ giao bóng ở phần sân bên trái hoặc bên phải. Đấu thủ nào thắng điểm quyết định sẽ thắng ván đấu.

Đánh đôi

Trong đánh đôi cũng áp dụng cách thức tương tự như đánh đơn. Từ tỷ số 40 đều, đôi đỡ giao bóng có quyền chọn đỡ bóng ở nửa sân bên phải hoặc nữa sân  bên trái. Đôi nào thắng điểm quyết định sẽ thắng ván đấu.

Đánh đôi nam nữ

Trong đánh đôi nam nữ áp dụng hơi khác như sau:

Từ tỷ số 40 đều, nếu đấu thủ nam giao bóng, đấu thủ này phải giao bóng cho đấu thủ nam đối phương bất kể đấu thủ đó đứng ở phần sân nào, khi đấu thủ nữ giao bóng sẽ giao bóng cho đấu thủ nữ của đội đối phương.

Điều 27. TÍNH VÁN TRONG HIỆP

a.  Đấu thủ (các đấu thủ) nào thắng trước 6 ván là thắng hiệp, miễn là phải thắng đối thủ 2 ván cách biệt và nếu cần có thể kéo dài hiệp đấu đến khi đạt được chênh lệch 2 ván.

b. Hệ tính ván quyết thắng (Tie-break) có thể được dùng  như một cách thay thế cho những ván kéo dài của hệ thống tính điểm trong mục a của điều này nhưng phải thông báo trước trận đấu.

Trong trường hợp này, những điều khoản sau sẽ có hiệu lực:

Ván quyết thắng sẽ được áp dụng khi cả hai bên đều thắng 6 ván, trừ hiệp thứ 3 hoặc thứ 5 của trận đấu 3 hoặc 5 hiệp. Hiệp thứ 3 hoặc thứ 5 của trận đấu 3 hoặc 5 hiệp phải áp dụng luật cách  nhau 2 ván như thông thường, trừ khi có quy định khác được công bố trước trận đấu.

Thi đấu ván quyết thắng tiến hành như sau:

Đánh đơn

1. Đấu thủ nào được 7 điểm trước sẽ thắng ván và hiệp đấu đó nhưng cũng phải thắng đối phương cách biệt 2 điểm. Nếu điểm đến 6 đều sẽ đánh đén khi có 2 điểm cách biệt. Trong toàn bộ sec quyết thắng áp dụng cách đếm số thông thường.

2. Đấu thủ đến lượt giao bóng sẽ giao bóng điểm đầu tiên, đối phương giao điểm thứ 2 và thứ 3 sau đó thì mỗi đối thủ lần lượt giao 2 điểm cho tới hết ván.

3. Từ điểm đầu tiên sẽ giao bóng lần lượt ở sân bên phải và sân bên trái, bắt đầu từ sân bên phải. Nếu giao bóng sai vị trí và không phát hiện kịp thời thì tất cả các điểm trước khi  đó đều được tính, khi đã phát hiện giao bóng sai vị trí thì lập tức đổi vị trí giao bóng theo đúng quy định.

4. Các đấu thủ đổi bên sau mỗi 6 điểm và ở cuối ván thi đấu tính điểm quyết thắng.

5. Ván quyết thắng được tính như ván đổi bóng mới, trừ khi bóng mới đổi khi bắt đầu ván quyết thắng thì việc đổi bóng mới được lùi lại ở ván thứ hai của hiệp sau đó.

Đánh đôi

Thể thức đánh đôi cũng áp dụng như trong đánh đơn. Đấu thủ đến lượt giao bóng thì sẽ giao bóng điểm thứ nhất. Sau đó mỗi đấu thủ giao bóng luân phiên 2 điểm, theo thứ tự giống như trong hiệp đấu đó cho tới khi có đôi thắng ván đấu hoặc hiệp đấu đó.

Giao bóng luân phiên

Đấu thủ (hoặc đôi) nào đến lượt giao bóng sẽ giao bóng điểm đầu tiên trong ván quyết thắng và đỡ giao bóng trong ván ván đầu tiên của hiệp đấu tiếp theo.

Tình huống 1: Khi tỷ số là 6 đều, thể thức ván quyết thắng được áp dụng nhưng trước đó đã công bố áp dụng luật theo lợi thế. Điểm đã tính  có được giữ không?

Quyết định: Nếu sai sót này được phát hiện trược khi giao bóng điểm thứ hai thì điểm thứ nhất vẫn được tính nhưng sai sót này phải được sửa chữa ngay. Nếu sai sót này được phát hiện sau khi giao bóng điểm thứ hai thì ván đó tiếp tục áp dụng luật ván quyết thắng .

Tình huống 2: Khi tỷ số là 6 đều, thể thức luật lợi thế được áp dụng nhưng trước đó đã công bố áp dụng ván quyết thắng. Điểm đã tính có được giữ không?

Quyết định: Nếu sai sót này được phát hiện trước khi giao bóng điểm thứ 2 thì điểm thứ nhất vẫn được tính nhưng sai sót này phải được sưả chữa ngay. Nếu sai sót này được phát hiện sau khi giao bóng điểm thứ 2 thì ván đó tiếp tục áp dụng luật lợi thế. Nếu sau đó tỷ số lên tới 8 đều hoặc một số chẵn lớn hơn thì sẽ thi đấu theo thể thức ván quyết thắng.

Tình huống 3: Áp dụng ván quyết thắng trong đánh đơn hoặc đánh đôi, đấu thủ giao bóng không đúng thứ tự thì thứ tự giao sai đó có được duy trì đến hết ván đấu không?

Quyết định: Nếu đấu thủ đã hoàn thành vòng quay giao bóng của mình thì sửa ngay thứ tự giao bóng và các điểm trước đó vẫn được tính.

Tham khảo phụ lục II về cách giao bóng luân phiên.

Điều 28. SỐ HIỆP TỐI ĐA

Một trận đấu có thể đánh 3 hiệp (đấu thủ/đôi nào thắng 2 hiệp trước sẽ thắng trận), hoặc trận đấu 5 hiệp (đấu thủ/đôi nào thắng 3 hiệp trước sẽ thắng trận).

Điều 29. VAI TRÒ CỦA TRỌNG TÀI TRÊN SÂN

Trong các trận đấu có chỉ định trọng tài chính thì quyết định của trọng tài chính là quyết định cuối cùng. Trong trận đấu có chỉ định giám sát, có thể khiếu lại tới giám sát những quyết định của trọng tài chính về luật và trong những trường hợp đó quyết định của giám sát là quyết dịnh cuối cùng. Trong những trận đấu có trọng tài phụ ( trọng tài biên, trọng tài lưới, trọng tài lỗi bước chân), quyết định của trọng tài phụ về từng sự việclà quyết định cuối cùng trừ khi trọng tài chính cho rằng lỗi rõ ràng và trọng tài chính có quyền thay đổi quyết định của trọng tài phụ hoặc cho đánh lại. Nếu trọng tài phụ không thể quyết định về phần việc của mình thì phải thông báo ngay để trọng tài chính đưa ra quyết định. Khi trọng tài chính không quyết định được một  sự việc thì có thể cho đánh lại.

Trong các trận đấu cúp David hoặc các trận đấu đồng đội khác có trọng tài giánm sát trên sân, trọng tài giám sát có quyền thay đổi mọi quyết định của trọng tài chính và chỉ thị cho trọng tài ra lệnh đánh lại.

Trọng tài giám sát, theo suy xét của mình, có quyền hoãn trận đấu vì trời tối, điều kiện mặt sân hay thời tiết. Tình huống hoãn trận đấu, tỷ số và các vị trí trên sân vẫn được giữ vững, trừ khi giám sát và các đấu thủ đều đồng ý thay đổi.

Tình huống 1: Trọng tài yêu cầu đánh lại nhưng đấu thủ yêu cầu không đánh lại điểm đó. Có được yêu cầu giám sát quyết định không?

Quyết định: Có. Vấn đề của luật phát sinh liên quan đến một sự việc cụ thể sẽ do trọng tài quyết định. Nếu trọng tài không chắc chắn hoặc đấu thủ có khiếu nại về quyết định của trọng tài thì giám sát sẽ ra quyết định và quyết định đó là quyết định cuối cùng.

Tình huống 2: Trọng tài hô bóng ngoài nhưng đấu thủ cho là bóng tốt, trọng tài giám sát có quyền can thiệp không?

Quyết định: Không. Đó là tình huống thực tế, đó là vấn đề liên quan tới sự việc đã cụ thể đã xảy ra và quyết định của các trọng tài trên sân là quyết định cuối cùng.

Tình huống 3: Khi kết thúc loạt đánh bóng, trọng tài chính có quyền phủ quyết trọng tài biên không nếu ở vị trí của mình trọng tài chính thấy rõ ràng trọng tài biên đã sai trong loạt đánh?

Quyết định: Không. Trọng tài chính chỉ được phủ quyết trọng tài biên ngay khi lỗi đó xảy ra.

Tình huống 4: Trọng tài biên hô bóng ngoài. Trọng tài chính không nhìn rõ nhưng cho là bóng tốt.Trọng tài chính có quyền phủ quyết trọng tài biên không?

Quyết định: Không. Trọng tài chính chỉ được  phủ quyết trọng tài biên nếu khẳng định đó là quyết định không đúng với thực tế. Trọng tài chính chỉ được  phủ quyết trọng tài biên. Trọng tài chính chỉ được  phủ quyết trọng tài biên cho là bóng tốt khi trọng tài chính nhìn thấy khoảng trống giữa bóng và đường biên và chỉ được phủ quyết trong trường hợp trọng tài biên cho là bóng ngoài hay lỗi khi trọng tài chính nhìn thấy bóng rơi trong sân hay trong trên vạch.

Tình huống5: Trọng tài biên có thể thay đổi quyết định của mình sau khi trọng tài đã tính điểm không?

Quyết định :Có. Nếu trọng tài biên thấy mình đã sai thì có thể hô lại miễn là phải kịp thời.

Tình huống 6: Trọng tài biên hô bóng ngoài, đấu thủ khiếu nại bóng đánh tốt. Trọng tài chính có phủ quyết quyết định của trọng tài biên không?

Quyết định: Không. trọng tài chính không bao giờ phủ quyết sau phản đối hay khiếu nại của đấu thủ.

Điều 30. TIẾN TRÌNH TRẬN ĐẤU VÀ THỜI GIAN NGHỈ

Trận đấu sẽ tiếp diễn từ khi giao quả bóng đầu tiên cho đến khi kết thúc trận đấu theo những quy định sau:

a. Nếu đấu thủ giao bóng thứ nhất hỏng, đấu thủ phải giao ngay quả thứ hai không chậm trễ.

Đấu thủ nhận giao bóng phải thi đấu theo nhịp độ hợp lý của đấu thủ giao bóng và phải sẵn sàng đỡ giao bóng khi đấu thủ giao bóng đã sẵn sàng.

Đổi sân trong thời gian 90 giây kể từ khi bóng ở ngoài cuộc kết thúc ván đấu đến khi giao bóng quả đầu tiên của ván sau.

Tuy nhiên, sau ván đấu đầu tiên của mỗi hiệp và trong ván quyết thắng, trận đấu không được ngắt quãng, đấu thủ đổi sân không có thời gian nghỉ.

Cuối mỗi hiệp đấu, được nghỉ tối đa 120 giây kể từ khi bóng ở ngoài cuộc kết thúc ván đấu cuối cùng của hiệp đấu đến khi giao bómg quả đầu tiên của ván sau.

Trọng tài chính có quyền quyết định khi có trở ngại làm trận đấu không tiếp tục được.

Ở các nội dung đồng đội và vòng tròn quốc tế Ban tổ chức do ITF bổ nhiệm có thể quyết định thời gian giữa 2 điểm, nhưng không quá 20 giây tính từ khi bóng ở ngoài cuộc của điểm trước đến khi giao bóng quả đầu tiên của điểm sau.

b. Trận đấu không được trì hoãn, tạm dừng hay bị can thiệp với mục đích để đấu thủ hồi sức, hít thở hay tăng cường thể lực. Tuy nhiên, trong trường hợp cần hỗ trợ y tế, trọng tài chính có thể cho phép nghỉ 1 lần trong 3 phút để chăm sóc y tế.

c. Khi có tình huống vượt ngoài khả năng kiểm soát của đấu thủ như trang phục, giày hay thiết bị (trừ vợt) của đấu thủ quá xộc xệch hoặc gây khó chịu cho đấu thủ khi thi đấu thì trọng tài chính có thể cho tạm ngừng trận đấu khi thấy cần thiết và thích hợp.

d. Trọng tài chính có thể tạm dừng hoặc tạm hoãn trận đấu khi thấy cần thiết và thích hợp.

e. Sau hiệp đấu thứ 3, hoặc hiệp đấu thứ 2 của nữ, đấu thủ có thể được nghỉ tối đa 10 phút, hoặc ở những nước nằm giữa vĩ tuyến 15 độ Bắc và vĩ tuyến 15 độ nam đấu thủ có thể nghỉ 45 phút hoặc hơn, trong những điều kiện nằm ngoài khả năng kiếm soát cuả đấu thủ trọng tài có thể tạm ngừng thi đấu trong khoảng thời gian mà trọng tài thấy cần thiết. Nếu trận đấu bị tạm dừng và hôm sau mới tiếp tục, thì chỉ được nghỉ sau hiệp thứ 3 (sau hiệp thứ 2 đối với nữ) việc thi đấu nốt ván dở coi như một hiệp.

Nếu trận đấu bị tạm dừng quá 10 phút và đánh tiếp cùng ngày thì chỉ được nghỉ sau 3 hệp liên tục không nghỉ (với nữ là 2 hiệp), việc thi đấu nốt hiệp đánh dở được coi như một hiệp.

Quốc gia hoặc Ban tổ chức giải đấu, trận đấu được quyến sửa đổi hoặc bỏ qua điều luật này nhưng phải công bố trước khi bắt đầu thi đấu. Đối với Cup David và FedCup thì chỉ có Liên đoàn Quần vợt Quốc tế mới có quyền sửa đổi hay bỏ qua điều luật này trong điều lệ thi đấu.

f. Ban tổ chức các giải đấu có quyền quyết định thời gian khởi động trước trận đấu nhưng không quá 5 phút và phải công bố trước trận đấu.

g. Khi áp dụng hệ thống điểm phạt và điểm phạt cộng gộp, trọng tài sẽ quyết định dựa trên các điều khoản cuả các hệ thống này.

h. Đấu thủ vi phạm luật thi đấu liên tục, sau khi đã nhắc nhở trọng tài chính có quyền truất quyền thi đấu của đấu thủ đó.

Điều 31. CHỈ ĐẠO VIÊN

Trong trận đấu của nội dung đồng đội , đấu thủ có thể nhận sự chỉ đạo của đội trưởng ngồi trong sân nhưng chỉ khi đổi sân giữa các ván mà không được chỉ đạo khi đổi sân ở ván quyết thắng.

Đấu thủ không được nhận sự chỉ đạo ở bất cứ trận đấu nào khác. Những quy định của điều luật này phải được thực hiện ngjiêm túc.

Sau khi đã được nhắc nhở nếu đấu thủ còn phạm lỗi có thể bị truất quyền thi đấu. Nếu áp dụng hệ thống phạt điểm trọng tài sẽ áp dụng theo hệ thống đó.

Tình huống 1: Nếu việc chỉ đạo được thực hiện bằng tín hiệu kín đáo thì đấu thủ có bị cảnh cáo hay truất quyền thi đấu không?

Quyết định: Khi thấy hành động chỉ đạo bằng lời nói hay cử chỉ Trọng tài chính phải ngăn chặn ngay. Nếu trọng tài chính không thấy, đấu thủ có thể ra hiệu cho trọng tài thấy hành động đó.

Tình huống 2: Đấu thủ có được nhận sự chỉ đạo trong thời gian nghỉ theo Điều 30-e hoặc khi tạm dừng trận đấu và đấu thủ rời sân không?

Quyết định:

Có. Trong những trường hợp đó, khi đấu thủ không ở trên sân thi đấu việc chỉ đạo không bị cấm.

Ghi chú: Từ “chỉ đạo” gồm cả khuyên bảo và hướng dẫn.

Điều 32. THAY BÓNG

Bóng phải được thay sau một số ván cụ thể, nếu bóng không được thay theo dúng trình tự đó, sai sót này phải được sửa ngay và đấu thủ, hoặc đội có quyền giao bóng sẽ giao bóng tiếp theo bằng bóng mới. Sau đó bóng sẽ được thay đúng với số lượng ván đấu đã quy định.

Phần II

ĐÁNH ĐÔI

Điều 33. ĐÁNH ĐÔI

Tất cả các điều luật trên sẽ được áp dụng cho nội dung đánh đôi trừ những điểm dưới đây.

Điều 34. SÂN ĐÁNH ĐÔI

Để đánh đôi, sân phải rộng 10,97m tức là mỗi bên rộng hơn sân đánh đơn 1,37m, và những đường biên của sân đánh dơn nằm giữa hai đường giới hạn giao bóng được gọi là đường biên giao bóng. Sân đa hs đôi tương tự như đã miêu tả ở điều 1 nhưng đường kẻ của các đường biên dọc đánh đơn từ đường giao bóng ở mỗi bên lưới đến đường biên ngang có thể bỏ nếu muốn.

Điều 35. THỨ TỰ GIAO BÓNG TRONG ĐÁNH ĐÔI

Thứ tự giao bóng sẽ được quyết định khi bắt đầu mỗi hiệp như sau:

Đôi có quyền giao bóng ở ván thứ nhất sẽ chọn đấu thủ giao bóng trước và trong ván thúư hai đôí phương sẽ chọn đấu thủ giao bóng trước.Đồng đội của đối thủ thủ giao bóng ván thứ nhất sẽ giao bóng ở ván thứ 3, đồng đội của đối thủ giao bóng ở ván thứ 2 sẽ giao bóng ở ván thứ 4 và tiếp tục theo trình tự đó trong các ván tiếp theo của hiệp đấu.

Tình huống 1:Trong đánh đôi, một đấu thủ khong có mặt đúng giờ, đồng đội của đấu thủ đó xin thi đấu một mình với đôi đối phương cóp được không?

Quyết định: Không.

Điều 36.THỨ TỰ ĐỠ GIAO BÓNG

Thứ tự đỡ giao bóng sẽ được quyết định khi bắt đầu mỗi hiệp như sau:

Đôi nào đỡ giao bóng ở ván thứ nhất sẽ chọn đấu thủ đỡ giao bóng trước và đấu thủ đó sẽ đỡ giao bóng đầu tiên ở các ván lẻ trong toàn bộ hiệp đấu. Tương tự như vậy, đôi đói thủ sẽ chọn đấu thủ đỡ giao bóng ở ván thứ hai và đấu thủ đó sẽ tiếp tục đỡ giao bóng đầu tiên ở tất cả các ván chẵn trong toàm bộ hiệp đấu.

Các đấu thủ đồng đội đỡ giao bóng lần lượt từ đầu đến cuối mỗi ván.

Tình huống 1: Trong  đánh đôi, đồng đội của đấu thủ giao bóng hoặc đồng đội của đấu thủ đỡ giao bóng có được phép đứng ở vị trí che khuất tầm nhìn của đấu thủ đỡ giao bóng không?

Quyết định: Có. Đồng đội của đấu thủ giao bóng hoặc đồng đội của đấu thủ đỡ giao bóng có thể đứng ở bất kỳ vị trí nào trên khu  vực sân của mình hoặc ở ngoài sân nếu người đó muốn.

Điều 37. GIAO BÓNG KHÔNG ĐÚNG THỨ TỰ TRONG ĐÁNH ĐÔI

Nếu  1 đấu thủ giao bóng không đúng thứ tự, đấu thủ đồng đội phải giao bóng ngay khi lỗi được phát hiện, nhưng tất cả các điểm ghi được trước khi lỗi được phát hiện vẫn được tính. Nếu ván kết thúc trước khi phát hiện ra lỗi thì thứ tự giao bóng được duy trì theo thứ tự đã nhầm.

Điều 38. LỖI THỨ TỰ ĐỠ GIAO BÓNG TRONG ĐÁNH ĐÔI

Nếu trong một ván, thứ tự đỡ giao bóng bị thay đổi do những đấu thủ đỡ giao bóng thì thứ tự đó sẽ được duy trì cho tới cuối ván, khi lỗi bị phát hiện, các đấu thủ cùng đôi sẽ quay lại thứ tự đỡ giao bóng lúc đầu ở ván tiếp theo của hiệp đó khi họ là bên đỡ giao bóng.

Điều 39. LỖI GIAO BÓNG TRONG ĐÁNH ĐÔI

Giao bóng hỏng như đã quy định ở Điều 10, hoặc nếu bóng chạm vào đồng đội của đấu thủ giao bóng hoặc bất cứ vật gì người đó mặc hay mang trên người .Trước khi bóng chạm sân, nếu bóng chạm vào đồng đội của đấu thủ đỡ giao bóng hoặc bất cứ vật gì người đó mặc hay mang trên người mà không phải là quả giao bóng lại như Điều 14-a thì đấu thủ giao bóng sẽ được điểm.

Điều 40. ĐÁNH BÓNG TRONG ĐÁNH ĐÔI

Các đấu thủ của hai đội sẽ luân phiên đánh bóng và nếu 1 đấu thủ dùng vợt chạm  bóng trái với luật này, đối phương sẽ được điểm.

Lưu ý 1: Trừ phi có quy định khác,tất cả các vấn đề có liên quan trong những điều luật này đối với đấu thủ nam cũng bao gồm cho cả đấu thủ nữ.

Lưu ý 2: Xem Điều 26-b về hệ thống tính điểm lựa chọn trong đánh đôi và đánh kết hợp (đôi nam nữ).

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: