Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Truyeng ngan chon loc(tt)-Lenghiabk05

sai thành Út làm thịt con gà mái đẻ. Con gà bỏ chạy vào rừng, thằng Biển rượt theo. Con gà vừa chạy vừa kêu cục tác, cục cục tác thật tức cười…".

 

Tự nhiên người tôi như nổi gai ốc. Lúc đó, tôi mới nhớ lại những gì xảy ra lúc ban chiều. Theo bản năng, tôi ngó dáo dác ra sau lưng trước khi bước vội vào nhà. Lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là từ xương sống lạnh ra.

 

*

 

* *

 

Tiếng gà cục ta, cục tác lại văng vẳng cất lên trong một ngày mưa sau đó chừng nửa tháng. Lần này thì tôi ở nhà một mình còn vợ tôi thì đi đám tang ông chủ nhiệm hợp tác xã làng bên. Nó cất lên đồng lúc với tiếng mưa rơi, tiếng sấm rền vang tận chân trời và tôi thì ngồi rung đùi hô điệu bài chòi Bình Thuận.

 

Tiếng gà eo óc, trầm buồn như một lời nỉ non, ai oán. Tôi vội hát lớn lên để át đi tiếng gà ma quái kia nhưng từ đâu đó trong tiềm thức, tiếng gà vẫn đều đều chỏi vào tai tôi. "Mẹ họ, tao không giỡn với mày" - Tôi lầm bầm rủa. Tiếng gà bất chợt im bặt chừng mười phút rồi sau đó lại tiếp tục. "Đã nói là tao không giỡn!" - Tôi hét thật to và phóng xuống đất. Tiếng gà vẫn vọng tới nhưng giờ thì như lùi xa hơn một chút. Tôi nghĩ hay là hồi trưa đi làm đồng không đội nón nên cảm nắng, làm đầu óc như tê dại đi. Đứng dựa cửa một chút, tôi mới quay vào buồng tìm chai dầu gió để xoa vào ót, vào thái dương. "Chờ bả về nấu cho nồi xông và nồi cháo cá là khỏe lại ngay thôi". - Vừa lẩm bẩm tôi vừa đi đến bộ vạc. Bất giác, tôi đúng sững như trời trồng, có cảm giác chân tay đã hóa đá.

 

Một cái trứng gà nằm đó, xám xịt, dưới gầm vạc, hay nói cho đúng hơn là một viên đất con, hình bầu dục như mới trồi lên từ dưới đất. "Đứa nào muốn phá vợ chồng tao đây?" - Tôi phóng vội ra sân, nhìn quanh quất. Trong tầm mắt tôi, cánh đồng năn chỉ toàn mưa và gió, tịnh không một bóng người. Nhưng quái lạ là lúc ấy tôi có cảm giác như có rất nhiều đang đứng quanh tôi cười nói. "Mẹ họ, chưa qua ba mươi tuổi mà đầu óc mình như bị ma ám mất rồi!".

 

Tôi cố trầm tĩnh, quay vào nhà đốt lên mấy nén nhang, vừa đỡ sợ cũng như xua đi không khí lạnh lẽo. Xong tôi cứ ngồi ở ngạch cửa mà nhìn trân trân quả trứng gà năm lăn lóc trên đất.

 

"Toàn đất là đất, anh à!" - Vợ tôi dạn dĩ bóp quả trứng gà cho vỡ vụn ra - "Thì ra anh muốn nhát ma em phải không?".

 

"Em giỡn với anh thì có!" - Tôi bực mình thực sự.

 

"Giỡn? Em giỡn với anh làm chi hả?".

 

Tháng bảy âm lịch. Mưa giăng kín trời kín đất suốt một tuần lễ liền. May là những ngày trước đó, chúng tôi đã mua rất nhiều gạo, khô và mắm để dự trữ. Vợ chồng chúng tôi không biết làm chuyện gì khác hơn là ngủ hoặc ngồi bó gối nhìn nhau qua đống lửa sưởi ấm. Tôi thì muốn có một đứa con cho vui nhà vui cửa nhưng cô ấy lại bảo rằng nhà nghèo rớt mồng tơi, sinh con ra chỉ làm khổ chúng, nên thôi. Tôi buồn rầu nhìn mạng nhện giăng đầy trên mái nhà.

 

Vào lúc ấy tôi lại nghe văng vẳng tiếng gà cục tác. Lần này có phát ra ngay chính căn nhà, dưới bộ vạc tre. "Gà của ai đi lạc vào nhà mình vậy anh?" - Vợ tôi ngơ ngác nhìn ra phía sau bếp. Tôi nhìn bốn góc nhà vẫn chẳng thấy bóng dáng một con gà nào, nhưng tiếng cục tác thì vẫn đều đều cất lên. Vợ tôi hơi sợ, mặt tái xanh: "Không phải em đang nằm chiêm bao, là thật phải không?". Tôi bắt đầu tươm từng dòng mồ hôi như khi tôi đi qua nghĩa địa vô gia cư một mình trong đêm vắng.

 

Bất giác, vợ tôi hét lên một tiếng thật kinh hoàng:

 

"Nó kìa!".

 

Dưới bộ vạc tre, trên nền nhà đầy phèn đùn lên một cái trứng bằng đất xám xịt, ngạo nghễ nằm đó tự lúc nào.

 

*

 

* *

 

Chắc mấy anh cũng dần dần đoán ra chuyện gì rồi phải không. Thú thật, lúc đó tôi cũng không hiểu điều gì đang xảy ra ngay trong chính căn nhà của tôi nữa. Mấy tháng trời sau đó, tiếng gà cứ ám ảnh chúng tôi, kể cả trong giấc ngủ. Vợ tôi bị suy nhược thần kinh rất nhanh mặc dù cô ấy nổi tiếng là người gan dạ hồi ở R.

 

Tôi bèn quyết định bỏ lại tất cả và đăng ký đi kinh tế mới ở Đồng Tháp. Bẵng đi vài năm trời, tôi mới có dịp trở lại vùng đồng năn đó. Mấy anh biết sao không? Giờ thì xã cho xẻ kênh băng qua cánh đồng để rửa phèn và đưa nước ngọt vào. Con kênh đi ngay chóc nền nhà tôi khi xưa. Chuyện đó cũng bình thường thôi. Nhưng có một chuyện khiến còn ớn da gà. Ông Tư hớt tóc ở xóm Chợ nói khi tình cờ gặp tôi: "Hồi đó, mày ở mà không bị nhát là hên đó, Bảy!". "Ma à? Làm gì có!" - Tôi đáp. "Tại gọi là ma chứ cũng là anh em đằng mình cả thôi". - Ông Tư giải thích - "Họ phóng con kênh qua đất nhà mày, khi đào bắt gặp vô số xương cốt nằm lẫn lộn, không biết của ai là của ai. Vợ chồng mày ở những chỗ đó không bị khí âm vật chết là may lắm. Còn chuyện này nữa. Họ còn đào được nguyên một bộ xương gà nằm trong cái nồi. Tội nghiệp, chắc là họ đang nấu cháo…".

 

Tôi gật đầu lia lịa và bỏ đi một nước. Trong tôi bất ngờ có tiếng gà cục tác cất lên, eo óc và đầy khắc khoải trong những ngày mưa miền Tây, rả rích".

 

*

 

* *

 

CHUYỂN TRUYỆN: Viên sĩ quan có vẻ tư lự sau câu chuyện của người chăn vịt tên Bảy. Cả nhóm người không ai bảo ai đều im lặng như tờ. Một hồi sau, viên sĩ quan mới vỗ tay bồm bộp và hỏi: "Ai xung phong kể chuyện đêm sau thì đăng ký trước?". Một người có vóc dáng vạm vỡ giơ tay. "Năm Sửu hả?" - Viên sĩ quan nheo nheo mắt vì chói ánh lửa - "Thôi, được rồi, giờ giải tán ai về lều nấy. Mẹ họ, câu chuyện của thằng Bảy chắc không còn có cửa cho tao dám đi "xả bầu tâm sự" khuya nay.

Giấc Mơ Thổ

Chúng tôi hãy còn rất trẻ. Tuổi trẻ không trông thấy trên khuôn mặt, trong đôi mắt, nhưng ở những giấc mơ không bao giờ tắt. Tết Giáp Tuất. Tôi về sống ngôi nhà của Quý, phía nam phần lục địa. Trái đất xoay như thỏi đá cứng, những cạnh gai góc cắt vào chốn vô hình. Mỗi trưa, tôi với Quý và Chiến cũng một người bạn ở nhờ- bầy những tiệc rượu đón bắt những vô hình mà cả ba đều linh cảm rất rõ, theo sóng của cây rừng tràn đến tận thềm. Cả một triền núi lươn lướt tắp đến bàn rượu. Cơ ngơi của Quý to lớn sừng sững.

Quý bầy ba cốc rượu hồi. Óng ánh. Bóng của cả năm mươi gian nhà san sát đổ dồn vào trong đáy ly. Bất chợt. Dữ dằn. Lần nào ngắm dinh cơ của Quý, tôi cũng nổi gai, rờn rợn. Không phải nhà mà là một thứ lăng, lâu đời, cũ kỹ, vĩ đại, chễm chệ trấn áp cả một rặng núi. Năm mươi gian nhà cất xây theo lối cổ, chống đỡ bởi những trụ trời xọc vào mây. Sân trước dựng chín đỉnh đồng. Sân sau Quý thuê đào một thứ đầm trông y hồ Ba Bể ở Mẫu Ninh. Dễ sợ. Không phải nhà ở của một con người.

Vợ Quý bưng lên một mâm nhắm. Những lát tim luộc tái, lát mỏng, xâm cạnh những khoanh lòng tròn trắng, tươi mởn tựa đầu vú đàn bà. Vợ Quý có nét lẳng của phụ nữ Bắc, nụ cười bám theo chuôi mắt, rớt vào đĩa nước chấm nổi nhọn hai quả ớt xanh.

Quý vươn tay gắp một mẩu lòng, cắn vào chính giữa chỗ dai dai tựa đầu nấm vú. Anh kể ngày xưa ăn miếng thịt rồng ở miền Bắc là kinh lắm. Mổ rồng là một thứ lễ nghi, tráng đinh buộc ghịt lại, phải đợi tiên chỉ đọc điếu văn rồi mới thọc huyết. Bên này rồng đông lạnh, rồng làm sẵn, chỉ việc mua về xả nước đá, ăn bao nhiêu cũng có. Quý cười ha hả. Mấy ngón tay đánh đôi đũa di động uốn éo, trước khi xỉa xuống đĩa tim phượng đỏ chót. Tôi rợn.

“Ăn tim nhớ người!”

Quý lại cười. Dạo mới quen Quý, lúc trước, tôi để ý thấy mặt anh cằn cỗi, môi thâm, má hóp, chứng sốt rét rừng của thời kỳ đi B lâu lâu hoành hành. Nhưng kể từ lúc Quý tậu được năm mươi gian nhà, sắc mặt anh đổi hẳn. Mười năm vượt Trường Sơn nhọc nhằn chỉ còn lại hàng bạch đàn ngút ngắt, trồng tít tắp dọc bờ tường viền ngôi đất. Kỷ niệm thời trai trẻ của Quý ở Hà Nội thì mọc ở rặng hoa sữa trắng ngát. Quý thấy tôi ngắm vườn, hiểu ý:

“Rặt cây Hà Nội. Ðặt mua từ ở nhà, cái gốc sữa ở đầu hàng Gai cạnh xạp ốc nóng nhớ chưa?” ” Mua được à?”

Tôi chồm mình. Vợ Quý đang khom lưng bổ đôi quả cật. Mấy ngón tay Quỳ mần mần lăn lăn miếng bầu dục bóng lưỡng nằm trây trên thớt. Quỳ vuốt ve, âu yếm, hết trở qua rồi lật lại, lạng bỏ nhịp nhàng những gân hôi, rồi khía. Quỳ lấy nước ở hồ Ba Bể, ngâm bầu dục cho xả nhớt, rắc một chút húng lìu, và ghép một lạng mỡ trước khi xiên. Xâu xong, Quỳ bỏ vào nhà trong nói đi lấy than để nướng. Quý không chú ý đến vợ, ngắt một lá húng, chắc lưỡi:

“Mua tất! Cái gì bây giờ cũng bán.”

Quý rót thêm rượu hồi. Ngửa cổ. Rượu chảy xuống cần cổ như con rắn lục, trườn trườn qua yết hầu, động đậy, trước khi lặn vào gan. Tôi uống hết cốc rượu mời của Quý, thơm hực. Hồi nguyên chất đậm đặc. Nồng. Pha thêm nước lã thơm ngai ngái, vàng khói phất lên khứu giác ngất ngưởng. Cốc hồi tan vào máu làm thịt gân tôi nẩy giật. Nghe được cả những âm thanh của búp hồi nở ở gan bàn chân.

Chiến từ nãy giữ im lặng. Không phải Chiến ít nói, nhưng ở con người Chiến mang dấu ấn của thời đại. Thứ dấu đóng chết, bảo chứng một sự thật: Bị bôi xóa. Bị bỏ quên bởi thời cuộc. Lần nào ngồi gần Chiến tôi cũng để ý dáng vẻ kỳ quặc đó, toát ra ở người Chiến, tựa một thứ định mệnh sóng đôi hiện lên rõ mồn một ở khóe mắt, sống mũi, quai hàm, ở từng sợi tóc úa, bắp thịt nhão. Nhưng khủng khiếp nhất là lắm lúc Chiến ngồi sờ sờ ra đó tôi cũng không trông thấy. Như thể anh hoàn toàn bị xóa bỏ. Sử sách lãng quên. Chỉ có quá khứ lâu lâu ở trong Chiến vụt trồi lên va chạm với Quý.

“Cánh Bộ Ðội Trinh Sát ưa uống hồi à?”

“Ai bảo?”

Quý đang chặt rồng. Vừa nhổ những chiếc vẩy bạc, tiện tay nhón một mẩu bầu dục còn sống ở bìa thớt, chưa xiên, chưa nướng, bỏ tọt vào miệng.

“Hồi ở Việt Bắc hôi khắm! Cất làm thuốc đau bụng, có được thế này đâu? Mà cũng chẳng còn. Ở Cao Bằng, Lào Cay bây giờ mực độ cây xanh bình quân đầu người còn ít hơn Hà Nội.”

“Tệ thế?”

Tôi uống thêm một chén hồi bỏ đá. Phải công nhận cái thứ rượu này lạ. Càng uống càng mê, chẳng trách có một dạo lắm thổ dân hóa cuồng. Uống tới ly thứ tư, trong đầu tôi váng vất như có rụng một trận mưa hoa vàng, cánh hoa reo cùng với gió đâm xuống thịt da rồi lại trồi lên trổ thành những rễ hồi nhỏ, ngo ngoe, động đậy. Tôi cảm giác rõ rệt, những vô hình ngóng chờ lúc nãy đã hiện lên, lừng lững đứng trong sân. Triền núi trước mặt đổ lao thăm thẳm xuống vực sâu. Và cây rừng cứ mỗi lúc một dầy thêm, rậm rạp, phủ kín quanh chỗ tôi ngồi. Ấn tượng được hòa nhập với thiên nhiên, tan vào trong cây cỏ, đất đá, vỡ ra sảng khoái, lạ lùng. Tôi đưa tay quơ lấy chai rượu. Trong chất hồi cũng có dấu vết của thiên nhiên: Mặt trời, hừng hực, lúc chảy qua cổ họng. Quý không ngó ai, khợi một miếng óc lân luộc, rắc muối tiêu, cắn một cọng răm trước khi nuốt:

“Mấy năm trước 79, Trung Quốc cử người sang Việt Nam mua rễ hồi, mà mua với giá đắt, cả làng, cả tỉnh đốn hồi bán. Hiểm!”

“Người ta hiểm còn mình dại!”

Chiến ăn hết nửa quả tim phượng, mỉa. Quý hơi lừ mắt, nhưng bỏ qua. Gạt thịt rồng vừa chặt vào thau, cạo thớt. Cử chỉ của anh gọn, sành sõi, nhanh nhẹn như những người Hoa đi bán phá lấu. Chiến không nói gì thêm. Từ mấy tháng đổ lại, trừ những lúc găng, Chiến chấp nhận chính Quý mới là chiều mạnh của lịch sử. Sự im lặng của Chiến nửa bẽ bàng, nửa thua cuộc. Ðể quên, Chiến không ngớt rót cho tôi và anh. Pha nước, gắp đá, rồi lại uống. Cứ thế ba bốn bận. Chai hồi chưa kịp vẹt mâm lòng đã cạn. Quý nhần nhần một miếng lòng dai, nhăn mặt:

“Cái thứ rồng già ăn như thịt trâu!”

Quý vớt một quả ớt, muốt đầu nhọn, chép chép ở đầu lưỡi. Tôi ngóng bóng Nữ vừa đi học về bước qua cổng Ðại Môn. Kiến trúc của ngôi nhà trông như lăng vua. Mấy hàng cột trụ biểu trồng đều tăm tắp, xen giữa linh qui đội bia trước sảnh đường. Có lần Quý giải thích: Ðể sau này con cháu đỗ đạt khắc tên vào văn bia như truyền thống của dân tộc nghìn xưa. Nữ đi qua bàn không chào. Quý gắt:

“Cái mả mẹ mày không biết phép tắc. Ðã thưa gửi chưa?”

“Je n'ai pas faim!”

Nữ đi xoắt vào nhà trong. Quý thở dài, lôi ở gầm bàn một két gỗ. Chục chai vang tím sẫm. Quý vừa khui vừa nhăn trán:

“Con gái bên này mất nết.” ” Ðánh bài đi!”

Chiến nhắc. Hai bàn tay mang dấu vết chiến trường quẳng ra bàn một xấp tiền giấy. Quý xào cỗ bài rồi đưa tôi kinh, anh bắt đầu chia, mấy ngón tay cũng động đậy, thành thạo, uốn éo khéo léo như lúc nãy. Tôi vừa đón bài, vừa nhìn vợ Quý trở ra vườn. Quỳ bắc vỉ, quạt than. Khói um lên tàn gốc điệp. Thấy cỗ bài, vợ Quý dẫy:

“Ðợi tôi chơi với.”

“Ðàn bà đánh gì!”

Quý đang bực con, sẵng. Vợ Quý không vừa, sừng mặt:

“Ðàn bà cũng là người!”

Quý nhượng bộ chia đều bốn tụ. Giấc trưa nóng hầm than trên vỉ cật nướng cháy theo hơi quạt gió phần phật ở tay Quỳ. Vợ Quý trở qua trở lại gấp gáp rồi hạ bếp. Miếng bầu dục chưa chín, nhưng chạm lửa săn cứng. Chiến uống thêm mấy ly vang nữa rồi bắt đầu giao: Ðánh thua không chạy. Tính chi. Một chi năm trăm quan. Rồng ăn mười ba chi. Tứ Quý, Thùng Phá Sảnh cũng mười ba chi. Nhưng Rồng lớn hơn hết. Tôi mở bài. Bài máu. Ðồng hoa. Chưa đánh tôi đã biết thắng. Bên cạnh Quỳ búng bài tanh tách. Hết xỏe lại xếp. Cứ xong một nước Quỳ lại liếc ngang dọc, cặp môi đánh son chói chực mím lại, rồi nhoẻn ra. Tôi đã ngà say, thấy Quỳ đẹp sắc, nét đẹp chanh chua mà dữ tợn. Quỳ mặc áo mỏng. Vú hở ra nhễ nhại những hột mồ hôi tròn trĩnh. Tôi ước ngủ với Quỳ chết mới mãn.

“Xong chưa? Có mười ba lá bài binh hết một ngày. Nhìn đây này!”

Quý nóng nảy, chìa ngay vào mặt Chiến cũng vừa xong. Chiến gạt:

“Zách Thú Sảnh ăn được thì ăn!”

“Xám Chi đầu!”

Quỳ hấp tấp, bổ nháo xổ bài. Nhưng rốt cuộc bài tôi ăn tất. Ðánh thêm sáu ván, tôi được năm. Cứ hai ván Quý khui một chai rượu đỏ. Rượu Pomérol, château Rouget, vụ 84. Quý nói: Mười năm chống Mỹ! Chiến chỉnh: Mười năm kháng Cộng. Quỳ rủa: Lẩm cẩm.

Uống hết chai thứ chín thì tôi hoa mắt. Cỗ bài chạy lộn xộn. Màu váy rượu đỏ như môi lưỡi Quỳ, uống vào cũng nở tròn trịa như bắp đùi đàn bà ở độ xuân, nhưng bốc lên đầu rần rần chẳng khác một bầy quạ đua nhau mổ vào thái dương. Tôi thấy người mình nhẹ lắm, mà tay chân thì không điều khiển được, như đã tách khỏi xác, cứ chao qua chao lại. Tôi gọi Quý:

“Tôi ngã mất.”

“Thằng chạy!”

Chiến chửi. Nhưng Quý đã đứng lên, vạch mắt tôi xem.

“Hỏng kiểu. Nó sắp chết. Chạy bắc nước, cho nó uống trà Thổ. Mau!”

Bụng tôi chướng lên. Bao nhiêu thức ăn, phổi, rồng, phượng, cật, óc, lân, gan, tim, mề chạy ngược lên cổ. Mắt tôi nổ đom đóm, loáng thoáng thấy Chiến, Quỳ, nửa bóng nửa hình chạy lăng xăng, kẻ giữ tay, người đở gáy, còn Quý hộc tốc chạy vào nhà đem ra một hộp thiếc. Mạch máu tôi vỡ hết. Tôi muốn nôn mửa nhưng Chiến đã chận lại, bàn tay hộ pháp chặn ngang cổ họng, đè dứ lấy không cho nôn. Tôi quẫy. Vỏ chai trước mặt bể xoảng. Chiến dẫm phải mảnh, máu chảy ròng ròng. Trong mảnh thủy tinh mặt tôi dúm dó, trộn lẫn với máu Chiến tím bầm. Chiến vẫn xem như không đè lên ngực tôi, hai tay nhồi xuống tim, mỗi cái nhấn làm tôi nẩy bật lên. Gương mặt Quỳ gần sát to như đấu thúng. Tôi dẫy.

“Uống nào!”

Quỳ bóp má. Trút trà. Nước trà nóng bỏng cháy dại lưỡi. Trà đặc, đắng chát miệng. Trà xuống tới đâu người tôi mụ tới đó. Nắng buổi chiều gay gắt. Dữ dội. Tát thẳng vào mặt. Ở chính giữa cơn say làm như tôi còn trông thấy rõ một đuôi rồng hiện ra bất chợt, lượn uốn quanh ngôi đất nhà Quý. Hai chiếc vòi rồng thả vọc xuống mặt hồ Ba Bể rút nước. Mưa, dông, bão, sấm chớp, hay rồng hút nước tôi không biết, nhưng những vẩy hỏa rồng lập lòe mê hoặc. Chiến cõng tôi lên buồng. Tiếng tri hô của Quý còn hô hoán dưới vườn trầm trồ khen con thú đẹp.

*

Chúng tôi hãy còn rất trẻ. Tuổi trẻ trông thấy trên gương mặt, trong đôi mắt, và ở những giấc mơ không bao giờ tắt. Suốt bốn ngàn năm, cái chết của con người ở quê tôi hình thành do suy tàn của thể chất. Nhưng xuống tới thế hệ tôi, kỳ quặc, chính chúng tôi đi tìm cái chết: Thể xác vẫn nguyên vẹn. Chúng tôi đứng ở bờ cồn trông ra cửa biển. Tôi run rẩy vì ý nghĩ mình sắp chết. Một cái chết dã man hung bạo. Nền trời mỗi lúc một xanh, bát ngát. Soi rõ đại dương và phương Tây ở đằng xa. Tất cả, không ai rời mắt nổi khoảng trời xanh ngắt ngoài sức tưởng tượng nền trời của biển Ðông và Tây phương- nơi chúng tôi sẽ chết. Ruột tôi quặn thắt vì sợ hãi lẫn ham muốn. Mâu thuẫn nhưng kích thích. Tiếng còi tàu rúc của ba chiếc thuyền táng cập vào bến. Những chiếc thuyền bít bùng giăng sẵn cườm, một thứ tàu nhà đòn mà tôi sẽ phải vào nằm bên trong với một ngàn hai trăm người khác. Ba chiếc tàu chở tử thi. Tay chân tôi lạnh mướt vì sợ. Mẹ tôi đứng ở kề bên. Tôi nghe được tiếng thở của bà. Tiếng thở đứt khúc, đứt đoạn, thấm đẫm tình mẫu tử. Mẹ đi tiễn tôi sang thế giới bên kia. Sợ. Nhưng tôi vẫn không van bà giữ tôi lại. Cơn khát, giấc mơ, cả hai trộn lẫn, thúc đẩy. Tôi nửa muốn sống, nửa muốn chết. Kỳ lạ, chính mẹ cũng không giữ tôi. Dù tôi đọc rõ đau khổ trên gương mặt bà. Mẹ tôi đau nỗi đau của người đàn bà lúc lâm bồn. Xẻ thịt, banh da, rạch tử cung, xé buồng nhau, mất huyết. Biết đau đớn nhưng vẫn ham sanh. Tánh khổ dâm tôi thừa hưởng từ mẹ, và sắp sống những giây phút khoái lạc đớn đau đầu tiên. Bạn bè đứng trước tôi lần lượt tự sát. Ðược tẩm liệm ngay trong lòng tàu. Tôi trông thấy những bà mẹ lạc thần gập người rụng xuống.

Tôi trông thấy đôi mắt các bạn tôi mở trừng trừng sau khi chết. Những đôi mắt trẻ phút vĩnh quyết còn cố thu vào chút hình ảnh chót cùng của quê hương, gia đình. Ðến phiên tôi, mẹ tôi gào khóc, vật vã thảm thiết, nhưng bà không làm cử chỉ bao bọc xòe hai tay kéo tôi vào lòng; bà không làm cử chỉ thiêng liêng gìn giữ đứa con của tất cả các bà mẹ trên thế giới. Sau bốn ngàn năm, các bà mẹ ở quê tôi thay đổi, sẵn sàng chứng kiến con mình chết để đánh đổi những giấc mơ. Họ tổ chức cho con cái những cuộc tự sát tập thể. Mẹ tôi đồng lõa và chính tôi cũng đồng lõa. Tôi bước xuống tàu. Bàn chân run rẩy sợ sệt, chưa kịp quay lại để nhìn mẹ lần cuối, thì gã thủy thủ đã xộc tới dùng mã bổ phập vào đầu tôi. Lưỡi rựa xắn ngập xuống óc hủy tức khắt một phần trí nhớ. Máu tôi phun bắn ra sàn tàu. Máu đỏ gấc, tươi rói vô tội dưới ánh sáng mặt trời. Tôi ngã chúi trong vũng máu. Tôi bơi trong máu của mình. Của mẹ. Tôi chưa chết, nhưng máu trào ra khắp mặt. Tôi gào mẹ. Lão tài công xông tới phụ với gã thủy thủ đầu tiên, dùng kéo cắt kẽm, cắt lưỡi không cho tôi gọi mẹ bằng tiếng mẹ đẻ. Tôi quẫy. Cái chết nào cũng đau đớn. Chủ tàu vừa quát gọi tài công nhổ neo, vừa lấy đinh chọc tiếp vào hai mắt khiến tôi mù lòa không trông thấy quê nữa. Tôi rú lên. Thịt da tôi tan nát. Nhưng lưỡi đã bị cắt, chỉ phát ra những tiếng la khắc khoải, âm thầm, lẳng lặng, kêu vang cho chính mình. Không ai can thiệp. Không ai thương xót. Tất cả dửng dưng. Tàu đã tách bến. Không phải con người ở quê tôi không còn tình cảm. Nhưng họ đã chứng kiến quá nhiều, trông thấy cái chết quá nhiều. Giá trị vĩnh hằng là những giấc mơ. Ðối với họ, chúng tôi là những tử thi sung sướng.

Ðám thủy thủ lấy cưa xẻ xác từng người đã chết ra từng khúc để bán cho hải tặc. Tiếng cưa máy réo inh ỏi man dại như tiếng hú của những con vật ăn thịt. Những khúc ruột xổ ra, bấy hầy, bị vất xuống biển, trôi theo nước cuốn về quê. Xương chúng tôi bị ném đi, rơi vào lòng đại dương mênh mông, dậy sóng, đầy dông tố, đá ngầm, san hô và những lỗ đen sâu hoắm mở ra chờ đợi. Tứ chi chúng tôi rơi không cưỡng lại được, không thể bám víu, gió phần phật... Nhưng lúc gã thủy thủ chẻ sọ thì tôi vùng dậy. Có ai chết mà muốn hài cốt mình chịu dầy xéo, đừng nói cưa tiện. Tôi vùng vẫy, đầu ngắc qua ngắc lại để tránh lưỡi cưa đương tì xuống. Lưỡi thép rít rè rè kêu xoáy kề màng tang, tôi khóc lóc van xin nài nỉ, vật nài khẩn khoản lạy lục xin tha, căn buồng nóng hơn một lò thiêu, chiếc giường chồng chềnh chao đảo nghiêng ngả nhấp nhô giữa áp xuất hầm như ở xứ nhiệt đới. Trần nhà không ngớt xoáy tròn, quay tựa một quả bông vụ ném vào khoảng không, xoay tít, mồ hôi tôi võng võn g chảy tháo ra ở hai bên nách, ở trũng lưng, ở cả bắp đùi nhớp nháp. Mặt đệm đầy nước. Nước mằn mặn lẫn rong rêu. Biển tràn vào buồng, tôi bơi giữa biển mồ hôi bám tìm sự sống, dẫy vùng tìm lối thoát, co đạp đấm vào cạnh giường kêu mẹ, lăn lộn tức tưởi tốc mền tốc chăn xé gối. Tôi giật tấm vải màn che cửa sổ, nắng ùa vào như thác nước xối phồng da mặt ném bừng ra khỏi cơn mộng. Giấc mơ khủng khiếp. Căn phòng ngộp hơi. Tôi thở hổn hển. Áp xuất ép làm những giọt mồ hôi nhỏ li ti vỡ ràn rụa. Ác mộng hãi hùng còn đeo bám in dấu trên mình tôi tím bầm, đầy dấu tay ấn của Chiến và những nhát búa tạ còn lồi lõm khắp ngực. Tôi nấc đứt quãng. Hoảng sợ. Chết đi sống lại. Giống vừa làm kinh. Máu mũi trong lúc trớ chảy đầy miệng.

Phải lâu lắm tôi mới hồi lại, rời cõi hoang vu để trở về với thực tại. Chung quanh lặng lẽ. Tất cả lặng lẽ. Tôi nhận ra mình đang nằm chính giữa căn buồng nhà Quý. Cánh quạt trần không biết Quý gắn từ bao giờ, ban sáng tôi vẫn còn chưa thấy, quay lờ đờ chậm chạp, không thổi được chút gió. Cánh quạt rình soi mói. Tôi sờ tay lên vách tường ẩm rêu. Căn phòng Quý cho tôi ở sát vách núi, chỉ cần mở cửa ra là chạm những khối đá tảng hoang vu xù xì. Tôi nghe được tiếng nước chảy ở đáy hồ Ba Bể, thường nhật sâu lắng, lúc này ầm ào kêu vang. Tiếng nước chỉ làm cho buổi trưa rộng thêm. Tôi không biết mình nằm trong buồng bao lâu, chỉ nghe rất rõ mọi tiếng động. Tiếng những ngọn cỏ mọc khắc khoải quanh nhà. Tiếng những cột gỗ trăn trở vặn vẹo ngoài hành lang. Tiếng mối mọt bò trong các ngách gỗ. Thậm chí đến tiếng trứng gà vỡ trong góc chuồng tôi cũng nghe được. Những mảnh trứng vỡ rạo rạo, non nớt xen kẽ tiếng động thật khẽ, yếu đuối của từng cánh cải cúc nhú mình cố vươn lên dưới gậm giường. Gian buồng mọc đầy cải cúc. Nở rợp, tươi tốt. Một vũng ói nhơ nhớp hôi thối nhầy nhụa trên mặt thảm. Tôi nghe tiếng thắt bóp của mạch máu, ở cườm tay, ở ngực, ở gân, ở não, ở dương vật của chính mình. Tiếng động của các tế bào sinh sôi nẩy nở rồi chết đi liên tục, sôi động, hàng hàng lớp lớp, cứ hết mớ này đến mớ khác, cứ hết lớp này đến lớp khác, tái tạo hủy diệt, sinh tử đổi ngôi cho nhau nhịp nhàng đều đặn theo một thứ chu kỳ bất tận. Những tiếng động mê hoặc miên man không dứt, lấn át cả giấc mơ ban nãy.

Trời mưa lúc nào tôi không rõ. Nắng quái của buổi chiều vụt biến, vụt tan, nhường cho màn sương mờ đục vây quanh nhà. Trận mưa mạnh, những hột mưa to, nặng, chậm, sâu như tiếng cuốc đám thổ dân ven nhà Quý mỗi sáng bổ vào lòng đất. Mưa xắn xuống bao lơn phòng tôi, tưới ướt những chậu quất. Hơi mưa man mát lẻn vào buồng kêu tí tách. Vách tường ẩm rêu chảy nhờn nước. Khối đá xù xì sát cửa sổ bắt đầu hồi sinh. Tôi nghe rõ chúng cựa mình tắm mưa. Trận mưa bất ngờ gột sạch những ám ảnh còn xót từ giấc mơ. Tôi trở nên tỉnh táo lạ lùng. Một thứ khoáng đạt nội tâm bất chợt. Giống trận mưa làm loãng ảnh hưởng của chén trà Thổ lúc nãy. Tôi nằm trên giường ngắm cơn dông rải đều răm rắp xuống dinh cơ của Quý những nắp nước bạc. Tôi thấy cần đàn bà. Quỳ hiện ra bất thình lình ở ngưỡng cửa.

“Trốn lên phòng đợi em phải không?”

Quỳ cười khúc khích, thân mật. Ngồi thụp xuống bên giường, xoãi người cắn vào tai tôi hỏi khẽ:

“Ðợi em lâu không? Lão Quý canh ngặt mãi mới tìm được cớ vào nhà hỏi chuyện con Nữ. Nhớ lắm nhỉ?”

Quỳ thủ thỉ. Luồn tay vào ngực áo tôi xoa xoa, những đốt tay Quỳ dịu mát, lan tới đâu như búp hồi tỏa hương mật, kích thích. Quỳ đưa tay vuốt tóc, lau vài giọt nước mưa còn bám. Cử chỉ thật dịu dàng, không chanh chua dữ tợn như ở dưới vườn. Nhưng tôi hãy còn chưa dứt khoát, dầu gì Quỳ cũng là vợ của Quý. Tôi cố gỡ tay, Quỳ cười rũ.

“Nhát thế à?”

Quỳ trườn người nắm tay tôi đặt lên đầu vú, bắt nắn se, mơn mơn, xoa xoa, di di, rồi lại cười rúc rích:

“Thích không? Lão Quý vừa giới thiệu anh là em thương ngay. Có thèm ngủ với em không? Sao lúc nãy em lận bài không mách?”

“Mách để làm gì?”

Nghe tôi trả lời, Quỳ cười thành tiếng.

“Ngây thơ nhỉ? Thảo nào lão Quý chê anh trẻ người non dạ. Nhưng em thương là được.”

Quỳ cởi áo, ném vào góc, ngực vú vun nở, trắng ngà, ưỡn ra quả quyết. Mắt Quỳ chợt chạm phải vũng ói trên mặt thảm.

“Say thật à?”

Không đợi tôi giải thích, Quỳ cúi gập người liếm vũng nôn. Dáng điệu mải miết, say mê, Quỳ nuốt thật sự những thứ tôi vừa nôn ra. Lưỡi thoăn thoắt dọn sạch những mẫu thịt nát lợn cợn. Bãi ói vơi dần đi, cho đến lúc sạch hẵn. Quỳ mút tay tiếc rẻ. Từ lúc Quỳ bước vào buồng, nũng nịu, tôi đã kích thích. Nhưng trông thấy một người đàn bà đẹp, quỳ nuốt những thứ mình vừa nôn ra khiến tôi càng cực ham muốn. Tôi chưa trông thấy hình ảnh nào dâm đãng bằng cảnh Quỳ uống các chất chua thải từ bao tử mình trây trên đất. Dương vật tôi săn cứng lại. Tôi muốn ôm chầm lấy Quỳ, Quỳ cũng nhận ra, chồm lên, cắn nghiến lấy tôi.

“Em giống con thú không? Nhai lại thức ăn của anh!”

Quỳ đong đưa ngực vú hôn tôi mê dại. Hai bắp tay nhễ nhại nối những đầu ngón tay xoắn xít. Quỳ tháo thắt lưng hộ tôi. Tấm đệm còn tắm mồ hôi, tôi với Quỳ ôm nhau trong nước, bềnh bồng lặn ngụp giữa thân xác. Tôi ham muốn kích ngất, muốn vật ngã Quỳ, ấn đầu Quỳ, đè ngửa Quỳ, banh dạng cơ thể Quỳ, hãm Quỳ ngay dưới chân giường, nhưng tay chân vẫn bải hoải sau giấc mơ, nặng nề không sao cử động được. Quỳ nhìn tôi thiếu kiên nhẫn. Mấy ngón tay nóng nảy tháo vội cúc.

“Anh còn say lắm để em giúp.”

Ðôi môi Quỳ chín rực, lên xuống, cuồng nhiệt. Quỳ mút khỏe. Chắc. Hăm hở. Vồ vập. Lớp son mỡ bóng rẫy đỏ rát. Sức vóc của người đàn bà chăm việc đồng áng. Toàn thân xác tôi bỗng phủ kiến, những đàn kiến bò khắp châu thân, cắn, tiêm mật vào các thớ gân, cùng lúc người tôi như tách rời ra, bay qua những cách đồng, lướt gió, lơ lửng, mải mê, những đám mây hoang lạ và núi rừng xuyên suốt qua người. Tôi nghe rõ mình kêu thất thanh giữa khoảng trống mênh mông vô tận, tôi bay theo hướng mây cuồn cuộn về phía mặt trời, không còn mưa, không còn bão, đã tắt dông, đã tắt nắng, nhưng vẫn sáng, thứ ánh sáng của tuổi thơ lấp lánh. Biển bầy ra trước mắt. Xanh thẳm, rùng rợn. Phút chốc tôi nhận ra bãi biển của giấc mơ, kinh dị. Tôi thét gọi mẹ, bấu lấy đầu Quỳ muốn ngừng, nhưng Quỳ vẫn tiếp tục, ngậm chắc, mải miết, nuốt trọn toàn thân tôi đang rơi trở lại vào đại dương của tuổi thơ tự sát. Tôi sống trở ngược cảm giác hoảng hốt, hoảng sợ, mà cũng cực kích thích, ham muốn tìm cái chết, tự nguyện chịu hành xác. Tôi bay trở ngược chập chùng qua biển lớn. Gió gào mang tai. Thịt da từ từ tươi trẻ, mắt từ từ trong, tuổi trẻ nhập trở lại trong mình tôi đầy tràn sức sống. Tôi thấy lại bến cồn lúp xúp những ghe xuồng chở người ra tàu lớn. Tôi thấy tôi đi trở lại qua lòng chợ. Quỳ vẫn không buông, mút lấy mút để, nuốt nhay hối hả, người tôi căng phồng như cánh diều no gió, bay lồng lộng phần phật qua những mái nhà, chùa đình miễu chợ. Tôi thấy lại tất cả. Tôi muốn bước xuống, muốn trở về nhà, muốn ngã vào lòng mẹ, nhưng Quỳ không cho, mười ngón tay vẫn bấu chắc, hối thúc, siết mạnh, đẩy đến cực điểm. Quỳ như kẻ thả diều bắt tôi lên cao nữa, lên cao mãi, lên cao cho đến lúc nổ tung, cho đến lúc bước chân xuống tàu bị giết. Lưỡi mác chém vào đầu, chém vào vai, xẻ óc, đổ thịt, tan xương, nát sọ, máu me nhầy nhụa. Tôi sợ. Gào. La. Thất thanh. Tiếng hét vang dội trong buồng, tiếng hét tháo ruột tháo gan trôi tuột tuổi thơ, sinh lực bao nhiêu lâu chôn giấu, giữ trong mình, đè nén, kềm hãm, chất chứa, căng thốn thúc bách giống lần xuất tinh đầu tiên ào ạt mạnh mẽ mãnh liệt bắn phun xối xả tuôn tưới tắm đằm đìa khuôn mặt Quỳ ướt đẫm.

Tôi thở dốc. Hào hển. Co thắt. Rút giật. Người run bần bật. Mạch máu não chùng đứt. Dương vật là con rắn bị cắt tiết.

Quỳ giật vải giường lau tóc, lau mặt, chùi những tinh trùng còn ngọ nguậy bám ở môi.

“Tối em qua buồng nhé.”

Quỳ âu yếm, ranh mãnh. Mặc áo và biến mất. Tôi nhắm nghiền mắt. Tiếng Quý gọi Quỳ vọng từ chốn nào xa vắng, xa xôi, xa lắm, vọng vẳng vang vang, văng vẳng như ở kiếp nào, thế giới nào trôi ngang qua buồng rồi đi khuất, mất hút.

*

Tết Giáp Tuất, chúng tôi hãy còn rất trẻ. Tuổi trẻ không trông thấy trên gương mặt, trong đôi mắt, ở làn da, nhưng hằn những giấc mơ khắc ghi không bao giờ mất. Tết Giáp Tuất. Bất cứ ngày nào cũng là Tết Giáp Tuất. Chiều nào cũng là chiều hai mươi tám Tết. Sáng nào cũng là sáng Mùng Một. Không có thời gian. Không có không gian. Không có khái niệm. Không có chuẩn mực nào để đo cuộc sống chúng tôi. Tôi về ở với Quý bao lâu, không ai biết. Chính tôi cũng không rõ. Chỉ thấy cơ ngơi Quý mỗi một ngày một quen thuộc. Chừng tôi đã sống nghìn năm dưới lớp mái vỏ cua, với những cột cái, cột quân, con chèn, cốn. Những cánh rừng phía sau nhà Quý rậm thêm, những giải núi mọc lấn dồn ra sát thềm lục địa, chân núi dẫm xuống biển, chống xuống vực sâu, mặt trời mọc ở hướng Bắc, mặt trăng lặn ở hướng Nam, trái đất có mười lục địa, con người có tuổi thọ một ngàn năm, chúng tôi không cần biết. Quý tiếp tục tiệc rượu ê hề thừa mứa. Chiến tiếp tục với cỗ bài mê hoặc, và tôi xuất tinh lên gương mặt Quỳ rạng rỡ.

Một đêm sau tiệc rượu, chừng vất vỏ chai, tôi bắt đầu chếch choáng. Quý bốc máu, rủ:

“Ðêm qua có bầy sơn dương trên núi. Thế nào cũng sót lắm chú còn lẩn quẩn. Ði bắn về ăn!”

Quý hùng hục lục trong rương đưa tôi một khẩu AK, hai bộc phá, còn anh vác thượng liên 12 ly 7 với B40.

Trời quang đãng, ngôi đất chan nắng. Quý vào nhà xe chất đạn. Chiếc Mercédes 500 SEL đời mới của anh bóng lóa.

Kể từ phút giây này về sau, Quý hoàn toàn im lặng, keo kiết lời nói đến mức ngột ngạt. Chúng tôi như bước qua một thế giới khác. Một thế giới có hiểm nguy rình rập, mà tuồng Quý quen thuộc lắm. Anh phạt lau, nứa, đi cắm mạng hơn chạy, băng băng, chốc chốc mới quay lại ra hiệu cho tôi bám sát vượt bãi. Trước mỗi trảng trống Quý đều sợ hãi nhìn trời lo lắng phỏng đoán tai họa có thể đổ ập xuống. Người tôi mệt rũ, bao nhiêu gò đất, hốc núi vượt qua, con đường mòn cứ hun hút ngoằn ngoèo dưới tán rừng tua tủa bạch đàn. Gai góc, dây leo, chằng chịt như nghìn cánh tay mực bám víu. Tôi muốn gọi Quý nghỉ mệt, nhưng anh đã hối:

“Vận động vượt bãi!”

Quý lao về phía trước, lưng khòm xuống, mặt ngửa nhìn trời, đùi và cả hai tay anh bơi sải cật lực vạch lau lách. Bốn tay chân Quý quơ quào tựa một con thú hối hả tìm chỗ trú. Khoảng trảng trống xanh đẫm mây trắng trôi cuồn cuộn đẹp khác thường. Giống một dòng sông hực nắng hoang dã chảy vắt ngang trời. Chúng tôi đã sang đến bên này bìa rừng mà Quý hãy còn giục:

“Khẩn trương lên giặc lái đến bây giờ!”

Chúng hiện ra ngay khi ấy. Ở ngay lúc Quý vừa dứt lời. Ở chính giữa trảng. Ðẹp vô ngần. Cả tôi và Quý sửng sốt. Choáng váng. Không phải vẻ đẹp thông thường mà là nét đẹp huyền sử, truyền thống; nét đẹp cổ xưa đã có từ nghìn năm. Giống một bức vẽ truyền thần gia bảo. Giống một nét họa dân gian bảo lưu đã mấy ngàn đời. Từ ánh mắt cổ kính long lanh chan chứa, đến vóc dáng thần thoại óng chuốt màu sắc. Bầy rồng trăm con uốn lượn nhịp nhàng tựa trăm cô gái múa lụa. Chúng vừa cổ tích, vừa thật. Trăm con rồng đang quỳ xuống đứng lên uyển chuyển, nhẩy múa vờn vờn nô giỡn chuyền nhau những trái cầu. Những trái hỏa long bay phấp phới, bồng bềnh nhẹ như trứng, mọng như những búp hoa được gió nâng, lửa thổi. Ðẹp mê ảo. Tôi vụt tìm thấy lại sự bình yên sâu thẳm bấy lâu đánh mất: Chúng hãy còn sống. Chúng chưa quên và theo tôi sang tận chốn này.

Những cơn mưa ở đâu bất chợt rưới rạt rào trời đất. Mưa thác lũ. Ðúng rồi những trận mưa cũ, ấm, nóng. Tôi thấy lại mình chạy vui sướng qua những hẻm ngách. Nước vồn vã thăm hỏi bốn bề. Nước reo hò. Mưa ngập đến gối. Ðất trời là một ao hồ dậy sóng. Những vách tường bóng nhẫy rêu loang loáng vôi vàng tắm ướt cười nấc nẻ mở lối đưa tôi đến đứng trước thềm điện. Ðền Hùng. Uy nghi. Lẫm liệt. Hoành tráng như trong những bài thơ. Và chúng ở đó, đậu trên nóc. Uy vũ mà thân thiện. Tôi quen chúng từ thuở sơ sinh, còn nằm ẵm ngửa mẹ bồng đến xin xăm. Bầy rồng vui vẻ vẫy đuôi gọi. Hoan hỉ đón mừng. Ở mỗi cột ngách chùa đều có một chú rồng con đợi tôi, ngoe nguẩy cọng râu, hơi hích mũi mỉm cười. Tôi chuyện trò với chúng, thì thầm gọi tên những người bạn thiết: Hoàng ơi Thanh ơi Hỏa ơi. Tôi đưa tay chào. Chúng lắc đuôi vẫy. Bao giờ chúng cũng xà xuống và đêm về theo tôi vào những giấc mộng. Có khi tôi vô tình mở cuốn vở lịch sử, chúng đã hiện hình ngay trên trang giấy, nằm cuộn dưới chân. Suốt thời thơ ấu có bao giờ chúng tôi xa nhau. Mưa ướt mặt, tắm mát ký ức, nhưng tôi thấy chúng khóc. Chúng đã hiện ra bằng xương thịt cho tôi trông rõ. Chúng cũng xúc động gặp lại tôi ở chốn này, muôn vàn xa cách. Tôi muốn gọi Quý, kể cho anh nghe mối tình của tôi với chúng chia cách mấy đại dương, nghìn trùng đã bao năm.

Nhưng Quý giơ cao súng. Tôi hãi hùng trông thấy những dây đạn chầm chậm chạy vào nòng thép. Hãi hùng thét gọi. Hốt hoảng, thảng thốt. Tôi chạy níu lấy Quý, la, gào, dằng co cản trở, quỳ van vái tế lậy dưới chân anh, nhưng Quý đạp tôi ngã, hươi súng bắn xối xả vào bầy rồng tán loạn. Tiếng súng của Quý nổ chát chúa. Xé trảng. Ghim vào bầy rồng lỗ chỗ. Từng dây đạn 12 ly 7 tóe lửa. Những tiếng rú đau đớn đinh tai. Những tiếng rú thảm khốc. Những tia máu phụt đỏ thẫm chan hòa chân trời. Những thây rồng lăn lộn ngã quỵ xuống trảng. Những tiếng kêu rên áo não trong lúc Quý tiếp tục tưới đạn. Tôi gào khóc, đau đớn, vật vã, cấu xé, lao vào Quý bị đẩy bật ra rồi lại lao vào. Những bầy rồng con ngã sõng soài. Tôi trông rõ một đứa trẻ máu ứa ra ở mũi, ở lỗ tai, ôm chùm ruột cố bò lết ra khỏi trảng. Vết máu trườn theo người nó đỏ bầm. Quý xô tôi, ném bộc phá, và bắn B40 kết thúc. Những gắp đạn vãi lên xác đứa bé còn hấp hối, tiện đứt cánh tay nó còn đang cố chìa ra phía trước khẩn khoản. Ðứa bé chết giữa đồng xanh mây trắng. Máu, xác, chân tay đầu bụng ngổn ngang.

Có thứ tội ác chỉ phạm một lần đủ hủy diệt con người. Nhưng có thứ tội ác nặng nề hơn nữa: Không biết mình tàn ác. Quý thuộc về tội ác thứ nhì. Còn tôi? Kẻ chứng kiến, tôi thuộc về tội ác thứ mấy?

*

Tôi còn đang tìm kiếm tên mình trên bảng phân loại tội ác, thì Quý xấn xổ lấy cưa máy xẻ thịt rồng. Con rồng con đỏ hỏn vừa bắn về tươi rói, khoe những thớ thịt trẻ thơ bụ bẫm. Ghê sợ. Nhưng tôi cũng không cưỡng lại được niềm phấn kích, hồ hởi, của cảm giác được ăn thịt tươi lần đầu không đông lạnh. Tôi phụ với Quý luộc thịt, gói bánh tráng, trong lúc Quỳ bằm xả, thái ớt, xay dứa làm mắm nêm. Chiến lấy dao phay chặt thịt đùi để nướng chả. Quỳ nướng bánh đa làm thêm mấy món đặc sản, lẩu, lòng, rựa mận, một mâm gỏi bao tử trộn với bưởi, một chén thịt đông, ba đĩa thận hấp. Quý còn cắt đầu rồng nấu cháo đậu xanh để dành tối. Chúng tôi say sưa xông đất ăn nhậu thỏa thích trong xác pháo hồng đỏ rợp thềm năm mới.

Chỉ sáng Mùng Một mọi người mới khám phá ra nỗi buồn hoang vu u uất. Thứ nỗi buồn héo tim gan, chín thịt xương. Như một thứ mầm độc gieo trong lòng. Thế giới là một khoảng trống không vô nghĩa. Cuộc đời là những tuyệt vọng liên tiếp chờ đợi một hạnh phúc không bao giờ xảy đến. Ban đêm là những giấc ngủ khó khăn khô cằn mộng mị. Ban ngày là những buổi sáng thiếu vắng tương lai. Sống nhưng bị kết án. Tự trong thâm tâm chúng tôi hiểu đã phạm tội tổ tông và chờ đợi một hình phạt. Sự trừng phạt xảy ra buổi chiều con gái Quý đi biểu tình chống kỳ thị trở về.

Nữ đến đứng trước bàn thách thức:

“Je pars avec mon mec.”

“Thằng nào?”

Quý gầm. Quỳ cũng chồm tới. Nữ chạy giật lùi tránh bàn tay của Quý vươn chụp tóc.

“Il est Turc. C'est un immigré comme vous. Il vit en Allemagne, je veux partager sa vie.”

“Mày ở nhà! Tao cấm mày ngủ với bọn Thổ.”

Quý nắm được tóc Nữ, vít lấy đầu vả tới tấp. Nữ xổ tóc tai gào khóc dẫy dụa, nhưng càng dẫy Quý càng đánh.

“Mày chết đi!”

“Vous êtes dégueulasses. Vous aussi, vous êtes des immigrés. Des Turcs!”

Nữ vùng vẫy, nhưng Quỳ phụ với Quý lấy dây điện quất vào mặt Nữ không cho cãi. Quý trói lôi con gái sềnh sệch lên lầu khóa trái. Chiếc vòng ngọc Nữ đeo ở cổ tay nứt rớt trên mặt đất, tôi cúi lượm thấy vỡ giữa lòng bàn tay mình một nỗi ham muốn mới kỳ dị. Quý chìm đắm trở lại vào trong nỗi buồn tổ tông hiu quạnh, hạnh phúc hoài thai vì thiếu vắng bầy rồng quen thuộc. Chiến lơ đãng với cỗ bài đánh tráo thời gian. Quỳ thêu móc áo lót đờ đẫn. Tôi đi tìm căn nguyên của nỗi ham mê mới mẻ hình thành trong mình. Không có khám phá nào kích thích bằng khám phá trẻ thơ.

Nữ đợi tôi giữa buồng. Mái tóc con gái vuốt mềm xuống lưng áo dài phin trắng. Nỗi ham mê mới trong tôi đẹp ngây ngất như tuổi mười bốn mười lăm ở gương mặt Nữ trái soan mơ ước. Ánh mắt hồn nhiên, vạt áo lụa nõn khép nép. Nữ đẹp tựa các cô nữ sinh tuổi cài trâm tôi vẫn rình đón trước cổng trường dạo nào. Ðôi môi chúm chím, khóe mắt lãng mạn, sóng mũi bé nhỏ thẹn thùng. Cả khung trời hoa mộng dĩ vãng cũ bừng sáng. Tôi xúc động cầm nắm lấy tay Nữ thảng thốt.

“Em là ám ảnh của anh.”

“Sao đón em muộn?”

Nữ ngạc nhiên. Mắt e lệ. Người tôi run lên vì sung sướng. Nữ nói được tiếng quê tôi. Tôi vẫn mong Nữ đừng nói tiếng thổ dân, đôi vai Nữ run rẩy lúc tôi kéo ngã vào lòng, hôn dậm dụi mê đắm. Thổn thức. Tôi hôn cuồng nhiệt đôi môi nở ngát của người yêu. Nhưng Nữ đẩy tôi ra, thỏ thẻ:

“Anh xin bố mẹ cho em sang Ðức sống với Mohamed.”

Ðầu óc tôi bàng hoàng. Hóa ra Nữ vẫn yêu thằng đường Thổ. Có tiếng cãi vã dưới vườn.

Chiến trách Quý đã bắn con thú đẹp nhất. Quý chửi Chiến rước thú về dầy mả tổ. Rồi đột ngột tiếng súng nổ. Tiếng M-16 chen lẫn tiếng AK. Tiếng đại bác 155 ly pháo cùng lúc với sơn pháo 130 ly từ trong núi thúc xuống. Tường vách rung chuyển. Trần vách nền nhà xốc tung lên dưới mỗi tiếng nổ. Ngày hôm nay là ngày 19 tháng Sáu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cũng là ngày 2 tháng Chín Tuyên Ngôn Ba Ðình lịch sử. Tôi hoảng hốt. Chiến tranh trở lại. Mùng Một Tết chưa qua, hưu chiến chưa hết, nhưng lửa cháy ngoài hành lang, Nữ kêu cứu. Tôi chạy xuống vườn, Chiến đang tưới xăng ném lựu đạn lân tinh đốt Thế Miếu. Tôi cản Chiến.

“Anh điên rồi!”

”Mày câm đi. Miếu này là miếu của nhà thằng Quý. Tao đốt nhà nó!”

Trên đầu súng ta đi tổ quốc đã vươn mình Tiếng kèn xuất quân Chiến vút lên cao: Trên lưỡi lê căm hờn hờn căm với xiềng xích Khu vườn vắng tanh, Quỳ biến đâu mất tôi không rõ, tôi chạy ra Phật điện tìm Quý, anh đang vớt dưới hồ Ba Bể một rương hòm chất đầy súng cối, súng không giật, mìn đĩa và chất nổ TNT.

“Hết chiến tranh rồi sao các anh còn bắn nhau?”

“Mày con nít biết gì! Tao giết nó!”

Quý ráp bửng súng cối rót đạn vào chỗ tôi và Chiến vừa đứng lúc nãy. Tiếng ”départ” của mortier thúc vào dẫy nhà trước tháp Bảo Nghiêm cháy phừng phừng. Tôi nhớ Nữ hãy còn bị nhốt trong buồng, dẫy lầu đang phát hỏa dữ dội. Quý như kẻ động kinh vừa pháo kích vừa phồng mang trợn mắt: Tiến về Sài Gòn ta quét sạch giặc thù! Tôi chạy trở lên lầu, người tôi cũng bị kích động đột ngột. Mái tóc Nữ rõ ràng thay đổi màu sắc, những lọn vàng óng ánh buông thả nhởn nhơ trên áo T-shirt bó người. Nữ chẳng khác những bé gái thổ dân vừa lớn, ngực vú mời mọc, tươi mát, kích thích. Tôi ôm ghì Nữ. Tiếng quân nhạc Chiến đang bắn pháo bông duyệt binh vọng vào buồng rõ mồn một: Giặc miền Bắc vô đây bàn tay sát hại đồng bào, Bình Long quê hương tôi mồ chôn xác giặc hung tàn, hàng T-54 còn nằm phơi xác quanh đây Tôi xé áo Nữ thịt da trẻ thơ máu xương vô tội, tôi nhai nghiến lấy núm ngực Nữ mềm mại đỏ son trắng ngọt. Ðêm nay là đêm Mậu Thân chôn sống tập thể. Chiều nay là chiều Mỹ Lai tàn sát không nương tay. Sáng mai là sáng hải tặc cưỡng hiếp thỏa thích. Chiều đi lên đồi cao hát trên những xác người tiếng hát Quỳ lảnh lót. Trả con cho tao Quỳ gào; Quý đồng ca sau Phật điện: Diệt hết lũ ác ôn tiêu diệt giặc Mỹ bạo tàn, nhân dân yêu nước đang cùng xuống đường bên bao binh sĩ đêm ngày mong chờ... Hỏa tiễn 122 ly bay rót vào trường tiểu học Cai Lậy, đuôi lửa bay ngang ô cửa sổ lúc tôi tốc váy giật quần lót Nữ. Tôi muốn chiếm đoạt tuổi trẻ phơi phới sung sướng đầy đủ không lo nghĩ tương lai vững chắc của Nữ, muốn xé bằng đại học Nữ sắp có, muốn đập phá ngây thơ trên thân xác Nữ tươi trẻ chưa biết bom đạn. Muốn tuổi thơ Nữ phải khốn khổ như tuổi thơ tôi. Lửa lóa lên. Nữ lấy hai tay che ngực che bụng van lậy, tôi nắm tóc Nữ ấn đầu xuống gối bẻ quặt tay mở cúc quần mình. Thân thể Nữ tròn mịn, như cánh đồng lúa chín căng những hột thóc; Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng Quý gào sát mang tai, Chiến bắc loa thổi kèn đánh trống: Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại, xương da thịt mẹ cha ông miệt mài Tôi đâm Nữ bằng tất cả sức mạnh, trí tuệ và cơ bắp. Máu chảy ở vết thương, máu đỏ gấc như máu những trẻ nít chết ở Mỹ Lai, như máu học trò chết trong trường tiểu học Cai Lậy, tôi cắm phập thân thể, lưỡi kiếm sắc nhọn, to, bén, đâm từ từ sâu hút, chẻ đôi thân xác, xuyên suốt thịt da, cắt gân cắt thịt. Nữ oằn người gào. Khóc. Tôi bẻ quặt hai cánh tay Nữ lên tới bả vai, bẻ giật cánh khuỷu. Lửa liếm vào buồng cháy lan mùng màn chăn chiếu. Súng nổ tứ bề, Quỳ gọi khản cổ Trả con cho tao, tiếng Quý bắt nhịp bài ca Kết Ðoàn và giọng tenor của Chiến hùng tráng nung nấu. Cờ bay trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu; Tôi đâm vào nữa. Ðâm vào chỗ thịt mềm nhất. Ðâm như đâm thú. Giết trâu giết bò giết chó. Chiều đi lên đồi cao hát trên những xác người Tôi muốn sống cuộc chiến đang xẩy ra. Muốn tham dự. Phạm tội. Trực diện. Lãnh trách nhiệm. Muốn trông thấy những hố hầm đang chôn vùi thân xác anh em, muốn giết người một lần. Muốn sống cảm giác bắn người là mê suốt đời như Chiến và Quý thường nói. Tôi hãm Nữ tàn khốc. Tôi giết tuổi thơ của Nữ. Lăng nhục cha mẹ, làm nhục tuổi hoa niên của Nữ. Thỏa mãn.

Cánh Đồng Mùa Gặt Khô

cho những bữa rượu sân si Cách đây không lâu, một lần tôi nhờ Tam đến nhà làm hộ bữa tiệc. Tam đi vượt biên từ miền Bắc, ngoài giọng nói phát âm nặng hơi của vùng núi đá vôi Ninh Bình, anh còn đem sang đất Pháp cả thuật nấu ăn kỳ diệu. Tài bếp núc của Tam không chỉ ngon ở miếng dồi tiết bầm sả, lúc đem nướng tỏa bốc thơm ngào ngạt, hay trong mơn mởn ở bát canh cải có ngâm gừng, nổi xanh non nõn từng cọng cải tươi che giấu miếng giò gà trắng mịn. Cái khéo của Tam là ở chỗ làm cho thức ăn trở nên thật bắt mắt, quyến rũ, lôi cuốn đến điên người. Quả tình có đứng ở bên cạnh, trông thấy anh làm bếp thì mới triệt thấu rõ hết những tài hoa điệu nghệ trổ vươn đâm ra từ mười ngón tay phù thủy của Tam không ngớt vung vẩy, múa may thoăn thoắt, lúc anh nhồi vào thân mực ống nào thịt bầm, nấm hương, hành tỏi xắt vụn trộn với miến. Xong món mực ống là Tam bắt đầu thái thịt. Cả một dẻo thịt bò cứ thế lụn dần rồi biến mất. Con dao to bản tôi mua ở chợ Sắt được dịp hoa vun vút. Trông xa Tam như người thuật sĩ đương múa kiếm. Chẳng vậy mà từ khi biết Tam, tôi vẫn thường có thói quen thích lượn lờ bên cạnh mỗi khi anh làm bếp, bởi tôi vốn có nhiều thiện cảm với món mực ống nhồi làm theo kiểu Hải Phòng, lẫn cảm mến đức tánh rất mực hiền hòa của Tam. Bữa đó, tôi nhớ có hỏi Tam: Vì sao anh hay làm các món ăn miền bể, mà ít khi chịu cho chúng tôi thưởng thức nghệ thuật bếp của quê hương anh ? Ninh Bình chắc hẳn có nhiều món ngon vật lạ như trên khắp các miền đất nước ? Hôm ấy tôi chỉ hỏi đùa, ai ngờ câu hỏi của tôi lại làm Tam mất hẳn sinh khí của một người đầu bếp đương hăng. Anh ngừng hẳn tay, thõng cho lưỡi dao hươi xuống đất, dáng vẻ của Tam giống dáng dấp của một người viết văn bỗng nhiên khựng lại vì bị ai hỏi xoáy vào tận cùng chốn tư duy giấu kín. Bản dao chênh chếch, lóe chút sắc kim lạnh phản chiếu lên mặt, xuất nắng hiu hiu của Paris đầu hè càng làm cho vẻ mặt Tam thêm tiềm ẩn. Tôi nhớ lúc ấy, ánh kim loại bật lên làm mặt anh như bị chẻ đôi. Mà là thứ vệt cắt từ trong ra ngoài. Cặp mắt Tam hấp háy, anh ngập ngừng chùi tay vào quần, rồi mới rút vội điếu thuốc tôi mời. Tam rít vài ngụm khói, trước khi phả ra ngoài cửa sổ. Lẫn trong màn khói làm như cũng có chất suy tư nặng sền sệt, dầy dặc len vào những bụi cây. Lần nào đến nhà tôi, hình như Tam cũng chỉ làm có ngần ấy cử chỉ: thái thịt, xắt hành, bầm sả, nhồi mực, đánh vẩy cá, pha tiết, rồi thở cho khói bay qua ô vuông cửa. Ðến lúc điếu thuốc cháy gần hết, anh mới quay lại, giọng buồn buồn: Ninh Bình quê anh nghèo lắm, chỉ có vôi và núi đá. Núi, Vôi, Ðất, Ðá là quê hương, nhưng những thứ đó không ăn được. Muốn ăn ngon thì phải đi xa, thật xa, càng xa bao nhiêu thì vật lạ của ngon càng nhiều chừng ấy. Ở đời thường có nhiều chuyện ngược ngạo, chính những kẻ nghèo khó, không may mắn, cơ cực ở đời lại là những người dám bán mạng vì miếng ăn, là những kẻ khó ăn, sành ăn, và thích ăn. Tam nói là anh ở trong số những con người ấy. Tam bỏ Ninh Bình ra Hải Phòng vì những lưới cá tươi, cách hấp cá, làm bún, rang cua, nhồi mực của những phu phen ven bến cảng. Hải Phòng thì có gì mà đẹp. Thô lậu bỏ cha! Tam chắc lưỡi mỉa. Chỉ được nước bạo phổi, bạo ăn, bạo đàn đúm, chẳng thế mà phát sinh ra điệu hát Ðúm Hải Phòng, tương tợ như hát quan họ Bắc Ninh, nhưng giản dị và bình dân, ít rườm rà, “nhộn” hơn nhiều. Nhưng cậu đừng tưởng bở là bọn Hải Phòng hiếu khách! Tam lên giọng bất chợt. Anh lấy cán dao gõ gõ đập đập vào mặt bàn như muốn nhấn mạnh, hù họa kẻ chưa bao giờ trông thấy miền Bắc là tôi. Hải Phòng là đất thảo khấu! Dân anh chị có, bọn buôn chui chém mướn có, đảng viên thoái hóa có, cán bộ nòng cốt đi đêm có, tàn dư phong kiến địa chủ tái sinh cũng có, tất cả mọi người hội tụ về chỗ điểm nóng ấy để giành nhau chút khoắng bể nhổ neo cho tàu rời nước. Kỳ quặc là ở chỗ đó. Ở miền Bắc sau này ăn là lẽ sống, được ăn nhiều, uống nhiều... thoải mái, tức là có thực thi dân chủ! Dĩ nhiên cái ngon ở Hải Phòng không thể nào sánh bằng miếng ngon Hà Nội. Bánh đúc, bánh tôm, cốm vòng, tiết canh vịt... từ thời Lý Công Uẩn cho tới đời Lê mạt ở Hà Nội thì vẫn tuyệt sắc. Nhưng ở Hà Nội, ăn giữa khung cảnh sừng sững của lịch sử, nhấm nháp bát bún chả mà cứ khổ não vì chung quanh chứng tích công đức của tiền nhân nhiều quá, công khó oai hùng ngày xưa nhiều quá, rực rỡ là thế mà thời đại mình thì cứ tàn lụi, tâm thần ray rứt thì còn bụng dạ đâu mà thưởng thức. Bốn bề tiền nhân, văn hóa bao đời, từ cái cổng Văn Miếu, đến ngôi đền Quan Thánh, tượng Trấn Võ... sao mà lắm! Của ngon có dâng đến miệng cũng chả nuốt được. Nghẹn! Phải nói là mình bị nghẹn!

Tam uống bia, lý giải cái phần tâm linh nhầu nát trong anh những ngày còn ở quê nhà. Cách kể chuyện, lối so đo của Tam có vẻ hơi cường điệu, giống lối kể chuyện của những người Bắc vào Nam sau năm 75, khiến tôi đâm ngờ ngợ, nghĩ là anh nói quá. Ăn ở đâu thì ăn. Cớ gì phải sợ hãi lịch sử ? Ngày trước tôi vẫn thường hay ăn dồi chó bên hông Lăng Ông Bà Chiểu, mà có mặc cảm bao giờ đâu? Chừng như đoán ra được ý nghĩ trong đầu tôi, Tam chắc lưỡi: Cậu không tin thì cứ về du lịch nước mình một chuyến. Ra Hà Nội vào ăn chả cá ở quán Lã Vọng thì sẽ thấy, chan mắm tôm lên bún mà sao mùi mắm với mùi rau thì là cứ xông lên đến là bẽ bàng. Mỡ xối lên cá kêu xèo xèo cũng không đánh thức được những rạo rực trong bụng mình. Chỉ vì không khí, khung cảnh, con người, cuộc sống ở Hà Nội nó nhếch nhác thế nào, không giống ở Hải Phòng.

- Nhưng ở Hải Phòng thì khác ra sao ?

Tôi nóng nảy, bộp chộp hỏi.

- Khác chứ!

Tam chìa ly cho tôi rót thêm bia. Những sóng bia vàng óng ánh, tưởng là sóng biển xanh ngoài vịnh Bắc Việt còn đọng trong mắt Tam lăn tăn. Khác lắm. Bát bún tàu xào cua bể ăn ở Hải Phòng không chỉ có nấm mèo, thịt cua, hành ngò, mà còn trộn lẫn mây trắng, ước mơ của thuyền bè đến từ biển lớn. Sau này Hải Phòng là trung tâm xuất khẩu người đi Hồng Kông. Ăn ở Hải Phòng, là ăn với tâm trạng nắm bắt được tương lai trước mắt. Bát miến cuối, ngày mai đời nở hoa! Mình sống với ý nghĩ không còn vướng bận, trách nhiệm gì với 4000 năm lịch sử đang vây kín chung quanh mình nữa. Thoải mái ăn, tự do ăn, hạnh phúc dân chủ mớm được tới nơi... ! Tam cười ha hả, giọng Bắc đậm đà hào sảng. Cười đã đời rồi anh vụt im lặng, trở lại làm bếp, như thể anh chẳng còn liên quan gì đến câu chuyện nữa. Tam nhẫn nại thái da heo ngâm vào nước nóng, rồi giã gừng lấy tinh chất, chế vào thau nước lạnh, cho thêm rượu trắng, thả bóng bóp nhẹ... Không trông thấy mặt, song tôi biết anh xúc động lắm, bởi cử chỉ Tam không còn nhịp nhàng, đứt quãng, như anh phải thừ người suy nghĩ để nhớ ra mình đang làm gì. Chén rượu trắng pha nước lã trong tay Tam cứ chao nghiêng ngả như chỉ chực đổ. Cách “hãm”, lối kềm chế những tình cảm vui buồn, thất vọng, khổ não, bất ngờ dậy dâng trong lòng Tam khiến tôi cũng buồn lây. Những thống khoái, há hê, tin tưởng vào cuộc đời ở những con người như Tam, sang đến trại Cấm Hồng Kông bỗng nhiên bị đập vỡ, đập vụn, tan thành từng mảnh. Có là con vật cũng phải chua xót.

Bữa tiệc chiều đó, tôi ăn không ngon, nuốt không vui. Miếng rượu cay cất mười hai năm trong chai đục, nút có đóng sáp, mua với giá một ngày lương mà rót vô miệng vẫn thấy đắng.

* Hình như tôi có duyên với Tam. Tuổi rượu tôi thua tuổi rượu anh, thế giới của tôi khác xa thế giới của anh, tôi sinh trưởng trong một gia đình tiểu tư sản thành thị miền Nam, không biết thế nào là đói, khổ, là oằn oại nhão người. Song giữa tôi và Tam hình như còn có một cái gì khác, phải lâu lắm sau này tôi mới nhận ra trong anh là cái phần thằng người miền Bắc trong tôi không được sống. Nó ở đó. Chờ đợi. Câm nín và chờ đợi. Nhưng chờ đợi điều gì ? Bao nhiêu đêm tôi thức trắng tự hỏi ? Tôi cần gì ? Kiếm gì ? Và tìm gì ở cái đất nước này ? Ðất nước ba trăm sáu mươi lăm ngày thuế má. Ðất nước đi rửa chén cũng phải có bằng. Ðất nước ăn ngủ mối tình đầu không thấy người yêu nhỏ giọt nước mắt khóc cho phần trinh tiết đánh mất.

Một lần khác, tôi rủ Tam đi dạo phố. Phố xá ở đây thì chỉ có hàng quán. Sang ra khu Khải Hoàn Môn, nghèo lầm lũi trong những con đường hầm ngun ngút mắt. Không có thành phố nào tồi tệ, sống chui rúc dưới đất bằng Paris. Mồ hôi, thuốc lá, son phấn, bọ rận chen chúc nhau trong những toa tàu cáu bẩn. Bên trên sự cáu bẩn đó là quán Fouquet. Trời mùa hè, nắng phơi bên trên những tàng dù lấp phấp. Tam gọi một ly đế William Bon Père. Tôi kêu hai chope bia vàng ngậy. Lúc tôi uống hết chope thứ nhất, một tên Ả Rập đi ngang, giọng hát nghìn lẻ một đêm vang từ máy cassette trên vai hắn đong đưa rên rỉ thiểu não chảy vào giữa dòng người cuồn cuộn khắp mặt lộ. Tiếng hát Ả Rập nghe trước quán Fouquet, đối diện tiệm nhảy Lido tương phản đến lạ lùng. Tôi có cảm tưởng phải nghe cải lương trong Caféteria Rex. Song Tam lại tỏ vẻ thích thú. Anh bảo tôi thằng này khá đấy. Ngày xưa có lần đi Tunisie, dẫm chân vào khu sa mạc cát vàng, tôi cũng có lần bắt gặp thứ âm thanh nỉ non, rung nhiều ở đầu lưỡi, và “láy” bằng cổ họng vang vang trên mặt đất. Quả tình, chỉ có trên sa mạc, nhạc Ả Rập mới cất hết sức chuyên chở kỳ bí của nó. Âm thanh cứ kéo dài ra mãi. Nhạc Ả Rập lạ ở giọng ngân, một thứ ngân gần như khốn khổ đứt hơi, mà cứ phải ngân hoài hủy. Chuyến autocar bỏ chúng tôi xuống bách bộ, chỉ có một máy transitor nhỏ của người tài xế mà tiếng ngân như đi suốt sa mạc. Ði hết cả một nền trời đỏ cát lừng lững nắng. Có tiếng nhạc mắc võng trên đầu những trụ điện tồi tàn của Tunis, luồn lách trong chợ Souk, băng ngang cổng đền cấm đàn bà, và bám trên những mảng thịt cừu đỏ tươi treo bằng móc đen đặc ruồi bu, thì mới thấy hết cái hay của nhạc. Nhưng ở đây, trong khu Khải Hoàn Môn sang trọng, âm thanh trở nên lạc lõng kỳ dị, gần như một thứ quái thai. Vậy mà Tam lại bảo khá! Tôi nhìn Tam không mấy hiểu. Tam chiêu một hơi đế, hỏi ngược:

- Cậu có dám vác máy ra đây phát nhạc hồ quảng, cải lương không ?

- Anh khùng à! Tây nó cười cho.

- Thế thì cậu thua thằng Ả Rập rồi. Niềm tự hào dân tộc của hắn mạnh hơn cậu.

- Tự hào không đúng chỗ!

- Ừ, đúng. Tự hào không đúng chỗ. Nhưng vẫn cứ là tự hào.

Tam uống cạn ly đế. Không nói gì nữa. Như đã rời xa, trở về đất nước. Cái con người ham sống, thích ăn, thích uống ở anh như biến đâu mất. Cả cái kẻ làm bếp tài hoa sống động cũng không còn ngồi đó nữa. Tam có lẽ đã trở về với những khoảng sân thượng chìm trong màu lam đục của buổi chiều tắt nắng Hà Nội. Tam có đôi mắt mệt mỏi, khuôn mặt mang nhiều vết tích cuộc đời, ở nhân dáng anh hình như chỉ đội chiếc mũ phở là hợp nhất. Mà Tam có lẽ cũng chỉ hợp với vị trí anh hàng phở, tự hào về nồi nước gia truyền, về thế đứng chỗ đậu của chiếc xe kéo thơm lừng nước dùng. Nếu lùi được nửa thế kỷ, Tam sẽ là anh hàng phở Sức. Chậm nửa thế kỷ, anh ngồi đây, dưới chân Khải Hoàn Môn vĩ đại, nhưng vô dụng. Ngồi quán chán, tôi với Tam về nhà. Nắng sắp tắt, còn phải lo bữa chiều.

* Tam mở chạn bếp, lấy vỉ sắt, bật ga cho nóng rồi mới thảy một chân giò heo lên trên. Ðùi heo săn ngay lại, bắt đầu đen cháy. Bao giờ mùi thịt nướng cũng khơi dậy hình ảnh trong trí óc tôi. Miếng dồi chó tím lợt, hay miếng chả nướng bằng than tàu đỏ rực chảy nhễu mỡ ròng ròng cứ ám ảnh đeo đuổi tôi hoài. Tôi mở tủ tìm rượu. Bản nhạc Ả Rập lúc nãy đã tan mất, chỉ còn mùi vị quê hương thơm lừng ngầy ngậy giữa gian bếp. Tam vừa giã giềng, trộn với yaourt thay mẻ, vừa kể chuyện những năm sống dưới thảm bom B-52, chỉ có thịt cầy là bán chạy nhất. Hình như ai cũng sợ chết trước khi kịp thưởng thức. Anh đương dở tay, nên nhờ tôi trở thịt. Cả một mảng đùi heo đen rắn bốc ngào ngạt. Tam nhấp một ngụm Rhum, khà trong tiếng reo:

- Úi chà ! Cái thằng Rhum này tuyệt! Hắn là cái thằng hay gắt gỏng, mà chịu nằm yên trôi lừ lừ qua cổ họng mình thì khá! Năm nào ?

- Một chín bảy tám.

Tam ngửng vội nhìn tôi, vẻ mặt anh có nét sửng sờ. Tam nhấp thêm ngụm nữa rồi sang sảng kể: Năm bảy tám cậu ở đâu? Ngoài Bắc chuẩn bị chiến tranh chống Bá Quyền, mình hùng hục đào hầm ở biên giới, ai ngờ bên này có thằng nấu ruợu vô chai đợi mình sẵn... kỳ diệu! Quả thật đúng là kỳ diệu. Năm bảy tám gia đình tôi bị đánh tư sản, kiểm kê từ cây đinh đến con ốc. Thuế siêu ngạch, nghĩa vụ quân sự rình rập. Mối tình đầu tan vỡ. Bằng phổ thông cấp ba hụt thi. Trốn chui trốn nhủi sau những cồn cát Phan Thiết đợi đi chui... Chai Rhum vơi bén đi quá nửa. Chết thì thôi, nhưng sống phải uống cho bằng hết cái thứ nước kỳ diệu này. Có chất đốt, tôi với Tam thi nhau nổ chuyện. Tam kể ở Hà Nội có thứ rượu sen cất ven hồ Tây, trời chiều mưa lạnh uống vào nóng ran mình mẩy, mà hương sen còn đọng ở đầu lưỡi. Tôi không chịu kém, kể ở Củ Chi có thứ rượu hạ thổ chỉ mới ngửi qua đã nóng bừng mặt. Tam cười ha hả, bảo cậu rời Việt Nam còn thơm sữa biết thế quái nào là hạ thổ! Sợ nhà thổ cậu cũng chưa biết ?

- Ừ thì biết qua sách vỡ.

Tôi cứng lưỡi, chống chế. Tam càng cười lớn. Giọng cười của anh tôi để ý bình sinh ròn rã, chỉ có những lúc tuyệt vọng thì nghẽn như cái kèn đồng bị đổ nước.

- Này, bắn đi.

Cái kèn đồng chiều nay trơn tru, với tay lấy gói thuốc lào ba số 1, nhãn đề bán ở cửa hiệu Lý Thái Tổ, vo, se nhồi rồi đưa tôi đốt. Tôi bắt chước Tam tập hút từ hơn một năm nay. Từ khi “chạm” thuốc ta, tôi đâm mê mẩn, hút thuốc điếu không còn thấy ngon. Ðóm thuốc xòe lên, ngọn lửa vừa tắt thì gót chân tôi cũng tê rần. Trong cái bải hoải rã rời của tứ chi, mạch máu nở ra, tôi loáng thoáng nghe tiếng ríu rít như chim hót từ chiếc điếu cày trên tay Tam. Tiếng kêu của điếu cày nghe thật hay, khi buồn nghe như giọng thút thít của người con gái nức nở đêm tân hôn tấm tức khóc cho mối tình đầu, lúc vui vẻ nghe như con gà trống gân cổ gáy, khi giận thì chẳng khác mấy mụ nạ dòng đang rít qua kẽ răng. Thuốc lào không chỉ là thuốc, mà là cả một nền văn minh! Tam mạnh mẽ phát biểu trong lúc tôi lờ đờ. Bao nhiêu sáng tạo, thử thách, kinh qua để rồi mới chiêm nghiệm phải châm bằng đóm mới ngon. Ðốt thuóc lào bằng quẹt ga thì hỏng. Bằng diêm quẹt cũng hỏng nốt. Châm bằng Zippo thì chẳng khác mọi rợ mán mường. Ðem thuốc ngoại, thuốc tẩu mà nhồi thì hút không thấy hơi, bã bèn bẹt chả ra đâu vào đâu. Bởi thuốc lào sấy nắng, bao nhiêu gio’ sương nắng nôi của đất nước làm thành.

- Cậu ếm cả nắng gió quê nhà vào buồng phổi thì thấy, không có cái say nào bằng say quê hương!

Tam thở khói. Tôi gật đầu, còn lơ đãng trên những cánh đồng ruộng lúa ở nơi đâu, chưa đứng dậy được. Tam đã giở đùi heo đem xuống cạo, chặt thái hình quân cờ, rồi bóp riềng mẻ mắm tôm. Nồi thịt tím ngắt hoa cà. Cậu đem hầm đi, mình chuẩn bị thức ăn chơi. Tam rửa tay, lại sục vào chạn bát. Tôi lễ mễ bưng nồi thịt đặt lên bếp, lửa ga phừng phừng đến nóng mặt. Mười đầu ngón chân tôi hãy còn tê. Chỉ có một chút khói quê hương sao mà say.

Cái bàn sắt tôi với Tam khệ nệ khiêng ra sân sau. Ðêm hè gió mát rượi làm khô những giọt mồ hôi chỉ mới rịn trên da vụt tan ngay. Tôi đi đốt đèn dầu, không phải cúp điện, nhưng tôi với Tam vẫn ưa thứ ánh sáng tù mù vàng võ bâng khuâng, cháy èo uột của những đêm mưa, hay những đêm ngoại ô bắc ghế đẩu ngồi tán chuyện. Ánh đèn Hoa Kỳ hắt loang xuống thềm. Tôi khui rượu. Tam bày hai đĩa tiết mới đánh. Không có tiết vịt, đành đánh tiết heo. Tiết heo bán đong chai, một lít pha được không biết bao nhiêu đĩa. Tôi vắt chanh, ngắt rau thơm, cắn một miếng mề, nhai một quả ớt, rồi nhấm thêm một mẩu gan, bao nhiêu chất ngọt của tiết hòa vào mạch máu mát mẻ đến sảng khoái. Tôi rót rượu liền tay. Chiếc bóng của Tam ngả hẳng người ra bàn, mặt anh ửng đỏ trông như mặt Quan Công về hưu. Tam bắt đầu ngà. Ở Hà Nội lạ lắm. Mai mốt cậu về chơi sẽ thấy. Có những ngôi nhà cũ không tưởng tượng, rêu ẩm bám đen từ mặt trong ra mặt ngoài. Ngủ đêm cứ rờn rợn. Miền Nam mới quá, không dấu ấn của lịch sử. Nhưng ở Hà Nội, lắm lúc lịch sử cứ sờ sờ ra đó, bình thường mình không để ý, nhưng đêm nằm có lúc thảng thốt chợt nhận ra đầu ngõ là chỗ Chiêu Thống đón Tôn Sĩ Nghị chứ đâu xa, có khi cả cái nhà mình cũng là nhà của Nguyễn Hữu Chỉnh lúc trước. Nằm cứ toát mồ hôi. Mới hôm qua chứ bao lâu! Cái đất Thăng Long lạ. Ði xa như Nguyễn Hữu Chỉnh rồi cũng phải về chết ở đó. Mà chết tan xương nát thịt mới đau.

- Nguyễn Huệ không biết dùng người! Tự chặt tay chân mình thì sống với ai?

Tôi vét nốt đĩa tiết, tự nhiên thấy mình nóng nẩy vô lý. Tam đang đơm bún vào bát, ngắt rau húng, chan xâm xấp giả cầy, ngửng nhìn tôi ngạc nhiên :

- Ai bảo cậu thế?

- Chẳng ai bảo, nhưng thảm kịch của đất nước là từ khi Nguyễn Huệ tự ý đại cử Bắc phạt đấy thôi? Nồi da xáo thịt tự đó mà ra.

Không phải!

Tam đập mạnh ly xuống mặt bàn, rượu sánh cả ra ngoài. Những vũng rượu vang đỏ thẫm. Tôi cũng biết rượu vào lời ra nhưng không ngờ Tam cáu kỉnh đến thế. Anh nhai ớt rồn rột :

- Bi kịch của đất nước này xãy ra ở làng Hạ Lôi, cậu biết chưa? Cái làng ấy có tay Lý Trần Quán làm Thiêm Sai, lúc Chúa Trịnh chết thì tự chôn mình, chết ngu xuẩn thế mà người đời cứ xem như bậc nghĩa khí!

- Trung thế thôi anh còn đòi ?

Tôi cắn một miếng riềng, nhất quyết không chịu thua. Gì chứ chuyện lịch sử, tôi thuộc làu làu, lúc còn đi học trả bài bao giờ cũng được điểm cao. Trời sụp tối hẳn. Cái bàn sắt của hai chúng tôi nhô ra vườn trông như boong tàu thắp sáng lênh đênh trôi dập dềnh ngoài đêm. Mà chúng tôi cũng lênh đênh dập dềnh thật. Mấy tàng lá xum xuê trên đầu cứ ngả nghiêng chờn vờn, lất phất đong đưa như chỉ chực rớt xuống bàn. Bữa rượu đã lên tới tột đỉnh. Tam ném vỏ chai vào một góc vườn, khật khưỡng khui thêm chai nữa. Nắm tay anh xoay theo cái vặn quả quyết :

- Trung với ai, chứ với cái nhà chúa Trịnh thì mình ngờ lắm!

Bọn viết sử khen chê không đúng chỗ! Sao không nhắc cái công tôn phò nhà Lê hai trăm năm? Bằng chứng: Chúa vong thì Lê mạt!

-Ừ thì Lê mạt. Nhưng Hiển Tông, Chiêu Thống là cái gì ? Nhà Tây Sơn mới là cuộc cách mạng đích thực! Tay Lý Trần Quán đổ tiến sĩ nhé. Mẹ chết thì ở nhà mồ ba năm, không ăn thịt cá? Hắn làm thế để làm gì? Sao không ra giúp Nguyễn Huệ lại tự chôn sống mình? Làm màu à? Thảm kịch của đất nước là bởi bọn “trung trinh tiết tháo” kiểu ấy. Cho ăn học phí đi! Hai trăm năm rồi mà ở Hà Nội lẫn Saigon cứ còn đường Lý Trần Quán, người ta theo tấm gương ấy đến độ đất nước lụn bại!

Tam nói một hơi. Chất rượu trong người anh bốc ra như giông gió. Tôi cũng say lắm, miệng lúng búng bún lẫn giả cầy. Vài miếng măng thái, ít củ chuối, hai ba miếng da lợn cháy vàng nổi lên mặt bát. Tôi và cho hết chén, làm cạn ly rượu, rồi phản pháo :

- Thiết tha, trăn trở cho bi kịch đất nước, thế sao anh còn qua đây làm gì?

Sắc màu hồng đỏ au trên da mặt Tam vụt trở nên xám lại. Tôi chỉ hỏi câu châm biếm, ai ngờ, ai ngờ cả thân mình anh cứng lại. Vai Tam nhô lên cao lắm, như thể anh muốn rụt đầu trốn tránh. Trông anh như bức tượng tội nghiệp hôm nào, và cái vệt cắt trên da mặt – cái vết chém từ bên trong – Tôi đã trong thấy một lần ở sau bếp khi hỏi Tam về trại Cấm Hồng Kông, cái vệt chém đó như bất ngờ mọc ra trở lại, năm ngón tay Tam cũng cứng lại làm rơi đôi đũa. Tam ngồi bất động, như trớ lưỡi, tròng mắt anh vừa ngượng nghịu, nửa xấu hổ, nửa giận hờn tại sao tôi lại hỏi như vậy? Vẻ mặt Tam lúc đó tôi không quên được, song tôi không dám ngó anh lâu, không khí đang hăng của bữa tiệc bỗng chùng hẳn xuống. Tam bất chợt cười ngúc ngắc, tiếng cuời như khóc của cái loa kèn nghẽn nước.

- Qua thì sao? Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu cũng lưu vong mà?

- Các cụ có làm được gì đâu ?

Tam im lặng. Biết anh không muốn trả lời, tôi lảng chuyện bằng cách rót thêm rượu vào ly. Tam nạp liên tục như muốn khỏa lấp. Một, hai, ba, rồi bốn, năm ly, chẳng mấy chốc anh đổ kềnh ra ghế.

Tam “lật” rồi tôi mới thấy mình lạc lõng. Khu vườn rộng hẳn, dài mênh mông gấp bội. Một đống vỏ chai, thau bún rỗng, nồi giả cầy cạn, nhưng còn rượu. Giá tôi đừng hỏi điều ấy, chắc bữa rượu hãy còn vui. Lần đầu, tôi trông thấy tận mắt đau khổ của một kiếp người. Tôi khui hết những chai rượu còn sót. Uống một mình. Từ năm 78, tôi đã uống hết bao nhiêu chai rồi?

Trần Vũ

Bi Kịch Rừng

Sau khi thủ tiêu đầu đảng một phe phái đối nghịch rồi rải truyền đơn vấy tội cho Pháp, hai mươi bảy cán bộ nội thành theo chân Nguyễn Biểu rút vào rừng ẩn náu. Tay phải của Nguyễn là Trần Hộ, gốc bần cố nông Nghệ Tĩnh, tâm địa cực kỳ hung ác.

Chỗ ẩn là một thạch động nằm sâu trong rừng mưa Việt Bắc. Lương thực mang theo lúc đào tẩu vội vã chỉ đủ độ dăm ngày. Sang tuần thứ nhì, cả đội phải chia nhau vào rừng tìm thực phẩm: đào hố cắm chông bẫy thú rừng, tước mây đan vó bắt cá, sục sạo đào củ, tầm trái. Nguyễn Biểu mang bệnh loét dạ dầy, không ăn nhiều thịt mỡ, mỗi bữa cần một bát canh rau. Chu Tàm là anh nuôi, dòng tộc Trung quốc, dáng người ẻo lả bì bạch như phụ nữ, mang biếm danh chị Liễu. Mọi người kháo nhau, chị Liễu thuộc giới lưỡng tính, dẫu chưa ai thấy tận mắt.

Thạch động có mạch nước từ thượng Lào ngoằn ngoèo lấn qua, hẹp và ngắn. Ra cửa hang um tùm cây lá, nước trổ bãi, theo thời gian xâm thực thành ngàm suối sâu khỏi đầu người. Mùa khô, nước trong leo lẻo. Điều lạ, cát ở đây trắng phau. Một vách đá vôi bị nước liếm dần mòn thành mái che, bên dưới là chỗ tắm giặt cho cả đội. Chưa lần nào chị Liễu ra tắm chung, vì vậy lời đồn về phái tính chị càng thêm vững. Trần Hộ xem đó không phải chuyện đáng quan tâm, dẫu đôi lúc nửa khuya, thức giấc vì mộng tinh, ý tưởng Hộ không khỏi vẩn đục. Chị Liễu có gương mặt thanh tú, lông mày rậm, mắt nâu trong, môi đỏ tươi, râu cạo nhẵn nhụi, ửng xanh mép và quai hàm, lộ cái nam tính duy nhất. Với Hộ, là điểm gây kích kỳ lạ. Nhưng chưa dịp nào Hộ động tay.

Trần Hộ xuất thân tá điền, căm thù địa chủ tận xương tuỷ. Tướng người cục mịch. Da nâu đen, cơ bắp nổi vồng. Tóc rễ tre lười xười. Bên người lúc nào cũng giắt theo cái kéo cùn, tự cắt tóc lấy. Mắt híp, cằm bạnh, răng bợn nhựa thuốc. Ngực xoăn xoắn lông cứng. Giọng nói Hộ có tập luyện, âm Bắc, nghe dễ xuôi lòng. Tới tuần thứ ba, mắm muối cạn sạch, Nguyễn sai Trần Hộ tới buôn sóc dân tộc thiểu số xin đổi chác. Hộ dắt theo hai đứa tuỳ tùng.

Chốn này, những lúc nguy nan, vây cánh Nguyễn Biểu thường qui ẩn, chưa một lần bị phát giác. Cách đấy hai ngày đêm băng rừng là một làng thượng du có giao tình với đồng bọn Nguyễn Biểu. Đêm trước ngày khởi hành, Nguyễn gọi Hộ vào thạch cốc, nói:

- Tôi có món quà này nhờ chú trao cho Thạch Sử.

Nguyễn đưa cho Hộ gói khăn vuông bọc nhiễu thô, buộc dây cẩn thận. Hộ hỏi khi nhìn diện mạo Nguyễn còn lấn cấn:

- Ngoài chuyện đổi mua lương thực, thủ trưởng có cần thêm thứ chi?

Vẻ mặt Nguyễn Biểu rợn sinh khí. Vòm mắt sâu dưới vầng trán cao, hơi giô, chớp mi vài cái, mép môi giật động má trái. Nguyễn giơ ngón xương xẩu lên vuốt râu cằm lâu ngày không cạo cũng không tỉa, sợi lơ thơ đếm được, giọng trầm lại ngần ngại:

- Tôi thèm thịt tươi, còn tân càng quý, chú liệu cách tìm giúp.

Hộ nhếch cười, bảo thủ trưởng yên lòng lo việc nước, chuyện đó đã có Hộ. Nói vậy, nhưng thâm tâm Hộ nghĩ khác, bản thân tao còn chưa có cái giải quyết, mới thử dùng cách tạm... Khuya đó trăng xế, Hộ tỉnh ngủ, người vã mồ hôi vì mộng thấy bị Tây rượt đuổi, sa lầy sình lún ngang miệng. Hộ sượng sật rời chỗ nằm, bước như mộng du. Trăng mờ lem luốc. Gió lặng. Tiết trời ẩm mát. Côn trùng rên rỉ điệp khúc rừng hoang. Hộ quen chân tìm ra ngàm suối cạn mùa khô. Chỗ mỏm đá vôi nhô là nơi bọn Hộ thường tụ họp bù khú, chia nhau điếu thuốc vấn, thầm thì nhắc chuyện làng quê. Hay chỉ ngồi bên nhau, lặng lẽ như thế. Đêm nay chỉ thấy lờ mờ dáng một người nằm co chân, tay gối gáy, dáng vẻ nửa khem khép nửa lẳng lơ. Chị Liễu. Hộ chùn chân một thoáng, rồi nhẹ bước tới ngồi cạnh, khẽ hắng tiếng. Chị Liễu ngấc đầu, tia mắt long lanh như mắt thú. Bấy giờ Hộ mới nhận ra sắc da chị. Sao trắng thế. Chị vận áo lót ba lỗ, chỗ rách bằng miệng bát dưới ngực loé lên như giát lân tinh. Chiếc quần cụt vải sồi nhuộm đen làm nổi nước da cặp chân chị. Hộ nuốt nước bọt đánh ực. Chị Liễu nhoẻn cười, răng trắng nhởn. Hộ nói như để lấp liếm hành động vươn tay úp lên khoảnh áo rách:

- Khó ngủ à?

Chị Liễu ấm ứ câu gì không rõ, vì tay Hộ đã nhanh nhẩu luồn vào, sờ nắn. Ấm ức trong Hộ căng lên như trống bọc. Hai bàn tay chai sần tốc vội lớp áo lót, xắn ngang ngực, lột truồng chị. Da trắng nhễ nhại, mịn như bột. Hộ lướt tay khắp, tưởng đấy là thân xác giống cái. Bụng chị Liễu nõn nà, cạo sạch. Dương vật nhỏ, cong như con đuông, nhúc nhích trong nắm tay Hộ. Người Hộ rậm rựt nổi gai, quấn chị Liễu vào góc khuất tàn cây rậm, hấp tấp cởi quần áo, dạng chân tênh hênh. Hộ đoản tướng, gì cũng ngắn, được cái vạm vỡ và giòn giẽ. Không như chị Liễu, người Hộ lắm lông, chỗ kín rậm đen, dầy cứng như xơ mướp. Chị Liễu còn bỡ ngỡ chưa biết hành xử ra sao thì tay Hộ gân guốc xoè ra, quặp đỉnh đầu chị dập xuống bụng, tay kia kẹp lấy đưa vào. Bụng Hộ nẩy cong nhấp nhứ, hai bắp chân lực lưỡng gác lên vai chị Liễu, quắp cổ ghì xuống. Mắt Hộ nhắm nghiền tưởng ra cặp môi con gái đỏ tươi, láng lẩy nước bọt. Dục cảm dồn nén lâu ngày phún tinh xối xả. Cổ Hộ bạnh ra, dằn tiếng nấc lớn. Toàn thân mất áp suất, rỗng tênh, sảng khoái. Lạc thú vụng trộm, mới lạ, khác.

Xong, Hộ hất đầu chị Liễu sang bên, khum tay bụm chỗ kín. Hộ không thích ai sờ mó sau đó, vì cảm giác thốn rát như muối xát. Chị Liễu nằm đấu lưng cong, bờ vai run run. Hộ thản nhiên xỏ quần áo, ra mỏm đá tiểu xè xạch xuống suối, lắc ráo rồi xỏ quần áo, dò dẫm trở lại chỗ mắc võng.

Sau hai ngày vượt rừng băng suối, cả ba đến nơi. Buôn thượng gồm hơn chục nhà sàn, lọt thỏm trong lũng đất đẫm mây mù. Thạch Sử niềm nở đón tiếp bọn Hộ, cắt đặt chỗ nghỉ. Ngủ một giấc đẫy, cơm nước xong, Thạch Sử mời Hộ vào gian trong chuyện vãn. Thật ra bọn Hộ đâu có gì để đổi chác, ngoài mấy từ ngữ cách mạng văn hoa, hứa hẹn khi nào đánh bật thực dân Pháp, không những trả lại đất cho Thạch Sử, còn cho thêm. Hộ khua môi:

- Thủ trưởng chúng tôi được đàn anh Liên-Xô vĩ đại và láng giềng Trung quốc đồng ý trợ giúp, chính trị lẫn quân sự. Nhưng điều phải làm trước tiên là giải quyết mâu thuẫn nội bộ, sao cho nhanh và gọn. Bọn Quốc dân đảng đang được lòng dân. Đám trí thức Nam kỳ đệ tứ được cảm tình của ngoại bang. Rối, rối lắm.

Thạch Sử sống xa cách người Kinh, bản tính chất phác, nào hiểu gì những lủng củng Hộ vừa nêu, chỉ gật gù xã giao. Hơn nữa, Thạch vẫn không thật sự rành rẽ tiếng Kinh. Thạch nói:

- Cám ơn mấy người. Cái rừng, cái đất này là của chúng tôi từ lâu đời. Chúng tôi đâu muốn gì hơn, được mấy người để yên cho chúng tôi làm ra cái ăn là vui rồi.

Hộ chăm chú lắng tai, bảo ‘‘phải, phải,’’ rồi rút túi lấy ra gói vải nhiễu, trịnh trọng trao cho Thạch Sử. Cụ già mỉm cười cám ơn, từ tốn tháo gút, đưa ra chỗ nắng rọi. Hộ cũng sửng mắt theo dõi. Già Thạch thận trọng mở từng lớp giấy bọc. Luồng nắng bụi ám soi sáng nhúm bột nâu bẩn. Cụ già nâng lên mũi, khép mắt khoan khoái. Hộ hiểu ra, nhựa phù dung thô, sực nhớ có lần Nguyễn Biểu bộc bạch: ‘‘Tôi có đường dây từ tam giác vàng, bọn Tàu phiệt buôn lậu sang. Pháp biết chứ, nhưng làm ngơ, dùng chính sách tứ đổ tường cai trị dân mình. Ác thế!’’

Thạch Sử gấp lại gói quà, gật đầu hài lòng:

- Tốt, tốt lắm. Mấy người cần gì, cứ nói!

- Muối, thưa cụ.

Cụ già cười ra tiếng:

- Cho người miền núi còn không đủ, nhiều khi phải đốt gỗ lấy tro làm muối. Một năm vài lần mới xuống dưới đổi quế, trầm lấy muối, dầu đốt. Thịt khô và măng tre có dư. Thôi được, để xem. Gì nữa không?

Hộ nghĩ tới lời Nguyễn dặn, nhỏ giọng lúng túng:

- Thủ trưởng chúng tôi cần... cần một đứa hầu gái.

- Dễ thôi. Để hỏi lại, ai muốn đi? Có điều mấy người nên nhớ, đừng làm chuyện ác!

Yêu sách được thoả mãn dễ dàng không ngờ khiến Hộ mừng thầm. Con bé theo cùng bọn Hộ mới mười sáu tuổi, tên Nông Xoan, nước da mật gấu dắn dẻ. Hôm già Thạch dẫn bọn Hộ tới, Xoan mặc lễ phục cổ truyền, vải trắng thêu viền cườm, thắt lưng đỏ, đeo vòng vàng, đi chân đất. Vậy mà bữa theo bọn Hộ về lại chỗ ẩn, Xoan chỉ quấn mỗi khố vải ngang hông, các thứ khác đều cất trong gùi quải lưng. Hộ không dám nhìn lâu. Gò ngực cô gái mum múp chũm cau. Cặp mông núng nẩy theo mỗi bước chân nhẹ như lướt trên đất. Eo thon, đùi chắc nịch như beo gấm. Xoan không nói được tiếng Kinh. Hộ lợi dụng những lần nghỉ chân, dạy Xoan mấy chữ thông dụng, và được dịp kề cọ. Mồ hôi cô gái khen khét, trộn hương nắng và nhựa cây. Răng cô chà tro trắng như ngọc. Nụ cười lúm đồng tiền trên gò má bầu bĩnh đương thì. Thân thể Xoan bừng lên thứ hấp lực huyền bí của núi rừng và dã thú, khiến Hộ không khỏi tò mò liếc trộm phần dưới mảnh khố che. Mũm mĩm, khép kín, phớt lông tơ. Hộ thầm tiếc rẻ, uổng quá.

Về tới, cả bọn vây lại hỏi han không ngớt. Nhiều bộ mặt đờ đẫn nhìn Xoan thèm khát. Có đứa phun ra đôi câu thô tục. Chị Liễu đứng cách đoạn đám đông, lặng lẽ. Hộ phải lên tiếng ngoắc gọi, chị mới bước lại cầm lấy bọc lương thực. Rồi Hộ quát tháo, vạch lối, dẫn Nông Xoan vào ra mắt Nguyễn.

Nguyễn đã chuẩn bị từ lúc nghe tiếng ồn bên ngoài vọng vào. Gấp dọn mớ chăn chiếu, vật dụng ngổn ngang. Khoác thêm áo tay dài. Hấp tấp cầm đèn ra bờ suối, soi mặt, vuốt râu tóc, vốc một ngụm nước súc miệng.

Hộ vào ngồi xếp bằng. Nông Xoan khúm núm sau lưng Hộ, đầu cui cúi. Nguyễn nhếch cười:

- Tôi có lời khen chú. Tên gì?

- Nông Xoan.

Nguyễn mềm giọng gọi:

- Xoan.

Cô gái ngước mặt, nhìn thẳng mặt Nguyễn một thoáng, lại cúi xuống. Hộ đỡ lời:

- Nó không nói được tiếng mình.

Nguyễn cười rung râu cằm:

- Từ từ rồi dạy. Chú chỉ chỗ cho nó nghỉ ngơi. Chú cũng thế, đi nghỉ rồi vào đây bàn chuyện.

Khoảng thời gian vắng mặt Hộ, Nguyễn tìm cách xếp đặt mưu lược. Tình thế đang chín muồi. Bại trận Điện biên, Pháp lúng túng thấy rõ, xoay thế gỡ. Nước cờ Bảo Đại tạm bợ, đâu dễ qua sông. Nghe đâu, có người gốc quan lại triều Huế ra vận động Mỹ đưa về chấp chính. Đà này mà đoán, ắt hẳn chia đôi. Hấp tấp e hỏng, phải kiên nhẫn theo thế vết dầu loang. Bao nhiêu quân cũng thí. Cán bộ của Nguyễn có mặt khắp nơi, trong mọi tầng lớp dân trí. Lợi điểm ở chỗ, vây cánh Nguyễn không cần lộ diện. Dẫu phải rút theo hiệp ước, nếu có, sẽ gài người ở lại thao túng.

Chờ xem, tuỳ cơ mà ứng, Nguyễn nghĩ thầm. Việc trước mắt là sai dùng Hộ và lân la kề cận Nông Xoan. Lâu rồi Nguyễn không có dịp gần gũi đàn bà. Nguyễn là bản sao rập khuôn bọn đàn anh vô sản: chủ tịch phải xả thân tuyệt đối, vợ con chỉ thêm bận bịu, dứt khoát chặt lìa mọi quan hệ tình cảm. Nhưng áp lực sinh lý cần được giải toả cho tâm trí thêm minh mẫn.

Chỗ ngủ của Nông Xoan cách chỗ của Nguyễn độ năm thước. Vài hôm đầu, việc của Xoan là phục dịch chuyện cơm nước, giặt giũ và dọn dẹp cho Nguyễn. Xoan vô tư, hiền lành như ngô sắn, hầu hạ Nguyễn không cần tìm hiểu tại sao. Trước đó, thỉnh thoảng nghe già Thạch nhắc tới Nguyễn, Xoan mường tượng đấy là một chàng trai oai phong cường tráng. Giờ gặp mặt, Xoan thất vọng. Nguyễn gầy rạc, xanh xao, râu tóc cẩu thả, áo quần luộm thuộm, tuổi đáng bậc cha cô. Gương mặt Nguyễn có góc cạnh. Hai lõm mắt sâu, tia nhìn xoi xói, vô lễ. Nguyễn cười ít khi ra tiếng, khắc nghiệt ngầm. Xoan không dám nhìn lâu bộ dáng ấy.

Biết cô gái không hiểu tiếng Kinh, muốn sai bảo gì, Nguyễn đều ra dấu. Sau nghĩ lại, làm thế là sai, vì có nói, Xoan mới quen tai. Giọng Nguyễn êm ru, nghe dễ ngã lòng. Tối đó Nguyễn than mỏi, vừa nói vừa gấp người, quàng tay đấm thùm thụp lên lưng. Xoan hiểu, tới cạnh, khêu sáng ngọn bấc. Nguyễn cởi trần, sấp lưng cho Xoan tẩm quất. Tay Xoan khoẻ, chắc, nham nhám; đầu ngón chạm đến đâu, da Nguyễn nổi gai đến đó. Ngực trái Nguyễn phấp phổng rạo rực. Chưa lần nào Nguyễn tiếp xúc với gái tơ, lại là thứ man dã, e ấp bí ẩn của rừng rú. Riêng Xoan không một cảm xúc. Người Nguyễn ốm nhô xương, da thịt bủn rệu. Xoan đã quen mắt với thân thể đàn ông trần trụi, nên không thấy xấu hổ gì. Bất ngờ Nguyễn thở phì, lật người nằm ngửa. Xoan không phản ứng kịp, chao người chực ngã. Mười ngón xương xẩu của Nguyễn bấu ngang hông cô, níu lại. Cánh tay Nguyễn dài quá khổ, lòng khòng như của loài dã nhân. Xoan chưa hết lúng túng, tay Nguyễn đã thắt lại đáy lưng, ghì sát. Hai đầu chũm cau Xoan cọ sát vuông ngực Nguyễn lép xẹp. Một tay Nguyễn tháo vội dây quần, trễ xuống. Nhúm thịt da bèo nhèo thường ngày cương lên, cong chạm vào đáy bụng Xoan. Cô gái biết trước thế nào phút giây này cũng tới nên khép mắt phó mặc. Không giống người thường, hai mắt Nguyễn trong cơn giao hoan mở trừng lên vòm thạch động sũng bóng tối; tay quắp lấy đoạn cong thân thể lèn vào. Xoan nhổm người tránh cảm giác thốn buốt. Nguyễn lắp bắp: ‘‘Ngoan nào, ngoan nào,’’ hai tay ấn đùi Xoan xuống. Nguyễn để Xoan chủ động, mắt vẫn trâng trâng soi vào khoảng mịt mùng của cảm xúc dật lạc, của mặc cảm tự ti, của cuồng vọng sắt máu. Có điều lạ, trí Nguyễn thường loé ra những mưu toan nham hiểm trong cơn khoái ngất. Lần này là kế hoạch dành cho bọn Nam kỳ, nếu phải rút đi, sẽ ra chỉ thị cho chúng tìm cách cấy mầm quan hệ với phụ nữ Nam bộ, phòng khi về sau trở vào, dễ bề thao túng. Mép môi Nguyễn cong lên, răng nghiến vào nhau, có cảm giác như vừa đâm rách màn căng ẩn ức, phún từng đợt vào thương tích đứa con gái. Máu ứa như báo trước những tai ương. Xoan kêu nhói, tay đắp khố vải lên vết đau theo bản năng. Máu hoà tinh khí loang ra. Bấy giờ Nguyễn mới nhắm mắt tận hưởng.

*

Những biến đổi trong quan hệ giữa Nguyễn và Xoan không qua khỏi mắt Hộ. Hôm Nguyễn bảo Hộ liệu tìm cho Xoan bộ quần áo tươm tất kiểu người Kinh, Hộ hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra, và không khỏi tị nạnh thầm. Chuyện Nguyễn nhờ, Hộ chuyển tới chị Liễu.

Hành trang bôn đào của chị Liễu tạp nhạp, tủn mủn như một gánh hàng xén. Sau vài hôm cần cù khâu cắt mớ quần áo rách, chị ráp được cho Xoan cái áo cánh và chiếc quần đáy vá. Những lúc một mình với việc làm như thế, chị Liễu nhớ quê da diết. Đậm đà nhất là dáng dấp mợ cả. Bà là vợ chính của cha, hiếm muộn nên cưới vợ kế cho ông, hạ sinh chị là đứa duy nhất. Vừa lọt lòng, thầy tướng số gieo quẻ bảo thằng bé giới tính khác thường, không thể nối dõi. Mợ cả lại tìm thêm cho cha người vợ khác. Lần này được sáu con, trai gái hẳn hoi. Không hiểu có phải vì điềm bói quẻ mạt vận của thầy tướng mà từ tấm bé, chị Liễu đã bị dòng họ hất hủi, cả mẹ ruột. Chị được giao cho người vú á xẩm nuôi nấng ở nhà sau. Mỗi năm đôi lần, vào dịp giỗ tết, chị mới được phép chường mặt lên gian trên, lúc nào cũng lúi cúi phía sau. Người độc nhất lưu tâm đến chị là mợ cả. Giữa bà và mẹ ruột chị cách nhau nhiều tuổi. Năm chị Liễu chịu lễ cắt bì qui đầu, mợ cả đã chớm lục tuần. Mười năm sau, chị trưởng thành, bà vướng bệnh loà, thường ngồi quạnh quẽ bên khay trầu và ấm nước vối. Tuy bà gốc gác Trung quốc trăm phần, nhưng vấn tóc nhuộm răng, ăn trầu và uống nước vối như đàn bà Việt tộc.

Ấu thời và niên thiếu của chị Liễu không phải là tháng năm tươi đẹp. Tới tuổi đến trường, chị phải đương đầu với những lời trêu ghẹo nhẫn tâm của lũ bạn học. Tuân lời thầy tướng, gia đình xỏ lỗ tai, đeo khuyến cho chị; cổ chị lúc nào cũng đeo lá bùa bổi đỏ, thảo mấy chữ Nho trừ tà bằng mực tàu gói tàn hương cúng lễ. Chị nhớ, hầu như hôm nào đi học về cũng có chuyện để chị khóc kể cùng vú xẩm. Ám ảnh gớm ghiếc cứa vết đời đời trong tâm thức chị là cảnh chị bị đám trẻ con cản lối, tụm lại, đứa khoá tay đứa giữ chân cho đứa khác tuột quần chị xem giống. Chị kháng cự, phun nước bọt phì phì. Một đứa thô bạo, dằn cặp da lên mặt chị, ngồi đè lên. Cảnh tượng khủng khiếp như bị cưỡng dâm ấy là thương tích vô tâm bứt lìa chị khỏi dòng nhân sinh bình thường. Chị nhất định không chịu đến trường, dẫu những trận đòn nghiệt ngã của cha. Cuối cùng mợ cả bảo, nó không hiếu học thì thôi vậy. Lúc ấy chị đã đọc và viết được lõm bõm chữ quốc ngữ.

Giờ đây, ngẫm lại, chị nhận rõ lý do tại sao chị bỏ nhà, lìa quê theo kháng chiến.

Khâu xong y phục cho Xoan, chị Liễu gọi Xoan tới mặc thử. Lúc này Xoan đã ngọng nghịu được khá nhiều tiếng Việt. Nhận ra tia mắt u sầu của đứa con gái, chị Liễu ân cần hỏi han:

- Em bị ốm hay lo nghĩ chuyện gì?

Mắt Xoan chơm chớp, ngập ngừng đỗi lâu rồi thốt:

- Xoan nhớ đất.

Chị Liễu cười hắt:

- Tôi cũng thế, nhớ nhà nhớ quê ghê gớm.

Tia mắt Xoan thoáng rực, rồi trĩu nặng. Cô ngồi bệt xuống đất, chân duỗi song song, một tay chườm lên bụng. Dáng ngồi ý tứ, thận trọng của cô gái khiến chị Liễu hồ nghi, kề mặt hỏi khẽ:

- Có mang à?

Giọng Xoan bối rối:

- Có lẽ.

Rồi cô gái đứng lên, phủi quần, không nói không rằng, thẩn thơ đi ra hướng suối. Nắng xuyên đốm lập loè. Núi rừng khua lên thanh âm huyên náo như báo trước điều chẳng lành. Như thể những cội cây già nua biết trách mắng, những cầm thú lên tiếng báo động trước mưu toan, những linh nhãn trừng lên lằn chớp cắm xuống ngực đất. Chị Liễu giơ tay dằn nhịp tim sững sờ. Đã nhiều năm chị theo hầu hạ cơm nước cho Nguyễn và đồng bọn, nên hiểu và tiên đoán việc gì sẽ xảy đến cho Xoan.

Chờ đêm xuống, chị men tới chỗ Hộ mắc võng. Đêm nguyệt tận đen kịt, kín bưng. Từ dạo có liên hệ xác thịt với chị Liễu, Hộ đổi chỗ nằm cách đồng bọn khá xa. Như mọi lần, thoả mãn xong, Hộ tìm chỗ tiểu tiện rồi trở lại võng, ngạc nhiên thấy chị Liễu vẫn còn đó. Hộ hắng tiếng se sẽ:

- Sao còn đây?

Chị Liễu mềm giọng:

- Em có chuyện muốn nói.

- Gì nữa?

Chị Liễu ngần ngại:

- Cái Xoan ấy mà. Nó... nó... lỡ dại để... mang thai với thủ trưởng.

Hộ sửng người ngậm tăm. Chị Liễu quơ tay đặt lên đùi Hộ, thủ thỉ:

- Anh liệu cách thưa lại với thủ trưởng rồi cho nó về, kẻo tội.

Lần này Hộ để yên, không phủi tay chị ra như dấy phải hủi, lòng thầm trách Nguyễn vụng tính. Hộ thở hắt:

- Ừ, để xem.

Tay Liễu nhẹ vuốt đùi Hộ thay lời nhắn nhủ, rồi rụt rè rút về. Chị dợm đứng lên thì Hộ nhoài người, xoắn lấy cổ chân chị níu lại. Liễu cúi xuống, thấy hai mắt gã đàn ông sáng quắc như hai mắt hổ. Giọng Hộ thép lạnh:

- Không được tọc mạch cho ai biết, nhớ đấy!

Chị Liễu ‘‘vâng’’ một tiếng như thở dài. Chị không về chỗ nằm mà men ra mỏm đá vôi, soãi người xuống. Đêm không trăng, nhưng thị giác đã quen với bóng tối, thấy dường như lưng suối vẫn lấp lánh vẩy sóng. Cát ở đây trắng kỳ lạ. Chị lan man nhớ tới một chương sách đẹp, lúc chàng thanh niên nô nức vì cách mạng, mềm lòng thảo lá thư gửi người yêu, giữa khuya trên sông Đà. Chị không có người yêu, không cả thân quyến, chỉ có một mảnh quê nghèo rách để nhớ về. Tình hoài hương, thứ cảm tính mà Hộ vẫn cho là cặn bã của giai cấp tiểu tư sản duy tâm, thêm cố tật mất ngủ khiến chị Liễu vẫn trằn trọc hằng đêm. Và suy tư.

Sáng ra, nhân lúc Xoan vào rừng nhặt củi, Hộ vào gặp Nguyễn. Chuyện trò vẩn vơ một đỗi, Hộ vào đề:

- Trường hợp cái Xoan, thủ trưởng tính như thế nào?

Nguyễn nhướng mắt cú vọ, ngơ ngác:

- Tính gì? Tôi không hiểu.

Hộ cười khẩy:

- Thì ra thủ trưởng chưa biết gì cả? Có thai rồi.

Nét mặt Nguyễn thoáng đanh lại. Chụp đèn dầu lọ ám soi yếu nửa vuông mặt hom hem, trông như sọ đầu trong màn xảo thuật một gánh xiếc làng. Cả hai lặng tiếng giây lâu, rồi Nguyễn chép miệng:

- Mắn nhỉ, đẩy có tí đã dính.

Hộ lặp lại:

- Giờ thủ trưởng tính sao?

Nguyễn chớp mắt, tay vuốt vô ý thức chòm râu cằm:

- Còn sao nữa? Chú liệu đưa nó về.

Hộ ngập ngừng:

- Tôi xử lý như mọi lần hay... thôi?

Nguyễn xua tay lạnh lùng:

- Tuỳ chú.

Hộ đứng dậy, hấp tấp lui chân, đầu cúi gầm. Chị Liễu nép vội vào hốc đá, nín thở. Sau khi thố lộ cùng Hộ trường hợp của Xoan, chị luôn trông chừng bộ tịch Hộ. Nhác thấy Hộ vào động tìm Nguyễn, chị vội lách người theo, núp sau mép đá chắn, dán tai rình rập. Tiếng nước róc rách quanh động lẩn tiếng gió luồn khe trống cắt manh mún mẩu đối thoại, nhưng linh cảm chị Liễu báo trước điềm không may sẽ xảy đến cho Xoan. Chị chắn tay nén trống ngực, người run lên, bụng lẩy bẩy bảo dạ, phải báo cho nó biết để nó trốn đi càng sớm càng tốt.

Mãi trưa Xoan mới quảy củi về. Chị Liễu vừa cuống chân bước ra, chợt khựng lại khi thấy Hộ chặn đường Xoan ngay bìa rừng. Không hiểu hai người trao đổi cùng nhau những gì mà đầu Xoan cúi gầm rồi lật gật, thỉnh thoảng bật lên chuỗi cười trong trẻo.

Chất củi xong, chị Liễu rót nước đưa cho Xoan, dọ dẫm:

- Có chuyện vui à?

Cô gái tươi mặt:

- Vâng, mai Xoan về.

- Sớm thế?

- Chú Hộ bảo, về thăm đất rồi trở lại.

Chị Liễu rùng mình, lo ngại:

- Xoan đi một mình hay...

- Không, chú ấy đi cùng.

Chị Liễu buột miệng:

- Đừng.

Xoan ngơ ngẩn:

- Sao đừng?

Chị Liễu nhổm người, đối mặt Xoan, nhấn giọng:

- Xoan đi một mình được không? Hiểu chứ, một mình, không có Hộ.

Xoan đưa tay chặn miệng, nhíu mày:

- Tại sao?

- Xoan không hiểu đâu, nhưng nhất định về một mình thôi. Nếu được, ngay khuya nay, nhé!

Xoan nguẩy đầu:

- Không hiểu đâu.

Không biết làm sao, chị Liễu xoè tay đặt lên bụng Xoan, vỗ nhẹ:

- Có Hộ đi theo, không tốt cho cái thai, thần rừng báo tiếng thế.

Vẻ mặt Xoan bối rối lộ rõ. Chị Liễu dằn tiếng sau cùng:

- Nhớ nhé! Khuya nay, giờ lành.

Mấy lời căn dặn của chị Liễu khiến Xoan ngơ ngẩn cả ngày. Tối đến, Nguyễn gọi Xoan vào nằm cùng, máy miết suốt đêm. Đôi khi thơi thả, Xoan sực nhớ giọng nói và vẻ mặt của chị Liễu, toàn thân bứt rứt không yên. Có lúc nhấp lưng toan ngồi dậy thì Nguyễn nghe động, cong tay quắp lấy, ghì xuống, sờ soạng. Xoan có cảm giác như bị móng vuốt ưng khuyển cào vệt rướm máu lên da thịt. Nguyễn biết đêm nay là lần cuối, nên vận sức hành lạc tới sáng. Xoan thấm mệt, thiếp mắt. Tỉnh giấc thì nắng đã chan hoà ngoài cửa động. Bên cạnh, Nguyễn phơi ngực ngủ mê mệt. Quần cộc xốc xếch, hớ hênh một đoạn dương vật xám ngoét. Xoan nhẹ tay gấp hành trang vào gùi, ra suối lau rửa qua loa rồi tới chỗ hẹn với Hộ. Ngang gian bếp, Xoan khựng chân. Chị Liễu bước ra đứng nơi lằn ranh tối sáng, khum tay che nắng loá. Xoan nhoẻn cười thay lời từ giã. Chị Liễu lặng người trông theo cho tới lúc bóng Xoan khuất sau lùm cây rậm.

Hộ giắt theo con dao phay, đi trước mở lối. Rừng nơi này, có đoạn um tùm ẩm ướt, có đoạn khoáng đãng mênh mông. Hôm đẹp trời, mắt thường nom thấy bạt ngàn, núi chập chùng từng rặng như vô tận. Nhưng cái đẹp chỉ bề ngoài, sâu thẳm trong toàn bất trắc. Suối ngúc ngoắc đầy vắt. Có nơi muỗi mòng quến đàn như lốc vừng đen. Dây leo thả sợi, trông như rắn buông mình rình mồi. Hơi nước khúc xạ sắc nắng thành tia nhuộm phẩm le lói.

Xoan đã quen với rừng rú, Hộ không, nên cứ vài đoạn lại nghỉ chân. Trưa đứng bóng, bất giác rừng sâu im phắt. Sinh vật cùng thảo mộc uể oải ngơi nghỉ. Hộ và Xoan tìm ra vòm đất thoáng có bóng mát. Nắng chan chan. Chỗ này trông thoải xuống lòng vực uốn khúc dòng nước cạn. Cát trắng muốt như dải khăn ai bỏ quên. Hộ tháo bọc lương thực, xẻ đưa Xoan miếng cơm vắt, mở gói giấy đựng dúm muối, hất hàm, bảo ăn. Xoan đã trở lại với bộ dáng người miền núi, ngực trần, quấn khố, khiến dâm ý Hộ nhấp nhổm không yên. Với chị Liễu chỉ là cách giải quyết tạm, với Xoan mới đích thực ý nghĩa của giao hoan. Hộ nhai nuốt sậm sực, trong đầu duyệt lại lần cuối tuần tự mưu định. Bi-đông nước hoà đậm liều thuốc ngủ. Lời dặn dò của Nguyễn, tuỳ chú, tuy giọng lạnh lùng mà hai mắt long lanh như đẫm nước. Hộ soi thấu tư tưởng Nguyễn, đóng tuồng mãi rồi nhập vai khi nào chẳng hay. Thêm tính nhạy cảm, Nguyễn biết giở quẻ tuỳ hoàn cảnh. Cả hai hiểu ý nhau không cần ngôn ngữ.

Hộ nuốt miếng cơm sau cùng, chùi tay vào ống quần, lấy bi-đông nước trao cho Xoan. Thiếu nữ vô tư ực mấy ngụm liên tiếp. Hộ cũng vờ kê miệng uống, nhưng không hở môi. Xong, Hộ đứng lên, gióng tiếng cộc lốc:

- Đi đằng này tí.

Hộ nấn nán bên bụi cây khá lâu, trở lại thấy Xoan xuội nằm tênh hếch dưới tàn cây sẩm bóng. Hộ nuốt nước bọt, trơ mắt ngắm tấm thân trần trụi của đứa con gái. Đưa tay vuốt thử, không thấy phản ứng gì, Hộ liền tháo quần, bứt tung khố vải Xoan, xoạc chân nằm lên. Giữa chừng, Xoan ngúc ngắc đầu dợm thức, bị Hộ xáng cho một cái không nương vào mang tai, bất tỉnh. Hộ rống lên như thú trong cơn khoái lạc vô tâm giữa thiên nhiên không nhân chứng. Bấy giờ, trong thính giác Hộ đột ngột dội lại âm thanh kỳ dị của núi rừng, nghe như phẫn nộ, mạt sát. Hộ không lạ gì với thứ ảo thính đó, nhổm người tới bên gốc cây, tiểu tiện theo thói quen. Sau khi nhẩn nha ngồi hổm hút tàn điếu thuốc vấn, Hộ kéo thây Xoan còn ngực đập ra miệng vực, chỗ cheo leo nhất. Ngần ngừ giây lát, Hộ phun toẹt bãi nước bọt, khép mắt, xô xuống. Dòng ảo thính núi rừng tắt nghẽn như bị dao cắt. Mùa này, rừng mưa Việt Bắc đan kín hoa ban, trắng toát.

 

Cơm cháy

Trưa cuối năm, Củ Ướng kéo chiếc xe nước ọc ạch từ Chơn Num về chợ Xà Tón. Gần Tết, trưa nắng chang chang, con đường đất đá nóng bỏng, xe chao đi khó điều khiển làm sao! Hai bên ruộng khô còn trơ lại những gốc rạ xơ xác. Củ Ướng bỏ lại sau lưng ngọn đòi đá cằn cỗi trên sườn đòi và dưới chân đồi rải rác những mồ mả. Núi Chơn Num là nghĩa địa của dân làng,sang giàu hay đói rách cuối cùng ai cũng về đây an nghỉ. Trên núi có ngôi chùa Miên mái cong, thấp thoáng trong những cây đào lộn hột và cụm mai rừng, mấy người đi chặt mai về chưng Tết giơ tay chào Củ Ướng. Chiếc xe đạp đòn vông kéo thùng nước củ kỹ màu xám, thùng nước là phi xăng cũ, trên có nắp vuông, đầy nước. Sau treo hai thùng nhỏ đập vào thùng lèn-xèn thành thứ âm thanh đều đặn quen tai.

Người Củ Ướng vốn dĩ đã nhỏ, chiếc nón chóp bằng tre đan, phết chai dầy, che mưa nắng, tưởng chừng nặng hơn sức chịu đựng của đầu cổ người, nên Củ luôn luôn cúi mặt lầm lũi đi. Xe nước không tương xứng với người Củ Ướng chút nào, khó ai tưởng tượng Củ có thể kéo nổi chiếc xe nặng nề như vậy, vậy mà xe vẫn ngoan ngoãn di chuyển ngả nghiêng theo bước chân lếch thếch. Tay chân và người Củ Ướng lở trắng vì nước ăn từ năm nầy qua năm khác, hai chân gân guốc màu đất xám như hai khúc tre già phải chịu đựng đất khô cháy hay lầy lội bốn mùa hơn 30 năm rồi.

Ngày 30 Tết, chợ đã tan từ trưa, ai cũng lo về sớm để cúng kiến ông bà. Dân chợ nài nỉ Củ rán đổ vài đôi nước uống, học yên tâm với lu nước đày cuối năm để nấu nướng, nên Củ Ướng nể tình cố lặn lội thêm chuyến xe nước cuối cùng nầy, ở nhà Củ đã có vợ con quán xuyến.

Củ Ướng không lười, nhưng mùa nắng khô hạn nầy cứ phải chờ cả buổi mới múc được một xe, mội nước rỉ ra đần dần mới vét được một gàu. Ngày được 4 xe là phước rồi. Củ nôn nóng kéo xe để về sớm, còn dịp nào nghỉ ngoài 3 ngày Tết đâu.

Mùa nắng, đất đá phỏng chân. Chuyến vô núi, Củ thong thả đạp xe, thùng nước rỗng nhún nhảy sau lưng.

Vùng chợ Xà Tón có mấy cái giếng, nhưng nước phèn chỉ dùng để tắm giặt. Nước Chưn Num trắng đục, uống chua chua, có vị mãng cầu xiêm. Dân làng cho rằng nước ngon nhờ xương cốt trên đồi chảy xuống tụ lại mội nước, nói sao cũng được, nhưng ai cũng uống nước giếng Chưn Num mà không bị chanh nước.

Gần 30 năm nay, Củ Ướng quen thuộc với con đường đá xanh nầy, khoảng 3 cây số từ núi vô chợ. Múc đày thùng nước, cuộn giây gàu treo bên xe, Củ đi vòng qua cây Năm Vồ, (cây năm Vồ lá mát bên bờ giếng, che mát cho người đi lấy nước) xuống con đường mòn dốc ra đường cái. Xa xa những bụi tre tầm vông xơ xác (Củ thường nói: „xưa, tr e tầm vông nhiều lắm, nhưng từ ngày Pháp tới, tre bị đốn sạch ...“) mấy cây thốt nốt cao vòi vọi chống giữa đồng. Bên trái là núi Năm Vi, bên phải cách cánh đồng, núi Cô Tô cao sừng sững huyền bí. Hai bên đường ruộng cao thay đổi từng mùa. Lâu quá không thấy bóng người phu lục lộ sửa đường cho Củ Nhờ, mà con đường nầy đâu có gì quan trọng, hình như con đường dành riêng cho Củ đi lấy nước Chưn Num và chiếc xe đòn có hai đầu rồng, do bác Sáu Sâm ngồi lái đưa người nằm xuống ở Chưn Num với 3 tiếng trống điểm cho những người đi sau kể lể than khóc, và 3 tiếng phèn la cáo biệt, „bà con ơi, tôi nghỉ chơi rồi nghe!“. Mỗi lần gặp xe đòn, Củ Ướng phải ngừng khá lâu cho đám người đưa đám theo sau, những cây bàn đưa trắng, cùng bao nhiêu câu: „Vĩnh du tiên cảnh“, „nhựt lạc tây thiên“, ... Con đường chạy thẳng đụng vào chân núi và mặt trời cũng lặn sau núi, người xưa khéo phóng đường nầy hẵn ngụ ý „nhựt lạc tây thiên“, và chọn đúng núi nầy làm nơi yên nghỉ cuối cùng. Mỗi chiều, mặt trời đỏ ối trước khi lặn, nắng bảng lảng nhuộm hồng đỉnh núi linh thiêng, một vùng trời tây vàng như lúa chín, ngưòi già chỉ cho con cháu, „Kìa, ma phơi lúa đó!“.

Mỗi buổi sáng, dân Miên từ các sóc quanh núi đội trái cây, gà vịt, lúa gạo ra chợ bán, Củ Ướng đạp xe ngược chiều, nên biết mặt từng người. Những bà Miên đội những om đường thốt nốt, thủng thẳng trò chuyện với những ông gánh những ống tre đựng nước thốt nốt, những bà già gán kẽo kẹt từng thúng gừng, giá.. ra chợ bán. Lâu rồi, Củ không thấy họ gánh khỉ, lọ nồi, chồn và thú rừng như xưa. Người ta đồn rằng khỉ bỏ núi đi rồi. Ðời sắp tới, không cần vô Sóc, Củ Ướng cũng biết mùa nào có loại trái cây nào, người nào dư ăn dư mặc, hay túng thiếu, Củ thường nói: „Ngó cái xà-rông là biết rồi.“

Chuyến xe nước trưa kéo về, vừa đúng lúc Củ chào những người chợ tan trở về Sóc. Họ thảnh thơi nhẹ gánh trở về với những quà bánh chợ. Ngược lại, Củ Ướng nặng nề đảy xe ngược chiều, ai cũng lên tiếng chào „Xóc xà bai“ (mạnh giỏi). Chưa bao giờ Củ Ướng ngừng xe nói chuyện phiếm với ai cả, vì ngừng xe phải lấy cây chống cho xe khỏi nghiêng mất công và mất thời giờ, nên mạnh ai đi đường nấy, Củ không buồn nghỉ ngơi, thân thể mệt rã rời từ năm nầy sang năm khác.

Vừa đẩy xe, đếm từng cụm cỏ hai bên đường, mỗi khóm cây dại là mỗi mấu chốt chỉ đường, cây cỏ nhắc Củ khoảng cách từ núi tới chợ, nó cũng nhắc nhở còn bao lâu mới được nghỉ ngơi. Ðám bông mắc cở gai góc, bông tím dễ ghết trêu chọc, „ còn xa lắm mới tới chợ! „ Rặng tre tầm vông sau nhà thầy giáo Chấp, làm vơi mệt nhọc, lá tre mát ve vẩy chào đón an ủi, gần tới rồi. Tiệm nước, ở ngả tư chợ, Củ ghé đổ vài đôi, xe nhẹ hẳn đi, túi tiền không nặng hơn dù những tờ giấy bạc thấm nước và đổ mồ hôi, ghé đổ thêm vài nhà là xong. Hai đôi nước cuối cùng dành riêng cho nhà Củ Hòa, lu nước đãi những người Miên ra chợ. Dù mưa hay nắng Củ Hòa cũng đổ đầy nước. Củ Ướng xem lu nước làm phước nầy như của mình, lâu lâu Củ tự tay súc lu cho sạch, xong đâu đấy mới về nghỉ ăn cơm.

Chuyến xe nước chiều, đường thật vắng, chỉ dành riêng cho Củ, trong núi thời nào cũng vậy, sau 4 giờ ít ai dám bén mảng tới gần. Mấy ông không thù oán gì Củ đâu. Ly cà phê đen tiện Chệt Nghén đủ cầm hơi suốt buổi xế trưa oi nồng. Nắng trời cao phủ xuống, hơi nóng đất đá dưới chân bốc lên, Củ như sống trong lò lửa không lối thoát.

Chuyến xe chiều về, sức hơi kiệt, tưởng chừng Củ có thể xụm bất cứ lúc nào, vậy mà Củ vẫn cặm cụi đi, một tay kềm chắc xe đạp, một tay đẩy xe nước, lắm khi cực quá, Củ Ướng càu nhàu, nói: „ chết cho rồi cho khỏe thân! Sống cực như con trâu! „

Mùa nắng, nhiều người bất mãn kêu réo thiếu nước, trách Củ đổ không đủ. Làm cách nào hơn, sức người có hạn, nước giếng có chừng. Thỉnh thoảng, Củ Ướng đổ quạu trước những lời gay gắt của khách hàng. „ Trời mưa anh có kêu tôi đổ không? „ Trời nắng cực, trời mưa nước nhiều làm người đổ nước cực khổ hơn. Ít người kêu nước, vì hầu hết dân chợ có lu hứng nước mưa dư dùng hằng ngày, chỉ một ít nhà nghèo khôngđủ phương tiện mới kêu nước.

Mùa mưa dầm, gió từ núi thổi như thét gào, lạnh từ sáng đến chiều, ruộng úng nước ngập đường, Củ Ướng nhọc nhằn kéo xe đi lỏm bỏm, chiếc nón tre đủ che đầu, áo quần vá loang lở, nước thấm vào người, Củ Ướng run cầm cập. Trời còn thương, Củ chưa bị bịnh hành hà, giađình cần cơm, dân chợ cần nước.

Năm năm qua, sức khỏe càng suy lụn, căn nhà mướn gần 30 năm trước không thấy thay đổi, chỉ thêm người, con cái lớn dần, ăn nhiều mà chưa giúp đở gì được cho gia đình.

Chiều cuối năm, mâm cơm cúng ông bà, nhang đã tàn, châm thêm ít rượu, Củ cầm giấy vàng mả khấn vái lầm thầm, rồi quẹt lửa đốt, khói bay mịt mù quyện với khói nhà bên cạnh. Mấy đứa con chuẩn bị đón Tết, vui với bộ quần áo mới may. Suốt năm, hôm nay nhẹ nhàng, thảnh thơi nhất. Quanh đây nhiều người khốn khổ hơn, học gọi nhauơi ới, cãi cọ nợ nần cuối năm.

Mâm cơm dọn lên, Củ ngồi chồm hổm trên ghế ăn một mình. Củ uể oải gắp dĩa mì xụa nuốt xuống như nuốt nhọc nhằn. Số phận trời cho mình lãnh, biết trách ai bây giờ. Các tiệm buôn bán tính sổ cuối năm, Củ không cần lo nghỉ gì cả, nình không biết chữ, tính toán cũng không trôi. Củ uống chầm chậm ly trà chát chát, nằm gát tay trên trán. Trong đầu hiện lờ mờ hình ảnh hơn 30 năm về trước, Củ bỏ xứ ra đi, theo những người chung xứ cùng quê xuôi nam. Trước khi lên tàu, Củ mơ ước làm ăn khá, giống mơ ước của những người đi chung tàu, dư dả về thăm xóm cũ. Người đồng hương cùng lứa tuổi tới xứ nầy cũng nhiều. Ông Cáng xưa đẩy xe bán nước đá bào, bây giờ có tiệm cà phê lớn, ông Chiệp đẩy xe bán bánh nướng, bây giờ ở phố lầu, tiệm bánh. Tệ nhứt như Tửng Là, cũng có tiệm nhỏ ở góc chợ đỡ dầm mưa dãi nắng. Cửa biển Xua Tháo (Sán đầu) xa quá, mất hết liên lạc với bà con hương lý xưa, người lớn tuổi chắc qui tiên hết rồi. Thấy thiên hạ có năm gởi mỡ heo về cho bà con qua ngả Hồng Kông, bà con mỗi nguời húp một muỗng mỡ heo, thiếu ăn vậy sao? Củ muốn gởI về một thùng quà cho bà con ăn lấy thảo nhưng ngày qua ngày, không tiền nên giả vờ quên mất. Hơn 10 năm nay, giếng nước Chưn Num không còn là nguồn lợi, gia đình càng ngày càngđông, nước càng ngày càng cạn.

Ngày xưa, mỗi đôi nước 5 cắc, bây giờ mỗi đôi nước bảy chục đồng mà không đủ sống. Hàng năm, Củ lên giá vài đồng vào dịp Tết, Củ quên hàng hóa, thực phẩm, giá cả càng càng ngày càng cao. Chành ông Pểnh và mấy người chủ tiệm tốt bụng mướn người vét giếng nước sâu cho nước nhiều hơn, nhưng những ngưòi hão tâm nầythôi không nhờ CủƯớng nữa, họ dùng máy bơm và xe chở nước về.

Giấc mơ về thăm hương lý, thăm bà con thân thích, Củ không buồn mơ ước, hy vọng đám con cháu khá hơn, ở hiền gặp lành. Câu châm ngôn nầy chưa đủ chứng minh, ít nhất trong thế hệ hiện tại. Cuối năm nay, không dư dả mua sắm thêm gì, trên bàn thờ tổ tiên, một nải chuối xanh, trái dưa hấu nhỏ héo, một đĩa quít đèo. Củ nằm cô đơn, dám con cái bắtđầu ra khỏi nhà, líu lo với bạn bè.

Củ muốn kể cho bọn nó nghe chuyện xưa vào dịp rảnh rỗi cuối năm. Ðể tao kể cho nghe: „Tao với thằng Cởn, thằng Xua, ai nữa kìa, lâu quá quên! Bọn tao tối tối rủ nhau đi bẻ cà na trộm. Mấy đứa con gái đứng canh chừng chủ vườn cà na. Bây giờ chấc tụi nó già hết rồi. Có khi chủ vườn gặp tao, tao chạy mất, hồi nhỏ tao mạnh lắm kìa, không phải lôi thôi như bây giờ đâu!“ Cà na đen muối mặn, ăn cháo trắng ngon lắm bây ơi! „ Củ Ướng lim dim, mấy mươi năm trước, Củ thấy thằng bé chạy vùn vụt qua vườn cà na, lão chủ vườn tru tréo „con ai không có cha mẹ sao, bắt được tao bẻ cổ hết! „ Củ phì cười một mình, tiếp tục: „Ðể tao kể nữa nghe bây“ Thằng Xồi con Củ thờ ơ, „ Thôi có bao nhiêu Chệt nói cả trăm lần - chuyện năm xưa! „ Nghe con nói, Củ Ướng vấn điếu thuốc, nhấp ly trà nguội từ lâu, cụt hứng than thầm: „ Ơi con cái thời nay mà!... Nước trên mái nhà chảy xuống, chớ nuớc có có chảy ngược lên bao giờ đâu! Thương nó mà nó có thương mình đâu, cũng may là chưa nhờ nó gì à!’

Gác tay lên trán, lăn lộn, bực bội, Củ âm thầm chịu đựng. Năm nay, đoàn lân Phong Khê Lüu mình, bọn võ sĩ tập thuần thục chưa? Còn đụng với xứ khác chớ. Ông Lào, trưởng đoàn lân, vờn chảo mã tấn cảnh cáo lân địch, bộ cước ông không tệ đâu nghe. Lân lão râu bạc mà! Bọn lân râu đen chạm phải xá ba cái, tránh đường nhường bước. Ðoàn lân Phong Khê Lưu, có bộ cước gia truyền, bộ tấn, chảo mã vờn như chân hổ, mất lân liếc trêu ghẹo lân địch, nhắp nháy trước khi leo sào cao đoạt phong pháo đỏ và phong lì xì phơ phất thách đố trên lầu cao. Chung quanh các võ sĩ tới lui nhịp nhàng, quất nhữngđường roi va chạm nhau chan chát. Trống chập chả, phèn la dập dồn như sấm nổ, xác pháo bay, màu hồng hoan hỷ.

Nằm trên bộ ván ngựa một mình, miệng phì phào điếu thuốc vấn, Củ ngước nhìn những tấm liễn mới dán trên mấy cây cột gỗ, ổ mối bò ngòng ngoèo, chằng chịt. Mãy câu liễn mua ở chợ, màu đỏ rực, chữ kỹ xảo có hồn. Củđọc thầm „ Hảo ngữ hảo ngôn hành hảo vận, tân niên tân nguyệt phát tân tài „ Củ mĩm cười chua chát, tuyệt vọng, lẩm bẩm „ phát tài cá mốc xì họ“ .

Củ gác tay che đôi mắt để khỏi thấy miếng vỏ sò trong chữ „ tài“ trên câu liễn. Củ xoay mình oằn oại, những chiều cuối năm như vầy, nhớ cố hương quá, nhớđến ngột ngạt thời thơ ấu, chép miệng:

„ Nhựt mộ hương giang hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu“

Bỏ sơn thôn hương lý, tưởng nên vương tướng gì, biết vậy qua đây làm gì. Nghe mấy thằng bạn mắc dịch rủ rê, bây giờ nó khá nó có nhớ mình đâu. Kêu mấy đầu hụi, nó than túng, sợ mình tỏ tịa khôngđủ trả, vì không có sinh lợi.

Hận nhứt là lão Gia Phong Chành, ngày hàn vi chia ngọt xẻ bùi, bây giờ ngoảnh mặt, xem như người lạ, gả con cưới dâu mà không mời, quên mất chữ kim bằng. Năm nào lão cũng bô bô: „ A, cành mai nhà quá nở rộ, năm nào cũng nở mùng một tết lấy hên! Quá mua cành mai nào cũng tốt, cái này, ông trời thương, ông bà độ! Củ Ướng thì gặp vân hạn, cành mai năm nào cũng lép rụng, ít khi nở, Củ tự an ủi: „ Nghèo thì mua mai rẻ tiền, làm sao bông nở tốtđược, có tiền coi, tui bỏ bạc trăm ra mua, coi mai có nở rộ không?“ .

Quanh đi quẩn lại cũng chữ nghèo, nghèo ở chợ không ai ngó tới, Củ vừa nghèo vừa khuất trong hẻm cùng nầy, thì ai thèm ghé. Thuốc gồi càng hút càng cay đắng miệng. Quá khứ cũng khổ, hiện tại càng tệ, hy vọng tương lai, mà mua vé số cũng không trúng, số đuôi đánh 47 nó ra 37,đánh 81 nó ra 18.

Muốn kể cho con cái nghe chúng nó lại chê mình lú lẫn chuyện năm xưa. Thèm cà na muối quá, bùi bùi và mặn. Củ chép miệng, lẩm bẩm „ Mẹ họ, mấy gánh hát Tiều tới đây, ông Bang Nám không dẫn tới hát nhà mình, chê mình nghèo hớ, trời có mắt mà coi. Lẩm bẩm chán, Củ Ướng than thở như ngưòi bịnh rên rỉ. Mình số phận cùng cực từ nhỏ tới lớn, trời không thương. Củ gõ nhịp, ngón tay gầy guộc như mấy cây lạp xưỏng khô, nhái lại điệu Huỳnh Mai, quanh đi quẩn lại cũng bấy nhiêu, cố nhớ mà không nhớ nổi thêm câu nào. Hay nhất là đoạn Chúc Anh Ðài nhứt quyết đòi cha phải sắm xe tang vào ngày đưa dâu để trọn tình với Lương Sơn Bá, hay quá, hay quá. Củ Ướng la lớn. Ðiệu Huỳnh Mai Củ Ướng nghe cách đây mấu mươi năm, trên bờ hải khẩu Xua Tháo, Củ đang ôm quần áo chờ xuống tàu mệt mỏi, lo âu, nghe tiếng còn, tiếng mất, một cô bé chừng 10 tuổi hát theo tiếng đờn gáo bừng bực bị át bởi tiếng chưn người qua lại. Tiếng cô bé thật áo não, mới 10 tuổi đầu, hát cho ai nghe? Trong cái nón rách mấy đồng tiền, khách qua lại bố thí chưa đủ nuôi thân nên cô bé gầy như que củi. Cô bé hát cho kiếp nghèo vất vưởng. Ông già ăn mày mù vuốt những ngón tay gầy trên sợ dây đờn gáo bén ngót. Ông mù nên không thấy ai thờ ơ qua lại, ông bị chìm trong tiếng đờn thê thiết của kẻ ăn xin. Ông già mù, cô gái bé nhỏ, tiếng đờn còn như văng vẳng đâu đây, mới hồi nãy kìa, Củ nhớ rõ lắm, Củ chìm đắm trong thứ âm thanh quen thuộc bị đánh mất, bây giờ tìm lại được. Củ hát theo, Củ quơ quàu hai tay chơi vơi như Chúc Anh Ðài ôm mộ Lương Sơn Bá. Tiếng hát Chúc Anh Ðài cao vút, tiếng hát Củ Ướng ồ ề vỡ ngực bay lên cao, Củ hát cho kiếp nghèo. Củ tưởng mình còn đang ôm gói quần áo đứng trên bến tàu cửa biển Xua Tháo. Tiếng hát Chúc Anh Ðài động tới Hoàng Thiên. Tiếng hát Củ cũng hòa chung mộtđiệu í i..

Ðiệu Huỳnh Mai, Củ hát chưa dứt, đứa con đi ngang nói, „ông già khùng!“ Củ Ướng càng bực dọc, không giải tỏađược: „số phận cực cho tới chết vậy hè! Biết chừng nào có tiền về Tàu thăm bà con nè trời! „ .

Bà vợ tình cờ đang quét dọn, phì cười góp ý: „Tại ông ăn CƠM CHÁY làm sao về Tàu được“. Củ Ướng giật mình nạt lên như hét: „ Chớ có chiều nào mẹ con bây chừa cho taođược chén cơm trắng không“?

Viết thêm

Nhớ bao nhiêu viết bấy nhiêu, ngoài tôi ra thế hệ tôi không ai vô công rỗi việc, buồn nhắc và tìm hiểu, dân xứ tôi cũng không ai ưa đọc chuyện bá láp nầy, ai cũng lo chạy gạo. Tôi viết để tự nhớ và cám ơn thế hệđi qua, hiền hòa, cho tôi kỷ niệm vui buồn thời thơ ấu.

11 tuổi đã xa quê, trí óc còn non nớt, nghĩ hè. Càng ngày đi càng xa xứ sở, không được gần gủi lâu dàiđể nghe chuyện cũ.

Ngày nay, lớn tuổi, trôi nổi, lao đao, bầm vập, muốn về quê một lần thăm mồ mả ông cha mà không có cơ hội. Tôi nhớ và bị ám ảnh cáo quá khứ chiêm bao đã mất. Ai cũng tốt, chân thật, ai tôi cũng thương và muốn nhắc, vì ai cũng hiền lành, mần ăn ngay ngắn, đất nầy là hốc tì (phướcđịa) ai gian dối sẽ bị tàn mạt.

Xin kể thêm, dãy phố đầu chợ, từ bờ sông vô là tiệm Ðức Phong (bên ngoại tôi) Vạn Trường Xuân dược phòng(ông thầy thuốc ưa hát dân ca Triều Châu), tiệm bánh ông Chiệp xe (Tập Sanh) vợ chồng hút á phiện tới nghèo. Tiệm Hòa Sanh tạp hóa, ý Tư Lềnh lớn người, nói lớn tiếng, không mất lòng ai. Tiệm Vạn Ðức, Ðức Phước, tiệm bánh mì, tiệm bánh Ðại Ðức Chành, Bảo An Xương dược phòng, phố bác bảy Ðạo Chuối có xe đò (hư không trật ngày, nên On, con bác sửa xe rất giỏi) sau phốđó sang lại cho Ông Cả Lol cất làm phòng ngủ, bên cạnh là lô cốt thời Tây, nay không còn.

Chợ cất năm 1906, có hai vòi rồng trên nóc, cột đá, lợp ngói, cháy năm 1970 vì chiến tranh; Ðình cũng bị phá làm công viên, đầu kinh bị lấp xa thêm cả cây số. Nhắc thêm đau, mà không nhắc thế hệ sau không biết- cha ông mình sống ra sau. Hình ảnh và kỹ niệm đó mấtđi thì uổng.

Tôi lại nhớ miên man. Ông Lào Tám (Lão Trần) kể chuyện bên Tàu, ở bên Tàu, đàn ông được ăn cháo đặc, đi làm việc nặng ngoài đồng, đàn bà ăn cháo lỏng làm việc nhẹ ở nhà. Bạn bè ở Nam Việt viết thơ về khuyên qua lập nghiệp. Cơm gạo dư dả, mùa Trung Thu, lượm trứng vịt không hết. Qua đây mới biết, dịp rằm tháng Tám, các tiệm bánh làm bánh Trung thu chỉ lấy tròng đỏ, bỏ tròng trắng, lượmăn không hết.

Nhớ thương tỉa Xới Chia, hiền hậu, mặc áo Tiều trắng, quần lảnh đen, làm ăn vừa khá, tuổi già, sắp sửa về Tàu thăm vợ lớn và con trai một lần. Vợ lớn và con trai trông ngóng gặp mặt chồng mặt cha một lần sau mấy mươi năm xa cách, chưađược mừng gặp gở thì tỉa mất.

Dân gốc Tàu đến xứ tôi lập nghiệp khá đông. Quận có bốn dãy phố đầu tiên, lợp ngói âm dương, lầu ván, cửa gỗ gài thông hồng, lót gạch tàu. Bên hông chợ có mườI căn tiệm đâu lưng. Tôi nhớ không sót một hiệu tiệm. Năm 1981, tại trại tỵ nạn gần Tubinger, tôi gặp một thiếu phụ thông dịch viên, gốc tỉnh S. quê nội tôi. Lâu ngày bặt tin Việt Nam, tôi hăm hở hỏi thăm ngay về tỉnh S. Bà chận lại, giọng chan chát, „Tôi đi lâu quá rồi“ Từ 75 đến 81 có 6 năm mà quên quê hương mình, bà đó còn trẻ mà mắc bịnh amnesia, tôi xa quê mấy chục năm mà nhớ như in, bịnh dementia.

Năm 1998, trước tôi một thế hệ đi không còn một người.

Dân Tàu đợt đầu tiên đến lập nghiệp sống quanh chợ, buôn bán, từ đầu thế kỷ 20, nắm trọn vẹn việc thương mại. Có người thuộc từ thế hệ đầu, một số thuộc thế hệ thứ hai, còn trọng giá trị đạo đức cổ truyền. Cơ sở tinh thần là chùa ông Bổn. Người lãnh đạo là ông Bang Ứng Vĩnh Phong Chành, lớn người có ba giòng con. Ai ở Từng Xua (Ðường Sơn) qua dều được ông dắt đến từng tiệm, uống trà, xin vài hột gạo, lấy cái lộc của người đồng hương. Ai đến xứ nầy đều được đồng hương đùm bọc, „có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo“, dù là những gánh hát Tiều rả gánh, họp thành nhóm, xế trưađến các tiệm buôn hát mừng, các tiệm cà phê bao cơm nước cho họ.

Ý Lèn, vợ ông hai bang Ứng mốt, làm rúng động dân Hoa kiều. Ý Lèn hiền quá, ai cũng thương, để lại thằng Tỷ. Ông bang Ứng cưới vợ ba, bà nầy lấy dao gạch đứt tay Tỷ. Dàn hát máy hát tuồng Phạm Công Cúc Hoa ra rả, áo nảo nhứt là lúc Cúc Hoa hiện hồn về bắt chí cho Nghi Xuân, như lửa thêm dâu, các bà có cơ hội thổi phồng cảnh mẹ ghẻ con chồng, công khai chửi đàn ông có vợ bé, sợ con mình bị hành hà như Nghi Xuân Tấn Lực bị mụ Tào thị bắt dang nắng dầm mưa chăn vịt. Sự trùng hợp đó làm Tỷ nổi tiếng, đi ngang nhà ai cũng bị kêu vào xem vết đứt trên tay, vừa thương cảm nhấc ý Lèn, „phải còn mẹ đâu đếnđổi vậy! „ Chuyện nhỏ xé to, dân Tiều họp lại làm áp lực chuyện mới chấm dứt.

Tôi nhắc ông bang Ứng vì ông là người ơn của gia đình tôi. Mỗi lần có tin Việt Minh về gia đình tôi đến ngủ nhờ phố ông, cửa cây, tấn bằng những cà ròn muối, chống đạn. Năm 1945 Thổ dậy, ra Mỹ Ðức lánh nạn, lúc trở về tiệm bị dọn sạch, cái nồi cái chén không còn, trời tối, ý Lèn kêu lại nấu cháo cho ăn. Trưa trưa ý Lèn thường dẫn Tỷ (con ruột) và Hạng (con của vợ lớn của con trai vợ lớn) ra chợ ngồi ăn quà. Ý thương Hạng như con ruột. Hôm đám ma ý Lèn, lúc động quan, Hạng nhào khóc ngất kêu „Má, má“ (bà, bà) bà nội ruột Hạng ở bên Tàu. Ý Lèn mất,đâu còn ai thương Hạng, nó lưu lạc lên Nam Vang mất tăm.

Giới nhà máy xay lúa, xăng dầu, vận tải, lò heo do dân gốc Tàu chủ động. Ðường xe ra Long Xuyên, hảng Tân Nguyền của Xụl, đường ra Châu đốc, đổ bao nhiêu bộ hiền và tài xế vì mìnđạn làm giàu cho hảng Tân thành của ý Hía.

Ngoài rìa chợ, dọc theo đường ra Châu đốc hoặc ngược vào núi Tô có những ngôi nhà xây đá cổ, hâu hết gốc „thầy“, thầy ký, thầy giáo, giàu xưa, tiêu biểu là ông Hội đồng Kết, Tàu lai Miên, hiền như đất. Gia đình ông Hội đồng nắm hết quyền hành chánh và giáo dục trong quận, tất cả chưa làm mất lòng đứa con nít, sống rất trong sạch, không quan liêu hống hách, xem dân bổn phố như thân nhân, xưng hô „hia, chế củ, kiểm ... „ Tôi vẫn thường gọi ông Hộiđồng là „ông củ.“

Thêm giai cấp công chức gốc người Miên ở quanh chùa Trên tiêu biểu là ông Ðốc Nâu hay nói tiếng Pháp, thầy ký Seyla, thầy Tích, thầy Khách, thầy Hoạnh, thầy Kul, cô giáo Ni, thầy Xét.... giađình họ lên Nam Vang có người làm Tỉnh trưởng.

Trường Miên tổ chức chặt chẻ, có tới lớp Nhứt, lâu đời, học sinh giỏi tiếp tục lên Nam Vang học rồi ở luôn không về. Trường Tiều khi mở khi đóng bất thường. Trường Phước Kiến ngưng hoạtđộng, còn lại tòa nhà cũ.

Tôi không quên nhắc những người dân Miên nghèo sống quanh các ngôi chùa trong Sóc dọc theo chân núi, thật thà, sợ tội, ưa làm phước. Bao nhiêu thế hệ đi qua không lưu lại dấu vết gì. Ông Tà Ni đập chó, tiếng là ác, ông đập chó để đổi lấy miếng cơm và ly rượu công xi. Con Ðiên chợ Xà Tón năm 1950, tiếng là điên, sống nhờ miếng cơm dư của thiên hạ. Ác như ông Tà Ni,điên như con Ðiên mà vô hại, không ai ghét. Khôn như quan một Sử, bắt người khảo của, Nội an Bổn cho thuộc hạ vô Sóc lùa bò, hai người nầy gốc gác ở xứ khác.

Tôi không biết nhiều về xóm dọc bờ kinh, nhà nào cũng có bàn Thông Thiên, một lon cặm nhang, một bình bông trang và ba chung nước cúng trời đất. Họ có đạo tâm, giữ gìn giá trị đạo đức tuyệtđói, nhẫn nhục và an phận. Mưu sinh ra sao không rõ.

Có khoảng vài gia đình theo Thiên Chúa Giáo gốc cù lao Ven, sống ở đầu kinh, bắt trăn dưới bưng bán cho người lột da, bán thịt bán mật,đi lễ ở nhà thờ cất sát bên thành lính Tây. Thành lính Tây sau nầy làm Chi khu, rồi bị phá làm rạp hát, một „cuộc hí trưòng“.

Trước năm 1960, đầu kinh ở sát đường dọc theo hông chợ phía đông, tàu lồng cu, xà lan và ghe chài, ghe nồi đậu nghẹt bờ kinh rộng. Ngày nay (1975) kinh bị lấp dần cả hơn cây số, nhà cửa cất san sát choáng hết đất.

Gia đình tôi bắt đầu ở Sóc, dờI lên chợ, sang lại tiệm tạp hóa của Chệt Chiêu, tiền vay bạc của Khánh An chành, sau chuyển sang „thí hụi“ bán đồ sắt.

Năm 1954, Ngô Ðình Diệm cấm Hoa kiều mấy chục nghề, ông già tôi bỏ giấy Minh hương nhập Việt tịch, cuộc sống không thay đổi gì. Ông là dân tỉnh xa, bỏ xứ đếnđây lập nghiệp, ảnh hưởng chút ít văn hóa Pháp.

Ông chăm chỉ làm ăn nuôi con, muốn con đi học hơn là buôn bán, khoảng thời gian đầu với đủ thứ áp lực của Xếp lùn, thằng cha „Tây Răng“, phú lích Miên, lính kín, Việt Minh, sự nhịn nhục sợ hải ông ảnh hưởng nặng nề nếp sống tâm lý tôi, thấy ai ở quê tôi cũng sợ, nhút nhát đến độ ít dám mở miệng. Ông bảo vệ tôi như đứa bé lên mười ngu ngốc, sợ người gạt gẩm dụ dổ làm khó dễ tôi. Hầu hết bạn bè gốc Tàu đều là lính kiểng, hoặc lo tiền hoãn dịch, ở xa về lén lút tránh tai mắt. Tôi nhịn nhục tới đờ đẩn ngơ ngáo. Hôm đám cưới Nhền, tôi ngồi khép nép với những tên bạn học cũ, cách xa bàn chức sắc và đám giáo lá. Thiếu úy L. gốc địa phương, trưởng ban gì đó của Chi khu bước tới, những đôi mắt lo lắng giùm tôi, hắn vổ vai tôi, cười nửa miệng „Hia mới về hả, nhậu đả đi, tôi không khó dễ gì đâu, dân xứ sở mà! „ Tôi chưa phản ứng gì thì hắn đã quay lưng. Bàn tự nhiên mất vui, mấy tên bạn muốn dặn dò tôi điều gì mà ngài ngại. Sauđó nghe nói nhà tôi biếu hắn hai chai Martial (giống tên Martel).

Lâu lắm mới biết hắn nhắc tôi phải biết điều như đám thằng Sóc Khiếm, thằng Tỷ. Rủi cho tôi vì sự ngu dốt không hiểu ngụ ý hắn , làm ở nhà tốn cặp rượu, nếu ngay lúc đó tôi thông minh hiểu ý, thì chắc hắn ăn ghế lên đầu, ông già tôi sẽđiên lên vì sợ.

Việc buôn bán càng phát đạt, tiền vô tiền ra dồi dào, con cái lớn yên ổn, đi xa, có đứa đi nhảy dù, tử trận ở Hạ Lào. Chánh quyền địa phương hết làm khó dễ, nên ông bớt bị áp lực, tinh thần thoải mái hơn, giới thương mại có thể dùng tiền mua chuộc giới cầm quyền. Ông ủng hộ thành lập trường Tiều, cho vài đứa con trở lại học chữ Tàu. Mấy đứa con cười ngửa nghiêng nghe tin ông đắc cử Hội trưởng Hội Phụ huynh Trung học quận. Mỗi tuần ở nhà chừng hai ngày, thời giờ đâu làm việc, ông trả lời tỉnh bơ, „tao ký tên thôi“. Lớn lên tôi đi làm xa, coi như yên một đứa, sự liên hệ tình cảm cha con lợt lạt, đói thoại khó khăn. Mỗi lần Tết về quê, ông gián tiếp cằn nhằn bà già, ép tôi lập gia đình với con chủ vựa trái cây ở Chợ Lớn, con tiệm vải, tiệm tạp hóa, „biết mầnăn, lời một ngày bằng cả tháng lương thầy giáo“.

Sáng sớm mồng hai Tết năm 1975, tôi xách gói đi xe tài nhứt để kịp lên Sài Gòn lo hồ sơ xin thông hành xuất ngoại. Ông nằm ngủ nướng trong mùng, nói vói theo, dặn lên Sài Gòn cần tiền cứ mượn thân nhân rồi ông gởi trả sau. Ðó là lời trăn trối dặn dò cuối cùng. Những ngày khốn đốn vì Cộng Sản, con đi tứ tán, ông đi quanh quẩn ở nhà, hứng chí thì hát Tiều một mình, bạn bè tới ngồi chơi, nhắc tới con cái, ông thở dài than, „xa xua, lặt hái chiệt hun tì“, tam sơn lục hải nhứt phần địa, núi ba phần, biển sáu phần, đất chỉ là phần nhỏ. Xa xăm quá. Những ngày cuối cùng, ông chống gậy lên núi Chưn Phnum tìm chỗ nằm theo hướng phong thủy. Ngày nhắm mắt ước ao thấy mặt con lần cuối. Nhựt lạc Tây thiên, mặt trời lặn ở hướng tây. Bao nhiêu năm nay, nằm bơ vơ trên sườn núi, bầy con lưu lạc chưa đứa nào có ý định xên mến, thanh minh, về dẩy cỏ, lợp mả cúng heo quay, viện ký do bận làm việc nuôi con, trả nợ mua nhà, đứa nầy nạnh đứa kia, „kê kía ky xí pể“ (con đông đói chết cha). Bạc phước!

Ðể lại cho con, Lưu Linh KiwCát trắng như gạo

Tôi có lẽ quá gắn bó với cát, đến nỗi, trong giấc ngủ, trên trang viết, trong niềm vui nỗi buồn của mình đều có bóng dáng cát trong đó. Khi có dịp, không chiều nào tôi không đi lang thang dọc những triền cát, để nhìn ngắm, để ngẫm ngợi, để đong đếm lại khoảng thời gian mình đã sống. Và lúc nào ra với cát, tôi cũng thấy lại tuổi thơ mình, thấy mình vô cùng nhỏ bé, thấy mình hình như vẫn còn mắc nợ với cát nhiều lắm. Tôi có một tuổi thơ dài trên cát lấm lem, cát lấm lem tuổi thơ, vây bọc tuổi thơ, cát thổi vào tôi những cọ xát đau đớn và dịu ngọt, hạnh phúc và cả những bất hạnh. Mỗi con người quê mình như đời cát. Nhưng cũng vì như đời cát nên tôi mới nhận ra rằng, kể từ những năm chiến tranh tới bây giờ, cát quê có ba lần thay đổi và những người Quảng Bình có ba lần thay đổi mắt nhìn về phía cát.

CáT CủA THờI ĐạN BOM

Trong chiến tranh, lũ con nít chúng tôi phải theo gia đình rời xa làng mình, số lên rừng, số nữa thì dịch chuyển chỗ ở của mình lên những động cát trắng. Đa phần người dân đều thích dịch chuyển thân phận mình về phía những động cát để tránh bom đạn. Làm nhà trên cát, làm hầm trên cát, trường học, bệnh xá, hầm cứu thương, cả những cái bếp, thậm chí là những đám cưới, tất cả đều tổ chức trong những căn hầm trên cát. Chúng tôi học trong những căn nhà hầm nửa chìm nửa nổi. Tiếng cô giáo giảng bài có lúc không lấn lát được tiếng gầm rú của máy bay Mỹ. Nhưng đó là những tháng năm gian khổ, cay cực, ác liệt nhưng cũng đẹp nhất của tuổi thơ chúng tôi. Và tôi gọi đấy là những tháng năm của tuổi thơ cát. Những năm chiến tranh, Quảng Bình hướng nhìn về phía cát, nơi ấy là những người thân đang sinh sống, là trường học, là những nếp nhà, nơi ấy còn là những trận địa pháo cao xạ của bộ đội. Cát trắng ngơ trắng ngất, cát mênh mông trước mắt nhìn và lấp ló trên màu cát trắng vĩnh cửu ấy là những xóm làng, là hầm trú ẩn, giao thông hào. Chúng tôi đã nhìn thấy những trận chiến đấu ngoan cường của bộ đội bắn máy bay Mỹ. Chúng tôi đã quì xuống bên thân xác của các chú bộ đội hy sinh, màu đỏ của máu thấm vào cát, đỏ chói chang, đỏ như màu cờ Tổ quốc. Chúng tôi đã từng chạy ù ù theo các cô các chú dân quân, vác đòn gánh, vác cả đá, cả dao rựa đuổi theo một tên phi công Mỹ rơi trên động cát. Khi ấy cát như tấm lưới lớn vây bủa tên giặc lái Mỹ, còn những chú bé như chúng tôi thì vừa chạy hùng hục trên cát vừa la hét rầm trời. Nhiều lần, lũ con nít chúng tôi chạy ra trận địa pháo của bộ đội, ngồi rình, chờ cho đến khi các chú ăn xong cơm, số cơm thừa các chú vẫn chôn xuống cát, chúng tôi mò ra, đào bới, vun vén thứ cơm trắng tinh nằm trong cát ấy, mỗi đứa chia nhau một vốc ăn, dù là cơm trộn cát nhưng vẫn còn ngon hơn chán vạn khoai luộc và món xương rồng xào mỡ. Tôi khoẻ mạnh, no đủ một phần cũng nhờ vào những nắm cơm được bới lên từ cát ấy. Chúng tôi đã cùng cha mẹ mình sống những tháng năm trên cát thời chiến tranh, bát cơm trộn cát, xương rồng xào với con nhông ăn qua mùa giáp hạt. Chúng tôi cũng đã để lại những dấu yêu đầu đời trên cát mênh mông. Thời chống Mỹ, cát trở nên một pháo đài cho quê hương. Cát chở che, cát ôm ấp, cát như biển ôm lấy những con thuyền. Và sau chiến tranh, có dịp đi lại những triền cát quê hương, cát không phẳng nữa, trên cát đã có bao nhiêu ngôi mộ. Đó là dấu tích không được ai lãng quên, dấu tích của những ngôi mộ, dấu tích của cát một thời cùng quê hương đánh Mỹ.

Trong muôn vàn thân phận cát của người Quảng Bình, tôi chỉ muốn gửi đến bạn đọc một thân phận cát cụ thể.

34 năm rồi, tôi mới gặp lại ông Xuân, thầy Xuân của tôi, trong ngôi nhà thực khang trang của anh con trai cả tại chợ Cổng, xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông đã 75 tuổi, và tôi, cái thằng cu Vinh đen thui như củ khoai nướng ngày nào giờ tóc đã lốm đốm bạc. Thế mà ông vẫn nhận ra tôi. Thế mà ông vẫn nhớ vanh vách những chuyện nghịch ngợm động trời của lũ con nít chúng tôi thời ấy, thời chiến tranh. Hồi đó, nhà tôi sơ tán lên thôn Đông Dương làng ông. Vòng vo chuyện trò, khi tôi nhắc đến cái chết bi thảm của vợ con ông thì tiếng ông chùng xuống. ‘’Chỉ còn hai ngày nữa là đến ngày tuyên bố kết thúc chiến tranh phá hoại miền Bắc của tụi Mỹ chớ mấy. Còn hai ngày nữa... Hôm đó, ngày 29-10-1968, máy bay trút bom xuống làng. Vợ tui, hai đứa con tui cùng chết vì bom Napan, chết cháy thui, mà chỉ còn hai ngày nữa chớ mấy, vì ngày 1-11 năm đó chiến tranh phá hoại cũng kết thúc cháu ạ... Còn hai ngày nữa răng không ai sống cả? Răng lại rứa?”. Ông kể rồi ông hỏi, rồi ông nhắc tới nhắc lui cái thời khắc hai ngày hết chiến tranh phá hoại. Rồi ông rít thuốc lá và im lặng. Tôi biết vào thời điểm vợ con ông chết, ông không có mặt tại làng. Lúc đó ông đang làm giáo viên tại tỉnh Hưng Yên để dạy dỗ cho hàng trăm trẻ em Quảng Bình sơ tán ra miền Bắc theo diện K8. Nhưng chính ngày vợ con ông chết thì tôi lại chứng kiến. Khi đó tôi 10 tuổi. Nhà ông cách nhà tôi mấy trăm mét. Tôi cùng mọi người trong làng chạy đến. Xác vợ con ông cháy đen nằm trên chiếu. Anh con trai cả và đứa em gái thứ đang ngồi khóc. Ngoài Bắc, ông và một đứa con trai nữa mãi một tháng sau mới nhận được tin. Ông đưa cánh tay gầy guộc ôm ngực kể: "Nghe tin vợ con tui chết, tui phát điên, phát rồ. Tui không tin. Tui gửi đứa con trai 5 tuổi lại cho anh em, một mình nhào về làng. Tui băng đường qua trùng trùng cồn cát, chạy tắt về làng, đổ nhào vào ba ngôi mộ bằng cát vun cao, hương khói còn mới, nhang đèn còn mới, đất đai còn mới. Tôi chúi đầu vào ba nấm mộ mà gào khóc. Đêm đó, trên cát, tui và hai đứa con ngồi cùng ba nấm mộ. Đêm đó không ai khóc nữa. Tui cũng không khóc nữa. Khóc làm chi nữa khi mà lúc này tui phải thay vợ tui nuôi ba đứa con. Tình cảnh lúc đó nghiệt ngã lắm, khổ lắm, thời điểm đó cuộc sống căng thẳng lắm, thiếu thốn lắm, một tay ba đứa con nhỏ dại, mấy cha con lếch thếch ngồi bên nhau, dưới chân mộ, bốn bề là cát, cát xót .như nước mắt, mần răng khóc được nữa... Nhà có 7 người, bom Mỹ trừ đi ba rồi, còn bốn nữa, hỏi mần răng mà khóc?...”.

Làng Đông Dương không ai tin ông Xuân sẽ nuôi nổi các con trong một hoàn cảnh ngặt nghèo và khốn khó đến như vậy. Mấy chục đồng lương của ông sẻ chia ra từng ngày, sẻ chia vào bữa ăn, giấc ngủ, cuốn vở, viên thuốc, mái tranh, hạt muối, tính toán chi cũng thấy thiếu, nhưng thiếu cũng phải dựa vào đó mà sống, mà đắp đổi. Ngày đó làng Đông Dương nghèo xơ xác. Nghèo và đói. Tôi vẫn còn nhớ đã cùng lũ trẻ đi bới cơm cháy mà bộ đội pháo ăn thừa chôn trong cát. Bộ đội thương con trẻ nhưng không dám đem cho cơm cháy sợ mất quan điểm. Lũ trẻ chúng tôi đêm đêm bò ra cát, tìm bới những hố cát nhỏ chôn cơm cháy, lôi lên, chao qua nước cho hết cát và chia nhau ăn rau ráu như một đàn cò đói. Chúng tôi còn phải ăn cám gạo với món xương rồng xào với ruốc, đắng và mặn chát, nuốt đến trợn tròn con mắt mới qua nổi cuống họng. Ông Xuân nói: ‘’Tui xác định rồi, để nuôi các con lớn khôn thiệt khó nhưng còn làm được. Để chúng nó học hành đến nơi đến chốn mới cay cực. Nhưng tui đã hứa trước mộ mẹ nó rồi, tui sẽ thay mẹ nó nuôi các con tui học hành tử tế. Khổ mấy cũng phải học hành tử tế, có nghề có nghiệp’’. Những ngày đầu tiên vắng mẹ, trong căn nhà tranh dưới chân động cát ấy mới cô quạnh làm sao. Thằng cu Minh khóc rưng rức đòi mẹ bế. Con Mai nửa đêm gào thét tên mẹ rồi cứ chạy ra động cát, quăng người vào mộ của mẹ mà gào khóc. Ông ôm các con vào lòng, ông hát, ông hát thật to cho át đi nỗi đau, át đi nỗi cô đơn, các con ông cô quạnh vì thiếu vắng hơi mẹ nó đã đành, chính ông, người chồng vắng hơi vợ trong lòng buốt đau như bị gai xương rồng cứa. Cũng qua hết. Ông chèo chống với cuộc sống, làm tất cả những gì có thể làm để cầm cự cơm cháo cho các con, chắt bóp từng xu tiền lương để bảo đảm cuộc sống cho cả gia đình. Ngày nào người làng cũng thấy ông tất tả ngược xuôi. Người ông gầy tọp. Tóc ông bạc trắng rồi rụng dần. Khuôn mặt ông hốc hác. Ông như những hạt cát, lăn lộn giữa đời để nuôi các con. "Tui vẫn thường lên động cát ngồi với mộ mẹ nó và hai đứa con tui. Có khi tui ngồi cả đêm. Tui ngồi im như động cát vậy đó’’. Ông lại kể: Những ngày con Mai, thằng Minh về thị trấn học cấp 3, ông giao cho hai chị em mỗi tuần 3 lon gạo, bốn lon khoai và một nồi cà, ăn sao đó cho đủ cả tuần thì ăn. "Nhớ lại mấy cha con tui vẫn nhìn nhau hỏi, vì răng mà hai chị em có 3 lon gạo, 4 lon khoai vẫn ăn đủ trong tuần, lại học vẫn giỏi, chịu, không biết vì răng ngày đó mấy đứa con tui chịu đựng giỏi như rứa mà không kêu ca. Kêu chi được vì ở nhà, tui và thằng Đông, mỗi tuần cũng chỉ dám ăn hai lon gạo và năm lon khoai thôi. Như rứa mà vẫn phải xoay xở, vay mượn thêm đó...’’. Anh Đông nói thêm vào: "Tui nói với các em, bay coi ba đó, còn chi ở ba nữa mà đòi hỏi, ba như động cát, hết khả năng rồi, có chi là ba cho anh em mình hết rồi, chỉ còn cách chịu cực mà học thiệt giỏi cho ba vui thôi. Khổ như rứa mà mấy anh em tụi tui học đều giỏi’’. Ông Xuân khoe: "Thằng Đông con trai cả nay đã là hiệu trưởng trường trung học cơ sở. Con Mai đang là giáo viên giỏi trong tỉnh Bình Dương. Thằng cu Minh là thầy giáo dạy hội họa giỏi. Cả ba đứa đều đã có gia đình. Tui có cháu nội, cháu ngoại hết rồi, lại có cả chắt nữa rồi. Mấy năm nay, tui thay cả vai bà nội, bà ngoại chăm sóc các cháu’’. Ông Xuân đã thay thế vị trí bà nội, bà ngoại theo đúng nghĩa của từ này. Khi các con ông sinh nở, ông có mặt, chăm bằm cháu nhỏ, đảm đang và lo toan như một người bà thực sự. Năm này ông đến ở với vợ chồng con gái chăm cháu nhỏ, năm sau ông lại sang với vợ chồng con trai, quay qua quay về hàng chục năm trời như vậy theo con theo cháu không chút mệt mỏi. Người làng khen ông hát ru giỏi. Người làng khen ông giặt giũ, chăm sóc cháu nhỏ mát tay. Các con ông thì coi ông là một động cát lớn của đời mình, động cát đó che chắn gió bão, mưa nắng, nuôi nấng họ, bảo vệ họ, che chở họ. Còn ông? Ông cười: "Tui vẫn thích ai đó gọi tui là động cát. Tui thích được gọi như rứa. Tui đã chọn cho mình chỗ nằm bên vợ và hai con đã mất của tui rồi, cũng trên động cát sau làng đó thôi, sớm muộn chi vợ chồng tui cũng đoàn tụ thôi mà. Chừ tui hài lòng lắm. Các con tui đã trưởng thành, nên chồng nên vợ làm ăn phát đạt, thành những người tử tế cả. Phận làm cha của tui đã tròn. Việc tui thay mẹ nó mấy chục năm qua với các con cũng đã tròn. Cuộc đời rứa là vui cháu ạ’’.

Ông đưa tôi ra động cát sau làng, đến thẳng nơi có ba nấm mộ nằm bên nhau. Ông ngồi thụp xuống bên ba nấm mộ đó, bàn tay gầy guộc của ông ve vuốt những làn cát. Mà hình như cát trên những ngôi mộ đã mòn vì suốt mấy chục năm qua, có lẽ không ngày nào là ông không ra đây ve vuốt. Có một tiếng gọi mẹ từ đâu đó trong tôi như muốn bật ra. Ông là Mẹ và cũng chính ông là ĐộNG CáT.

cáT CủA RừNG

Không ai cho tôi biết người ta bắt đầu nghĩ đến việc trồng rừng chắn cát từ lúc nào. Nhưng chắc chắn là hàng bao đời nay rồi mà sự nghiệp trồng rừng chắn cát vẫn không thành, bởi vì, còn kia, trên những động cát xưa, những gốc cây phi lao già cỗi nằm chết nghẹn bên chân những động cát. Tôi đã từng ngồi rất lâu bên gốc cây phi lao có lớp vỏ sần sùi chồng lên nhau và đếm thời gian sống của gốc cây già rồi mường tượng thời ngày xưa, cha ông cũng đã từng lăn lộn trên cát, trồng cây trên cát nhưng rồi gió bão, sự nắng cháy đã có thể làm thiêu rụi những cánh rừng. Cho đến những năm gần đây thì sự nghiệp trồng rừng chắn cát mới thực sự phủ một màu xanh bát ngát trên những triền cát trắng quê hương. Tôi không quên được mệ Nghèng, người đàn bà làng cát vì thành tích trồng cây chắn cát mà được Nhà nước phong Anh hùng Lao động. Mệ Nghèng anh hùng trước hết là vì mệ trồng thật nhiều cây không phải để thành anh hùng. Cũng như chúng tôi thôi, chúng tôi là người làng cát mà đã là người làng cát thì chắc chắn phải có sức chịu đựng dẻo dai, phải ngoan cường sống, ngoan cường chế ngự cát, không phải ai muốn làm người làng cát cũng được. Cũng như mệ Nghèng thôi, nếu mệ cố ý trồng thật nhiều cây để thành anh hùng chắc là mệ không bao giờ thành anh hùng. Những năm tháng này, lần thứ hai, tôi nhìn thấy quê hương hướng mắt nhìn về cát với một cuộc cách mạng trồng rừng to lớn. Mới đó thôi, rừng xanh đã phủ dày suốt hơn một trăm cây số cát. Những rừng cây quá đẹp và vững chắc từ Cảnh Dương đến Đồng Hới, Lệ Thuỷ, Quảng Ninh. Những rừng cây do chính nhân dân tự trồng, rừng của các dự án, tất cả đã trở thành một vành đai xanh bao phủ trên màu cát chang chang và cát lại trở nên chiếc nôi ru êm những rừng cây ven biển. Cuộc cách mạng chế ngự cát của quê hương đã hoàn thành. Nhưng chúng ta đã không dừng lại ở đó. Lần thứ ba vào thời đổi mới, quê hương lại hướng mắt nhìn về phía cát để tiếp tục làm một cuộc cách mạng, cuộc cách mạng tạo nên sự giàu có, cuộc cách mạng tạo thêm trên vùng cát quê nhà những gương mặt triệu phú mới, triệu phú cát.

CáT TRIệU PHú

Ai đã đưa kĩ thuật nuôi tôm trên cát về Quảng Bình? Bây giờ thì khó đoán định được nhưng tôi chắc chắn rằng, đơn vị làm thành công đầu tiên là chính Công ty phân bón sông Gianh. Cách đây mấy năm, trên bãi biển Thanh Khê ấy, những triền cát vẫn trập trùng. Thế mà chỉ sau đó một thời gian ngắn, người ta đã ngăn cát thành hồ, tháo nước biển vào, thả tôm giống, nuôi theo công nghệ hiện đại và đã thu được những vụ tôm giống đầu tiên rất khả quan. Tiếp đó là hàng trăm hồ nuôi tôm trên cát được hình thành. Bây giờ trong cuộc sống làm ăn hàng ngày của người dân làng cát, người ta nhắc tới nhắc lui cụm từ nuôi tôm trên cát như nhắc đến một phương thức làm ăn mới, một cách sống mới, một con đường làm giàu mới. Làm giàu ngay trên những triền cát trắng ngơ trắng ngất mới thực sự sang trọng, mới thực sự đáng kính trọng. Bây giờ thì chưa, bây giờ đang là thời điểm cho các doanh nghiệp và các chủ hộ ra quân triển khai làm hồ tôm trên cát, nhưng chỉ một năm nữa thôi, Quảng Bình sẽ là một trong những vụ tôm lớn của cả nước. Và những anh nông dân làng cát quen lội bộ, quen chúi người bước đi trên cát sẽ chẳng mấy lúc thành triệu phú, tỉ phú, sẽ ngồi đĩnh đạc trên chiếc ô tô của nhà mình để lái thẳng ra hệ thống hồ tôm nhà mình. Những ông chủ mới. Những triệu phú trẻ. Tất cả đang làm náo nức các làng cát. Tôi đã gặp những ông chủ trẻ như vậy, họ không hồ hởi như tôi tưởng, họ đăm chiêu và suy tư khi đứng trước những hồ nuôi tôm của mình. Cũng phải thôi, thời buổi làm ăn bây giờ, công nghiệp hoá, đâu cứ phải hứng chí lên là được, lại phải có kĩ thuật, có kiến thức. Đã không ít ông chủ trẻ vào Nam ra Bắc để học hỏi kinh nghiệm, thuê thầy, thuê thợ, thuê kĩ thuật. Như vậy là có một cuộc cách mạng về ý thức làm giàu, không phải làm giàu bằng cơ bắp mà bằng ý chí và tri thức. Thế là mừng. Thế là một sự giàu có chắc chắn và bền vững. Giàu ngay trên cát mới là giàu sang. Triệu phú ngay trên cát trắng mới là triệu phú đáng kính trọng. bỗng dưng tôi lại giật mình với một ý nghĩ nhoi nhói trong lòng: Nếu mà với đà phát triển kinh tế mạnh mẽ thế này thì chẳng mấy lúc, những triền cát trắng Quảng Bình sẽ thành rừng xanh, sẽ thành hồ tôm, sẽ thành những khu vực làm kinh tế và khi ấy, sẽ không còn ai nhìn thấy chang chang cồn cát Quảng Bình đâu nữa và khái niệm Quảng Bình cát trắng mà bao nhiêu người còn háo hức muốn nhìn cũng sẽ không còn nữa. Thế thì ngay lúc này, ngành du lịch cũng cần phải qui hoạch lại ngay một số triền cát trắng điển hình, giữ nguyên hiện trạng, ít ra thì khách du lịch trong nước và Quốc tế khi đến Quảng Bình cũng nhìn thấy được dáng vẻ xưa của một Quảng Bình cát trắng. Việc nhỏ ấy nhưng không làm nhanh là không kịp. Việc nhỏ ấy nhưng ý nghĩa không nhỏ, bởi vì nói gì thì nói, dù sau này Quảng Bình có giàu có và phát triển thì những động cát trắng làng quê vẫn là một biểu tượng không thể nào xoá nhoà được.

 

Ông Cán

Thấy công ty Cosmos có đăng quảng cáo một tour 4 ngày để thăm viếng các hầm rượu tại vùng Bourgogne và Bordeaux với gía tương đối rẻ nên chúng tôi ghi danh tham dự và lên đường sau đó mấy ngày.

Xe đón chúng tôi tại cửa nhà gare Vevey lúc 8g15 sáng. Thấp thoảng trong xe, chúng tôi đã thấy có vài người ngồi sẵn. Có lẽ họ cũng được xe tới đón tại những vùng gần đây. Bước lên xe, chúng tôi thấy có 3 người Á châu da hơi ngăm đen ngồi ở hàng băng sau cùng. Chúng tôi ngờ ngợ họ là người Đài Loan nên chỉ gật đầu chào lấy lệ. Đến khi nghe họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt, thấy cách ngồi gác chân lên ghế và qua câu chuyện giữa họ trao đổi với nhau, chúng tôi mới biết rõ ràng rằng họ là những cán bộ từ VN qua đây công tác và tiện thể đi du lịch.

Thấy chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt, một ông cán bộ có lẽ có đẳng cấp thấp nhất trong nhóm chào hỏi chúng tôi:

- Ông bà ở VN mới sang hay là người ở bên này?

- Thưa ông chúng tôi sinh sống ở Vevey.

- Đoàn chúng tôi đi từ Montreux nhưng khi lên xe thấy họ giới thiệu bằng tiếng Pháp nên chẳng hiểu mô tê ất giáp gì nên kéo xuống băng sau cùng ngồi cho chắc ăn. Bây giờ chúng tôi kéo nhau lên ngồi gần ông bà cho tiện.

- Xin các ông cứ việc.

Xe chạy được một quãng thì lại ngừng để đón thêm một nhóm khách khác rồi trực chỉ vùng Bourgogne. Trên xe chỉ độ 25 người trong khi chiếc xe bus có tời 45 chỗ nên chuyến đi khá thoải mái.

Đi đến bất cứ vùng nào thì người hướng dẫn viên cũng giới thiệu về lịch sử, văn hóa và đặc sản của vùng ấy. Những ông cán bộ đồng bào của tôi hình như không mấy quan tâm về những lời giới thiệu đó. Họ bỏ beer ra đánh chén với nhau.

- Mẹ kiếp beer Thụy Sĩ nhạt như nước đái bò!

- Anh không nhìn kỹ à! Nó ghi có 4,1 độ mà!

- Mấy miếng phô ma này thối bỏ mẹ ra mà đem theo làm gì. Vứt mẹ nó đi!

- Ừ thì mình cũng phải thử qua để về nhà có chuyện kể chú! Ừ mà nó khắm thật! Khắm như cứt ấy! Tôi thử một miếng mà muốn ói ra. Rợn cả người.

Xe đi được chừng 3 tiếng đồng hồ thì ngừng nghỉ tại một làng quê ở ngoại thành thành phố Dijon để mọi người ăn trưa. Món ăn hôm nay là món fromage nấu chảy. Theo cô hướng dẫn viên thì đây là một đặc sản ở vùng này. Để nấu món này, người ta phải theo những công đoạn sau:

Fromage được bào nhỏ rồi bỏ vô một nồi đất nấu cho chảy sau đó chủ nhân thêm từ từ rượu trắng, tỏi tiêu cho fromage nóng chảy và quắn đặc rồi thực khách dùng xiên chấm bánh bì vô, sau đó ăn chung với khoai tây luộc, dưa leo chua….Món này uống với rựơu trắng của vùng Alsace. Khi fromage chỉ còn lại lớp cháy giống như lớp cơm cháy, chủ nhân đập lên đó vài qủa trừng gà rồi dùng xiên quệt nhẹ lên lớp cháy. Lấy lớp cháy ra, thực khách được một miếng bánh nóng dòn và béo bổ.

Ba ông cán bộ đồng bào của tôi không ngồi được lâu và khi fromage bột chưa kịp chảy thì họ đã vừa phàn nàn, văng tục rồi bỏ đi ra chợ tìm món khác ăn.

Quan sát tư cách của họ đối xử với nhau thì chúng tôi đoán trong họ có một ông trưởng đoàn, một ông tài vụ và một ông long tong. Ông trưởng đoàn ít nói và lúc nào cũng có vẻ "khẩn trương", ông tài vụ thì chi trả mọi chi tiêu cũng như ra tiền cho ông long tong mua bán. Ông long tong là nhanh miệng và hay lên tiếng trò chuyện với chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi quan sát thấy ông trưởng đoàn liếc mắt lừ ra hiệu cho anh ta ngừng nói….

Khi chúng tôi đang ăn dở chừng thì 3 ông cán bộ đã mua hàng về tới. Một con gà quay vàng ngậy với lích kích mấy chai beer, bánh mì và cả một nải chuối to tướng. Họ bày ra vừa ăn, vừa bình luận một cách ngon lành. Chủ nhân nhà hàng hình như cũng thông cảm nên để mặc họ bày thức ăn mua ở chợ ra ăn trong nhà hàng của mìnhï.

Vừa ăn, ông cán có vẻ là trưởng đoàn lên tiếng:

- Mẹ kiếp gà gì mà dai như nịt. Nhai bã lã bã. Gà mà không có lá chanh, muối tiêu sao lên vị!

- Bên này đâu có lá chanh đâu, thủ trưởng! Dai thật đấy, nhưng dù sao cũng còn nuốt đỡ được chứ cái thứ vừa thối vừa khắm kia thì em chịu!

- Mẹ kiếp thối như cứt vậy mà chúng chúi đầu vào nhau ăn ngon lành.

- Thủ trưởng thử mua vài ký về cho chị nhà ăn thử!

- Bà ấy có mà quẳng mẹ nó ra cửa!

Câu chuyện của họ đang hồi hứng thú thì cô hướng dẫn viên đã lên loa yêu cầu mọi người lên xe tiếp tục cuộc hành trình. Xe đi qua những làng quê xa xôi, những vườn nho trải dài xanh mướt dọc theo những sườn đồi thoai thoải với những ô vuông ngăn nắp thật là lạ mắt.

Đoàn chúng tôi lần lượt thăm những hầm rượu của vùng St-George, những chateaux nổi tiếng của Margaux, đâu đâu, chúng tôi cũng được nghe cắt nghĩa tường tận về cách ủ nho, cất rượu của từng vùng. Cách phân loại và xếùp hạng rượu từ 1er cru bourgois cho tới grand cru….

Đi ngang mấy hầm rượu, chúng tôi ngửi thấy thơm nồng mùi men rượu đã được ủ lâu ngày thành mật. Mỗi hầm rượu, chúng tôi đều được chủ nhân mời thử tận tình. Những người không uống được rượu thì được thử nườc cốt nho ép. Sau cùng, chúng tôi còn được mua rượu với gía khuyến mãi đặc biệt cho khách du lịch.

Tới chateau Margaux, sau khi nếm thử một vài ly rượu, ông cán trưởng đoàn hỏi tôi:

- Hỏi thực anh, ở bên này lâu rồi, anh có thấy rượu vang có ngon không? Tôi thấy nó chát chát thế nào ấy!

- Vâng tôi rất thích và bữa ăn nào thì tôi cũng uống một, hai ly.

- Mà tụi tây nó cầu kỳ thật! Uống rượu thì uống lúc nào cũng được, sao lại còn phân biệt thứ này uống với món này, thứ kia uống với món nọ. Thứ thì uống khi ăn cá, thứ thì uống khi ăn thịt. Đã vậy lại còn phân biệt với thịt nướng, thịt luộc…Lung tung qúa!

- Bên mình thì chỉ cần "quốc lủi" là xong. Món gì cho "lủi" vào cũng hợp hết. Phải không thủ trưởng?

- Cầu kỳ như vậy cho nên chúng nó đánh trận chẳng ra con khỉ mốc gì cả! Trung đội ông động thổ có một lần mà đánh tan cả tiểu đoàn chúng nó và bắt sống tên quan hai mặt ngựa.

Nói tới đây, ông cán trưởng đoàn cảm thấy phấn khởi, ông tiếp tục thao thao bất tuyệt:

- Các cậu mà biết khỉ mốc gì! Hồi tớ làm trung đội trưởng , tớ đã chạm trán không biết bao nhiêu lần với tụi tây đen, tây trắng. Tây trắng thì đánh đấm còn có kỷ luật chứ tụi tây đen, lê dương thì chưa đánh đã hàng. Tụi chỉ huy tây trắng mà bị thương thì tụi tây đen, lê dương cứ thế mà tan hàng, rã ngũ đầu hàng. Có nhiều lần địch đầu hàng nhưng thấy đem chúng nó theo mất công nên tớ lệnh phơ hết cho rảnh tay.

- Thủ trưởng có tham dự chiến dịch Điện Biên à!

- Tớ giác ngộ cách mạng từ hồi còn trẻ, lúc ấy cỡ 16 tuổi và trong chiến dịch Điện Biện, khi mới 18 tuổi, tớ đã là trung đội trưởng và trung đội tớ là đơn vị đặc công tiên phong tấn công vào đơn vị tiền phương của địch.

Thấy mấy người cán bộ huyênh hoang đề cao thắng tích, chúng tôi lấy cớ đi ngoài để lại họ hàn huyên với nhau.

***

Nếu trong phòng ngủ của mấy ông cán không bị cúp điện thì chúng tôi đã không có dịp để làm quen và thân tình với họ.

Đã mấy ngày nay thèm cơm nên ông cán thủ trưởng ra lệnh cho ông long tong đi mua nồi, mua gạo về nấu cơm. Họ mua được một cái bếp điện 2 ổ hơn 1000 watts và đem về phòng hotel nấu ăn. Một ổ thì nấu cơm, ổ kia thì dán thịt. Không biết họ kiếm đâu ra được cả một chai nước mắm và có cả mấy trái ớt, chanh, hành. Có lẽ vì không quen nấu nướng nên họ đã để cho nồi cơm sôi sục, tràn bọt và nước chảy xuống bếp khiến cho điện bị chạm và cầu chì bị đứt. Gây cúp điện ở phòng họ.

Bị cúp điện, họ không biết tìm ai để giúp họ nối lại, phần vì không biết tiếng tăm, phần vì sợ chủ hotel biết được bắt đền…Họ chịu trận ngồi bó gối trong bóng đêm, chờ chúng tôi về đến mới qua gõ cửa xin giúp.

- May qúa! Ông bà đã về. Xin ông vui lòng qua phòng chúng tôi giúp để sửa lại điện. Nó bị cúp cách đây cả 2 tiếng đồng hồ mà chúng tôi mò mẫm không sao sửa được. Ông long tong lên tiêng.

Vô phòng, chúng tôi ngửi thấy mùi khét lẹt của mùi dây điện cháy cùng mùi nước mắm kho mặn nồng. Chúng tôi bật diêm quẹt, tìm đồng hồ điện và may mắn phát hiện phía sau đồng hồ có để sẵn một hộp cầu chì. Cầu chì vừa được ráp xong, đèn phòng lại sáng trưng và trước mắt chúng tôi còn ngổn ngang thức ăn vừa nấu chín cùng những vết nước trào thấm một mảng nền thảm.

Thật là một tai họa nếu chúng tôi không có cách lau tẩy sạch những vết dơ trên thảm trước buổi trưa ngày mai khi phải trả phòng. Vợ tôi nói rằng những vết dơ còn ướt như thế này thì có lẽ còn lau kịp. Kẹt một điều là bây giờ đã là 9g tối thì đâu còn chợ búa nào mở. Chúng tôi xuống phòng tiếp tân hỏi và thật là may mắn khi đuợc biết là siêu thị Cora còn mở cửa tới 10g30 đêm. Chúng tôi tức tốc kêu taxi chở đến Cora để vợ tôi có thể mua được những thứ thuốc và dụng cụ để giặt thảm.

Về đến hotel, chúng tôi cật lực kẻ lau người chùi và cuối cùng đến gần 1 giờ sáng thì những vết dơ đã gần như được tẩy sạch và phải có con mắt tinh tế và phải để ý lắm mới thấy. Tất cả chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Thủ trưởng lấy thuốc mời tôi hút nhưng tôi từ chối vì đã bỏ thuốc từ lâu vả lại trên tường phòng cò để bảng "no smoking". Đèn đuốc sáng trưng và họ lại lôi Remy Martin ra đánh chén với nồi thịt đang nấu dở.

Thấy chúng tôi đồng lao cộng khổ với họ và có cái mối lo cùng với họ trong việc giặt thảm và hình như cảm thấy chúng tôi không phải là thành phần "Việt kiều phản động" nên họ đã trở nên thân tình hơn với chúng tôi.

Qua đó, chúng tôi được biết họ là ba ông cán gộc rủ nhau đi công tác. Nhân thấy có chuyến du lịch qua Pháp, nên họ lợi dụng đi cho biết. Cứ tưởng sẽ được đi thăm những thành phố lớn ai ngờ đi trúng cái tour giới thiệu về rượu và chỉ đi thăm những vùng thôn quê hẻo lánh nên họ rất là bất mãn. Ông cán trưởng đoàn đã tâm sự với tôi:

- Người ta cứ to mồm lên án ở bên ta lừa lọc gian xảo nhưng tôi thấy bên này còn qúa tội. Tour đi tây, tưởng là đi đâu, ai ngờ đi toàn những nơi đèo heo hút gío! Đã vậy lại cho ăn toàn thứ thối như cứt!

- Thế trước khi chấp nhận đi tour, bác có xem kỹ chương trình không.

- Mẹ kiếp tiếng tây, tiêng u chỉ biết lõm bõm thì làm sao mà hiểu chương trình.

Ngày cuối cùng xe quay trở lại Thụy Sĩ qua hướng Vallorbe. Vùng này đồi núi chạy dài cho đến Yverdon. Dọc hai bên thung lũng, người ta thấy nhấp nhô những hãng xưởng chế tạo đồng hồ. Ông Cán hỏi tôi.

- Này anh! Tôi thấy ở Thụy Sĩ không có ruộng động vườn tược, rau cỏ gì cả thì dân chúng sống bằng cách nào?

- Dạ thưa rau cỏ thì đa số được trồng trong nhà kiếng, ruộng đồng thì tập trung nhiều ở vùng nông thôn mà đặc biệt là ở những tiểu bang như Fribourg, Valais…

- Đồng hồ bên này đắt thật! Đã vậy mấy ông ở bên nhà lại cứ đòi những loại xịn mới chết chứ!

- Mấy cái Rolex mình mua hôm nọ tính ra mỗi cái tới 9.200 đô la đó thủ trưởng. Ông tài vụ nói.

- Tính ra mỗi cái đồng hồ như vậy, ta phải xuất cảng tới 46 tấn gạo. 5 cái vị chi đi là 230 tấn! Phải tốn bao nhiêu nhân công .

Tôi liếc thấy ông cán thủ trưởng bấm ngón tay, đếm đi đếm lại. Coi chiều ưu tư suy nghĩ. Lão Bé

Trên dãy núi đó, nắng thật là hiếm hoi. Núi bao quanh như một con rồng nằm ngủ. Lên đến đỉnh, suốt năm, ta chỉ thấy toàn là mây trắng. Người ta đặt cho cả dãy núi một cái tên thật giản dị: Núi Mây. Có lẽ cái tên Núi Rồng sẽ thích hợp với núi hơn; con rồng đang nằm ngủ, đầu hướng về phía đại dương bao la.

 

Trên Núi Mây, có một lão già cư ngụ. Lão già đã lớn tuổi lắm rồi. Có người nói lão đã hơn chín mươi, gần một trăm tuổi. Nhưng ít ai quan tâm đến cái tuổi chính xác của lão. Không ai cho rằng lão đã già; kể cả chính bản thân lão. Gương mặt của lão là cả một nụ cười ngây thơ, trong sáng của một em bé. Có người nói rằng ngày xưa, lâu lắm rồi, lão là một tu sĩ.

 

Lão đến Núi Mây trong bộ quần áo nâu của người tu. Rồi lâu ngày, sống một mình, không tiếp chuyện với ai, mái tóc của lão dài ra và trắng phau như mây núi. Quần áo người tu rách dần, và bây giờ, lão không còn một chiếc áo dài nâu nào trên người. Không còn ai nhận ra lão là một tu sĩ nữa. Chuyện tu hành của lão, dường như thuộc về một quá khứ nào đó.

 

Người ta gọi lão là Lão Bé. Cái tên đi đôi với con người; Lão Bé là ông già có tâm hồn của một đứa trẻ thơ. Lão cư ngụ trong một cái thất nhỏ. Từ trong thất nhìn ra, Lão Bé tha hồ thưởng thức cảnh tượng hùng vĩ của núi đồi. Đôi khi, dưới chân núi, mây bao phủ dầy đặc. Ngồi trong thất, lão có cảm giác mình đang sống ở trên cõi mây. Lão thấy mình ngồi trên mây; đi trên mây. Rồi lão chứng kiến cảnh tượng mây vào trong thất ở chung với mình. Một buổi sáng thức dậy, trong ánh sáng lờ mờ của cảnh bình minh, lão còn bắt gặp vài tảng mây đang ngủ quên trong góc nhỏ của căn thất.

 

Lão Bé là người bạn dễ thương của những người dân quanh vùng. Họ đã khám phá ra sự hiện diện của lão thật muộn. Một con người sống bao nhiêu năm bên cạnh, mà họ không hề để ý, quan tâm tới. Cho đến một hôm, trong một buổi dạo núi, có người thấy Lão Bé cưỡi mây mà bay. Vâng, Lão Bé đạp mây mà đi tới, như một vị tiên ông đầu tóc bạc phơ. Vậy là người ta bắt đầu đồn đãi về sự hiện diện của một tiên ông. Cái chuyện cưỡi mây đó, đến Lão Bé cũng không hay biết gì cả. Lão nói: “Tôi đi dạo và mây bay theo chân tôi thì có. Làm gì có chuyện cưỡi mây.” Rồi lão cười. Nụ cười của lão là khám phá thứ hai của dân chúng ở đây.

 

“Lão già cười dễ thương như một đứa bé”, người ta thì thầm với nhau như vậy. Một nụ cười mà từ lâu, người ta đã quên mất. Nụ cười của Lão Bé trong sáng như một viên ngọc, hiền lành như nắng ấm của ban mai. Người ta nhìn lão cười, mà quên mất tuổi tác của lão. Mỗi lần nhắc đến lão, người ta nói: “Cái lão già cười dễ thương như một em bé đó…” Rồi dần dần, cái tên Lão Bé trở thành quen thuộc đối với mọi người.

 

Ở một làng gần đó, nụ cười bị quên tới mức mà ai nấy đều trở thành già nua. Trong làng, người nào cũng già trước tuổi. Có một em chỉ mới lên năm thôi, mà gương mặt đã như một ông già. Và dân làng, một lúc nào đó, gọi em là Bé Lão. Một cái tên khiến người ta dễ lẫn lộn, lầm lẫn với Lão Bé. Nhưng chỉ có cái tên của hai người là hơi giống nhau mà thôi. Về con người, thì đó là hai hình dáng hoàn toàn khác nhau. Bé Lão, con người thì có một chút xíu, mà gương mặt và tâm hồn thì già nua và khổ đau. Nhìn cho kỹ thì Bé Lão có gương mặt của một đứa trẻ; tóc em xanh mướt, làn da em mịn màng. Nếu ai hỏi Bé Lão già chỗ nào thì khó có ai mà trả lời được. Nhưng nhìn vào em, ta thấy có một cái gì khổ đau, không thuộc về thế giới của một đứa trẻ năm tuổi. Khi mở miệng, Bé Lão là một người chững chạc; một người gần như đã từng trải, ở một cái tuổi thật ít ỏi.

 

Không ai từng thấy Bé Lão cười. Có khi thì Bé Lão cũng cười, nhưng trong nụ cười đó không có chút gì hạnh phúc. Em cười khổ. Đúng rồi, em có một nụ cười thật già, nhăn nhó. Ở trong làng của em, đã từ lâu, không còn ai nhắc đến hai chữ hạnh phúc. Người ta bận bịu với công việc hàng ngày và không có thời giờ để mà chăm sóc hạnh phúc. Mẹ của Bé Lão là một người như vậy. Chị thành công trong xã hội, có địa vị và rất nhiều tiền. Nhà cửa khang trang, rộng rãi, nhưng chị không có thời giờ rảnh rang. Bé Lão bị bỏ quên trong căn nhà của mình, khao khát một sự chăm sóc, nhưng phải chấp nhận, chịu đựng.

 

Người trong làng nhìn thấy sự già nua của Bé Lão, mà không biết phải làm gì. Cuối cùng, họ đề nghị em lên thăm Lão Bé. Thật là một ý kiến xuất sắc. Hai người đặc biệt này gặp nhau vào một buổi sáng thật đẹp. Một già, một trẻ, sanh ra cách nhau gần một thế kỷ, vừa gặp thì Bé Lão nói liền:

 

– Con là Bé Lão. Người ta nói con không có đủ hạnh phúc. Vậy hạnh phúc là gì?

 

Lão Bé nghe câu hỏi thì ngạc nhiên quá sức. Hạnh phúc là gì? Lão chưa bao giờ đặt ra câu hỏi này cả. Lão nhìn chú bé, thấy một sự thông minh hiện ra trong đôi mắt. Câu hỏi của chú hẳn phải quan trọng lắm. Lão Bé hỏi lại:

 

– Hạnh phúc có ăn được không?

 

Bây giờ thì đến lượt Bé Lão ngạc nhiên. Té ra cái con người mà ai cũng ca ngợi này, khù khờ đến mức không biết hạnh phúc là gì. Bé Lão cảm thấy thất vọng, có ý tưởng muốn ra về. Nhưng nhìn Lão Bé, em thấy có một cái gì thú vị. Nơi lão, em cảm nhận một cái gì mới mẻ, trong sáng và dịu dàng. Một con người như vậy, Bé Lão chưa từng gặp qua bao giờ. Em nói:

 

– Con nghe nói hạnh phúc là một thức ăn bổ dưỡng. Không có hạnh phúc, ta sẽ chết. Và người ta nói con thiếu hạnh phúc, phải tìm tới ông để học hỏi. Té ra ông cũng không biết hạnh phúc là gì.

 

Nghe chú bé nói, Lão Bé cảm thấy áy náy. Nếu hạnh phúc quan trọng như vậy thì tại sao mình không biết? Lão cười, tự chê bai về sự ngu dốt của mình. Lão Bé nói:

 

– Hạnh phúc ăn được. Trái táo cũng ăn được. Vậy ta hãy đi hỏi cây táo về hạnh phúc. Trên Núi Mây này có một cây táo già. Trái của nó ăn ngon lắm. Vào mùa xuân, cây táo nở hoa thật đẹp. Hoa táo màu trắng thật tinh khiết. Nhìn vào hoa đang nở, ta thường khởi lòng biết ơn đối với cây táo. Hoa thì đẹp, mà trái thì ngon. Ta không hiểu tại sao cây táo lại tốt bụng tới mức đó. Vào mùa hè, táo nhiều đến độ ta không thể nào ăn hết. Những thú rừng trong núi cũng đến ăn táo với ta. Cây táo là một người bạn dễ thương, luôn luôn vui vẻ đón tiếp bạn bè; ai ăn táo cũng được hết. Ta chưa bao giờ thấy cây táo từ chối hiến tặng một trái táo nào đối với bất cứ một ai.

 

Hai người, một già một trẻ dẫn nhau đi gặp cây táo để hỏi về hạnh phúc. Con đường quanh co, nhưng Lão Bé tỏ ra rất rành rẽ. Lão kể cho Bé Lão nghe về những loại cây mọc trên Núi Mây. Lão nói:

 

– Ở đây có một loại cây mọc rất tốt. Người ta gọi nó là cây tiêu. Không phải là cây tiêu mình trồng để lấy hạt ăn đâu nhé; tuy hạt cây này cũng thơm như tiêu ăn vậy. Ta thường vo nát hạt hoặc lá của cây tiêu rồi đưa vào mũi ngửi. Thơm ơi là thơm.

 

Lão Bé vừa nói vừa diễn tả, đôi mắt lão lim dim, mặt hơi ngửa ra, như đang thưởng thức mùi thơm của cây tiêu. Lão nói tiếp:

 

– Và màu xanh của cây tiêu thì không chê vào đâu được. Mỗi khi nhìn thấy màu xanh của nó là lòng của ta khoẻ nhẹ vô cùng.

 

Hai người vừa đi, vừa nói chuyện nên không biết mệt. Từ đàng xa, cây táo đã nhìn thấy đôi bạn mới đang tiến đến gần: một người già và một người trẻ. Cây táo nhìn thật kỹ và không phân biệt được ai là người già, ai là người trẻ. Cây táo hỏi:

 

– Trong hai bạn, ai là người già hơn?

 

Cả đôi bạn đều ngạc nhiên về một câu hỏi bất ngờ. Bé Lão trả lời:

 

– Tôi là người trẻ, mà tôi cũng là người già. Ông lão này là người già, mà cũng là người trẻ.

 

Cây táo nghe Bé Lão nói vậy thì ngớ ngẩn:

 

– Hèn gì mà tôi cứ hoang mang. Câu trả lời của bạn vừa rồi không giúp tôi sáng thêm tí nào.

 

Lão Bé cười:

 

– Thật ra chúng tôi đến đây để đặt một câu hỏi, chứ không phải để trả lời điều gì đâu. Chúng tôi thắc mắc, không biết hạnh phúc là gì. Bạn là một cây táo già, có nhiều hiểu biết và tình thương. Vậy bạn hãy giúp chúng tôi nhận diện được hạnh phúc.

 

Cây táo trầm ngâm một hồi lâu, rồi trả lời:

 

– Hạnh phúc là làm ra được trái táo. Trong một năm trời, tôi chăm chỉ làm ra những trái táo. Đó là hạnh phúc của tôi. Tôi làm theo một nhịp độ thong thả, không hối hả, hấp tấp gì cả. Vào mùa xuân thì tôi nở hoa. Mùa xuân chưa phải là thời gian để cho những trái táo có mặt, nhưng tôi đã hạnh phúc lắm rồi. Trong tôi không bao giờ vắng mặt một niềm tin rằng những trái táo sẽ có mặt, thật ngon và thật ngọt. Ngay cả những lúc thân tôi không còn lấy một chiếc lá nào cả. Với những cành cây trơ trụi như vậy đó, mà tôi vẫn tin tưởng vào những trái táo.

 

Lão Bé lại hỏi:

 

– Có cây táo nào không tin vào những trái táo của mình không?

 

Cây táo gật đầu:

 

– Đó là những cây táo đau khổ. Cây táo mà không tin vào trái táo, thì có nghĩa là không tin vào chính bản thân mình. Trái táo là con, là sự tiếp nối của cây táo. Những gì đẹp nhất, lành nhất tích tụ được trong cuộc đời này, tôi trao truyền cả cho những trái táo. Khi bạn đến hái một trái táo của tôi ăn, thì bạn cũng đang thừa hưởng những gì đẹp nhất tôi có thể hiến tặng cho bạn. Tôi tin vào những trái táo, và tôi cũng tin vào bạn bè của tôi. Năm nào cũng vậy, bạn tôi đến và tiếp nhận những tặng phẩm của tôi bằng tất cả tấm lòng trân quí. Chưa bao giờ bạn tôi bỏ rơi tôi cả. Tôi là một cây táo hạnh phúc. Tôi tin tưởng vào những trái táo và tin vào bạn bè của mình.

 

Bé Lão nói:

 

– Tôi có thấy những người cha, người mẹ không có niềm tin nơi con cái và bạn bè của mình. Quả thật, họ là những người đau khổ. Cám ơn cây táo đã giúp tôi hiểu rằng niềm tin là một thứ hạnh phúc.

 

Đôi bạn từ giã cây táo, sau khi nói lên lời cảm ơn và chúc lành. Trong lòng, hai người thấy là mình vừa học được nhiều điều bổ ích từ cây táo. Lão Bé nói:

 

– Bây giờ con về thất của ta mà ăn cơm và nghỉ ngơi. Ta sẽ đãi con món cơm cháy, ăn với xì dầu. Cơm nguội đem bỏ vào chảo, nướng cho cháy rồi xịt xì dầu vào, ăn ngon không thể tưởng nổi.

 

Bé Lão nghe Lão Bé nói mà chảy nước miếng. Em nghe bụng của mình đói lắm rồi. Sáng mai, em sẽ nói chuyện với Lão Bé, hỏi thêm vài điều em nghe cây táo nói mà vẫn kịp chưa hiểu hết.

 

*

 

Sáng hôm sau, Bé Lão thức dậy thật sớm. Em thấy lòng mình thật khoẻ. Trời bên ngoài hãy còn tối. Trong ánh sáng leo lét của cây đèn cầy, em thấy Lão Bé đang ngồi uống trà. Không khí của căn thất thật nhẹ nhàng và dễ chịu.

 

Lão Bé thấy em thức dậy sớm thì hơi ngạc nhiên, nhưng rồi lão không nói gì. Lão lấy một cái chén nhỏ, rót trà ra từ ấm, đãi người bạn nhỏ. Em ngồi bên Lão Bé một hồi lâu thì trời bên ngoài hừng sáng. Chim chóc đã bắt đầu ca hát. Trong ánh sáng bình minh, núi non như đang vươn mình đứng dậy. Tiếng chim hót là một bản nhạc đầu ngày. Lão Bé nhìn sang Bé Lão, mỉm cười.

 

Lão nói:

 

– Con đã tìm ra câu trả lời.

 

– Cây táo đã nói về hạnh phúc khi đặt niềm tin vào những trái táo. Thật là một niềm hạnh phúc giản dị và thâm sâu. Một người cha, một người mẹ đặt niềm tin vào con mình, thì sẽ có hạnh phúc.

 

Bé Lão ngưng lại một chút, rồi nói tiếp:

 

– Nhưng câu trả lời thật sự thì sáng nay con mới nhận được. Khi được ngồi yên và uống trà với ông, con cảm nhận một cái gì mới mẻ. Con thấy mình hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là một câu trả lời nữa, dù đó là những lời thật đầy đủ và ý nghĩa của cây táo ngày hôm qua. Ngồi bên ông, con thấy thời gian đi chậm lại. Và con hiểu ra tại sao con mau già. Con đã để cho thời gian đi nhanh quá. Người trong làng con ai cũng hấp tấp hết. Không ai đã từng có thời giờ để ngồi yên, uống trà trọn một buổi sáng như ông và con đang làm.

 

Lão Bé cười:

 

– Sáng nay, ta thấy mình trẻ lại.

 

– Con cũng vậy. Con có thể trẻ lại mỗi ngày. Con đã hiểu tại sao ông được gọi là Lão Bé. Câu trả lời thật sự cho câu hỏi của con về hạnh phúc là nếp sống mà con học được nơi ông. Cách sống đó, ai cũng làm được hết, nhưng lại quên mất. Con sẽ về làng con, kể cho họ nghe về cây táo, về ông. Và con nhất định giúp cho dân làng nhớ lại một nếp sống thanh thản, trẻ trung.

 

Nói xong, em nở một nụ cười thật tươi. Đó là nụ cười đẹp nhất đã từng xuất hiện trên đôi môi em. Nhìn vào em, người ta sẽ nhận thấy sự rạng rỡ của một thiên thần.

Hắn!

» Tác giả: Phùng Dũng

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 3365

1.

(Tác phẩm đoạt giải C

Giải thưởng Cây bút vàng lần thứ II)

Hắn biết là hắn chưa say, không say, và có muốn cũng chẳng thể nào say được. Đơn giản chỉ vì hắn lấy đâu ra đủ tiền để say. Bà chủ mà hắn quen đã tỏ vẻ khó chịu ra mặt khi thấy hắn xuất hiện. Lần nào cũng vậy hắn chỉ mua có nghìn rưởi, trong khi nhẽ ra phải hai nghìn mới đủ một cốc rượu Vân chính cống. Rót vơi thì không được, mà đầy thì...

Khó chịu là thế, nhưng biết làm thế nào khi hắn bao giờ cũng chỉ có nghìn rưởi trong túi. Thôi thì vua thua... thằng cùn.

Hôm nay cũng thế, hắn ngồi từ lúc chưa đứng bóng cho đến tận lúc mặt trời ngả về tây, cũng chỉ với một... cốc rượu vơi. Được cái may là quán chẳng bao giờ đông người. Họa hoằn lắm mới có mấy bố xe ôm ghé vào rít thuốc lào sòng sọc, đợi một cuốc khách bất chợt.

Riêng hắn chẳng đợi ai cả. Với một nghìn rưởi, hắn đã có thể qua gần cả buổi chiều trong cái xó tối quen thuộc để... chẳng nghĩ gì hết. Nhưng hôm nay thì khác, hắn phải nghĩ, và nhục nhất là lại phải nghĩ làm thế nào để kiếm ra tiền. Trời ạ!

Vợ hắn, người đàn bà mà chính hắn cũng không hiểu nên thương hay giận ấy bỗng dưng lên cơn, sáng đưa cho hắn 20 nghìn, bảo đi mua cho mấy đứa trẻ dăm cuốn vở, chuẩn bị ngày khai giảng. Ôi, sách với vở, cả đời hắn đã lận đận long đong vì nó đến nỗi bây giờ cứ thấy ai bàn chuyện chữ nghĩa là hắn lại thấy hãi. Nhưng dù vậy thì hắn cũng không thể ngăn không cho con mình đi học. Dẫu cho hắn ghét sách vở chữ nghĩa đến đâu chăng nữa thì con hắn vẫn cứ phải đến trường, vẫn cứ phải đi học, dù chỉ để mai này lại long đong, khốn khổ như hắn. Nghĩ thế nên định phản đối, hắn lại thôi, lẳng lặng cầm tiền, xoa đầu bọn nhỏ, bước ra khỏi nhà.

Mấy đứa buôn sách phố LTK rặt một bọn khốn nạn. Ai ngờ già đời như hắn còn bị chúng lừa. Chen chân vào được cửa hàng mắt hắn hoa lên vì các loại vở mầu sắc sặc sỡ đủ kiểu bìa Khủng long, Tiểu Yến Tử, Thủy thủ Mặt trăng... Đúng là vở ra vở, đẹp nõn nà, chẳng bù cho những ngày đi học của hắn, viết trên đủ loại giấy đen xì, trơ lỳ các thớ sợi dọc ngang chằng chịt. "Bọn trẻ bây giờ sướng thật" - vừa nghĩ thế, hắn vừa chìa ra 20 nghìn và giật mình khi biết được với số tiền "còm" đó hắn chỉ mua được chưa đầy chục cuốn vở. Trời hỡi! Ba đứa nhỏ nhà hắn sẽ chia làm sao mấy cuốn vở đẹp như mơ kia. Khẽ khàng bên tai hắn, một mụ nạ dòng lên giọng sành sỏi: "Này, bố có thu nhập bạc triệu hãy sờ đến mấy thứ hàng mã ấy. Ra đây tôi bán cho mấy thếp giấy. Giá rẻ giật mình. Có nghìn rưởi một thếp. Con của bố vừa viết vừa gấp tàu bay cả năm trời chưa chắc đã hết". Đầu óc hắn phác rất nhanh một con tính, 20 nghìn được 12 tập, còn thừa 2 nghìn, làm cốc rượu trắng làng Vân đầy có ngọn, chứ không thèm vơi như mọi hôm cho con mụ chủ trắng mắt ra. Hắn đồng ý ngay và cùng mụ lách ra khỏi cửa hàng. Chẳng biết ma xui quỷ khiến làm sao, mụ nói đưa tiền để mụ đi lấy giấy, thế là hắn đưa, và cứ thế nhìn mụ mất hút trong đám đông, rồi đứng chờ như một thằng dở hơi.

Khi biết chắc mình bị lừa, hắn cũng chẳng buồn kiếm tìm, cứ thế bỏ đi lặng lẽ. Bàn chân đưa hắn đến cái quán quen thuộc này lúc nào chẳng rõ, để bây giờ hắn ngồi đây nhìn phố phường, người ngợm qua lại và thỉnh thoảng lại thấy nhói đau ở nơi ngực khi nghĩ đến việc đào đâu ra 20 nghìn.

Hà Nội đã vào thu, những cơn mưa cuối mùa phần nào làm dịu đi cái nóng dai dẳng cả tháng trời nên người ngợm đổ ra đường đến là đông, với bộ mặt phởn phơ sung mãn. Cái sự thèm được như người này, người kia đã lâu chẳng còn ý nghĩa gì với hắn. Hắn đã kiệt sức, đã buông xuôi, đã câm lặng, và nói theo kiểu mấy thằng lẩm cẩm ưa triết lý thì hắn coi như đã không tồn tại với bất kỳ lý do nào trên cõi đời này.

Vậy mà hắn mới ngoài 40 tuổi, và không chỉ thế, hắn còn biết là mình không đến nỗi xoàng về mặt hình thức, với một khuôn mặt có thể coi là đẹp trai, một vóc dáng có thể gọi là nho nhã, dù các thứ đắp trên người khó có thể gọi là quần áo.

Bây giờ nhìn hắn, ngay cả những thằng bạn học thân nhất ngày xưa cũng khó lòng nhận ra. Chính hắn hầu như cũng chẳng còn nhớ mình đã từng có một thời sinh viên đẹp đẽ, học ở một trường đại học nhiều người mơ không nổi, cũng đã từng khao khát được dâng hiến, được sáng tạo, từng ôm ấp bao giấc mộng vinh quang và sang giàu.

Thời gian như nước qua kẽ tay, dẫu tay bẩn hay sạch đi chăng nữa, để giờ này hắn ngồi đây với một cốc rượu vơi và nỗi lo không có 20 nghìn mua cho con mấy cuốn vở. Một câu thơ thuở sinh viên xa lơ xa lắc chợt lọt vào đầu hắn:

Tôi sinh ra dưới một ngôi sao xấu

Mẹ hiền từ, cha lại quá thanh cao

Vốn liếng thi ca dồi dào của hắn giờ chỉ còn lại có "nhõn" hai câu không đầu, không đuôi ấy - hai câu thơ bao giờ với hắn cũng đúng đến đáng sợ. Suốt từ khi biết nghĩ, hắn thường xuyên gặp chuyện vui xẻo và mỗi lần như thế mẹ hắn chỉ biết khóc, còn cha hắn thì nhìn hắn với vẻ khinh bỉ không thèm che giấu. Hắn không biết do đâu và từ khi nào hắn luôn là cái gai trong mắt ông bố và nỗi đau đớn của bà mẹ. Mù mờ trong tâm trí hắn, loáng thoáng vài ba lần nghe các cuộc cãi vã giữa hai người, hắn cảm giác về một dòng máu khác đang chảy trong người hắn - đã biến hắn thành kẻ xa lạ ngay chính giữa gia đình mình.

Mười năm, sau khi hết bom đạn, thì hắn trúng tuyển một trường đại học xa thành phố đến cả trăm cây số. Không một xu dính túi, và cũng không một lời từ biệt, hắn dửng dưng chia tay mọi người trong nhà và cắn răng nhập trường. Những bữa cơm sinh viên đạm bạc luôn làm cho dạ dày hắn sôi réo. Đầy mặc cảm, hắn tránh xa bọn bạn cùng lớp hợm hĩnh, tìm cách đánh lừa cái đói thường trực bằng những tô canh lõng bõng và bình nước lã lúc nào cũng vơi. Bản chất của thiên tài là cô độc. Hắn thuộc lòng câu nói đó và càng tìm cách rút sâu vào cái vỏ ốc kiêu hãnh của riêng mình. Hắn học không đến nỗi xoàng và bề ngoài cũng đủ gây hấp dẫn cho vài cô bé cùng lớp. Song cứ mỗi lần có ai đó định làm thân với hắn thì hắn lại làm cho họ cụt hứng bởi những câu hỏi cộc lốc với vẻ bất cần. Cứ thế, hắn là một hiện tượng lạ lùng ngay trong chính lớp học của mình - một kẻ điên khùng đầy ảo tưởng...

Mặc kệ mọi lời đàm tiếu, hắn cứ sống theo ý hắn và mơ một ngày không xa khi đã giàu có, đã nổi tiếng, hắn sẽ bắt tất cả những kẻ ngu ngốc kia quỳ dưới chân mình...

Một bữa, vì mải chúi mũi vào đống bài tập, hắn đến nhà ăn quá muộn. Nhìn căn nhà vắng lặng trong màn đêm, hắn đã định quay ra, bụng nhủ thầm, vậy là lại một đêm khốn khổ vì các dạ dày rỗng. Bỗng cái lò than sau bếp đột ngột đỏ lửa, và tiếng đàn bà khe khẽ bên tai: "Ngồi vào bàn đi, tôi mang phần cơm ra cho. Sao đi ăn muộn thế?". Hắn sững sờ đến nỗi không thể cất lên câu trả lời. Khối băng giá cô đơn hắn gìn giữ bao lâu có nguy cơ tan rã. Sống mũi hắn chợt cay sè. Có thể chỉ tý nữa thôi, hắn sẽ khóc.

Chưa bao giờ trong đời sinh viên, hay khi còn ở nhà, hắn được ăn một bữa ngon đến thế. Bữa cơm đạm bạc thường ngày hôm ấy với hắn còn hơn cả một đại tiệc. Hắn cắm mặt ăn không một lời. Chỉ trong chớp mắt, ngay cả chút cặn của bát canh cũng đã sạch nhẵn. Thật nhẹ nhàng, chị nuôi đẩy đến trước mặt hắn một cái đĩa trên đựng một tảng cháy vàng ươm. Hắn ngước nhìn như dò hỏi và nhận thấy một cái gật đầu nhẹ. Tiếng cháy vỡ giòn tan trong miệng làm hắn bối rối. Người đàn bà ý tứ đứng dậy đi ra phía lò than rót cho hắn một bát nước vối xúc miệng. Cái dạ dày được thỏa mãn đã thôi sôi réo. Trước khi ra về hắn muốn nói một lời cảm ơn mà không biết bắt đầu bằng cách nào. Màn đêm ngoài kia tối đen và ẩm ướt hệt như cặp mắt người đàn bà đang nhìn hắn. Cảm giác khó chịu lại chợt đến, sống mũi bỗng cay xộc lên mỗi lúc một dữ dội, hắn vụt chạy như một thằng điên để chặn lại tiếng òa khóc như đang muốn vỡ ra nơi lồng ngực.

Từ hôm đó, dù hắn về muộn tới đâu đi nữa, người chị nuôi ấy vẫn chờ với một suất ăn được để phần thật chu đáo và đĩa cháy như ngày càng lớn hơn, thậm chí đôi khi còn được cầu kỳ đảo qua tí mỡ vừa thơm vừa giòn. Chẳng biết từ bao giờ hắn mê cái món cháy rán và mong cho trời mau tối để được gặp người chị nuôi có đôi mắt âm u ẩm ướt. Sau mỗi bữa ăn hắn không còn cái cảm giác khó chịu và cũng không bỏ chạy như buổi đầu tiên nữa, nhưng cũng chẳng biết nói gì với người đàn bà lạ lùng kia. Cái dạ dày được thỏa mãn thì lại đến cái đầu chẳng chịu yên cho. Bao câu hỏi ngọ nguậy trong đầu làm hắn mỗi lúc một thêm khó chịu, nhất là khi những tiếng xì xào bắt đầu.

Không rõ từ đâu, chuyện những miếng cháy đã lọt ra ngoài. Cái lũ hợm hĩnh trong lớp nhìn hắn với vẻ tò mò pha chút giễu cợt. Trong trường bọn ác khẩu truyền tai nhau "thiên tình sử" nơi nhà bếp về "mối tình qua đĩa cháy cơm" và thêm thắt vào đó đủ chuyện tởm lợm. Hắn cố lờ đi, cố quên đi, thì những lời thì thào càng làm hắn bực bội.

Sau một bữa ăn cố tình đi muộn, hắn đẩy đĩa cháy sang một bên, bối rối một chút rồi nhìn thẳng vào mắt chị nuôi cất giọng thật khô khan: "Vì sao chị lại tốt với tôi như vậy?". Có lẽ vì bất ngờ khi thấy "cóc mở miệng" nên người đàn bà im lặng ngước nhìn hắn như dò hỏi. Chao ôi, sao hắn lại ghét cái cặp mắt ẩm ướt và đen như đêm không sao ấy đến thế. Tránh cặp mắt u ẩn, hắn gằn giọng: "Tại sao chị lại để phần cơm, lấy thêm cháy cho tôi? Chị cần gì ở tôi?". Người đàn bà như chợt hiểu, lặng một lát và bỗng dưng bật cười. Tiếng cười vô cớ xé tan màn đêm ẩm ướt ngột ngạt càng làm hắn thêm cáu bẳn. Đột ngột chị ta thôi cười, nhìn hắn thật chăm chú như thầm đánh giá liệu cái đứa trẻ quen vênh váo và cô độc kia có hiểu nổi những điều mình sắp nói ra hay không, rồi bất giác thở dài buông một câu thật gọn lỏn: "Chẳng cần gì cả!".

Sau đó là im lặng. Họ chẳng biết nói gì với nhau thêm nữa. Sự im lặng khó chịu đến nỗi cái dạ dày của hắn lại sôi lên ùng ục. Và hắn, như không còn biết liêm sỉ, cắm đầu vào đĩa cháy, ăn cho đến hạt cuối cùng.

Sau cái tối đáng xấu hổ ấy, người chị nuôi vẫn để phần cơm cho hắn thật chu đáo. Đĩa cháy đầy đặn bây giờ lúc nào cũng được rán giòn kèm theo những miếng tóp mỡ thơm phưng phức. Họ không nhắc lại chuyện cũ. Còn hắn, nghiễm nhiên coi như mình có quyền được hưởng tất cả sự phục vụ chu đáo đó, bình thản đến, bình thản tận hưởng cái vị giòn tan của cơm cháy cùng những miếng tóp mỡ vừa béo bùi, vừa thơm ngậy.

Cho đến một hôm, sau đợt thực tập dài ngày trở về, dẫu hắn tự dối mình rằng hắn rửng dưng với hết thảy mọi thứ trên đời thì lòng hắn, óc hắn vẫn cứ thấp thỏm mong ngóng, sao cho trời nhanh tối. Nơi đáy balô kia, có một vật mà để có thể mua được nó, hắn đã phải lấy hết can đảm trở đi, trở lại cái cửa hàng đó ngót nghét 10 lần. Đó là một chiếc khăn san mầu ghi nhạt điểm chút vẩy vàng kim tuyến, vừa đủ để ôm trọn bộ tóc đen dày của cái người có đôi mắt ẩm ướt đến khó chịu - một món quà được coi là ý nghĩa nhất vào thời điểm ấy. Hắn đã mua nó bằng tất cả số tiền có trong túi. Mua mà không hiểu vì sao mình lại làm như thế, với một cảm giác thật mơ hồ và sự tự giễu một cách dữ tợn, kèm theo cả nỗi căm ghét chính mình.

Giờ đây, với món quà kỳ cục đó trong tay, hắn bước chân vào gian bếp tối. Có vẻ như chẳng có ai, chẳng có gì chờ hắn. Chiếc lò than lạnh ngắt, cái bàn mọi khi vẫn để phần cơm cho hắn trống trơn, xung quanh vắng lặng đến độ hắn nghe rõ tiếng thở của chính mình. Hắn không chờ đợi một sự đón tiếp như thế. Món quà trên tay hắn cũng không thể chịu sự bẽ bàng như vậy. Máu nóng đã giần giật trong đầu và thay vì quay ra, hắn lao thẳng vào phía trong gian bếp tối. Chân hắn vấp phải cạnh giường đau điếng. Người hắn bổ nhào vào đống chăn chiếu làm bật lên những tiếng kêu thảng thốt. Hắn tái mặt vì sợ, rúm người lại trong cảm giác tội lỗi. Thời gian tưởng như đã ngừng hẳn từ giây đó. Rất gần bên hắn tiếng đập gấp gáp của một con tim đang sợ hãi trong bộ ngực phập phồng mỗi lúc mỗi nhanh hơn, nóng bỏng như lò than hồng. Bàn tay hắn chạm vào một khuôn mặt nhòe nước mắt, và bằng một động tác thật bản năng của thằng đàn ông hắn khẽ khàng lau khô nó trong tê tái, cứ như tất cả nước mắt đàn bà trên đời đều tập trung ở đó, và đều lần lượt theo những ngón tay nhẹ nhàng ngấm sâu vào trái tim lạnh lẽo của hắn, làm nó tan nát.

Hắn bật lên một ngọn lửa trong tiếng thất thanh của người chị nuôi. ánh sáng vừa lóe lên đã tắt phụt làm hắn bối rối. Quay sang người đàn bà, hắn bực bôi: "Tại sao?". Chị nuôi nghẹn ngào: "Sợ... bỏ chạy mất". "Ai cơ?". Hắn chưa bao giờ biết sợ, dù rằng đã không ít lần bỏ chạy. "Tôi muốn cho chị xem một thứ" - hắn vừa nói vừa vụt dậy, đi tìm một ngọn đèn dầu, rồi trải rộng tấm khăn san ra trước ngọn đèn vừa được thắp sáng và cố lấy giọng thật dửng dưng: "Cho chị đấy". Chị nuôi bật khóc, khóc tức tưởi, khóc thật sự, khóc như mưa như gió, làm hắn sau phút ngơ ngác chuyển sang sợ hãi đến thắt ruột. Hắn vốn không chịu được nước mắt. Ngày trước, mỗi lần như thế, hắn lại bỏ đi, đi thật nhanh như trốn chạy. Lần này hắn không bỏ chạy, mà đứng đó như một thằng ngốc nhìn chị nuôi khóc, khóc mãi và chẳng làm gì để khuyên giải cả. Hắn cứ chờ cho đến khi chị ta ngừng khóc, ngước nhìn hắn bằng cặp mắt sung húp, rồi bất chợt quyết liệt giật tung chiếc khăn nãy giờ vẫn úp chụp lên đầu, để hở ra một mảng tóc đã bị cắt nát đến nham nhở. Hắn ngã quỵ như vừa bị một cú đấm. Mắt trân trối nhìn vào mớ tóc chẳng còn ra hình thù gì và trong lòng vang lên những tiếng gào thét vô nghĩa.

Bây giờ thì hắn đã hiểu những tiếng xì xào sau lưng và các ánh mắt bí hiểm khi hắn trở về. Hắn mới chỉ đi vắng có 10 ngày, kẻ khốn nạn nào đó đã đến đây, đã làm ra tất cả tội ác này, kẻ nào?

Người đàn bà mắt mờ ướt, cầm lên chiếc khăn san, mỉm nụ cười héo hắt rồi kể cho hắn nghe câu chuyện đời mình. Người ấy đã tới đây, cái kẻ khốn nạn mà lẽ ra chị phải lấy làm chồng đã tìm được chị, và chính nó đã làm nên tất cả tội ác ghê tởm này khi chị kiên quyết không trở về. Nó gọt tóc rồi bôi vôi và kéo chị đi khắp trường, trước sự chứng kiến dửng dưng của bao người. Nó đấm đá một cách không thương tiếc vào bất kỳ chỗ nào trên người chị, cho mãi đến khi chị ngất xỉu và ném chị vào gian bếp tối với lời đe dọa sẽ trở lại...

Hắn lặng câm nghe chị kể mà lòng sôi réo sự thù hận, ý muốn chém giết một ai đó, cho thỏa mãn cái nỗi bị lăng nhục, bị hành hạ. Mỗi lời, không chỉ là nhát dao cứa nát thói sĩ diện vênh váo mà hắn vẫn giữ rịt như một thứ tài sản vô giá của riêng mình, mà còn là những giọt trong mát tẩy rửa tâm hồn cô độc của hắn. Bất giác hắn thấy mình đã ôm gọn người đàn bà trong tay từ khi nào, siết chặt vào lòng đến độ chị phải kêu lên vì đau đớn. Hắn thực sự thấy mình là một thằng đàn ông trong thiên chức bảo vệ cho một người đàn bà, và chợt nhận ra trên mái tóc nham nhở kia, cái hương bồ kết dịu nhẹ mà mẹ hắn thường xuyên có, để nỗi nhớ chợt tới làm con mắt cay sè...

Từ cái đêm đáng nhớ ấy, người chị nuôi mỗi ngày như đẹp hơn, mái tóc xanh trở lại và dài nhanh đến bất ngờ, còn đôi mắt ẩm ướt và đen như đêm thì cứ lóng lánh niềm hạnh phúc được chờ đợi...

Rồi việc gì phải đến, đã đến. Khi cái bụng lùm lùm của người đàn bà không còn giấu nổi ai nữa, thì nhà trường đành phải vào cuộc. Mặc cho mọi chuyện đã rõ mười mươi, chị nuôi khăng khăng không chịu khai ra cha đứa trẻ là ai, và cam phận nhận án kỷ luật. Trước khi được gọi lên nhận giấy thôi việc, chị nói với hắn đừng bận tâm gì cả, cứ tập trung vào học để thi tốt nghiệp bởi chỉ còn mấy tháng nữa hắn sẽ ra trường. Một thằng đàn ông khốn nạn nào khác có thể mừng rơn vì sự an bài ấy, chứ hắn thì không. Hắn đâu phải là một thằng Sở Khanh dù còn lâu mới làm được như Từ Hải. Hắn chỉ không quen chịu ơn ai bao giờ và đặc biệt là cố để mình đừng khốn nạn quá mà thôi.

Khi người đàn bà bụng mang dạ chửa bước vào phòng tổ chức để nhận tấm giấy thôi việc thì hắn cũng xuất hiện với chiếc balô gói ghém mọi tài sản và một lá đơn xin thôi học. Hắn nhận mọi trách nhiệm về mình trước cặp mắt sững lặng của người đàn bà, cặp mắt không còn âm u mà lóng lánh những giọt nước trong veo của sương đêm đang chầm chậm rơi trên gò má. Cảm giác lâu lắm lại chợt tới, sống mũi lại cay xộc lên một cách khó chịu làm hắn rùng mình và bỗng gắt lên một cách vô cớ: "Khóc lóc cái gì, đi thôi chứ".

... Thoắt cái đã gần 15 năm, 15 năm trôi dạt và băm bổ kiếm sống. Ngày trở về thành phố, mặc cho mẹ hắn khóc sưng cả mắt, hắn vẫn kiên quyết kiếm một túp lều nơi chân bãi rác xóm Liều đưa vợ về tá túc. Ba đứa con của hắn đã lần lượt ra đời tại chân bãi rác ấy và lớn lên cùng lũ trẻ bụi bặm.

Vợ hắn - người đàn bà định mệnh có đôi mắt ẩm ướt như sương đêm - đã cùng hắn đi suốt quãng đường khổ ải. Mở một quán nước nhỏ nơi đầu ngõ, chị cặm cụi kiếm từng hào nuôi chồng và con, quần quật từ tinh mơ cho đến tối sậm, không một lời oán thán. Còn hắn, với cái lối cao ngạo chưa bỏ được, ngày lại ngày rạc cẳng trên những nẻo đường cát bụi mà chẳng tìm ra được việc gì đáng làm. Của đáng tội, cũng có lần hắn kiếm được việc làm tương đối ổn định khi mấy thằng bạn học chung lớp ngày xưa giờ đã thành chủ thầu xây dựng nhờ đứng ra trông coi các công trình. Qua được cái nhà thứ nhất trót lọt, mang về cho vợ được ít tiền mua sắm cho lũ trẻ con được cái ti-vi "còm" để khỏi xem nhờ hàng xóm, đến cái nhà thứ hai thì xảy ra chuyện.

Theo thiết kế mà hắn phải trông vào đó để quản cho đúng kỹ thuật thì số thép mà nhà thầu mang đến vừa thiếu lại vừa sai chủng loại. Hắn kiên quyết không nhận và cho thợ nghỉ việc đợi đến khi thép đủ, thép đúng mới làm. Nghe tin, thằng bạn thân tức tốc lao đến, lệnh cho hắn cứ thế mà thi công. Một cuộc tranh cãi quyết liệt nổ ra. Thằng bạn cười vào mũi hắn mà rằng: "Đến bao giờ mày mới bớt sĩ vớ sĩ vẩn để khôn lên được. Làm như mày thì bọn tao ăn cám à. Phàm cái nghề này không cấu đuôi thì cũng véo đầu, rút ruột. Có thằng nào thầu xây dựng mà không phải qua các mánh lới ấy". Không tranh luận, hắn lẳng lặng ra về và cạch mặt thằng bạn lừa đảo. Dẫu đói, dẫu nghèo, hắn cũng không thể ăn cắp, và càng không thể đểu cáng. Ăn bớt, ăn xén, ăn bẩn ở đâu không biết chứ trong cái nghề này thì ngoài sự đểu cáng ra đó còn là tội ác nữa - và kèm theo đó là đi tù như bỡn. Dẫu hắn không nuôi nổi vợ con thì cũng không thể xa lũ con của hắn được. Chúng nó cần đến hắn, dù với ý nghĩa rất tượng trưng thôi thì cũng là cần.

Thế là hắn lại thất nghiệp, lại chơi dài với những suy nghĩ thật viển vông của một kẻ "chân không đến đất, cật không đến giời". Vợ hắn sợ hắn nằm nhà mãi sinh bệnh, nhờ hết người nọ đến người kia tìm việc hộ. Biết chuyện, máu sĩ diện nổi lên đùng đùng, hắn cấm chị không được làm việc ấy và giận dữ bỏ đi khi thấy chị dân dấn nước mắt.

Mẹ hắn thi thoảng lại tìm tới giúi cho mấy đứa cháu khi gói kẹo, khi cân đường. Biết chuyện hắn cũng cấm không cho bọn trẻ con nhận, dù biết làm thế sẽ khiến bà tủi thân nhiều lắm.

Như một ông vua trong cái vương quốc tồi tàn và bé nhỏ của riêng mình, hắn cai trị các thần dân theo một phương pháp đầy khắc kỷ. Tự hành mình một cách triệt để đó chính là sự phản kháng duy nhất hắn dùng đối phó lại cuộc đời... Vợ hắn và con hắn sợ hắn một phép. Khi có mặt ông chủ, căn nhà nơm nớp đến nghẹt thở...

Tai họa đầu tiên giáng xuống vương quốc của hắn là việc bỏ nhà đi bụi của thằng con lớn. Sau một đêm rồi hai đêm cu cậu không về nhà, vợ hắn bỏ mặc mấy cha con, cùng cái quán tồi tàn, sục đi các ngả tìm con. Nhà cửa lặng ngắt, mấy đứa bé khóc như ri vì đói, vì thiếu mẹ, làm hắn bối rối. Cực chẳng đã, hắn phải nhờ đến mẹ hắn qua trông giúp mấy đứa nhỏ, và bổ nhào đi tìm con. Khi lôi được thằng cu lớn về nhà, cũng là lúc cái vương quốc của hắn vỡ ra từng mảnh. Vợ hắn vừa khóc vừa trách hắn là kẻ vô tình, tàn nhẫn. Mẹ hắn cũng chan chứa nước mắt than vãn về cái sự cứng rắn đến lạnh lùng của hắn. Việc thằng cu lớn bỏ đi bụi đã làm mọi người sợ hãi. Tiếp tục ở lại cái xóm Liều này tức là tiếp tục chấp nhận sự lớn lên trong hư đốn của lũ trẻ sau đi bụi có thể sẽ còn là trộm cắp, cướp giật, đĩ điếm và nghiện hút.

Mặc kệ vị quốc vương khốn khổ đang rũ xuống như cái bao tải rách, hai người đàn bà quyết định dời nhà ngay càng sớm càng tốt. Với số tiền để dành ít ỏi của vợ, cộng thêm sự trợ giúp của mẹ hắn, và khoản bán cái túp lều rách ở xóm Liều, vừa đủ tậu một căn hộ tận tầng 5 của một khu tập thể. Được cái, vợ hắn có thể tận dụng ngay gầm cầu thang chung để tiếp tục cái quán nước còi cọc của mình cho sự mưu sinh.

Hắn dửng dưng chứng kiến sự trao đổi của mẹ và vợ, dửng dưng nghe kể về cái nơi mình sẽ dọn đến, rồi lại dửng dưng theo vợ và con về tá túc trên tầng 5 lộng gió.

Sau những ngày vất vả đó là khoảng thời gian bình yên. Những đứa trẻ lớn lên, ngoan ngoãn và học giỏi. Chúng biết thân phận con nhà nghèo của mình, mà cắm đầu vào học, và giúp đỡ mẹ, không hề đua đòi. Vợ hắn gầy rộc đi để chỉ còn lại đôi mắt to đến hết cỡ và vẫn đầy ẩm ướt như hồi nào. Còn hắn, chẳng biết nên buồn hay nên vui với việc ngày ngày ghé cái quán quen thuộc với một nghìn rưởi trong túi làm một cốc rượu nhạt.

... Đã lâu lắm hắn mới có dịp nhìn lại kỹ đến thế về tất cả những gì của cuộc đời mình trong từng ấy năm. Trời đã sẩm tối từ khi nào với những tia chớp thỉnh thoảng lại lóe lên rạch ngang bầu trời báo hiệu một cơn mưa sắp đến. Bà chủ quán ý chừng như sốt ruột về sự gan lì của vị khách khó chịu, cố tình khua động mọi thứ, chán rồi lại đem tiền ra đếm. Ôi! Tiền, cái thứ làm người đời cứ sục lên trong cuộc đua tranh kiếm tìm, cũng là thứ mà bây giờ hắn cần và hắn phải có. Một tiếng sét thật lớn làm giật nảy người cứ như có ai chợt đọc được suy nghĩ đen tối vừa thoáng qua trong đầu hắn. Mưa ào xuống, mỗi lúc mỗi dữ dội. Mưa kiểu này còn lâu mới tạnh. Quán vắng tanh càng làm tăng thêm vẻ lạnh lẽo tối tăm. Nếu bây giờ hắn cướp lấy túi tiền của bà chủ quán kia sau khi đã dùng cái ghế to và nặng này đập vào đầu bà, chắc sẽ chẳng có ai hay.

Tội ác đôi khi được bắt đầu chỉ bằng những ý nghĩ vu vơ như thế. Bóng tối mỗi lúc một trùm lên cái quán vắng vẻ, càng làm cho ý nghĩ man rợ kia thêm có lý. Để có tiền, có 20 nghìn, hắn có dám làm cái điều mà bao năm trời nay hắn không bao giờ dám nghĩ đến? Người đàn bà kia sẽ chết sau cú đánh tàn nhẫn của hắn mà chẳng kịp kêu lấy một lời, và dù có kêu thì cũng chẳng ai có thể nghe thấy trong cơn mưa ồn ã này. Cái túi tiền căng phồng ấy thừa đủ để hắn mua cho con cả đống vở bìa Khủng long. Thủy thủ Mặt Trăng sặc sỡ, đẹp như mơ. Thậm chí, còn thừa để đưa cho vợ mua sắm thêm một vài thứ cho căn phòng trống huếch của gia đình...

Bà chủ quán hồn nhiên đến độ không hề biết người ngồi trước mặt mình đang ôm chứa những toan tính kinh khủng đến nhường nào. Có lẽ ngày hôm nay với bà là một ngày đẹp, bởi thế tự nhiên bà nổi hứng ngân nga mấy câu hát từ thuở nảo thuở nào: "Còn duyên ý a, kẻ đón người đưa. Hết duyên ý a... đi sớm về trưa mặc lòng".

Có thật là hắn đã hết duyên với cuộc đời này và trở thành vật thừa, đồ phế thải ngay trong chính gia đình mình. Câu hát lạnh buốt đến độ làm hắn tỉnh cả rượu. Hắn còn trẻ mà, tuổi đời mới ngoài 40 đã lấy gì làm già. Hắn cũng còn khỏe nữa, hai tay hai xô nước từ tầng một lên tầng năm mà có bao giờ phải nghỉ đâu. Vậy thì hắn còn phải sống, phải vật lộn để tồn tại với đời.

Bàn tay thò ra ngoài mưa đã ướt đẫm từ bao giờ, hắn rút phắt lại quyết liệt xoa thật mạnh lên khuôn mặt nóng bừng như xóa hết những dấu vết tội lỗi vừa thoáng qua. Người đàn bà kia chắc không thể ngờ rằng chính câu hát bất chợt đã cứu chị thoát hiểm. Mưa đã dịu cơn với những tiếng ầm ì xa dần. Bất chợt hắn nghe tiếng ai gọi tên mình từ rất xa thật da diết. Tiếng gọi ấy có thật, đang dần gần lại chứ không phải do hắn tưởng tượng. Tiếng gọi ngỡ như đứt ruột, thương đến phát khóc lên được. Hắn bật dậy... lao bổ ra cửa và nhìn sâu vào trong đêm nhạt nhòa.

Vợ hắn đang tới gần...

Lão

Hồi còn trẻ - tận lúc đã ngoài 40 tuổi, chưa một lần lão nghĩ rằng: “Rồi mình sẽ già!”. Lạy giời! Đúng là như thế. Lúc đó, lão còn sung sức, trẻ trung và ngây thơ lắm. Đến cơ quan là đến cơ quan để làm việc, đúng 8 giờ mỗi ngày. Ăn là ăn. Ngủ là ngủ. Đầu tháng lĩnh lương đem về đưa vợ. Hồn nhiên thế thôi. Đầu óc và sức lực phải dành cho nhiều thứ phấn đấu, rèn luyện bản thân. Để làm sao đến tháng 12 hằng năm, khi phải viết bản kiểm điểm công tác nộp cho Ban tổ chức cán bộ lưu vào hồ sơ lý lịch của mình, đừng có cúi mặt xuống liệt kê khuyết điểm này tới các thiếu sót kia. Nhục lắm. (Lão tự đe mình thế). Cụ thân sinh ra lão (cụ ông) vốn là nhà giáo, sau là sĩ quan quân đội, lúc chuyển ngành, lại là nhà giáo, quanh năm mặc quân phục, đã dạy lão: “Quân lệnh như sơn”. Lão vâng lời. Dẫu mình chỉ là cái anh dân sự, hết cầm phấn rồi cầm bút vẫn tự xếp mình vào “quân lệnh…”, bố bảo cũng không dám làm thiếu, làm sai việc cơ quan giao cho. Với người khác, lão không đoán mò, nhưng riêng lão, lão thế. Bảo, còn trí tuệ đâu mà nghĩ tới tuổi già nữa!

Cho tới cái năm tuổi về hưu vờn vờn đến rồi, lão vẫn vô tư: “ừ, đến tuổi thì nghỉ!”. Song, một hôm… lão quên ngày, tháng, năm… nhưng nhớ địa điểm nơi gặp gỡ nhà thơ thích làm thơ trào phúng, hơn lão 5 tuổi, thuộc lớp đàn anh nhưng xuề xoà, cứ cậu - tớ với lão từ nhiều năm rồi. Hôm ấy, ngồi uống cà-phê vỉa hè đường Bà Triệu - bên số lẻ, nhà thơ tủm tỉm nhòm vào mặt lão:

- Cậu có biết “Lão giả an chi” nghĩa là sao không?

(Vô phép anh) lão đã nghĩ: “Cái bố này hôm nay hâm tỉ độ rồi! Bố ấy hỏi mình như thầy giáo hỏi học trò cấp Tiểu học không bằng! Tóc thằng này cũng trắng không kém gì tóc bố ấy đâu nhớ!” - Nhẩm trong bụng vậy thôi, còn miệng lão thì lại nói lễ độ:

- Nghĩa cổ của bốn chữ ấy thì tôi hiểu, mà anh còn hiểu rõ hơn tôi.

Nghĩa mới thì tôi chưa biết.

Nhà thơ tiếp tục mủm mỉm, nói với ông bạn già cao tuổi hơn ngồi cạnh lão:

- Thằng cha này láu cá thật. Tôi đành phải “kiển tố vừa đố vừa giảng” thôi…

(Kiển tố - có nghĩa là: tổ kiến). Đoạn, nhà thơ vừa vỗ vỗ nhẹ vào đùi lão, tiếp:

- Là… Lão già ăn chi?

Ngay lập tức, lão bị sặc ngụm cà-phê vừa nhấp.

Chưa hết.

Nhà thơ còn há miệng ra, khoe đám răng đi sơ tán từ hồi kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ không bao giờ trở về nữa. Sau cơn sặc, lão chắp tay vái nhà thơ. Lão tỉnh cả người, thực sự nghĩ đến chữ: Già.

Hơ hơ! “Lão- già - ăn - chi?”. Nhà thơ nói xong, mặt buồn thiu. Còn lão, lão lùa lưỡi liếm đếm lại hai hàm răng của mình, thấy vẫn còn đủ 15 chiếc. Ba chiếc đang lung lay.

Lão già thật rồi.

Già hay là cao tuổi?

Già! Già rồi! Cao… tuổi, nghe có vẻ cứng cáp và hùng dũng quá. Còn gì nữa mà… cao! Lão nhận: Lão đã già. Già cho đến hôm nào, chỉ có ông Trời biết. Thì già, chứ sao. Lão ví lão như cái xe đạp. Lúc mới, líp nảy tanh tách, đạp veo veo. Sau rồi, đi mãi, tòng tọc, xích rão, líp mòn… có thay thứ nọ thứ kia, thì cũng đến như ba cái răng giả gài vào miệng mà nhai ấy. Vui thật!

Về nghỉ hưu được hai năm, bỗng có ông anh cọc chèo đi xe đạp bị xe máy đâm chỏng gọng, liệt thẳng cẳng. Lão hốt quá, quẳng luôn xe đạp, đi bộ. Gần thì đi xe “dép nhựa”. Xa, thì xe ôm. Lão tếu táo: “Giờ, cứ ra đường là… ôm!”. Nói thế, chứ tiền đâu!

Tới cái đận tụng kinh bốn chữ “Sinh - lão - bệnh - tử”, lão cứ hơ hơ, hê hê… không phải với ai, mà với lão thôi. Không bệnh thì tật. Cái tật của lão thật khốn khổ. Y học gọi đó là bệnh ở đại tràng. Còn lão, lão tự chẩn đoán: “Đuổi quân Tào”... Sáng sáng cứ mở mắt ra là phải ngồi bệ để tống đám quân vô chủ ấy ra ngoài. Tào Tháo lúc ấy có chỉ huy được chúng đâu mà Tào Tháo đuổi. Chính lão phải đuổi, một lần, hai lần… cho kỳ hết mới thôi. Có hôm tới sáu, bảy lần… tới tận chín, mười giờ sáng mới xong. Chợt có việc cần đi đâu đấy vào sáng hôm sau, thì bữa tối hôm trước lão phải ăn chay, giảm bớt nửa xuất so với mọi bữa. Nếu là đi họp, có mặt từ 8 giờ sáng, lão phải nhịn hẳn, nhấp chén nhỏ rượu thuốc và cốc bia nhỡ pha đá trừ bữa. Họp xong mới về ăn. Ăn buông bát, là lập tức “Đuổi quân Tào”. Ăn như thế, đúng là lão chẳng biết lão ăn gì nữa. Ông nhà thơ của lão trào… phúng thật. Già, sinh tật, tật vương cả vào miếng ăn.

Tật ở lão là thế, và nữa thuộc các bộ phận khác của cơ thể cũng lôi thôi tới sự ăn và việc ăn. Như ông bạn làm công việc nghiên cứu của lão, thì lại khác. Ông ấy từ hồi còn trẻ rất nền nếp, đúng giờ giấc đối với sự ăn uống. Sạch sẽ, không ăn vặt, rất ít khi ra quán ăn. Vậy mà bây giờ thỉnh thoảng lão lại thấy ông ra phố để ăn. Lúc ngồi hàng phở, hôm ở hàng bún, bánh cuốn. Có bận lão còn thấy ông xách cái cặp-lồng nhỏ, đựng gì chẳng biết. Chẳng còn giờ giấc gì nữa.

Sau hôm chuyện trò với nhà thơ, gặp lại ông, lão mới hỏi:

- Tôi nhớ, từ trước đây, ông có ăn uống linh tinh như thế này đâu, nhỉ?

Ông nhìn lão, thủng thẳng:

- Tôi ăn thật đấy, chứ không linh tinh đâu.

Lão nhấn thêm vài câu hỏi ngắn nữa, thì ông bộc bạch tâm tình:

- Chúng mình như nhau cả thôi. Chỉ biết ăn mà không biết nấu nướng. Lúc chưa vợ, thì ăn cơm tập thể. Có vợ rồi, vợ nấu cho mà xơi. Ăn cái gì cũng được. Ăn thế nào cũng xong. Miễn là có giờ giấc. Đến khi sắp vớ được tuổi 60, mới thấy khó khăn quá. Vì sao, ông biết rồi đấy. Mình giờ ăn được miếng gì vào bụng là khó lắm. Đâu phải mình khó tính, khó ăn…

Lòng vả như lòng sung cả thôi. Thằng cháu nội lên năm, hôm ngồi chồm hỗm ngắm lão vừa nhâm nhi vừa khều khều nửa bát cơm nát, cười tít mắt:

- Ông ăn như mèo ấy!

Lão suýt nghẹn. Ví von chính xác thế! Lão xoa đầu cháu. Nhưng mẹ nó thì chồm lên:

- Đồ mất dạy! Ai bảo mày nói hỗn thế, hả?

Thằng bé tái cả mặt. Lão ôn tồn bảo đứa cháu:

- Lần sau đừng nói thế nữa con nhé!

Và nói với mẹ cháu:

- Con tha lỗi cho cháu. Đã ai dạy cho nó biết điều ấy đâu mà nó hiểu. Thôi, cháu dại, ông mang.

Đến ngay như bà lão nhà lão, kể từ dạo lão vào già bấy lâu rồi, đã cảm thông, chia sẻ với lão được bao nhiêu đâu. Cơm khô, lão ăn vào khó tiêu, lão bảo cho lão ăn cơm nát. Bà cằn nhằn:

- Cơm thế, mình ông xơi.

- Thì nấu riêng cho tôi.

- Nồi nọ xoong kia, ai mà nấu được?

Sau đấy, biết là đã lỡ lời, bà nấu thêm cơm vào cái xoong quấy bột cho lão. Chưa quen, hôm thì khô, hôm thì nhão nhoét. Nát và nhão khác nhau chứ. Quá dẻo thì nát. Quá nát là nhão. Quá nhão là cháo. Mà lão lại không thích ăn cháo. Gặp phải món thức ăn dai, cứng, thái to, có cả xương, lão lắc đầu. Chịu, không chén được. Cho dẫu đã mấy năm rồi, hễ vào bữa là lão đã thủ sẵn cái kéo con, gấp gọn vào được làm “vũ khí chiến đấu” lồng vào chùm chìa khoá bỏ trong túi, vẫn cứ chịu thua dai, xương, rắn.

Chẳng hiểu do bất lực hay bực mình, bà lão ngán ngẩm:

- Ông khó tính quá đấy. Ngày một khó tính quá đấy. Bố ai mà chiều được!

Thế hả? Không chiều được lão thì lão tự chiều lấy cái thân lão thôi. Hê hê! Chỉ riêng cái lưỡi của lão và cái lưỡi của bà ấy, đã “ông chẳng bà chuộc” rồi. Các loại món ăn kho, xào, nấu… lão bảo mặn quá thì vợ lão lại nói nhạt. Trình độ nữ công của bà lão không có giấy chứng nhận, lúc về già mới dốc hết vốn và tài nấu nướng. Ai đời, luộc rau muống, bắp cải lại đậy vung, rau đỏ kệch, nước luộc, nước canh cải đục lờ lờ. Rau mồng tơi thì nấu với thịt dọi, cá chép kho với riềng, thịt lợn rán ướp cả tỏi. Lão có góp ý thì tự ái:

- Ông nấu lấy mà ăn. Tôi chỉ thế thôi.

Thì thôi. Thêm câu nữa lại cãi nhau. Thời trẻ yêu thương nhau khác. Giờ đã khác, còn khó. Có thương, lắm lúc chẳng biết đằng nào mà thương. Thương không nổi nữa kia. Cũng là già cả đấy, song mỗi già một kiểu. Chỉ như nhau ở mấy nét đại thể: nhiều tuổi, răng móm, mắt mờ, tai điếc, tay yếu, chân chùn, lưng đau… không bệnh thì tật. Thói xưa, nết cũ vẫn khư khư, không lộ ra nữa thì nén vào. Bảo: “Con nuôi cha không bằng bà chăm ông” có nghĩa là bà còn gần ông hơn con cái, chừng nào đồng cảnh. Kể ra, có hàng đống những chuyện khác, có nghĩ tới, có lôi ra cũng chẳng để làm gì. Lão tự thiền: Ăn được miếng nào thì ăn. Uống được ngụm nào thì uống. Cái gì đã qua, bỏ qua, cố mà quên. Cái gì tốt đẹp, đáng giữ, gắng mà giữ. Đừng yêu cầu đòi hỏi gì ai. Tự lo được, hãy tự lo. Việc gì từ nhỏ đến lớn, không làm nổi nữa thì không làm và cũng không nói. Ai hỏi gì, nói nấy, không choạc vào chuyện của ai. Lão biết chứ. Ông già nói nhiều, đám trẻ không thích. Bao nhiêu năm dạy bảo chúng rồi. Giờ là lúc chúng tự lập, tự cường. Thấy có cái sai, quá sai, thì nhắc nhở nhẹ nhàng thôi. Chứ đừng để chúng vặc cho: “Ông biết gì mà nói!”.

Điều gì nghĩ mà không để làm gì, không giải quyết được gì thì không nghĩ nữa. Sức cạn rồi, sao cứ “lo bò trắng răng” chứ! Lão hể hả nhẹ nhõm thôi và bảo ban lũ cháu. Cháu nào ông cũng thương yêu. Yêu thương mỗi đứa một cách theo tuổi, tính nết và cảnh sống của từng đứa, không thiên vị. Nên, lão được lũ cháu từ lớn đến nhỏ quấn ông. Vậy là sướng. Lão không thể “an chi” và không lấn bấn lắm với hai chữ: “Ăn chi?”. Có gì ăn nấy.

Lão đang quên dần khái niệm: đi chơi. Chơi gì, ở đâu? Ra đường, chân bước, mắt phải nhìn xuống đất. Ngoài 40 tuổi, lão mới được cơ quan chia cho căn hộ tít trên tầng năm. Thằng cha phó ban Quản trị đưa bản hợp đồng nhà nhăn nhở:

- Tha hồ cho cậu làm thơ…

Tới 70 tuổi mụ, sau Tết ít lâu, lão già ngã hai lần ở cầu thang. Một lần lên, một lần xuống. Vợ lão ngỡ lão say bia khi về. Thế lúc xuống? Say vợ à? Lão nghĩ mãi. Sao mà vấp bậc xi-măng? Sao mà hụt cẳng? Thôi rồi! Lão tóm được thủ phạm rồi. Tại cái thằng giầy da. Chân lão giờ như chân mượn. Mũi giầy cách xa mũi chân, bước không thật nữa. Cầu thang lại tù mù. Lúc tối có đèn thì sấp bóng, đâm ra quáng gà, vấp là phải. Lão bỏ quách giầy da, dùng giầy vải. Giầy vải ôm khít bàn chân, thế là an toàn. Mà, bước chậm thôi. Từ đấy chưa ngã lại lần nào. Lão thông minh chán đấy chứ! Ngẫm ra, già cũng buồn cười. Vừa mới cười khà khà, nói nheo nhéo đấy, bỗng ườn lưng ra giường như cái anh giả vờ. Diễn viên điện ảnh loại ngôi sao cũng phải phục sát đất. Thơ đấy chứ đâu. Cái thằng xỏ lá năm nào, nó nói cho nhà lão lên tầng 5 mà làm thơ thế mà đúng. Lão làm thơ thật. Tứ thơ nảy ra từ câu chuyện nhà thơ thích làm thơ trào phúng năm nào. “Vô đề” như sau:

“Vui quá đi thôi cái tớ già

Toàn thân lỉnh kỉnh xương và da,

Ăn thì nhóm nhém như mèo chén,

Ung dung chờ buổi được thăng hoa!”…

Lão chép ra tờ giấy rồi để lẫn vào đâu đó, không nhớ nữa. Một hôm, cô con gái lớn về thăm bố, tiện tay mở cuốn sổ ghi chép của lão để trên bàn, thấy bài thơ, khen hay quá, đọc to lên. Thằng cháu nội ngồi cạnh ông mới hỏi:

- Ông ơi! Thăng hoa… là gì ạ?

- Là… lúc ông chết ấy, cháu ạ.

Thằng cháu ỏn ẻn:

- Thế hôm nào ông chết hả ông?

Lão phì cười. Ôi, cháu ơi là cháu!

Lão gù ở ngã ba sông

Trên một doi đất, nơi hai nhánh sông gặp nhau có một lão gù sống bằng nghề câu tôm. Người ta không biết tuổi lão dù có thể đoán rằng lão chưa hẳn là đã già lắm. Con trai duy nhất của lão vừa mới vào đại học.

Đã bao nhiêu năm rồi , dễ chừng đến nửa thế kỷ trên cái doi đất ấy chỉ có căn nhà nhỏ như một cái lều dựng tạm của lão. Và một cái miếu thờ Bà Chúa Xứ nằm ẩn dưới một tán gừa (*) rậm rạp, xanh thẳm quanh năm. Trên những cành gừa lớn, những chùm rễ lòng thòng đâm ra tua tủa như thể râu tóc của một tên khổng lồ quái dị.

 

Dân làng ít dám đi qua nơi ấy vì họ tin rằng Bà Chúa Xứ rất linh thiêng, đi ngang mặt bà lỡ sơ xuất điều gì bà vặn cổ thì oan. Mỗi năm một lần vào cuối tháng tư âm lịch, cả làng hùn nhau cúng Bà một con heo quay lớn và đủ loại bánh trái, xôi chè và chính trong dịp ấy họ mới đi qua nhà lão gù để đến miếu.

 

Có một sự tương phản kỳ lạ giữa lão và đứa con trai. Lão thấp bé, lưng gù, đôi tay thì dài ngoằng mà trán lại dô, trong khi đứa con từ lúc mới lọt lòng mẹ đã có khuôn mặt sáng rỡ của thiên thần và càng lớn nét khôi ngô càng lộ rõ. “Nó không phải là con lão!” Dân trong vùng khẳng định như vậy. Họ bảo rằng người đàn bà trẻ ấy trôi giạt vào nhà lão sau một chuyến vượt biên không thành vào cái ngày chiến tranh chấm dứt và chỉ sáu tháng sau đó đã sanh ra thằng bé bây giờ.

 

Lão gù không đồng ý với lập luận ấy. Lão tin ở sự an bài của số mệnh và cho rằng chính lòng thành của lão đã đưa nàng đến căn nhà mình trong cái ngày khủng khiếp kia. Gần hai mươi năm rồi lão vẫn giữ đúng lời hứa với nàng. Đứa con trai của họ đã được nuôi ăn học đàng hoàng và giờ thì nó đã lên thành phố để theo đuổi bậc đại học trong khi cha nó không hề biết một chữ.

 

o0o

Lão không phải là dân cố cựu ở đây, lão trôi giạt đến vào những năm đói cùng với một bà mẹ già và một chiếc tam bản(**)đã sắp mục. Thời ấy miếu Bà Chúa Xứ mới lập ngay chính nơi ngày xưa bọn tay sai người Pháp vẫn dùng để lén lút đập đầu những người bị nghi ngờ vào “Hội kín”. Bà Chúa Xứ cùng với những hương hồn bị giết bằng những gốc trâm bầu ấy hẳn là linh thiêng lắm, nên đến tận bây giờ dân trong vùng vẫn e dè ít dám đi ngang. Chỉ có hai mẹ con trôi giạt ấy dám ghé vào dựng một túp lều nhỏ. Người mẹ đã già lắm còn đứa con trai thì tật nguyền. Thế nhưng họ vẫn sống được vì người con có tài câu tôm đặc biệt. Góc ngã ba sông ngay trước miếu có một vùng nước xoáy. Chính nơi đó là chỗ câu tôm quen thuộc của lão gù từ ngày đầu tiên lão còn là một thằng bé cho đến bây giờ. Mấy năm sau bà mẹ chết. Lão chôn mẹ phía sau túp lều của mình và ngày ngày vẫn bơi chiếc tam bản, một cần câu, một cây vợt để kiếm sống.

 

Cuộc nội chiến kéo dài làm xóm làng hoang tàn, nhiều người ra đi, tìm về thành phố để tránh bom đạn. Lão vẫn ở lại. Lão không muốn rời cái nơi mà người mẹ của mình nằm lại vĩnh viễn có lẽ chỉ vì một lý do đơn giản: Ra vùng đô hội lão làm gì để sống? Tật nguyền như lão chỉ có cách đi ăn xin, mà điều ấy chỉ mới nghĩ đến thôi lão đã thấy kinh hoàng!

 

Thời lão trong độ tuổi thanh niên, khi bơi xuồng qua những nơi nhà cửa có phần đông vui, lão rầu lòng khi nghe câu hát ghẹo:

 

“À ơi, câu tôm không đủ kho tàu

 

Tiền đâu mà sắm áo màu cho em?”

 

Lão câu tôm có thể nói là giỏi nhất vùng, dư đủ để “kho tàu” và sắm vài ba chiếc áo màu mỗi tháng nhưng mà sắm cho ai mặc? Con gái trong vùng ai thèm lấy một gã vừa gù lưng vừa ở một nơi không người dám bén mảng đến?

 

Lão ứa nước mắt nhớ lời trối của mẹ. Tội nghiệp bà. Khi còn sống bà chỉ ao ước có một đứa cháu nội. Không ngày nào bà không cầu khẩn hương hoa cúng vái nơi miếu Bà để mong Bà ban cho ân huệ ấy. Khi bà mẹ mất đi, lão gù thay mẹ làm công việc thiêng liêng đó với một niềm tin tưởng mang tính hoang sơ.

Rồi cái ngày ấy cũng đến, cái ngày Bà Chúa Xứ chứng cho lòng thành của lão. Cái ngày hạnh phúc nhất trên đời của lão trùng vào thời điểm cuối của cuộc chiến. Khi mọi người quanh vùng đóng chặt cửa nằm nhà vì sợ ăn cướp bởi chính quyền cũ đã tháo chạy còn chính quyền mới thì chưa vào tiếp quản, lão gù vẫn bình thản làm công việc hàng ngày cho đến chạng vạng mới về. Khi buộc chiếc xuồng vào gốc tràm bên bờ mương, xách chiếc đèn câu tù mù bước lên dự định ăn sơ một chút gì đó rồi đi câu đêm, lão bỗng giật mình. Có một người nào đó nằm bất động trên lối đi vào nhà. Lão thận trọng lại gần, giơ cao chiếc đèn đã được vặn lên. Đó là một người đàn bà quần áo ướt sũng, tóc tai rũ rượi. Run lập cập vì không biết chuyện gì đang xảy đến cho mình, nhưng với bản chất nhân hậu lão vội xốc nạn nhân dìu ngay vào căn lều của mình. Hôm ấy lão bỏ buổi câu đêm. Hai mươi năm trước lão chưa già và nàng thì còn rất trẻ. Nàng chấp nhận ở lại trong cơn tuyệt vọng vì một hy vọng. Những ngày sôi động và hỗn loạn qua dần. Người trong vùng xì xào rồi tiếng đồn lan ra. Họ quên nỗi sợ, làm bộ bơi xuồng chèo ghe ngang qua doi đất để nhìn trộm nàng. Ai cũng trầm trồ về nhan sắc ấy. Nhưng đó là một nét đẹp xa lạ, rất khác với vẻ mặn mà của các cô gái quê trong vùng.

 

-Này anh gù. Anh đang nuôi ai trong nhà vậy? Họ hỏi đùa cợt, ỡm ờ khi gặp lão đi bán tôm.

 

-Vợ tôi! Lão trả lời một cách hãnh diện.

 

-Vợ anh? Anh cưới hỏi lúc nào mà chúng tôi không hay? Người ta vặn lại.

 

-Bà đã đem cô ấy đến. Bà hiểu rõ lòng thành của tôi! Lão đáp với với một vẻ mặt thành kính tuyệt đối đến nỗi không một ai dám nghi ngờ.

 

Vài tháng sau, khi chính quyền mới đã ổn định, người ta tiến hành kê khai hộ khẩu. Có hai anh du kích đến nhà lão mời người đàn bà, đến lúc ấy vẫn còn xa lạ, về ủy ban lâm thời. Lão gù không có nhà nhưng chỉ vài mươi phút sau người ta thấy lão hộc tốc chạy lên ủy ban, cái lưng gù nhô lên thụt xuống thoăn thoắt. Vài tiếng đồng hồ sau họ cùng quay về. Người đàn bà trẻ mệt mỏi, xanh xao nhưng vẫn đẹp. Người ta nói thầm vào tai nhau “Trông kìa! Cô ta đã có bầu. Anh gù “hốt ổ” rồi!”. Hốt ổ là tiếng lóng địa phương chỉ những người cưới vợ mà phải nuôi con của người khác. Nhưng lão gù không quan tâm đến những điều như vậy, hôm ấy trên gương mặt xấu xí đó sáng ngời ngời hạnh phúc.

 

Mấy tháng sau chuyện ấy, một đêm gió bấc đã thổi rong ngọn qua những vườn cây, mụ Tám, một bà mụ vườn chợt giật mình thức dậy vì có tiếng ai đập cửa.

 

-Ai? Bà mụ vườn đã trên sáu mươi tuổi trở mình hỏi.

 

-Tôi đây! Bà Tám tới nhà mau mau giùm. Vợ tôi sắp sanh rồi!

 

Khi ngọn đèn được khêu sáng lên bà cụ ra mở cửa và nhìn thấy anh gù đang run cầm cập. Mau thật! Bà lão nghĩ thầm trong bụng nhưng không nói ra, chỉ mau chóng cầm theo một mớ đồ nghề thô sơ của mình và bước theo xuống chiếc tam bản.

 

Gần sáng bà mụ vườn mới trở về, mệt mỏi rã rời. Trong đời làm mụ mấy mươi năm bà chưa gặp ai sanh khó như vậy. May thay rồi mọi chuyện cũng qua. Mà thằng nhỏ mới sáng sủa làm sao!

 

Nhưng bà mụ vườn đã lầm. Một tuần sau đó, cũng vào khoảng gần sáng, người ta nghe tiếng lão gù gào khóc vừa đau đớn vừa hoang dại. Đợi sáng, mọi người mới dám đến thì người thiếu phụ đã chết. Bên xác nàng, lão gù đã như hóa điên. Đứa trẻ đã tím tái đi, khóc không thành tiếng.

 

“Tôi đã giết nàng! Tôi đã giết nàng!” Lão ôm chặt cái xác đã bắt đầu lạnh mà gào. Người ta phải cố gắng lắm mới gỡ tay lão ra được. Mắt lão long lên sòng sọc. Lão hét vào mặt mọi người “Tôi đã giết nàng! Hãy đem tôi mà xử bắn!” Bà mụ vườn cũng đến. Bà lão thở dài “Cô ấy chết vì sản hậu!” Bà ôm đứa bé trai trên tay, bảo: “Con dâu tôi đang nuôi con mọn. Nó sẽ cho thằng bé này bú!”

 

Hội từ thiện xã đem đến một chiếc quan tài bằng gỗ gòn. Lão gù thôi không gào thét nữa. Lão đồ xuống như một thân cây bị đốn và rống lên khóc. Họ chôn người thiếu phụ bất hạnh bên hông túp lều. Những người rành rẽ nhớ rằng từ khi nàng trôi giạt đến cho đến ngày chết chưa tròn sáu tháng.

 

Mấy ngày sau, dần tỉnh lại, lão gù đến nhà bà mụ xin nhận con về, nhưng nghe lời giải thích của bà lão cùng với cô con dâu, lão đồng ý để họ nuôi giùm thằng bé. Mỗi ngày lão đến thăm con và đem cho bà cụ khi thì năm bảy con tôm càng xanh lớn, khi thì vài lít gạo lão mua bằng tiền bán tôm.

 

Lão bắt đầu uống rượu trong những ngày trở mùa hoặc mưa bão không câu được. Khi đã say mèm, lão thường kể về nàng. Lão vẫn khư khư cho rằng nàng là do Bà mang lại, rằng nàng đã chết chỉ vì lão yêu cầu nàng cho lão một đứa con trai. Nếu không vì điều ấy hẳn giờ đây nàng vẫn còn đêm đêm thức đợi lão về trong căn lều ở đầu doi đất. Lão kể và khóc. Dần dần ai cũng được nghe câu chuyện ấy dù chẳng ai tin nó là sự thực.

 

Thế nhưng khi đứa bé lên ba, trở thành một đứa bé trai bụ bẫm, sáng sủa, thì lão không đụng đến rượu nữa. Lão sửa túp lều thành căn nhà, tuy nhỏ nhưng coi được và đón con về. Từ đó lão sống tất cả là vì thằng bé. Nó đầy đủ, không thua một đứa trẻ con nhà khá giả nào và được đến trường ngay khi vừa lớn. “Vợ tôi muốn vậy!” Lão giải thích ngắn gọn.

 

Năm tháng trôi đi, càng lúc cái lưng gù của lão càng gù thêm, người như choắt lại. Thằng bé lớn lên, đẹp hơn tất cả mọi đứa trẻ trong vùng và rất ngoan, học giỏi. Lão gửi con ra trường huyện học trung học rồi thì lên đại học. Căn nhà lại còn chỉ một mình lão. Vẫn chiếc xuồng câu rách nát, một doi đất nơi ngã ba sông kề cận miếu Bà Chúa Xứ.

 

oOo

Cái xã heo hút ngày xưa giờ đã là một thị tứ sầm uất nhưng chỗ doi đất ngã ba sông thì vẫn còn vắng vẻ. Một buổi trưa người ta xầm xì rồi chỉ cho nhau thấy một ông khách Việt kiều sang trọng đang đi cùng ông trưởng công an xã tìm đến nhà lão gù. Lão có nhà, đang nằm lơ mơ trên võng. Chiếc bàn thờ đóng bằng tre vẫn nghi ngút khói hương. Người đàn ông sang trọng có vẻ ngại không muốn bước chân vào nhà, nhưng trưởng công an thì lại quá sốt sắng.

 

-Xin mời ông! Đây đúng là nơi ông cần tìm. Ông đừng ngại, để tôi gọi lão.

 

Lão gù ngồi dậy. Lão ngạc nhiên. Bao năm rồi chẳng ai đến đây ngoại trừ tiếng bước chân của đứa con yêu lúc trở về.

 

-E hèm… Có lẽ người công an không biết phải bắt đầu như thế nào – À… lão… ông gù. Quý ông đây có chuyện cần gặp ông!

 

-Cần gặp tôi? Lão gù ngơ ngác.

 

-Phải? Ông khách sang trọng đã chiến thắng được nỗi e ngại vì căn nhà tồi tàn và bước hẳn vào – Tôi đến đây để hỏi ông một chuyện đã xảy ra gần hai mươi năm trước. Ngày ấy có một người đàn bà còn rất trẻ… Ông ta rút từ túi áo ra một tấm ảnh

 

-Người ấy đây!

 

Trong ảnh là một cô gái trẻ, chụp bán thân.

 

Lão gù bỗng run bắn lên, hai bàn tay đỡ lấy tấm ảnh, nghẹn ngào:

 

-Nàng… nàng

 

Người đàn ông cũng lộ vẻ xúc động, ông ta cúi sát xuống mặt lão gù, hỏi nhanh:

 

-Ông đã từng cứu người đàn bà này?

 

-Nàng… Bao nhiêu năm nay… tôi vẫn…

 

Lão gù như đang trôi nổi trong dòng hồi tưởng của riêng mình.

 

Người đàn ông đặt tay lên vai lão:

 

-Tôi vừa được biết là nàng đã mất khi sinh con. Hai mươi năm trước chúng tôi lạc nhau trong cảnh hỗn loạn – ông ta liếc nhìn người công an rồi tiếp – Nhiều chiếc tàu của chúng tôi bị đánh chìm và nàng mất tích. Tôi vẫn hy vọng nàng còn sống. Hai mươi năm… - Ông ta xúc động thật sự và diễn đạt một cách khó khăn. – Tôi biết vợ tôi đã sinh con trai. Đó là con tôi. Tôi muốn nhìn nhận lại nó!

 

Lão gù như chợt tỉnh. Lão nhìn người đàn ông với vẻ nghi ngờ. Lão hỏi, cố nén giọng:

 

-Ông vừa nói gì? Ai là con trai ông?

 

-Đứa bé mà người thiếu phụ đã sanh ra trong nhà này. Tôi biết ông đã nuôi dưỡng nó trong gần hai mươi năm, tôi sẽ…

 

-Nhưng… Ông khách chưa dứt câu thì lão gù đã bật lên, mắt như nẩy lửa:

 

-Không! Ông bước nhanh ra khỏi nhà tôi. Các người dối trá. Tôi không cần, không muốn thấy các người!

 

Ông khách có vẻ hơi hoảng vì cơn bộc phát đó và lùi dần ra cửa. Trưởng công an xã cũng tháo lui và lôi ông ta ra một góc thầm thì:

 

-Ông về đi. Chính tôi là người đã mời bà nhà về ủy ban ngày xưa, và cũng là người chứng lý lịch, cắt hộ khẩu cho con trai ông đi học. Tôi sẽ cho ông địa chỉ mà ông cần!

 

-Nhưng… Ông khách nhìn lão gù vẫn còn gầm gừ trong nhà như ái ngại. Ông ta đã nuôi nấng con tôi bao năm nay, tôi muốn đền bù…

 

-Tôi hiểu, tôi hiểu! Tôi sẽ thay ông làm điều đó! Người công an nói một cách chắc nịch.

 

Họ rời khỏi doi đất. Đã đi xa, người khách sang trọng còn ngoái lại nhìn lần nữa căn nhà ọp ẹp rồi rút mùi xoa lau mặt. Ông đã quên không đòi lại tấm hình.

 

Ba tháng sau lão gù chết co quắp trong một cơn say. Mắt lão trợn trừng. Những người hàng xóm sống gần khu vực đó thở phào nhẹ nhõm. Đã gần ba tháng họ phải đinh tai nhức óc vì đêm nào lão cũng khóc gọi vợ con. Thằng con lão , cái thằng bé đẹp như thiên thần ấy đã không bao giờ còn trở lại doi đất nơi nó đã sinh ra kể từ cái ngày ông khách sang trọng kia tìm đến. Hội Chữ Thập Đỏ mà tiền thân là Hội Từ Thiện trước kia lại mang đến một chiếc hòm bằng gỗ gòn. Họ chôn lão gù vào kế bên ngôi mộ đất của người đàn bà trẻ ngày xưa như một cách để an ủi linh hồn đầy bi thương của lão.

Lão Phi

» Tác giả: Nguyễn Hoàn

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện ngắn

» Số lần xem: 3281

1.

Dễ chừng năm nay lão cũng đã trên bảy mươi rồi. Như vậy là lão đã sống rất thọ. Cái ngưỡng cửa "thất thập cổ lai hy" lão đã vượt quạ Cuộc đời dài như vậy kể cũng không đến nổi uổng !

Người ta kể lại rằng, tự cái thời xa lắc xa lơ, khi ngôi trường mới thành lập, lúc ấy lão còn nhỏ, lão đã có mặt ở đây rồi. Đáng lẽ chỗ đứng của lão là ở ngoài bờ biển kia, chứ không phải ở trong sân ngôi trường này. Bởi dòng họ của lão sinh ra là để thi gan cùng bão cát, để hát cùng với sóng bản trường ca bất tuyệt với thời gian. Nhưng người ta đã đem lão vào ngôi trường này, một mình. Ắt hẳn thời mới lớn, thời thanh niên, lão buồn lắm, bởi lão bị tách ra khỏi gia đình, anh em, họ hàng. Nhưng dù gì đi nữa lão cũng phải cố gắng sống với đời. Độc nhất vô nhị, không ruột rà với ai ở đây, thôi thì lão làm bạn với bác me, bác xà cừ lúc nào cũng điềm đạm, kiệm lời và ngay cả các cô phượng đỏm dáng, cho khuây khỏa tâm hồn. Dường như ngày nào lão cũng hát. Có khi lão hát thì thầm. Có khi lão hát lao xao, rì rào nghe thật du dương. Lũ học trò đùa nghịch trong sân giữa giờ ra chơi ít có đứa nào để ý nghe lão hát. Có lẽ chúng chẳng bao giờ cần tiếng hát của lão, bởi những trận đá cầu vội vàng, những câu chuyện trao đổi bạn bè cần thiết hơn đối với chúng. Chỉ có tôi, một cô bé rụt rè, nhút nhát, có tâm hồn yêu văn chương, hay suy nghĩ vẩn vơ là thường để ý đến lão. Năm mới vào học lớp mười của trường, có nhiều buổi trưa tôi đi sớm, nhiều buổi chiều tôi nán lại về trễ là để nghe lão hát. Không phải lời của gió mà là lời của lão. Dường như trĩu nặng trong tâm hồn lão là nỗi nhớ bờ cát, nhớ biển, nhớ bà con họ hàng, nên tiếng hát của lão nghe thật buồn. Hẳn cuộc đời lão mang nhiều tâm sự của kẻ lạc lõng, bơ vợ Đã có lúc tôi sờ vào tấm da sần sùi của lão mà thương cho lão. Không có những trận bão cát quất rát buốt vào thân mình lão, nhưng tấm da của lão đã nhăn nheo quá thể rồi. Đôi chỗ trên thân mình lão bị khoét lõm vào thành những cái hốc sâu hoắm, lá khô và bụi báo đầy. Ngước mắt lên nhìn lão, tôi như nghe được tiếng nói của lão nhỏ nhẹ, thì thầm rót vào tai tôi : "Biết làm sao được khi tuổi càng ngày càng cao, sức khỏe càng ngày càng yếu. Không ai có thể níu được thời gian dừng lại để mình trẻ mãi không già !".

Năm nay tôi lên lớp mười một. Thế là hơn một năm rưỡi rồi, ngày nào tôi cũng gặp lão. Những buổi chào cờ, trong khi hơn một nghìn học sinh ngồi yên lặng nghe thầy hiệu trưởng dặn dò bao chuyên thì lũ chim sẻ lại đùa nghịch hót ríu ran trên đầu, trên cổ lão. Ôi lão thật là dễ chịu ! Gió nhè nhẹ thổi qua, lão lại cất tiếng hát thì thầm. Vẫn chỉ là giọng hát xô lô muôn thưở, chứ chẳng thể nào được hát bè. Khi thầy hiệu trưởng nhắc về chuyện hạnh kiểm, chuyện nội qui học sinh thì tôi thấy mái đầu xanh của lão như hất hất về hướng bác xà cừ đang đứng án ngữ sát bên cổng trường như một vị tướng hết sức uy nghi, mặc dù cái lưng của bác đang mỉm cười một cách độ lượng về cái chuyện bác xà cừ lưng còng lại cõng trên lưng cái bảng nội qui học sinh to tướng. Lũ học sinh trường phổ thông trung học Nguyễn Thái Học ở thành phố này không ai mà không biết việc đó. Kể ra bác xà cừ khỏe thật. Tuy vất vả là thế nhưng trông bác lúc nào cũng thật phương phi xanh tốt. Bác chỉ có cái tội là hằng năm cứ vào mùa xuân bác lại đẻ ra lũ con nhiều vô số kể tròn trùng trục như quả bóng tê-níc có cái chân dài mà lũ con trai thường vịn cành hái gõ vào đầu bạn như kiểu gõ mõ tụng kinh, khiến khổ chủ bị hành hạ đau điếng vô cùng, có khi còn bị u đầu u trán nữa !

Lũ con của lão Phi thì không cứng ngắc độc địa như lũ con của bác xà cừ. Chúng có thân hình nhỏ như đầu ngón tay cái, tuy sần sùi nhưng trông thật hiền. Những ngày mùa thu, mùa đông lão Phi thả những sợi tóc của lão xuống sân trường. Lũ con gái thường ngồi ở các hàng đầu trong các buổi chào cờ nhặt những sợi tóc chết ấy rứt ra từng đoạn rồi lại nối vào, trông thật thích. Có lần ở thư viện trường tôi đã tò mò lật quyển tự điển tra về lão, thấy ghi : "Phi lao : cây trồng khắp nơi lấy bóng mát và giữ cát ở bờ biển, thân to, gỗ rắn, vỏ có chất ta-nin dùng để nhuộm". Kể ra lão sinh ra thật có cho đời !

Nhưng đời lão, cũng như đời người, làm sao tránh được bốn chữ "sinh, lão, bệnh, tử" ! Mùa thu năm nay tóc lão vàng hoe và rụng thật nhiều. Đến đầu đông thì bao nhiêu tóc trên đầu lão đều lần lượt rụng sạch. Bác bảo vệ trường chiều nào cũng quét hằng thúng sợi tóc vàng của lão rụng xuống sân trường. Trước hiện tượng ấy, một buổi chiều, chỉ còn một mình tôi nán lại, thì bác bảo vệ vừa thong thả đưa chổi quét, vừa buồn buồn nói với tôi rằng : "Như vậy là lão Phi Lao chết thật rồi. Không phải sâu đục thân lão, mà do lão già quá, cằn cỗi quá, yếu đi rồi, nên lão không thể nào chịu đựng nổi cái lạnh khắc nghiệt của mùa đông... ". Không biết sao tự dưng những giọt nước mắt của tôi ứa ra khi ngước nhìn tấm thân khẳng khiu, gầy gò, trơ những cánh tay xương của lão trong chiều. Gió vẫn vô tình thổi qua thân mình lão. Nhưng còn đâu những tiếng hát lao xao, rì rào, du dương buồn của lão nữa trên đời này !

Tôi xin bác bảo vệ một thúng tóc vàng cuối cùng của lão Phi để về làm kỷ niệm. Tôi ngâm sạch thúng tóc ấy nhiều lần trong nước trong, phơi thật khô, rồi bỏ vào bì gác lên giá sách phía trên cao. Một thời gian tôi quên bẵng đi mất.

Rồi mùa đông lạnh lẽo cũng qua đi. Tấm thân khẳng khiu trơ trụi của lão Phi vẫn đứng khô khốc ở một góc sân trường. Người ta hy vọng mùa xuân ấm áp lão Phi sẽ đâm chồi nảy lộc sống lại. Nhưng rồi ra Tết đi học lại, tôi thấy lão chẳng có chút biểu hiện gì của sự hồi sinh. Quả là lão đã chết thật rồi ! Và người ta đã đốn lão để làm củi. Một hôm đến trường, lần đầu tiên không nhìn thấy lão nữa tôi đã bất chợt rùng mình như thốt lên trong tâm tưởng buồn : "Lão Phi thôi đã thôi rồi, nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta !".

Tôi bỗng có sáng kiến lấy mớ tóc vàng khô của lão để làm một chiếc gối. Tôi may một tấm áo gối bằng lụa tơ tằm vàng óng để bọc ngoài. Và đêm ấy, sau khi học bài thật khuya, tôi ngả đầu lên chiếc gối êm êm thơm mùi lá ấy để ngủ. Trong mơ, tôi nghe lão Phi hát những bài hát thật hay về biển, về sóng và về bờ cát trắng. Tiếng hát của lão thật khẽ khàng, thật du dương, vừa gần gũi, vừa lan xa trong một buổi chiều xuân lộng đầy gió biển.

Nốt ruồi son

Người đời thường nói “Của thiên trả địa!”. Nhưng đây là chuyện khác, chuyện “của địa trả thiên”cơ.

 

 “Mạng cô hợp thổ. Tướng mạo lại hơn người. Sau này sẽ giàu bạc tỷ. Nhưng phải siêng bố thí, làm phúc thì mới bền!”. Lời lão thầy bói dạo xem ra rất đúng. Mơ đã từng là tỷ phú tiền Việt, suýt tí nữa còn là triệu phú Đô la. Thế mà bây giờ lại hoàn tay trắng. Tại cô vụng tính toán hay không chịu mở hầu bao bố thí chăng? Không! Mơ vẫn căn đúng lời lão ấy mà xử sự đấy chứ. Có lẽ tại cô không có số làm giàu. Cứ nhìn bàn tay bàn chân của cô thì biết. Các ngón cứ đua nhau xoè ra như nan quạt. Của vào được ít nào lại rủ nhau đi bằng hết. Thế mà lúc mới phất lên, cô xem lời lão ta cứ như thánh phán. Người đâu mà tài thế, chỉ đúng từng cái nốt ruồi trên người cô, bảo sao không tâm phục khẩu phục được!

 

Số là cách đây ba năm, sắp đến giờ ngọ. Cơm nước xong Mơ đang quét hiên chuẩn bị nghỉ trưa thì một lão già mặc bộ bà ba nâu, đội nón lá, dắt chiếc xe đạp cà tàng dừng lại trước cổng. Lão ngó nghiêng mãi hai dãy trắc bá diệp trồng dọc lối đi. Mơ đon đả chạy ra: “Bác tìm nhà ai đấy ạ?”. Lão nhìn cô, tươi cười: “Không, tôi chỉ là người đi đường. Nhưng thấy hướng nhà cô đẹp quá, lại trồng hàng cây cảnh rất hợp nhãn nên tôi muốn xem hậu vận cho cô”.

 

Mơ ngạc nhiên. Trông lão không ra thầy bói sành điệu. Mắt lão sáng trưng, dáng dấp nhanh nhẹn, càng không ra vẻ người lang thang xin ăn. Mơ vốn không tin bói toán. Cô đang nghĩ cách từ chối sao cho tiện, lão lại lên tiếng: “Tôi không lấy tiền cô đâu. Chẳng qua là vì giờ hoàng đạo này tôi thường xem rất đúng, lại thấy số mạng cô tốt nên tôi đoán giúp thôi”. Mơ thấy tò mò. Chẳng mất gì của mình, cứ để lão nói xem sao. Mơ mời lão vào nhà. Dựng chiếc xe ngoài sân, lão vội vàng bảo: ”Cô đi lấy nén nhang thắp lên cho kịp giờ, để tôi xin phép sơn thần thổ địa!”. Tìm mãi mới thấy bao hương cất trên nóc tủ, Mơ thắp vài nén trao cho lão. Van trời vái đất xong, lão cắm hương dọc hàng cây trắc bá rồi từ tốn nói: “Cô có nốt ruồi son gần ngực trái, có số giàu sang. Mà nốt ruồi này mới mọc vài tháng nay thôi. Nếu cô để ý tìm, trên người cô còn nhiều nốt son khác nữa, dưng mà nhỏ hơn!”.

 

Giật mình đánh thót, Mơ bỗng tái mặt. Lão phán đúng như thần! Nhìn lướt từ đầu xuống chân Mơ, lão bảo cô cứ theo đường đất đai mà làm giàu là chắc nhất. Mơ còn đang ngây người, lão đã đi một mạch ra sân, leo lên xe, đạp tuốt qua cổng. Mơ sực tỉnh, lục túi áo moi được năm chục nghìn. Vội vã chạy ra đường, cô nháo nhác nhìn quanh. Lão đã khuất dạng từ lúc nào.

 

Cả ngày ấy, Mơ cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Lời lão già bám lấy tai cô dai hơn đỉa. Mình có số làm giàu thật sao? Thế mà lâu nay cứ đeo theo đồng lương ba cọc ba đồng của nhân viên hành chính! Làm giàu từ đất ư? Nhưng… mình có hiểu biết tí gì về đất đai đâu? Lũ bạn vẫn hay cù rủ bỏ vốn buôn chung nhưng còn lâu mình mới chịu chơi trò mạo hiểm với những đồng tiền kiếm được bằng mồ hôi nước mắt!

 

Mơ vốn an phận thủ thường, tháng tháng lĩnh hơn triệu bạc lương, mỗi quý một lần ra bưu điện lĩnh tiền lao động xuất khẩu của chồng gửi về. Thế là đủ, còn mong gì hơn? Đúng ra chỉ mong nhanh hết hạn hợp đồng để anh ấy về sống với Mơ thôi. Mới hơn một năm xa chồng sao mà lâu thế? Còn những hai mươi tháng nữa cơ. Nghĩ thế Mơ lại thở dài. Đêm nằm một mình buồn lắm. Nhất là những tối mùa đông. Chăn bông, mền len dày đến đâu cũng vẫn lạnh, khi không được dúi tấm thân hôi hổi vào lòng chồng. Cô tiếc mình chưa có con để thủ thỉ với nó những lúc đơn côi. Vừa cưới xong, anh ấy đã buộc Mơ phải kế hoạch ngay. “Xây xong cái nhà mái bằng, sắm được con xe xịn để vợ chồng vi vu với nhau rồi có con cũng chả muộn!”. Cũng phải thôi. Miếng đất nhà Mơ đẹp thế này mà xây nhà mái bằng thì hết ý. Mặt tiền hơn bảy mét, chiều sâu gần hai mươi. Tầng đất làm văn phòng hay cửa hàng, mấy tầng trên tha hồ nằm duỗi ra cũng chẳng hết. “Anh sẽ là giám đốc công ty…Công ty gì thì từ từ hãy tính. Còn em là… phó giám đốc. Oai phải biết! Bằng vạn lần làm bảo vệ với nhân viên hành chính, ai cũng sai vặt được mình!”. Cứ ào ào thế rồi chồng Mơ ra đi, theo ước mong đổi đời, đổi nghề của anh ấy. Còn lại Mơ một mình vò võ. Mới ngoài hai mươi đã đêm đêm hoá đá chờ chồng! 

 

Chẳng biết có phải ý trời sắp đặt thật không mà ngay tuần ấy, con Quý lại đến rủ Mơ buôn đất. Mơ kể cho nó nghe chuyện lão thầy bói dạo, đến đoạn cái nốt ruồi, nó cười hi hí. Tay nó bật nút áo Mơ nhanh như điện.  Mơ chưa kịp ngăn thì đôi vú gái còn son chắc lẳn của cô đã lồ lộ hẳn ra. Quý trầm trồ khi nhìn thấy một nốt ruồi đỏ tươi cỡ hạt nếp tròn phía trên khe ngực Mơ, hơi chếch về bên trái. “Thấy chưa! Nhân bảo như thần bảo. Cứ đi buôn đất với tao. Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng!”. Nói xong lại cười hi hí. Mơ gài cúc áo, lườm nó: “Nhưng tao chỉ góp vốn thôi. Mọi giao dịch với khách, mày phải làm. Tao chả biết quái gì đâu!”. Quý liếc Mơ, mắt sáng như sao: “Tao chỉ thiếu vốn làm ăn lớn chứ cái khoản giao dịch thì mày yên tâm! Không trúng mánh không ăn tiền!”.

 

Mơ biết Quý nói thật. Nó vừa đẹp gái vừa lả lơi. Cái khoản ngoại giao với đàn ông cứ gọi là tanh tách. Như cái dạo Mơ vừa nghỉ trăng mật được ít ngày, Quý đến nhà thăm rồi vồn vã rủ vợ chồng Mơ đi hát karaoke cho vui vẻ. Quý than thở rằng Mơ đi lấy chồng làm nó lẻ đôi. Tối ấy, Quý ngồi trên chiếc xe Camry vặn tay lái rất điệu đàng. Khi Quý bước xuống, Mơ giật thót người. Chiếc áo hai dây mỏng dính không che kín được khuôn ngực đồ sộ núng nính chỉ chực chồm ra ngoài. Chồng Mơ hơi mất tự nhiên khi Quý sán đến bên cạnh cười hi hí. Từ lúc ấy, Mơ bất giác để mắt đến mọi cử chỉ của Quý như lính gác canh phạm nhân. Và cũng không hiểu sao cả tối hôm ấy, giọng hát của chồng Mơ vốn rất cao rất trong, lại cứ khàn khàn ngắt quãng như mắc nghẹn trong cổ họng.

 

Quý vẫn vô tâm cười nói, mỗi khi cúi xuống dò tên bài hát, hai trái dừa xiêm trắng nõn cứ phập phà phập phồng như đập vào mắt chồng Mơ. Hát được vài bài, Mơ lấy cớ viêm họng chưa khỏi đòi về. Quý cứ níu kéo bắt ở lại bằng được. Mơ nể bạn, ngồi thêm một lúc, nhưng người bức bối như sắp lên cơn sốt. Rồi nghĩ ra một cách, Mơ đứng dậy đi toalet. Ở trong ấy, Mơ vốc nước lạnh vã đầy mặt, nghiến răng rủa thói lẳng lơ đáng ghét của đàn bà và lòng tham lam vô độ của đàn ông. Phen này nhất định bắt được tay day được trán cả hai cho bẽ mặt. Rón rén như một tên trộm, Mơ quay lại, bất ngờ giật tung cánh cửa. Chồng Mơ và Quý đang tay trong tay, dập dìu theo điệu Slow lơi lả. Tiếng nhạc uốn éo phát ra từ dàn karaoke như trêu ngươi chọc tức. Mơ giận điên người, vơ vội cái túi xách nằm chỏng trơ trên sa lông, chạy sầm sầm xuống gác.

 

Chồng Mơ sững lại, rồi vội vàng buông Quý ra, đuổi theo vợ. Dưới đường, Mơ đã vẫy tắc xi, phóng thẳng về nhà mẹ đẻ. Anh chồng chạy thi với cái xe một đoạn đã dừng lại, thở hồng hộc. Từ trên gác, Quý nhìn qua cửa sổ xuống đường, thấy trọn màn hoạt cảnh. Mỉm cười tinh nghịch, Quý nghĩ thầm: “Đấy, cho cô bé biết đàn ông là thế nào để khỏi ảo tưởng nhé! Chỉ cần lộ ra một chút da thịt đàn bà là nóng hết cả máy lên, quên sạch mọi lời thề nguyền ngay trong tuần trăng mật!”. Rồi Quý thản nhiên gọi tính tiền, lững thững đi xuống mở chiếc Camry, vi vu phóng về nhà, miệng chúm chím huýt sáo bài “Trái tim không ngủ yên”.

 

Mơ giận Quý cả năm trời, không nhìn mặt. Nhưng Quý sẵn kiểu phớt tỉnh Ăng lê, cứ mỗi lần gặp Mơ lại cười hi hí. Mãi đến khi chồng Mơ đi xuất khẩu lao động, Mơ mới dần nguôi. Cũng bởi ở nhà một mình buồn quá. Có đứa bạn thân lại từ mặt nhau thì còn biết tâm sự với ai? Thế rồi Quý lại lân la sang làm lành. Lúc ấy Mơ mới chửi cho một trận hết nước hết cái. Quý đưa mắt nhìn Mơ, không cười hi hí nữa mà nghiêm mặt: ”Đấy là tao ra phép, thử xem chồng mày có đàng hoàng thật không? Chứ tao thiếu gì trai tơ săn đón mà lại thèm cưa cái ông tẩm nhà mày?!”. “Thế theo mày ông ấy có đàng hoàng không?” Mơ vặn lại, Quý hi hí cười: “Hỏi được đấy. Không cảm xúc trước cái đẹp không phải là đàn ông! Nhưng tao khẳng định là chồng mày đàng hoàng. Ôm tao nhẩy rất đúng bài bản, không rà rẫm lung tung. Người như thế bây giờ là của hiếm đấy!”. Mơ chỉ còn biết méo miệng than trời cho cái trò đùa tai quái của Quý. Báo hại Mơ làm hành làm tỏi chồng gần một năm tròn. Đến nỗi cái vụ đi làm thuê ở nước ngoài tự dưng lại trở thành một cứu cánh cho cuộc sống gia đình đang cận kề bên bờ vực thẳm.

 

Từ ngày góp vốn với nhau, Quý và Mơ làm ăn nổi đình nổi đám. Mơ mạng mộc, Quý mạng thổ. Có lẽ hợp nhau trong kinh doanh thật chứ chả chơi. Giờ hành chính Mơ đi làm, còn Quý suốt ngày lăn tăn ở các trung tâm địa ốc, lùng bằng ra những căn nhà hay lô đất có vị trí đẹp, giá cả phải chăng. Hai người chung tiền mua, rồi Quý đích thân tìm mối bán. Lời lãi chia theo tỷ lệ góp vốn. Mơ thấy Quý quá thiệt thòi vì có chút lợi nhuận nào đều nhờ công Quý cả. Mơ bảo chia Quý sáu phần, còn Mơ nhận bốn. Quý cười hi hí nói rằng: “Chỉ chấp nhận năm trên năm. Chịu thì chơi, không chơi thì chịu!”. Thế là Mơ chịu, chịu ngay. Thầm nghĩ con bé này thế mà tốt dạ. Tí nữa thì mất toi đứa bạn thân chỉ vì thói ghen tuông vớ vẩn. 

 

Nói cho công bằng, chẳng phải một mình Mơ ghen với Quý. Nhiều bà vợ các đối tác làm ăn đã nghiến ngấm đến chảy máu chân răng vì gai mắt trước lối tiếp cận cực kỳ tình tứ của Quý. Có bà vừa nhìn thấy Quý dẫn xác đến đã lấy chổi quét sân, khua lấy khua để như thể người ta xua tà. Nhưng Quý vẫn tươi tỉnh, ngọt xớt như không. Mặc cho bà chủ vào bếp, tha hồ đá thúng đụng nia. Lúc ra về, Quý kính cẩn em chào chị rồi quay đi cười tủm tỉm. Ông chồng mặt mày tím rịm. Quai hàm bạnh hết cả ra. Thế nào bà vợ xấu nết cũng bị treo giò vài đêm vì trót làm đức ông chồng mất mặt trước người đẹp! Cứ mỗi lần xong một hợp đồng làm ăn, gia đình người ta lại như vừa trải qua cơn bão cấp mười ba. Còn lâu mới sóng yên biển lặng được.

 

Quý cứ lăn lưng ra làm, còn Mơ chỉ việc ngồi chơi đếm tiền. Những cuốn sổ tiết kiệm liên tục được rút ra nộp vào, ngày càng tăng thêm giá trị. Quý xoay vòng vốn cứ như chong chóng. Một năm chuyển đổi mấy căn nhà, hơn chục lô đất. Vận hội lên như diều gặp gió, Mơ nhẩm tính tài khoản của mình đã hơn chục tỷ. Chẳng mấy chốc mà thành triệu phú đô la! Làm giàu kiểu này sướng quá. Đất đai lên giá ầm ầm. Miếng đất mua năm trước một vốn, năm sau  đã ba bốn lời. Sướng âm ỉ thế thôi chứ Mơ chưa hề tỉ tê chuyện ấy với chồng. Để anh ấy về, bất ngờ thế mới đã! Không chỉ xây nhà mái bằng, Mơ và chồng sẽ tậu luôn biệt thự, đào bể bơi, mua xe hơi đời mới. Mơ sẽ không thèm đi làm với chỗ lương ba cọc ba đồng nữa mà sẽ là bà chủ, giám đốc công ty hay chủ tịch hội đồng quản trị hẳn hoi!

 

Đến cơ quan, Mơ khinh khỉnh cười thầm đám chị em bần tiện, ngồi lê mách lẻo với nhau chỗ nào bán rau, bán thịt cá giá rẻ. Dào! Của rẻ là của ôi. Ăn làm gì cho sinh bệnh? Toàn thịt lợn bò lở mồm long móng, cá hồ ao ô nhiễm môi trường, rau xanh tưới nước sông Tô Lịch! Cứ ra siêu thị Metro hay Big C mua rau sạch, cá sạch ăn cho sướng. Gà ta chắc thịt bảy mấy nghìn một cân, thăn bò nhập khẩu hơn chục nghìn một lạng. Cần tráng miệng thì mua kem Mỹ, xấp xỉ trăm nghìn một hộp nửa cân. Có tiền thì phải biết tiêu xài cho đáng mặt đồng tiền. Chứ ky cóp cho cọp nó xơi à?

 

Trưa nào Mơ và Quý cũng ăn chung với nhau, ăn xong lại đấu hót vui như Tết. Giàu thế còn làm gì cho mệt? Nhiều đồng nghiệp buột mồm hỏi. Rõ ngốc! Mơ bĩu môi cười một mình. Cố sống cố chết bám lấy chỗ làm này không phải vì đồng lương thì đã hẳn. Nhưng bỏ việc thì Mơ hết cớ ngồi khơi khơi đếm bạc, mà sẽ phải lăn lộn thương trường như Quý kia. Thế thì Mơ chịu! Mơ chẳng có tài mở hầu bao của mấy anh dại gái. Từ ngày chồng đi vắng, chả phải Mơ vẫn đóng cửa phòng không giường trống đấy ư? Quý thì lại khác. Chiều nào Mơ vui chuyện ngồi dai một tí là Quý nhấp nhổm như dẫm phải than hồng. Các anh cả anh hai anh ba đang chờ chở Quý đi vũ trường nhà hàng khách sạn. Quý phải tắm táp, trang điểm rồi thay xống áo thật bắt mắt để mở đường làm ăn. Quý nháy mắt với Mơ, lại cười hi hí. Mơ tiếc rẻ đứng dậy, rũ quần áo ra về. Nhiều lần Quý rủ Mơ đi cùng nhưng Mơ từ chối thẳng, sợ lòi ra cái cốt nhà quê. Hơn nữa, mong ước của Mơ chỉ là xây được ngôi biệt thự, sống sung túc với chồng, đẻ vài đứa con và nuôi chúng lớn. 

 

Đêm về, Quý cùng bạn trai dập dìu trong tiếng nhạc du dương thì Mơ ngồi lì trong buồng, mải miết mân mê những cuốn sổ tiết kiệm đủ màu đủ cỡ. Mơ có tài khoản ở nhiều ngân hàng. Mỗi lần cần rút tiền thanh toán lại cầm theo một màu khác nhau. Giấy tờ đất đai, sổ hồng sổ đỏ cũng sang tên đổi chủ xoành xoạch. Chỉ còn sáu tháng nữa là chồng Mơ trở về. Anh ấy sẽ sướng điên lên khi Mơ khoe ra số tiền có nằm mơ cũng không thấy. Đấy là cách Mơ bù đắp cho anh sau những tháng ngày dằn hắt ngấm nguýt chồng vì cú chơi ngông của Quý. Nghĩ đến nó, Mơ chợt bật cười. Cái con ngựa trời đáo để thế mà chơi đẹp phết. Cứ tếu táo vô tâm không chịu lấy chồng. Làm như trên đời này chẳng có việc gì đáng làm ngoài chuyện chơi bời và làm giàu cho Mơ cả. Thế này có khác nào tích xưa “ăn một quả, trả cục vàng”? Ôm được chồng Mơ một lần mà trả nợ ba năm chưa trót! 

 

Hả lòng hả dạ thế nhưng mỗi khi lên giường nằm, Mơ lại thấy buồn như chấu cắn. Lăn qua lăn lại mãi vẫn không chợp được mắt. Người cứ nao nao, thiêu thiếu một cái gì! Rồi lại còn vô cớ nằm mơ rất kỳ quặc. Mơ thấy anh ấy về, nồng nàn ve vuốt, hôn hít khắp người. Đến khi nóng sực toàn thân lên thì bừng tỉnh, thấy mình nằm trơ khâng khấc. Rõ vô duyên hoài của! Chả mơ thêm lúc nữa rồi hãy tỉnh có hơn không? Tháng nào ít ra cũng nằm mơ một lần như thế. Cứ như thể cố tình trêu ngươi. Mơ thế làm gì cho ấm ức? Mơ bực lây đến cái tên của mình. Cha mẹ đặt cho tên ấy là vì quê Mơ vốn gần chùa Hương Tích. Tháng Giêng hoa mơ nở trắng núi, tháng Ba lác đác có người mang giỏ hái mơ. Mơ đầu mùa không to quả nhưng thơm đậm. Ngâm với đường hoa mơ rồi chiết ra thứ nước cốt vàng sậm. Bỏ thêm chút đá uống giải khát thì tuyệt cú mèo.

 

Đã hơn hai mùa hoa mơ nở. Bình nước mơ trong tủ đã đặc quánh lại mà anh ấy vẫn chưa về. Mơ đứng lặng, tần ngần. Mình có khác nào cái thứ nước mơ kia, hoá rượu mất rồi mà chưa một lần được toả hơi men, cứ nằm im khe trong lọ mà âm ỉ tăng nồng độ. Mang ra nắng phơi, ga bốc mạnh quá, có phen vỡ cả lớp vỏ thuỷ tinh chứ đùa ư? “Cứ nín nhịn thế này thì có ngày hoá dại!”. Quý vẫn thường nói với Mơ như thế mỗi lần rủ rê cô chơi bời qua đêm. Nhưng Mơ bướng bỉnh lắc đầu. Thà nằm trơ một mình mà mơ mòng không đầu không cuối, ấm ức bức bối mấy cũng xong, chứ sống như Quý thì cô chẳng có gan. Nó độc thân, kiểu gì cũng được. Còn Mơ mới lấy chồng một năm mà giận hờn mất hơn mười tháng! Cái sự khờ khạo ấy phải được đền bù thật thoả đáng. Mấy lại chồng Mơ sắp về rồi. Nhịn thêm tẹo nữa cũng nào chết ai?

 

Mọi việc xảy ra cũng bởi cái đận Mơ đi công tác xa nhà. Trước đấy Quý báo với Mơ đã tìm được năm lô đất ven hồ tuyệt đẹp. “Giá cả phải chăng. Nếu mua được hết thì khác nào chuột sa chĩnh gạo!”. Quý đã đặt cọc xong, đem giấy foto sổ đỏ về cho Mơ xem. Vị trí đất quả là rất tuyệt. Mơ xí ngay một lô, dặn Quý để lại giá vốn cho mình không được bán. Mơ bồi hồi tưởng tượng đến ngôi biệt thự lộng lẫy sẽ mọc lên trên ấy. Quý đồng ý ngay. “Nhưng phải giao tiền đúng hẹn, không thì mất toi tiền cọc! Lại còn khối kẻ đang dòm ngó. Chúng sẵn sàng chi gấp rưỡi để hớt tay trên của mình…”. Mơ lo sốt vó, vội vàng ô kê luôn. Nhưng ngày giao tiền và thanh lý hợp đồng lại đúng cái lúc Mơ phải vào Nam chạy việc cho cơ quan. Còn người bán lúc ấy mới từ biên giới quay về. Không thể tiền trao cháo múc với cả Quý và Mơ. Quý cười to, bảo Mơ chẳng việc gì phải lo. Quý đã có cách! 

 

Trước khi đi, Mơ chuyển gấp toàn bộ số tiền hiện có vào tài khoản của Quý để thanh toán cho người bán. Giấy tờ Quý sẽ nhận thay. Quý cười hi hí, đưa cho Mơ trang giấy vay nợ ghi đủ số tiền chuyển khoản để làm tin. “Kỹ đến thế này còn lo gì nữa? Nếu sợ tao lật lọng thì mày vẫn có thể kiện ra toà với tờ vay nợ ấy kia mà”. Mơ gật đầu sái cổ, hồn nhiên làm thủ tục, chẳng mảy may nghi ngờ gì. 

 

Ngày Mơ trở về thì Quý đã cao chạy xa bay ra nước ngoài, đem theo toàn bộ tài sản của Mơ. Chỉ còn lại mỗi căn nhà cấp bốn xập xệ Mơ đang ở! 

 

Ngôi biệt thự mặt tiền của Quý đã sang tên đổi chủ từ lúc nào. Tìm đến địa chỉ trên tập foto sổ đỏ mấy miếng đất vừa mua thì hoá ra chỉ là giấy giả. Đất một đằng, tên người sử dụng một nẻo. Chẳng biết đằng nào mà lần. “Giấy tờ foto nguy hiểm như thế đấy, nên cứ phải có dấu công chứng sao y bản chính mới đỡ rủi ro”. Chủ nhân bất đắc dĩ của mấy lô đất ven hồ ái ngại khuyên Mơ thế.

 

Mơ chết điếng. Ốm quặt ốm quẹo mấy tháng ròng. Lâu nay, Mơ lấy sự thành công trong kinh doanh làm nguồn vui sống. Nào ngờ con Tạo xoay vần. Chẳng những lời lãi mất sạch mà vốn liếng chồng gửi về cũng bỗng chốc đi đời nhà ma! 

 

Đến trước ngày anh ấy về, Mơ cố gượng dậy, thuốc thang bồi bổ cho đỡ thân tàn ma dại vì cái nạn đất đai. Trong thâm tâm Mơ còn mừng thầm vì chưa báo cho chồng biết số tiền trời ơi đất hỡi ấy. Chỉ không biết giải thích thế nào chỗ tiền anh ấy vẫn gửi về hàng quý đây? Trận ốm rụng cả tóc cứu Mơ một bàn thua trông thấy. “Em đã đổ hết tiền ra để chữa chạy bệnh cảm nhập tâm này”. Mơ sẽ nói với chồng như thế.

 

Đúng là trong cái rủi vẫn còn có cái may!

 

Cuối cùng thì chồng Mơ cũng về, nghe tin vợ báo chỉ còn tay trắng. Anh ấy cười an ủi. “Thôi thì của đi thay người. Em còn sống đây là phúc đức lắm rồi!”. Mơ ứa nước mắt, nghĩ đến cái đoạn nhẫn tâm hành hạ chồng ba năm trước mà ân hận. Nửa tháng sau anh đưa Mơ ra cảng, lĩnh về cả một công ten nơ hàng. “Anh chỉ gửi cho em tiền chi tiêu mỗi tháng. Còn lại anh đóng hàng cả. Cái nhà mái bằng của mình ở trong này em ạ”. Mơ sướng run, tỉnh cả người sau cái vụ “của địa trả thiên” nọ.

 

Cái đêm mới về, chồng Mơ ngạc nhiên nhìn chiếc nốt ruồi son. Anh tò mò hỏi nó mọc lúc nào? Mơ bối rối cười trừ. Thì ra nốt ruồi ấy đâu có gì bí mật? Quý đã có lần nhìn thấy nó khi cùng Mơ đi tắm ở bể bơi Ngọc Khánh! 

 

Mơ thảng thốt nhớ lại khuôn mặt người chủ mới trong căn nhà của Quý. Trông ông ta rất giống với lão già ba năm trước đã từng đoán số mệnh cho Mơ.

 

Quý giảo quyệt thật! May mà Mơ còn có người chồng tốt. Nếu không thì biết sống thế nào? 

 

Mải ríu rít bên chồng trong ngôi nhà mới, Mơ dần nguôi nỗi đau mất của. Phần vì Mơ cố quên, phần vì không thể kể khổ với ai. Nói với chồng không dám đã đành, với người quen mà hở ra, không khéo lại mang tiếng “tham thì thâm”. Mơ đành nhẫn nhục ôm nỗi hận ấy suốt mấy năm ròng.

 

Một lần đi siêu thị, Mơ bỗng giật thót người. Thoáng thấy ai nhang nhác như Quý thấp thoáng trên cầu thang. Mơ bỏ mặc xe hàng ngay giữa lối đi, phóng ngay theo người đàn bà mặc chiếc váy rất mốt. Các cửa tính tiền đông nghẹt. Không tài nào chen nổi. Mãi mới lách được ra, Mơ nháo nhác nhìn quanh: người đàn bà nọ đã mất tăm. Mơ thất thểu quay lại chỗ xe hàng. Có lẽ trông gà hóa cuốc thật. Người ta bảo Qúy đã định cư ở nước ngoài, còn về đây làm gì nữa?

 

Nghĩ thế nhưng từ đấy, Mơ bần thần mãi. Đến nỗi anh chồng sinh thắc mắc: “Em có chuyện gì bất ổn ư”? Mơ lắc đầu quầy quậy: “Có chuyện gì đâu!”. Lấp liếm thế nhưng bụng dạ cứ phấp phỏng không yên. Linh tính mách bảo Mơ đấy chính là Quý. Nếu tìm được  nơi nó ở, Mơ sẽ báo công an, bắt trả lại số tiền ký nợ. Tờ giấy ấy Mơ vẫn cất kỹ dưới đáy hộp nữ trang trong két sắt. Nghĩ đến viễn cảnh đòi lại được số tiền kếch xù kia là Mơ hồi hộp, nóng lạnh cả người.

 

Thoát được Mơ lần ấy, Quý tự nhủ phải bỏ ngay thói quen shopping thường nhật. Thì ra Mơ cũng nghiện đi siêu thị kia đấy! Anh ả đã có cái nhà mái bằng to vật vã, có khác gì biệt thự mặt phố đâu? Con bé này ghê gớm thật! Vẫn còn giấu được chừng ấy vốn ư? Cứ tưởng hồi ấy nó trắng tay rồi chứ! Quý thầm ghen tỵ. Thấy Mơ phởn phơ, vẫn thấy ấm ức. Quên mất rằng đồng tiền liền khúc ruột. Mơ đã héo hắt xót của đến thế nào!

 

Cũng từ dạo ấy, Mơ bí mật giấu chồng, đem ảnh Quý nhân nhiều bản, rồi thuê cả một đội quân xe ôm, quyết lùng cho ra người đàn bà quỷ quyệt. 

 

Quý vẫn biệt tăm, cứ như đã chui xuống đất. Đến ngày Mơ đâm nản thì anh chồng đem về một tờ báo rồi gọi giật: “Này, đây có phải là cái Quý bạn em không?”. Mơ đang loay hoay trong bếp, giật thót cả người, xồng xộc chạy lên: “Đâu? Đâu nào?”. Giật tờ báo từ tay chồng, Mơ chúi mũi, căng mắt lên nhìn.

 

Đúng là ảnh Quý đang đi giữa hai người áp giải! “Nữ hoàng ma túy đã sập bẫy!”. Cái tít báo to đùng đập ngay vào mắt Mơ. Thế là thế nào? Mơ lập cập đọc, tim đập thình thình như trống trận. Mãi mới hiểu được ý nghĩa từng câu chữ.

 

Thì ra ở nước ngoài, Quý đã sắm được nhà riêng, có cửa hàng bán thức ăn Việt. Những tưởng thế là thỏa mãn. Nào ngờ thói phiêu lưu điên đảo cứ triền miên đeo đuổi Quý. Bắt bồ với một tay anh chị là trùm bảo kê nhà hàng, Quý bị cuốn ngay vào đội quân buôn ma túy. Lại còn liều lĩnh trồng cả một vườn anh túc trong căn nhà ở ngoại ô. Quý thuê một cậu thanh niên to con giỏi võ nhưng đầu đất thất nghiệp nằm lì ở đấy để trông nom đám cây. Cuối tuần anh ả lái xe về giải phóng cho cậu choai choai kia một buổi. Cả hai chén chú chén anh, ngất ngưởng ngồi ngắm những bông hoa rực rỡ nở tưng bừng sau nhà, trước ban công và cả trên sân thượng. Hoa anh túc đủ màu, mảnh mai thả sức đu đưa với gió. Còn Quý và chàng võ sĩ vâm váp nọ mặc sức trao tình giữa đám hoa độc kia.

 

Trước khi nhà chức trách phát hiện ra đường dây buôn bán ma túy của họ thì Quý, với bản năng tinh ranh của loài cáo, đã đánh hơi được nguy hiểm, phóng lên máy bay phi thẳng về quê, bỏ mặc chàng võ sĩ bơ vơ nơi xứ lạ với án tù chung thân.

 

Thói quen mua sắm xài sang rốt cục làm hại Quý. Cảnh sát đã lùng ra dấu vết và chuẩn bị dẫn độ Quý ra nước ngoài để xét xử theo yêu cầu của Interpol.

 

“Cuộc đời lên voi xuống chó chẳng biết thế nào!”. Chồng Mơ thả tờ báo xuống, buông câu bình luận.

 

“Phải đòi nó trả tiền ngay, không thì lỡ dịp mất!”. Mơ xộc lên phòng ngủ, khép chặt cửa. Rồi mở ngay két sắt, lôi cái hộp nữ trang có tờ giấy tối quan trọng kia ra. Bỗng Mơ giật mình, hoa mắt. Tờ giấy ngả sang màu vàng loang lổ, nhưng tuyệt nhiên không có lấy dòng chữ nào.

 

Mơ ngã dúi ra sàn, không còn biết trời trăng gì.

 

Cửa phòng chợt mở toang. Chồng Mơ gọi mãi không thấy vợ thưa, bèn mò lên tìm. Thấy Mơ nằm lăn dưới chân giường, anh choáng người. Vội vàng đỡ vợ dậy, kêu cứu líu cả lưỡi. Mơ mở mắt, ngăn chồng đừng làm rộn lên. Nhưng nước mắt Mơ trào ra không ngớt. 

 

Giấu làm sao được nữa? Mơ đành thổ lộ hết với chồng. Anh chàng nghi hoặc mân mê tờ giấy trong tay, chẳng biết hư thực thế nào? Đây là chuyện có thật hay chỉ là kết quả của trí tưởng tượng? Nếu đúng thế, chẳng hóa ra có thứ mực tự hủy được ư?

 

Những đêm sau đó, Mơ thường nói mê khi ngủ. Hết lẩm nhẩm về cái nốt ruồi son, lại nhắc đến lão thầy bói dạo. Câu được câu mất, chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao!

 

Chồng Mơ tặc lưỡi, xoay người ngủ tiếp. Trong thâm tâm, anh buồn nẫu ruột. Từ ngày đem tờ báo tai hại kia về, Mơ cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, còn tâm trí đâu mà vui thú cùng chồng

Lão Mốc

Không ai biết lão từ đâu tới làng Hành này và từ bao giờ. Cũng chẳng ai biết tên, họ cũng như tuổi tác của lão. Chỉ biết lão không còn trai trẻ nữa, người ta đoán lão cũng phải 50-55 đổ lên. Quần áo tồi tàn, mặt lão lúc nào cũng xám xám, xanh xanh, mốc mốc như thân cau mùa Đông nên người ta đặt tên cho lão là lão Mốc. Lão không phản đối mà có vẻ thích thú với cái tên đó nên dù trẻ con, người lớn gọi : “ông Mốc, ông Mốc” là lão quay nhìn liền.

 

Lão hiền, ít nói, vả lại chẳng có ai làm bạn với lão để lão nói. Có ai ngứa miệng hỏi lão thì lão chỉ gật gù cái đầu, may ra được vài tiếng:” ừ, ứ “ trong cổ họng. Lão thích chơi với trẻ con và đôi khi mua được mấy cái kẹo gừng, kẹo bột - thứ quà thông dụng và rẻ tiền ở thôn quê - lão phát cho chúng rồi đứng nhìn những cái miệng nhai kẹo, có vẻ thích thú lắm.

 

Người ta thêu dệt về lão nhiều. Nào lão Mốc xưa kia cũng là dân khá giả, dân có máu mặt. Lão có vợ con đàng hoàng nhưng rồi một trận cuồng phong, tiếp theo lũ lụt cuốn trôi nhà cửa đồng thời cả vợ con của lão khiến lão tay trắng, vợ con sản nghiệp một phút ra tro. Người ta bảo vợ con lão chết đuối hết, rồi sau đó lão lang bạt kì hồ, người mê mê tỉnh tỉnh, điên điên dại dại.

 

Cũng có người nói lão xưa kia là kì mục trong làng ở miên thượng du Bắc Việt, có gia tư điền sản, có ruộng sâu, trâu nái. Nhưng rồi lão trở thành thất cơ lơ vận, không còn một đồng một chữ và phiêu bạt giang hồ đến đây với hai bàn tay trắng.

 

Dù ai nói gì thì nói, có cố tình nói cho lão nghe xem, phản ứng lão ra sao, lão cũng như câm, như điếc. Có những người bịa chuyện ra lão đi ăn cướp trước kia rồi bị bắt ở tù, được tha, cố ý cho lão nghe để lão tức, lão phản ứng nhưng lão vẫn như không nghe. Nhiều người lại bảo lão câm và điếc thực sự. Rồi người ta bảo, nói với lão cũng như đấm vào bị bông mà thôi. “Rỗi hơi mà nói với lão Mốc.” người làng này bảo nhau như thế, “nói với lão Mốc thà vạch đầu gối nói còn hơn.”

 

Lão có một căn chòi ở cuối làng. Căn chòi làm trên một góc hồ của làng, ở chỗ khuất, nó chiếm một diện tích rất nhỏ, chỉ lớn hơn cái chiếu hai người nằm, vì thế nên hội đồng làng không phàn nàn gì lão. Có bắt lão rỡ đi thì cũng chẳng được lợi thêm gì vì thế sau khi bàn bạc, làng mặc nhiên để lão trú ngụ trong căn chòi này. Làng cũng đoán lão đã trên 55 tuổi nên miễn cho lão mọi phục dịch phu phen nhưng lão cũng chẳng được tham dự gì vào việc làng. Vả lại, lão đâu phải người làng, chỉ là dân ngụ cư tạm bợ. Thật ra có mời lão, lão cũng chẳng ham.

 

Căn chòi, nơi lão trú ngụ là bốn cây cột chôn xuống đáy hồ, bên trên mặt nước khoảng một thuớc tây. Cột bằng soan tươi, sàn là những cây tre đặc bắc ngang dọc, cột với nhau bằng mây, trên đó lão đã đi xin được mấy mảnh ván kê sát vào nhau, trên trải chiếu làm chỗ ngủ. Mái của căn chòi là một cái vòm, lão dùng lá gồi, rơm, rạ lợp kín, trông xa người ta tưởng là một đống rạ nếu nó không có bốn cây cột đứng trên mặt nước.. Chòi chỉ có một lỗ nhỏ, lão phải khòm người xuống mà chui ra chui vào sau khi đã leo qua một cây cầu khỉ bằng một đoạn luồng ngắn. Cửa là cái phên liếp che cho kín cái lỗ nhỏ đó khỏi mưa gió hoặc những lúc lão đi ra ngoài. Muốn cho yên, ban đêm lão chỉ việc kéo cây luồng này vào trong chòi là xong.

 

Thực ra đó chỉ là giả thiết; lão chẳng có đồ vật gì làm ngứa mắt bọn ăn trộm, lại cũng không giao du với ai nên tứ thời bát tiết, chẳng ma nào léo hánh đến cái góc hồ hoang vắng đó. Mấy người làng còn đồn rằng coi lão khù khờ thế chứ võ nghệ lão cao cường lắm. Chớ có trêu vào tay lão mà không xong với lão. Đồn đoán thế chứ có ai nghe lão nói đến quyền cước bao giờ. Đám đàn bà và trẻ nít thường bảo nhau:”Lão Mốc hiền khô à!”

 

Trước kia, chòi trống trơn không có gì nhưng dần dần lão đã nặn được ba hòn đầu rau bằng đất sét, lại có cái niêu đất thổi cơm và luộc rau. Ngày một lần, mái lều có khói bay lên, ấy là lúc lão Mốc thổi cơm. Hình như lão chỉ có được hai cái bát sành, chẳng biết lão xin ở đâu; vài đôi đũa tre (thứ này quá dễ với lão), một cái thùng sắt tây cũ để đựng gạo, bắp, khoai khô và một quả bầu khô rỗng ruột để đựng nước uống. Nhưng món đồ quí nhất với lão không phải là những thứ đó mà là một cái ấm đất, như ấm người ta vẫn dùng để sắc thuốc bắc, có vung đàng hoàng, lão dùng để nấu nước chè khô uống hàng ngày.

 

Lão Mốc nghiện chè khô Phú Thọ. Đó là cái rầy rà bởi đôi khi chè chưa kịp đưa về từ thượng du Bắc Việt, người bán tự động lên giá, khốn khổ cho lão vì lão rất nghèo. Có khi lão chậm chân vì ít tiền, chè đã hết cả, lão tiu nghỉu về lều, mặt buồn hiu.

 

Bảo lão nhịn cơm cũng được, lão chịu nhịn lắm nhưng mỗi ngày không có ít nhất một bát nước chè khô Phú Thọ, hắn bần thần cả người. Chẳng lẽ chất cà-phê-in đã ngấm sâu vào máu hắn đến thế!

 

Lão Mốc không có nghề gì ngoài nghề câu cá. Lão rất sát cá nên hầu như ngày nào lão cũng bắt được vài, ba con cá chuối (lóc) đem ra chợ chiều bán.

 

Có tiền, lão chỉ đong gạo, mua chè, mua muối. Rau lão kiếm ở ao, hồ dư ăn. Tôm tép, cá mú, cua đồng ngay cả lươn, chạch là thứ cây nhà lá vườn với lão.

 

Lão không câu ở những ao, hồ gần mà đi xa, vừa không có trẻ con quấy rầy, vừa ao hồ lưu cữu có nhiều cá to hơn.

 

Cái cần câu cá chuối của lão là một kì công. Nó rất dài, bằng loại tre đực già mầu vàng tươi, chuyên dùng làm cần câu. Đầu lớn chỉ bằng nửa cổ tay, đầu nhỏ bằng ngón tay giữa, lão đã hơ lửa uốn cho thẳng rất công phu, rất đẹp. Lão có tới ba cái cần như vây để câu cá chuối hay câu ếch. Tùy theo hồ, ao lớn nhỏ mà lão dùng cần nào. Dây câu lão dùng là sợi cước dài có hai cái ròng rọc nhỏ lão tự chế ở đầu cần và giữa cần để dây không bị rối và bung ra dễ dàng. Con ngoé (nhái) hoặc cái nụ mướp đã mắc rất khéo vào lưỡi câu, giấu kín ngạnh và lưỡi đi để con mồi không nhìn thấy. Lưỡi câu lão không phải mua mà lão kiếm một sợi thép ở lò rèn uốn cong, mài nhọn, làm ngạnh, thật nhậy, thật bén, thật cứng, thật khoẻ có thể chịu được những con chuối 15 kí-lô. Đã một lần lão mất một con chuối lớn vì cái lưỡi câu mua ở chợ. Lúc giật, lưỡi gẫy, con cá rớt xuống hồ nên từ đó lão không dùng lưỡi câu mua nữa.

 

Lúc câu, lão vươn tay một cái là con ngoé, có cục chì nhỏ ở đầu lưỡi câu cho nặng, tung ra quá giữa hồ, lão rà một cách điệu nghệ cho con ngoé nhảy trên đám ao bèo như con ngoé thật. Cá chuối đang đói mồi, nhắm con ngoé táp cái ộc. Lão biết liền, thả dây cho con cá nuốt mồi sâu vào cổ họng, lão biết nó đã vào đến đâu, lão giật giứ nhẹ một cái cho lưỡi câu cắm sâu vào họng cá, cái ngạnh dài đâm chĩa ra giữ chắc lấy cổ nó, khoảng 60 giây sau, khi đã biết chắc ăn, lão giật mạnh con cá lên khỏi mặt nước. Cá giẫy đành đạch làm xê dịch cả một mảng bèo xanh mướt. Lão chỉ việc kéo cá vào bờ và đưa vợt ra hứng. Có những con cá chuối đen và cá chuối hoa sống lâu năm, nặng hơn chục kílô, lão phải rất khéo kẻo gẫy cần câu vì ngọn cần nhỏ, rỏng rớt để dễ rà mồi trên ao bèo.

 

Cũng có khi không phải là con cá chuối nhưng là chú ếch to, mập thù lù bằng hai vụm tay. Chú ếch thấy cái nụ mướp mầu vàng ươm ngon lành quá, đã lâu chú chẳng được thưởng thức, chú nhảy trên mặt bèo đuổi theo cái nụ. Trên này lão Mốc đã nhìn thấy, lão cho cái nụ mướp chạy chậm chậm rà rà, đôi khi lão chưa cần bắt chú ếch ngay mà giỡn chơi với chú, cho cái nụ mướp nhảy nhổm chỗ này, chỗ kia một khoảng cách gần để khiêu khích chú ếch. Chú ếch say mê với con mồi, thấy mồi chạy lại hăng lên phóng tới, phóng tới. Khi vừa tầm, chú há miệng đớp bạo một miếng thỏa mãn. Lão Mốc để cho chú nuốt ực vào họng cho sâu rồi mới giật.

 

Cá chuối hoa và ếch lớn bán rất được giá vì ai cũng thích ăn mà câu ít khi được. Cá chuối hoa lột da đem nấu cháo gạo nếp loãng loãng, cháo nhừ, cho ít rau cần nước vào thành một thứ cháo rất ngon gọi là cháo ám. Mùa Đông, ăn bát cháo ám buổi chiều lúc heo may đang xuống ào ào ở bên ngoài, thật thú vị.

 

Thỉnh thoảng lão cũng giữ lại vài con ếch, lột da, xào với mướp. Còn cá chuối thì kho hoặc nấu canh cà chua. Lão chỉ có vài món đó với rau luộc để ăn cơm. Khi nào sang, lão có thêm bát muối vừng.

 

Ấy là câu ếch và cá chuối ban ngày. Ban đêm, lão đi câu cá trê. Cá trê câu rất khó nhưng với lão, hiếm khi trở về không.

 

Câu cá trê phải kiên nhẫn vì cá trê không chịu đớp mồi như cá chuối vá ếch. Cần câu cá trê ngắn, có một hòn chì ở bên trên lưỡi câu. Cần phải biết rõ bờ ao, hồ định câu nông hay sâu mà căn cho mồi ở lửng lơ trên mặt bùn một khoảng bằng gang tay hay ngắn hơn. Cá trê đi một đàn, đêm mới đi kiếm mồi và khi chúng thấy giun (trùng) là đớp ngay. Mồi để cao quá, chúng không thấy, mồi để thấp quá nằm với bùn, chúng cũng không thấy, chúng không sục sạo như những loại cá khác mà chỉ hay chũi vào hang ổ thật sâu.

 

Lão Mốc không câu cá trê bằng một cần mà bằng dăm sáu cái cần câu một lúc, mỗi cần cách nhau một khoảng độ thước rưỡi tây.. Ban ngày lão đã nghiên cứu “địa hình địa vật” rồi nên đến đêm, lão cứ thế mắc mồi thả câu. Cá trê đớp mồi mắc ngạnh lưỡi câu tính tha cả cái cần tẩu thoát nhưng lão đã cắm cần thật sâu, mười con cũng không kéo ra nổi và lão nhìn là biết cá đã mắc. Có đêm lão cũng kiếm được dăm, bảy con cá trê vàng lườm, to như vụm tay, dài gần vài gang tay. Cá trê loại này đem ra chợ ai cũng muốn mua. Cá trê kho lá gừng! Khi muốn ăn, lão để lại kho vài con hay đem om với giưa chua, cà chua cho thật nhừ, ăn với cơm.

 

Nông dân ta xưa kia không biết nhiều về cá chuối. Ao nào có cá chuối, không loại cá con nào còn với nó. Nó đớp hết trơn. Vì nông dân không hiểu biết nên không diệt trừ cá chuối ở những ao thả cá mè, cá chép nên rốt cuộc, thả cả ngàn con cá con mà lúc cá lớn chỉ còn vài trăm con. Mấy trăm con cá mè, cá chép con đã nuôi béo mẹ con con chuối. Người ta còn nói cá chuối mẹ kiếm mồi cho con rất tài. Khi không có gì ăn, con chuối mẹ nhảy lên bờ ao nằm cho kiến bu lại, thường là giống kiến đen, hiền. Khi kiến bu kín, mẹ chuối trườn mình rồi phóng xuống nước, chuối con tha hồ mà đớp kiến no nê. Nếu quả thực như vậy thì cá chuối cũng là động vật khôn ngoan.

 

o0o

 

Lão Mốc vẫn đi câu ban ngày kiếm miếng ăn, tối chui vào chòi ngủ. Mấy đứa trẻ tinh nghịch có lần đã lẻn vào chòi khi lão đi câu xem lão sống ra sao thì chỉ thấy vài cái chiếu rách, ba hòn đầu rau, vài cái nồi đất và mấy cái cần câu. Có những tháng mùa đông mưa nhiều không đi câu được, người ta không biết lão sống bằng gì nhưng không bao giờ thấy lão đi ăn xin. Có những người thương lão đem gạo, bắp hoặc quần áo cho lão nhưng lão từ chối. Chỉ những lúc đó lão mới nói chút chút vì không nói không được. Làm như lão muốn tịnh khẩu.

 

Khoảng hơn năm từ ngày lão Mốc làm căn chòi. Một bữa, người xung quanh thấy lão dắt một con chó mực nhỏ. Con chó trông đẹp và khôn không hiểu lão đã xin ở đâu. Thực ra con chó cũng có lai lịch.

 

Một buổi chiều lão đưa hai con cá chuối hoa và hai con ếch lớn ra chợ bán. Người ta thích tôm cá của lão vì nó tươi và luôn luôn giá hời. Thường lão chỉ đứng một lát là bán hết.

 

Chợt lão nhìn thấy ba con chó con với một chị đàn bà ngồi bán ở cách lão khoảng vài chục bước. Lão vốn thích chó đã lâu nên đứng đó mà mắt cứ nhìn mấy con chó. Rồi lão không dằn được nữa nên cầm cái rổ đựng cá chuối và ếch đến trước mặt chị bán chó. Chị này đã biết lão từ lâu nên chào hỏi niềm nở:

 

“Chào ông Mốc! Ông muốn mua chó của tôi sao?”

 

Lão đặt cái rổ cá xuống bên cạnh rồi ngồi xuống nhìn đàn chó. Lão không chú ý đến con vàng và con khoang mà chỉ dán mắt vào con chó đen tuyền. Lão dùng hai tay nhẹ nhàng nâng con chó mực bụ bẫm xinh xắn lên, vạch bụng nó ra nhìn vào cái khoang trắng ở bụng. À, con này đực, quí quá chứ vì lão chỉ thích nuôi chó đực. Cái khoang ở bụng của nó cũng giống như con chó mực của lão ngày xưa, cũng tứ túc mai hoa, thạch sùng bám cổ như con này. Con Mực của lão ngày xưa kết thúc cuộc đời của nó trong sự đau buồn. Trời đất ạ, nó dễ thương như vậy mà bị người ta đánh thuốc độc. Hai thằng trông có vẻ du đãng đánh thuốc độc con chó rồi chúng bỏ lại con chó nằm chết đó cho lão. Lão không biết vì sao mà chúng thù con chó. Có lẽ con chó hay sủa mỗi khi chúng đi qua chăng? Lão thương con chó day dứt một thời gian.

 

Giờ này nhìn thấy con Mực nhỏ này, lão liên tưởng tới con Mực đã ra đi ba năm trước. Lão vuốt vuốt mãi cái lưng con chó. Lão mê con chó nhưng lão biết lão không đủ tiền. Hai con cá và hai con ếch có được giá cũng chỉ hơn đồng bạc trong khi con chó, có xoàng cũng phải gần 5 đồng. Cá, ếch, lươn thuộc về thức ăn nên rẻ, trái lại chó mèo, lợn bò nuôi làm giống rất đắt. Lão cứ ôm con chó mực trên tay, không muốn bỏ xuống trong khi hai, ba người đứng xung quanh cũng đang trầm trồ ba con chó. Lão nghĩ trong bụng, nếu lão bỏ con mực xuống là có người cầm nó lên ngay và nó sẽ thuộc về người ta. Lão kết con mực quá chừng! Đực, đen tuyền, tứ túc mai hoa, thạch sùng bám cổ đâu dễ kiếm!

 

Chị bán chó có lẽ đọc được tâm trạng của lão, bảo lão:

 

“Ông Mốc ơi, nếu ông thích con mực thì tôi để riêng cho ông đấy.”

 

Riêng có nghĩa là chỉ để cho ông thôi, không ai khác. Riêng cũng có nghĩa nó không bán với giá “thị trường” mà có giá đặc biệt. Lão Mốc nghe chị bán chó nói nhưng lão vẫn nghĩ lung. Giá lão có tiền, lão trả phứt, trả đầy đủ chứ lão không muốn chị bán chó bị thiệt thòi. Tính lão vẫn thế, nghèo nhưng không tham tiền. Nhưng lão không có xu teng nào ngoài hai con chuối hoa và hai con ếch to. Vì thế lão cứ ngồi đực mặt ra.

 

Một anh đàn ông đứng đàng sau ý chừng cũng thích con mực, bảo lão Mốc:

 

“Lão có mua con mực thì mua, không thì bỏ đó đứng lên cho người khác mua chứ?”

 

Chị hàng chó nói ngay:

 

“Ông ấy đã lấy con chó này rồi. Tôi để cho ông ấy đó. Ông Mốc có muốn đi bán cá thì ôm con mực đi. Nó là của ông rồi đó. Khi nào bán cá xong lại đây rồi trả tiền tôi cũng được.”

 

Lão Mốc biết chị bán chó muốn giúp đỡ mình, lão nói nhỏ nhỏ “Cám ơn” và ôm con mực với rổ cá lại chỗ cũ. Những người bu lại mua cá của lão lúc nãy đã tản mát. Còn một người mua cho lão được một con cá và một con ếch. Sau đó lão trở lại chị bán chó. Chị đã bán xong hai con chó. Thấy lão, chị đon đả:

 

“Ông Mốc ơi! Ông đã bán xong cá rồi à?”

 

Lão trả lời nhát gừng:

 

“Hãy còn một nửa.”

 

“Đâu ông cho tôi coi!”

 

Lão Mốc chìa cái rổ ra cho chị ta coi. Con cá chuối hoa và con ếch vẫn còn sống nhăn, con cá quẫy qua quẫy lại cái đuôi trong rổ còn con ếch bị trói tay chân nhưng mắt mở thao láo. Lão để con chó mực trưóc mặt.

 

“Này ông Mốc!” Chị bán chó nói, “Thôi thế này nhé. Tôi không tính hơn tính thiệt gì. Giữa tôi với .... ông.(Câu này chị nói thật nhanh). Ông lấy con chó, ông đưa tôi con cá và con ếch này là vừa hòa. Ông chịu không, ông Mốc?”

 

Có lẽ nhiều người trong làng này nghe thế thì rất mừng, nhưng lão Mốc không mừng. Mặt lão vẫn ưu tư làm sao ấy. Giọng nhát gừng cố hữu, lão bảo chị bán chó:

 

“Không đâu. Mười lần này cũng không đủ mua con chó. Tôi thích nó lắm nhưng tôi chưa có tiền. Thôi để lứa sau. Chị bán cho người ta đi!”

 

“Không, ông Mốc à. Cá với ếch là đủ ngám tiền con chó rồi. Con chó cái nhà tôi nó đẻ chứ có buôn bán gì đâu mà sợ mất vốn, mất lãi.”

 

“Chị tốt với tôi nhưng tôi không làm như thế được. Đây, chó của chị.”

 

Nói xong, lão Mốc đứng lên, cầm rổ cá quày quả đi. Chị bán chó bối rối thật sự. Chị không thấy ai ngang như cái nhà lão Mốc này. Chị ôm con chó chạy theo:

 

“Tôi nói thật đấy. Ông Mốc đưa nó về nuôi giùm tôi đi. (Rồi chị nói dối) Con mực này không mấy người thích, tôi bán không được. Ông không nuôi giùm tôi thì tôi phải mang về, tốn cơm lắm.”

 

Vừa nói chị vừa ấn con mực vào tay lão Mốc. Mặt mày ngơ ngơ ngẩn ngẩn như người mất hồn, lão bảo:

 

“Thế thì chị lấy cả tám hào tôi vừa bán đây. Tôi còn thiếu chị bao nhiêu, chị cứ tính cho đủ, mấy ngày nữa có cá bán, tôi trả chị dần dần. Có vậy tôi mới đưa con chó về.”

 

“Rồi,” Chị bán chó cười tươi, “Ông còn thiếu tôi nhiều lắm. Ông cứ đưa con mực về đi. Khi nào ông có cá, tôi lấy cá ăn trừ nợ cũng được.”

 

Chị nói mà chỉ sợ lão Mốc từ chồi lời đề nghị. Nhưng sau khi móc tám hào tiền bán cá lúc nãy trao cho chị bán chó, lão ôm con chó đi.

 

Từ đó, trong căn chòi nghèo nàn và vắng vẻ ở cuối làng đã có thêm một sinh vật bầu bạn với lão Mốc. Lão chính thức đặt tên cho con chó là Mực để nhớ lại con Mực ngày xưa. Kể từ ngày có con Mực, căn chòi có vẻ vui hơn. Lâu lâu, con Mực cũng tập sủa vài tiếng cho vui cửa vui nhà. Từ nay đi đâu lão Mốc cũng dắt con Mực đi theo. Nó lớn nhanh như thổi. Lúc mới về nó mới được bốn tuần, chưa rời vú mẹ. Vậy mà chỉ hai tháng sau, nó lớn bổng. Nó không bụ bẫm như trước nhưng dài mình ra và khoảng sáu tháng thì nó đã là một con chó cỡ trung.

 

Mực ăn hết mọi thứ lão Mốc cho nó ăn. Cơm trộn cá vụn, đầu cá hay cơm không, cơm độn khoai sắn, hay bắp bung, hễ thứ gì lão Mốc ăn là nó ăn. Ăn ngon lành nhưng không đòi hỏi, không chê ít, chê nhiều. No nó cũng canh coi “nhà cửa” cho lão Mốc hay đi ngoài đường với lão mà đói nó cũng làm tất cả bổn phận. Lão Mốc chẳng có gì ở trong lều nhưng nếu lão bảo nó:”Nằm nhà coi nhà!” thì nó cứ nằm ở trước cửa chòi canh cho đến khi lão về không một phút lơ đãng. Lão Mốc tập cho Mực nghe tiếng người. Lão nói nó nghe ra ngay, làm đúng hiệu lệnh mà người khác nói, nó làm thinh. Mực không tấn công người nào bao giờ nhưng nếu lão Mốc ra hiệu bằng tay và “xịt, xịt”bằng giọng nói cho nó, nó dám phóng lên cắn giứ vào cổ người nào đó cho đến khi lão Mốc hồi lệnh mới thôi.

 

Lão Mốc nhớ như in còn món “nợ chó” phải trả. Những lần bán cá sau đó, lão dành dụm lấy mấy đồng

 

để trả chị bán chó. Nhưng cả mấy tháng sau lão đã để ý cái chỗ chị ngồi bán chó hôm đó nhưng không hề thấy chị ta trở lại. Lão tự trách đã sơ ý không hỏi tên và nhà cửa chị ta ở đâu để giờ này, lão trả bớt một ít. Lão có hỏi vài người bạn hàng ở chợ hôm nhưng không ai biết chị ta ở đâu. Không trả được nợ, lão bứt rứt không yên, nhất là mỗi ngày nhìn thấy con Mực lại như thấy món nợ chình ình trước mắt. Nhưng chị ta không trở lại, lão biết làm sao?

 

o0o

 

Thường những làng quê Bắc Việt khi xưa, cứ mỗi khi gần Tết Nguyên Đán, dân làng lại tổ chức canh coi e trộm cướp đến quấy nhiễu. Dân đinh trong làng từ 18 tuổi trở lên đến 45 phải tập họp dưới quyền trương tuần, ông này phân chia họ ra thành từng nhóm, từng đội để canh gác các đầu lối vào ra làng, những chỗ hiểm yếu. Mỗi xóm, thôn cũng có trưởng xóm tổ chức canh gác xóm tại trụ sở xóm xưa kia gọi là điếm canh.

 

Mùa đông năm đó Bắc Việt rất lạnh. Gió heo may hun hút thổi đem cái lạnh căm căm từ miền thượng du Bắc Việt xuống cộng thêm mưa dầm nhiều ngày thối đất thối cát. Nước ao, hồ lạnh quá khiến cá chết nổi trên mặt nước, người ta gọi là “cái lạnh chết cá”.

 

Đêm ấy là một đêm không trăng sao vào cuối tháng 11 âm lịch. Phải một tuần nữa tuần đinh làng Hành mới bắt đầu canh gác cho tháng “củ mật”.

 

Bỗng khoảng quá nửa đêm, một bọn chừng hai chục người tay cầm vũ khí như giáo, mác, dao rừng, mã tấu, gậy gộc xông vào nhà ông lí Cựu ở khu Tây làng Hành. Ông này chỉ là lí trưởng mua, đã lớn tuổi, gia tư điền sản vào loại có máu mặt trong làng. Gần cuối năm, bọn này tính đi ăn cướp mấy nhà giầu về cho vợ con ăn Tết.

 

Muốn vào nhà ông lí Cựu, phải mở được hai lần cổng, nếu không phải vượt tường hoa cao gần hai mét trên cắm mảnh chai rất sắc, rất bén, cắt tay cắt chân chảy máu như chơi. Gia nhân ông lí Cựu cũng có bốn người là con cháu trong nhà có học võ nghệ cùng với hai con chó rất dữ, tối thả ra coi nhà.

 

Khi bọn cướp tới bên ngoài nhà ông lí Cựu, chúng “bật hồng” lên (đốt đuốc). Chúng bắc thang lên bờ tường trèo lên phóng xuống sân để ra mở cổng cho đồng bọn tiến vào. Nhưng hai tên vừa từ đấu thang nhảy xuống thì “hự” hai võ sĩ của ông lí Cựu đã giáng cho mỗi tên một đòn hiểm vào cổ và bụng. Chúng nằm quay lơ ra. Nhưng năm tên khác đã nhảy xuống ào ào. Bốn tên đấu võ với bốn võ sĩ của ông lí Cựu, còn một tên đi mở cổng cho đồng bọn ào vào.

 

Hai con chó nhà ông lí Cựu đã quần thảo với bọn cướp ngay từ lúc đầu, chúng sủa inh ỏi nhưng vì bọn cướp có khiên, chó không cắn trúng người chúng được hơn nữa chúng là những tay võ nghệ có hạng biết cách tránh đòn của chó. Hai con chó bị giáo đâm bị thương nằm xoài một góc, thở dốc.

 

Chó cả khu sủa ầm ĩ, sau đó trống mõ thúc lên rầm rầm báo cho cả làng biết có cướp. Vì làng không đề phòng nên trống mõ chỉ đánh vậy mà tuần đinh không thấy tới vì không có lệnh lạc cũng không có vũ khí trong tay.

 

Bọn cướp trói gô vợ chồng gia chủ và con cái vào cột nhà. Những tên khác đi thu nhặt các đồ đồng như mâm, nồi, thau, chậu, vải vóc. Chúng tra khảo hai ông bà lí Cựu để biết chỗ giấu tiền, vàng, bạc nhưng dù bị đánh đau, hai ông bà cứ nói là không có, chỉ có thóc lúa, chúng muốn xúc cứ việc gánh. Nhưng thóc là thứ nặng, quang gánh đâu mà gánh ban đêm? Chúng định bắt hai con lợn nhưng thấy lợn kêu quá khó đường thoát thân nên chúng đành thôi. Nhắm chừng không còn thứ gì dễ nuốt, chúng tháo lui.

 

Khi chúng vừa ra khỏi khu tây thì gặp toán tuần đinh hơn chục người của làng. Hai bên giao chiến dữ dội. Phía bên tuần đinh có cả lão Mốc. Lão thủ một cây gậy dài khoảng hai sải tay bằng tre đực già, đặc, to và thẳng. Lão múa tít lên khiến bọn cướp hoa mắt đỡ đòn không kịp. Một tên đang ôm mấy cái mâm đồng bị lão quạt ngang một cái, mâm đồng tuột khỏi tay rơi loảng xoảng xuống đất. Lão chỉ đánh cho tên kia sợ chứ lão không định đánh chết nên tên kia la hoảng lên rồi chạy lẹ. Một tên khác ôm hai cái nồi đồng chạy bị lão Mốc xịt con Mực phóng lên ôm lấy cổ. Tên kia sợ quá buông hai cái nồi chạy trối chết. Mấy ngưòi tuần đinh khác cũng chận được mấy tấm gấm, lụa; bọn cướp phải bỏ của chạy lấy người. Chúng chỉ cướp được một ít, không bõ.

 

Khi bọn cướp đã hoàn toàn rút khỏi, người làng bu đông kín nhà ông lí Cựu. Những người đến đầu tiên cởi trói cho vợ chồng con cái ông sau đó ông đi kiểm điểm xem đã mất những gì.

 

Ngày hôm sau, huyện lị cho nhân viên về điều tra vụ cướp và lấy dấu tay bọn cướp. Trong những người được nêu thành tích vì đã đánh bọn cướp có lão Mốc và con Mực. Viên Tri huyện làm giấy ban khen lão Mốc, gửi giấy về làng. Làng cho chú Mõ đi mời lão Mốc tới nhận bằng ban khen từ quan Huyện nhưng chú Mõ đi ba lần mà không gặp lão ở trong chòi. Ông lí trưởng đích thân đi mời lão cũng về không. Có người gặp lão đang câu, bảo:

 

“Ông Mốc ơi! Huyện làm bằng khen ông về vụ đánh cướp đấy. Ông lí đương kiếm ông quá trời. Ông tới đình làng gặp ông ấy đi.”

 

Lão Mốc chỉ nói:

 

“Tôi có công trạng gì đâu?”

 

“Sao lại không? Ai chẳng thấy ông đêm đánh cướp. Cả con chó của ông cũng có công nữa.”

 

Lão không nói thêm chỉ nhìn cái nụ mướp đang nhảy múa nhử hai con ếch trên mảng bèo cái xanh mướt ở giữa ao.

 

o0o

 

Trưa hôm đó, lão Mốc mải mê câu nên về nhà trễ. Lão đang tính cuốn dây câu, lưỡi câu và xách giỏ cá đi về thì một người đàn bà đi trên đường nhìn thấy lão. Bà ta nhận ra lão Mốc ngay, bà rẽ xuống con đường bờ ruộng để ra bờ ao chỗ lão Mốc đang đứng thu dọn đồ câu:

 

“Chào ông Mốc! Hôm nay ông có cá mú gì không?” Người đàn bà đon đả.

 

Lão lấy làm lạ rất nhiều người trong làng và các làng bên biết lão nhưng thực tình, lão chẳng nhớ ra ai, ngoại trừ mấy đứa trẻ hay đi theo lão.

 

“Có mấy con đây. Bà muốn mua sao?”

 

“Cá của ông câu tươi và ngon lắm, không mua cũng uổng. Đâu ông cho tôi coi!”

 

Lão Mốc nhấc cái giỏ vẫn để ở dưới nước, cá bắt được nhốt trong đó, cứ sống hoài cho đến lúc lão mang ra chợ bán. Lão nhấc cái nắp đan ra cho bà khách nhìn thấy ba con cá chuối cỡ trung đang ve vẩy đuôi ở trong đó.

 

“Bao nhiêu đây, hả ông Mốc?”

 

“Bà trả tôi bao nhiêu cũng được.”

 

“Không, ông có của ông phải nói đi chứ.”

 

“Thường ra chợ, họ trả tôi bảy hào một con cỡ này. Nhưng ở đây tôi không phải mang ra chợ, bà muốn trả bao nhiêu cũng được.”

 

“Không đâu, cá tươi thế này cứ là tám hào mới đúng. Ba tám vị chi hai đồng tư. Được không ông Mốc?”

 

“Bà trả thế là hơn giá ở chợ rồi.”

 

Người đàn bà hơi ngần ngừ, khó nói:

 

“Bây giờ thế này, tôi chỉ mang theo có một đồng rưỡi, còn thiếu gần đồng nữa. Ông có thể theo tôi về nhà, ngay ở xóm Dâu, tôi lấy tiền trả đủ cho ông, được không ông Mốc?”

 

“Thôi, có bao nhiêu bà cứ trả bấy nhiêu. Chỗ còn thiếu lúc nào gặp lại tôi bà trả cũng được.”

 

Người đàn bà chỉ tay về phía trước mặt:

 

“Kia, nhà tôi ở ngay chỗ kia. Gần lắm. Đi, ông đi với tôi về cho biết nhà tôi.”

 

Nói xong bà ta đi, lão Mốc cũng cầm cần câu và cái giỏ cá theo sau.

 

Nhà người đàn bà cũng gần, chỉ một đỗi đã tới. Bà ta bảo lão Mốc ngồi đợi ở cái ghế dài trong hàng hiên rồi cầm giỏ cá đi vào nhà bếp. Lão Mốc ngồi ngắm ngôi nhà và cái sân, khu vườn trước mât. Chợt lão nghe giọng nói:

 

“Mời ông xơi nước.”

 

Lão quay nhìn, ủa hình như chị bán chó. Lão hơi ngỡ ngàng. Tay lão đỡ bát nước người đàn bà trao, mắt lão nhìn chăm chú, rồi lão bật ra:

 

“Phải chị đã bán con chó Mực cho tôi?”

 

Người đàn bà vẫn chậm rãi:

 

“Phải, chính tôi đã bán con chó đen nhỏ cho ông đấy ông Mốc. Con chó của ông còn không?”

 

“Còn, hôm nay tôi không cho nó đi theo. Tôi còn thiếu chị mấy đồng cả thảy, chị cho biết để tôi trả chị.”

 

“Ông trả đủ rồi mà, ông Mốc, ngay bữa đó tôi đã nói thế thôi.”

 

Từ lúc mới nhìn thấy người đàn bà, lão Mốc đã chú ý đến cái khăn trắng đội trên đầu chị. Lúc này lão bật ra:

 

“Xin lỗi, chị mới có đại tang sao?”

 

Nghe hỏi đến nỗi thưong tâm, người đàn bà ngồi xuống đầu kia chiếc ghế lấy giải khăn bưng mặt khóc. Vừa lúc đó, người đàn bà mua cá - người chủ nhà - từ dưới bếp lên:

 

“Ủa, ông Mốc có quen với dì Na sao? Na là em gái tôi, sáu tháng trước bị một một trận hỏa hoạn ban đêm thiêu rụi nhà cửa, chồng với năm đứa con nó ngủ say chạy không kịp, chết cháy hết. Nó phải đến đây ở đỡ với gia đình tôi.”

 

Lão Mốc bảo chị Na:

 

“Tôi thành thực chia buồn với chị. Nhưng chị ạ, trên đời này, không phải chỉ có mình chị đau khổ đâu. Tôi cũng là nạn nhân của một vụ lũ lụt và cả gia đình tôi chín người, vợ với bảy đứa con, chỉ còn lại mình tôi. Tôi sống cho qua ngày đoạn tháng tại một căn chòi ở cuối làng Hành. Nếu tôi có thể làm được gì giúp chị trong khả năng của tôi, xin đừng ngần ngại cho tôi hay.”

 

Người đàn bà chủ nhà trao tiền mua cá cho lão Mốc. Lão Mốc móc hết trong túi ra được thêm hai đồng hai, lão trao tất cả cho chị Na:

 

“Tôi gửi chị tiền tôi còn thiếu về con Mực. Tôi chẳng biết đã đủ chưa nhưng tôi chỉ còn có bằng này. Chị đã quá tốt với tôi.”

 

Chị Na lau nước mắt, chị không cầm tiền:

 

“Tôi đã nói ông không thiếu ngay hôm đó chứ phải hôm nay tôi mới nói đâu.”

 

“Chị quên rồi! Người ta bảo với tôi chị bán mỗi con chó gần 5 đồng. Tôi mới đưa cho chị được hơn một đồng. Thêm chỗ này nữa may mới đủ.”

 

Mặc cho lão giơ mỏi tay, chị Na không nhận:

 

“Ông đừng ép tôi lấy thêm tiền không phải của tôi.”

 

Bà chủ nhà cũng xen vào:

 

“Dì Na đã nói vậy thì ông Mốc cũng đừng nài ép dì ấy nữa.”

 

Lão Mốc đứng lên, cầm cái giỏ không và hai, ba cái cần câu từ tạ ra về.

 

o0o

 

Mùa Xuân năm sau, khi những chồi cây bật ra với lá non, từ giã mùa Đông lạnh giá âm u và những cành đào xanh, đen điểm rải rác những nụ đào phơn phớt hồng cùng những bụi cúc, bụi hồng xinh tươi nở đầy hoa trên những luống vườn trồng để bán Tết ở làng Hành, người dân làng Hành đang nghĩ đến một cái Tết đầm ấm với đầy đủ thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh và câu đối đỏ.

 

Trái với những mùa Xuân trước, người ta không thấy lão Mốc đi câu mặc dù tiết trời đã ấm. Chẳng lẽ lão và con Mực cứ nằm chết dí trong căn chòi mãi sao? Đám trẻ con tò mò vạch lá nhìn rồi chui vào trong chòi. Chúng không thấy lão Mốc và con Mực đâu, mấy cái cần câu cũng không thấy. Duy chỉ còn vài cái chiếu rách, ba hòn đầu rau, hai cái nồi và vài cái bát.

 

Tin lão Mốc biến mất loan nhanh ra ở làng Hành và lân cận khiến chức dịch phải đích thân đến coi. Rõ ràng lão Mốc đã đi rồi mà đi một cách im lặng, êm thấm, không ai biết. Thế nghĩa là sao? Chắc phải có cái gì xẩy ra cho lão. Người ta mong cho lão gặp may vì cả làng này hầu hết có cảm tình với lão nhất là sau vụ lão đánh cướp tại nhà ông lí Cựu.

 

Bẵng đi hơn nửa năm, người làng Hành hầu như đã quên lão Mốc, không ai nhắc đến lão nữa thì có anh Tàm, người làng, lên cất hàng ở thành phố Nam Định về nói ầm lên anh ta đã gặp và nói chuyện với lão Mốc ở chợ Rồng. Hôm ấy anh Tàm thấy lão dắt con Mực đi trong chợ, anh ta mừng quá như gặp người thân, chận lão lại hỏi thăm. Lão mời anh ta vào quán của vợ chồng lão. Đó là một cái quán nhỏ bán bún chả, bún riêu và chè đậu đen lá dứa, chè đâu xanh. Hai vợ chồng lão sửa soạn và nấu đồ ăn buổi tối để ban ngày chị vợ ngồi bán, còn lão thì phụ giúp việc lặt vặt. Trông lão có vẻ tươi tỉnh và lanh lẹ hơn xưa. Chị vợ lão trông có duyên, cũng khoảng ngoài bốn mươi. Chè và bún chả vợ lão Mốc rất ngon, ngày nào bán hết ngày đó. Lão Mốc đãi anh Tàm bún chả và chè. Quán không có tên nhưng bạn hàng chợ Rồng ăn quen thường gọi là “quán bún chả và chè chị Na”, anh Tàm thuật lại như vậy.

 

Khoảng nửa năm sau anh Tàm lên cất hàng chuyến nữa thì vợ chồng lão Mốc đã có đứa con đầu lòng được ba tháng, một bé trai kháu khỉnh mà vợ chồng lão quí như vàng.

LÀNG MÍT

» Tác giả: Đỗ Thành

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện dài

» Số lần xem: 104432

1. 1

Làng Mít không lớn hơn cái lỗ mũi mà sinh lắm chuyện.  Nguyên do người thì bảo tại thổ địa bị động, long mạch chạy tứ tung, kẻ bảo tại cái giếng làng ai uống, tắm, lông bị rụng sạch, nên không sao ngóc đầu lên nổi.

Dẫu chẳng phải là thầy phong thuỷ, địa lý, nội cứ nhìn phong cách của làng, người ta cũng thấy ngay khó thể phát triển được.  Ngay đầu làng áng ngự một cây cày to tầy dế, y hệt cái dao đâm vào cuống họng thôn, còn thở sao cho nổi.  Cuối làng lại bị chẹn bởi cái mái cong cong của một ngôi chùa bỏ hoang, chẳng khác giữa đám lau nhau bỗng nhô lên một mặt quỉ lem luốc.

Làng hẹp tèo, so ra không rộng hơn cái thắt lưng nơi bụng các bà đi chợ.  Chiều dài lại còn thảm não hơn nhiều, mới chập chững đi đã hết đất.  Bởi thế nên dân làng bôn chôn chạy hết, trừ phi những ai không có thân thuộc nơi khác đành bám mà sống cho qua.

Đận nông trường trong Nam mở, bọn trai rủ rê nhau đi hết.  Lắm anh chị vừa chớm yêu phải vội chia xa.  Anh hứa hẹn đi tìm tí tiền rồi quay về, song chẳng thấy ai trở lại.  Có một tay về khoe là Buôn Mê đẹp lắm, ba hoa chích choè dăm ba điều lại lỉnh ngay.  Ấy nhưng cái cây cày thì lại có tên mới.

Anh này líu líu lo lo : trong ấy người ta gọi là cây kơ nia, chứ ai gọi cây cày nghe quê củ. Dân làng nghe lao xao như điệu múa lâm thôn cũng thuận đổi theo.  Các cô gái phổng phao xem ra mình cũng lây vẻ “ tỉnh “ một tẹo.

Chả cần có con tàu nào chạy qua đánh thức người nửa đêm khuya khoắt, vậy mà con nít làng vẫn nhiều.  Có nhà đầu năm cuối năm sinh, lại đua nhau sinh đôi mới ngán.  Danh hiệu gia đình văn hoá xem ra rất hiếm ở đất này vì nơi khỉ ho cò gáy, có ai đến lập ban bệ thi đua đâu mà tranh với cử.

Cái ánh sáng văn minh của thế kỷ 21 đâu còn đang dạo lẩn khuất rất xa, dân làng chẳng tơ hào nghĩ mình thuộc thời đại nào cho mệt xác.  Trẻ con chẳng hề biết đi học, bố mẹ chẳng hề nghĩ sau lớn chúng làm chi, cứ ì xèo sống đến đâu hay đến đó.  Các cô, các chị mũm mĩm no tròn, sống cực khổ mà ai cũng nung núc ôm dừa lửa nơi ngực, lót thúng nơi mông.  Khi đi nhúng nha nhúng nhính như đưa võng.

Của đáng tội, làng nghèo quá, các cô các chị lo ru rú trong nhà.  Lâu lâu, bất đắc dĩ phải ló ra cửa thì hai tay bụm bụm che che vạt áo trước, nếu không sợ tù và sổng chạy rơi khắp ngõ.  Đời sống chẳng có một thú vui gì, ăn xong chập choạng lo rủ nhau đi ngủ.  Đêm nào mà chả có các cuộc đấu cờ người rổn rảng suốt khuya, nên mục sinh trẻ xem ra chẳng cần hô hào cũng lắm.

Năm ban điều tra dân số về làng, họ phải đấu tranh rất hăng mà vẫn không truy ra ngọn ngành đinh xuất.  Con trẻ lẫn lộn đã đành, đến người nhớn cũng không ai nhớ rõ mình giờ bao tuổi.  Hỏi, ai cũng bảo đâu tuổi ấy, tuổi nọ cho xong.  Người có tí ti trí nhớ thì thêm thắt : nghe đâu mẹ em sinh năm Tỵ nhưng sang Ngọ mới khai.  Hỏi thêm nữa : Ngọ nào thì thị chỉ cười toe toét.  Đoàn kiểm tra làm việc nản cũng chuồn, về báo cáo dăm điều ba đỗi cho qua.

                                                       *****

Lão Dê không rõ mình là dân làng Mít từ khi nào.  Đến hôm làng mở tiệc mọi người ớ ra là lão về sống ở thôn đã lâu lắm.  Thế thành quen, chả ai rỗi hơi đi tra vấn người về ngụ ở cái làng thổ tả này.  Giả như làng giàu còn sợ thiên hạ về cuỗm mang đi mất, đằng này thôn chỉ toàn dừa cùng thúng, ai phải nợ mà vác đi đâu.

Con người ta chết vì cái tên, cái tuổi.  Dân gian đã ngắm đặt cho ai thì đố tránh né được.  Lão Dê cũng chẳng ưa được ai gọi mình bằng tên khó ngửi này, lúc đầu lão còn chửi toáng lên nữa chứ.  Nhưng bận các cụ tiên chỉ cho lão dự vào tiệc làng, khề khà câu chuyện, hỏi tuổi tác nhau, các cụ bô lão mới nhận ra phải đặt cho lão cái tên nào đó mới ổn.

Chả là lão cũng nghe hơi nồi chõ mang máng nhớ tuổi trời bằng cách so với cụ này cụ nọ.  Xàng xê xẩy nẩy cuối cùng thì lão nhận tuổi thuộc giữa hai cụ làng nhàng.  Một cụ là tuổi Ngọ, một cụ là tuổi Thân, vậy tuổi giữa đích thị là tuổi Mùi chứ còn gì nữa.  Thế là cái tên dính cứng vào người.

Kẻ lớn gọi tên theo cách văn hoa, song bọn trẻ cứ nôm na tên dân gian mà gọi.  Mùi là Dê, vả chúng chả nhiêu khê nên gọi quách Dê cho rồi.  Đó là tên do tuổi, chớ chẳng phải do tính do nết.  Lão nghe thủng ra nên từ giận đổi sang cười hề hề.  Lão chống chế bằng lối nói khẳng khái : ai chẳng Dê kia chứ, nếu không Dê sao con trẻ quá đông.

Lão đã vỗ đét vào đùi khi phát hiện ra chân lý ấy.  Các cụ khề khà : thế chứ, còn các bà, các chị rủa : nỡm, cũng thôi.   Lão ưa kể ba hoa về cái thời chăn bò cho bọn buôn từ Lào về.  Lão dẫn bò mãi đâu từ Paksé, có người tò mò hỏi Paksé là ở đâu, lão thở phào ê a : cứ biết Paksé là Lào, Lào là Paksé đủ rồi.  Lâu cũng chẳng ai thắc mắc làm gì.

Một hôm người ta bắt gặp lão ngửa cổ trông trời, trông đất, trông mây.  Hỏi, lão bảo đang xem thiên văn thời vận.  Ai cũng hồi hộp chờ, ngầm khen lão có tài giờ mới lộ.  Lão trầm ngâm bấm độn lung tung, gãi hết trán lại gãi gáy, ai cũng sốt ruột chờ “ thầy “ phán quẻ.

Mãi rồi lão bảo : làng sắp phát to.  Các cụ, các bà, mũi phổng như quả nhót.  Còn các cô thì láo nháo nôn nao, chẳng đoán được lão muốn phê phán chi đây.

Cuối cùng thì ai cũng bò lăn ra cười khi nghe lão bảo : làng ta phát vì có thằng bé sẽ làm nhớn.  Các bà còn tủm tỉm, các chị thì thả sức cười tràn, bữa đó chả ai còn nghĩ đến việc khép nép nên cứ có sao mặc vậy, chả túm tó làm chi, mấy chị rung như cột nhà gặp bão, ngực khuấy đảo tự do, ai cũng tưởng dừa rụng khắp nơi lổm cổm.  Lão Dê buồn lắm vì xem ra chẳng có ai tin lời “ thầy “.

Mà quả thế thật.  Làm sao người ta đặt lòng tin vào cái sự mai sau khi mà nhìn đâu cũng thấy lẳng nhẳng mấy đứa trẻ chim dái lòng thòng chạy quanh xóm ngõ.  Chả lẽ trong số ấy sẽ có một tay nổi cộm làm to, cứ nghĩ thế người ta phán ngay là lão Dê nói phét.  Lão buồn thiu cả tuần, dật dờ lê la tìm chỗ vắng, lầu bầu như ỉa trịn.  Lão tránh gặp mọi người, đối đế có chạm mặt thì lão cũng cun cút lỉnh ngay.  Có chị nói kháy : này bác Dê ơi, khi nào thằng cu nhà em làm nhớn thì em nhờ bác làm quân sư cho nó nhé.  Lão Dê chửi toáng lên : nỏ mồm nhà chị, có cặp dừa chả lo giữ, chọc tớ vặt rụng mẹ nó ra cạp ộp ộp đừng trách.  Đang hí hửng trêu lão, không ngờ bị kê cái tủ đứng giập bố bàn chân, chị ngoe nguẩy mắng “ đồ chó “ rôi vung tay bỏ đi.  Lão Dê nhìn theo đe “ cho chừa “.

Duy có một chị xem ra bênh và tin tưởng lão.  Chị lân la chờ lúc trời tối vắng người đến gần lão thỏ thẻ :  anh Dê để ý làm gì đến họ.  Lão thấy mát cả lòng, hây hây như vừa có ngọn gió nam giữa ngày hè nóng hực.  Lão nhìn bóng dáng chị, lờ mờ mà cũng nhận được vẻ khoẻ mạnh mắn con.  Lão nghĩ : của này mà tương vào e sinh ba, sinh tư là ít.  Nhưng lão chỉ dám tơ tưởng và phê phán trộm thế thôi, chứ bố báo cũng chẳng gồng mình lắp bắp kẻo lại bị chửi cho mục mả.

Lão cố tình lánh mặt mà chị trái lại bon chen.  Lão Dê nhớ lại lần đầu gặp chị lúng túng cách gì.  Chả là hôm đó lão vừa được đãi bữa thịt chó về, phần rựa mận, dồi trường còn mắc kín kẽ răng, phần lại có tí cay đưa hơi, nên lão ngất nga ngất ngưởng đi về.  Chó trong làng sủa inh, người ta bảo mấy tay nhậu thịt cầy đi đâu đồng loại chúng cũng sủa chửi inh thiên địa.  Lão thì lão cóc cần, có món đánh chén là chu, còn hậu sự hơi đâu lo cho mệt xác.

Lão từng nghe kể “ sống trên đời không ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ nhăn nhó suốt ngày “.  Đời lão thì còn đâu “ thiên đàng với địa ngục hai bên “ nữa nên ai mời, lão sơi tất.  Lão càng bò sâu vào thôn thì chó sủa càng kinh.  Lão say bí tỉ, tưởng có đem vứt trôi sông cũng không biết, thế mà giữa những tràng tru tréo của bọn cẩu, lão vẫn phân biệt tiếng người khóc.

Giá cứ thút thít thì lão quả không nhận ra thật, đằng này tiếng khóc thảm thiết quá, nghe như cào như cấu, nghe như chọc vào tai, nghe như thài lài tọng vào họng.  Lại là tiếng đàn bà, giữa hôm giữa khuya, nghe vừa thảm, vừa sợ.  Lão hỉnh mũi như đánh hơi và phát giác ra tiếng gào từ nhà chị Mụn, tiếng the thé như vải xé, như bị chọc tiết, như bị hiếp dâm.

Lão tự hỏi : sao lại có giọng oán than thiểu não đến thế nhỉ.  Lão đã định bỏ đi, chuyện thiên hạ hơi đâu vận vào mình, nhưng tiếng khóc thê lương giữa trời đêm nghe cô đơn và thảm thiết.  Cả một làng hầu như chẳng ai chạy đến han hỏi, cho nên tiếng rống càng lẻ loi, vật vã.

Lão cố tỉnh lại và bước chân nam chân chiêu về căn chòi của người đang gào.  Lão bước vào, thị đang bồng thằng bé oặt đờ mắt ra, xống áo tuềnh toàng, lão định quay ra, nhưng không nỡ.  Chị Mụn bù lu bù loa kể, nước mắt chan hoà như suối không bao giờ cạn.  Lòng lão rối như tơ vò, tay chân run tựa lên cơn sốt.  Lão quính quáng phải gắt lên : khóc gì lắm thế, phải kể đầu đuôi người ta mới biết đường biết ngõ mà đỡ, khóc ngằn ngặt thế này bố ai đoán ra mà phụ.

Thị im tức khắc, có lẽ nghe thủng ra, hoặc có lẽ thấy cuối cùng có người đến đỡ hộ thì vững dạ nên ngậm.  Lão chăm chú nghe khúc nhôi và hiểu ra thị đang cho thằng bé bú thì nó giãy lên và oặt ra cứng đờ.  Chả thế mà vú vê gì còn để thõng như hai quả bầu nặng xệ rốn và vạt áo thì phất phơ chưa khép.  Lão lại gắt lên : khơi đèn sáng một chút rồi gài cột áo lại tôi mới dám đến gần xem cho thằng bé.  Thị lẳng lặng làm theo, lão đỡ thằng bé từ tay thị, lật lưng, lật vai xem xét.

Sau lão hối chị giã gừng và tìm rượu cho lão cất gió cho thằng bé.  Chị chạy lăng xăng như vịt, hai cái vú vắt vẻo đu đưa.  Lão không dám nhìn theo mà chỉ lo tập trung vào chạy chữa cho cháu nhỏ.  Một lát thị về, thở còn hơn lợn chờ bị thọc tiết, ngực nhún tưng tưng, lão nghe hơi nóng phì phì mà ngán ngẩm.  Thị bồng lấy thằng bé, lão chà mớ gừng chấm rượu vào da thịt đưa nhỏ rất mạnh, lắm khi va chạm cả vào người thị vì phải ôm cứng sợ bị tuột tay.

Mãi mãi, mới thấy thằng nhóc cựa quậy rồi búng người lên và khóc nhi nhoe.  Thị mừng quá thốc luôn thằng bé, giứt tung vạt áo ra cho bú tiếp, mặc lão còn sờ sờ bên cạnh.  Cái ánh đèn dầu nhoè nhoè vậy mà cũng đủ lão thấy dáng tròn vành vạnh của bộ ngực đàn bà và hơi thở rộn làm cho chúng phổng phao, núng nính như gõ nhịp.

Lão đâm tẩn ngẩn tần ngần, chân nặng chịch không sao cất lên nổi.  Phải mấy lần lão mới hoàn hồn, nói bâng quơ : giờ tôi phải về, cháu nó tỉnh rồi chẳng phải lo nữa.  Thị lí nhí cám ơn, định vác cả con tiễn chân lão ra cửa.  Lão phải can thị mới nán lại, còn lão bước đi lòng bịn rịn khôn cùng.

Đêm ấy, lão trằn trọc vì say thì ít mà thao láo cặp mắt vì nhớ cái dáng bầu bĩnh của cặp trăng sáng vườn chè thì nhiều.  Lão Dê nằm mãi thở dài sườn sượt, cứ thấy trính, rùi đánh võng trên đầu. 

Mùa cá đỏ

Chuyến xe vào thứ Bảy thường là những khuôn mặt ấy, đôi khi xuất hiện khuôn mặt mới. Khuôn mặt mới thường lo âu sợ hãi và tò mò nhìn quanh hỏi han đường đi nước bước. Nhưng sau một vài chuyến thì giống nhau, chỉ im lặng nhìn qua cửa hoặc ngủ cho đến khi xe tới nơi.

Tài xế tên Vành có cái thẹo dài từ thái dương qua bên phải xéo xuống má rồi chạy qua quai hàm. Đó là một tay giang hồ nghe nói đã hoàn lương. Khách do tài nào đưa đến thì tuỳ, do Vành đưa đến thì đố có quán nào lấy quá giá, quán ăn hay quán trọ cũng vậy. Khách thường xuyên biết rõ điều này nên thường chọn xe Vành mà đi.

Chuyến này xe có một khách mới, vị khách ngồi trong lòng mẹ. Hai sừng tóc buộc nơ hồng ngúc ngoắc theo nhịp xe. Người mẹ là khách quen. Chị áp đầu con sát ngực mình mỗi khi xe sụp ổ gà, lúc cô bé ngủ say thì hai sừng tóc đã sụp xuống xuôi xị. Rồi cô bé choàng tỉnh sau một cú xóc mạnh, cái miệng nhỏ líu lo gì đó nhưng gặp cái nhìn của Vành qua kính chiếu hậu, cô bé nín bặt, vòng tay ôm siết cổ mẹ. Vành nhìn mình trong gương, vết thẹo thật gớm ghiếc, đó là một cái thẹo lồi.

Xe tới nơi lúc hai giờ. Vẫn còn kịp vào trại. Đội quân xe thồ phóng tới. Trong tích tắc chỉ còn lại Vành, cái xe đỏ quạch bụi, và mẹ con cô bé.

- Sao không đi luôn cho rồi? - Vành hỏi.

Cô bé luồn ra sau lưng mẹ. Vành bật tiếng cười khô. Giọng người phụ nữ mệt mỏi :

- Ngày mai vào trại. Bây giờ tôi tìm chỗ trọ đã.

- Trọ? Còn sớm mà - Vành ngạc nhiên. Rồi Vành lấy làm lạ trước nỗi ngạc nhiên của mình. Có bao giờ Vành chú ý đến ai như thế này đâu. Và ngay lập tức Vành nhận ra tại sao, tại cô bé này, vẻ sợ hãi tò mò không giấu diếm.

- Lần này tôi trọ lâu nên muốn nhờ anh chỉ cho chỗ nào rẻ mà tốt tốt.

- Ở dài ngày thì đằng kia. Họ cho thuê tháng. Cứ nói là Vành giới thiệu.

Đến giờ cơm chiều, cả thị trấn đã biết tên người phụ nữ - Thùy Nhi, Phan Thị Thùy Nhi, một cái tên thật yểu điệu. Và sau giờ cơm chiều, tức là giờ mà xe thồ lẫn xe khách đã xong cuộc nhậu ở các quán, sau cái tên yểu điệu đã được gắn thêm hai chữ thuốc phiện. Trại cách xa thị trấn bẩy cây số nhưng đặc điểm của từng người tù thì ai cũng rõ. Chồng Nhi là Sơn, từng là công nhân Nhà nước và bây giờ đang tù vì tội buôn bán thuốc phiện.

Phía bên này là những cái sọt không chồng lên nhau cao ngất ngưởng, phía bên kia là những giỏ cá hấp còn bốc khói, chảo nước vẫn hừng hực dù củi đã tàn. Lão đứng cạnh chảo, cánh tay gân guốc quẳng mạnh khúc củi vào góc đang có một đống củi vun cao gần sát trần.

- Sao biết tôi cần người làm?

- Tài xế Vành nói.

- Biết làm chả cá không?

- Dạ biết.

Lão nhìn chị từ đầu xuống chân, trên đầu là cái nón lá và dưới chân là đôi dép da màu nâu đế thấp. Rồi lão quay người về phía bếp đưa tay nhấc cái chảo xuống. Chị rùng mình, cái chảo thật to và sâu, đủ để nhúng thúng cá ngập lút vành, nó lại đang đầy nước nóng. Bắp tay lão nổi gân lục cục như những khối u và cái thẹo chỗ khuỷu trở thành khối u to nhất. Đặt chảo xuống, lão xoa xoa hai tay rồi ngoảnh nhìn chị như thể ngạc nhiên khi thấy chị còn đứng đó. Giọng lão rè rè qua kẽ răng :

- Mai tới. Thử một ngày rồi tính.

Chị cố giấu nỗi vui mừng. Từ lúc đặt chân đến đây, hay nói đúng hơn trên đường đi đến đây chị chỉ sợ không xin được công việc này. Nếu không chị không biết sẽ làm gì. Nỗi vui mừng kiếm được việc khiến khi về đến nhà trọ chị mới thấy lạnh vì ướt, trời mưa.

* * * * *

Chị quay mặt ra ngoài hít một hơi dài trước khi ngồi xuống, thật ra bên ngoài cũng tanh nồng mùi cá.

- Dao đằng kia, con nào vừa tay thì tuỳ ý - Lão hất cằm về góc nhà.

Dao phay, dao chặt, dao mổ, dao bằm... Dao cán gỗ, dao cán sắt, dao to dao nhỏ... chị cầm hú hoạ một cái. Một người bốc vác quăng chồng rổ rá cao ngất ngưởng xuống, chống tay cười :

- Con dao đó để gọt trái cây thôi.

- Để yên cho người khác làm. Lo việc của mày đi - Lão lừ mắt.

Chị cúi nhìn đống cá thật to choán một góc nhà. Cá đỏ rẻ nhất trong các loại cá làm chả được mà lại không kém nên vào mùa cá đỏ khắp nơi làm chả, khách không sành khó phân biệt được đâu là chả cá thu, đâu là chả cá mối... Chị rất giỏi nấu nướng, đặc biệt là món chả nhưng một đống cá như thế này thì chưa bao giờ. Chị quay mặt nghiêng mũi lau vào vai như lớp vai áo có thể lọc bớt mùi tanh tưởi rồi ngồi xuống. Trước tiên là chặt đầu rồi mổ ruột lôi ra thật sạch. Chả cá, chỉ sót một tí xíu ruột là rất tanh. Một con, hai con, ba con,... vừa làm chị vừa liếc nhìn ông chủ đợi phản ứng nhưng lão chẳng nói gì. Cắm cúi một hồi, chị vươn vai ngước lên thì không còn ai, chỉ những chồng sọt và rổ rá chất đống.

Làm xong, chị rửa cá rồi xẻ đôi theo mép bụng, phải xẻ sát xương thì mới không hao thịt. Rồi chị nạo cá ra một cái khay lớn và sau là nhồi.

- Cô không xay cá sao?

Giọng lão vang lên đột ngột ở sau lưng khiến chị giật mình.

- Không thấy cối, tôi tưởng ông không cần xay.

- Không thấy gì thì hỏi. Chỗ này mà cứ bày đồ đạc ra đó thì có cái gì mà còn. Nhưng không xay cũng làm được à?

- Dạ được, bóp qua rồi nhồi kỹ. Chỉ có điều sót xương dài thì dễ đâm vô tay.

- Vậy thì xay đi cho yên chuyện. Cối đây.

Lão xỉa ra một cái cối bằng gang xỉn màu nhơm nhớp.

Chị phân vân một chút rồi quyết định rửa cái cối. Lão thở phì ra, một tiếng cạch, lão dằn cái rổ đựng gia vị xuống thớt. Rồi lão lại đi và quay lại với một can dầu đã chiên qua nhiều lần lọc lại, màu nâu xỉn. Chị nhận ra lão di chuyển không hề gây tiếng động.

Xay xong, nên nếm gia vị và đến việc cuối cùng là đập. Hốt cá lên rồi quăng mạnh xuống, lại hốt lên rồi quăng mạnh xuống... Ban đầu vụn cá và gia vị tăng ra lung tung, sau thành một khối dẻo quánh quăng xuống đâu nằm im đó. Chị bắc chảo lên bếp chuẩn bị chiên thì giọng lão vang lên từ sau lưng :

- Đi đâu một tí rồi về làm tiếp.

Chị thấy gờn gợn. Đi đâu một tí là đi đâu? Chị nhìn lão.

- Có một thứ làm chả cá ngon hơn, đó là bí quyết gia truyền. - Lão nói qua khóe môi mím lại.

Chị hiểu. Lão nắm gì đó trong lòng bàn tay. Chị đứng lên đi ra cổng. Chợt chị thấy sợ hãi. Thuốc phiện! Đúng rồi, chính là nó, trong lòng bàn tay lão là bột màu trắng. Khách hàng ghiền chả của lão mà đến.

Mà mình là người làm món chả này! Chị thấy toàn thân ớn lạnh.

- Rồi! Làm tiếp đi! - Giọng lão lại vang lên, cũng từ sau lưng.

Chị thu hết can đảm nhìn vào mặt lão. Hàng lông mày ngắn ngủn, đôi mắt tối và cái miệng với đôi môi như bấm vào nhau, vô số nếp nhăn chi chít từ trán xuống mang tai kéo qua cằm đụng phải cái thẹo thì ngừng ngang lại, cái thẹo như một con rít đỏ ứng và láng lẩy nhìn rất kỳ quái.

- Dạ thưa...

- Sao?

Chị không biết nói gì thêm nữa, lẳng lặng đi nhanh vào trong. Những con ruồi đang bu quanh cái thớt bay vù lên.

* * * * *

Xe chở cá đến vào lúc một hai giờ sáng, một nửa xe đổ vào nhà lão, nửa kia là của hai đầu nậu khác. Đích thân lão đứng ra cân cá cho bạn hàng bán lẻ. Đến bốn giờ sáng là xong việc. Ngày nào cũng như ngày nào. Còn ban ngày là để làm món chả cá bỏ cho các quán ăn. Trước chị, lão đã thuê vài người rồi nhưng cứ được vài ba bữa nửa tháng là lão đuổi hoặc tự họ đi. Bà chủ trọ của chị kể vậy. Chị thắc mắc :

- Khi người này đi mà chưa thuê được người khác thì làm sao có chả bán?

- Ờ hay vậy. Lão tính toán làm sao mà cứ vừa thôi người này là cũng vừa có người kia ngay.

Mình sẽ là người tự đi hay bị lão đuổi đây? Chị tự hỏi, thấy buồn đến tuyệt vọng. Mấy hôm nay chị dò tìm có công việc nào khác không nhưng chẳng biết ai đang cần người làm. Phục vụ quán ăn thì chị không thể, chị không sợ khổ, chỉ sợ tăm tiếng đến tai Sơn rồi anh thất vọng càng quẫn hơn. Chị có mặt ở đây cùng với con trong ba tháng hè này là để anh hiểu cuộc sống của anh không chỉ của anh mà còn của hai mẹ con nữa. Đã một lần anh tự tử.

Nhưng biết làm gì đây? Mỗi lần lão yêu cầu chị tránh chỗ khác để lão trộn bí quyết vào đống cá xay là chị thấy kinh hoàng. Rồi chị lại như được an ủi - Sơn nói với chị là Sơn không hề biết trong va ly của anh có thuốc phiện, anh bị oan. Trước kia chị không tin điều này nhưng giờ thì chị muốn tin. Rồi chị cay đắng hình dung ngày nào đó mình cũng vào tù vì những miếng chả cá tẩm thuốc phiện này. Ừ, hai vợ chồng sẽ được gần nhau! Lúc đó ai động viên ai đây? Biết chị đưa con theo và ở lại đây suốt ba tháng để mỗi tuần đều có dịp vợ chồng cha con gặp nhau. Sơn khóc như mưa. Anh nói chị hãy về đi, nơi đây không phải đất sống cho những người như chị và con. Một vài tháng thăm anh một lần là đủ rồi. Khi đàn ông khóc... Dẫu đau lòng chị vẫn thích anh khóc hơn là nhìn thấy anh cười. Nụ cười qua cái bàn rộng trước mặt cán bộ trại giam khiến anh lạnh lẽo xa xôi làm sao. Khi Sơn khóc chị thấy anh gần với cuộc sống hơn.

- Cô đem con bé theo à?

Đã quen với những câu hỏi vang lên từ sau lưng nên chị không còn giật mình nữa, chỉ thấy rờn rợn. Chị trả lời mà không quay mặt lại :

- Dạ.

- Đi tới đây làm rồi gởi nó cho ai?

- Cho bà chủ nhà trọ. Nó lớn rồi, tự chơi quanh nhà được.

- Có trả tiền công không?

- Bà nói không lấy tiền. Tối về tôi giúp bà dọn dẹp nhà cửa.

- Vậy à?

Sau vài ba câu hỏi xem ra hơi tò mò, lão thốt hai tiếng vậy à một cách dửng dưng. Rồi cầm con dao, lão rạch miếng chả dày trên mâm đứt làm hai, nhát rạch một tay sắc ngọt.

- Tí cầm một nửa này về cho con nhỏ.

- ...

- Không trừ tiền công đâu mà lo.

Trừ tiền công là một chuyện, chị lo chuyện khác. Trên đường về chị quăng miếng chả vào một lùm cây bên đường.

Hôm sau lão cũng gói nửa miếng chả đưa cho chị. Chị cũng quăng vào lùm cây ven đường. Hôm sau nữa cũng vậy. Quăng xong, chị khóc. Đây có phải là oan gia oan báo không? Chồng đi tù vì thuốc phiện, và con thì được cho không những miếng chả... Rồi chị hốt hoảng nghĩ lỡ ra khi chị đang làm chả ở đây thì ở nhà con của chị cũng đang ăn... Ôi không! Chị sẽ thôi cái việc làm chả này ngay lập tức. Về tới nhà trọ, chị ôm riết con vào lòng như là sắp chia ly.

* * * * *

- Sao vậy?

Khuôn mặt lãnh đạm của lão ánh lên vẻ ngạc nhiên. Chị im lặng nhìn bầy ruồi bu quanh chồng sọt ngất nghểu dựa sát tường. Nhận ra mình đã quen mùi ở nơi này nên không thấy nôn nao nữa. Nhưng lão thì chị vẫn thấy sợ.

- Cô về nhà à?

- Tôi vẫn ở đây. Nhưng tôi sẽ...

- Người khác trả cô bao nhiêu?

- Dạ không phải vậy. Tôi chưa xin được việc ở đâu cả.

- Đó có phải là... vậy nên cô quăng mấy miếng chả của tôi vô bụi không?

Chị tái mặt giật mình. Lão cười khừ qua cổ :

- Con chó tha cái gói tươm dầu mỡ chạy ngang ai cũng nhìn thấy. Của ở đâu mà ngày nào cũng làm rơi rớt.

Chị lạnh người.

- Khách khen chả cô làm rất ngon. Cô cho cái gì vô cá mà nó ngon vậy?

Chị nhìn lão trân trối. Lão định làm gì chị đây?

Tôi đâu biết cô, chỉ là nể tài xế Vành. Mà nó trước cũng là tay buôn thuốc phiện.

Chị choáng váng.

- Đâu phải khi không mà Vành nó hỏi thăm cô hoài hả? Cô cho cái gì vô chả cá của tôi? Nói đi? Tại sao không dám cho con cô ăn?

- Đó là tôi sợ... - Chị nói như hụt hơi.

- Sợ cái gì?

- Sợ ông. Cái bí quyết gia truyền của ông...

- Không phải bí quyết của cô à?

- Tôi có bí quyết gì đâu. Chả cá làm sạch ruột là không tanh, nhồi kỹ thì dai nhiều, gia vị nếu chỉ bằm thì không tiết hết vị thơm nên tôi giã nát bấy để ngấm đều trong cá.

- Vậy thôi à?

Chị gật đầu. Mắt lão nheo lại :

- Vậy sao cô không cho con cô ăn?

- ...

- Cô không nói tôi sẽ hỏi Vành. Khi nào có câu trả lời thì tôi mới trả tiền công cho cô - Mặt lão lạnh tanh - Không qua mặt tôi được những cái trò ruồi đó đâu.

Chị cắn răng để khỏi oà khóc mà nước mắt vẫn trào ra. Những giọt nước mắt không phải vì tiếc tiền công, không phải vì bị nghi oan, không phải vì bị hăm doạ. Chị khóc không thể ở lại đây được hết ba tháng hè như đã dự định. Sơn nói đúng, nơi đây không có chỗ cho những người như chị và con.

* * * * *

Chiếc xe sụp ổ gà khựng lại rú lên rồi rùng rùng lăn qua. Chị giữ đầu con đừng bị lắc lư, con bé tưởng mẹ dỗ ngủ mà chưa buồn ngủ nên cứ ngoắt đầu ra. Rồi chạm phải ánh mắt của tài xế nhìn mình trong kính chiếu hậu, con bé vội úp mặt vào vai mẹ. Chị ôm con chặt hơn rồi cũng nhắm mắt lại. Đủ những ý nghĩ rối rắm trong đầu chị, ý nghĩ cuối cùng là tí nữa, khi xuống xe chị sẽ cảm ơn tài xế Vành đã chỉ cho chị một chỗ trọ rất tốt và chỉ cho chị một chỗ làm, dù không lấy được tiền công. Và nếu có gì rắc rối lão gây ra cho Vành thì xin hãy thông cảm cho chị.

- Chẳng có gì rắc rối cho tôi đâu, đừng lo. Nhưng tại sao lão nghi chị cho thuốc phiện vào chả cá?

Câu hỏi vang lên thật khác tính cách lầm lì và ít nói của Vành. Hành khách đã xuống xe hết chỉ còn hai mẹ con chị, Vành và cái xe đỏ quạch bụi như hôm nào nó đã đưa chị đi.

- Chính lão làm vậy. - Tức giận vì oan ức, chị bật ra rồi ngay lập tức sợ hãi vì đã nói.

Vành trố mắt rồi bình tĩnh lại rất nhanh :

- Sao chị biết?

- Lão bắt tôi phải đi nơi khác mỗi khi... - Chị im bặt.

- Tôi chỉ muốn biết để tìm cách lấy tiền công giùm chị thôi, lão không dám làm gì chị đâu. Còn có tôi đây mà.

Còn có tôi đây mà. Câu nói làm chị thấy tủi thân ghê gớm, chị phẫn nộ với cuộc đời và cả với bản thân. Chồng tù vì thuốc phiện còn mình thì được một kẻ từng buôn thuốc phiện che chở! Đâu phải khi không mà Vành hỏi thăm cô hoài. Câu giễu cợt của lão âm ỉ trong tai chị. Chị cay đắng bật khóc. Đứa con hoảng sợ ôm cứng chân mẹ. Rồi thấy mẹ vẫn khóc, nó giận dữ nhìn Vành. Chị lau nước mắt ngoắt người cầm tay con dắt đi. Đi như thể những bước chân này là chấm hết với những ngày đã qua, với lão, với Vành, với bà chủ nhà trọ tốt bụng, và với niềm mong muốn thiết tha rằng sự có mặt của chị và con ở đó trong ba tháng hè sẽ là bằng chứng cho tình yêu có thể cứu rỗi được những gì đang vụn vỡ.

* * * * *

Một tháng sau, thứ bảy, chị và một túi thức ăn căng phồng ra bến xe quen thuộc và ngồi lên cái xe quen thuộc quanh chị là những khuôn mặt quen thuộc, mỗi người cũng một túi thức ăn căng phồng đủ cho một tháng. Mọi người nhìn nhau nửa cười nửa không như lạ như quen. Tài xế Vành nhìn chị qua kính chiếu hậu. Chị cũng gật đầu chào qua kính chiếu hậu.

Hai giờ trưa xe đến nơi. Đám xe thồ chờ tới. Vành quay lại chị :

- Khoan đi vô trại đã, lão muốn gặp chị.

- Tôi phải đi ngay, lỡ tí nữa không có xe thồ.

- Tôi lo chuyện đó cho chị. Tới lão đã.

- Làm gì?

Nụ cười khiến cái thẹo bên má Vành nhăn nhúm lại :

- Lấy tiền công.

- Thôi, tôi không cần.

- Nhưng lão cần phải trả.

Chị đứng yên không nhúc nhích. Mắt Vành tối sầm :

- Chính tôi giới thiệu chị tới chỗ lão nên tôi phải giải quyết chuyện này cho xong.

Chị sờ sợ rồi thở dài lẳng lặng đi theo Vành. Có lẽ đến ngày Sơn mãn hạn tù thì chị không còn biết sợ hãi nữa. Cuộc đời này...

Mùi tanh bay từ xa. Và mùi chả cá chiên cùng mùi khói củi dầu oi oi. Lão đứng sừng sững trên ngưỡng cửa, hàng lông mày ngắn ngủn nhướng lên rồi lão cười :

- Cô cũng nghĩ là tôi cho cái thứ đó vô chả cá hả?

Kiểu cười của lão khiến chị không biết phải nói sao, như là lão khoái trá vì chị cũng không đoán qua bí quyết của lão là gì. Lão móc túi ra một nắm tiền xỉa về phía chị :

- Công của cô đây.

Chị không cầm. Vành đưa tay cầm lấy rồi cúi xuống nhét vào ngăn ngoài túi xách của chị. Chị giận dữ nhìn Vành :

- Anh nói gì mà lão chịu trả tiền?

- Tôi nói với lão là tôi không đưa thuốc phiện cho chị. Mà người như chị thì cũng chẳng ai dám đưa thuốc phiện dù vì cái gì. Chị sẽ tự khai báo mà không đợi tra khảo. Vậy thôi. Còn cái chuyện tôi hay hỏi thăm chị là vì...

Vành bỏ lửng câu nói, khuôn mặt xám lạnh âm u. Lão lầm bầm :

- Nó hay hỏi thăm cô là vì cái hồi nó ở tù giống chồng cô bây giờ thì vợ nó bỏ theo thằng khác. Cái thẹo trên mặt nó là sầu đời uống say quá bị xe tông đó.

Dứt câu, lão lừng khừng bước vào trong, bóng lão chờn vờn trên bức tường ám khói ruồi bu đầy.

Vành cúi xuống xách cái túi của chị lên, cái túi chị thấy nặng mà trong những ngón tay gân guốc của Vành nhìn nhẹ tênh. Chị im lặng bước sau Vành, thấy lòng thanh thản hơn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: